Tài liệu Đề tài Giải mã những bí mật về ánh sáng: GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
0
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HCM
KHOA VẬT LÍ
GVHD LÊ VĂN HOÀNG
SVTH Mai Thị Đắc Khuê
Lê Hoàng Anh Linh
Phạm Thị Mai
Tháng 5, năm 2009, TP.HCM
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
1
Mục lục .............................................................................................. 1
Lời nói đầu ................................................................................ 3
Nội dung .................................................................................... 6
I. Ánh sáng là gì? Vì sao có ánh sáng?............................................................6
I.1 Ánh sáng................................................................................................6
I.2 Một số đặc trưng quan trọng của ánh sáng .............................................8
I.2.1 Tốc độ ánh sáng ..............................................................................8
I.2.2 ...
122 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1588 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giải mã những bí mật về ánh sáng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
0
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HCM
KHOA VẬT LÍ
GVHD LÊ VĂN HOÀNG
SVTH Mai Thị Đắc Khuê
Lê Hoàng Anh Linh
Phạm Thị Mai
Tháng 5, năm 2009, TP.HCM
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
1
Mục lục .............................................................................................. 1
Lời nói đầu ................................................................................ 3
Nội dung .................................................................................... 6
I. Ánh sáng là gì? Vì sao có ánh sáng?............................................................6
I.1 Ánh sáng................................................................................................6
I.2 Một số đặc trưng quan trọng của ánh sáng .............................................8
I.2.1 Tốc độ ánh sáng ..............................................................................8
I.2.2 Năng lượng, động lượng và khối lượng ....................14
I.2.3 Áp suất ánh sáng: ..........................................................................15
I.2.4 Các lý thuyết về ánh sáng:.............................................................17
I.3 Cuộc đấu tranh đưa đến kết luận bản chất “Lưỡng tính sóng - hạt của
ánh sáng”:......................................................................................................20
II. Ánh sáng và thị giác – Đường truyền của ánh sáng trong các môi trường..36
II.1 Ánh sáng và thị giác.............................................................................36
II.1.1 Ánh sáng đi từ mắt đến vật hay từ vật đến mắt? ............................37
II.1.2 Cơ chế của sự hình thành ảnh trong mắt là gì? ..............................37
II.1.3 Hành trạng của các tia sáng ...........................................................41
II.2 Nào ta cùng khám phá thế giới tươi đẹp này nhé! ................................54
II.2.1 Cầu vồng .......................................................................................54
II.2.2 Tại sao bầu trời lại xanh? ..............................................................58
II.2.3 Tại sao núi lại xanh?......................................................................59
II.2.4 Hoàng hôn lộng lẫy .......................................................................60
II.2.5 Lục quang tuyến............................................................................62
II.2.6 Hành tinh xanh và bọt trắng ..........................................................64
II.2.7 Bản giao hưởng của các đám mây .................................................65
II.2.8 Sét và cơn giận dữ của các thần.....................................................68
II.2.9 Một mặt trời bị dẹt và biến dạng....................................................69
II.2.10 Mặt trời trên chân trời chỉ là ảo tượng........................................70
II.2.11 Vẻ đẹp lộng lẫy của quang cực ..................................................71
II.3 Tìm hiểu về “Áo tàng hình” .................................................................73
II.3.1 “Đánh lừa thị giác” khó hay dễ? ....................................................73
II.3.2 Áo tàng hình..................................................................................75
II.3.3 Phương pháp mới chế tạo áo tàng hình..........................................75
II.3.4 Hiện tượng khúc xạ âm??? ............................................................77
III. Con người chế ngự ánh sáng ...................................................................82
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
2
III.1 Lửa - một kỉ nguyên mới ..................................................................82
III.2 Ánh sáng nhân tạo ............................................................................84
III.2.1 Nến không cháy trong các trạm quỹ đạo ....................................84
III.2.2 Đèn dầu......................................................................................86
III.2.3 Ánh sáng không bắt nguồn từ lửa...............................................87
III.2.4 Ánh sáng phẳng của đèn neon....................................................89
III.2.5 Ánh sáng nhân tạo đã tách chúng ta ra khỏi tự nhiên..................91
III.2.6 LAZE.........................................................................................92
III.3 Vận chuyển thông tin bằng cáp quang ..............................................99
III.3.1 Phân loại ..................................................................................100
Phân loại Cáp quang: Gồm hai loại chính:...................................................100
Multimode (đa mode) ..............................................................................100
III.4 Thế kỷ 21 - Thế kỷ của phôtôn .......................................................101
III.4.1 Những đặc tính của phôtôn: .....................................................102
III.4.2 Những khả năng không giới hạn: .............................................103
III.5 PIN MẶT TRỜI .............................................................................115
III.5.1 Cấu tạo và hoạt động của pin quang điện .................................115
III.5.2 Hiệu suất ..................................................................................116
III.5.3 Ứng dụng .................................................................................117
Tài liệu tham khảo ........................................................................ 118
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
3
Lời nói đầu
Vào mỗi sáng khi thức dậy, trước khi bước ra khỏi giường tôi thường có
thói quen nhớ và sắp xếp lại những hoạt động sẽ phải thực hiện cho một ngày
mới nhằm không bỏ sót bất cứ chi tiết nào: sắp xếp sách, vở cho tiết phương
pháp nghiên cứu khoa học vào buổi sáng, chiều học thí nghiệm điện kĩ thuật nên
cần phải mang theo tài liệu tham khảo luôn vì trưa nay sẽ không về nhà nữa mà ở
lại trường để chiều học tiếp, tối nay lại đi dạy kèm nên cần về nhà sớm để tắm và
ăn tối sau khi học thí nghiệm xong thay vì tụ tập với nhóm bạn thân ở căn tin của
trường như thường lệ,… Thế đấy, cái đầu bé nhỏ của tôi cứ phải thường xuyên
tính toán những việc sẽ phải làm. Nhưng sau khi được đọc tác phẩm “Những
con đường của ánh sáng” _ giải thưởng lớn MORON 2007 của tác giả Trịnh
Xuân Thuận,(Phạm Văn Thiều – Ngô Vũ dịch), nhà xuất bản trẻ, xuất bản
2008, tôi tự đặt rồi cũng tự trả lời cho mình câu hỏi: Một ngày nào đó, nếu như
trái đất thân yêu của chúng ta không còn nhận được bất cứ tia sáng nào từ Mặt
Trời, thì chuyện gì sẽ xảy ra? Tất nhiên rồi, khi đó mọi dự định của tôi cũng như
tất cả các bạn sẽ “đổ sông, đổ biển”, bởi một lẽ thật đơn giản, khi đó sự sống trên
hành tinh này sẽ chẳng thể nào tồn tại nữa.
Có thể khẳng định chắc nịch rằng: “Ánh sáng là nguồn gốc của sự sống.
Dù là tự nhiên hay nhân tạo, ánh sáng cho phép chúng ta không chỉ ngắm nhìn
thế giới, mà còn tương tác với thế giới và tiến hóa trong thế giới. Nó không chỉ
ban cho chúng ta nhìn thấy, mà còn ban cho chúng ta tư duy nữa. Từ những thời
rất xa xưa cho tới ngày nay, ánh sáng luôn mê hoặc trí tuệ con người, dù đó là
nhà khoa học, triết gia, nghệ sĩ hay tu sĩ,…” (trích “Những con đường của ánh
ánh sáng”).
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
4
Do đó cũng chẳng có gì là khó hiểu khi tất cả các thành viên trong nhóm
tiểu luận của tôi đều đồng ý chọn đề tài nghiên cứu vế “Ánh sáng”. Và chúng tôi
tin chắc rằng đề tài này cũng sẽ gây được sự tò mò, say mê đối với những người
yêu tìm hiểu về ánh sáng, đặc biệt là các bạn sinh viên chuyên ngành Vật Lí.
Những tài liệu nghiên cứu về ánh sáng hiện nay trên các phương tiện
thông tin đại chúng có rất nhiều, tuy nhiên không phải ai trong bất cứ sinh viên
sư phạm Vật lí nào trong chúng ta đều hiểu hết về bản chất, nguồn gốc, đường
truyền của tia sáng khi qua các môi trường - là phần kiến thức quan trọng trong
chương trình Vật Lí THPT. Vì thế, bài tiểu luận này như một bài tổng hợp kiến
thức về các thuộc tính cơ bản của Ánh sáng; giúp bạn tra cứu thông tin về ánh
sáng một cách nhanh nhất.
Bài tiểu luận này được phân ra 4 phần chính:
Phần đầu tiên bắt đầu với những giới thiệu tổng quát về ánh sáng: khái
niệm, nguồn gốc, một số đại lượng liên quan đến ánh sáng, từ đó người đọc sẽ có
cái nhìn tổng quát nhất về người bạn tốt của chúng ta.
Trên con đường tìm hiểu ánh sáng ấy, đã xuất hiện hai trường phái quan
điểm về bản chất của ánh sáng trái ngược nhau. Phần một kết thúc bằng việc tập
trung xoay quanh cuộc tranh luận của các nhà bác học về vấn đề này: liệu rằng
ánh sáng là hạt, như Newton quả quyết, hay là sóng, như Huyghens, Young và
Fresnel khẳng định. Vào thế kỉ XVIII, Young đã chứng minh rằng sự thêm ánh
sáng vào ánh sáng có thể dẫn đến bóng tối, điều này chỉ có thể giải thích được
nếu ánh sáng có bản chất sóng. Thế nhưng vào thế kỉ thứ XX, Einstein, để giải
thích “hiệu ứng quang điện” đã đưa trở lại quan niệm ánh sáng là hạt, nhưng gán
cho các hạt này một “lượng tử năng lượng”, ý tưởng được Planck đưa ra trước
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
5
đó. Vậy ánh sáng là sóng hay hạt. Muốn biết, chúng ta hãy cùng gia nhập các
cuộc tranh luận căng thẳng ấy nhé!
Bạn sẽ trả lời thế nào nếu như một học trò của bạn (hay bất kì ai) hỏi bạn
rằng: “Tại sao bầu trời lại xanh nhưng mây thì lại màu trắng? Cầu vồng là gì và
khi nào thì ta có thể quan sát được nó rõ nhất?,…”. Phần hai trong cuốn tiểu luận
sẽ giúp bạn trả lời câu hỏi đó.
Bằng lao động, con người đã, đang, và sẽ chinh phục thiên nhiên tươi đẹp
này. Từ việc phát hiện ra, rồi khám phá và bây giờ chúng ta đã chinh phục được
ánh sáng. Trong phần ba, chúng tôi cũng sẽ cố gắng giới thiệu với bạn đọc một
vài phát minh của con người, bắt đầu bằng công cuộc chinh phục lửa, sau đó đề
cập đến ánh sáng nhân tạo và cuối cùng là bóng điện và đèn huỳnh quang. Tiếp
theo là sơ lược về phát minh ra Lazer, đứa con của cơ học lượng tử; kết quả của
việc “khuyếch đại” ánh sáng nhìn thấy được với vô số những ứng dụng khoa học
bắt nguồn từ nó; và việc con người sử dụng ánh sáng để vận chuyển thông tin và
kết nối nhân loại.
Dựa trên việc tìm kiếm những tư liệu có liên quan về ánh sáng trên
internet, sách, báo (đặc biệt là hai cuốn sách : “Những con đường của ánh sáng”
- tập I và II), vô tuyến truyền hình và truyền thanh; cũng như sự cố gằng tìm tòi,
phân tích, tổng hợp của tất cả các thành viên trong nhóm, chúng tôi hi vọng sẽ
tạo ra được sản phẩm nghiên cứu khoa học mang tên “GIẢI MÃ NHỮNG BÍ
MẬT VẾ ÁNH SÁNG” thật sự hay và bổ ích cho bạn đọc.
Nhóm tiểu luận.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
6
NỘI DUNG
I. Ánh sáng là gì? Vì sao có ánh sáng?
I.1 Ánh sáng
Mắt nhìn thấy một vật nếu vật ấy phát ra ánh sáng đập vào mắt. Ánh sáng nhìn thấy
này (thực ra ta nhìn thấy vật chứ không nhìn thấy bản thân ánh sáng) là các sóng điện
từ có bước sóng từ 0,4µm đến 0,75µm. Ánh sáng theo nghĩa rộng còn bao gồm cả
những sóng điện từ mà mắt không nhìn thấy được, như ánh sáng (tia) tử ngoại, ánh
sáng (tia) hồng ngoại… Vấn đề bản chất của ánh sáng được tranh cãi nhiều nhất trong
lịch sử Vật lý học (thuyết hạt và thuyết sóng). Trong những điều kiện nhất định không
thể coi ánh sáng là sóng, mà lại phải coi nó gồm các hạt (phôtôn). Ta nói rằng ánh
sáng có lưỡng tính sóng - hạt.
Ánh sáng đơn sắc là ánh sáng có bước sóng xác định. Gọi như vậy vì màu sắc
của ánh sáng phụ thuộc vào bước (hoặc tần số f = c/ ). Màu đỏ, chẳng hạn, ứng với
các bước sóng khoảng 0,75 m. Thực ra không thể tạo được ánh sáng tuyệt đối đơn
sắc mà chỉ có thể tạo được ánh sáng có bước sóng nằm trong một khoảng nhỏ từ
+ đến - ; càng bé thì ánh sáng càng gần với ánh sáng đơn sắc.
Ánh sáng trắng là ánh sáng gây ra cho con mắt cảm giác về màu như ánh sáng
mặt trời – là tập hợp của rất nhiều bức xạ trong khoảng bước sóng nhìn thấy, gồm 7
màu quy ước (tím, chàm, lam, lục, vàng, da cam, đỏ). Hỗn hợp hai hoặc ba màu thích
hợp cũng gây được cảm giác về ánh sáng trắng.
Ánh sáng phân cực. Sóng điện từ được đặc trưng bởi các vectơ điện trường và cảm ứng
từ dao động trong mặt phẳng vuông góc với phương truyền. Nếu phương dao động là
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
7
cố định thì ánh sáng được gọi là ánh sáng phân cực thẳng. Nếu phương dao động phân
bố đều thì ánh sáng gọi là ánh sáng tự nhiên (không phân cực). Phần lớn các nguồn
sáng phát ra gọi là ánh sáng tự nhiên. Ánh sáng mặt trời là ánh sáng tự nhiên.
Vi sao có ánh sáng?
Hệ Mặt trời bao gồm một hằng tinh là Mặt trời và 9 hành tinh khác là sao Thuỷ, Trái
đất, sao Kim, sao Hoả, sao Mộc, sao Thổ, sao Thiên Vương, sao Hải Vương và sao
Diêm Vương.
Các hằng tinh trong vũ trụ có nhiệt độ bề mặt từ mấy nghìn tới mấy vạn độ, vì vậy
chúng phát ra các loại bức xạ (kể cả ánh sáng nhìn thấy). Mặt trời là hằng tinh gần
chúng ta nhất. Năng lượng Mặt Trời là năng lượng của dòng bức xạ điện từ xuất phát
từ Mặt Trời, cộng với một phần nhỏ năng lượng của các hạt hạ nguyên tử khác phóng
ra từ ngôi sao này. Dòng năng lượng này sẽ tiếp tục phát ra cho đến khi phản ứng hạt
nhân trên Mặt Trời hết nhiên liệu, vào khoảng 5 tỷ năm nữa.
Năng lượng bức xạ điện từ của Mặt Trời tập trung tại vùng quang phổ nhìn thấy. Mỗi
giây trôi qua, Mặt Trời giải phóng ra không gian xung quanh 3,827×1026 joule tương
đương với một máy phát điện có công suất 382 x 1023 W.
Nguyên nhân khiến hằng tinh phát sáng?
Đây là điều bí ẩn đối với ngành thiên văn học suốt nhiều thế kỷ qua. Mãi cho đến đầu
thế kỷ 20, nhà vật lý Einstein dựa vào thuyết tương đối đã đưa ra một công thức có liên
quan giữa khối lượng và năng lượng của vật thể, nhờ đó mà các nhà nghiên cứu mới có
đáp án cho câu hỏi hóc búa này. Hoá ra trong lòng các hằng tinh, nhiệt độ cao tới hơn
10 triệu độ C khiến các vật chất trong đó tương tác với nhau, xảy ra phản ứng nhiệt
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
8
hạch. Hạt nhân nguyên tử hydro biến thành hạt nhân nguyên tử heli và sản sinh ra một
nguồn năng lượng khổng lồ.
Năng lượng này truyền từ tâm hằng tinh ra ngoài bề mặt và vào không gian bằng cách
bức xạ. Các bức xạ này nằm trong phổ từ ánh sáng hồng ngoại, đến ánh sáng nhìn thấy
và sóng cực ngắn. Cứ như vậy hằng tinh duy trì phát sáng không ngừng Nhà bác học
Mĩ Betơ (Bethe) đã nêu lên một chỗi phản ứng kết hợp gọi là chu trình cacbon-nitơ
gồm 6 phản ứng tiếp nhau, với sự tham gia của cacbon và nitơ như là các chất xúc tác
và trung gian, nhưng xét tổng hợp thì cả chu trình rút về sự tạo thành hạt nhân hêli từ
các hạt nhân hiđrô.
Cả chu trình kéo dài hàng chục triệu năm nhưng từng phản ứng liên tục xảy ra, và chu
trình này cung cấp một phần năng lượng cho Mặt Trời (bên cạnh các chu trình khác).
Mặt Trời mất năng lượng do bức xạ thì theo hệ thức của Anhxtanh, khối lượng của nó
liên tục giảm. Nhưng vì khối lượng Mặt Trời rất lớn nên sự giảm này chỉ đáng kể sau
hàng triệu năm.
I.2 Một số đặc trưng quan trọng của ánh sáng
I.2.1 Tốc độ ánh sáng
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
9
I.2.1.1 Tốc độ ánh sáng trong chân không
Trong chân không, các thí nghiệm đã chứng tỏ ánh sáng nói riêng, hay các bức xạ điện
từ nói chung, đi với vận tốc không thay đổi, thường được ký hiệu là
c = 299.792.458 m/s, thậm chí không phụ thuộc vào hệ quy chiếu. Hiện tượng này đã
thay đổi nhiều quan điểm về cơ học cổ điển của Isaac Newton và thúc đẩy Albert
Einstein tìm ra lý thuyết tương đối.
I.2.1.2 Các phương pháp đo tốc độ ánh sáng:
a. Thí nghiệm của Galileo
Galileo tiến hành thí nghiệm đo vận tốc ánh sáng. Ông và người trợ lý mỗi người cầm
một cái đèn, đứng trên đỉnh đồi cách nhau một dặm. Galileo bật đèn, và người trợ lý
được dặn là sẽ bật đèn của anh ta ngay khi thấy ánh sáng từ đèn của Galileo. Galileo
muốn đo xem mất bao lâu ông ta mới thấy ánh đèn từ bên kia đồi. Thí nghiệm của ông
không thành công Vấn đề là vận tốc ánh sáng thường quá lớn để đo được bằng cách
này; ánh sáng đi 1 dặm trong 1 thời gian cực ngắn (khoảng 0.000005s) mà khoảng đó
thì ko có dụng cụ nào thời của Galileo đo được.
b. Phương pháp ROEMER
Vào khoảng năm 1670, nhà thiên văn người đan mạch Ole Roemer đã tiến hành quan
sát rất cẩn thận mặt trăng IO của Sao Mộc. Đốm đen là bóng của IO. IO mất 1.76 ngày
để quay 1 vòng quanh Sao Mộc, và theo lý thuyết thì chu kỳ quay
này phải luôn có thời gian như vậy. Thế nên Roemer hy vọng là
ông có thể dự đoán chính xác chuyển động này. Trước sự ngạc
nhiên của ông, ông thấy rằng vệ tinh này không xuất hiện đúng ở
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
10
chỗ mà nó được dự đoán. Vào một thời điểm chính xác của năm, nó có hơi chậm hơn
ngày giờ đã định một chút, còn ở thời điểm khác thì nó sớm hơn một chút. Thật khó
hiểu. Tại sao quĩ đạo của nó đôi khi nhanh hơn và đôi lúc chậm hơn?
Đó cũng là điều mà Roemer thắc mắc, và không ai có thể
nghĩ ra một cách trả lời xác đáng. Tuy nhiên, Roemer ghi
nhận rằng IO tới sớm hơn vị trí dự đoán trrên quĩ đạo của nó
khi Trái Đất ở gần Sao Mộc hơn. Và nó tới chậm khi Trái
Đất ở xa Sao Mộc hơn.
Hãy nghĩ thế này: nếu ánh sáng không di chuyển nhanh tức
thời, nghĩa là nó sẽ cần 1 khoảng thời gian để đi từ Sao Mộc tới Trái Đất. Cứ cho
rằng nó mất 1 tiếng đi. Vậy là khi nhìn Sao Mộc qua kính thiên văn, cái mà bạn
nhìn thấy hiện nay là ánh sáng được truyền đi từ 1 tiếng trước, nghĩa là bạn nhìn
thấy Sao Mộc và mặt trăng của nó 1 giờ trong quá khứ.
Vậy là Roemer đã nhìn thấy IO sớm hơn bình thường, có lẽ là 1 tiếng 15 phút trước
thay vì 1 tiếng. Và điều ngược lại sẽ xảy ra nếu Sao Mộc và Trái Đất ở gần nhau
hơn. Thật ra IO đã không thay đổi quĩ đạo của nó; nó chỉ xuất hiện ở vị trí khác
nhau phụ thuộc vào thời gian ánh sáng cần để đi thôi.
Biết được thời gian di chuyển của IO và sự thay đổi khoảng cách giữa Trái Đất và
Sao Mộc như thế nào, Roemer có thể tính được vận tốc ánh sáng. Qua đó ông xác
định được vận tốc ánh sáng vào cỡ: 214.000 - 300.000 km/s (tuỳ theo thời gian giữa
các lần bị che khuất là 1000 s hay là 1400s).
c. Phương pháp dùng đĩa răng cưa
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
11
Fizeau là người đầu tiên thực hiện phép đo vận tốc ánh sáng ngay trên mặt đất vào
năm 1849.
Ánh sáng được phát ra từ khe thứ nhất của một bánh xe quay rất nhanh, truyền đến một
cái gương phản xạ trở lại. Thay đổi vận tốc quay của bánh xe và khoảng cách từ bánh
xe đến gương sao cho khi ánh sáng phản xạ trở lại đi qua đúng khe tiếp theo của bánh
xe.
Như vậy thời gian truyền sáng là 2S/c chính bằng thời gian bánh xe quay được giữa
hai khe liên tiếp. Fizeau đã đo được vận tốc ánh sáng là 312,000 km/s.
d. Phương pháp gương quay
Phương pháp này thu ngắn khoảng cách D rất nhiều so với các thí nghiệm của Fizeau,
Cornu, và được thực hiện bởi Foucault vào năm 1862.
Nếu gương quay M đứng yên hay có vận tốc quay nhỏ, ánh sáng đi về theo quỹ đạo
SIJS1JIs.Ta có ảnh cuối cùng s.Nếu gương M quay với vận tốc lớn thì trong thời gian
ánh sáng đi về trên quãng đường JS1, gương M đã quay được một góc α. Do đó trong
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
12
lần về, tia phản chiếu trên gương M là JI’. Ta có ảnh cuối cùng là s’.Bằng một kính
nhắm vi cấp,ta xác định được khoảng cách ss’. Từ đó suy ra vận tốc ánh sáng.
Gọi S’1 là ảnh của S nếu không có gương M. Nhưng vì có gương M nên chùm tia sáng
hội tụ tại một điểm S1 trên gương cầu lõm B. Các điểm S1 và S1’ đối xứng qua gương
M nên không tùy thuộc vị trí của gương này. Do đó khi M quay, S1’ cố định. Khi
gương M quay một góc α, tia phản chiếu quay một góc β = 2α , S1’’ là ảnh của S1 cho
bởi gương M. Ta có S1’JS1’’ = β.
Dùng kính nhắm vi cấp đo khoảng cách:
ss’ =SS’ = β.d ( d là khoảng cách từ nguồn sáng S tới gương quay ).
Thời gian ánh sáng từ gương M tới gương cầu lõm B và trở về là : θ = 2D
C
Vậy β = 2α = 4 N ( N = số vòng quay mỗi giây của gương M).
Suy ra: 8 ND
C
Foulcault tính được vận tốc ánh sáng:
8 NDC
Trong thí nghiệm của Foucault, khoảng cách D = 20m, N= 800 vòng/ giây, vận tốc ánh
sáng tính được là:
C= 298.000 500 km/s
Newcomb năm 1882 thực hiện lại thí nghiệm của Fouucault với D =3700 m, N= 210
vòng/ giây, tìm được C= 299.860 50 km/s.
e. Phương pháp MICHELSON
Michelson đã thực hiện nhiều thí nghiệm để đo vận tốc ánh sáng. Ở đây, ta chỉ đề cập
tới các thí nghiệm sau cùng của Michelson được thực hiện trong khoảng thời gian
1924- 1926. Khoảng cách ánh sáng đi về dài 35,4 km giữa hai ngọn núi Wilson và
Antonio. Thiết trí thí nghiệm như H4.
P là một lăng kính phản xạ 8 mặt, có thể quay xung quanh trục O. M và M’ là hai
gương cầu lõm. Lúc đầu, P đứng yên, ánh sáng từ khe sáng S đến mắt a của lăng kính P
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
13
và lần lượt phản chiếu trên các gương : m1, m2, M, M’, m3, M’, M, m4, m5 tới mặt e (
đối diện với mặt a) của lăng kính P, phản chiếu trên mặt này tới gương m6. Quan sát
bằng một kính nhắm vi cấp,ta thấy ảnh cuối cùng S’ của khe sáng S. Sau khi đã điều
chỉnh hệ thống như trên, người ta cho lăng kính P quay thì ảnh S’ biến mất. Ảnh này lại
xuất hiện đúng vị trí cũ nếu trong thời gian ánh sáng đi về, mặt d của lăng kính P quay
tới đúng vị trí ban đầu của mặt e, nghĩa là thời gian đi về của ánh sáng bằng thời
gian t để lăng kính P quay được 1/8 vòng. Nếu N là số vòng quay mỗi giây tương ứng
của lăng kính P, ta có : 1
8N
Vận tốc ánh sáng là :
2 16DC DN
Trong thí nghiệm trên của Michelson, lăng kính P quay với vận tốc 528 vòng/ giây
Thực ra trong các thí nghiệm, hai thời gian và t khó thể điều chỉnh cho hoàn toàn
bằng nhau. Do đó ta có = t , nghĩa là mặt d khi tới thế chổ mặt e, hợp với vị trí
ban đầu của mặt e một góc . Vì vậy, ta quan sát thấy một ánh sáng S1’ không trùng
với vị trí ban đầu S’. Xác định khoảng cách S’S’1 , ta có thể tính được . Từ đó tính
được số hạng hiệu chỉnh cho vận tốc ánh sáng.
Trong thời gian từ năm 1924 đến đầu năm 1927, Michelson đã thực hiện phép đo nhiều
lần. Kết quả trung bình của các thí nghiệm là 299.976 km/ giây với sai số 4 km/giây.
C= 299.976 4 km/s
Nhiều năm sau, dụng cụ thiết bị đã phát triển, nhiều người đã đo vận tốc ánh sáng một
cách chính xác hơn. Với công nghệ kỹ thuật ngày nay, ta có thể đo nó với độ chính xác
không ngờ. Trong chuyến lên Mặt Trăng của tàu Apollo 11,các nhà du hành đã gắn
gương phẳng vào 1 hòn đá trên mặt Trăng. Nhà khoa học ở Trái Đất có thể dùng laser
chiếu vào gương đó và đo ánh sáng phản chiếu lại, khoảng 2.5 s cho 1 chu kỳ (Ý
tưởng này không khác mấy so với Galileo) Và bất cứ ai dùng cách này để đo vận tốc
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
14
ánh sáng, vào bất kỳ thời điểm nào cũng đạt được cùng 1 kết quả: gần bằng 300,000
km/s.
Tấm gương phản chiếu tàu Apollo 11 đã để lại trên Mặt Trăng
I.2.2 Năng lượng, động lượng và khối
lượng
Năng lượng của một hạt photon có bước sóng λ là hc/λ, với h là hằng số Planck và c là
tốc độ ánh sáng trong chân không. Photon không có khối lượng nghỉ, do đó động lượng
của hạt photon bằng năng lượng của nó chia cho tốc độ ánh sáng, h/λ. Tính toán trên
thu được từ công thức của thuyết tương đối:
Với:
E : năng lượng của hạt
P: là động lượng của hạt
E2 - p2c2 = m02c4
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
15
m0: là khối lượng nghỉ
I.2.3 Áp suất ánh sáng:
Ánh sáng gồm những hạt mang năng lượng và chuyển động. Khi một chùm tia sáng
đập vào bề mặt S, các photon sẽ truyền cho mặt này một động lượng, nghĩa là sẽ tác
dụng lên bề mặt đó một áp suất, tương tự như khi tác dụng một lực nén lên diện tích S.
Áp suất ánh sáng đã được Maxwell đoán trước năm 1874, nhưng không phải dựa trên
thuyết photon, mà suy ra từ thuyết sóng điện từ. Tới năm 1900, mới được kiểm chứng
lần đầu tiên bởi Lebedew.
Ta có thể giải thích hiện tượng áp suất ánh sáng một cách đơn giản dựa trên thuyết
photon. Xét một chùm tia sáng có tần số f, mật độ photon là n (số phton trong một đơn
vị thể tích) ứng với một năng lượng là u = n h f. Số photon tới thẳng góc một đơn vị
diện tích S trong một đơn vị thời gian là nC ứng với một năng lượng là:
h hfp nC nC nhf u
C
- Nếu bề mặt có tính hấp thụ hoàn toàn thì động lượng p được hoàn toàn truyền
cho một đơn vị diện tích S của bề mặt đó. Áp dụng định luật căn bản về động
lượng và xét với một đơn vị diện tích trên bề mặt của vật được chiếu sáng, ta có:
'p f
t
f là lực do chùm tia sáng tác dụng lên một đơn vị diện tích của bề mặt của vật. là sự
biến thiên động lượng ứng với một đơn vị diện tích bề mặt của vật trong thời gian
t . Vậy: 'p p u f
ta thấy f chính là áp suát ánh sáng p, vậy p = u
- Nếu bề mặt phản xạ một phần với hệ số phản chiếu là thì trong nC photon tới
diện tích đơn vị S có (1 )nC photon bị hấp thụ và nC photon bị phản xạ trở
lại.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
16
(1 )nC photon bị S hấp thụ nên truyền cho diện tích đơn vị S một động lượng là
(1 ) (1 )hfnC u
c
.
Xét các photon phản xạ. Một photon khi tới diện tích đơn vị S có động lượng là
hv
c
khi phản xạ trở lại, theo định luật bảo toàn động lượng, có động lượng là hv
c
(bằng và ngược chiều với động lượng đến) vậy nếu chỉ xét riêng photon độ biến
thiên động lượng có giá trị số là động lượng được truyền cho diện tích đơn vị S.
Động lượng đó do , photon phản xạ truyền cho diện tích S là: 2 . 2hf nC u
c
Vậy áp suất ánh sáng là: '
'
pp f
t
- Nếu phản xạ toàn phần, ta có 1
- Với bề mặt hấp thụ hoàn toàn, 0 ta tìm được công thức : p = u
Nhận xét công thức (4.2), ta thấy u là mật độ năng lượng của chùm tia tới, là mật độ
của chùm tia phản xạ. Do đó ta có thể viết công thức tổng quát cho 3 trường hợp
trên dưới dạng : p u
u là tổng số mật độ năng lượng của các chùm tia tới và phản xạ ở trước bề mặt S.
Bây giờ ta xét trường hợp chùm tia tới bề mặt của vật dưới một góc i. Để đơn giản,
ta vẫn chỉ xét diện tích đơn vị S. Thiết diện thẳng của chùm tia là S cosi = cosi. Số
photon tới S trong một đơn vị thời gian là nC.cosi ứng với một động lượng có trị số
là : cos . coshfp nc i u i
c
Và có phương truyền của tia sáng.
Thành phần của P trên phương thẳng góc với S là : 2cos cosNP P i u i
Áp suất ánh sáng bây giờ là : NP P
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
17
Lặp lại cách chứng minh tương tự trường hợp tia tới thẳng góc, ta
được : 2( ).cosP u i
Áp suất ánh sáng rất nhỏ. Áp suất ánh sáng do mặt trời tác dụng vào một bề mặt
trong các điều kiện tốt nhất (giữa trưa, chiếu thẳng góc, bề mặt phản xạ hoàn toàn)
cũng chỉ khoảng vào 10-5 N/m2 nghĩa là chỉ bằng 10-10 lẫn áp suất khí quyển định
(76 cmHg= 105 N/m2). Tuy vậy, tác động của ASAS lên các hạt nhỏ trong vũ trụ
cũng tương đương như lực hấp dẫn. ASAS đóng vai trò quan trọng trong việc hình
thành đuôi sao chổi.
I.2.4 Các lý thuyết về ánh sáng:
Trong lịch sử khám phá, đã có nhiều lý thuyết để giải thích các hiện tượng tự nhiên liên
quan đến ánh sáng. Dưới đây trình bày các lý thuyết quan trọng, theo trình tự lịch sử.
I.2.4.1 Lý thuyết hạt ánh sáng
Lý thuyết hạt ánh sáng, được Isaac Newton đưa ra, cho rằng dòng ánh sáng là dòng di
chuyển của các hạt vật chất. Lý thuyết này giải thích được hiện tượng phản xạ và một
số tính chất khác của ánh sáng; tuy nhiên không giải thích được nhiều hiện tượng như
giao thoa, nhiễu xạ mang tính chất sóng.
I.2.4.2 Lý thuyết sóng ánh sáng
Lý thuyết sóng ánh sáng, được Christiaan Huygens đưa ra, cho rằng dòng ánh sáng là
sự lan truyền của sóng. Lý thuyết này giải thích được nhiều hiện tượng mang tính chất
sóng của ánh sáng như giao thoa, nhiễu xạ; đồng thời giải thích tốt hiện tượng khúc xạ
và phản xạ.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
18
Lý thuyết sóng và lý thuyết hạt ánh sáng ra đời cùng thời điểm (thế kỷ 17) và đã gây ra
cuộc tranh luận lớn giữa hai trường phái.
I.2.4.3 Lý thuyết điện từ
Sau khi lý thuyết sóng và lý thuyết hạt ra đời, lý thuyết điện từ của James Clerk
Maxwell năm 1865, khẳng định lại lần nữa tính chất sóng của ánh sáng. Đặc biệt, lý
thuyết này kết nối các hiện tượng quang học với các hiện tượng điện từ học, cho thấy
ánh sáng chỉ là một trường hợp riêng của sóng điện từ.
Các thí nghiệm sau này về sóng điện từ, như của Heinrich Rudolf Hertz năm 1887,
đều khẳng định tính chính xác của lý thuyết của Maxwell.
I.2.4.4 Ête
Sau thành công của lý thuyết điện từ, khái niệm rằng ánh sáng lan truyền như các sóng
đã được chấp nhận rộng rãi. Các hiểu biết về sóng cơ học, như âm thanh, của cơ học cổ
điển, đã dẫn các nhà khoa học đến giả thuyết rằng sóng ánh sáng lan truyền như sóng
cơ học trong môi trường giả định ête, tràn ngập khắp vũ trụ, nhưng có độ cứng cao hơn
cả kim cương.
Cuối TK 19 – đầu TK 20, nhiều thí nghiệm tìm kiếm sự tồn tại của ête, như thí nghiệm
Michelson-Morley, đã thất bại, cùng lúc chúng cho thấy tốc độ ánh sáng là hằng số
không phụ thuộc hệ quy chiếu; do đó không thể tồn tại môi trường lan truyền cố định
kiểu ête.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
19
I.2.4.5 Thuyết tương đối
Thuyết tương đối của Albert Einstein ra đời, 1905, với mục đích ban đầu là giải thích
hiện tượng vận tốc ánh sáng không phụ thuộc hệ quy chiếu và sự không tồn tại của môi
trường ête, bằng cách thay đổi ràng buộc của cơ học cổ điển.
Trong lý thuyết tương đối hẹp, các tiên đề của cơ học được thay đổi, để đảm bảo thông
qua các phép biến đổi hệ quy chiếu, vận tốc ánh sáng luôn là hằng số. Lý thuyết này đã
giải thích được chuyển động của các vật thể ở tốc độ cao và tiếp tục được mở rộng
thành lý thuyết tương đối rộng, trong đó giải thích chuyển động của ánh sáng nói riêng
và vật chất nói chung trong không gian bị bóp méo bởi vật chất.
Thí nghiệm đo sự bẻ cong đường đi ánh sáng của các ngôi sao khi đi qua gần Mặt Trời,
lần đầu vào nhật thực năm 1919, đã khẳng định độ chính xác của lý thuyết tương đối
rộng.
I.2.4.6 Lý thuyết lượng tử ánh sáng
Lý thuyết lượng tử của ánh sáng nói riêng và vật chất nói chung ra đời khi các thí
nghiệm về bức xạ vật đen được giải thích bởi Max Planck và hiệu ứng quang điện
được giải thích bởi Albert Einstein đều cần dùng đến giả thuyết rằng ánh sáng là dòng
chuyển động của các hạt riêng lẻ, gọi là quang tử (photon).
Vì tính chất hạt và tính chất sóng cùng được quan sát ở ánh sáng, và cho mọi vật chất
nói chung, lý thuyết lượng tử đi đến kết luận về lưỡng tính sóng hạt của ánh sáng và
vật chất; đúc kết ở công thức de Broglie, 1924, liên hệ giữa động lượng một hạt và
bước sóng của nó.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
20
I.3 Cuộc đấu tranh đưa đến kết luận bản chất
“Lưỡng tính sóng - hạt của ánh sáng”:
Bản chất vừa giống sóng vừa giống hạt của ánh sáng khiến cho giới vật lí chia rẻ sâu
sắc trong nhiều thế kỉ, thậm chí có lúc cuộc chiến đi đến chỗ gần như một mất một còn.
Bản chất đích thực của ánh sáng khả kiến là một bí ẩn làm lúng túng loài người trong
nhiều thế kỉ. Các nhà khoa học Hy Lạp thuộc trường phái Pythagore cổ đại cho rằng
mỗi một vật khả kiến phát ra một dòng hạt đều đặn, còn Aristotle kết luận rằng ánh
sáng truyền đi theo kiểu giống như sóng trên đại dương. Mặc dù những ý tưởng này đã
trải qua hàng loạt cải tiến và thu được tiến bộ đáng kể trong thế kỉ 20 vừa qua, nhưng
điều cốt lõi của cuộc tranh luận do các nhà triết học Hy Lạp đặt ra vẫn kéo dài cho tới
ngày nay.
Hình 1. Ánh sáng là sóng và là hạt
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
21
Một quan điểm nhìn nhận ánh sáng giống như sóng trong tự nhiên, chúng tạo ra năng
lượng và truyền trong không gian theo kiểu tương tự như các gợn sóng lan dần ra trên
bề mặt của một ao nước phẳng lặng sau khi bị một hòn đá rơi xuống làm nhiễu động.
Quan điểm đối lập cho rằng ánh sáng gồm dòng các hạt đều đặn, rất giống với những
giọt nước nhỏ xíu phun ra từ một vòi tưới vườn. Trong vài thế kỉ qua, mỗi quan điểm
chỉ được nhất trí trong một khoảng thời gian nào đó, rồi lại bị lật đổ bởi bằng chứng
cho quan điểm kia. Chỉ trong thập kỉ đầu tiên của thế kỉ 20 cũng là bằng chứng đủ sức
thuyết phục mang tới câu trả lời toàn diện, và trước sự ngạc nhiên của nhiều người, hóa
ra cả hai lí thuyết đều chính xác, ít nhất là trong từng bộ phận.
Vào đầu thế kỉ 19, chủ đề về bản chất ánh sáng đã đẩy cộng đồng khoa học tới chỗ chia
phe dựng trại chiến đấu kịch liệt bảo vệ cho giá trị của những lí thuyết ưa chuộng của
họ. Một nhóm nhà khoa học, những người tán thành thuyết sóng, tập trung bàn luận về
những khám phá của nhà khoa học người Hà Lan Christiaan Huygens. Còn trại bên kia
thì trích dẫn thí nghiệm lăng kính của ngài Isaac Newton, xem là bằng chứng cho thấy
ánh sáng truyền đi dưới dạng một trận mưa hạt, mỗi hạt đi theo đường thẳng cho tới
khi nó bị khúc xạ, hấp thụ, phản xạ, nhiễu xạ theo một số kiểu khác. Mặc dù chính
Newton hình như cũng có một số nghi ngờ với thuyết tiểu thể của ông về bản chất ánh
sáng, nhưng uy tín của ông trong cộng đồng khoa học có sức nặng quá lớn nên những
kẻ ủng hộ ông đã bỏ qua tất cả những bằng chứng khác trong cuộc chiến đấu khốc liệt
của mình.
Lí thuyết khúc xạ ánh sáng của Huygens, dựa trên khái niệm bản chất giống như sóng
của ánh sáng, cho rằng vận tốc ánh sáng trong một chất bất kì tỉ lệ nghịch với chiết suất
của nó. Nói cách khác, Huygens cho rằng ánh sáng càng bị bẻ cong, hay khúc xạ, khi
đi vào một chất, thì nó càng chậm khi truyền qua chất đó. Những người ủng hộ ông kết
luận rằng nếu ánh sáng là một dòng hạt, thì sẽ xảy ra kết quả ngược lại, vì ánh sáng đi
vào môi trường đậm đặc hơn sẽ bị các phân tử môi trường đó hút và vận tốc sẽ tăng
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
22
lên, chứ không giảm xuống. Mặc dù lời hòa giải cho cuộc cãi vã này là đo vận tốc ánh
sáng trong các chất khác nhau, không khí và thủy tinh chẳng hạn, nhưng trong thời kì
đó, dụng cụ dùng để làm việc này chưa ra đời. Thêm nữa, ánh sáng hình như chuyển
động với cùng một vận tốc, bất chấp môi trường mà nó đi qua. Phải hơn 150 năm sau,
vận tốc của ánh sáng mới được đo với độ chính xác cao để chứng minh thuyết Huygens
là đúng.
Hình 2. Những nhà tiên phong trong ngành vật lí nghiên cứu ánh sáng khả kiến
Bất chấp danh cao vọng trọng của ngài Isaac Newton, số nhà khoa học có danh tiếng
vào đầu những năm 1700 không tán thành thuyết tiểu thể của ông. Một số người tranh
luận rằng nếu ánh sáng là các hạt, thì khi hai chùm sáng cắt ngang nhau, một số hạt sẽ
va chạm lên nhau gây ra sự chệch hướng trong chùm sáng. Rõ ràng điều này không xảy
ra, nên họ kết luận ánh sáng không thể là tập hợp những hạt rời rạc được.
Huygens, với trực giác của mình, đề xuất trong chuyên luận năm 1690 của ông rằng,
sóng ánh sáng truyền trong không gian qua trung gian ête, một chất bí ẩn không trọng
lượng, tồn tại như một thực thể vô hình trong không khí và không gian. Công cuộc săn
lùng ête ngốn một lượng đáng kể tài nguyên trong thế kỉ 19 trước khi cuối cùng phải
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
23
dừng lại. Thuyết ête tồn tại ít nhất là cho tới cuối những năm 1800, bằng chứng là mô
hình do Charles Wheatstone đề xuất, chứng minh ête mang sóng ánh sáng bằng cách
dao động theo hướng vuông góc với hướng truyền sóng, và mô hình chi tiết của James
Clerk Maxwell mô tả việc xây dựng chất vô hình này. Huygens tin rằng ête dao động
cùng hướng với ánh sáng, và tự hình thành một sóng như thể là nó mang sóng ánh
sáng. Trong tập sách xuất bản sau, nguyên lí Huygens, ông đã mô tả tài tính cách mà
mỗi điểm trên sóng có thể tạo ra mặt sóng riêng của nó, và rồi hợp lại thành đầu sóng.
Huygens dùng ý tưởng này sáng tạo ra một lí thuyết chi tiết cho hiện tượng khúc xạ, và
cũng giải thích tại sao các tia sáng không phá hủy nhau khi đường truyền của chúng cắt
nhau.
Khi một chùm ánh sáng truyền giữa hai môi trường có chiết suất khác nhau thì chùm
tia bị khúc xạ và đổi hướng khi truyền từ môi trường thứ nhất vào môi trường thứ hai.
Để xác định xem chùm tia sáng là hạt hay sóng, người ta phải nghĩ ra mỗi mô hình cho
mỗi trường phái để giải thích hiện tượng (hình 3).
Theo thuyết sóng của Huygens, một phần nhỏ của mỗi đầu sóng góc phải chạm đến
môi trường thứ hai trước khi phần còn lại của đầu sóng tiến đến mặt phân giới. Phần
này sẽ bắt đầu đi qua môi trường thứ hai trong khi phần còn lại của sóng vẫn còn
truyền trong môi trường thứ nhất, nhưng sẽ chuyển động chậm hơn do chiết suất của
môi trường thứ hai cao hơn. Do mặt sóng lúc này truyền ở hai tốc độ khác nhau, nên nó
sẽ uốn cong vào môi trường thứ hai, do đó làm thay đổi hướng truyền. Trái lại, thuyết
hạt có lúc hơi khó giải thích tại sao các hạt ánh sáng phải đổi hướng khi chúng truyền
từ môi trường này sang môi trường khác. Những người đề xướng thuyết hạt cho rằng
một lực đặc biệt, hướng vuông góc với mặt phân giới, tác động đến sự thay đổi vận tốc
của các hạt khi chúng đi vào môi trường thứ hai. Bản chất đích thực của lực này không
được nghiên cứu và không có bằng chứng nào được thu thập để chứng minh cho lí
thuyết.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
24
Hình 3. Sự khúc xạ của hạt và sóng
Một so sánh thú vị khác của hai lí thuyết liên quan tới những khác biệt xảy ra khi ánh
sáng bị phản xạ từ một bề mặt nhẵn, lung linh, như mặt gương chẳng hạn. Thuyết sóng
xem nguồn sáng phát ra các sóng ánh sáng trải ra theo mọi hướng. Khi chạm lên
gương, các sóng bị phản xạ theo góc tới, nhưng với mỗi sóng phản hồi trở lại tạo ra
một ảnh đảo ngược (hình 4). Hình dạng của sóng tới phụ thuộc nhiều vào khoảng cách
từ nguồn sáng tới gương. Ánh sáng phát ra từ một nguồn ở gần vẫn giữ được mặt sóng
hình cầu, có độ cong cao, còn ánh sáng phát ra từ một nguồn ở xa sẽ trải rộng hơn và
các mặt sóng gần như là phẳng.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
25
Hình 4. Hạt và sóng phản xạ bởi gương
Trường hợp bản chất hạt của ánh sáng đối với hiện tượng phản xạ có sức thuyết phục
hơn nhiều so với hiện tượng khúc xạ. Ánh sáng phát ra từ một nguồn, dù ở gần hay ở
xa, đi tới bề mặt gương dưới dạng một dòng hạt, chúng bị nảy lên, hay là bị phản xạ
bởi bề mặt nhẵn mịn. Do các hạt rất nhỏ, và có một lượng rất lớn hạt trong chùm ánh
sáng lan truyền, nên chúng sẽ chuyển động sát cánh với nhau. Khi chạm lên mặt
gương, các hạt bị nảy lên từ những điểm khác nhau, nên trật tự của chúng trong chùm
sáng bị đảo ngược lại tạo ra một hình đảo ngược, như được minh họa trên hình 4. Cả
thuyết hạt và thuyết sóng đều giải thích thỏa đáng sự phản xạ bởi một bề mặt phẳng.
Tuy nhiên, thuyết hạt cũng cho rằng nếu bề mặt quá gồ ghề, thì các hạt bị nảy lên ở
nhiều góc khác nhau, kết quả là làm tán xạ ánh sáng. Thuyết này rất phù hợp với những
quan sát thực nghiệm.
Hạt và sóng cũng sẽ hành xử khác nhau khi chúng chạm phải rìa của một vật và tạo nên
bóng đổ (hình 5). Newton sớm chỉ ra trong cuốn Opticks xuất bản năm 1704 của ông
rằng: “Ánh sáng không bao giờ truyền đi theo đường cong hay bị bẻ cong thành bóng
đổ”. Khái niệm này phù hợp với thuyết hạt cho rằng ánh sáng luôn luôn truyền đi theo
đường thẳng. Nếu các hạt chạm phải rìa của một rào chắn thì chúng sẽ không tạo ra
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
26
bóng đổ vì các hạt không bị rào chắn ngăn cản tiếp tục chuyển động theo đường thẳng
và không trải qua phía sau rìa chắn. Ở phạm vi vĩ mô, quan sát này hầu như là chính
xác, nhưng nó không phù hợp với kết quả của thí nghiệm nhiễu xạ ánh sáng xảy ra ở
kích thước nhỏ hơn nhiều.
Hình 5. Nhiễu xạ của hạt và sóng
Khi ánh sáng truyền qua một khe hẹp, chùm tia trải ra và trở nên rộng hơn mong đợi.
Quan sát quan trọng có tính cơ sở này mang lại nhiều tin cậy cho thuyết sóng ánh sáng.
Giống như sóng nước, sóng ánh sáng chạm phải rìa của một vật thì uốn cong quanh rìa
đó và đi vào vùng bóng hình học của nó, là vùng không được rọi sáng trực tiếp bằng
chùm tia sáng. Hành trạng này tương tự như sóng nước cuốn quanh phần cuối của bè
nổi, thay vì phản xạ ra xa.
Gần 100 năm sau khi Newton và Huygens đề xuất lí thuyết của họ, một nhà vật lí
người Anh tên là Thomas Young đã thực hiện một thí nghiệm củng cố mạnh mẽ bản
chất giống sóng của ánh sáng. Vì ông tin rằng ánh sáng là gồm các sóng, Young giải
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
27
thích được một số loại tương tác xảy ra khi hai sóng ánh sáng gặp nhau. Để kiểm tra
giả thuyết này, ông dùng một màn chứa một khe hẹp để tạo ra chùm ánh sáng kết hợp
(gồm các sóng truyền cùng pha với nhau) từ nguồn ánh sáng Mặt Trời. Khi các tia sáng
Mặt Trời chạm tới khe, chúng trải rộng ra, hay nhiễu xạ, tạo ra một mặt sóng. Nếu như
mặt sóng này được cho rọi tới một màn thứ hai có hai khe đặt rất gần nhau, thì hai
nguồn ánh sáng kết hợp nữa, hoàn toàn đồng bộ với nhau, được tạo ra (hình 6). Ánh
sáng từ mỗi khe truyền tới một điểm nằm giữa hai khe phải hoàn toàn đồng bộ với
nhau. Tuy nhiên, nếu xét một điểm nào đó nằm về một phía so với điểm chính giữa, thì
ánh sáng từ một khe sẽ truyền tới điểm đó qua một đoạn đường dài hơn so với ánh sáng
truyền từ khe phía bên kia. Ánh sáng từ khe gần hơn sẽ truyền tới điểm thứ hai này
trước so với ánh sáng từ khe ở xa, nên hai sóng không còn đồng bộ với nhau, và có thể
hủy nhau tạo nên bóng tối.
Đúng như ông nghi ngờ, Young phát hiện thấy khi các sóng ánh sáng từ bộ khe thứ hai
bị trải ra (hay nhiễu xạ), chúng gặp nhau và chồng chập lên nhau. Trong một số trường
hợp, sự chồng chập kết hợp đồng bộ chính xác với nhau. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp khác, các sóng ánh sáng kết hợp hoàn toàn không đồng bộ với nhau hoặc
chỉ đồng bộ một phần. Young nhận thấy khi các sóng gặp nhau đồng bộ, chúng cộng
gộp với nhau bằng một quá trình gọi là giao thoa tăng cường. Các sóng gặp nhau
không đồng bộ sẽ hủy lẫn nhau, hiện tượng này gọi là giao thoa triệt tiêu. Ở giữa hai
thái cực này, những mức độ khác nhau của giao thoa tăng cường và triệt tiêu xảy ra
làm tạo ra sóng có phổ biên độ rộng. Young cũng có thể quan sát thấy các hiệu ứng
giao thoa trên màn hình đặt ở một khoảng cách nhất định phía sau hai khe. Sau khi
nhiễu xạ, ánh sáng tái kết hợp bằng giao thoa tạo ra dải vân sáng và tối dọc theo chiều
dài của màn hình.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
28
Hình 6. Thí nghiệm hai khe Young
Mặc dù có vẻ quan trọng, nhưng kết luận của Young không được chấp nhận rộng rãi
vào lúc đó, chủ yếu do bởi niềm tin quá mãnh liệt vào thuyết hạt. Ngoài quan sát sự
giao thoa ánh sáng, Young còn cho rằng ánh sáng có các màu khác nhau gồm các sóng
có chiều dài khác nhau, một khái niệm cơ sở được công nhận rộng rãi hiện nay. Trái
lại, thuyết hạt chủ trương rằng màu sắc ánh sáng khác nhau là do các hạt có khối lượng
khác nhau hoặc truyền đi với vận tốc khác nhau.
Hiệu ứng giao thoa không chỉ giới hạn có ánh sáng. Các sóng tạo ra trên mặt hồ, hoặc
ao, sẽ trải ra theo mọi hướng và chịu sự hành xử tương tự. Khi hai sóng gặp nhau đồng
bộ, chúng sẽ cộng gộp với nhau tạo ra một sóng hơn bằng giao thoa tăng cường. Các
sóng chạm nhau không đồng bộ sẽ hủy nhau qua giao thoa triệt tiêu và tạo ra bề mặt
phẳng trên nước.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
29
Thêm một bằng chứng nữa cho bản chất giống sóng của ánh sáng được phát hiện khi
hành trạng của chùm sáng giữa các kính phân cực đặt chéo nhau được nghiên cứu tỉ mỉ
(hình 7). Kính phân cực có cấu trúc phân tử độc nhất vô nhị chỉ cho phép ánh sáng có
một định hướng nào đó truyền qua chúng. Nói cách khác, kính phân cực có thể được
xem như một loại màn che đặc biệt có các hàng thanh nhỏ xíu định theo một hướng
bên trong chất phân cực. Nếu cho một chùm sáng tới đập vào kính phân cực, chỉ có
những tia sáng định hướng song song với hướng phân cực mới có thể truyền qua kính.
Nếu đặt một kính phân cực thứ hai phía sau kính thứ nhất và định hưởng giống như
kính thứ nhất, thì ánh sáng truyền qua được kính thứ nhất cũng sẽ truyền qua được kính
thứ hai.
Tuy nhiên, nếu quay kính phân cực thứ hai đi một góc nhỏ, thì lượng ánh sáng truyền
qua nó sẽ giảm xuống. Khi quay kính phân cực thứ hai đến vị trí định hướng vuông góc
với kính thứ nhất, thì không có ánh sáng nào đã truyền qua được kính thứ nhất sẽ
truyền qua được kính thứ hai. Kết quả này dễ dàng giải thích được với thuyết sóng, còn
việc vận dụng thuyết hạt không thể giải thích được ánh sáng bị chặn lại như thế nào bởi
kính thứ hai. Thật vậy, thuyết hạt cũng không thể giải thích thỏa đáng hiện tượng giao
thoa và nhiễu xạ, những hiệu ứng mà sau này người ta xem là thuộc cùng một hiện
tượng.
Kết quả quan sát với ánh sáng phân cực đủ để phát triển khái niệm ánh sáng gồm các
sóng ngang có các thành phần vuông góc với hướng truyền sóng. Mỗi thành phần
ngang phải có một định hướng đặc biệt cho phép nó truyền qua hoặc là bị chặn lại bởi
một kính phân cực. Chỉ những sóng có thành phần ngang song song với bộ lọc phân
cực mới truyền qua được, còn những sóng khác đều bị chặn lại.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
30
Hình 7. Hạt và sóng đi qua các kính phân cực đặt vuông góc
Vào giữa những năm 1800, các nhà khoa học không ngừng bị thuyết phục trước đặc
trưng giống sóng của ánh sáng, nhưng vẫn còn một chỗ hổng lớn chưa được lấp. Đó là
ánh sáng thật ra là gì ? Một đột phá được thực hiện bởi nhà vật lí người Anh James
Clerk Maxwell khi ông phát hiện thấy tất cả các dạng bức xạ điện từ đều có phổ liên
tục và truyền qua chân không với cùng một tốc độ: 186000 dặm một giây. Khám phá
của Maxwell thật sự đã đóng đinh quan tài cho thuyết hạt, và vào buổi bình minh của
thế kỉ 20, hình như những câu hỏi cơ bản về ánh sáng và lí thuyết quang học cuối cùng
đã được trả lời.
Một tai họa lớn ập đến với thuyết sóng vào cuối thập niên 1880, khi các nhà khoa học
lần đầu tiên phát hiện thấy, dưới những điều kiện nhất định, ánh sáng có thể đánh đuổi
các electron ra khỏi nguyên tử của một vài kim loại (hình 8). Mặc dù lúc đầu chỉ là một
hiện tượng hiếu kì và không giải thích nổi, nhưng người ta nhanh chóng phát hiện thấy
ánh sáng cực tím có thể làm bật ra electron từ nguyên tử của nhiều kim loại, làm cho
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
31
chúng tích điện dương. Nhà vật lí người Đức Phillip Lenard trở nên bị lôi cuốn vào
những quan sát này, và ông đã đặt tên cho nó là hiệu ứng quang điện. Lenard dùng một
lăng kính để tách ánh sáng trắng thành các thành phần màu của nó, và rồi cho hội tụ có
chọn lọc mỗi màu lên một đĩa kim loại để tống khứ các electron ra khỏi nó.
Cái Lenard phát hiện được làm ông bối rối và ngạc nhiên. Đối với một bước sóng ánh
sáng cụ thể (chẳng hạn ánh sáng xanh dương), các electron tạo ra một thế không đổi,
hay một lượng năng lượng ổn định. Việc giảm hoặc tăng lượng ánh sáng tạo ra sự tăng
hoặc giảm tương ứng số electron được giải phóng, nhưng mỗi electron vẫn có năng
lượng như cũ. Nói cách khác, các electron thoát khỏi liên kết nguyên tử có năng lượng
phụ thuộc vào bước sóng ánh sáng, chứ không phải cường độ ánh sáng. Điều này trái
với cái mà thuyết sóng mong đợi. Lenard cũng khám phá ra mối liên hệ giữa bước sóng
và năng lượng: các bước sóng càng ngắn làm phát sinh các electron có năng lượng
càng lớn.
Hình 8. Hiệu ứng quang điện
Việc thiết lập mối quan hệ giữa ánh sáng và các nguyên tử có được vào đầu thập niên
1800 khi William Hyde Wollaston khám phá thấy phổ của Mặt Trời không phải là một
dải sáng liên tục mà chứa hàng trăm bước sóng bị thiếu. Trên 500 vạch hẹp ứng với các
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
32
bước sóng bị thiếu đã được lập biểu đồ bởi nhà vật lí người Đức Joseph von
Fraunhofer, người đặt các kí hiệu chữ cái cho các khe hở lớn nhất. Sau này, người ta
phát hiện thấy các khe hở sinh ra do sự hấp thụ những bước sóng cụ thể bởi các nguyên
tử trong lớp bên ngoài Mặt Trời. Những quan trắc này là một số liên hệ đầu tiên giữa
các nguyên tử và ánh sáng, mặc dù tác dụng cơ bản của nó không được hiểu rõ vào lúc
ấy.
Năm 1905, Albert Einstein đề xuất rằng ánh sáng thực ra có một số đặc trưng hạt, bất
chấp những bằng chứng tràn ngập cho bản chất giống sóng của ánh sáng. Einstein là
khoa học gia được giải Nobel về khoa học (1921) khi ông xác minh được ánh sáng có
bản chất hạt trong thí nghiệm quang điện. Ánh sáng được rọi vào một tấm kim loại, là
vật liệu giàu điện tử. Khi Einstein thay đổi tần số của ánh sáng tới (tức là thay đổi màu
ánh sáng) đến một giá trị nào đó thì cây kim trên máy đo bắt đầu chuyển động, chỉ dấu
cho một dòng điện chạy. Thay đổi cường độ ánh sáng không thay đổ cường độ dòng
điện, nhưng thay đổi tần số giao động của ánh sáng, thay đổi cường độ dòng quang
điện. Từ đó, Einstein mới lập ra lý thuyết quang điện cho rằng ánh sáng được cấu thành
bởi những hạt cơ bản; một hạt có năng lượng bằng tần số dao động của ánh sáng tới
nhân với một hằng số gọi là hằng số Planck. Hạt cơ bản này gọi là quang tử. Khi tần số
của ánh sáng tới lớn hơn một giá trị nào đó thì năng lượng của quang tử đủ lớn để đánh
rời hạt điện tử đang liên kết với các nguyên tử trên bề mặt kim loại để chúng tự do bay
từ mặt kim loại bên phải (được rọi sáng) qua mặt kim loại bên trái .Sự chuyển động của
các hạt điện tử, theo định nghĩa, chính là dòng điện, gọi là quang điện.
Trong khi phát triển thuyết lượng tử của ông, Einstein đề xuất về mặt toán học rằng các
electron gắn liền với các nguyên tử trong kim loại có thể hấp thụ một số lượng ánh
sáng nhất định (ban đầu đặt tên là lượng tử, nhưng về sau đổi tên là photon), và như thế
nó có năng lượng để thoát ra ngoài. Ông cũng cho rằng nếu năng lượng của photon tỉ lệ
nghịch với bước sóng thì các bước sóng càng ngắn sẽ tạo ra những electron có năng
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
33
lượng càng lớn, một giả thuyết được hình thành trên cơ sở những kết quả nghiên cứu
của Lenard.
Mặc dù thí nghiệm quang điện chủ yếu xác minh tính hạt của ánh sáng, nó cũng hàm
chứa tính sóng vì năng lượng của quang tử tỉ lệ với tần số dao động - tức là một đặc
điểm của tính sóng. Tuy nhiên, cần phải có thí nghiệm Young về hiện tượng giao thoa
thì người ta mới biết chắc chắn ánh sáng có tính sóng nữa.
Trong thí nghiệm Young một chùm ánh sáng (bao gồm nhiều quang tử) được bắn qua
hai kẻ hở sát nhau trên màn chắn .Trên màn hình phía sau, xuất hiện ra những vân sáng
và tối xen kẽ nhau. Hiện tượng này được là gọi hiện tượng giao thoa. Giao thoa là bằng
chứng của tính sóng (như sóng biển) của ánh sáng. Các vạch sáng tối là do sự cộng
hưởng của hai hàm số sóng. Các vạch tối là do sự khử nhau của hai hàm số sóng
Schrodinger. Hàm số sóng là gì? Theo thuyết lượng tử, chúng ta không thể biết chính
xác vị trí của hạt vi mô (nguyên lý bất định Heinsenberg) nhưng biết được xác suất có
thể tìm thấy nó ở đâu. Giá trị bình phương của hàm số sóng chính là xác suất tìm thấy
của hạt vi mô đó. Do vậy, các vạch sáng là những nơi tìm thấy được các quang tử; các
vạch tối là các vùng "cấm điạ," là nơi quang tử không thể tới được. Do vậy, ánh sáng
giao thoa là sự giao thoa của các hàm số sóng của những quang tử.Tuy nhiên, khi
người ta bắn từng quang tử một, mổi lần chỉ một hạt, qua hai khe hở thì các vạch sáng
và tối vẫn xuất hiện. Đối với một chùm ánh sáng bao gồm nhiều quang tử, thật là dễ
giải thích về hiện tượng giao thoa. Đó là các hàm số sóng của các hạt khi thì cộng
hưởng với nhau, tạo nên các vạch sáng, khi thì khử nhau tạo nên những vạch tối.
Nhưng khi bắn từng quang tử một, thì quang tử đó giao thoa với cái gì? Theo lời giải
thích của Schrodinger, là cha đẻ của phương trình hàm số sóng, quang tử được bắn ra
đó giao thoa với chính nó! Làm sao nó có thể giao thoa với chính nó, khi nó chỉ có thể
lọt qua một trong hai kẻ hở mà thôi? Theo lời giải thích này, đạn đạo của quang tử đó
bao gồm nhiều đường khác nhau, qua cả hai khe hở, chứ không phải là một đường, qua
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
34
Hình ảnh các vân giao thoa
một khe hở. Đây là điều kỳ cục thứ hai về bản chất của ánh sáng. Nói cách khác, quang
tử đó có nhiều trạng thái khác nhau, và hiện hữu cùng một lúc, cho tới khi người ta bịt
khe hở bên phải thì hiện tượng giao thoa của một quang tử biến mất. Khi mở nó ra và
che khe hở bên trái thì hiện tượng giao thoa cũng biến mất .Hiện tượng giao thoa của
một quang tử chỉ xuất hiện khi cả hai khe cùng mở .Tuy nhiện, khi người ta gắn một
khí cụ quan sát gần khe hở bên trái thì hiện tượng giao thoa biến mất. Làm lại điều này
với khe hở bên phải cũng quan sát được điều tương tự. Đây là điều kỳ cục thứ ba. Nói
một cách khác, khi có quan sát viên (khí cụ quan sát) đứng nhìn, thì tất cả các trạng
thái khả dĩ của quang tử biến mất hết chỉ trừ có một trạng thái còn lại mà thôi. Người ta
gọi đây là sự sụp đổ của các trạng thái lượng tử. Thí nghiệm Young cho ánh sáng cũng
áp dụng cho điện tử, nghĩa là người ta cũng quan sát được hiện tượng giao thoa trong
trường hợp một chùm điện tử và cả trường hợp chỉ có một
điện tử mà thôi.
Lí thuyết của Einstein được củng cố trong thập niên 1920
bởi các thí nghiệm của nhà vật lí người Mĩ Arthur H.
Compton, người chứng minh được photon có xung lượng,
một yêu cầu cần thiết để củng cố lí thuyết vật chất và
năng lượng có thể hoán đổi cho nhau. Cũng vào
khoảng thời gian đó, nhà khoa học người Pháp Louis Victor-de Broglie cho rằng tất cả
vật chất và bức xạ đều có những tính chất vừa giống sóng vừa giống hạt. Dưới sự chỉ
dẫn của Max Planck, de Broglie đã ngoại suy công thức nổi tiếng của Einstein liên hệ
khối lượng với năng lượng chứa luôn hằng số Planck:
E = h.f =mc2
Trong đó E là năng lượng của hạt, m là khối lượng, c là vận tốc ánh sáng, h là hằng số
Planck và f là tần số.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
35
Công trình của de Broglie, liên hệ tần số của một sóng với năng lượng và khối lượng
của một hạt, mang tính cơ sở trong sự phát triển của một lĩnh vực mới cuối cùng sẽ
được dùng để giải thích bản chất vừa giống sóng vừa giống hạt của ánh sáng. Cơ học
lượng tử ra đời từ nghiên cứu của Einstein, Planck, de Broglie, Niels Bohr, Erwin
Schrodinger, và những người nỗ lực giải thích bức xạ điện từ bằng thuật ngữ lưỡng
tính, hay là hành trạng vừa giống sóng vừa giống hạt. Có khi ánh sáng hành xử như hạt,
và đôi khi lại như sóng. Một câu hỏi đắt giá được đặt ra! Khi nào ánh sang khoác chiếc
áo song và trong những hoàn cảnh nào nó chưng ra bộ áo hạt? Câu trả lời rất đơn giản:
ánh sang là sóng khi chúng ta không đo nó, khi chúng ta không dò bắt nó; nhưng ngay
khi chúng ta sử dụng một máy dò để xác định các tính chất của nó, nó liền biến thành
hạt. Chúng ta biết điều này nữa nhờ thí nghiệm khe Young.
Hãy đặt một máy dò ánh sang ngay sau một trong hai khe để theo dõi photon đi qua.
Trong thí nghiệm thứ nhất, máy dò không được bật. Trong trường hợp này, các vân
giao thoa xuất hiện trên màn hình, và chúng ta biết rằng ánh sang khoác chiếc áo sóng.
Bây giờ chúng ta hãy cho máy dò hoạt động. Ngay lập tức, hai dải ánh sáng xuất hiện
tên màn đặt sau các khe; các vân giao thoa không còn ở đó nữa. Vậy là ánh sáng khoác
chiếc áo hạt. Trong trường hợp thứ nhất, bởi vì các máy dò không hoạt động, nên
chúng ta không biết mỗi photon sẽ đi qua khe nào, khe trái hay khe phải; Trong trường
hợp thứ hai vì máy dò hoạt động, nên chúng ta biết điều đó. Để thay đổi bộ dạng của
các photon, chúng ta chỉ cần cho máy dò hoạt động. Nói cách khác, người quan sát ở
đây đóng một vai trò trung tâm. Trong thế giới nguyên tử, chính người quan sát tạo ra
hiện thực. Hiện thực nguyên tử và dưới nguyên tử không còn là khách quan nữa, mà là
chủ quan. Giống như Salomon, chúng ta không nói dứt khoát vì ánh sáng vừa là sóng,
vừa là hạt. Quan điểm của Einstein (ánh sáng được tạo thành từ các hạt năng lượng)
cũng như quan điểm của Huygens, Young, Fresnel, Faraday và Maxwell (ánh sáng có
bản chất sóng). Hai cách mô tả không loại trừ nhau, mà bổ sung cho nhau.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
36
Đặc trưng lưỡng tính của hành trạng của ánh sáng có thể dùng để mô tả tất cả các đặc
điểm đã biết được quan sát thấy bằng thực nghiệm, từ sự khúc xạ, phản xạ, giao thoa,
và nhiễu xạ cho tới các hiệu ứng phân cực ánh sáng và hiệu ứng quang điện. Hai đặc
trưng của ánh sáng sống hòa thuận cùng nhau và cho phép chúng ta khám phá những
nét đẹp của vũ trụ.
II. Ánh sáng và thị giác – Đường truyền
của ánh sáng trong các môi trường
Khi nghiên cứu về ánh sáng, điều làm tôi quan tâm đầu tiên là trả lời câu hỏi: làm sao
chúng ta có thể tri giác được các sự vật, hiện tượng xung quanh. Tất nhiên là nhờ
ánh sáng rồi!, nhưng mà cơ chế cụ thể của quá trình tri giác này ra sao? Ví dụ, một đám
đông theo dõi một cuộc thi đấu thể thao trong một sân vận động chật cứng người: hình
ảnh của các vận động viên chạy trên đường có thể đi vào mắt của hàng nghìn người tại
cùng một thời điểm như thế nào? Liệu hình ảnh đó có được nhân lên vô số lần không?
Khi chúng ta ngắm nghía những đường viền tinh tế của cánh hoa hồng, các đường cong
hài hòa của một bức tượng hay màu đỏ rực rỡ của cảnh hoàng hôn, thì bằng cách nào
các hình dạng và màu sắc đó đã tách ra khỏi hoa hồng, bức tượng hay của Mặt Trời để
đi vào mắt chúng ta?
II.1 Ánh sáng và thị giác
Tôi sẽ hãy giải quyết lần lượt từng vấn đề sau:
Thứ nhất: Ta có thể nhìn thấy các vật là do một trong hai điều phải xảy ra. Hoặc mắt
là một cơ quan thụ động an phận ghi lại màu sắc và hình dạng mà các vật quanh chúng
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
37
ta gửi đến cho nó. Trong trường hợp này, ánh sáng đi từ vật tới mắt. Hoặc mắt là chủ
động và dò xét thế giới bên ngoài bằng cách chiếu vào nó các tia sáng. Trong trường
hợp này, ánh sáng đi từ mắt thay vì đi vào mắt. Trường hợp nào đúng?
II.1.1 Ánh sáng đi từ mắt đến vật hay từ vật đến
mắt?
Người Hy Lạp là những người đầu tiên suy nghĩ nghiêm túc về ánh sáng, thị giác và
màu sắc, cũng như rất nhiều vấn đề khác. Để trả lời câu hỏi đó, nhà bác học người Ả
rập Alhazen (965-1039) đã nêu lên lập luận của mình: chúng ta không thể nhìn lâu Mặt
Trời mà không bị chói mắt. Nếu ánh sáng đi từ mắt chúng ta, thì sẽ không có lý do gì
để chúng ta phải cảm thấy chói mắt như vậy. Ngược lại, nếu ánh sáng mặt trời đi đến
mắt chúng ta, thì ánh sáng chói lòa của nó có thể dễ dàng giải thích tại sao chúng ta lại
thấy khó chịu như vậy. Alhazen cũng nêu lên hiện tượng lưu ảnh; hãy nhìn một vật
trong nắng và sau đó đi vào bóng râm: hình ảnh về vật vẫn đọng lại vài giây trước mắt
chúng ta. Một lần nữa, hiện tượng này cũng chỉ có thể giải thích được nếu ánh sáng đi
vào mắt chúng ta từ bên ngoài.
Mắt không còn là nơi trú ngụ của một thứ ánh sáng thần thánh và thiêng liêng nữa; mắt
chờ được được chiếu sáng bởi ánh sáng từ ngoài. Từ vai trò là máy phát ra các tia, mắt
chuyển sang vai trò là máy thu.
Câu hỏi thứ hai đặt ra: Ảnh của vật được hình thành như thế nào trong mắt, hay nói
cách khác, cơ chế của sự hình thành ảnh trong mắt là gì?
II.1.2 Cơ chế của sự hình thành ảnh trong mắt là
gì?
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
38
Léonard de Vinci (1452-1519) đã làm thí nghiệm buồng tối (được Alhazen miêu tả
vào năm 1000): chọc một lỗ nhỏ vào tấm rèm phủ kín một buồng tối, lập tức các hình
ảnh của thế giới được chiếu sáng từ bên ngoài sẽ hiện lên bức tường đối diện, nhưng
lộn ngược. Trong một cơn xuất thần của trí tưởng tượng sáng tạo, Léonard đã tổng hợp
hai sự kiện này lại. Ông là người đầu tiên đã đồng nhất mắt với buồng tối, nơi các hình
ảnh của thế giới được phóng chiếu, các tia sáng từ bên ngoài đi vào qua lỗ con ngươi.
Các tia sáng này sau đó bị lệch hướng và được tụ tiêu bởi thủy tinh thể trên dây thần
kinh thị giác, cũng giống như mắt kính làm lệch hướng và tụ tiêu ánh sáng. Ý tưởng
này rất quan trọng. Léonard đã bác bỏ quan niệm của Galien cho rằng thủy tinh thể là
trung tâm của thị giác. Vai trò của thủy tinh thể bây giờ bị rút lại thành vai trò của một
dụng cụ quang học đơn thuần giống như mắt của một cái kính. Nhưng sự đồng nhất
mắt với buồng tối đặt ra một vấn đề: các hình ảnh bị đảo ngược, ấy vậy mà mắt vẫn
nhìn thế giới theo đúng tư thế thuận của nó !
Theo Kepler (1571-1630), nếu mắt là một buồng tối và nếu các tia sáng đi vào mắt qua
con ngươi có một kích thước nhất định, thì thế giới bên ngoài phải trình diện trước mắt
ta một cách mờ nhòe, không rõ nét (cũng giống như trường hợp đường kính của hình
ảnh của Mặt Trăng chiếu qua một lỗ vào trong buồng tối lại luôn lớn hơn giá trị mong
đợi, bởi kích thước hữu hạn của cái lỗ, làm cho ảnh bị nhòe). Tuy nhiên, thực tế lại
không phải như vậy. Do đó, các hình ảnh mà mắt nhìn thấy, phải được hình thành theo
một cơ chế khác. Ông đã nhận ra rằng cơ chế này chính là sự khúc xạ. Các tia sáng
không lan truyền theo đường thẳng khi đi vào mắt, như trường hợp buồng tối, mà bị
lệch hướng khi đi vào thủy tinh thể. Như vậy, mặc dù mượn phần lớn các quan điểm
của Alhazen, nhưng Kepler không đồng ý với khẳng định của nhà khoa học Ảrập này
theo đó chỉ có những tia đi vuông góc với giác mạc mới đóng góp cho thị giác. Tại sao
một tia sáng rất gần với đường vuông góc với mắt lại không giúp gì cho thị giác? Điều
đó không đúng ! Kepler đã khẳng định một cách chính xác rằng tất cả các tia sáng đều
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
39
đóng góp cho thị giác và sở dĩ chúng ta nhìn thấy rõ nét các hình ảnh, chính là bởi vì
tất cả các tia này đều bị lệch hướng và hội tụ vào một điểm duy nhất khi đi vào mắt
người.
Để kiểm tra giả thuyết của mình, Kepler đã miệt mài tiến hành các thí nghiệm với các
bình thủy tinh tròn chứa đầy chất lỏng, giống như mắt. Ông đã chứng tỏ được rằng các
tia sáng đi qua các bình thủy tinh nước ấy đều hội tụ vào một điểm duy nhất, và rằng
hình ảnh là sáng và nét nếu độ mở mà các tia đi qua đó là tương đối nhỏ. Mắt có một
độ mở nhỏ như thế (con ngươi) và một thấu kính (thủy tinh thể) để hội tụ các tia sáng.
Nhưng hình ảnh được hình thành ở đâu? Vẫn rất chính xác, Kepler cho rằng nơi hội tụ
các tia sáng và hình thành các hình ảnh là võng mạc - chứ không phải là thủy tinh thể
như Alhazen và Galien đã nghĩ. Sau hai nghìn năm lý thuyết về thị giác, vai trò của
võng mạc là trung tâm của thị giác cuối cùng đã được thừa nhận.
Quay trở lại thắc mắc, tại sao chúng ta không nhìn thấy một thế giới bị đảo ngược?
Descartes (1596-1650) đã nói rất dứt khoát, hình ảnh trong não mà chúng ta tri giác
được là một phiên bản đơn giản hóa của hình ảnh được gởi tới từ thế giới bên ngoài, và
chính não đã bổ khuyết thêm những thông tin còn thiếu. Như vậy, Descartes là người
đầu tiên cố gắng khai mở các con đường từ sự tri giác thế giới bên ngoài cho đến não
bộ. Theo nghĩa này, ông có thể coi là cha đẻ của ngành sinh lí học thần kinh hiện đại.
Nói thật chính xác thì mắt không “nhìn” mà chỉ nhận những kích thích ánh sáng rồi
truyền chúng lên não để chuyển đổi và tổng hợp lại hình ảnh của sự vật. Để thu nhận
hình ảnh, mắt ta có một thấu kính để tụ tiêu hình ảnh, một mống mắt hay lòng đen để
điều chỉnh lượng ánh sáng đi vào mắt và một võng mạc đóng vai trò màn ảnh.
Để tiêu tụ ánh sáng đi từ những vật mà ta muốn nhìn, mắt ta co hoặc giãn cơ mi nằm
quanh mắt để thay đổi tiêu cự và hình dạng của thấu và giác mạc của mắt. Hình ảnh
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
40
được thấu kính hai mặt lồi đảo chiều và tụ tiêu trên võng mạc. Võng mạc tụ tập hàng
triệu tế bào hình nón và hình que nhạy sáng gởi lên xung điện theo tế bào thần kinh thị
giác lên não, và tại đây, hình ảnh được chuyển đổi và đảo chiều trở lại để ghi nhận hình
ảnh thuận chiều của vật muốn nhìn.
Các tế bào thần kinh hình nón ở võng mạc có thể phân biệt và làm nổi lên các chi tiết
tinh tế trong hình ảnh. Chúng nằm chủ yếu xung quanh vùng trung tâm của võng mạc
gọi là lõm trung tâm, do đó lõm cũng là nơi để nhìn được các vật chi tiết nhất và rõ
nhất. Các tế bào thần kinh hình nón cũng nhạy với ánh sáng màu, do đó vùng lõm cũng
để phân biệt các màu sắc. Các tế bào hình que nằm xa lõm hơn, chịu trách nhiệm về
một hình ảnh tổng thể trên diện rộng nhưng không đi vào chi tiết. Đó cũng là lí do tại
sao ta nhìn trực diện vào một vật khi muốn quan sát nó một cách cẩn thận. Hình ảnh
lúc đó được tụ tiêu xung quanh lõm trung tâm, nơi mà phần lớn các tế bào hình nón
làm nổi lên các chi tiết tinh tế của hình ảnh. Ngoài ra các tế bào hình que cũng hữu ích
để nhìn ban đêm.
Ánh sáng giúp ta đánh giá được vẻ đẹp, sự lộng lẫy và hài hòa của vũ trụ quanh ta. Ánh
sáng điều chỉnh nhịp sinh học của cơ thể chúng ta. Nhưng ở đây có một nghịch lý lớn:
nếu ánh sáng cho phép chúng ta nhìn thấy thế giới, thì bản thân ánh sáng lại không
nhìn thấy được nếu không có các vật trong môi trường chặn đường đi của nó và làm
cho nó bộc lộ mình. Thật vậy, nếu bạn chiếu ánh sáng vào một cái thùng kín và chú ý
để cho nó không đập vào bất kỳ vật hay bề mặt nào, bạn sẽ chỉ thấy bóng tối. Chỉ khi
nào bạn đưa một vật ngang qua đường đi của ánh sáng và bạn thấy nó được chiếu sáng
thì bấy giờ bạn mới biết rằng cái thùng chứa đầy ánh sáng. Tương tự, một nhà thiên
văn học nhìn qua cửa sổ của phi thuyền không gian sẽ chỉ thấy không gian sâu thẳm tối
đen như mực, mặc dù ánh sáng Mặt Trời choán đầy xung quanh anh ta. Ánh sáng Mặt
Trời ở đây không đập vào cái gì nên không nhìn thấy được. Vậy vấn đề thứ ba là,
chúng ta thử đi tìm hiểu hành trạng của các tia sáng trong thế giới này nhé!
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
41
II.1.3 Hành trạng của các tia sáng
Cùng làm quen với các định luật liên quan đến ánh sáng:
II.1.3.1 Ánh sáng truyền thẳng
“Trong một môi trường trong suốt, đồng nhất, ánh sáng truyền đi theo đường
thẳng”
II.1.3.2 Nhưng khi tia sáng chạm phải một môi
trường khác thì sao?
Khi ánh sáng gặp một vật, thì một trong hai hiện tượng sẽ xảy ra: hoặc là nó nảy trên
bề mặt của vật để quay lại phía sau, và người ta nói ánh sáng bị phản xạ (chẳng hạn,
khi bạn nhìn mình trong gương, thì chính ánh sáng của cơ thể bạn được phản xạ bởi
gương đi vào trong mắt bạn); hoặc là ánh sáng đi vào môi trường mới trong suốt bằng
cách thay đổi hướng, và người ta nói ánh sáng bị khúc xạ.
Bốn thế kỷ trước CN, Euclide đã biết định luật phản xạ trên mặt phẳng: góc của tia tới
tạo với pháp tuyến của mặt phẳng bằng góc của tia phản xạ với chính pháp tuyến đó.
Archimède (khoảng 287-212 tr.CN) đã chứng minh được rằng có thể tập trung toàn bộ
ánh sáng tới vào tiêu điểm của gương nếu gương này có dạng parabol. Như vậy, người
Hy Lạp đã biết làm chủ kỹ thuật chế tạo gương. Trên thực tế, Archimède đã thiêu rụi
hạm đội La Mã đang vây hãm thành phố Syracuse bằng cách dùng các gương parabol
khổng lồ tập trung ánh sáng mặt trời lên tàu địch. Ngày nay nguyên lý tập trung ánh
sáng này vẫn được dùng trong kỹ thuật để chế tạo các kính thiên văn lớn.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
42
Người Hy Lạp cũng đã biết đến hiện tượng khúc xạ. Trong cuốn Quang học, Ptolémée
miêu tả thí nghiệm đã từng được Euclide nhắc đến (bạn có thể dễ dàng tự mình thực
hiện thí nghiệm này để bước đầu tìm hiểu các hiệu ứng của khúc xạ ánh sáng): đặt một
cái bát to lên bàn và thả xuống đáy bát một đồng tiền xu. Hãy ngồi ở một chỗ sao cho
bạn không thể nhìn thấy đồng tiền xu nếu không hơi nhổm người lên. Nghĩa là đồng xu
đã nằm ngoài tầm mắt của bạn. Sau đó hãy đổ nước từ từ vào trong bát. Mức nước tăng
lên và, đến một lúc nào đó, bạn sẽ nhìn thấy đồng xu mà không phải nhổm người lên.
Sở dĩ bạn nhìn thấy đồng xu là nhờ khúc xạ ánh sáng: không có nước, các tia sáng xuất
phát từ đồng xu không đi vào mắt; có nước, tia sáng bị lệch về phía đáy và đi vào mắt
nên bạn có thể nhìn thấy nó. Một thí nghiệm khác cũng minh hoạ những hiệu ứng lạ
của khúc xạ: đặt một cái bút chì vào trong bát nước và bạn thấy cái bút chì này dường
như không còn là một vật nguyên vẹn nữa, mà trông cứ như bị cắt làm đôi; khúc xạ
làm cho phần bị chìm dưới nước trông cứ như không gắn với phần nằm trên mặt nước.
Mặc dù đã nghiên cứu về khúc xạ, nhưng Ptolémée vẫn chưa biết các định luật chi
phối ánh sáng khúc xạ . Nhà bác học Arập Alhazen đã đưa ra một lý thuyết về khúc xạ
ánh sáng vào năm 1000, nhưng không phải bằng ngôn ngữ toán học. Tuy nhiên, trực
giác của ông đã tỏ ra đúng đắn. Ông đã cho ánh sáng một vận tốc hữu hạn và thừa nhận
ra rằng vận tốc ánh sáng phụ thuộc vào môi trường mà nó đi qua. Alhazen tách vận tốc
ánh sáng làm hai thành phần: một vuông góc với mặt phân cách giữa hai môi trường
trong suốt, chẳng hạn không khí và nước, và một song song với mặt phân cách ấy; ông
nghĩ rằng thành phần song song của tia sáng chậm hơn thành phần nằm vuông góc khi
ánh sáng đi vào một môi trường chiết quang hơn (như từ không khí vào nước), làm cho
ánh sáng bị lệch về phía pháp tuyến của của mặt phân cách.
Để có cái nhìn tổng quát hơn, các bạn theo dõi tiếp nhé!!!
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
43
II.1.3.3 Ánh sáng đi chậm hơn hay nhanh hơn khi đi
vào một trường chiết quang hơn?
Người đầu tiên thiết lập được công thức toán học về định luật khúc xạ là Kepler. Trong
cuốn Khúc xạ học, Kepler cho rằng tỷ số của góc tới (tức là góc lập bởi tia và pháp
tuyến) và góc khúc xạ là không đổi. Nhưng định luật này chỉ đúng đối với các góc nhỏ.
Phải đợi đến thế kỷ XVI, nhà khoa học người Hà Lan Willibrord Snel (1580-1626) mới
phát hiện ra định luật đúng về khúc xạ: tỷ số của sin góc tới và sin góc khúc xạ là
không đổi, dù góc tới có là thế nào chăng nữa . Định luật khúc xạ được phát hiện sau
khoảng một nghìn năm nghiên cứu này là một trong những định luật đầu tiên của vật lý
học được phát biểu một cách định lượng.
Nhưng nếu Snel biết miêu tả hành trạng của ánh sáng khúc xạ bằng một công thức toán
học, thì ông lại không thể giải thích được nó. Descartes cố gắng tìm ra nguồn gốc của
định luật của Snel bằng cách mượn ý tưởng của Alhazen: chính sự thay đổi vận tốc của
tia sáng khi đi từ môi trường này sang môi trường khác là nguyên nhân của hiện tượng
khúc xạ. Nhưng sơ đồ của ông là ngược với sơ đồ của Alhazen: thay vì phần ánh sáng
song song với mặt phân cách giữa hai môi trường chậm lại so với thành phần vận tốc
thẳng đứng không thay đổi, Descartes lại cho rằng thành phần vận tốc thẳng đứng tăng
lên so với thành phần song song không thay đổi. Ông cho rằng tỷ số sin của góc tới và
sin của góc khúc xạ là không đổi và bằng tỷ số của vận tốc ánh sáng trong nước và vận
tốc ánh sáng trong không khí. Nhưng, bởi vì góc tới lớn hơn góc khúc xạ, nên theo
Descartes, ánh sáng đi trong nước nhanh hơn đi trong không khí. Vận tốc của ánh sáng
tăng khi chuyển từ một môi trường kém chiết quang sang một môi trường chiết quang
hơn: một kết quả chí ít cũng là hoàn toàn phi trực giác !
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
44
Sau này bằng cách mượn lại các quan điểm của Alhazen và Descartes, nhà bác học
người Anh Isaac Newton (1642-1727) đã dùng những suy luận theo thủy động lực học
để đưa ra một sự biện minh sai lầm: các kênh hẹp hơn trong môi trường đặc hơn sẽ
buộc ánh sáng phải đi nhanh hơn, giống như nước chảy nhanh hơn khi chúng ta bóp
nhỏ đường kính của ống ở chỗ nước phun ra. Nhưng lương tri của chúng ta chống lại
sự biện minh đó: nó mách bảo chúng ta rằng một môi trường càng đặc (tức chiết quang
hơn) sẽ cản trở càng mạnh sự truyền của ánh sáng, và ánh sáng càng bị chậm hơn, chứ
không phải ngược lại!
II.1.3.4 Fermat và nguyên lí tiết kiệm của tự nhiên
Quan điểm nào đúng? Ánh sáng đi nhanh hơn hay chậm hơn vào môi trường đặc hơn?
Người đưa ra câu trả lời cuối cùng là Pierre Fermat (1601-1665). Ông bác bỏ định đề
của Descartes theo đó “chuyển động của ánh sáng trong các môi trường đặc hơn là dễ
dàng hơn và nhanh hơn trong các môi trường loãng hơn. Định đề này có vẻ ngược với
ánh sáng tự nhiên.”
Để chứng minh định lí Snel, ông sử dụng nguyên lí mục đích luận của tự nhiên, theo
đó tự nhiên thực hiện mọi việc một cách tiết kiệm và dè sẻn: “chứng minh của chúng
tôi dựa trên một định đề duy nhất nói rằng tự nhiên vận hành bằng các phương tiện và
con đường dễ nhất và thoải mái nhất”-ông viết.
Fernat đã áp dụng nguyên lí này cho hành trạng của ánh sáng: một tia sáng đi từ điểm
này đến điểm khác trong một khoảng thời gian ngắn nhất có thể. Khi kết hợp với hai
nguyên lí khác, nguyên lí vận tốc áng sáng truyền hữu hạn trong không khí hoặc trong
môi trường trong suốt đồng tính, và nguyên lí vận tốc ánh sáng chậm lại trong môi
trường đặc hơn, ông đã giải thích được định luật khúc xạ ánh sáng của Snell.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
45
II.1.3.5 Vấn đề cứu người chết đuối
Nguyên lý tiết kiệm không chỉ áp dụng cho hành trạng của ánh sáng. Nó còn có các hệ
quả khác thực tiễn hơn. Chẳng hạn, vấn đề mà Fermat giải quyết cho đường đi của ánh
sáng cũng là bài toán mà một nhân viên cứu hộ phải giải để cứu một người bơi bất cẩn
đang bị chìm.
Người cứu hộ phải làm thế nào để đến chỗ người chết đuối nhanh nhất có thể. Anh ta
có thể lựa chọn đường đi. Có thể chạy thẳng xuống nước theo hướng vuông góc với bờ
biển và sau đó bơi đến chỗ người bị nạn. Nhưng bơi sẽ mất nhiều thời gian hơn chạy
trên bờ biển, và anh ta có nguy cơ đến muộn. Cũng có thể chạy một khoảng cách dài
nhất có thể trên bờ biển nơi anh ta thấy gần người bị nạn nhất rồi sau đó bơi thẳng
(vuông góc) từ bờ biển đến chỗ người bị nạn. Hoặc cũng có thể đi theo một con đường
nào đó là trung gian giữa hai con đường vừa nêu ở trên. Nguyên lý tiết kiệm nói với
chúng ta rằng đường đi nhanh nhất đối với người cứu hộ là sẽ là một trong số những
con đường trung gian đó.
Các tiến bộ sau này của vật lý đã chứng tỏ rằng Fermat đã đúng và các phê phán đó là
sai lầm. Fermat đã nhận ra một đặc tính chung của tự nhiên bao trùm một loạt các tình
huống và có thể được phát biểu đơn giản và ngắn gọn thế này: tự nhiên hành động tiết
kiệm nhất có thể. Những người sáng tạo ra khoa học về cơ học và chuyển động sẽ
thường gặp trên con đường của mình nguyên lý tiết kiệm này, nguyên lý mà họ đặt tên
là “nguyên lý tác dụng tối thiểu” .
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
46
II.1.3.6 Grimaldi và nhiễu xạ hay tán xạ, phương
thức lan truyền mới của ánh sáng
Như vậy ánh sáng có thể lan truyền theo ba cách khả dĩ: theo đường thẳng, bằng phản
xạ trên một mặt phẳng như gương chẳng hạn, và bằng khúc xạ khi thay đổi môi trường.
Nhưng liệu ánh sáng có chỉ giới hạn trong ba hành trạng này không?
Câu trả lời là không, vì năm 1665, năm Fermat qua đời, là năm công bố di cảo một
chuyên luận dài mang nhan đề Một luận đề siêu hình học và toán học về ánh sáng,
màu sắc và cầu vồng, của một tu sĩ dòng Tên, giáo viên dạy toán ở Bologne (Italia) tên
là Francesco Maria Grimaldi (1618-1663). Trong chuyên luận này, Grimaldi đã thông
báo một phát hiện quan trọng đạt được trong các nghiên cứu tỉ mỉ về bóng của các vật
được chiếu bởi ánh sáng lọc qua các lỗ rất nhỏ. Trên thực tế ông thấy ánh sáng có thể
lan truyền theo một cách khác nữa: “Tôi sẽ chứng tỏ với các bạn một phương thức lan
truyền thứ tư mà tôi gọi là nhiễu xạ, bởi vì ánh sáng bị phân tán, ngay cả trong một môi
trường đồng nhất, ở lân cận một vật cản, thành các nhóm tia khác nhau lan truyền theo
các hướng khác nhau”.
Một ví dụ đơn giản khác, những rất phổ biến, của sự nhiễu xạ xảy ra khi ánh sáng tán
xạ hoặc bị bẻ cong bởi các hạt nhỏ có kích thước vật lí cùng bậc độ lớn với bước sóng
ánh sáng. Một ví dụ tốt là sự trải rộng ra của chùm ánh sáng đèn pha ô tô bởi sương mù
hoặc các hạt bụi mịn. Lượng tán xạ và góc mở rộng của chùm sáng phụ thuộc vào kích
thước và mật độ các hạt gây ra sự nhiễu xạ. Sự tán xạ ánh sáng, một hình thức nhiễu
xạ, cũng là nguyên nhân tạo ra màu xanh của bầu trời và cảnh bình minh và hoàng hôn
thường rực rỡ có thể thấy ở phía chân trời. Nếu như Trái Đất không có bầu khí quyển
(không có không khí, nước, bụi và các mảnh vụn) thì bầu trời sẽ có màu đen, kể cả vào
ban ngày. Khi ánh sáng từ Mặt Trời truyền qua bầu khí quyển của Trái Đất, những khối
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
47
phân tử không khí riêng biệt có mật độ biến thiên, do các dao động nhiệt và sự có mặt
của hơi nước, sẽ làm tán xạ ánh sáng. Những bước sóng ngắn nhất (tím và xanh dương)
bị tán xạ nhiều nhất, làm cho bầu trời có màu xanh thẩm. Khi có một lượng đáng kể bụi
hoặc hơi ẩm trong không khí, thì các bước sóng dài (chủ yếu là màu đỏ) cũng bị tán xạ
cùng với bước sóng xanh dương, làm cho bầu trời xanh trong có vẻ trắng hơn.
Khi Mặt Trời ở trên cao (khoảng giữa trưa) trong bầu khí quyển khô, trong trẻo, đa số
ánh sáng khả kiến truyền qua bầu khí quyển không bị tán xạ đáng kể, và Mặt Trời có
vẻ như trắng trên nền trời xanh thẩm. Khi Mặt Trời bắt đầu lặn, sóng ánh sáng phải
truyền qua lượng nhiều hơn của bầu khí quyển, thường chứa một số lượng lớn các hạt
bụi lơ lửng và hơi ẩm. Dưới những điều kiện này, những bước sóng dài hơn của ánh
sáng trở nên bị tán xạ và những màu khác bắt đầu lấn át màu của Mặt Trời, biến đổi từ
vàng sang cam, cuối cùng chuyển sang đỏ trước khi nó lặn khuất dưới đường chân trời.
Chúng ta có thể thường thấy những sắc thái xanh dương, hồng, tía và xanh lá ở các
đám mây, phát sinh bởi sự kết hợp của các hiệu ứng khi ánh sáng bị khúc xạ và nhiễu
xạ từ những giọt nước trong các đám mây đó. Lượng nhiễu xạ phụ thuộc vào bước
sóng ánh sáng, bước sóng càng ngắn bị nhiễu xạ ở góc càng lớn so với bước sóng dài
(trong thực tế, ánh sáng xanh dương và tím bị nhiễu xạ ở góc lớn hơn so với ánh sáng
đỏ). Thuật ngữ nhiễu xạ và tán xạ cũng thường được dùng hoán đổi nhau và có thể xem
gần như là tương đương trong nhiều trường hợp. Sự nhiễu xạ mô tả một trường hợp
đặc biệt của sự tán xạ ánh sáng trong đó một vật có các đặc trưng lặp lại đều đặn (ví dụ
như vật tuần hoàn hoặc cách tử nhiễu xạ) tạo ra hình ảnh nhiễu xạ có trật tự. Trong thế
giới thực, đa số các vật có hình dạng rất phức tạp và phải được xem là gồm nhiều đặc
trưng nhiễu xạ riêng rẽ có thể cùng tạo ra một sự tán xạ ánh sáng ngẫu nhiên.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
48
Vậy là chúng ta kết luận: Trong môi môi trường đồng tính, ánh sáng truyền thẳng, khi
gặp một vật cản (môi trường khác), ánh sáng sẽ bị tán xạ. Và trong một số trường hợp
đặc biệt (bề mặt vật cản nhẵn, chẳng hạn), ta có hiện tượng phản xạ, hoặc khúc xạ,
hoặc nhiễu xạ.
Bây giờ ta thử lí giải điều trên dựa vào những hiểu biết Vật Lí sau đây:
Một điện tích bất kì chuyển động có gia tốc (dao động chẳng hạn) thì bức xạ sóng điện
từ. Sự bức xạ càng mạnh nếu gia tốc càng lớn. Mỗi khi sóng điện từ tràn tới điểm nào
của môi trường thì sóng điện từ tạo nên ở điểm đó một trường điện từ biến thiên. Từ
các điện tích dao động với cùng tần số, các sóng hợp thành sao cho tại các điểm này
chúng có thể tăng cường lẫn nhau, còn ở các điểm khác thì dập tắt lẫn nhau (hiện tượng
giao thoa).
Ánh sáng là sóng điện từ. Khi ánh sáng đi qua một môi trường thuần nhất (đồng tính)
thì trường biến thiên của nó kích thích các electron trong nguyên tử chất của môi
trường dao động, và các electron bắt đầu tự bức xạ sóng điện từ có cùng tần số ấy. tuy
nhiên, như kết quả tính toán chứng tỏ, bức xạ của chúng dập tắt lẫn nhau theo tất cả
mọi phương ngoại trừ phuông truyền ánh sáng. Trong môi trường thuần nhất lí tưởng,
chúng ta tuyệt nhiên không nhín thấy ánh sáng tán xạ nào cả.
Nếu môi trường thiếu đồng tính thì tình hình lại khác. Các tạp chất có mặt đã tạo nên
những điều kiện hoàn toàn khác trong việc cộng các sóng thứ cấp và khiến cho ánh ánh
sáng tán xạ theo các phương khác nhau.
Nếu các tạp chất có kích thước không lớn (bé hơn nhiều so với bước sóng của ánh sáng
tới) thì sự tán xạ ánh sáng tuân theo định luật J.Rayleigh: cường độ của ánh sáng tán
xạ tỉ lệ nghích với lũy thừa bậc bốn của bước sóng, tức là tỉ lệ thuận với lũy thứa bậc
bốn của tần số.
Vấn đề thứ tư, tôi muốn các bạn cùng tôi khám phá thế giới đa sắc màu này!
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
49
II.1.3.7 Khám phá thế giới đa sắc màu
Có khi nào ta tự hỏi, nếu như ta có thể làm công việc là
liệt kê tất cả các màu mà mắt ta có thể cảm nhận được,
thì con số cuối cùng là bao nhiêu? (công việc này gần
giống như bạn hãy thử giúp tôi phân biệt ranh giới
giữa màu “hồng phấn” và màu “hồng nhạt”), nếu như
có một tiêu chuẩn nào để phân chia ranh giới rõ ràng giữa các màu thì khi đó ắt hẳn
bạn và tôi sẽ lập được một bảng dài kỉ lục về tất cả màu sắc đó.
Quan sát hình trên, hãy thử nói xem củ hành có màu gì???
Màu sắc là cảm giác mang đến cho hệ thần kinh của người từ sự kết hợp tín hiệu của ba
loại tế bào cảm thụ màu ở mắt người. Cảm giác này cũng bị ảnh hưởng "dài hạn" từ trí
nhớ lưu lại quá trình học hỏi từ khi lớn lên trong xã hội, và "ngắn hạn" bởi các hiệu
ứng ánh sáng của phông nền.
Màu sắc của một tia ánh sáng là cảm giác màu mà tia sáng đó gây nên ở mắt người.
Màu sắc của các vật thể là màu sắc của ánh sáng xuất phát từ chúng. Khi ta nhìn thấy
các màu là thực ra ta nhìn thấy hiệu ứng của ánh sáng chiếu rọi vào mắt. Khi ánh sáng
chiếu vào một vật, nó có thể bị vật đó phản xạ, hấp thụ hoặc cho đi qua. Những vật
phản xã tất cả ánh sáng chiếu vào nó sẽ được nhìn thấy có màu trắng, còn những vật
hấp thụ tất cả những ánh sáng chiếu tới thì có màu đen. Phần lớn các vật thể nhìn thấy
có màu sắc là do cấu trúc hóa học của nó hấp thụ một số bước sóng ánh sáng và phản
xạ những bước sóng khác. Những vật trong suốt có màu là do chúng cho đi qua những
tia sáng màu tương ứng.
Với mắt người: Các dao động của điện trường trong ánh sáng tác động mạnh đến các
tế bào cảm thụ ánh sáng trong mắt người. Có 3 loại tế bào cảm thụ ánh sáng trong mắt
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
50
người, cảm nhận 3 vùng quang phổ khác nhau (tức ba màu sắc khác nhau), đó là màu
đỏ, xanh lục và xanh lam. Sự kết hợp cùng lúc 3 tín hiệu từ 3 loại tế bào này tạo nên
những cảm giác màu sắc phong phú.
Độ hấp thụ ánh sáng theo bước sóng của ba tế bào thần kinh hình nón (các đường
màu) và của tế bào cảm thụ ánh sáng yếu (đường gạch) ở mắt người
Tế bào cảm giác màu đỏ và màu lục có phổ hấp thụ rất gần nhau, do vậy mắt người
phân biệt được rất nhiều màu nằm giữa màu đỏ và lục (màu vàng, màu da cam, xanh
nõn chuối, ...). Tế bào cảm giác màu lục và màu lam có phổ hấp thụ nằm xa nhau, nên
mắt người phân biệt về các màu xanh không tốt. Trong tiếng Việt, từ "xanh" đôi khi
hơi mơ hồ - vừa mang nghĩa xanh lục vừa mang nghĩa xanh lam.
Với mắt các sinh vật
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
51
Cường độ sáng theo bước sóng của bức xạ điện từ Mặt Trời ngay ngoài khí quyển Trái
Đất
Các sinh vật khác, con người có thể cảm thụ được nhiều màu hơn (chim cảm thụ được
4 màu gốc) hoặc ít màu hơn (bò cảm thụ được 2 màu gốc) và ở những vùng quang phổ
khác (ong cảm nhận được vùng tử ngoại).
Hầu hết mắt của các sinh vật nhạy cảm với bức xạ điện từ có bước sóng nằm trong
khoảng từ 300 nm đến 1200 nm. Khoảng bước sóng này trùng khớp với vùng phát xạ
có cường độ mạnh nhất của Mặt Trời. Như vậy có thể suy luận là việc các loài vật trên
Trái Đất đã tiến hoá để thu nhận vùng bức xạ tự nhiên mạnh nhất đem lại lợi thế sinh
tồn cho chúng. Không hề ngẫu nhiên mà bước sóng ánh sáng (vùng quang phổ mắt
người nhìn được) cũng trùng vào khu vực bức xạ mạnh này
Sự nhìn thấy màu sắc:
Tất cả các vật nhìn thấy được đều tỏa ra ánh sáng bằng một trong hai cách. Một số vật
thể là nguồn sáng, có nghĩa là chúng thực sự sinh ra ánh sáng, chẳng hạn một cái bóng
đèn chớp, sử dụng điện năng để đốt nóng dây tóc đèn, nếu chiếu đèn này vào tường,
bức tường cũng tỏa sáng. Chẳng qua bức tường cũng chỉ phản xạ ánh sáng đã được tạo
ra từ trước.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
52
Một màu sắc mà ta nhìn thấy đều do tác dụng tổng hợp (hòa trộn) lên mắt ta của các
ánh sáng đơn sắc (màu) khác nhau với cường độ khác nhau. Nói cách khác, mọi màu
sắc ta nhìn thấy đều do sự “trộn màu” mà có.
Người ta phân biệt sự trộn màu ánh sáng (còn gọi là trộn màu cộng) và trộn màu sắc tố
(hay trộn màu trừ)
Trộn màu cộng:
Theo lí thuyết ba màu sơ cấp (hay ba màu cơ bản) của Y-
âng, mọi ánh sáng đều được tạo thành từ ba màu ánh sáng
sơ cấp: đỏ, lục và xanh lam. Tùy theo tỉ lệ giữa ba thành
phần cơ bản này mà có thể tạo ra các ánh sáng màu khác
nhau.
Nếu trộn lẫn (“cộng”) hai màu sơ cấp với nhau thì ta được một màu thứ cấp. Sở dĩ có
tên gọi đó, vì nó là sản phẩm tạo nên từ hai màu sơ cấp. Chẳng hạn, ánh sáng đỏ trộn
với ánh sáng lục, cho ta ánh sáng thứ cấp vàng. Ánh sáng đỏ trộn với ánh sáng lam cho
ra ánh sáng thứ cấp đỏ thẫm. Cuối cùng, ánh sáng xanh thẫm là ánh sáng thứ cấp của
lục trộn với lam. Ví dụ, ánh sáng vàng là màu phụ của ánh sáng lam, xanh thẫm là màu
phụ của đỏ, đỏ thẫm là màu phụ của lục. Và dĩ nhiên, mỗi cặp màu phụ hòa trộn lẫn
nhau thì cho ra ánh sáng trắng.
Trừ màu
Khác với trộn màu ánh sáng, sự trộn màu sắc tố chỉ xảy ra khi kết hợp các thuốc màu,
các sắc tố hoặc các vật thể khác hấp thụ và phản xạ ánh sáng. Các sắc tố (các chất màu)
cơ bản khi trộn lẫn từng đôi một cũng tạo ra các chất màu thứ cấp. Nhưng khác với
trộn màu ánh sáng, sắc tố đỏ thẫm là hỗn hợp màu phản xạ các tia đỏ và lam và hấp thụ
tia sáng lục. Thuốc màu xanh thẫm thì hấp thụ tia sáng đỏ và phản xạ các tia lục và
lam; thuốc màu vàng phản xạ các tia đỏ và lục, hấp thụ tia sáng lam.
Trong hàng ngàn năm, người ta luôn tìm kiếm các chất trừ màu hữu hiệu. Chúng được
sử dụng trong các thuốc nhuộm, sơn, màu mực,… Tất cả các chất này tạo ra cho thế
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
53
giới của chúng ta thêm sặc sỡ, không phải bằng cách thêm màu mà bằng cách lấy bớt
màu đi.
Các màu sót lại
Khi ba màu cơ bản của quang phổ được kết hợp
với nhau từng đôi một, chúng tạo ra ba màu thứ
cấp. Các bạn đang nhìn thấy điều gì xảy ra khi
các màu thứ cấp: lục lam, vàng và đỏ tía được
ánh sáng trắng rọi sáng. Mỗi hình khối màu đều
lấy đi hoặc “trừ” đúng một màu cơ bản trong
ánh sáng trắng. Màu nhìn thấy được hình thành
do bộ não công các màu còn sót lại. Khi hai
màu thứ cấp chống lên nhau thì chúng trừ lẫn
nhau, để lại một màu cơ bản: đỏ, xanh lục hoặc xanh lam. Ở phần giữa, khi ba khối
màu chồng lên nhau, tất cả các màu cơ bản đều bị lấy khỏi ánh sáng trắng, như vậy
chẳng còn màu nào sót lại: đó là màu đen. Màu trắng không thể được hình thành bằng
việc trừ màu. Đó là lí do tại sao các thuốc, sơn mực,…không thể hòa lẫn để tạo ra màu
trắng.
Như vậy, bạn và tôi vừa giải quyết xong bốn vấn đề cơ bản giúp ta có cái nhìn
tổng quát về ánh sáng và thị giác. Không chỉ là cố gắng giải thích, hãy cùng chúng
tôi ngắm nhìn và thưởng thức cảnh sắc của tự nhiên tươi đẹp này nhé!
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
54
II.2 Nào ta cùng khám phá thế giới tươi đẹp
này nhé!
Ánh sáng là tác giả của nhiều cảnh tượng tự nhiên vô cùng đẹp đẽ làm dịu lòng ta và an
ủi tâm hồn ta thông qua trò chơi của nó với những giọt nước nhỏ, với các phân tử
không khí và tinh thể băng, khi nảy trên bề mặt của các hạt bụi, cây cối và núi non; khi
phản xạ trên mặt nước biển và ao hồ hay len lỏi trong các đám mây và sương mù.
II.2.1 Cầu vồng
Một trong những cảnh tượng tuyệt
diệu nhất của tự nhiên, và cũng là
ngắn ngủi nhất, đó chính là cầu
vòng, cái vòng đa sắc xuất hiện
giữa các giọt nước mưa ở cuối cơn
giông. Một vòng cung có kích
thước khổng lồ, màu sắc hài hòa và
hình dạng hoàn hảo khiến ai cũng
phải kinh ngạc, thậm chí sùng bái.
Các đặc tính làm nên vinh quang của cầu vòng không chỉ là nó có kích thước đầy ấn
tượng và vẻ đẹp lộng lẫy, mà còn là vì nó rất hiếm khi xuất hiện, hơn thế nữa lại sinh ra
và biến mất hết sức đột ngột. Sau một trận mưa rào, khi Mặt Trời xuất hiện trở lại, bạn
hãy quay đầu thật nhanh về phía đối diện với Mặt Trời, vì cầu vòng chỉ xuất hiện theo
hướng đó. Mặt trời và nước mưa phải tồn tại song song trong bầu trời thì cầu vòng mới
có thể xuất hiện. Trong một cơn giông
mùa hè, cầu vòng dễ xuất hiện hơn, vì bầu
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
55
trời xanh được mặt trời chiếu sáng có thể ló ra qua các đám mây, trong khi vào mùa
đông, trời thường tối và bị mây mù bao phủ. Nhưng không phải lúc nào có cả Mặt Trời
và mưa thì cầu vồng cũng đều xuất hiện, vì các nhân tố khác có thể xen vào.
Độ dày của cầu vòng lớn hơn kích thước góc của Mặt Trăng tròn khoảng 4 lần, tức
khoàng 2 độ. Các đầu mút của nó tạo thành với vị trí bạn đang đứng quan sát một góc
gần 900. Vòng cung luôn luôn tròn một cách hoàn hảo, nhưng ngay cả khi ngắm nó từ
chân trời, qua cửa sổ máy bay chẳng hạn, thì cũng không bao giờ thấy nó là một vòng
tròn trọn vẹn, một phần của nó luôn bị che khuất dưới chân trời. Bán kính góc của cung
luôn là 420, không bao giờ thay đổi.
Hãy tưởng tượng nối tâm của vòng cung cầu
vòng (được gọi là điểm đối nhật) với mắt bạn
và Mặt Trời bằng một đường thằng, thì đường
thẳng này sẽ xuyên qua mặt đất, vì tâm của
cung cầu vồng thường nằm dưới đường chân
trời. Điều này có nghĩa là vào cuối ngày, do sự
thẳng hang của Mặt Trời - mắt - tâm, nên Mặt
Trời càng xuống phía chân trời thì cung và tâm
của nó càng đi lên gần đường chân trời, cầu
vóng vì thế sẽ có hình bán nguyệt đúng vào lúc Mặt Trời lặn xuống dưới đường chân
trời. Trái lại, điều này cũng có nghĩa là Mặt Trời đi lên hơn 420 trên đường chân trời,
thì cầu vòng sẽ biến mất hoàn toàn dưới đường chân trời và ta sẽ không nhìn thấy nữa.
Như vậy khả năng quan sát được cầu vòng phụ thuộc vào độ cao của Mặt Trời trên
bầu trời, và do đó phụ thuộc vào thời điểm trong ngày. Bạn sẽ có nhiều cơ hội ngắm
cầu vòng hơn vào đầu buổi sáng hoặc cuối buổi chiều: Mặt Trời ở những thời điểm đó
nằm thấp nhất trên bầu trời, điểm đối nhật nằm ngay sát chân trời và một nửa vòng
cung nằm hoàn toàn bên trên chân trời. Vị trí của Mặt Trời trên bầu trời còn phụ thuộc
vào vĩ độ nơi quan sát, và vào mùa. Ở một giờ nhất định trong ngày, Mặt Trời vào mủa
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
56
đông thấp hơn vào mùa hè. Ở các vĩ độ cao, vào mùa hè, Mặt Trời lên cao hơn trên bầu
trời so với tại các vùng vĩ độ thấp; điều ngược lại xảy ra vào mùa đông. Chính vì thế, ở
vĩ độ của chúng ta, không một ai nhìn được cầu vồng vào giữa ngày mùa hè, khi Mặt
Trời lên cao nhất trên bầu trời, tức là có độ cao góc lớn hơn 420.
Một đặc tính quan trọng của cầu vồng, đó là lễ hội các màu sắc mà nó mang lại cho
chúng ta. Trật tự các màu này không bao giờ thay đổi: đỏ luôn nằm ở mép trên, đỉnh
của vòng cung; rồi sau đó lần lượt từ cao xuống thấp, có da cam, vàng, lục lam, chàm
và tím ở mép dưới. Trên thực tế , các màu không bao giờ thay đổi đột ngột, mà dần
dần, xen vào nhau hết sức tinh tế. Thỉnh thoảng cũng xuất hiện một vòng thứ cấp đi
kèm với vòng cung chính; nó mờ hơn và ở độ cao hơn trên bầu trời, nhưng các màu thì
được sắp xếp theo trật tự ngược lại: màu tím ở mép trên và màu đỏ ở mép dưới. Bán
kính góc của vòng cung thứ cấp này lớn hơn bán kính góc của vòng cung chính và
vòng cung thứ cấp tối hơn vòng tròn xung quanh.
Cầu vồng không phải là một vật thể, mà là kết quả của một trò chơi ánh sáng thay đổi
theo vị trí của người quan sát. Do tính phi vật thể của nó, nên cung hoàn hảo và sự đối
xứng của cầu vòng không bao giờ bị ành hưởng. Bạn cũng sẽ không bao giờ nhìn thấy
nó soi bóng xuống nước hồ, cũng chẳng bao giờ thấy trong gương. Cầu vồng như một
bóng ma thoắt ẩn, thoắt hiện trong không trung. Nó chỉ là sản phẩm của ánh sang đến
từ đằng sau chúng ta, bởi vì nó sẽ đổi khác khi chúng ta di chuyển, nên chúng ta không
bao giờ có thể bắt hay sờ mó được nó.
Đã có rất nhiều nhà khoa học tìm cách giải thích về hiện tượng cầu vồng:
Aristote (384-332 TCN) là người đầu tiên thực hiện ý tưởng này trong tác phẩm Khí
tượng học. ông ý thức được rằng cầu vồng không thể là một vật thể có một vị trí nhất
định trên bầu trời, mà là kết quả của một trò chơi ánh sang phụ thuộc vào hướng nhìn.
Năm 1266, triết gia và nhà bác học người Anh Roger Bacon (1220-1292) là người đầu
tiên đo được bán kính góc 420 của vòng cung chính của cầu vồng.
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
57
Théodoric de Freiberg ( 1250-1310), dựa vào kết quả thực nghiệm với một quả cầu
thủy tinh chứa đầy nước mô phổng một giọt nước, đã chừng tỏ rằng cung chính của cầu
vòng là sản phẩm của các tia sáng đi vào giọt nước và chịu sự khúc xạ đầu tiên khi ánh
sáng từ không khí đi vào giọt nước, phản xạ tại thành trong của giọt nước, rồi khúc xạ
lần thứ hai khi ánh sáng từ giọt nước đi ra ngoài. Ông cũng đưa ra giải thích về vòng
cung thứ cấp: vòng cung này là sản phẩm của không phải một mà là hai phản xạ liên
tiếp của ánh sáng ở thành trong của giọt nước. Vì một phần ánh sáng bị mất đi sau mội
lần phản xạ, nên cung thứ cấp mờ hơn cung chính.
Năm 1637, Rene Descartes (1596-1650) với công bố phát hiện về cầu vồng của mình
trong cuốn Luận về sao băng, đã thêm vào một đóng góp quan trọng: Dựa trên các định
luật khúc luật khúc xạ ánh sáng, ông đã chứng minh được rằng phần lớn các tia sáng
Mặt Trời thoát ra từ các giọt nước mưa là nguyên nhân gây nên vòng cung chính, sau
một lần phản xạ và hai lần khúc xạ theo một hướng yêu thích, với một góc khoảng 420.
Lần đấu tiên, một giải thích đã được đưa ra cho bán kính góc của vòng cung chính.
Descartes còn đi xa hơn: ông cũng suy nghĩ tới vấn đề vòng cung thứ cấp. Ông chứng
minh rằng, nếu ngoài hai khúc xạ trong hai lần đi vào và đi ra khỏi giọt nước, các tia
sáng còn phải chịu hai lần phản xạ, thì chúng lại đi ra theo một hướng ưa thích khoảng
510, giá trị quan sát được của bán kính góc của vòng cung thứ cấp.
Năm 1666, thiên tài Issac Newton (1642-1727) đã dùng một lăng kính phân tích ánh
sáng trắng của Mặt Trời thành các màu cầu vồng, ông cũng đã không chỉ chứng minh
rằng, ánh sáng trắng là một hỗn hợp của các màu, mà còn chứng minh rằng, chiết suất
của một lăng kính (hay của một giọt nước) là khác nhau đối với các màu khác nhau:
ánh sáng bị lệch hướng khác nhau tùy theo màu (hay bước sóng) của nó, một hiện
tượng mà các nhà Vật Lí học gọi là “tán sắc”. Bởi vì áng sáng bị tán sắc, nên mỗi một
thành phần màu cho ra một vòng cung hơi khác. Như vậy, cái mà chùng ta tin là một
và chỉ một thực thể “cầu vồng” duy nhất thật ra là một tập hợp các vòng cung màu
khác nhau, vòng cung màu này hơi xê dịch đôi chút so với vòng cung màu kia. Bán
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
58
kính góc của vòng cung chính và vòng cung thứ cấp vì vậy biến thiên nhẹ theo màu sắc
của ánh sáng. Như vậy, đối với ánh sáng đỏ và có bước sóng 800nm, góc là 42,6o đối
với vòng cung chính và là 49.920 đối với vòng cung thứ cấp. Đối với ánh sáng tím có
bước sóng 400nm, các góc này trở thành lần lượt 40.510 và 53.730. Độ lớn của các góc
đối với các vòng cung chính (cỡ 20) và của vòng cung thứ cấp (khoảng 40) không gì
khác chính là hiệu các góc lệch của các màu đỏ và tím.
Phải đợi đến Thomas Young (1773-1829), với quan điểm ánh sáng là sóng (1803), thì
cuối cùng vấn đề hóc búa về các cung phụ của cầu vồng mới được làm sáng tỏ.
II.2.2 Tại sao bầu trời lại xanh?
Câu hỏi bề ngoài có vẻ ngây thơ này, loại câu hỏi mà con trẻ thường đặt ra cho bố mẹ
chúng và làm cho họ bực mình vì không biết trả lời như thế nào, lại là một câu hỏi phát
lộ chân lí.
Câu trả lời chính là do sự tán xạ ánh sáng Mặt Trời, nghĩa là quá trình làm cho một tia
tới của Mặt Trời phân tán theo tất cả các hướng khả dĩ, là nguyên nhân làm cho bầu
trời có màu xanh lam. Và các hạt vật chất trong
không khí có thể làm tán xạ ánh sáng và cho
chúng ta một bầu trời màu xanh là các phân tử
không khí. Trên thực tế, các phân tử không khí
thích tán xạ ánh sáng, và chúng đặc biệt thích
ánh sáng màu xanh lam. Bước sóng của ánh
sáng càng ngắn, nghĩa là nó càng xanh lam, thì
cơ hội nó được tán xạ càng cao, bởi vì xác suất để mọi photon của ánh sáng Mặt trời bị
tán xạ bởi một phân tử không khí tỉ lệ nghịch với lũy thừa bậc bốn của bước sóng của
nó (một hạt ánh sáng xanh lam có cơ hội được tán xạ lớn hơn ánh sáng màu đỏ gấp 10
lần). Như vậy khi chúng ta nhìn theo bất kì hướng nào của bầu trời, ngoại trừ trực tiếp
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
59
theo hướng Mặt Trời, cơ hội để một photon Mặt Trời màu xanh lam tới mắt của bạn
cao hơn một photon đỏ. Và chính vì thế mà bầu trời có màu xanh lam. Còn về các
photon Mặt Trời đỏ và vàng, vì ít bị tán xạ, nên chúng đến mắt chúng ta chủ yếu theo
hướng Mặt Trời. Tuy vậy, Mặt Trời hơi có màu đỏ vì sự tán xạ củng lấy đi mất các
photon Mặt Trời màu xanh lam trong đường ngắm tới Mặt Trời.
Và bầu trời ở gần chân trời sáng hơn ở trên đỉnh đầu chúng ta, ngay cả vào một ngày
bầu trời rất trong. Chính lượng không khí mà ánh sáng Mặt Trời phải đi qua để đến mắt
chúng ta là nguyên nhân của điều đó: trục nhìn của chúng ta đi qua một khối không khí
lớn hơn nhiều khi chúng ta nhìn ngang qua đường chân trời so với khi nhìn thẳng đứng
lên cao. Xa chân trời, đường nhìn của chúng ta đi qua một lớp không khí mỏng hơn, có
ít phân tử không khí hơn, ánh sáng Mặt Trời trung bình chỉ bị tán xạ một lần, và bâu
trời có màu xanh lam. Ngược lại, gần chân trời, đường nhìn của chúng ta đi qua một
lớp không khí dày hơn, có nhiều phân tử không khí hơn, và các phân từ này tán xạ ánh
sáng không chỉ một lần, mà nhiều lần. Đúng là photon lam có nhiều cơ hội tán xạ hơn
photon đỏ; nhưng do ánh sáng phải đi qua rất nhiều phân tử không khí, nên tất cả các
photon, dù chúng có màu gì, sớm hay muộn đều phải gặp một phân tử, và đường đi của
chúng bị lệch hướng. Vì thế các photon thuộc tất cả các màu đều bị tán xạ và phát trở
lại rất nhiều lần trước khi đến mắt chúng ta, tới mức chúng hòa trộn vài nhau một cách
hoàn hảo. chính vì thế da trời gần chân trời có cùng màu với Mặt trời: màu trắng.
II.2.3 Tại sao núi lại xanh?
Tại sao ta thấy các núi ở xa có màu
xanh lam?. Được rừng bao phủ, lẻ ra
chúng phải có màu lục chứ. Sở dĩ
nhìn từ xa chúng ta thấy chúng có
GVHD: Lê Văn Hoàng
GIẢI MÃ NHỮNG BÍ MẬT VỀ ÁNH SÁNG
60
màu xanh lam chứ không phải màu xanh lục, một lần nữa , lại là do các phân tử không
khí nằm giữa chúng ta và dãy núi làm tán xạ ánh sáng Mặt Trời. Ngoài ánh sáng phản
chiếu từ dãy núi, chúng ta còn thấy “ánh sáng của không khí”. Bởi vì các photon lam
có nhiều cơ hội được tán xạ hơn photon đỏ, nên ánh sáng này của không khí có màu
lam và sinh ra một tấm voan màu lam giữa núi và chúng ta. Lượng ánh sáng của không
khí phụ thuộc vào khoảng cách giữa chúng ta và núi. Khi một trong các dãy núi này
tương đối gần, thì ánh sáng Mặt Trời bị nó phản chiếu đến mắt chúng ta dễ dàng., và
chúng ta thấy nó qua
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom23_871.pdf