Đề tài Giá trị văn hoá của người Khmer trong định hướng phát triển du lịch tỉnh Trà Vinh 2009

Tài liệu Đề tài Giá trị văn hoá của người Khmer trong định hướng phát triển du lịch tỉnh Trà Vinh 2009: PHẦN 1. LỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Đồng bào Khmer Nam Bộ có nền văn hóa truyền thống mang đậm màu sắc bản địa và tôn giáo. Trong suốt quá trình phát triển của cộng đồng các dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long nền văn hóa Khmer đã giao hoà, gắn kết với các nền văn hóa khác, góp phần hình thành nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc. Trà Vinh là một trong hai tỉnh ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long có đông đồng bào dân tộc Khmer - sau tỉnh Sóc Trăng. Tuy là vùng đất trẻ nhưng Trà Vinh có kho tàng văn hoá đa dạng, đặc biệt là văn hoá vật thể và phi vật thể của người Khmer nên rất thích hợp để phát triển theo định hướng du lịch văn hoá. Nhận định từ thực tế như vậy, qua đề cương này, tôi chọn đề tài “Giá trị văn hoá của người Khmer trong định hướng phát triển du lịch tỉnh Trà Vinh” nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu với mong muốn trang bị thêm kiến thức nghề nghiệp tương lai của sinh viên ngành Văn hoá du lịch, song song với mong muốn đưa bản sắc dân tộc Khmer vào đ...

doc75 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Giá trị văn hoá của người Khmer trong định hướng phát triển du lịch tỉnh Trà Vinh 2009, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1. LỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Đồng bào Khmer Nam Bộ có nền văn hóa truyền thống mang đậm màu sắc bản địa và tôn giáo. Trong suốt quá trình phát triển của cộng đồng các dân tộc ở đồng bằng sông Cửu Long nền văn hóa Khmer đã giao hoà, gắn kết với các nền văn hóa khác, góp phần hình thành nền văn hóa Việt Nam phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc. Trà Vinh là một trong hai tỉnh ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long có đông đồng bào dân tộc Khmer - sau tỉnh Sóc Trăng. Tuy là vùng đất trẻ nhưng Trà Vinh có kho tàng văn hoá đa dạng, đặc biệt là văn hoá vật thể và phi vật thể của người Khmer nên rất thích hợp để phát triển theo định hướng du lịch văn hoá. Nhận định từ thực tế như vậy, qua đề cương này, tôi chọn đề tài “Giá trị văn hoá của người Khmer trong định hướng phát triển du lịch tỉnh Trà Vinh” nhằm đáp ứng nhu cầu tìm hiểu với mong muốn trang bị thêm kiến thức nghề nghiệp tương lai của sinh viên ngành Văn hoá du lịch, song song với mong muốn đưa bản sắc dân tộc Khmer vào định hướng phát triển du lịch ở tỉnh Trà Vinh cũng như loại hình du lịch văn hoá cho Việt Nam. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nhiên cứu Qua nghiên cứu, chúng ta có thể phần nào góp công trong hoạt động duy trì và phát huy giá trị văn hoá truyền thống của người Khmer tạo sản phẩm đa dạng để đưa vào phát triển loại hình du lịch văn hoá và từ đó có thể giới thiệu văn hoá Khmer đến người dân trong nước cũng như bạn bè quốc tế. Cụ thể trong đề cương này là khai thác điểm riêng biệt tiềm năng để đưa vào định hướng phát triển du lịch cho tỉnh Trà Vinh. Nhiệm vụ nghiên cứu Nêu được những giá trị văn hoá tiêu biểu của người Khmer ở tỉnh Trà Vinh. Tình hình khai thác các giá trị văn hoá tiêu biểu của người Khmer ở tỉnh Trà Vinh. Đưa ra những đề xuất, kiến nghị. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng: nét văn hoá của người Khmer ở tỉnh Trà Vinh. Phạm vi không gian: tại tỉnh Trà Vinh. Phạm vi thời gian: từ năm 2005 đến nay. Phương pháp và quan điểm nghiên cứu Phương pháp: Phân tích và tổng hợp lý thuyết Quan sát, tham dự Chụp ảnh Phân tích và tổng hợp từ kinh nghiệm, từ thực tế kết hợp lý thuyết Quan điểm: phát triển du lịch bền vững Lược sử nghiên cứu vấn đề: Sách “Phong tục và nghi lễ vòng đời người Khmer Nam Bộ” của tác giả Trần Văn Bổn. Sách “Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch” của tác giả Dương Văn Sáu (2004), Đại học Văn Hóa Hà Nội Bố cục: gồm 3 chương CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ VĂN HOÁ Chương này tập hợp các khái niệm về du lịch và văn hoá để làm cơ sở lý luận cho bài tiểu luận CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI KHMER Ở TỈNH TRÀ VINH TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Chương 2 nêu tổng quan về tỉnh Trà Vinh và người Khmer; đề cập đến những giá trị văn hoá của người Khmer ở tỉnh Trà Vinh, những kết quả và hạn chế của các giá trị văn hoá Khmer tiêu biểu đã được khai thác du lịch ở tỉnh. CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG, ĐỀ XUẤT PHÁT TRIỂN Chương 3 nêu ra những định hướng và những kiến nghị, đề xuất đối với việc đưa giá trị văn hoá của người Khmer vào phát triển du lịch ở tỉnh Trà Vinh. CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VÀ VĂN HOÁ Các khái niệm, định nghĩa Du lịch Du lịch: Theo IUOTO (International Union of Official Travel Organization): Du lịch là một hành động du hành đến một nơi khác với địa điểm cư trú thường xuyên của mình nhằm mục đích không phải làm ăn, sinh sống. Theo Hội Nghị Liên Hiệp Quốc về du lịch tại Ý (21/08 – 05/09/1963): Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi ở thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hoà bình. Theo kinh tế học: Du lịch là một ngành kinh tế, dịch vụ có nhiệm vụ phục vụ cho nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ ngơi, có hoặc không kết hợp với các hoạt động chữa bệnh, thể thao, nghiên cứu khoa học và các nhu cầu khác. Theo Bộ luật Du lịch Việt Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/2006: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, tìm hiểu, nghỉ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định. Du lịch văn hoá Theo Luật Du lịch Việt Nam năm 2005 tại Khoản 1, Điều 4, Chương I có ghi: “Du lịch văn hoá là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống”. Du lịch văn hoá là một trong những lại hình du lịch bền vững, hấp dẫn du khách, có nhiều điều kiện, nguồn lực để phát triển, được quan tâm đầu tư phát triển ở nhiều nước cũng như ở Việt Nam. Du lịch văn hoá là một sản phẩm du lịch sử dụng những giá trị văn hoá dậm đà bản sắc của địa phương, thông qua các vật dẫn hoặc phương thức biểu đạt, cung cấp cho du khách cơ hội để chiêm ngưỡng, thử nghiệm và cảm thụ văn hoá của các địa phương. Vật hấp dẫn bao gồm các công trình kiến trúc mỹ thuật, các di tích lịch sử, hoạt động tôn giáo, nghi thức xã hội đặc thù, đồ ăn, thức uống, biểu diễn âm nhạc kịch, vũ điệu địa phương, nghệ thuật sản xuất thủ công truyền thống và làng nghề, lễ hội, phong tục tập quán. Phát triển du lịch bền vững là quá trình điều hành quản lý các hoạt động du lịch với mục đích xác định và tăng cường các nguồn hấp dẫn du khách tới các vùng và các quốc gia du lịch. Quá trình quản lý này luôn hướng tới việc hạn chế lợi ích trước mắt để đạt được lợi ích lâu dài do các hoạt động du lịch đưa lại. Phát triển du lịch bền vững phải đảm bảo và thỏa mãn 3 yếu tố sau : Mối quan hệ giữa bảo tồn tài nguyên tự nhiên, môi trường và lợi ích kinh tế, xã hội, văn hóa Quá trình phát triển diễn ra trong một thời gian lâu dài Đáp ứng được nhu cầu hiện tại, song không làm ảnh hưởng đến nhu cầu của các thế hệ tiếp theo. Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng, giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo sự hấp dẫn du lịch. Khách du lịch (Tourist) là khách thăm viếng, lưu trú tại một quốc gia hoặc một vùng khác với nơi ở thường xuyên trên 24 tiếng đồng hồ và nghỉ qua đêm tại đó với các mục đích như nghỉ dưỡng, tham quan, thăm viếng gia đình, tham dự hội nghị, tôn giáo, thể thao. Khách tham quan (Excursionist), còn gọi là khách thăm viếng 1 ngày (Day visitor), là loại du khách thăm viếng lưu lại ở một nơi nào đó dưới 24 tiếng đồng hồ và không lưu trú qua đêm. Du khách quốc tế (International Tourist): Ở Việt Nam, theo Điều 20 Chương IV pháp lệnh du lịch, những người được thống kê là du khách quốc tế phải có các đặc trưng cơ bản sau đây: Là người nước ngoài hoặc cư dân Việt Nam định cư ở nước ngoài vài Việt Nam du lịch. Là công dân Việt Nam, người nước ngoài cư trú tại Việt Nam đi ra nước ngoài du lịch. Mục đích chuyến đi của họ là tham quan, thăm thân nhân, tham dự hội nghị, kháo sát thị trường, đi công tác, chữa bệnh, thể thao, hành hương, nghỉ ngơi. Du khách nội địa (Domestic Tourist) là công dân của một nước đi du lịch (dưới bất kỳ hình thức nào) trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia dó. Văn hoá Lễ hội: là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra trên một địa bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định, nhằm nhắc lại sự kiện, nhân vật lịch sử hay huyền thoại, đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng xử văn hóa của con người với thiên nhiên thần thánh và con người trong xã hội . Lễ hội cổ truyền hay hiện đại, dân tộc hay quốc tế đều gồm có 2 phần: phần lễ và phần hội: Phần lễ có tính nghiêm trang, bắt buộc với những quy định cụ thể về các nghi lễ; lễ tiết chặt chẽ để mọi người tuân thủ và cũng có thể cách tân làm cho phù hợp theo từng năm được mùa hay mất mùa theo kiểu “tùy biện hiện” (có gì cúng nấy). Phần hội với các trò vui, trò diễn, ca hát, nhảy múa, thi đấu thể thao, lạc khoán (ăn uống có cộng cảm), có tính khoán đặt tạo sự ngẫu hứng cho người tham gia lễ hội. Tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng mộ vào một sự vật, hiện tượng hoặc một đấng siêu nhiên. Các quan điểm về văn hoá và bảo tồn giá trị văn hoá Quan điểm của Đảng về văn hóa Hội nghị Trung ương 10 (Khóa IX) có chỉ rõ cần tiếp tục thực hiện đầy đủ 5 quan điểm chỉ đạo đã được Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) đề ra đó là: Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ (tinh hoa nhân loại), đó chính là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH theo chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng động, giữa xã hội và tự nhiên. Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử mấy ngàn năm đấu tranh dựng nước giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; Lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý, đức tính cần cù sáng tạo trong lao động, sự tinh tế ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo , trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì thận trọng. Các nguyên tắc và quan điểm phát triển du lịch bền vững Nguyên tắc: Sử dụng nguồn lực một cách bền vững : Việc bảo tồn và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhân văn là tối cần thiết, nó đảm bảo cho hoạt động kinh doanh du lịch phát triển lâu dài. Việc sử dụng bền vững, bảo tồn và bảo vệ các nguồn lực phát triển du lịch được xem là vấn đề sống còn đối với việc quản lý hợp lí mang tính chất toàn cầu và quốc gia. Giảm sự tiêu thụ quà mức và giảm chất thải : Giảm sự tiêu thụ quá mức và giảm chất thải sẽ tránh được những chi phí tốn kém cho việc hồi phục tổn hại về môi trường và tăng chất lượng dịch vụ du lịch Một số biện pháp để giảm sự tiêu thụ quá mức và giảm rác thải : Các doanh nghiệp du lịch và ngành du lịch phải giảm tiêu thụ các nguồn lực du lịch Ưu tiên các nguồn lực hiện có ở địa phương hơn là nhập khẩu theo xu hướng thích hợp và bền vững Giảm nguồn rác thải và đảm bảo việc xử lý rác thải do du lịch thải ra một cách an toàn Sử dụng công nghệ xử lí rác thải, tái chế rác thải Có trách nhiệm phục hồi những tổn thất nảy sinh từ các dự án du lịch Trách tổn thất thông qua công tác tiền hoạch định đúng đắn và theo dõi, giám sát liên tục Duy trì tính đa dạng : Trân trọng giữ gìn tính đa dạng của thiên nhiên và nhân văn Đảm bảo nhịp độ quy mô và loại hình phát triển để bảo vệ tính đa dạng của văn hóa bản địa Ngăn ngừa sự phá hủy đa dạng sinh thái tự nhiên bằng cách tôn trọng sức chứa của mỗi vùng, áp dụng công thức sức chứa và nguyên tắc phòng ngừa trước Giám sát tác động của du lịch đối với hệ sinh thái đặc biệt đối với các loài động vật Khuyến khích đa dạng kinh tế, xã hội bằng cách lồng ghép du lịch vào các hoạt động của cộng đồng địa phương Ngăn ngừa sự thay thế các ngành nghề truyền thống lâu đời bằng chuyên môn phục vụ du lịch Khai thác tốt các đặc trưng, đặc thù của vùng hơn là áp đặt các chuẩn mực đồng nhất Đảm bảo quy mô, nhịp độ và loại hình du lịch nhằm khích lệ lòng mến khách và sự hiểu biết lẫn nhau Phát triển du lịch phù hợp với văn hóa bản địa, phúc lợi và nhu cầu phát triển Hợp nhất du lịch vào quá trình quy hoạch như : du lịch và hoạch định chiến lược phát triển, du lịch và đánh giá tác động môi trường Hỗ trợ kinh tế địa phương : Đảm bảo các chi phí về môi trường được tính đến trong tất cả các dự án du lịch Hợp nhất những cân nhắc về môi trường và tất cả các quyết định kinh tế Hoạt động du lịch trong giới hạn cho phép của sức chứa và hạ tầng cơ sở sẵn có của địa phương Thực hiện sự đa dạng kinh tế bằng cáh phát triển cơ sở hạ tầng du lịch, mang lợi ích đến cho nhiều thành phần hơn Đảm bảo các loại hình và quy mô hoạt động du lịch phù hợp với điều kiện của địa phương Tránh khai thác quá mức các điểm du lịch Hổ trợ tạo thu nhập cho địa phương và các doanh nghiệp nhỏ, đồng thời trích một tỉ lệ thỏa đáng từ thu nhập du lịch cho nền kinh tế địa phương, nơi diễn ra các hoạt động du lịch Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương vào các hoạt động du lịch : khi cộng đồng địa phương được tham gia vào phát triển du lịch thì họ trở thành đối tác cực, có vị trí đặc biệt trong khu vực và vùng. Khả năng bền vững của du lịch phụ thuộc rất lớn vào sự ủng hộ và tham gia của cộng đồng địa phương. Thông qua việc khuyến khích làm chủ các ngành thủ công nghiệp và nhà tranh, dịch vụ hướng dẫn, nhà hàng, tiệm ăn, sự tham gia của địa phương sẽ tạo điều kiện ngăn chặn sự thất thoát ngoại tệ và có lợi cho cộng đồng địa phương và du khách Các biện pháp để thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng địa phương vào các hoạt động du lịch : Tôn trọng nhu cầu và nguyện vọng của cư dân địa phương Tạo điều kiện cho cư dân địa phương phải quyết định sự phát triển của họ Khuyến khích sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương vào các dự án du lịch Ủng hộ các xí nghiệp và hợp tác xã địa phương cung cấp dịch vụ, hàng hóa và hàng thủ công Ủng hộ các cửa hiệu quán ăn và hướng dẫn do địa phương làm chủ Ngăn ngừa sự chia rẽ và di dân địa phương Lấy ý kiến quần chúng và các đối tượng có liên quan : Tham khảo ý kiến và thông báo rộng rãi cho cư dân địa phương về những biến động, thay đổi trong phát triển du lịch Tham khảo và thông báo cho họ về các lợi ích do du lịch mang lại Giới thiệu các giải pháp từ khi lập sơ đồ quy hoạch để xin ý kiến đóng góp của quần chúng Tổ chức hội thảo để tham khảo ý kiến Thông báo và tham khảo ý kiến đầy đủ với chính quyền địa phương và cơ quan chính phủ trước và trong quá trình tiến hành các dự án du lịch Đào tạo nhân viên : Đưa các vấn đề về môi trường, văn hóa, xã hội vào chương trình đào tạo Nâng cao vị trí của cán bộ địa phương các cấp Đề cao ý thức tự hào trong công việc và sự chăm lo đến cộng đồng địa phương Đào tạo nhân viên hiểu biết bản chất phức tạp của du lịch hiện đại Khuyến khích việc giáo dục đa văn hóa và các chương trình giao lưu văn hóa Đào tạo cán bộ quản lý và lãnh đạo người địa phương Tiếp thị du lịch một cách có trách nhiệm : Giáo dục du khách trước khi đến điểm du lịch và hướng dẫn cho họ những điều cần làm và những điều không nên làm về phương diện môi trường Sử dụng chiến lược tiếp thị tôn trong các dân tộc, cộng đồng và môi trường các đại phương Làm cho du khách nhận thức được trách nhiệm của họ đối với địa phương du lịch Tiếp thị du lịch phải trung thực, tương ứng với sản phẩm và chất lượng tour du lịch đã chào bán Cung cấp thông tin cho du khách về việc tôn trọng các di sản văn hóa và thiên nhiên của địa phương Khuyên bảo những cách cư xử đúng đắn như : ăn mặc, tập quán tôn giáo, thức ăn, đồ uống, đi lại lịch sử và chính trị Tiến hành nghiên cứu : Khuyến khích và hỗ trợ việc nghiên cứu đánh giá trước khi thực hiện dự án và các biện pháp giám sát đánh giá tác động kinh tế, xã hội, môi trường Phổ biến các kết quả nghiên cứu và điều tra đến các cơ quan trung ương, đội ngũ nhân viên du lịch và công chúng Quan điểm: Phát triển du lịch bền vững đã trở thành mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của toàn nhân loại trong thế kỷ XXI. Phát triển du lịch bền vững trở thành xu hướng và mục tiêu phát triển ngành kinh tế du lịch của nhiều quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong hiện tại và tương lai. Vì vậy, quan diểm phát triển này cần được soi sáng, vận dụng trong việc tổ chức quản lý triển khai đánh giá các hoạt động du lịch và trong việc nghiên cứu tiến hành quy hoạch du lịch. Trong quá trình nghiên cứu, thực hiện cần vận dụng lý luận cũng như thực tiễn phát triển du lịch bền vững ở trong nước và trên thế giới để soi sáng, kiểm chứng, đánh giá. Và phát triển du lịch bền vững phải được coi là mục tiêu thực hiện; các nguyên tắc cũng như các loại hình du lịch bền vững phải được xem xét, vận dụng trong suốt quá trình thực hiện. Theo Hội Đồng Thế giới về môi trường và phát triển (WCED): “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ”. Theo Khoản 21, Điều 4, Chương I - Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Phát triển du lịch bền vững là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai”. Như vậy, các kế hoạch, dự án được xây dựng để thực hiện phải xem xét tính toán các vấn đề cần giải quyết, các chiến lược,…không chỉ đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà còn phải đáp ứng nhu cầu du lịch của các thế hệ tương lai. CHƯƠNG 2. GIÁ TRỊ VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI KHMER Ở TỈNH TRÀ VINH TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH Tổng quan về tỉnh Trà Vinh Vị trí địa lý: Trà Vinh là tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam Việt Nam; vị trí địa lý giới hạn từ 9°31'46" đến 10°4'5" vĩ độ Bắc và từ 105°57'16" đến 106°36'04" kinh độ Đông. Phía bắc Trà Vinh giáp với Bến Tre, phía nam giáp Sóc Trăng, phía tây giáp Vĩnh Long, phía đông giáp biển với chiều dài bờ biển 65 km. Hành chính: Hiện nay Trà Vinh có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm thị xã Trà Vinh và 7 huyện với 94 xã, phường và thị trấn. Bảy huyện là: • Càng Long • Châu Thành • Cầu Kè • Tiểu Cần • Cầu Ngang • Trà Cú • Duyên Hải Dân cư: Dân số: • 1971: 411.190 • 2000: 973.065 • Điều tra dân dố 01/04/2009: 1.000.933 người Trên địa bàn Trà Vinh có 29 dân tộc, nhưng đông nhất là người Kinh (69%) và người Khmer (29%). Dân số Trà Vinh chiếm 5,99% Đồng bằng sông Cửu Long (theo điều tra dân số năm 2000), trong đó hơn 87% sống ở khu nông thôn. Mật độ dân số 414 người/km², tỷ lệ tăng dân số năm 2000 là 1,65. Theo tài liệu tổng điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 1999, trên địa bàn Trà Vinh có trên 290,9 nghìn người Khmer, chiếm 30,1% dân số toàn tỉnh và chiếm 27,6% số người Khmer của cả nước. Đây là địa bàn cư trú lâu đời của cộng đồng dân tộc người Khmer có nền văn hóa dân tộc đặc trưng: tiếng nói, chữ viết, món ăn và đặc biệt là hệ thống chùa rất đặc thù. Khí hậu Nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Trà Vinh cũng có những thuận lợi chung như: có điều kiện ánh sáng bức xạ dồi dào, nhiệt độ cao và ổn định, Tuy nhiên, do đặc thù của vùng khí hậu ven biển tỉnh Trà Vinh có một số hạn chế về mặt khí tượng như: gió chướng mạnh, bốc hơi cao, mưa ít. Nhiệt độ trung bình toàn tỉnh là 26,6°C, biên độ nhiệt giữa tối cao: 35,8°C, nhiệt độ tối thấp: 18,5°C biên độ nhiệt giữa ngày và đêm thấp: 6,4°C. Nhìn chung nhiệt độ tương đối điều hòa và sự phân chia 4 mùa trong năm không rõ chủ yếu 2 mùa mưa, nắng. Ẩm độ trung bình cả năm biến thiên từ 80-85%, biến thiên ẩm độ có xu thế biến đổi theo mùa; mùa khô đạt: 79%, mùa mưa đạt 88%. Tổng lượng mưa từ trung bình đến thấp (1588-1227 mm), phân bố không ổn định và phân hóa mạnh theo thời gian và không gian. Lượng mưa giảm dần từ Bắc xuống Nam, cao nhất ở Càng Long, Trà Vinh; thấp nhất ở Cầu Ngang và Duyên Hải. Về thời gian mưa, có 90% lượng mưa năm tập trung vào mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11. Càng về phía biển, thời gian mưa càng ngắn dần tức là mùa mưa bắt đầu muộn nhưng kết thúc sớm. Huyện có số ngày mưa cao nhất là Càng Long (118 ngày), Trà Vinh (98 ngày); thấp nhất là Duyên Hải (77 ngày) và Cầu Ngang (79 ngày). Hạn hàng năm thường xảy ra gây khó khăn cho sản xuất với số ngày không mưa liên tục 10-18 ngày. Cầu Kè, Càng Long, Trà Cú là các huyện ít bị hạn. Huyện Tiểu Cần hạn đầu vụ (tháng 6, 7) là quan trọng trong khi các huyện còn lại: Châu Thành, Cầu Ngang, Duyên Hải hạn giữa vụ (tháng 7, 8) thường nghiêm trọng hơn. Đất Trà Vinh có diện tích tự nhiên 2.215,15 km² (tương đương 221.515,03 ha) - số liệu 2003, chia ra như sau: • Đất ở: 3.151,36 ha • Đất nông nghiệp: 180.004,31 ha • Đất lâm nghiệp: 6.080,20 ha • Đất chuyên dùng: 9.936,22 ha • Đất chưa sử dụng: 22.242,94 ha Địa hình Trà Vinh nằm ở phần cuối cù lao kẹp giữa sông Tiền và sông Hậu. Địa hình chủ yếu là những khu đất bằng phẳng với độ cao trên dưới 1m so với mặt biển. ở vùng đồng bằng ven biển nên có các giồng cát, chạy liên tục theo bình vòng cung và song song với bờ biển. Càng về phía biển, các giồng này càng cao và rộng lớn. Do sự chia cắt bởi các giồng và hệ thống trục lộ, kinh rạch chằng chịt, địa hình toàn vùng khá phức tạp. Các vùng trũng xen kẹp với các giồng cao, xu thế độ dốc chỉ thể hiện trên từng cánh đồng. Riêng phần phía nam tỉnh là vùng đất thấp, bị các giống cát hình cánh cung chia cắt thành nhiều vùng trũng cục bộ, nhiều nơi chỉ ở độ cao 0,5-0,8 m nên hàng năm thường bị ngập mặn 0,4-0,8 m trong thời gian 3-5 tháng. Giao thông Như hầu hết các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, giao thông đường thuỷ rất thông dụng và thuận lợi. Tuy nhiên trước đây đường bộ chủ yếu dựa theo trục lộ nối với Vĩnh Long và gần như là độc đạo. Hiện nay với sự phát triển hạ tầng giao thông đường bộ mạnh mẽ của tỉnh cùng với Bến Tre và Tiền Giang hình thành tuyến đường bộ thứ hai để đi Thành phố Hồ Chí Minh qua các phà nối sông Cổ Chiên có thể rút ngắn rất nhiều cự ly (chỉ còn khoảng 120 km thay vì gần 200 km nếu đi ngã Vĩnh Long). Sau sự huỷ diệt của chiến tranh, ngày nay các con đường và cầu cống đang được khôi phục và làm mới tạo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và văn hoá cho người dân nhiều cơ hội hoà nhập với xu thế của cả nước. Sông ngòi Trên địa bàn Trà Vinh có hệ thống sông chính với tổng chiều dài 578 km, trong đó có các sông lớn là sông Hậu, sông Cổ Chiên và sông Măng Thít. Các sông ngòi, kênh rạch trên địa bàn Trà Vinh hợp lưu đổ ra biển chủ yếu qua hai cửa sông chính là cửa Cổ Chiên hay còn gọi là cửa Cung Hầu và cửa Định An. Vùng biển Biển Trà Vinh là một trong những ngư trường lớn của Việt Nam với trữ lượng 1,2 triệu tấn hải sản các loại, cho phép đánh bắt 63 vạn tấn/năm. Lịch sử Thời nhà Nguyễn, Trà Vinh là tên 1 huyện (trước đó là phủ) thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long (được lập ra năm 1832). Năm 1876, Pháp chia tỉnh Vĩnh Long cũ thành 3 tiểu khu (hạt tham biện): Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre. Trà Vinh được thành lập theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi tiểu khu hay hạt tham biện (arrondissement) thành tỉnh (province), kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Như vậy Trà Vinh là 1 trong 20 tỉnh ở Nam Kỳ lúc bấy giờ. Dưới thời Pháp thuộc, Trà Vinh gồm 8 quận: Càng Long, Cầu Ngang, Cầu Kè (ban đầu thuộc tỉnh Cần Thơ, sau nhập vào tỉnh Vĩnh Long rồi Trà Vinh), Châu Thành, Long Toàn (nay là huyện Duyên Hải), Tiểu Cần, Trà Cú và Trà Ôn. Ngày 27/6/1951, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ (thuộc chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) nhập 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Trà. Huyện Tiểu Cần được nhập vào huyện Càng Long. Tỉnh Vĩnh Trà tồn tại đến năm 1954. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã đổi tên tỉnh Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Bình theo Sắc lệnh 143-NV của Tổng thống ngày 22 tháng 10 năm 1956. Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi này mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Trà Vinh. Tháng 2/1976 Trà Vinh hợp nhất với Vĩnh Long thành tỉnh Cửu Long và cho đến ngày 26-12-1991 mới tách ra như cũ. Khi tách ra, tỉnh Trà Vinh có diện tích 2363,03 km², dân số 961.638 người, gồm thị xã Trà Vinh và 7 huyện như hiện nay. Văn hóa Tuy là vùng đất trẻ nhưng Trà Vinh có kho tàng văn hoá đa dạng, đặc biệt là văn hoá vật thể và phi vật thể của người Khmer. Người Khmer có chữ viết riêng, các lễ hội truyền thống như Chol chnam thmay (mừng năm mới), Dolta (lễ cúng ông bà), Ok Om Bok (lễ cúng trăng), Lễ hội nghinh ông (lễ cúng biển), Dâng bông, Dâng phước và các phong tục tập quán có giá trị văn hoá khác. Người Khmer còn xây dựng trên địa bàn Trà Vinh nhiều chùa có kiến trúc độc đáo và hoà quyện thiên nhiên, tiêu biểu là chùa Âng, toạ lạc tên khu đất rộng 4 ha, trong thắng cảnh Ao Bà Om.Theo thống kê trên địa bàn Trà Vinh có tới 140 chùa Khmer, vượt xa số lượng của người Kinh, người Hoa và của các dân tộc khác hiện có trên địa bàn Trà Vinh cộng lại. Ngoài ra có chùa Hang, ở khu đất 10 ha với những cây cổ thụ xum xuê rộn tiếng chim gọi bầy; chùa Nôdol còn gọi là chùa Cò vì trên khuôn viên chùa rộng 3 ha đã hơn 100 năm nay trở thành nơi cư trú của hàng ngàn con cò và nhiều loại con chim quý khác; chùa Samrônge, tương truyền được xây dựng lần đầu vào năm 642 và xây dựng lại năm 1850 với nhiều biểu tượng bằng đá quý và những tấm bia cổ khắc chữ Khmer. Lễ hội cúng ông (Quan Công, địa phương gọi là "ông bổn") của người Hoa vào rằm tháng 7 hàng năm tại huyện Cầu Kè. Vài nơi tập trung khu xóm theo Thiên Chúa Giáo như Bãi San, Đức Mỹ... Nhà thờ tại thị xã Trà vinh có kiến trúc đẹp và cổ điển. Giáo xứ Nhị Long huyện Càng Long có Cha cố rất trẻ thụ phong Linh mục lúc 28 tuổi (Cha Sơn). Ẩm thực Trà Vinh có một số đồ ăn thức uống đã trở thành các đặc sản địa phương như cốm dẹp trộn dừa kiểu Khmer; các món đuông như đuông chà là, đuông đất và đuông dừa; mắm rươi; rượu Xuân Thạnh, bánh tét, bánh tráng ba xe, mắm kho, bún nước lèo, lươn um lá cách, cá cháy Cầu Quan, tôm càng nấu lẩu chua cơm mẻ, chuột đồng khìa nước dừa, vọp chong nướng lụi, bánh xèo, bánh ống, bánh canh Bến Có v.v. Kinh tế Kinh tế chủ yếu dựa vào chăn nuôi, và trồng trọt. Thu nhập bình quân rất thấp. 50USD/người/tháng. Hiện tại tỉnh đang đầu tư vào hạ tầng cơ sở ở khu công nghiệp Long Đức nhằm thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp. Với mục tiêu giải quyết việc làm cho người lao động. Chủ yếu từ các ngành nghề như: may mặc, giày da, và các mặt hàng thủ công, sản xuất các mặt hàng tiêu dùng. Tiềm năng du lịch: Tỉnh Trà Vinh có thực trạng và tiềm năng rất tốt, đặc biệt là tài nguyên du lịch biển và sông nước. Trà Vinh là nơi đất, trời sông, nước, thảm thực vật xanh quanh năm, phong cảnh rất hữu tình. Các tuyến du lịch sông nước, các cù lao… đều rất có triển vọng: tham quan những cảnh đẹp của làng quê miền Tây dọc hai bờ sông, tham quan những vườn cây ăn trái đưa du khách tiếp xúc với những sinh hoạt văn hoá đặc trưng, giàu bản sắc của dân cư miền Tây nói chung, Trà Vinh nói riêng. Rừng là nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên có giá trị cao, nhất là du lịch sinh thái. Ngoài ra, du khách có thể đến du lịch Trà Vinh theo loại hình du lịch văn hoá lịch sử thăm viếng Đền thờ Bác Hồ, các ngôi chùa mang đậm tính mỹ thuật điêu khắc của sắc thái văn hoá Khmer cũng như tham gia vào các lễ hội riêng thật đặc sắc của đồng bào Khmer nơi đây. *Tuyến giao thông cho Khách du lịch: Đường bộ: Tỉnh có 2.111,639 km đường bộ, quốc lộ chiếm 10,2%; tỉnh lộ 21,5%; huyện lộ 68,3%. Tỉnh đã và đang đầu tư phát triển mạng lưới đường bộ, đáp ứng nhu cầu đi lại và du lịch. Từ tỉnh lỵ Trà Vinh đi đường bộ đến thành phố Hồ Chí Minh 200km, đến thành phố Cần Thơ 100km, đến khu du lịch Biển Ba Động 60km. Đường thủy: Hệ thống bao gồm các trục dọc và trục ngang. Trục dọc gồm tuyến sông Cổ Chiên và Bassac. Kênh Trà Ngoa và Ba tháng Hai trục ngang có tuyến: Kênh Nguyễn văn Pho, sông Cần Chông, sông Bến Cát nối từ sông Hậu sang sông Tiền. Đó là những tuyến lưu thông hàng hoá đường thủy chính của Trà Vinh. Từ cửa biển Định An đi đến Côn Đảo mất từ 5 - 7 giờ chạy tàu, đi Cần Thơ mất khoảng 3 giờ chạy tàu. Với tiềm năng du lịch hiện có của tỉnh Trà Vinh, nếu được khai thác và đầu tư, du lịch Trà vinh sẽ là nơi thu hút và đón tiếp rất tốt cho khách du lịch trong ngòai nước đến Trà Vinh. Tổng quan về người Khmer Cộng đồng người Khmer trên địa bàn tỉnh Trà Vinh là một bộ phận dân cư của người Khmer Nam Bộ. Do vậy, họ mang đặc điểm và nét sinh hoạt văn hoá hằng ngày của người Khmer Nam Bộ nói chung. Tiếp cận, tìm hiểu về người Khmer ở Trà Vinh xem như cũng đã tiếp xúc được một phần văn hoá Khmer Nam Bộ. Điều kiện cư trú và dân cư: Dân tộc Khmer là 1 trong 54 dân tộc anh em ở Việt Nam. Với dân số khoảng hơn 1 triệu người, đây là tộc người đứng thứ 5 trong các tộc người thiểu số của Việt Nam, có số dân đông nhất trong các dân tộc nói tiếng Môn-Khmer ở Việt Nam và đứng thứ nhất trong các tộc người thiểu số ở đồng bằng sông Cửu Long. Riêng ở tỉnh Trà Vinh, dân tộc này chiếm khoảng 1/3 dân số của tỉnh, tức khoảng hơn 300.000 người. Dân tộc Khmer Nam bộ nói chung và dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh nói riêng vẫn bảo tồn được bản sắc văn hoá phong phú, đa dạng. Ngoài tên tự gọi là “Người Khmer” ra, dân tộc này còn được biết đến với những tên gọi khác như: Cur, Cul, Cu, Thổ, Việt gốc Miên và Khmer K’rôm. Trước thế kỷ XII, người Khmer và văn hóa cả họ vẫn không có gì thay đổi. Họ thường sống tập trung các tỉnh An Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, trong đó nhiều nhất là 3 tỉnh: Sóc Trăng, Trà Vinh và Bạc Liêu. Trải qua quá trình phát triển của lịch sử, hệ thống tổ chức xã hội của người Khmer đã có nhiều biến đổi mạnh mẽ. Tuy nhiên một số yếu tố chính vẫn được bảo tồn và phát triển. Các đặc điểm kinh tế - xã hội Hoạt động sản xuất – kinh tế: Người Khmer là cư dân nông nghiệp dùng cày và biết thâm canh lúa nước từ lâu đời. Đồng bào biết chọn giống lúa, biết làm thủy lợi và lợi dụng thủy triều để thau chua, xổ phèn cải tạo đất, có địa phương trồng nhiều dưa hấu. Bộ công cụ nông nghiệp của họ khá hoàn thiện và hiệu quả, có những dụng cụ độc đáo thích ứng với điều kiện địa lý sinh thái Nam Bộ như cái phảng thay cho cái chày chuyên dùng ở vùng đất phèn, mặn để phát cỏ, cù nèo (Pok) dùng để cơ vỏ, cái vòn gặt (Kần điêu) dùng để cắt lúa và cây nọc cấy (Sơ chal) chính là chiếc gậy chọc lỗ thời xưa, tạo ra lỗ để cấm cây lúa ở những chân ruộng nước nhưng đất cứng Ngoài ra người Khmer còn làm nghề đánh cá, chăn nuôi trâu bò cày cấy, nuôi lợn, gà, vịt đàn, dệt, đan lát, làm đường ăn từ cây thốt nốt và làm gốm để phát triển kinh tế toàn diện. Cày hai trâu là một đặc trưng kỹ thuật nông nghiệp của người dân Khmer. Bên cạnh đó, kỹ thuật làm gốm của họ cũng khá đặc trưng và đơn giản, gồm có công cụ chính là hòn kê (K’leng) và bàn dập (Chơ). Họ chưa dùng bàn xoay, sử dụng gốm mộc, không màu với độ nung thấp và không có lò nung cố định. Sản phẩm gồm chủ yếu là đồ dùng gia đình, tiêu biểu nhất là bếp (Cà ràng) và nồi (Cà om) rất được người Việt, người Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long ưa dùng. Nếu trước đây khi nào người ta cần trao đổi mua bán với người Khmer thì phải mang đến tận nơi họ sinh sống. Nhưng hiện nay, phần lớn người Khmer đã tự mang hàng hóa của mình ra chợ bán. Và từ đây, chợ búa của người Khmer đã mọc lên rất nhiều. Đặc điểm chợ cũng khá đặc biệt. Hầu hết người Khmer ngồi dưới đất buôn bán cho nên không phải là điều ngạc nhiên hay suy nghĩ nhiều khi người ta nghe nhắc đến những tên gọi chợ tự gọi dân xã như chợ “Chồm hổm”, chợ “Nhỏ” ở huyện Châu Thành, thị xã Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh chẳng hạn. Và một đặc điểm nữa là chợ của họ mở ra vào mọi lúc, khác với chợ người Việt buổi họp buổi tan và giá sản phẩm của họ rẻ hơn nên rất dễ buôn bán. Người Khmer buôn bán cả vào những lúc người Việt đã tan chợ, có thể ví như “làm việc ngoài giờ hành chánh”. Người Khmer rất đơn giản và do mức sống chưa cao nên họ không chú trọng lắm đến chất lượng mặt hàng mà chỉ chú trọng đến giá thành sản phảm, giá thành thấp thì mua. Quan hệ gia đình - xã hội: Người Khmer có rất nhiều họ khác nhau bao gồm những họ Khmer thuần túy như Khan, U, Khum cho đến những họ do triều Nguyễn đặt ra trước đây như: Thạch, Kiên, Danh, Sơn, Kim và những họ của người Việt và người Hoa như: Nguyễn, Trần, Trương, Dương, Mã,… Chế độ đa thê, vấn đề ly hôn, loạn luân giữa những người có huyết thống trực hệ hoặc vấn đề ngoại tình ít xảy ra và tuyệt đối nghiêm cấm. Người Khmer còn rất coi trọng số chẵn trong sinh hoạt hằng ngày. Trong lễ cưới, chú rễ không đi đón dâu vào ngày lẻ, lễ vật nhà trai mang sang nhà gái cũng toàn số chẵn, lễ hỏa táng cũng kiêng ngày lẻ. Người dân Khmer thường sống riêng theo mô hình gia đình nhỏ một vợ một chồng và là đơn vị kinh tế độc lập. Tuy có nơi vẫn có đến 3 – 4 thế hệ sống chung trong một nhà. Xã hội Khmer vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư mẫu hệ, như trong hôn nhân chẳng hạn. Hôn nhân thường do cha mẹ xếp đặt, có sự thỏa thuận của con cái. Cưới xin phải trải qua 3 giai đoạn: làm mối, dạm hỏi và tiến hành lễ cưới (Pithi Pea Pipea), được tổ chức bên nhà gái, sau đó nguời con trai phải ở bên nhà vợ một giời gian. Một năm sau hoặc đến khi có con, họ có thể sống riêng nhưng vẫn cư trú bên ngoại. Từ đó dần hình thành các phum, sóc. Theo tiếng Khmer, phum có nghĩa là đất, thổ cư; mỗi phum gồm nhiều hộ gia đình có quan hệ huyết thống và quan hệ hôn nhân cùng cư trú và sóc là đơn vị cư trú gồm nhiều phum. Giá trị văn hoá của người Khmer ở tỉnh Trà Vinh Đời sống vật chất Văn hoá ẩm thực Người Khmer trồng được hơn 150 giống lúa tẻ và nếp khác nhau nên họ thường ăn cơm tẻ và từ nếp, họ đã biết chế biến các loại cơm và xay thành bột để làm các loại bánh như bánh tét, bánh ít, bánh tổ chim, đặc biệt là bánh gừng, cốm dẹp… Bánh gừng nghe qua cứ tưởng chừng như được làm từ bột và gừng nhưng thực ra đó lại là loại bánh được làm từ bột nếp trộn với hột gà, bột nang mực, nước chanh tươi, có hình dáng sau khi chế biến xong giống như củ gừng, nên người ta gọi là bánh gừng (Num kh’nhây). Sau khi dã được chiên chín với dầu hoặc mỡ, bánh còn được lăn hoặc rắc lên bên trên một lớp đường cát trắng mịn, lấp lánh, trông rất đẹp mắt rồi được đem phơi nắng. Bánh ăn giòn mềm, càng nhai càng nghe vị ngọt béo bùi lan trên mặt lưỡi. Trong các lễ cưới truyền thống của dân tộc Khmer, bánh gừng là lễ vật không thể thiếu vì nó là biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi. Bên cạnh đó, người ta còn tạo hình bánh này ở loại nhỏ để làm quà cáp biếu nhau hoặc dùng chiêu đãi khách. Còn cốm dẹp được làm từ nếp mới chín đỏ đuôi, vừa mới được cắt từ cánh đồng mang về. Dụng cụ chính làm cốm là một nồi rất to có miệng rộng, một chiếc cối thon đứng, được khoét lồng từ một khúc gỗ, chiều cao khoảng 60cm và chày giã đứng. Nếp được rang chín đều đến khi có tiếng nổ lách tách và vỏ bung ra. Sau đó, nếp chín được đổ vào cối giã và thường là có hai người giã. Trong quá trình giã lúc đầu, do nếp còn tươi nên hạt nếp bẹp ra và dính từng mảng, vì vậy cần phải có gạt để đảo trộn nếp dính. Và cứ thế, hạt nếp được giã cho đến khi khô và rời ra. Kế đến, người ta đổ nếp ra nia sàng bỏ trấu trắng dục, lúc ấy sẽ thấy điểm lác đác những hạt màu xanh. Cốm dẹp trộn với đường, dừa ăn thơm ngon hoặc ăn với chuối chín muồi cũng rất tuyệt. Trong lễ hội cúng trăng Ok Om Bok thì cốm dẹp là lễ vật không thể thiếu và nó được gọi là Om Bok. Ngoài lúa và nếp ra, người Khmer còn trồng được các loại hoa màu. Thức ăn hằng ngày của họ có cá, tôm, ếch, nhái, rau, củ, nhưng vào vụ đông ken, bữa ăn của họ rất sơ sài: có thể chỉ là món B’hoc chưng dưa leo, cọng bông súng hay hoa lúc bình hoặc B’hoc bầm xả ớt. Tuy nhiên ở những buổi tiệc tùng như đám cưới, đám giỗ, tết cổ truyền, họ tổ chức ăn uống đãi khách và vì cho là thiếu tôn trọng khách nên họ không bao giờ đem ra đãi khách những món ăn hằng ngày. Và đây chính là một nét giao thoa trong ẩm thực giữa người Khmer và người Việt, người Hoa. Thay vào đó, thức ăn trong dịp này là thịt gia súc, gia cầm tự nuôi hoặc mua được chết biến thành nhiều món ăn khá phong phú như: thịt kho nước dừa, cà ri, bún nước lèo, cù lao … Người Khmer biết chế biến nhiều loại nắm rất ngon như mắm Pơ-inh làm bằng cá sặc hoặc như mắm chua B’ot được làm từ tép mồng được lột bỏ đầu, đem phơi nắng, sau đó trộn chung với đu đủ vừa chín tới bào, gừng non, tỏi, riềng, ớt và để vài ngày là dùng được. Nhưng có lẽ nổi tiếng nhất vẫn là mắn B’hóc, một loại mắm được người Khmer ưa dùng và được dọn ra trong hầu như cho mọi bữa. Cách làm loại mắm này cũng không phức tạp lắm nhưng đòi hỏi phải trải qua một quy trình dài. Mắm B’hóc làm từ cá lóc tươi đã được đánh vẩy, lấy ruột ra và cạo sạch nhớt. Kế đến, người ta đem cá ngâm qua đêm trong nước lạnh để cá sình lên, tái đi không còn máu rồi để phơi ngoài nắng cho ráo nước. Sau đó, cá được ướp muối hột, trộn với cơm nguội, cho vào hũ hoặc khạp, đổ nước muối đã nấu để nguội vào cho cá ngập đều rồi trải mo cau dằn lên trên và dùng những thanh tre giăng trải đều, chặt để tránh cho cá nổi lên rồi đem phơi nắng khoảng nửa tháng. Sau khoảng thời gian đó có thể không cần mang ra phơi nắng nữa và độ chừng nữa năm thì đã thưởng thức được mắm và mắm có đặc điểm là để ngâm càng lâu càng ngon và đậm đà. Trước khi đem ra dùng, người ta thường mang thính trộn vào. Mắm màu tái, mùi khẳng, vị mặn rất đặc trưng. Mắm B’hóc ăn sống kèm với khế, chuối chát, rau sống hay bầm với xả ớt, ăn với cơm nguội hoặc được làm nguyên liệu chính trong món bún nước leo nổi tiếng của người Khmer vùng Nam Bộ mà Sóc Trăng và Trà Vinh là hai “kinh đô” của món bún ấy. Ở Sóc Trăng, người ta còn chế biến ra loại mắm được làm từ cá trê vàng và nó đã trở thành đặc sản nổi tiếng với tên gọi là mắm B’hóc Óp. Thế còn khẩu vị của người Khmer như thế nào? Vị ưa thích nhất của họ chính là vị chua và cay. Gia vị chua lấy từ quả me hay mè còn gia vị cay được tạo từ hạt tiêu, tỏi, sả, ca ri,… Về thức uống, vào mùa mưa, người dân Khmer thường tích nước mưa vào trong các lu, vại, hồ chứa để dùng cho cả năm. Người già thường dùng nước trà và nước trà còn dùng để tiếp khách tới nhà hay khách trong các buổi lễ tiệc. Ngoài ra, người Khmer cũng thường uống rượu. Rượu của họ có thể là rượu trắng, rượu ngâm thuốc hay là loại rượu được nấu từ gạo. Tuy nhiên, rượu lại là một thứ cấm sử dụng ở chùa vì đây là điều cấm giới. Nhắc đến ẩm thực của một dân tộc nào đó thì ta không thể bỏ qua yếu tố về hình thức trong một bữa ăn của dân tộc đó. Đó là nét đặc trưng thể hiện một phần lối sống văn hóa của họ. Đối với dân tộc Khmer, trước đây, họ thường dọn bữa trên chõng tre đặt nơi bếp núc. Khi ngồi ăn người đàn ông lớn tuổi thường ngồi trong tư thế hai chân xếp bằng, người nhỏ tuổi ngồi hai chân co lại và tạo thành một góc vuông, tức là một chân dựng lên, chân còn lại đặt sát đệm, còn người phụ nữ ngồi hai chân co lại, xếp về một bên cho kín đáo và đó được gọi là kiểu xếp chè he. Tương tự như người Việt và người Hoa, người Khmer dùng đũa trong khi ăn và đặc biệt là ai đã dùng bữa xong thì nâng đũa lên trán bằng hai tay rồi xá ba xá ngụ tỏ lòng biết ơn đến những người đã tạo ra vật thực. Trang phục Trang phục truyền thống của dân tộc Khmer mang điểm khác biệt ở lối mặc váy và phong cách trang phục gắn với tín giáo đạo Phật. Nam nữ trước đây đều mặc xà rông bằng tơ tằm do họ tự dệt. Lớp thanh niên ngày nay thích mặc quần âu với áo sơmi. Chỉ đặc biệt trong cưới xin, nam nữ mới mặc quần áo cổ truyền. Về trang phục nam, nam thanh niên hiện nay khi ở nhà thường không mặc áo và quấn chiếc “xà rông” (Hôl) kẻ sọc. Những người nam giới đứng tuổi, người già thường mặc quần áo bà ba màu đen, quấn khăn rằn trên đầu. Trong dịp lễ, tết họ mặc áo bà ba trắng, quần đen hoặc áo đen với chiếc khăn rằn luôn quấn trên đầu và quàng khăn quàng trắng chéo ngang hông vắt lên vai trái. Trong đám cưới, chú rể thường mặt bộ xà rông (Hôl) và áo ngắn bỏ ngoài màu đỏ, cổ đứng với hàng khuy trước ngực, quàng khăn trắng (Kăl xinh) vắt qua vai trái và đeo thêm “con dao cưới” (Kâm pách) với ý nghĩa bảo vệ cô dâu. Về trang phục nữ, cách đây vài chục năm, phụ nữ Khmer Nam Bộ thường mặc “xăm pốt” (váy) một loại váy hình ống, kín, làm bằng tơ tằm. Xăm pốt điển hình là loại xăm pốt chân khen. Đó là một loại váy hở, quấn quanh thân và có một vài mô típ hoa văn tương tự như những loại váy có cùng cách tạo hình của môt số dân tộc khác nhưng khác ở chỗ là cách mang váy vào thân. Với tộc người Khmer, cách mang váy vào thân rất đặc biệt và có thể xem là đặc trưng độc đáo của dân tộc này. Họ luồn váy giữa hai chân từ sau ra trước rồi kéo lên vắt cạnh hông tạo thành dạng như chiếc quần ngắn và rộng. Họ thường mặc xăm pốt trong những ngày lễ lớn, mỗi ngày mặc một màu khác nhau trong suốt tuần lễ đó và họ gọi là loại xăm pốt pha muông. Ngày nay các loại xăm pốt trên ít được thấy trong đời sống thường nhật chỉ được thấy nhiều trên sân khấu văn nghệ cổ truyền bởi vì người Khmer đã và đang chịu ảnh hưởng văn hóa Kinh và Chăm qua trang phục. Trong dịp lễ, Tết, họ lại mặc áo dài Khmer (Wện) giống với chiếc áo dài của phụ nữ Chăm: áo bịt tà, thân áo rộng và dài qua gối, cổ áo thấp và xẻ trước ngực vừa đủ để chui đầu vào, tay áo chật, hai bên sườn thường ghép thêm bốn miếng vải thường hoặc vải màu khéo dài từ nách đến gấu áo. Bên cạnh đó, phụ nữ Khmer còn phổ biến loại khăn Krama dệt ô vuông màu xanh, đỏ trên nền trắng. Vào ngày cưới, các cô dâu thường mặc chiếc xăm pốt hôl màu tím sẫm hay hồng cánh sen, áo dài tăm pông màu đỏ thẩm, quàng khăn chéo qua người, đội mũ Pkel Plac hay loại mũ tháp nhọn nhiều tầng bằng kim loại hay giấy bồi. Nhà cửa Người Khmer sống tập trung ở đồng bằng sông Cứu Long, đặc biệt ở các tỉnh miền Tây Nam Bộ, trong đó có tỉnh Trà Vinh. Nơi ở của họ thường tụ trên 3 vùng môi sinh lớn: vùng đồng bằng nội địa, vùng phèn mặn ven biển, vùng đồi núi Tây nam giáp biên giới Kamphuchea. Trước đây, họ vốn ở nhà sàn đơn giản, mái lá dừa nước hoặc lợp ngói nhưng ít, có chiều cao 5m - 7m và cửa thường quay về hướng Đông vì theo quan niệm của người dân Khmer đó là hướng có thể đón nhận được phúc lành do được Phật ban. Nhà thường làm theo kiểu mái dài về phía sau. Nhưng có lẽ đến nay nhà sàn chỉ còn lại rất ít ở dọc biên giới Việt - Kampuchea, một số nhỏ trong các chùa Phật giáo Khmer là nơi hội họp sư sãi và tín đồ… và nhiều hơn một tí là ở dọc bên các bờ sông nơi họ sinh sống. Tuy nhiên, phần lớn các nhà sàn ở dọc sông có mái được lợp bằng tole. Nay số đông người Khmer nói chung và người Khmer ở tỉnh Trà Vinh nói riêng sống trong các ngôi nhà đất. Bộ khung nhà đất được làm khá chắc chắn. Nhiều nơi làm theo kiểu vì kèo của nhà Việt cùng địa phương. Cách bố trí không gian sinh hoạt của người Khmer khá đơn giản nhưng cũng không kém phần đặc trưng. Nhà được chia thành hai phần theo chiều ngang, một phần làm nơi ở, một phần dành cho bếp núc. Phần dành để ở lại được phân ra thành hai phần nhỏ hơn theo chiều dọc. Phần phía trước có kê bàn ghế ở giữa để tiếp khách, bên cạnh thường đặt tủ kính có trưng những chiếc gối thêu vừa để trang trí vừa tiện dùng khi nhà có khách. Kế sau bộ bàn ghế tiếp khách là bàn thờ Phật (người Khmer không đặt bàn thờ tổ tiên trong nhà vì hài cốt ông bà, cha mẹ họ đã đem gửi ở chùa để nhờ sư sãi tụng kinh cầu phúc). Ở phần nửa sau, bên trái là buồng con gái còn bên phải chính là buồng của vợ chồng chủ nhà. Phương tiện vận chuyển Người dân Khmer thường sử dụng xe bò, xe lôi bánh gỗ hoặc bánh hơi để đi lại trên đường hay trên những chân ruộng khô và để vận chuyển nông sản trong mùa thu hoạch. Ngoài phương tiện vẩn chuyển trên cạn ra, người Khmer còn dùng ghe, thuyền để đi lại thường xuyên bởi do họ sống trong môi trường chằng chịt sông, kênh, rạch. Ghe, thuyền của người Khmer có rất nhiều loại như xuồng ba lá, ghe tam bản, thuyền tắc rán hoặc thuyền đuôi tôm chạy bằng máy và đặc biệt là chiếc nghe Ngo. Ghe Ngo, hay còn được đồng bào Khmer gọi là Tuộc mua, là loại ghe làm từ thân cây gỗ sao nguyên vẹn. Người ta phải lựa cây có bề hoành đúng kích cỡ với chiếc ghe mà họ định tạo hình. Sau đó là đến công đoạn làm ghe. Bắt đầu là việc khoét ruột cây tạo ra nên hình vóc thô của ghe. Xong, người ta bào gọi, tỉa tót lại và dùng giấy nhám đánh cho mặt gỗ thật trơn tru và bóng để chuyển sang công đoạn phết sơn. Chiếc ghe Ngo sẽ không bắt mắt nếu thiếu khâu trang trí mỹ thuật. Người ta thường vẽ hình đầu rồng ở mũi ghe và đuôi phụng ở phần lái tuy nhiên cũng có nơi người ta thích vẽ hình ó biển, voi, sư tử, hồ ly, quỷ, hổ, báo, gấu, cá sấu, trang trí thêm sóng nước. Mái chèo cũng được sơn phết cùng màu với màu ghe. Về hình dáng, ghe Ngo có hình dáng như con thoi, đầu và đuôi cong lên và chồm về phía trước để giảm lực cản của nước. Ghe không có mui, dài từ 20 đến 24 mét có khoảng 2 đến 24 khoang, mỗi ghe chứa từ 43 đến 52 quân chèo ngồi. Hiện nay, chiếc ghe Ngo có phần tương đối nhỏ và ngắn hơn so với trước với sức chứa khoảng hơn 20 quân chèo. Ghe Ngo chỉ được sử dụng trong cuộc đua ghe vào dịp lễ chào mặt trăng Ok Om Bok diễn ra vào tháng 10 âm lịch, còn ngày thường thì được gửi bảo quản trong chùa ở môt nơi gọi là “Rông tuk” có mái ngói cao ráo thoáng mát, không có vách tường bao bọc và được cư dân trong các phum, sóc coi như vật thiên. Nhưng hiện nay, ở Trà Vinh, ngoài khuôn viên chùa ra, các phòng Văn hóa thông tin thể thao huyện còn để ghe Ngo ở cơ sở văn hóa của huyện. Đời sống tinh thần Hoạt động văn nghệ Người Khmer có một kho tàng vô cùng phong phú và đa dạng về truyện cổ như truyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết, ngụ ngôn, truyện cười. Họ còn có cả một nền sân khấu truyền thống đậm đà tính dân tộc như sân khấu Rồ Băm (múa mặt nạ) với xuất xứ từ cung đình nhưng sau nhiều thế kỷ đã hoà nhập vào các phum, sóc của cộng đồng với mặt nạ các thần như: Chim thần Krut, thần khỉ Hanuman, thần chằn Krong Riep, thần rắn Naga,… Sân khấu Dù Kê (kịch hát) ra đời trong dân gian từ đầu thế kỷ 20, phát triển rực rỡ nhất từ sau giải phóng và bên cạnh đó là một nền âm nhạc đặc sắc vừa có nguồn gốc Nam Á (Ấn Độ), vừa có nguồn gốc Đông Nam Á. Các nhạc cụ của người Khmer rất phong phú và đa dạng, được chia làm hai loại: dàn nhạc dân gian (nhạc dây) và dàn nhạc lễ (nhạc ngũ âm). Dàn nhạc ngũ âm độc đáo, là linh hồn của âm nhạc Khmer. Dàn ngũ âm không thể thiếu được trong những đêm hội dân gian, dàn nhạc hoàn chỉnh thường cần 9 người chơi để tạo ra dòng âm thanh đặc trưng của dân tộc Khmer Nam Bộ, gồm những nhạc cụ được chế tác bằng 5 chất liệu khác nhau: bộ đàn Rô-net-dek (sắt), đôi chũm choẹ Chhưng (đồng), đàn Rô-net-thun (gỗ), bộ trống Skô-som-phô (da) và kèn Srôlây (hơi). Đồng bào Khmer rất thich và rất xem trọng ca hát. Học có cả hệ thống những bài hát dân gian được phân chia cụ thể dành riêng cho từng dịp lễ, hội. Chẳng hạn như trong lễ cưới, các bài hát vừa diễn tả vừa ca ngợi tình cảm con người trong hôn nhân, những cuộc hôn nhân tốt đẹp là kết quả của tình yêu đôi lứa. Chúng được hát tuần tự trong từng phần nghi thức của buổi lễ, ví dụ như lúc nhà trai tìm cớ xin vào nhà, họ bắt đầu múa và hát lời xa, gần, nào là chuyện xin đất làm nhà, nào là chuyện xin múc nước giếng,… Sau đó, tuần tự các bài hát khác cũng được hát suốt lễ cưới như bài: “Cắt tóc”, “Lễ cột tay” rồi đến “Tiễn khách ra về”. Và như trong làn điệu dân ca có xướng xô và nhịp điệu gắn bó với động tác chèo ghe trong lễ hội đua ghe Ngo hằng năm của người Khmer. Lễ - hội Đồng bào Khmer ở Nam Bộ có tôn giáo chính là Phật giáo Tiểu thừa Nam Tông nên những lễ hội của họ mang màu sắc tôn giáo và gắn liền với sinh hoạt chùa chiền. Tết Chol Chnam Thmay Có dịp đến Trà Vinh vào những ngày trung tuần tháng tư, bạn sẽ cảm thấy rạo rực, phấn chấn trước không khí nhộn nhịp sắm sửa, trang hoàng nhà cửa để chuẩn bị đón Tết Chol Chnam Thmay của đồng bào Khmer. Chol Chnam Thmay còn được gọi là “Tết năm mới” hay “Lễ chịu tuổi”, là một lễ hội truyền thống của đồng bào Khmer ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có Trà Vinh. Đây là dịp người dân Khmer kết thúc một mùa thu hoạch nông nghiệp, hưởng thụ thành quả lao động suốt năm cũ, nghỉ ngơi, vui chơi và đón một năm mới sẽ bắt đầu với mùa mưa dài. Tại Thái Lan, Lào, Myanmar, Sri Lanka và một số dân tộc thiểu số thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc cũng ăn mừng tết vào những ngày này cho dù với tên gọi khác nhau…Giống như Tết cổ truyền của Việt nam được tính theo âm lịch, tết Khmer cũng tính theo một loại lịch mặt trăng riêng của họ, diễn ra vào tháng Chét và kéo dài chính thức trong 3 ngày, theo lịch dương thì thường là vào các ngày 14, 15, 16 tháng 4 (nếu năm nhuận sẽ có thêm ngày 13 tháng 4). Tính theo âm lịch sẽ vào ngày 21, 22, 23 tháng 3 (năm nhuận thì có thêm ngày 20 tháng 3). Từ xưa, nghi lễ quan trọng nhất trong ngày Tết là “đắp núi cát” và “tắm Phật“. Trong 3 ngày Tết, không khí tại các chùa và các phum sóc Khmer gần như náo nhiệt suốt ngày đêm. Để chuẩn bị Tết, gia đình nào cũng tập trung ăn mặc đẹp, các trẻ em được may sắm những bộ quần áo mới. Mọi nhà đều sửa sang, quét dọn, trang trí lại, chuẩn bị đồ ăn thức uống đầy đủ cho những ngày tết. Trước đây người ta giã gạo, chà gạo sẵn, làm bánh. Ngày nay họ chuẩn bị gạo đầy đủ, cùng các đồ ăn như bánh trái, hoa quả, cá, thịt, rau... tất cả đều sẵn sàng. Mọi công việc thường ngày đều dừng lại, mọi người nghỉ ngơi, trâu bò thả tự do. Người người hào hứng chăm lo cho ngày tết. Sửa sang nhà cửa, chuồng trâu chuồng bò đều phải đầy rơm đầy rạ. Trong đêm giao thừa, mọi nhà làm cỗ, đốt đèn, thắp hương, làm lễ đưa Têvôđa năm cũ và rước Têvôđa năm mới. Trên bàn thờ có bày sẵn 5 nhánh hoa, 5 cây đèn cầy, 5 cây nhang, 5 hạt cốm và nhiều loại cây quả. Cả gia đình ngồi xếp chân trước bàn thờ tổ tiên, khấn vái, mong và tin rằng sẽ được thần ban phước lành. Theo quan niệm của người Khmer Nam Bộ, họ tin rằng, Têvôđa là một vị tiên được trời sai xuống trần gian chăm lo cho dân chúng trong một năm. Hết năm đó, trời lại sai một vị khác xuống làm thay công việc chăm lo cho dân. Đây cũng chính là đêm “lễ đi tu” (Bôn Bâm Bous) của các chàng trai. Hiện nay, vẫn còn một số gia đình đưa con trai vào chùa kính Phật, làm lễ quy y đúng vào đêm giao thừa. Theo quan niệm của họ, đây là giờ lành tháng tốt, là giờ khắc tốt nhất trong năm, nên việc xuất gia tu hành gặp nhiều điều tốt đẹp cho bản thân người con mà còn cho cả gia đình. àNgày đầu tiên được gọi là Moha Sangkran hoặc Chol Sangkran Thmay (do cái tên này mà tại Thái Lan và Lào tết được gọi là Sangkran). Vào ngày này, tất cả rửa mặt với chậu nước thánh vào buổi sáng, rửa thân mình vào buổi trưa và rửa chân vào buổi tối trước khi đi ngủ để cầu mong may mắn. Sau khi tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo đẹp, người ta mang lễ vật, chọn một giờ tốt (thường là lúc 7 giờ sáng, 5 giờ chiều hay 12 giờ khuya, tùy theo năm) để mang nhang đèn vào chùa làm lễ rước lịch Moha Sangkran. Theo sự điều khiển của một vị Acha, mọi người đứng xếp hàng và cùng với Moha Sangkran được đặt trong khay sơn son thếp vàng đưa lên kiệu khiêng, đi vòng quanh chính điện 3 vòng trang trọng. Đây vừa là lễ chào mừng năm mới vừa chờ điềm báo năm mới tốt hay xấu, tùy vào cuộc rước có hoàn thiện hay không, rồi mới vào chính điện làm lễ. Sau đó, tất cả vào lễ Phật, tụng kinh chúc mừng năm mới…Ban đêm, những người lớn tuổi tụ họp trong giảng đường nghe sư thuyết pháp, còn thanh niên nam nữ thì tham gia các trò chơi dân gian, hát Dù Kê, Rồ Băm, múa Lăm Vông... tại sân chùa. àNgày thứ hai được gọi là ngày Wanabat hoặc Wonbơf (năm nhuận tổ chức 2 ngày). Sáng sớm và trưa, người ta dâng cơm cho các vị sư (việc này gọi là Ween Chong Ham). Theo tục lệ nhà chùa, vào ngày sóc, vọng, ngày tết, lễ... các tín đồ đi chùa lạy Phật và góp phần nuôi sư sãi bằng cách mang cơm và thức ăn mời các nhà sư. Trước khi thọ bát, các sư tụng kinh làm lễ tạ ơn những người làm ra vật thực, những người mang vật thực đến cho nhà chùa, đồng thời làm động tác ban thức ăn cho những oan hồn uổng tử. Sau khi ăn, các sư lại tụng kinh chúc phúc để tạ ơn những thí chủ đã có lòng từ thiện dâng cơm. Buổi chiều, người ta tiến hành “lễ đắp núi cát” được gọi là Anisong Puôn Phnom Khsach, tức là phúc duyên đắp núi cát. Đây là một tập tục lưu truyền theo sự tích về một người làm nghề săn bắn từ lúc trẻ đến già đã giết rất nhiều muông thú. Về già, ông luôn ám ảnh bởi những loài thú mà ông đã săn bắn, chúng lúc nào cũng đòi mạng ông. Sau đấy, ông được sư sãi hướng dẫn cách đắp núi cát để tích phước. Ông bảo các muông thú nếu muốn đòi nợ ông thì hãy đem đi hết những hạt cát mà ông đã đắp. Nhưng muông thú bất lực, đành kéo nhau đi. Từ đó, ông thợ săn già cố gắng tích đức cho đến một ngày ông về với cõi Phật. Để đắp núi cát, người ta dùng cát sạch đổ thành đống bên ngoài hành lang trước sân chùa. Theo sự hướng dẫn của các vị Acha, người ta lấy cát đắp 9 ngọn núi nhỏ gồm 8 ngọn ở 8 hướng và 1 ngọn ở chính giữa. Ngọn chính giữa tượng trưng cho trung tâm trái đất, còn lại tượng trưng cho bốn phương, tám hướng của vũ trụ. Đắp núi xong, người ta dùng tre (hoặc vật liệu khác) rào quanh 9 ngọn núi này. Tiếp theo là đến phần lễ quy y cho núi, đến ngày hôm sau thì làm lễ xuất thể. Tất cả các nghi lễ này đến ngày nay được gìn giữ. Tục đắp núi cát có ý nghĩa ngăn trở ma quỷ và những điều xấu, đồng thời nhắc nhở mọi người nên tích phúc để ngày một cao vời, lớn lao như núi và lan dần khắp bốn phương, tám hướng. àNgày thứ ba được gọi là Tngai Laeung Saka hoặc Lơm Săk hay còn gọi là ngày Lễ tắm Phật. Vào ngày này, các phật tử Khmer mang thức ăn và hoa quả đến chùa từ tinh mơ để dâng cơm cho các vị sư. Sau khi thọ thực xong, các nghi lễ tắm Phật chính thức bắt đầu: Trước tiên, các nhà sư dùng nước tinh khiết có ướp hương thơm ngát. Họ dùng những cành hoa để vẫy những giọt nước hoa lên tượng Phật. Trong làn khói hương nghi ngút, người Khmer thành tâm khấn nguyện cầu mong Phật Trời gia hộ cho dân làng được dồi dào sức khoẻ, ruộng rẫy tốt tươi và trúng mùa. Họ cũng cầu chư Thiên hộ trì cho phum, sóc an lành, mọi người tai qua nạn khỏi và đạt thành những điều ước nguyện. Sau lễ tắm Phật, người Khmer còn làm lễ tắm cho các nhà sư cao niên trong chùa. Kế đến là lễ Kha Ma Tôs, tương tự như lế sám hối của người Việt. Sau đó mọi người theo các vị sư đến các tháp đựng hài cốt và các nghĩa trang để làm lễ Bâng Skâu (cầu siêu). Tất cả mọi người dưới sự hướng dẫn của vị Achar sẽ thành tâm cầu nguyện cho các vong linh những người thân của mình được siêu thoát. Cuối cùng, sau nghi lễ tắm Phật tại nhà. Tất cả con cháu trong gia đình trải chiếu hoa, mời ông bà, cha mẹ ngồi vào để nhận lời xin tha thứ những thiếu sót hay lỗi lầm mà họ đã vấp phải trong suốt năm qua, cũng như nhận hứa thành tâm sửa đổi. Sau khi đọc kinh cầu nguyện, ước mong năm mới cả nhà sẽ luôn gặp được nhiều điều may mắn, vui vẻ, bình an và hạnh phúc, con cháu sẽ dùng nước hoa thơm tắm cho ông bà, cha mẹ để tỏ lòng nhớ đến công ơn sinh thành dưỡng dục và sẽ nhận được những lời chúc và khuyên bảo từ các thế hệ trước với tình thương yêu sâu sắc. Trong ba ngày Tết, cũng giống như tục lệ của người Việt, người Kh’mer đi thăm hỏi lẫn nhau, chúc nhau tài lộc, sức khoẻ, phát đạt và cùng nhau tham gia các trò vui. Hàng quán bày các nơi trong khuôn viên chùa, là dịp để đồng bào dân tộc Khmer Nam bộ giới thiệu với các bạn phương xa nền văn hóa ẩm thực độc đáo của họ. Ngoài bún nước lèo nức tiếng gần xa, còn có bánh ống được làm bằng khoai mì mài vắt ráo nước, gạo vo rút nước phơi ráo xay khô đâm nhuyễn, dừa rám nạo rồi bằm, tất cả trộn đường cát. Cho hỗn hợp này hấp chín trong hai (hoặc bốn) chiếc ống tre cách thủy trên miệng nồi đất. Bánh chín, tròn dài nổi bật trên nền lá chuối xanh tươi. Cắn nhẹ, cảm giác bánh xốp như bánh bò bông tan dần trên mặt lưỡi. Nhưng bánh dùng để cúng trong chùa của đồng bào dân tộc Khmer độc đáo hơn là bánh gừng mà họ gọi là Num Kh’nhây. Ngoài ra, để cúng chùa, người ta chuẩn bị các loại bánh mứt khác cùng đồ ăn thức uống các loại khá chu đáo, nhưng nhất thiết phải có 5 loại bánh: Nùm chruốt (bánh tét nhân mỡ), Nùm chết (bánh dừa nhân chuối), Nùm tiên (bánh ít), Nùm niềng nóc và Nùm bóc cháp (bánh bột nhân dừa). Cùng với hương đăng hoa quả, họ mang tất cả vào chùa cúng bái với mong ước mưa thuận gió hòa, gia đình an khang hạnh phúc, con cháu học hành tấn tới nên người. Buổi tối, người ta thường tổ chức nhiều trò vui như đốt đèn trời, đốt ông lói, đánh quay lửa... Các cụ già kể cổ tích, thần thoại, chuyện cũ cho con cháu nghe. Trong những ngày lễ tết, những người trẻ tuổi tập trung tham gia các chò chơi truyền thống như Chaol Chhoung (ném bóng) và Bas Angkunh (gieo hạt). Bên đội chơi thường được chia ra bên nam và bên nữ để tranh tài, đội này ném cái khăn cuộn tròn sang đội kia, vừa ném vừa hát tạo ra không khí sôi nổi, hào hứng. Bên nào ném chính xác hơn sẽ giành phần thắng. Giải thưởng đôi khi chỉ là các vật bình thường nhưng mang lại không khí vô cùng vui vẻ. Còn không thì họ tham gia chơi kéo co, đấu vật, chạy đua, bịt mắt bắt dê hoặc múa Lăm Vông, múa trống, hát Aday, diễn Rồ Băm, hát Dù Kê... Không khí lúc nào cũng vui vẻ. Thời gian có khi kéo dài hơn tuần mới trở lại cuộc sống thường nhật. Lễ Dolta Hằng năm, cứ vào khoảng cuối tháng 8 âm lịch (Khmer gọi là tháng Photrobot), đồng bào Khmer lại tổ chức mừng lễ hội Sen Đolta, còn gọi là tết Sen Dolta, nhằm tưởng nhớ công ơn cha mẹ, họ hàng, cầu phước cho linh hồn những người đã khuất và tri ân tổ tiên đã khai phá đất đai, phù hộ cho phum, sóc an vui. Không tưng bừng, náo nức như lễ vào năm mới Chol Chnăm Thmây, cũng không nhộn nhịp như ngày hội Ook Om Bok, lễ Sen Đolta thâm trầm hơn, mang đậm những sắc thái văn hóa, tín ngưỡng đặc trưng văn hoá của người Khmer ở Trà Vinh nói riêng và của người Khmer Nam Bộ nói chung. Và hơn thế nữa, lễ hội thể hiện được truyền thống đạo lý “cây có cội, nước có nguồn” của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mang tính nhân văn và tính giáo dục đạo đức sâu sắc. Bên cạnh đó, qua nội dung của lễ hội đã giúp cho gia đình sum họp, đầm ấm; thắt chặt tình đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau trong phum sóc. Vật Sen Dolta tượng trưng không thể thiếu được là bánh tét (đồng bào gọi là Nùm Chruôt) nhằm tượng trưng cho ý nghĩa đó. “Sen Dolta” dịch ra tiếng Việt có nghĩa là “cúng ông bà”, do đó lễ hội Sen Dolta bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian. Từ xa xưa, đồng bào Khmer cho rằng ngoài thế giới hiện hữu còn có thế giới hồn linh; con người chỉ chết đi về thể xác, còn linh hồn thì vẫn tồn tại ở cõi vĩnh hằng. Xuất phát từ đó, hình thức “Sen” (cúng) là một lễ thức không thể thiếu trong đời sống tâm linh của đồng bào với mục đích là để vừa bày tỏ lòng biết ơn, vừa cầu mong đạt được những điều tốt lành, phước đức của người đang sống đối với người đã chết. Việc “Sen” chủ yếu nhằm vào 2 đối tượng là hồn linh những người đã chết có quan hệ huyết thống với mình và những người có công tạo lập, bảo vệ cộng đồng dân tộc. àNguồn gốc Lễ Sen Dolta: Truyền thống lễ Sene Dolta của người Khmer ở Nam bộ đã có từ thời xa xưa, trước khi đạo Phật truyền vào xã hội người Khmer. Những truyền thuyết về nguồn gốc của lễ Sen Dolta được nói đến như sau: Người Khmer ở Nam bộ thường làm nghề nông, trồng lúa nước. Nghề trồng lúa nước bắt đầu khoảng tháng 4 Âm lịch là gieo mạ, tháng 6-7 đầu tháng 8 là nhổ mạ cấy lúa. Đến đây mùa cấy đã sắp xong và mùa này cũng là mùa mưa, nước lũ lại đến. Sau mùa mưa rảnh rỗi, những người nam nữ con cháu thường hay chống xuồng chèo ghe tìm đến để thăm hỏi ông bà cha mẹ già yếu cộng thêm giữa mùa thiếu hụt và mùa mưa lũ lụt này, có người phải chống xuồng chèo ghe đi xa mới tới được nơi ở của ông bà cha mẹ, nên phải mang theo cơm khô, gạo, trái cây, vật thực... để vừa dâng biếu cho ông bà cha mẹ vừa là cho mình ăn theo dọc đường đi. Có người thì tìm gặp được ông bà cha mẹ, người thì không gặp vì qua mùa nước lũ lụt, tuổi già sức yếu, đã qua đời mà con cháu lo làm lụng không luôn đến thăm hỏi nên không hay biết... Dần dần những người cùng đi, họ hẹn hò gặp nhau ở một chỗ nào đó để làm lễ nhớ ơn chẳng hạn, hoặc cùng chia buồn với bạn bè là người tìm không gặp ông bà cha mẹ... Sau khi có chùa chiền Phật giáo thì họ hẹn hò nhau tụ hội về chùa. Vậy là họ đã qui định với nhau rằng làm lễ Sen Dolta từ ngày 16 cho đến 30 tháng Bhaddapada. Lâu dần Lễ Sen Dolta được đồng bào Khmer Nam bộ gọi đây là Lễ ông bà. Đến khi đạo Phật xâm nhập vào đời sống dân cư của đồng bào Khmer Nam bộ, thì cũng có những quan niệm Lễ Sen Dolta bắt nguồn từ sự tích rút ra từ kinh điển Phật giáo. Sự tích kể rằng, một hôm, vào lúc đêm khuya canh vắng, tại hoàng cung của Vua Ping-pis-sara, bỗng vang dội tiếng gào thét, khóc lóc thảm thiết, kèm theo là tiếng van xin: “Hãy cho chúng tôi ăn, cho chúng tôi uống với, vì chúng tôi đang đói lắm!”. Nhà vua bèn truyền lệnh triệu tập các nhà tiên tri đến hỏi, các nhà này cho rằng : "Đây là các ma quỉ chết oan, chết ức, không cha mẹ, không nhà cửa anh em, nay họ đến xin ăn uống. Nếu Hoàng Thượng không lo cúng tế e sợ có chuyện bắt 100 người nam, 100 người nữ và 100 con vật để làm lễ cúng tế. Nghe tin đó, bà hoàng hậu can gián : "Nếu Hoàng Thượng làm như vậy, 200 người này bị chết oan ức, những người thân của họ càng phẫn uất, vậy nó sẽ càng có hại cho mình và vương quốc. Quốc Vương nghe vậy, mới ngự giá tìm đến chùa thỉnh ý Phật Thích Ca. Phật bảo rằng: “Đó là những đầu bếp (do gian lận ăn cắp cơm gạo, thức ăn trong các lễ cúng dường ở thời Quốc Vương Mahinta – cách nay đã 92 kiếp) khi chết đi thành quỷ ở cõi âm và bị phạt phải nhịn ăn, nhịn uống đến nay là 92 kiếp – nay biết Ngài (tức Quốc Vương Ping-pis-sara) là chủ của họ hồi tiền kiếp nên họ mới đến đòi ăn. Vậy Ngài nên cúng dường, dâng cơm cho các tu sĩ, nhờ ân đức và lời kinh của các vị này chuyền phước đến bọn quỷ đó. Nhưng ma quỉ chúng ta không thể cho vật thực, đồ ăn trực tiếp được, mà phải dâng cúng vật thực đồ ăn đến các vị có giới đức rồi nhờ các vị có giới đức ấy tụng kinh hồi hướng thì các ma quỉ thuộc ân nhân đã quá cố mới thọ hưởng được do phép hồi hướng đó.” Nhà vua vâng lời Đức Phật, bọn quỷ được ăn uống no nê. Ma quỉ được hưởng đầy đủ vật thực nên đêm thứ nhất không có nghe tiếng rên khóc. Qua đêm thứ hai nhà vua lại nghe tiếng rên khóc tiếp. Sáng sớm hôm sau, nhà vua đến chùa chỗ Đức Phật ngự, bạch với Đức Phật. Đức Phật dạy tiếp rằng : "Đêm trước ma quỉ được ăn no đầy đủ nên không rên la. Đêm sau lại rên la tiếp là vì chỉ ăn uống đầy đủ mà chưa có đồ mặc nên lại rên la tiếp vì bị rét lạnh". Nhà vua nghe xong, về cho người chuẩn bị y áo cùng vật thực làm lễ dâng cúng đến chư tăng và nhờ chư tăng hồi hướng tiếp. Nhà vua không còn nghe tiếng rên than của ma quỉ nữa. Từ đó về sau mỗi năm cứ đến mùa là nhà vua lại cho thỉnh mời chư tăng đến để làm lễ hồi hướng cho ma quỉ và những người đã quá cố. Từ sự tích trong Kinh điển Phật giáo trên, nên người dân tộc Khmer Nam bộ tổ chức Lễ Sen Dolta hằng năm thành phong tục, gắn với nghi thức tôn giáo nhằm nhờ sư sãi tụng kinh cầu phước cho ông bà, cha mẹ, họ tộc quá cố được mau chóng đầu thai kiếp khác sung sướng hơn. Nghi lễ vu lan, báo hiếu của Lễ Sen Dolta Lễ hội Sen Dolta thường diễn ra dưới 2 dạng hình thức đó là Sen Dolta tổ chức tại nhà và Phchumbinh (có nghĩa là hội cơm nắm, cơm vắt) tổ chức tại chùa. Sen Dolta mang màu sắc tín ngưỡng dân gian, còn Phchumbinh mang màu sắc tôn giáo và là cách gọi chung của 3 lễ tiết được cử hành tại chùa trong thời gian diễn ra lễ hội. Ngày nay, giữa hai dạng thức Sen Dolta và Phchumbinh đã có sự kết hợp hài hoà, tế nhị, sâu sắc và rất thú vị mà thường được gọi chung là lễ Sen Dolta. Lễ Sen Dolta kéo dài từ ngày 16 đến 30/8 âm lịch hằng năm, với 04 lễ thức chính tại chùa và tại mỗi nhà người dân tộc Khmer Nam Bộ, đó là: -Lễ đặt cơm vắt (Banh Canh Banh) -Lễ cúng ông bà (Banh Sen Dolta) -Lễ hội (Banh Phchum Banh) -Lễ tiễn ông bà (Banh Chuônh Dolta) * Nghi thức Lễ đặt cơm vắt (Banh canh banh): Được tổ chức tại Chùa dân tộc, từ 16 đến cuối tháng 8 âm lịch hàng năm. Các vị Acha phân công cho từng nhà, hoặc từng tổ (vênh) thay phiên nhau đem gạo nếp, thực phẩm, nhang đèn, tiền bạc… về Chùa để tổ chức nấu nướng và cúng liên tục thời gian 15 ngày. Mỗi ngày nấu nhiều mâm cơm, đặc biệt có một mâm cơm được vắt cơm thành từng viên tròn bằng trái cam – người Khmer gọi là bai banh. Theo các vị chức sắc ở phum sóc thì: Từ này bắt nguồn từ phạm ngữ Banh-đa có nghĩa là phầm cơm dâng cúng cho người đã chết. Cơm vắt (bai banh) được đặt trong mâm cùng với bánh trái, thức ăn, thức uống đem lên nhà hội (sa la) cúng Tam Bảo, có sự chứng kiến, tụng kinh nhằm cầu phước của sư sãi cho linh hồn những người trong họ tộc đã quá cố. Sau đó đem cơm vắt ra ngoài cúng cho ma quỷ. Lễ đặt cơm vắt được cúng liên tục tại chùa trong 15 ngày như thế. * Nghi thức Lễ cúng Ông Bà (Banh Sen Dolta) : Được tổ chức vào ngày cuối của thời gian Lễ đặt cơm vắt (ngày 30/8 Âm lịch) và vào chiều cùng ngày, sau khi cúng trên Chùa xong, được tổ chức tại mỗi gia đình người dân tộc Khmer Nam bộ. Trước đó, từng nhà dọn dẹp, trang hoàng sạch sẽ và ngày cúng Ông Bà được mỗi gia đình sắm sửa một mâm cơm thịnh soạn, có hoa quả, nhang đèn… rồi mời họ hàng và gia đình sum họp đầy đủ cùng nhau cúng vái. Thường là khấn vái, mời linh hồn những người trong họ tộc đã quá cố về ăn uống. Người chủ hộ khấn vái ba lần, mỗi lần rót trà, rượu và gắp thức ăn mỗi thứ một ít vào chén… Tiếp đó là đem ra sân để cạnh hàng rào nơi sạch sẽ, đốt nhang mời ma quỷ đã dẫn dắt ông bà họ về cùng ăn. Vì theo người dân tộc, những linh hồn ma quỷ ấy không dám lên ăn chung mâm với ông bà nên phải đem ra ngoài cho ăn riêng. Họ khấn vái, mời ông bà, dòng họ quá cố và ma quỷ ở lại ăn uống, vui chơi trong ngày lễ. Sau đó, gia đình, họ tộc, bạn bè (có nhà mời bạn bè là người Kinh láng giềng) cùng nhau ăn nhậu mừng đón Lễ. * Lễ tiễn đưa Ông Bà (Banh chuônh Dolta): Được tổ chức vào 3 ngày sau, tức qua mùng 3/9 âm lịch tại mỗi gia đình. Mỗi gia đình đều làm một chiếc thuyền bằng bẹ chuối – dài từ 5 đến 7 tấc, trang trí cờ phướn màu sắc rực rỡ. Sau khi nấu mâm cơm thịnh soạn, họ bới 4 chén cơm gắp thức ăn mỗi thứ một ít vào chén rồi khấn vái và mang ra đặt trên thuyền, cùng với lúa, gạo, muối, đậu, bánh trái… người chủ gia đình đem thả trên sông hoặc kênh rạch, mé ruộng gần nhà, nhằm đưa tiễn ông bà và ma quỷ cùng trở về âm phủ. Sau đó, tập trung về nhà cùng quây quần ăn uống vui chơi với gia đình, họ hàng, bè bạn. Đến đây, coi như lễ Sen Dolta đã chấm dứt . Ngày nay, đồng bào Khmer Nam bộ tổ chức lễ Sen Dolta chỉ trong ba ngày. Trong ba ngày lễ Sen Dolta diễn ra có nhiều họat động tín ngưỡng, tôn giáo và các họat động khác biểu hiện phong tục, tập quán diễn ra đan xen với nhau thể hiện bản sắc văn hóa riêng của đồng bào Khmer Nam bộ, đó là: àNgày Cúng tiếp đón:Mỗi gia đình đều dọn dẹp nhà cửa khang trang, lau chùi bàn thờ tổ tiên sạch sẽ, trang hoàng lộng lẫy. Sau đó, dọn mâm cơm ngon cùng bánh trái, rượu trà và để bốn chén cơm với bốn đôi đũa ở bốn góc giường thờ, mời họ hàng thân tộc trong phum sóc đến thắp nhang đèn cúng kiến. Quanh mâm cơm, đàn bà ngồi xếp chân sang một bên, đàn ông ngồi chồm hổm, cùng chắp tay lạy và đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn những người thân quá cô. Sau ba lần rót rượu và trà khấn vái, gia chủ gắp thức ăn mỗi món một ít, rót một chút rượu và trà cúng lên bốn chén cơm, xong đem đi đổ ở bốn góc rào chung quanh nhà, mỗi nơi cắm một nén nhang mời linh hồn ông bà về dự cùng con cháu. Buổi chiều, mọi người trong nhà ăn mặc tươm tất, dọn mâm cơm mới cúng ông bà, đủ ba lần rót rượu và trà khấn vái, chủ nhà mời linh hồn ông bà cùng đến chùa nghe sư sãi tụng kinh cầu siêu và thuyết pháp cho đến tối. Buổi tối, các vị achar lấy những nắm cơm vắt đựng trên mâm cúng tam bảo, mời sư sãi tụng kinh cầu siêu cho linh hồn những người quá cố, rồi đem ra ngoài để chung quanh chính điện cúng cho những vong hồn cô đơn, không có con cháu đến cúng. Các trò chơi dân gian, văn nghệ và thể thao được tổ chức tại sân chùa, thu hút đông đảo bà con trong phum sóc đến vui chơi trong các ngày lễ Sen Dolta. àNgày Cúng chính: Đồng bào Khmer quan niệm, linh hồn ông bà mình đã ở chùa từ tối hôm qua, đến trưa ngày hôm sau thì mọi nhà chuẩn bị mâm cơm ngon cùng bánh trái mang vào chùa tổ chức lễ cúng chính, mọi người tham dự mời sư sãi tụng kinh cầu siêu cho linh hồn ông bà của tất cả mọi nhà trong phum sóc. Sau khi các vị sư độ cơm xong, bà con phật tử trong phum sóc cùng ăn, trao đổi kinh nghiệm trong công việc đồng áng và vui chơi tại chùa. Buổi chiều, rước linh hồn ông bà về nhà, làm mâm cơm mới cúng ông bà và mời ông bà ở lại chứng kiến cuộc sống sung túc của con cháu. Cúng xong, họ hàng thân tộc cùng bà con láng giềng trong phum sóc mời nhau ăn uống từ nhà này đến nhà khác, họ cùng nhau vui chơi múa hát theo điệu nhạc và tiếng trống cho đến đêm tối. àNgày Cúng tiễn: Mỗi nhà làm một mâm cơm ngon, đặt bốn chén cơm với bốn đôi đũa ở bốn góc giường thờ, mời vài vị sư sãi cùng họ hàng thân tộc trong phum sóc đến nhà tụng kinh cầu siêu để tiễn đưa linh hồn ông bà và những người thân quá cố. Sau ba lần rót rượu và trà khấn vái, chủ nhà gắp thức ăn mỗi thứ một ít vào chén, xong đổ bốn chén này vào chiếc thuyền làm bằng bẹ chuối, gắn thêm hình nộm cá sấu và treo cờ phướn hình tam giác, (có nơi người ta còn để thêm các gói đậu, mè, muối, bánh trái... mỗi thứ một gói nhỏ để ông bà có thức ăn dự phòng và tránh tai nạn xảy ra dọc đường), thắp một nén nhang rồi thả chiếc thuyền này xuống sông rạch gần nhà để tống tiễn ông bà trở về thế giới bên kia. Cúng xong, mọi người cùng dự lại mời nhau ăn uống và chung vui cho hết ngày Cúng tiễn. Kết thúc ba ngày Lễ, chủ nhà thu xếp mùng, mềm, chiếu, gối và bộ đồ mới trên giường thờ cất vào tủ để đón lễ Sen Dolta năm sau. Đồng bào Khmer thấm nhuần giáo lý nhà Phật, luôn tâm niệm tưởng nhớ công đức sinh thành dưỡng dục thể hiện ở tấm lòng thành kính, bởi vậy lễ vật dâng cúng ông bà tổ tiên trong lễ Dolta không phô trương hình thức, mâm cao cổ đầy, mà tùy theo điều kiện kinh tế mỗi gia đình. Lễ vật thường là những món ăn bình dị, gần gũi hàng ngày, như trái cây vườn nhà, sản vật chợ quê. Trong lễ Sen Dolta, con cháu người Khmer còn chuẩn bị các thức ăn ngon, lễ vật có ý nghĩa, dâng lên ông bà cha mẹ còn sống để tỏ lòng hiếu kính. Lễ Ook Om Bok và hội đua ghe Ngo Lễ Ook Om Bok được biết dưới những tên khác nhau như Lễ cúng trăng, lễ đút cốm dẹp hay lễ đưa nước. Đây là lễ lớn thứ ba trong năm của đồng bào Khmer Nam bộ, diễn ra vào trung tuần tháng Mười âm lịch (15/10), khi nước lũ rút khỏi đồng bằng sông Cửu Long. Có nhiều cách giải thích khác nhau về nguồn gốc lễ này. Phần lớn nghiêng về thuyết có tên gọi là “cúng trăng” là vì lễ nhằm để tưởng nhớ đến công ơn mặt trăng, coi mặt trăng là một vị thần điều tiết mùa màng đã giúp con người được làm ăn khá giả trong năm. Cách lý giải khác là lễ này có nguồn gốc dựa trên một điển tích của kinh Phật. Đó là chuyện về một con thỏ đã nhảy vào lửa để cúng dường cho một vị tu sĩ. Vị tu sĩ này chính là hiện thân của thần Sekara. Thần lấy làm cảm động với nghĩa cử ấy nên vẽ lên mặt trăng hình con thỏ để nhân gian tưởng nhớ. Còn con thỏ ấy lại chính là kiếp trước của Phật Thích Ca. Còn một cách giải thích khác trên cơ sở hiện vật chính được cúng trong ngày lễ, cũng như đặc điểm về tập quán sản xuất và sinh họat của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi có mùa nước nổi. Loại thức ăn rất đặc biệt dùng để cúng trong dịp lễ Ook Om Bok là cốm dẹp. Cốm dẹp là một lọai thức ăn được làm từ lúa nếp. Tháng Mười âm lịch là lúc nếp trên đồng vừa chín. Người ta gặt về rồi lấy hạt còn nguyên vỏ rang lên, giã (quết) bằng cối và chày gỗ cho dẹp lại (vì vậy mới có tên là “cốm dẹp”). Càng gần đến ngày rằm, tiếng cối chày quết cốm dẹp trong các sóc của đồng bào Khmer rộn vang rất rôm rã. Đến ngày lễ, sau khi cúng trăng xong, người lớn sẽ đút cốm dẹp cho trẻ em ăn. Vừa đút vừa hỏi “Con muốn được gì”, dĩ nhiên những đứa trẻ đã được dạy trước nên trả lời “Năm nay con muốn được nhiều gạo và tiền”. Sở dĩ có tục lệ này là vì người ta tin rằng sẽ làm ăn phát đạt trong mùa tới. Với hình thức như vậy nên gọi là lễ đút cốm dẹp. Lễ Ook Om Bok và còn được gọi là lễ đưa nước, do phụ thuộc vào thiên nhiên và nhất là nước đóng vai trò quan trọng trong đời sống nông nghiệp và do vị trí địa lý khu vực họ đang sống nên cộng đồng người Khmer xem nước như vị thần có thể mang hạnh phúc cũng như tai họa, chính vì vậy vị thần không giận dữ, phẫn nộ giúp người dân có mùa vụ tốt tươi thì khi kết thúc vụ mùa người ta sẽ làm lễ tạ ơn. Lễ thể hiện tấm lòng biết ơn của con người đối với hiện tượng tự nhiên. Với quan niệm về vũ trụ và hình thức cũng như ý nghĩa của lễ như vậy nên có thể nhận thấy đây chính là kết quả của nền văn minh nông nghiệp. Ở đây là nông nghiệp lúa nước, vì người Khmer sinh sống trong khu vực địa lý chịu nhiều tác động và phụ thuộc vào thiên nhiên, nhất là lũ lụt theo mùa, trong khi hoạt động sản xuất chủ yếu chỉ là canh tác lúa nước. T iến trình diễn ra lễ: Cũng như nhiều lễ dân gian khác trên khắp thế giới, Ook Om Bok cũng có hai phần là lễ và hội. Phần lễ chủ yếu là những họat động xung quanh nghi thức cúng trăng. Cúng trăng có thể tại chùa, tại nhà hoặc một nơi có thể nhìn thấy mặt trăng rõ ràng. Trước khi trăng mọc, người ta sẽ tụ tại đến những nơi này để chuẩn bị cúng trăng. Đầu tiên, người ta làm một cái cổng bằng cây tre, trúc rộng khoảng 3 mét, trang trí thật đẹp. Dưới cổng người ta kê một cái bàn bày các vật cúng. Ngoài cốm dẹp là lễ thức bắt buộc, còn có các loại vật phẩm cúng khác có nguồn gốc từ nông nghiệp như chuối, các loại khoai, trái cây, bánh kẹo. . . Mọi người ngồi chắp tay quay mặt về phía mặt trăng làm lễ chờ trăng lên. Khi trăng lên đến đỉnh, mặt trăng tỏa sáng, người ta đốt nhang đèn và rót trà làm lễ tạ ơn trăng. Ông chủ lễ sẽ khấn vái nói lên lòng biết ơn của đồng bào đối với mặt trăng, xin mặt trăng tiếp nhận những lễ vật do đồng bào dâng và chúc phúc cho loài người có sức khỏe dồi dào, được mưa thuận, gió hòa để mùa màng tốt đẹp, dân chúng hưởng được ấm no, hạnh phúc trong năm tới. Sau khi cúng, trẻ em được đút cốm dẹp như đã biết. Sau cùng, mọi người cùng vui vẻ dùng các thức ăn và các em múa hát, vui chơi các trò chơi dân gian. Phần hội trong dịp lễ Ook Om Bok thường lôi cuốn tất cả ba dân tộc anh em (Khmer, Việt, Hoa) sống trên địa bàn cùng tham dự. Tâm điểm của mọi sự chú ý là các cuộc đua ghe Ngo – người Việt gọi đơn giản là “bơi đua”, rất vui tươi và hào hứng. Hội đua ghe Ngo của dân tộc Khmer được bắt đầu vào khoảng lúc 13 giờ và kết thúc vào khoảng lúc 18 giờ, tức là tổ chức vào buổi chiều ngày lễ Ook Om Bok. Nhưng trước ngày đua, ban tổ chức đã tiến hành làm lễ hạ thủy cho những chiếc ghe Ngo để các đội đua có thể tập luyện. Dân gian gọi đây là lễ mặc áo cho ghe Ngo. Theo nghi thức, người ta cắm nhang và nến vào một cái gọi là Sa La Tho làm từ quả dừa hoặc than cây chuối đặt ở mũi ghe. Tiếp đó, vị Đại đức trưởng tăng và người đại diện phum – sóc chọn ra những thanh niên có thân hình lực lưỡng và khoẻ mạnh làm đội quân bơi, đồng thời cử ra một ông ngồi ở đấu ghe làm chỉ huy. Sau đó là đến nghi thức cúng cơm, trỗi nhạc và ấn định thời gian hạ thuỷ. Đến giờ định chiêng trống bắt đầu nổi lên, mọi người bắt đầu reo hò, hợp sức lại đẩy ghe xuống nước để đưa đến nơi tập hợp. Đến chiều ngày lễ Ook Om Bok, dòng người và xe cộ đã nườm nượp kéo nhau về bãi đua, đứng chật cứng cả hai bên bờ song nơi diễn ra cuộc đua để chứng kiến những trận đua ghe Ngo quyết liệt và đầy hào hứng. Các ghe thì xếp thành hàng hai theo thứ tự, chờ đến lượt tranh tài của mình. Cuộc đua gồm ba vòng: vòng loại, vào chung kết và vòng đua phân thứ hạng. Cuộc tranh tài được khởi động bởi pháo hiệu và lần lượt một trận hai ghe đua về đích trong sự điều khiển của những chi huy trên ghe. Những người chỉ huy này dùng miệng liên tục thổi tu huýt kết hợp với động tác tay để điều khiển nhịp chèo, động viên tinh thần và thúc giục các vận động viên chèo ghe về đích một cách nhanh nhất. Làn điệu dân ca có xướng xô và nhịp điệu gắn bó với động tác chèo ghe vang lên: Xướng: Ăn cơm độn khoai! Một cắc bạc ba tạ lúa Xô: Hầy dơ! Hầy dớ dơ! Xướng: Con gái ở trên bờ / Con trai bơi dưới song Xô: Hầy dơ! Hầy dớ dơ! Xướng: Chèo đi nước ngược / Chèo về nước xuôi Xô: Hầy dơ! Hầy dớ dơ! Cứ như thế, cuộc đua đi đến vòng cuối nhằm xác định đội chiến thắng cuối cùng… Lễ đua ghe Ngo làm cho Ban tổ chức, các vận động viên và khan giả thất cái hay của ngày lễ cổ truyền để thưởng lãm. Ngày hội giúp ta sảng khoái tinh thần khi nhìn mọi người sống có hành xử tốt. Lễ đua ghe Ngo kết thúc là lúc mỗi con người dọn rửa mình sạch sẽ để bước vào lễ cúng trăng sẽ diễn ra lúc đêm về. (Theo Thế Ngọc, báo Văn hoá các Dân tộc - Số 5/2007) Lễ hội ở đây không những chỉ đề cập đến những lễ hội lớn chung của cộng đồng người Khmer mà còn muốn đề cập đến những buổi lễ diễn ra hằng ngày trong sinh hoạt như lễ cưới, lễ ma chay, lễ xà mạ,… Lễ cưới Pithi Apea Pipea Nói đến lễ cưới, đó là buổi lễ mang đận tính đặc sắc với những nghi thức cổ truyền đặc trưng của dân tộc Khmer. Mỗi nghi thức đều có ý nghĩa giáo dục đạo đức và có triết lý cao góp phần tạo nên ý nghĩa tươi đẹp trong đám cưới cũng như in đậm dấu ấn tinh thần của đôi vợ chồng. Lễ cưới thường dung màu đỏ vì đây là màu của máu, của lửa, của trái tim, tượng trưng cho niềm vui, hạnh phúc và sự may mắn. Trước đây, lễ cưới thường được tiến hành trong 3 ngày với 3 giai đoạn: vào lễ, làm lễ và chung giường trước sự chứng kiến của hàng chục đến hàng tăm người đến dự cưới. Cho nên, đám cưới ngoài ý nghĩa là lễ ra còn mang ý nghĩa của hội họp. Trước đó, người ta đã tiến hành các lễ chạm hỏi và xin quyết định ngày cưới. Đến ngày cưới, nhà trai mang lễ vật gồm bốn nải chuối, bốn chai rượu, bốn gói trà, bốn gói trầu,…và cả dàn nhạc theo sang nhà gái (lễ Don-he Ph’ca Sla). Hôm ấy, nhà gái sẽ rào kín cổng ngụ ý rằng bên nhà gái có cô dâu còn trinh tiết. Lúc hai đoàn nhà trai, nhà gái gặp nhau sẽ có hai người đại diện hai bên ra diễn cảnh xin mở cổng. Nhà trai bắt đầu mở lời hát xa, hát gần để xin vào, nhưng nếu nhà gái cứ khăng khăng từ chối thì học sẽ cử ông Maha rút dao ra múc điệu Rom-bơk-kơ-ri-bong, tức điệu múa mở rào, trông rất đẹp mắt. Và lễ cưới nhộn nhịp hẳn lên khi nhà gái đồng ý mở cổng. Mọi người bắt đầu ca hát : Người ta nói ông vua Không bao giờ đi bộ Khi thì vua cưỡi ngựa Khi thì vua cưỡi voi Phải có quan theo hầu Đằng sau rồi đằng trước Nào khiêng, nào đưa đi rước Rằng hết sức tưng bừng Sấm vang nghe đùng đùng Như nổi lên hát múa Cho tới khi vua ngủ Ới nàng theo hầu ơi .(1) Và lời hát vui đã thúc giục mẹ cô dâu cùng một cô con gái khác con trai nếu không có con gái ra cửa đón nhà trai vào nhà. Tiếp đến, chú rể được đưa đi vái nhà ông Tà, xin được ông Tà nhận là thành viên mới của phum, sóc, Sau đó, các nghi thức lễ khác cũng lần lượt diễn ra trong bầu không khí âm nhạc vừa sôi nổi, vừa tha thiết, du dương với tất cả 26 lời ca. Trong nghi thức của “Lễ cắt tóc”, mọi người cùng nhau hát bài “ Cắt tóc” trong âm thanh thiết tha, ấm cúng của dàn nhạc: Bởi vì em yêu anh Nên anh yêu em mãi Muốn tình yêu chung thủy Em cắt tóc tặng anh Hỡi em yêu hiền lành Mái tóc mềm đen nhánh Anh mong điều may mắn Trong chiếc kéo trên khay Em hãy ngồi xuống đây Dưới tàn cô so đũa Mái tóc em buông xoã Thay lời em yêu anh. (2) Vào đêm ấy, cô dâu ngồi đối diện với ông lục, chú rể ngồi bên trái ông Acha và họ hàng ngồi xung quanh trong khi ông lục tụng kinh chúc phúc cho đôi trai gái. Kế đến, chú rể dâng bánh trái cho cha mẹ cô dâu để tỏ lòng nhớ ơn người đã sinh thành ra vợ của mình. Cứ như thế, đám cưới diễn ra sôi nổi, rộn rang trong âm thanh của dàn nhạc và những bài hát dân ca quen thuộc. Bên cạnh đó, những nghi thức lễ cưới cũng nối tiếp diễn ra. Trước tiên là “Lễ cột tay” (Chon đay) với việc cột tay cô dâu và chú rể bằng một sợi chỉ hồng và mọi người lại hát vang: Loại chim sáo thích ở rừng Vui hát tưng bừng khi đậu cạnh cành cây Mà cũng thích đó thích đây Nhưng không them cám gạo xay sẵn rồi Để anh đặt bẫy gài mổi Ngay dưới tổ sáo, em ơi hãy chờ. (3) Sau lễ cột tay, người ta cho đôi vợ chồng mới và buồng tân hôn, cô dâu đi trước, chú rể đi sau nắm vạt áo của vợ như hình ảnh hoàng tử Thông nắm vạt áo công chúa Rắn đi xuống thủy cung trong truyền thuyết của dân tộc Khmer. Tân lang, tân nương thay y phục, ra ngoài chào đón khách. Sau đó đến lễ “Cuốn chiếu”. Lễ này do ông Maha thực hiện. Đôi chiếu được người nhà trai mang đi tới, đi lui nhiều lượt, rồi mới trải ra. Ông Maha múa, miệng luôn hát “Ai mua chiếu không?”. Không có tiếng trả lời. Buổi lễ lắng lại, ông Maha lại hỏi: “Ai chuộc chiếu này sẽ có uy thế lớn và sẽ giàu có, đông con”. Nghe tới câu này, cặp mắt chú rể sáng lên, vội chạy đến ông Maha xin chuộc chiếu. Thấy cảnh đó, mọi người bèn đến vây quanh, hoan hô chú rể. Họ không tiếc lời chúc tụng vì chú rể đã có suy nghĩ và việc làm đúng. Khi chú rể chuộc được chiếu, người sinh thành cô dâu mời hai người đàn bà có đạo đức, gia đình khá giả, hạnh phúc vào trải chiếu cưới. Góp vui trong lễ cuốn chiếu, bà con lối xóm và họ hàng vừa nhâp tiệc vui vẻ vừa tham gia văn nghệ qua những bài hát đối đáp (Ayay) nam nữ, giúp vui… (Theo Thế Ngọc, báo Văn hoá các Dân tộc - Số 2(146)/2006) Khi lễ cưới sắp kết thúc, người ta hát bài “Tiễn khách ra về”: Ôi, những người lớn tuổi trong làng ta Đã có mặt trong nhà phía sau rồi phía trước Các ông đã ban cho ta lời chúc phúc Mọi việc trên đời được suôn sẻ ấm êm Anh đã cắt rau và buộc lại, em ơi Rau anh đã cắt rồi buộc lại Hãy tha thứ cho những gì còn non dại Như cắt rồi buộc lại thì mọi việc sẽ xong. (4) (1, 2, 3, 4: trích theo Văn hoá các dân tộc số 2 (146)/2006) Sau đó, học tiến hành “Lễ chung giường” vào buổi tối. Vợ chồng mới cưới chia và dút nhau các thức ăn đã được cúng tổ tiên, được dắt vào phòng tân hôn và được hai bà dặng đò cách nằm ngủ thể hiện sự tôn trọng nhau. Và như thế, lễ cưới đã xong. Ngày nay, do sự thay đổi để thích nghi với lối sống mới, lễ cưới của học chỉ diễn ra trong một ngày và các nghi thức lễ cưới truyền thống cũng được giản lược bớt, tuy nhiên ít nhiều vẫn giữ được tính truyền thống đặc trưng của dân tộc Khmer. Lễ tang Người Khmer quan niệm rằng chết chưa phải là hết mà họ vẫn còn tiếp tục cuộc sống mới ở thế giới khác nhưng không bằng thể xác mà bằng chính linh hồn. Và học cho rằng linh hồn là bất diệt. Vì thế, nghi lễ tiễn đưa người chết diễn ra khá phức tạp và người thân trong gia đình phải làm điều phước như cống hiến cho chùa và sư sãi. Theo học, có làm như thế thì những cái được cống hiến mới theo nhang khói và lời cầu kinh đến với ông bà, cha mẹ ở thế giới bên kia để học cũng được sống có phúc trong thế giới ấy. Khi gia đình có người được biết chắc rằng sắp chết, người thân sẽ đặt người ấy nằm ở một buồng riêng có treo ảnh đức Phật với ngụ ý hình ảnh đức Phật sẽ mãi ngự trị trong cõi lòng người ấy và học lập bàn thờ ngay đầu nằm người thân sắp chết. Họ cũng mời sư sãi hay thầy cúng Acha Duki chuyên lo việc tang lễ đến để đọc kinh cho người đó được ra đi nhẹ nhàng, thanh thản. Kinh được đọc là kinh Apithom (Kavôđa) và được lặp đi lặp lại nhiều lần với nội dung khái quát như sau: “Đời là bể khổ. Nếu muốn tránh khỏi mọi khổ ải trong thế gian, phải tu tập theo pháp tịch diệt, vô úy, quyết chí đoạn từ mọi cái duyên do, trong lòng giữ gìn mọi lối chánh đạo, chớ vương dính cảnh trần, đừng ham nhiễm sự tục, thâm tâm thanh tịch, thì chứng được quả niết bàn, thật là sung sướng.” (theo Phong tục và nghi lễ vòng đời người Khmer Nam Bộ của tác giả Trần Văn Bổn). Tục này gắn với một số sự tích trong kinh điển Phật giáo nhưng có lẽ nó bắt nguồn từ sự tích như sau: Xưa kia, Pras Sêrây-roth có 500 đệ tử và 500 người này lúc còn sống làm nhiều điều thất đức. Sau khi chết đi, họ đồng loạt đầu thai thành 500 con dơi cùng sống nơi hang động ở một vùng núi. Sau đấy, Pras Chetha-puth có đến hang động này ngồi đọc kinh Apithom. 500 con dơi đều treo mình chăm chú lắng nghe rồi một lần hang cháy, 500 con dơi đều bị thiêu chết. Khi ấy, bên tai chúng vẫn còn văng vẳng tiếng kinh Apithom cho nên khi chết đi, chúng được đầu thai trở lại làm người. Và những con người này đã biết sống nhân từ, có đức hạnh và giúp đỡ mọi người. Người Khmer còn quan niệm rằng người nào không được nghe đọc kinh trước khi chết là người vô phước. Trở lại với ông Acha Duki, ông này sẽ kiểm tra và xác định kỹ càng sau khi người sắp chết đã ra đi thanh thản. Sau đó, Acha Duki sẽ thắp Teankal là cái bình đựng nước hương Tuk-op có 2 thanh tre gác chéo trên miệng để gắn 4 cây đèn cầy đặt bên phải thi hài. Teankal chính thân nó cũng mang một ý nghĩa riêng, đó là: cái bình tượng trưng cho cuộc đời con người lúc chìm lúc nổi, 4 vây đèn cầy tượng trưng cho “tứ đại” - đất, nước, gió, lửa. Song song đó, người ta còn đặt xung quanh theo 4 hướng Đông – Tây – Nam – Bắc của thi hài cái Sa La Tho để cắm bông vạn thọ, chuẩn bị nhang đèn, trầu cau, 4 cái cờ hồn (Tông Pro-lưng) hay còn gọi là cờ cá sấu, cờ rồng (Tông Nec) được kết từ nhiều mảnh vải màu trắng (vì dung trong tang lễ), mang hình dáng như con cá sấu. Xong, họ mới đánh trống báo cho mọi người trong phum sóc biết. Bà con xung quanh sẽ thu xếp đến chia buồn và thường thì người ta sẽ cúng tiền. Người đến chia buồn rất đông, nhìn vào cứ như ngày hội hè. Lúc bấy giờ, Acha Duki đặt vòng miệng thi hai một đồng bạc trắng với quan niệm người chết có tiền ăn đường. Sau đó, người ta dung nước hương Tuk-op lau thi hài người chết, mặc quần áo mới cho người đó. Họ làm như vậy với quan niệm người chết được sạch sẽ và rửa hết tội lỗi. Xong, tử thi được đặt nằm trong tư thế tay chân duỗi thẳng và được phủ kín bằng một tấm vải trắng. Người ta đặt lên bụng người chết 1 nải chuối sống, trên ngực 3 lá trầu có ghim 3 cây nhang hướng về phía đầu thi hài với ngụ ý người chết đi luôn mang hình ảnh đức Phật trong tim. Ở phía trên đầu tử thi có đặt một cái Tean T’Bôn đựng vật trả lễ cho Acha Duki gồm: 6 lít gạo, 1 nải chuối chin, 1 con gà đã được luộc chín, 1 trái dừa khô bỏ vỏ, 1 chai rượu, 1 cái Sla Chôm, 1 nồi đất, 1 con dao nhỏ, 4 chén ăn cơm, 4 đôi đũa, 1 đèn cốc cùng với 1 chén Ang-ko Kôl có dựng gạo, tiền và 1 cặp đèn cầy. Khoảng nửa ngày, người ta bắt đầu tiến hành lễ vẩy nước cầu siêu (Oi Pô Tưk). Trước khi liệm xác vào quan tài, gia chủ mời 2 ông lục đến vẩy nước hương khắp nhà để rửa trôi đi những điều không may và cầu siêu cho người chết. Người ta buộc và thắt nút xác chết ở cổ, cổ tay và cổ chân rồi liệm xác vào quan tài. Khi đã đóng nắp quan lại, người ta vẫn bày các vật cúng y như khi đặt trên thi hài. Ngoài ra, 3 cây đèn cầy to cũng được thắp ở các vị trí trên 2 đầu và chính giữa nắp quan tài tượng trưng cho Phật (Pras Puth), giáo lý của đức Phật (Pras Tho) và các sư sãi (Pras Son). Dưới quan tài còn được đốt lửa hương hay nhang thơm. Tối đó, Acha Duki và 3 ông Acha Ph’luk giúp việc đọc kinh Viba-sana kama-than đưa dẫn linh hồn người chết về cõi Phật. Sau khi đã chọn ngày giờ tốt, người ta tiến hành lễ tiễn đưa linh cửu. Hoả táng có thể được xem là một mỹ tục của cộng đồng người Khmer. Nói đến tục hoả táng thì ta cần đề cập đến khía cạnh về tín ngưỡng tôn giáo. Tuyệt đại đa số người dân Khmer đều theo Phật giáo, phái Tiểu Thừa Nam Tông nên trong đời sống tâm linh của họ luôn là một cõi đi về. Vì thế, khi chết đi, người ta sẽ được mang đi hoả táng để nhanh được trở về với trời đất, với vũ trụ nơi vạn vật khởi nguồn. Lễ hoả táng cũng được tiến hành tương đối phức tạp với nhiều nghi thức. Trước khi 8 thanh niên khoẻ mạnh khiêng quan tài ra khỏi nhà thì Acha Duki và các Acha Ph’luk cầm nhang đi 3 vòng quanh quan tài đọc Otarapo rồi Acha Duki gom nhang lại khấn trời đất xin phép được khiêng quan tài đem đi hoả táng. Sau đấy, linh cửu được khiêng đi đến lò thiêu trong tiếng trống, cồng và dàn nhạc ngũ âm đi trước. Lúc ấy ông Acha Duki cầm cờ hồn, nhang đèn và chiếc nồi đất đi kế sau trong khi một kiệu đi theo có che màn dành cho ông sư ngồi bên trong tụng kinh Apithom cầu phước tiếp bước. Tiếp là con cháu đội thúng Tean T’bôn, cầm di ảnh người chết và mang theo lúa và bông gòn rãi dọc đường ngụ ý phước và tội lỗi không bao giờ đi chung cũng như hướng lúa và hướng bông gòn tìm đến sau khi được rãi. Sau nữa là đến họ hàng, bạn bè, kiệu để khiêng quan tài với 4 ông sư đứng ở bốn góc quan tài và cuối cùng là những người đi đưa tiễn. Điểm đặc biệt là sẽ có một sợi dây vấn bằng cỏ tranh (S’bâu Ph’leang) nối từ kiệu có che màn của ông sư tụng kinh đến kiệu khiêng quan tài vừa để cho mọi người đi có trật tự vừa có ý nghĩa là bà con học hàng mật thiết phải gắn bó yêu thương nhau như sợi S’bâu Ph’leang. Đến nơi hoả táng, một ông sư đọc kinh cầu siêu và Acha Duki đọc kinh tiễn biệt người chết rồi mở phần che mặt người quá cố cho con cháu nhìn lần cuối. Xong, quan tài đuợc đưa vào lò thiêu. Khi lửa cháy đỏ rực cũng là lúc ông sư làm lễ xuống tóc, phát cà sa cho con hoặc cháu trai nào muốn tu báo hiếu cho người thân đã khuất và chỉ được tu ở bậc Sa Di. Khi xác đã cháy hết, Acha Duki đánh tiếng cồng và họ sẽ tưới nước lên đống than cho nguội để con cháu có thể đến nhặt xương bỏ vào mâm có lót vải trắng rồi đội mang về nhà. Tối đến, các sư tiếp tục tụng kinh cầu siêu cho người quá cố và cầu phúc cho gia đình người chết. Buổi sáng, gia chủ sẽ dâng cơm cho các sư và dâng một số đồ cúng, áo cà sa, chiếu, mền, mùng, chén, đũa,…với quan niệm những thứ ấy sẽ dành cho người thân quá cố của học đang sống ở thế giới bên kia thong qua các sư sãi. Thế là tang lễ kết thúc. Học hành và tu hành Học hành và tu hành, tại sao hai cụm từ này lại đi chung? Vâng, tuy hai mà một. Học hành là để biết được cái chữ, trở thành ngừoi trí thức. Tu hành là học cách làm người có đức hạnh, là để tích đức. Cả hai hoạt động đều hướng đến một mục đích chung là học tập và trau dồi kiến thức, phẩm hạnh. Người Khmer vốn có tiếng nói và chữ viết riêng. Câu nói: “mất chữ, mất gốc thì mất dân tộc, tôn giáo tiêu tan và con người phải chết” của họ đã phần nào cho thấy được tinh thần, ý thức gìn giữ vốn chữ viết Khmer. Do vậy, bên cạnh học tiếng phổ thông, con em người Khmer tại các địa phương còn phải vào chùa để học về văn hoá cũng như chữ viết của dân tộc mình. Tại đây, các nhà sư không chỉ truyền dạy giáo lý nhà Phật mà còn dạy cả toán học, văn học, ngôn ngữ học như tiếng Pali, Sanskrit nhưng chủ yếu là tiếng Pali và v.v… Chương trình giảng dạy góp phần bảo vệ, gìn giữ những di sản văn hoá quý giá của dân tộc Khmer như chữ viết, văn học nghệ thuật Khmer giúp đồng bào nâng cao tri thức và nhận thức. Bên cạnh đó, con trai khi lớn đều được gửi vào chùa làm sư từ 3 đến 5 năm để trau dồi đức hạnh và kiến thức. Người Khmer quan niệm việc đi tu là một nghĩa vụ và vinh dự của cả đời người vì qua đó, người ta có thể thể hiện sự đền đáp công ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ. Họ cho rằng tu ở bậc Tỳ Kheo là đền ơn cha, tu bậc Sa Di là đền ơn mẹ. Và chỉ sau nghĩa vụ này, người con trai mới được hoàn tục và mới có quyền lập gia đình. Việc tu hành cũng chính là một hành vi thể hiện sự tôn kính Phật pháp. Vì vậy, người đàn ông dù ở bất kỳ địa vị xã hội nào, giàu hay nghèo đi chăng nữa thì ít nhất cũng phải có một lần trong cuộc đời mình vào chùa tu. Tu ở đây là được học chữ, học kinh Phật để trở thành một con người trí thức, có phẩm chất, đức hạnh. Như vậy, đi tu chính là cơ hội để rèn luyện bản thân và tích đức. Đối với những người đàn ông Khmer đã trải qua thời gian tu hành thì khi hoàn tục luôn được cộng đồng kính trọng. Do vậy mà các nhà sư trong xã hội Khmer giữ một vai trò và một vị thế đặc biệt, học không những là người có uy tín mà còn luôn nhận được sự kính nể. Thế nhưng, tu hành ở chùa chỉ giới hạn ở nam giới bởi Phật giáo Tiểu Thừa (Thérévada) không chấp nhận sự có mặt của ni cô tại chùa. Nhưng như thế không có nghĩa phụ nữ không được phép đi tu. Họ cũng có quyền đi tu nhưng phải tu tại gia. Tôn giáo – Chùa chiền – Kiến trúc Dù cuộc sống còn nhiều lo toan nhưng đồng bào Khmer rất mộ đạo. Tuyệt đại bộ phận cộng đồng dân tộc Khmer có đời sống tâm linh theo Phật giáo Tiểu Thừa Nam Tông. Và đó đã trở thành tôn giáo phổ biến của họ. Vì thế trong chánh điện chùa (Sa La), ngoài một hệ thống phong phú thần linh, linh thú như chim thần Kây-no hay người chim Tết Pro-nam – những dấu vết còn sót lại của Bà La Môn giáo và tín ngưỡng trong dân gian – thì Phật Thích Ca được được tôn thờ là chính và tượng Phật được đặt tại vị trí trung tâm của chánh điện. Muốn tìm hiểu sâu sắc và tỉ mỉ về tôn giáo nói riêng cũng như bản sắc văn hoá của người Khmer thì ngôi chùa của họ chính là nơi đến lý tưởng nhất của bạn vì đó là nơi hội tụ sinh động những giá trị về văn hoá tinh thần của dân tộc này. Ngôi chùa của người Khmer Nam Bộ, cụ thể trong bài tiểu luận này thiên đề cập ở tỉnh Trà Vinh, chính là sự kết tinh từ thế hệ này sang thế hệ khác và nó giữ một vai trò quan trọng trong đời sống của họ. Ngôi chùa chính nó là một kho tang báu vật của người xưa và nay. Nó không những thể hiện tài năng điêu khắc mà còn thể hiện trí tuệ của những người thợ tài hoa của nhiều thế hệ đã gửi gắm thong qua những công trình kiến trúc tháp, chùa,…đặc sắc của mình. Hay nói cách khác, ngôi chùa Khmer chính là biểu trưng của tôn giáo và văn hoá. Thông thường, đồng bào Khmer sống tập trung xung quanh chùa để học chữ, học giáo lý nhà Phật và học nghề. Thế nên, ngôi chùa tuy một mà hai, đấy chính là hai hình ảnh: hình ảnh của một nơi tu hành và hình ảnh của một trung tâm văn hoá của người Khmer. Nhưng trước khi tìm hiểu rõ về hai hình ảnh này thì bạn cũng cần biết đôi nét về tổ chức nhà chùa. Mỗi chùa có nhiều sư gọi là các ông lục. Đứng đầu chùa là Đại đức tăng trưởng còn gọi là sư cả, kế đến là Pahussôt và Acha dạy giáo lý. Theo truyền thống, các tín đồ nhà Phật chia mỗi phum ra thành những tổ gọi là “Wên” và những tổ này nàm dưới sự giám sát của chủ chùa hay còn gọi là “ Nhôm Wát”. Lại đề cập đến Phật giáo Tiểu Thừa, phái này không mang tính thoát tục lánh xa cuộc đời mà gắn bó, hoà đồng với cộng đồng và xã hội. Các vị sư cũng vậy, họ không những có vai trò đặc biệttrong xã hội mà còn luôn sống gắn bó với những thành viên khác trong gia đình, hoà mình vào các hoạt động của xã hội và có trách nhiệm, nghĩa vụ như mọi người khác trong cộng đồng. Trở lại với hình ảnh ngôi chùa là một nơi để Phật tử tu hành, như đã đề cập bên trên, đấy là nơi mỗi người nam thanh niên và đàn ông trong cộng đồng Khmer, dù giàu có hay nghèo khó vào để thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ và vinh dự của một đời người. Chùa chính là nơi họ được học hữ, học nghề, học kinh Phật và tích đức. Họ tu học nhằm trau dồi kiến thức và đức hạnh để trở thành người trí thức luôn được mọi người kính trọng, đồng thời để thể hiện sự đền đáp công ơn cha mẹ. Và ngôi chùa còn là một trung tâm văn hoá của người dân Khmer. Với hình ảnh này thì ngôi chùa mang một chức năng đặc biệt quan trọng. Đó là giáo dục cộng đồng thong qua giáo lý và kinh sách nhà Phật. Dân tộc Khmer vốn có tiếng nói và chữ viết riêng, kể từ sự xâm nhập của Phật giáo vào cộng đồng, chúng không ngừng phát triển, hòn thiện (từ chữ Phạn viết trên lá buông đến chữ Khmer định hình như ngày nay) và có mối quan hệ mật thiết đối với ngôi chùa. Song song đó, người dân Khmer còn có ý thức rất cao trong việc giữ gìn vốn chữ viết quý giá của mình. Vì thế, ngôi chùa đã giữ vị trí trung tâm trong vấn đề giảng dạy tiếng Khmer đến cộng đồng góp phần bảo vệ, giữ gìn vốn di sản văn hoá đó và giúp người dân nâng cao trí thức, trình độ hiểu biết. Đồng thời, nhà chùa còn thể hiện vai trò tích cực trong việc giáo dục đạo đức, lối sống ứng xử cho mỗi con người. Cũng gói gọn trong hình ảnh trung tâm văn hoá, ngôi chùa Khmer còn là nơi thường xuyên diễn ra các buổi hội hè. Vào những dịp lễ hội lớn như tết Chol Chnam Thmay, lễ Dolta, lễ Ook Om Bok, lễ Phật Đản,…, hằng năm, hàng chục nghìn người đổ xô về cúng viếng tạo nên không khí rộn rang cho ngôi chùa. Đó là lúc người ta cảm nhận được bản sắc văn hoá phồn thịnh và đặc trưng của người Khmer mặc dù cuộc sống của cộng đồng này vẫn còn không ít những lo toan. Nhắc đến ngôi chùa Khmer, người ta luôn tưởng đến một tác phẩm nghệ thuật nguy nga đồ sộ nằm giữa những ngôi nhà lá, nhà đất đơn sơ của cả một cộng đồng người. Có thể nói ngôi chùa Khmer là một công trình kiến trúc có nhiều giá trị thẩm mỹ, mang đậm tính thiêng liêng và đem đến cho người ta một cảm giác bình yên, thích thú. Đó là sự kết hợp hoànmỹ của các yếu tố mang ý nghĩa kinh tế, chính trị, văn hoá và nghệ thuật điêu khắc độc đáo. Hiện nay có khoảng hơn 500 ngôi chùa nằm phân bố ở những nơi có người Khmer cư trú, trong đó ở Trà Vinh có hơn 140 ngôi chùa thế này. Hầu hết những ngôi chùa này khá cổ, có niên đại lên đến 400 – 600 năm và hầu hết chúng đã được trùng tu lại nhiều lần qua các giai đoạn lịch sử nhất định. Tuy nhiên, những nguyên tắc, nền tảng cơ bản của nghệ thuật kiến trúc chùa vẫn được duy trì và mang tính đặc trưng, đặc thù rất riêng. Chính diện của chùa được xây ở vị trí trung tâm, nằm dọc theo hướng Đông – Tây và thường quay về hướng Đông vì người Khmer cho rằng con người tu hành của Phật là đi từ Tây sang Đông, rằng đức Phật ngự trị ở phương Tây nhìn về hướng Đông để ban phước lành. Ở lối kiến trúc này thường có 4 cửa chính mở về hai hướng Đông – Tây, chung quanh về hướng Bắc và Nam có từ 7 đến 9 cửa sổ. Bên cạnh đó, một ngôi chùa Khmer khi được tiến hành xây dựng tuyệt đối phải tuân theo các quy tắc cơ bản nhất về quy cách, kích thước như: phần mái và phần thân bằng nhau, chiều dài gấp hai lần chiều rộng, chiều cao bằng chiều dài, mái thường thấy hình tam giác cân, nhọn, chính diện có mái được phân ra thành 3 tầng mái từ trên xuống với những góc nghiêng khác nhau và chính điện bao giờ cũng được bao quanh bởi các dãy hành lang cao, rộng, thoáng mát. Nhà thì có kèo còn chùa thì có những hang cột và xà ngang kiên cố chống đỡ. Trong khi mái làm bằng gạch ngói thì cột lại làm từ gỗ quý, chắc chắn, làm nền móng để chóng đỡ bộ mái cao vút. Qua đó, cấu trúc chánh điện đã cho thấy được sự kết hợp hài hoà giữa các chất liệu dựng chùa. Như thế thôi chưa đủ, một ngôi chùa Khmer để lại dấu ấn mạnh mẽ trong lòng người chính là ở lối kiến trúc điêu khắc, trang trí thẩm mỹ. Người Khmer quan niệm hình tam giác là biểu trưng cho sự hoàn thiện chứa đựng cái đẹp hoàn mỹ nhất và ứng với con số 3, một con số rất được xem trọng. Hình tam giác còn gắn liền với hình ảnh ngọn lửa thiêng của Phật giáo cháy bên trong tâm hồn, là tri thức, là sự giác ngộ. Do vậy, không riêng gì con số 3 mà các số lẽ khác cũng được xem trọng và những con số 3 – 5 – 7 – 9 thường là số lượng các ô cửa sổ và cột chùa. Còn trên bàn thờ có lộng 3 tầngbiểu hiện tam bản, 5 tầng biểu hiện 5 sự hoá than của đức Phật, 7 tầng là 7 kiếp đời người và số 9 thường là không gian chùa. Ngoài ra, ngôi chùa càng them nổi bật với lối điêu khắc độc đáo, tinh tế, thẩm mỹ. Các diêm mái, góc giữa hai mái, trần nhà, quanh đầu và chân các cột, cánh cửa, xà ngang, xà dọc,…đều được điểm những hình ảnhđiâu khắc đặc biệt về cuộc đời đức Phật, về thiên nhiên trong cuộc sống người dân Khmer. Qua những tác phẩm nghệ thuật này của những người thợ điêu khắc khéo léo tài ba, ngôi chùa Khmer đã thật sự đi vào lòng người không chỉ với vẻ đẹp tổng thể hoàn mỹ mà còn ở vẻ đẹp trong cái thiêng liêng Phật tính. Các giá trị văn hoá của người Khmer trong hoạt động du lịch Các giá trị văn hoá tiêu biểu đã được khai thác du lịch ở Trà Vinh Nhắc đến Trà Vinh, một trong những tỉnh có đông đảo đồng bào Khmer sinh sống nhất, người ta thường nhớ ngay đến những trận đua ghe Ngo truyền thống của người Khmer diễn ra hằng năm tại đây. Ngoài ra, nhắc đến người Khmer, mọi người cũng có thể nghĩ ngay đến lễ tết Chol Chnam Thmay hoặc lễ cúng trăng Ook Om Bok của họ - những điều đã được chú trọng đăng nhiều trên các báo chí và lên sóng phát thanh, truyền hình nhiều lần trong những năm trở lại đây, hay cụ thể hơn là từ năm 2005. Điều này cho thấy giá trị về mặt lễ hội đã được khai thác để gây sức hút đối với mọi người từ khắp nơi. Từ năm 2005 đến nay, tỉnh Trà Vinh đã chú trọng xúc tiến du lịch không chỉ ở loại hình du lịch sinh thái, tắm biển mà đặc biệt là ở loại hình du lịch văn hoá - về nguồn, cụ thể là qua chương trình thăm viếng các khu du tích lịch sử, văn hoá tại tỉnh nhà như Đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, các chùa chiền Khmer, miếu Hoa, tham gia các lễ hội truyền thống lớn của đồng bào Khmer…Mốc năm 2005 cũng được đánh dấu bởi sự kiện “Những ngày văn hóa Khmer tại Hà Nội” diễn ra từ ngày 27-30/10/2003 tại Trung tâm Triển lãm Văn hoá - Nghệ thuật Việt Nam (Vân Hồ - Hà Nội) với sự tổ chức của Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương; Hội đồng dân tộc của Quốc hội, Bộ Văn hoá - Thông tin; Uỷ ban Dân tộc của Chính phủ và Uỷ ban nhân dân của 9 tỉnh miền Tây Nam Bộ: Cà Mau, Cần Thơ, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Trà Vinh, Tây Ninh, Sóc Trăng, Vĩnh Long . Sư kiện này đã đưa giá trị văn hoá Khmer đến gần hơn với người dân thủ đô cũng như gây được tiếng vang lớn đến người dân cả nước và hơn thế nữa là bạn bè quốc tế. Bên cạnh đó, qua một số hội chợ triễn lãm, sự kiện diễn ra tại tỉnh, Trà Vinh cũng đã thực hiện tốt trong việc quảng bá văn hoá Khmer đến với đông đảo người dân, cụ thể như sau: Tỉnh Trà Vinh đã tham gia triễn lãm tại hội chợ Văn hoá - Thể Thao và Du lịch 2009 được tổ chức theo tinh thần Chỉ thị số 36-CT/TU của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch vào những

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_tieu_luan_giua_khoa_hoan_chinh3_457.doc
Tài liệu liên quan