Tài liệu Đề tài Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế: MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi giành được độc lập năm 1975 và đặc biệt là từ sau năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu với định hướng đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên thì đầu tư là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì đầu tư, nói rõ hơn là đầu tư phát triển, không những làm gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu tư, mà còn trực tiếp làm gia tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển kinh tế. Đã có nhiều lý thuyết về đầu tư được nêu ra nhằm phân tích tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển dưới nhiều khía cạnh khác nhau như lý thuyết số nhân đầu tư, lý thuyết gia tốc đầu tư, mô hình Harrod – Domar...
Chính phủ Việt Nam với vai trò của mình đã luôn nỗ lực tạo điều kiện tốt nhất cho mục tiêu phát ...
62 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1058 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư giải thích vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi giành được độc lập năm 1975 và đặc biệt là từ sau năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu với định hướng đến năm 2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên thì đầu tư là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì đầu tư, nói rõ hơn là đầu tư phát triển, không những làm gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu tư, mà còn trực tiếp làm gia tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển kinh tế. Đã có nhiều lý thuyết về đầu tư được nêu ra nhằm phân tích tác động của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển dưới nhiều khía cạnh khác nhau như lý thuyết số nhân đầu tư, lý thuyết gia tốc đầu tư, mô hình Harrod – Domar...
Chính phủ Việt Nam với vai trò của mình đã luôn nỗ lực tạo điều kiện tốt nhất cho mục tiêu phát triển kinh tế bền vững và kết quả là Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức kinh tế thế giới WTO từ ngày 11/01/2007. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn đặt ra đối với Việt Nam khi nền kinh tế còn non trẻ, khả năng kiểm soát các luồng vốn đầu tư (trong nước và từ bên ngoài vào) còn hạn chế. Nếu không có một cái nhìn đúng đắn về đầu tư thì nền kinh tế Việt Nam sẽ rất khó đứng vững trước làn sóng vốn tràn vào Việt Nam và luôn biến động một cách mạnh mẽ như hiện nay. Chính vì tầm quan trọng của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế là rất lớn nhưng vấn đề giải thích sự tác động đó thông qua các lý thuyết kinh tế về đầu tư còn ít được đề cập đến. Do đó chúng tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu là: “DỰA VÀO CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ GIẢI THÍCH VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ”.
CHƯƠNG I:
CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ
I/ CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ
Chúng ta đều biết rằng đầu tư là một yếu tố nằm trong tổng cầu của nền kinh tế. Trong khi đầu tư nhỏ hơn rất nhiều so với tiêu dùng trong GDP, nhưng nó lại rất quan trọng bởi vì nó là thành tố trong GDP biến đổi mạnh nhất và phản ánh rõ nét nhất hình mẫu biến động theo chu kì mà các nền kinh tế thị trường phải đối mặt. Có rất nhiều lý thuyết kinh tế về đầu tư, mỗi lý thuyết nghiên cứu một khía cạnh khác nhau của đầu tư đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Dưới đây trình bày một số lý thuyết tiêu biểu.
Các khái niệm chung
Đầu tư là gì:
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà nhà đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực được nói đến ở đây có thể là tiền, tài nguyên, công nghệ, nhà xưởng, sức lao động, trí tuệ… và các mục đích hướng tới chính là sự tăng lên về tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, máy móc…), tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề, năng suất lao động, trình độ quản lý… ) trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ nhà đầu tư mà cả nền kinh tế, xã hội được thụ hưởng.
Chẳng hạn, một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của nhà đầu tư trực tiếp tăng lên, đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng được tăng thêm. Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho nhà đầu tư là lợi nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho sản xuất và cho sinh hoạt) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách, giải quyết việc làm cho người lao động…
Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không chỉ có lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ sung nguồn lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp phần nâng cao dần trình độ công nghệ và kỹ thuật của nền sản xuất quốc gia.
Phân loại đầu tư:
Căn cứ vào các kết quả của hoạt động đầu tư, bản chất và lợi ích do đầu tư đem lai chúng ta có thể chia đầu tư ra làm 3 loại: đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và đầu tư phát triển.
*Đầu tư tài chính:
Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các giấy tờ có giá để hưởng lãi suất định trước, hay lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (Nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư này, vốn được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra nhanh chóng. Đây thực sự là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
* Đầu tư thương mại:
Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch do giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của nhà đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với nhà đầu tư và giữa nhà đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra. Từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
* Đầu tư phát triển:
Đầu tư phát triển là những hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Nói cách khác đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội.
Ba loại đầu tư trên luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau, trong đó đầu tư phát triển là cơ bản nhất, tạo tiền đề đề tăng tích lũy, phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Đầu tư phát triển là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Bên cạnh đó, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển. Tuy nhiên trong khuôn khổ của đề tài này chúng ta chỉ đi sâu, tìm hiểu, xem xét các vấn đề kinh tế của đầu tư phát triển - loại đầu tư quyết định trực tiếp sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Khái niệm về tăng trưởng:
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng này được thể hiện ở quy mô và tốc độ tăng trưởng. Quy mô phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít còn tốc độ tăng trưởng được dùng để so sánh sự gia tăng giữa các thời kỳ. Người ta thường xác định tăng trưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu GDP (tổng sản phẩm quốc nội), GNP (tổng sản phẩm quốc dân) và GNI (thu nhập bình quân đầu người).
Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh tế. Đầu tư phát triển không những làm gia tăng tài sản của nhà đầu tư mà còn trực tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế quốc dân. Chẳng hạn khi nhà đầu tư xây dựng một nhà máy thì nhà máy đó không những là tài sản của nhà đầu tư mà còn là tiềm lực sản xuất của cả nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Như vậy đầu tư phát triển chính là một yếu tố không thể thiếu đối với quá trình tăng trưởng của một nền kinh tế.
Khái niệm về phát triển:
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế là một khái niệm rộng hơn tăng trưởng. Nếu tăng trưởng được xem là quá trình biến đổi về lượng thì phát triển là quá trình biến đổi cả về lượng và chất của nền kinh tế. Đó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của cả hai vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế bao gồm có tăng trưởng, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tiến bộ (thường xét đến sự chuyển dịch cơ cấu ngành: sự gia tăng tỉ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng ngành nông nghiệp), sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội (xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, tăng tuổi thọ bình quân, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế, nước sạch của người dân, đảm bảo phúc lợi xã hội, giảm thiểu bất bình đẳng trong xã hội…).
Một mặt trái của đầu tư phát triển, bên cạnh việc làm tăng sản lượng của nền kinh tế, đầu tư phát triển còn gây nên một số tác động tiêu cực như ô nhiễm, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người. Hiện nay, ở nhiều quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, người ta đã chú ý tới những ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai do tăng trưởng nhanh gây ra. Trên thế giới đã xuất hiện khái niệm mới về phát triển, đó là phát triển bền vững. Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới WB: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Nói cách khác, phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, hợp lý cả về ba mặt: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Số nhân đầu tư
Tư tưởng của mô hình
Mô hình số nhân đầu tư xuất phát từ tư tưởng của Keynes. Ông cho rằng đầu tư tăng sẽ bù đắp cho những thiếu hụt về cầu tiêu dùng. Để đảm bảo cho đầu tư gia tăng liên tục ông đưa ra nguyên lý số nhân.
Mô hình số nhân đầu tư
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó cho thấy sản lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư gia tăng một đơn vị.
Công thức tính (1):
Trong đó: là mức gia tăng sản lượng
là mức gia tăng đầu tư
k là số nhân đầu tư
Từ công thức (1) ta có :
Như vậy việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuếch đại sản lượng tăng lên số nhân lần. Trong công thức trên, k là một số dương lớn hơn 1. Vì khi I=S, có thể biến đổi công thức (2) thành:
(3)
Trong đó:
Khuynh hướng tiêu dùng cận biên
Khuynh hướng tiết kiệm cận biên
Vì MPS 1
Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó, độ khuếch đại của sản lượng càng lớn. Sản lượng càng tăng thì công ăn việc làm càng gia tăng.
Thực tế gia tăng đầu tư, dẫn đến gia tăng các yếu tố tư liệu sản xuất (máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…) và quy mô lao động. Sự kết hợp hai yếu tố này làm cho sản xuất phát triển, kết quả là gia tăng sản lượng của nền kinh tế.
3. Lý thuyết gia tốc về đầu tư
Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc đầu tư
Nếu số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa việc gia tăng đầu tư với sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào tới sản lượng. Như vậy, đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes, đầu tư còn được xem xét dưới góc độ tổng cung, nghĩa là mỗi sự thay đổi của sản lượng cũng làm thay đổi đầu tư như thế nào.
Các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư để đưa mức tư bản đạt mức mong muốn. Lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào mức sản lượng là điều dễ dàng chấp nhận được. Khi mức sản lượng cao hơn, các hãng có nhu cầu lớn hơn về tư bản, vì tư bản là một trong nhiều nhân tố để tạo ra sản lượng. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc dựa trên mối quan hệ đơn giản này.
3.2 Nội dung của lí thuyết gia tốc đầu tư
Mô hình gia tốc giả thiết rằng, lượng tư bản mong muốn là bội số của mức sản lượng:
(1)
Ở dạng đơn giản nhất của mô hình gia tốc, đầu tư ròng đúng bằng chênh lệch giữa lượng tư bản mong muốn với lượng tư bản hiện có vào cuối thời kì trước. Nếu tạm thời bỏ qua hao mòn tư bản trong quá trình sử dụng, chúng ta có mối liên hệ sau:
(2)
Lượng tư bản có được vào cuối thời kí trước chính là lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào thu nhập của thời kì đó.
(3)
Suy ra (2) được viết lại như sau:
(4)
Mức đầu tư phụ thuộc vào sự thay đổi của sản lượng.
Dạng đơn giản này cho ta thấy một đặc điểm quan trọng của mô hình gia tốc từ phương trình (1), có thể được coi là tỉ lệ giứa mức tư bản mong muốn so với sản lượng:
(5)
Trong bối cảnh đó, đầu tư sẽ biến động rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Theo mô hình giao điểm của Keynes cho thấy sự thay đổi của đầu tư có tác dụng số nhân đến sản lượng. Vì vậy cùng với hiệu ứng số nhân, lí thuyết gia tốc đơn giản chỉ có thể giải thích sự biến động theo chu kì của sản lượng. Một cú sốc đối với sản lượng sẽ làm thay đổi mức đầu tư và sự thay đổi này sẽ làm mức sản lượng cân bằng thay đổi thông qua hiệu ứng số nhân, và tác động vào đầu tư thông qua hiệu ứng gia tốc. Tuy nhiên cũng giống như lí thuyết đơn giản về số nhân của Keynes, chúng ta cần phải điều chỉnh lí thuyết gia tốc về đầu tư trước khi có thể sử dụng nó để giải thích cho quá trình đầu tư trong nền kinh tế thực.
Điều chỉnh đầu tiên mà chúng ta cần phải làm để mô hình gia tốc đơn giản trở nên thực tế hơn bằng cách cho rằng lượng tư bản thực tế sẽ điều chỉnh dần đến mức mong muốn. Giả sử ta dùng mô hình cho một năm nào đó. Cũng giả sử rằng, do lượng tư bản tăng lên nên lượng tư bản mong muốn cũng tăng theo. Các dự án đầu tư sẽ được thực hiện nhằm đưa lượng tư bản tiến tới mức mong muốn. Bên cạnh những chi phí mà ta gọi là chi phí trực tiếp của đầu tư, chúng ta cần tính đến những chi phí điều chỉnh, và việc coi chi phí này tăng lên khi mức đầu tư tăng cũng là hợp lí. Những ví dụ về chi phí điều chỉnh như phải đóng cửa nhà máy hay phải thuê thêm nhân công làm việc ngoài giờ để lắp đặt thiết bị, chi phí tăng thêm do muốn tăng tiến độ xây dựng nhà máy và hoạt động sản xuất có thể bị đình trệ do bộ máy quản lí phải tập trung vào việc triển khai các dự án đầu tư. Nếu chi phí điều chỉnh tăng mạnh, thì quyết định tối ưu đối với doanh nghiệp sẽ là điều chỉnh dần lượng tư bản thực tế đến mức mong muốn. Khi đó chênh lệch giữa hai lượng tư bản này chỉ bị triệt tiêu một phần trong từng thời kì.
Để phản ánh được độ trễ điều chỉnh này, ta có thể viết (2) như sau:
(6)
Sử dụng (1) ta có:
(7)
Trong đó, thông thường khác do lượng tư bản thực tế khác lượng tư bản mong muốn trong mỗi thời kì. Phương trình (7) xác định cơ chế điều chỉnh một phần mà ở đó hệ số thể hiện phần của chênh lệch giữa lượng tư bản mong muốn và lượng tư bản thực tế được thực hiện thông qua đầu tư. Do chỉ một phần sự thay đổi của lượng tư bản mong muốn được thực hiện trong một thời kì nên trong một thời kì nhất định nào đó đầu tư sẽ phản ứng với những thay đổi của thu nhập trong một số thời kì trước đó. Phương trình (7) hàm ý rằng, đầu tư phản ứng chậm hơn với sự thay đổi của thu nhập hiện tại, mà vì thế mà cũng hàm ý rằng đầu tư cũng không thay đổi nhiều trong ngắn hạn như mô hình gia tốc đơn giản đã dự báo (4). Phương trình (7) được gọi là mô hình gia tốc linh hoạt - có thể thích hợp hơn với những biến động của đầu tư trong thực tế. Mặc dù đầu tư là nhân tố dễ biến động, nhưng nó không biến động nhiều như mô hình gia tốc đơn giản dự báo.
Mô hình gia tốc linh hoạt cũng có thể được điều chỉnh nhằm thể hiện sự biến động về tốc độ thay đổi của đầu tư nhằm lấp đầy lỗ hổng giữa lượng tư bản thực tế với lượng tư bản mong muồn (tham số ). Đây chính là biến lựa chọn đối với hãng kinh doanh và có thể bị tác động bởi các điều kiện tín dụng, bao gồm lãi suất, thuế và các yếu tố khác.
3.3 Nhận xét về lý thuyết gia tốc đầu tư
*Ưu điểm:
a. Lý thuyết gia tốc đầu tư phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư. Nếu α không thay đổi trong kỳ kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác.
b. Lý thuyết phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế dẫn đến đầu tư. Khi kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư nhiều.
* Nhược điểm:
a. Lý thuyết giả định quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định. Thực tế đại lượng này (α) luôn biến do sự tác động của nhiều nhân tố khác.
b. Thực chất lý thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự tác động của thay đổi sản lượng. Vì từ công thức có thể viết:
Tại thời điểm t: (8)
Tại thời điểm (t -1): (9)
Lấy (8) trừ đi (9), ta có:
K dt - Kt-1d = α.Yt -α.Yt-1d = α.( Yt -Yt-1d) (10)
Trong đó:
K dt - Kt-1d: Đầu tư ròng và bằng (It - D) với D là khấu hao
Do đó:
It-D= K dt - Kt-1d = α( Yt -Yt-1d)= α.ΔY (11)
Và đầu tư ròng ΔI= α.ΔY
Như vậy theo lý thuyết này đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng (lớn hơn α lần). Nếu sản lượng giảm, đầu tư thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư ròng sẽ bằng 0 (khi ΔY=0 thì ΔI=0)
Tuy nhiên khi sản lượng không thay đổi giữa hai thời kỳ đầu tư thuần bằng 0 nhưng tổng đầu tư là một số dương vì các doanh nghiệp vẫn phải đầu tư thay thế máy móc thiết bị đã hao mòn hết.
c. Theo lý thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay trong cùng một thời kỳ. Điều này không đúng vì nhiều lý do, chẳng hạn do việc cung cấp các yếu tố có liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt quá cung…do đó lý thuyết gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện qua thời gian. Theo lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là quy mô đầu tư mong muốn được xác định trong dài hạn.
Nếu gọi Ktd và Kt-1d là vốn đầu tư thực hiện ở thời kì t và t-1
Kt*t là vốn đầu tư mong muốn
λ là một hằng số (0< λ <1)
Thì: Kt –Kt-1= λ.(Kt*t –Kt-1)
Có nghĩa là sự thay đổi vốn đầu tư thực hiện giữa hai kỳ chỉ bằng một phần của chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kỳ t và vốn đầu tư thực hiện thời kỳ t-1. Nếu λ =1 thì Kdt=Kt*t
Và lý thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu tư.
Theo lý thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thì đầu tư thuần ∆I=It- Dt =Ktd-Kt-1d. Theo lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì
Ktd - Kt-1d= λ(Kt*t –Kt-1) và do đó ∆I= λ(Kt*t –Kt-1)
Để xác định tổng đầu tư, chúng ta giả định: Dt =δ.Kt-1
δ là hệ số khấu hao và 0< δ <1. Do đó
It- Dt= It- δ Kt-1d= λ(Kt*t –Kt-1) hoặc
It= λ (Kt*t –Kt-1) + δ Kt-1d
It chính là tổng đầu tư trong kỳ và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực hiện.
Lý thuyết quỹ nội bộ đầu tư
Theo lý thuyết này, đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thực tế:
I = f (lợi nhuận thực tế). Do đó, dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuận cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn hơn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn cho đầu tư có thể huy động bao gồm: Lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu bán cổ phiếu là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nợ, trường hợp nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và lâm vào tình trạng phá sản. Do đó, việc đi vay không phải là điều hấp dẫn, trừ khi được vay ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn. Còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các doanh nghiệp thực hiện khi hiệu quả của dự án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do dự án đem lại trong tương lai sẽ lớn hơn các chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư, các doanh nghiệp thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và các sự gia tăng của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
Sự khác nhau giữa lý thuyết gia tốc đầu tư và lý thuyết này dẫn đến việc thực thi các chính sách khác nhau để khuyến khích đầu tư. Theo lý thyết gia tốc đầu tư chính sách tài khoá mở rộng sẽ làm cho mức đầu tư cao hơn và do đó sản lượng thu được cũng sẽ cao hơn. Còn việc giảm thuế lợi tức của doanh nghệp không có tác dụng kích thích đầu tư. Ngược lại theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư thì việc giảm thuế lợi tức của doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận từ đó tăng đầu tư và tăng sản lượng, mà tăng lợi nhuận cũng có nghĩa là tăng quỹ nội bộ. Quỹ nội bộ là một yếu tố quan trọng để xác định lượng vốn đầu tư mong muốn, còn chính sách tài khoá mở rộng không có tác dụng trực tiếp làm tăng đầu tư theo lý thyết này.
5. Lý thuyết q về đầu tư
Theo lý thuyết này, vốn đầu tư có mối quan hệ tỷ lệ thuận với hệ số q, trong đó hệ số q là hệ số phản ánh giá trị thị trường của vốn đầu tư với chi phí vật chất cho công cuộc đầu tư.
Nói cách khác:
Trong đó: MP: giá trị thị trường của tư bản lắp đặt
RC: chi phí thay thế tư bản lắp đặt
Với lý thuyết này, chính sách tài chính tiền tệ sẽ có ảnh hưởng lớn đầu tư. Chẳng hạn, nếu lãi suất giảm, giá trị của chứng khoán sẽ tăng (vì giá của trái phiếu và lãi suất có mối quan hệ tỷ lệ nghịch). Giá trị thị trường của các chứng khoán của doanh nghiệp tăng sẽ làm cho q tăng, từ đó làm tăng vốn đầu tư.
Sự thay đổi về thuế thu nhập của doanh nghiệp cũng làm cho q thay đổi. Nếu thuế thu nhập giảm, q sẽ tăng, và từ đó làm tăng vốn đầu tư.
Quy tắc đánh giá: q>1: nên đầu tư
q≤ 1: không nên đầu tư
6. Lý thuyết tân cổ điển
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã cố gắng giải thích nguồn gốc của sự tăng trưởng thông qua hàm sản xuất.
Hàm sản xuất Cobb - Douglas:
Là hàm số biểu thị sự phụ thuộc của sản lượng vào các yếu tố đầu vào như vốn, lao động, …
Hàm có dạng:
Y = Aert LαK1-α
Trong đó:
Y: sản lượng
L: số lao động
K: lượng vốn
Aert: năng suất toàn bộ nhân tố (đặc trưng cho công nghệ)
t : là thời gian
α,1-α : là các hệ số co giãn theo sản lượng lần lượt của lao động và vốn
Trong trường hợp nền kinh tế (thị trường) ở trạng thái cạnh tranh hoàn hảo thì α, 1-α có thể được xem là tỷ lệ đóng góp của vốn và lao động vào sản lượng.
Từ hàm sản xuất Cobb - Douglas trên đây ta có thể tính được tốc độ tăng trưởng của sản lượng như sau:
g = r + αh + (1-α) n
Trong đó:
g: Tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng.
h: Tỷ lệ tăng trưởng của vốn.
n: Tỷ lệ tăng trưởng lao động
Biểu thức trên cho thấy: tăng trưởng của sản lượng có mối quan hệ thuận với tiến bộ của công nghệ và tỷ lệ tăng trưởng của vốn và lao động.
Trong một nền kinh tế, ở “thời đại hoàng kim” có sự cân bằng trong tăng trưởng của các yếu tố sản lượng, vốn và lao động.
Gọi đầu tư ròng là ∆I và ∆I = ∆K
∆K = S = s*Y suy ra ∆K = s*Y
Chia cả 2 vế cho K, ta được:
Hoặc
Khi h không đổi, s không đổi thì cũng không đổi và Y phải tăng trưởng cùng tỷ lệ như h và K.
Khi đó: g = r + αg + (1-α)n
Suy ra: g – αg = r + (1-α )n
(1 - α)g = r +(1-α )n
Hay g = + n
Từ đó ta thấy tỷ lệ tăng trưởng trong “thời đại hoàng kim” g phụ thuộc vào tỷ lệ tăng trưởng của công nghệ và lao động.
Những nội dung mới của mô hình tân cổ điển:
Trong mô hình tân cổ điển các nhà kinh tế học bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng sản xuất trong một tình trạng nhất định đòi hỏi những tỉ lệ nhất định về lao động và vốn. Họ cho rằng vốn có thể thay thế được nhân công và trong quá trình sản xuất, có nhiều cách khác nhau trong việc kết hợp các yếu tố đầu vào.
Từ quan điểm trên đây, các nhà linh tế học tân cổ điển cũng đưa ra khái niệm “Sự phát triển kinh tế theo chiều sâu”, có nghĩa là gia tăng số lượng vốn cho một đơn vị lao động trong sản xuất; còn sự gia tăng vốn phù hợp với sự gia tăng về lao động được gọi là “Sự phát triển kinh tế theo chiều rộng”.
Các nhà kinh tế tân cổ điển còn cho rằng, tiến bộ kĩ thuật là yếu tố cơ bản để thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Một khía cạnh đáng chú ý về xu hướng thay đổi trong kĩ thuật là đa số các sang chế đều có khuynh hướng dùng vốn để tiết kiệm nhân công.
7. Mô hình Harrod – Domar
7.1 Sự ra đời của mô hình
Dựa vào tư tưởng của Keynes, vào những năm 40 với sự nghiên cứu một cách độc lập, hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ đã cùng đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa sự tăng trưởng và thất nghiệp ở các nước phát triển. Mô hình này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn.
Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế nào, dù là một công ty, một nghành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó.
7.2 Nội dung của mô hình Harrod-Domar
- Mô hình Harrod-Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư.
- Giả định:
+ Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế đối với cung lao động.
+ Sản xuất tỉ lệ với khối lượng máy móc.
Sản lượng năm t: Y
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Sản lượng gia tăng trong kì
Tổng tiết kiệm trong năm S
Tỷ lệ tiết kiệm/GDP
Hệ số gia tăng vốn so với sản lượng ICOR
Hệ số ICOR phản ánh quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư. Tính hệ số này dựa trên các giả định chủ yếu sau:
- Nền kinh tế luôn cân bằng ở dưới sản lượng tiềm năng. Để có thể huy động được các nguồn lực dư thừa cần phải đầu tư để mở rộng quy mô sản xuất.
- Công nghệ không đổi, sự kết hợp giữa vốn và lao động được thực hiện theo một hệ số cố định.
Hệ số ICOR (k) là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của vốn đầu tư, nó được xác định theo công thức:
k =
Trong đó:
DK là mức thay đổi vốn sản xuất
(DK = Kt – Kt-1)
DY là mức thay đổi về kết quả sản xuất và DY = Yt – Yt-1, ở đây t chỉ năm nghiên cứu và t - 1 chỉ năm trước năm nghiên cứu.
Ý nghĩa của k là để tạo thêm được một đơn vị kết quả sản xuất thì cần tăng thêm bao nhiêu đơn vị vốn sản xuất. Hay nói cách khác, k là “giá” phải trả thêm cho việc tạo thêm một đơn vị kết quả sản xuất. Hệ số ICOR càng lớn chứng tỏ chi phí cho kết quả tăng trưởng càng cao nó phụ thuộc vào mức độ khan hiếm nguồn dự trữ và tính chất của công nghệ sản xuất. Ở các nước phát triển hệ số ICOR thường cao hơn ở các nước đang phát triển và ở mỗi nước thì hệ số ICOR luôn có xu hướng tăng lên. Tức là khi kinh tế càng phát triển thì để tăng thêm một đơn vị kết quả sản xuất cần nhiều hơn về nguồn lực sản xuất nói chung và nhân tố vốn nói riêng, và khi đó đường sản lượng thực tế gần tiệm cận với đường sản lượng tiềm năng. Điều này được giải thích bằng quy luật lợi ích cận biên giảm dần theo quy mô.
- Từ công thức:
Nếu , ta có
- Ta lại có: I = S = s*Y. Thay vào công thức tính ICOR, ta có:
từ đây suy ra:
Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kỉnh tế:
Cuối cùng ta có:
- Theo Harrod-Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỉ lệ tích lũy để đầu tư trong GDP là s với hệ số ICOR không đổi.
- Mô hình thể hiện S là nguồn gốc của I, đầu tư làm tăng vốn sản xuất (), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp làm gia tăng .
II/ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
Tác động của đầu tư đến quy mô tăng trưởng
1.1 Tác động của đầu tư đến tổng cung – tổng cầu
1.1.1 Tác động đến tổng cung
Tổng cung của nền kinh tế gồm hai nguồn chính là cung trong nước và cung từ nước ngoài. Bộ phận chủ yếu của cung trong nước là một hàm các yếu tố sản xuất: vốn, lao động, tài nguyên, công nghệ…
Theo Adam Smith thì vốn đầu tư chính là yếu tố quyết định đến số lao động hữu dụng. Việc tăng vốn đầu tư sẽ dẫn đến tăng sức lao động và tăng công cụ sản xuất cả về số lượng và chất lượng, từ đó mở rộng sản xuất. Như vậy, từ đầu thế kỷ 18, A.Smith đã bắt đầu đề cập đến vai trò của vốn đến sản xuất.
Tới thế kỷ 19, K.Marx đã đề cập đến vốn như là một trong bốn yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất gồm đất đai, lao động, vốn và tiến bộ khoa học kỹ thuật.
Kế thừa những tư tưởng trên, các nhà kinh tế tân cổ điển tiêu biểu là Cobb và Douglas đã phân tích rõ vai trò của vốn thông qua hàm sản xuất:
Y = A.ert.Kα.N(1-α)
Như vậy, tăng quy mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế nếu các yếu tố khác không thay đổi. Mặt khác, tác động của vốn đầu tư còn được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ…Do đó, đầu tư lại gián tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế.
1.1.2 Tác động đến tổng cầu:
Để tạo ra sản phẩm cho xã hội, trước hết cần đầu tư. Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế.
Theo Keynes, tổng sản lượng (cũng là tổng thu nhập) của nền kinh tế hình thành nhờ vào việc hiện thực hóa những quyết định chi tiêu chính là: chi tiêu dùng của hộ gia đình, chi tiêu cho đầu tư, mở rộng kinh doanh của doanh nghiệp, chi tiêu của chính phủ và chi tiêu ròng của các nền kinh tế bên ngoài đối với các sản phẩm nội địa.
AD = C + I + G + X – M
Như vậy, gia tăng đầu tư (I) sẽ làm cho tổng cầu (AD) tăng trong điều kiện các yếu tố khác không đổi.
Thông qua lý thuyết về số nhân đầu tư, Keynes đã giải thích mối quan hệ giữa việc gia tăng đầu tư với gia tăng sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến gia tăng sản lượng.
Lý thuyết số nhân đầu tư cho biết khi đầu tư tăng một đơn vị thì sản lượng tăng k đơn vị (k >1). Thực tế, việc gia tăng đầu tư sẽ dẫn đến gia tăng các yếu tố về tư liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu...) và quy mô lao động. Do vậy làm tăng tiêu dùng, tăng giá bán sản phẩm, tăng việc làm cho công nhân, từ đó làm tăng sản lượng hàng hóa tiêu dùng.
Thêm vào đó, lý thuyết gia tốc đầu tư phản ánh mức đầu tư thuần sẽ phụ thuộc vào sự thay đổi quy mô sản lượng hay nói cách khác, đầu tư sẽ phụ thuộc vào nhu cầu của sản lượng đầu ra.
Theo lý thuyết này, trong điều kiện lãi suất về giá các sản phẩm đầu ra không thay đổi, sẽ có sự tồn tại mối quan hệ giữa sản lượng đầu ra và quy mô vốn cần thiết đề sản xuất ra khối lượng sản phẩm đó.
Mối quan hệ giữa đầu tư với tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế là mối quan hệ biện chứng, nhân quả, có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn. Đây là cơ sở lý luận để giải thích chính sách kích cầu đầu tư và tiêu dùng ở nhiều nước trong thời kỳ nền kinh tế tăng trưởng chậm.
2.2 Tác động của đầu tư đến tốc độ tăng trưởng
Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng quy mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế… Do đó, nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Sự thay đổi tổng cung tổng cầu được phản ánh qua tốc độ tăng trưởng kinh tế. Như vậy, thay đổi quy mô vốn đầu tư cũng là nguyên nhân làm thay đổi tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Thông qua hàm sản xuất Cobb – Douglas ta có thể tính được tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng như sau:
g = r +αh + (1 – α)n
Biểu thức trên cho thấy: tăng trưởng của sản lượng có mối quan hệ thuận với tiến bộ của công nghệ và tỷ lệ tăng trưởng của vốn và lao động.
Harrod – Domar đã phát triển lý thuyết trên và giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư thông qua hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio).
Từ công thức tính:
Tốc độ tăng trưởng kinh tế
=
Tỷ lệ vốn đầu tư/GDP
ICOR
Cho thấy: Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP phụ thuộc hoàn toàn vào vốn đầu tư.
Thông qua chỉ số ICOR, ta có thể dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế hoặc dự báo quy mô vốn đầu tư cần thiết để đạt một tốc độ tăng trưởng kinh tế nhất định trong tương lai.
Trong những trường hợp nhất định, hệ số ICOR được xem là một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư. ICOR giảm cho thấy để tạo ra một đơn vị GDP tăng thêm, nền kinh tế phải bỏ ra một lượng vốn đầu tư ít hơn, nếu các điều kiện khác ít thay đổi.
Tuy nhiên, hệ số ICOR mới chỉ phản ánh ảnh hưởng của yếu tố đầu tư mà chưa tính đến ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất khác trong việc tạo ra GDP tăng thêm. ICOR cũng bỏ qua sự tác động của các ngoại ứng như điều kiện tự nhiên, xã hội, cơ chế chính sách…Mặt khác, hệ số ICOR không tính đến yếu tố độ trễ thời gian của kết quả và chi phí, vấn đề tái đầu tư…
Đầu tư có ảnh hưởng quan trọng không chỉ đến tốc độ tăng trưởng cao hay thấp mà còn đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Trên góc độ phân tích đa nhân tố, vai trò của đầu tư đối với tăng trưởng kinh tế thường được phân tích theo biểu thức sau:
g = Di + Dl + TFP
Trong đó:
g: tốc độ tăng trưởng GDP
Di: phần đóng góp của vốn đầu tư vào tăng trưởng GDP
Dl: phần đóng góp của lao động vào tăng trưởng GDP
TFP: phần đóng góp của tổng các yếu tố năng suất vào tăng trưởng GDP
Thông qua công thức này, chúng ta có thể đánh giá tác động của vốn đầu tư đến tăng trưởng kinh tế.
Tác động của đầu tư đến chất lượng tăng trưởng
Tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế là cơ cấu tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng, tùy theo mục tiêu của nền kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế được hiểu là sự thay đổi tỷ trọng của các bộ phận cấu thành nền kinh tế. Sự chuyển dịch kinh tế xảy ra khi có sự phát triển không đồng đều về quy mô tốc độ giữa các ngành, vùng.
Những cơ cấu kinh tế chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân bao gồm kinh tế ngành, lãnh thổ, theo thành phần kinh tế.
Để đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành giữa 2 thời kỳ người ta có thể sử dụng công thức sau:
Nếu:
Tỷ trọng của ngành nông nghiệp là
Tỷ trọng của ngành công nghiệp và xây dựng là
Tỷ trọng của ngành dịch vụ là
Tỷ trọng của ngành phi nông nghiệp là
βPhi NN(t)= βCN(t) + βDV(t)
Tỷ trọng của ngành sản xuất vật chất là
βSXVC(t)= βNN(t)+ βCN(t)
Thì hệ số chuyển dịch k của hai ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp là
θ0=arccos θ0
Góc này bằng 00 khi không có sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế và bằng 900 khi sự chuyển đổi cơ cấu là lớn nhất.
Và độ lệch tỷ trọng nông nghiệp là
dNN= βNN(t1) – βNN(t)
Hệ số chuyển dịch k của hai ngành dịch vụ và sản xuất vật chất là
θ0=arccos θ0
Và độ lệch tỷ trọng dịch vụ và sản xuất vật chất là
dDV= βDV(t1) – βDV(t)
Đầu tư góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp quy luật và chiến lược phát triển kinh tế xã hội của quốc gia trong từng thời kỳ, tạo ra sự cân đối trên phạm vi nền kinh tế quốc dân và giữa các ngành, vùng, phát huy nội lực của nền kinh tế, trong khi vẫn coi trọng yếu tố ngoại lực. Đối với cơ cấu ngành, vốn đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn đầu tư từng ngành nhiều hay ít, việc sử dụng vốn hiệu quả thấp hay cao… đều ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, đến khả năng tăng cường cơ sở vật chất của từng ngành, tạo tiền đề vật chất để phát triển các ngành mới… Do đó, làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế ngành.
Đối với cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị… của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
Có thể sử dụng các chỉ tiêu dưới đây để đánh giá vai trò của đầu tư tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
% thay đổi tỷ trọng GDP của ngành trong tổng GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước
=
% thay đổi tỷ trọng đầu tư của ngành/tổng vốn đầu tư xã hội giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước
Hệ số co giãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư với thay đổi cơ cấu kinh tế của ngành
Chỉ tiêu này cho biết để tăng 1% tỷ trọng GDP của ngành trong tổng GDP (thay đổi cơ cấu kinh tế) thì phải đầu tư cho ngành tăng thêm bao nhiêu.
% thay đổi tốc độ tăng trưởng GDP giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước
=
% thay đổi tỷ trọng đầu tư của ngành nào đó/tổng vốn đầu tư xã hội giữa kỳ nghiên cứu so với kỳ trước
Hệ số co dãn giữa việc thay đổi cơ cấu đầu tư ngành với thay đổi GDP
Chỉ tiêu này cho biết: để góp phần đưa tăng trưởng kinh tế (GDP) lên 1% thì tỷ trọng đầu tư vào một ngành nào đó tăng bao nhiêu.
2.2 Tác động đến khoa học công nghệ:
Đầu tư là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quyết định đổi mới và phát triển khoa học, công nghệ của một doanh nghiệp và một quốc gia.
Trong mỗi thời kỳ, các nước có bước đi khác nhau để đầu tư phát triển công nghệ. Trong giai đọan đầu, các nước đang phát triển, do có nhiều lao động và nguyên liệu, thường đầu tư các loại công nghệ sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu. Sau đó, giảm dần hàm lượng lao động và nguyên liệu trong sản xuất sản phẩm và tăng dần hàm lượng vốn thiết bị và tri thức thông qua việc đầu tư công nghệ hiện đại hơn và đầu tư đúng mức để phát triển nguồn nhân lực. Đến giai đoạn phát triển, xu hướng đầu tư mạnh vốn thiết bị và gia tăng hàm lượng tri thức chiếm ưu thế tuyệt đối. Tuy nhiên, quá trình chuyển từ giai đoạn thứ nhất sang giai đoạn thứ ba cũng là quá trình chuyển từ đầu tư ít sang đầu tư lớn, thay đổi cơ cấu đầu tư. Không có vốn đầu tư đủ lớn sẽ không đảm bảo sự thành công của quá trình chuyển đổi và phát triển của khoa học và công nghệ.
Công nghệ mà doanh nghiệp có được là do nhập khẩu từ bên ngoài hoặc tự nghiên cứu ứng dụng. Công nghệ được nhập khẩu qua nhiều đường như mua thiết bị linh kiện rồi lắp đặt, mua bằng sáng chế, thực hiện liên doanh…
Công nghệ tự do nghiên cứu và triển khai được thực hiện qua nhiều giai đọan, từ nghiên cứu, đến thí nghiệm, sản xuất thử… Dù nhập hay tự nghiên cứu, để có công nghệ cũng đều đòi hỏi lượng vốn đầu tư lớn. Mỗi doanh nghiệp, mỗi nước khác nhau cần phải có bước đi phù hợp để lựa chọn công nghệ thích hợp. Trên cơ sở đó, đầu tư có hiệu quả để phát huy lợi thế so sánh của từng đơn vị cũng như toàn nền kinh tế quốc dân.
Để phản ánh sự tác động của đầu tư đến trình độ phát triển của khoa học và công nghệ, có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:
Tỷ trọng vốn đầu tư đổi mới công nghệ/ tổng vốn đầu tư: cho thấy mức độ đầu tư đổi mới công nghệ nhiều hay ít trong mỗi thời kỳ.
Tỷ trọng chi phí mua sắm máy móc thiết bị/ tổng vốn đầu tư thực hiện: cho thấy tỷ lệ vốn là máy móc thiết bị chiếm bao nhiêu.
Tỷ trọng vốn đầu tư theo chiều sâu/ tổng vốn đầu tư thực hiện: phản ánh mức độ đầu tư đổi mới khoa học và công nghệ cao.
Tỷ trọng vốn đầu tư cho các công trình mũi nhọn, trọng điểm: chỉ tiêu này càng lớn cho thấy mức độ tập trung của công nghệ và gián tiếp phản ảnh mức độ hiện đại của công nghệ.
Đầu tư tác động vào hệ số TFP – một thành phần trong công thức tính tốc độ tăng trưởng. TFP là quan hệ giữa đầu ra với tổng hợp các yếu tố đầu vào bao gồm cả các yếu tố không định lượng được như công nghệ, trình độ quản lý…TFP phản ánh hiệu quả của các nguồn lực được sử dụng vào sản xuất. Ngoài ra TFP còn phản ánh hiệu quả do thay đổi công nghệ, trình độ tay nghề của công nhân, trình độ quản lý, thời tiết...
Nâng cao TFP tức là nâng cao hơn kết quả sản xuất với cùng đầu vào. Điều này là rất quan trọng đối với người lao động, doanh nghiệp và toàn nền kinh tế. Đối với người lao động, nâng cao TFP sẽ góp phần nâng lương, nâng thưởng, điều kiện lao động được cải thiện, công việc ổn định hơn. Đối với doanh nghiệp thì có khả năng mở rộng tái sản xuất. Còn đối với nền kinh tế sẽ nâng cao sức cạnh tranh trên trường quốc tế, nâng cao phúc lợi xã hội.
Bằng cách thay đổi cơ cấu vốn, thay đổi công nghệ… đầu tư đã tác động không nhỏ tới sự phát triển khoa học kỹ thuật, đổi mới phương thức sản xuất…
CHƯƠNG II:
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM
I/ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ TÌNH HÌNH TĂNG TRƯỞNG – PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2001 – 2009
Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư ở Việt Nam:
Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ, cải thiện môi trường. Nhìn chung, tổng số vốn đầu tư huy động được tăng dần qua các năm kể từ 2001 cho đến 2009 phù hợp với sức tăng trưởng khá nhanh của nền kinh tế Việt Nam. Tốc độ tăng của vốn đầu tư trong giai đoạn này mang dấu hiệu rất khả quan. Cụ thể: năm 2001, tổng số vốn huy động được chỉ đạt được 170,5 nghìn tỷ đồng, thì đến năm 2009, con số này là 704,7 nghìn tỷ đồng tức tổng vốn đầu tư tăng gấp 4 lần trong vòng 9 năm. Điều này phản ánh dấu hiệu lạc quan trong lĩnh vực đầu tư (đầu tư phát triển) trong nền kinh tế Việt Nam.
Xét về cơ cấu vốn, nếu như trong các năm 2001 và 2002, vốn đầu tư được chú trọng đến khu vực kinh tế nhà nước chiếm lần lượt 60% và 57% trên tổng số vốn đầu tư, thì bắt đầu tư năm 2003 trở đi, cơ cấu vốn đã có sự chuyển dịch. Tức là quan tâm rót vốn vào 2 khu vực kinh tế còn lại (khu vực ngoài nhà nước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài) nhưng chưa rõ rệt. Năm 2009, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện theo giá thực tế ước tính tăng 15,3% so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP. Trong đó, khu vực nhà nước tăng 40,5%; khu vực ngoài nhà nước tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 5,8%. Trong vốn đầu tư của khu vực nhà nước, vốn từ ngân sách nhà nước chiếm 21,8% tổng vốn đầu tư cả nước, đạt 106,8% kế hoạch năm. (bảng 1)
Bảng 1: Vốn đầu tư thực hiện theo giá thực tế phân theo thành phần kinh tế
Đơn vị: nghìn tỷ đồng
Năm
Tổng số vốn
Cơ cấu
Tổng vốn đầu tư
so với tổng sản
phẩm trong nước
(%)
Kinh tế nhà nước
Kinh tế ngoài
nhà nước
Khu vực có
vốn đầu tư
nước ngoài
2001
170,5
102,0
38,5
30,0
35,4
2002
200,1
114,7
50,6
34,8
37,4
2003
239,3
126,6
74,4
38,3
39,0
2004
290,8
139,8
109,8
41,2
40,7
2005
343,1
161,6
130,4
51,1
40,9
2006
404,7
185,1
154,0
65,6
41,5
2007
521,7
208,1
184,3
129,3
45,6
2008
580
257
180
143
41.3
2009
704.2
363
207
134.7
42.8
Nguồn: Tổng cục thống kê
1.1 Đầu tư trong nước:
Năm 2009, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước ước đạt 163 nghìn tỷ đồng, chiếm trên 21,7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội; vốn trái phiếu chính phủ ước đạt 48 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 6,8%; vốn đầu tư từ khu vực dân cư và tư nhân ước đạt 223,5 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ lệ trên 31,7%.
Vốn vay và vốn của các DNNN cho đầu tư chiếm tỷ lệ nhỏ hơn vốn ngân sách nhà nước trong đầu tư, điều này cho thấy việc tỷ trọng vốn đầu tư tăng là do nhà nước tăng cường tập trung đầu tư cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; đầu tư cho nông nghiệp nông thôn, cho sự nghiệp phát triển nguồn nhân lực, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, các chương trình phát triển về văn hoá, xã hội, y tế, xoá đói, giảm nghèo.
Vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước khoảng 50 nghìn tỷ đồng, tăng 25% so với thực hiện năm 2008, chiếm 7% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
* Một số vấn đề:
- Tiến độ thực hiện và giải ngân các nguồn vốn đầu tư nhà nước đạt mức cao hơn nhiều so với các năm trước, bố trí vốn tập trung, khắc phục dần tình trạng phân tán, dàn trải…Tuy nhiên, việc giải ngân còn thấp so với yêu cầu đặt ra, trong đó đặc biệt là nguồn vốn trái phiếu Chính phủ.
- Tình trạng chậm tiến độ xây dựng các công trình, dự án tuy có giảm nhưng vẫn chưa được khắc phục. Công tác chuẩn bị đầu tư, quy hoạch, kế hoạch, công tác xây dựng dự án, thẩm định và phê duyệt dự án chưa được quan tâm đúng mức. Năng lực tư vấn chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều dự án, công trình phải chỉnh sửa thiết kế và tổng dự toán, đã ảnh hưởng và làm chậm tiến độ triển khai thực hiện.
Cụ thể, ngành và địa phương, tỷ lệ dự án chậm tiến độ năm 2009 khoảng 12,7% (năm 2008 là 18,2%; năm 2007 là 14,8%; năm 2006 là 13,1%). Số dự án phải thực hiện điều chỉnh trong 6 tháng đầu năm 2009 là 6.478, chiếm 20,2% tổng số dự án; trong đó, 4% dự án điều chỉnh về nội dung đầu tư, 7,1% dự án điều chỉnh về tiến độ, và 12,7% dự án điều chỉnh tổng mức đầu tư. - Tình hình vi phạm quy định về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản dù đã giảm so với năm trước nhưng vẫn còn ở mức cao. Trong 6 tháng đầu năm 2009, có 4.182 dự án vi phạm các quy định về quản lý đầu tư, chiếm khoảng 13% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong ký (năm 2008 là 18,9%; năm 2007 là 17,6%; năm 2006 là 13,4%).
Các vi phạm gồm 4.076 dự án chậm tiến độ đề ra, chiếm 12,7% tổng số dự án thực hiện đầu tư trong kỳ; 51 dự án không phù hợp với quy hoạch, chiếm 0,2%; 29 dự án đấu thầu không đúng quy định, chiếm 0,1%; 108 dự án phê duyệt chậm, chiếm 0,3%; 149 dự án chất lượng xây dựng thấp, chiếm 0,5%; 94 dự án lãng phí, chiếm 0,3%.
1.2 Đầu tư nước ngoài:
1.2.1 FDI:
Khu vực FDI tiếp tục khẳng định vai trò của mình trong tiến trình phát triển kinh tế Việt Nam và trở thành một bộ phận cấu thành rất quan trọng của nền kinh tế Việt Nam.
Cụ thể:
Tuy chỉ bằng 30% năm 2008, nhưng FDI vào Việt Nam năm 2009 đạt con số 21,48 tỷ USD cũng vẫn là kết quả khả quan. Mặc dù khủng hoảng kinh tế toàn cầu, song Việt Nam đã vượt mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong năm nay, theo kế hoạch ban đầu chỉ là 20 tỷ USD.
Cả nước có 839 dự án mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng kí là 16,34 tỷ USD bằng 24,6% so với năm 2008 và 215 dự án xin bổ sung vốn với tổng vốn tăng thêm là 5,13 tỷ USD bằng 98,3% so với năm 2008. Riêng tháng 12, Việt Nam có 1,78 tỷ USD vốn đăng kí và bổ sung.
TT
Ngành
Số dự
án mới
Vốn đăng
ký cấp mới
(triệu USD)
Số lượng
dự án
tăng vốn
Vốn
đăng ký
tăng thêm
(triệu USD)
Vốn đăng ký cấp
mới và tăng thêm
(triệu USD)
1
Dvụ lưu trú và ăn uống
32
4.982,6
8
3.811,7
8.794,2
2
KD bất động sản
39
7.372,4
4
236,1
7.608,5
3
CN chế biến,chế tạo
245
2.220,0
131
749,3
2.969,2
4
Xây dựng
74
388,3
11
99,2
487,4
5
Khai khoáng
6
397,0
0
0,0
397,0
6
Nghệ thuật và giải trí
12
291,8
0
0,0
291,8
7
Bán buôn,bán lẻ;sửa chữa
115
191,7
14
46,5
238,2
8
Vận tải kho bãi
26
109,8
5
74,8
184,6
9
SX,pp điện,khí,nước,đ.hòa
16
129,0
1
27,9
156,9
10
HĐ chuyên môn, KHCN
148
89,0
7
10,9
99,9
11
Thông tin và truyền thông
63
67,6
17
25,5
93,1
12
Nông,lâm nghiệp;thủy sản
16
62,4
8
22,5
84,9
13
Giáo dục và đào tạo
8
5,2
3
23,7
28,9
14
Dịch vụ khác
22
14,9
5
7,9
22,7
15
Cấp nước;xử lý chất thải
5
8,4
0
0,0
8,4
16
Y tế và trợ giúp XH
6
7,4
1
0,9
8,3
17
Hành chính và dvụ hỗ trợ
5
7,9
0
0,0
7,9
18
Tài chính,n.hàng,bảo hiểm
1
0,0
0
0,0
0,0
Tổng số
839
16.345,4
215
5.136,7
21.482,1
Nguồn số liệu: bộ kế hoạch và đầu tư
1.2.2 ODA
Tổng giá trị vốn ODA được ký kết thông qua các hiệp định với các nhà tài trợ năm 2009 ước đạt 6.144,4 triệu USD. Trong đó, vốn vay là 5.929,4 triệu USD, viện trợ không hoàn lại là 215 triệu USD. Tổng số vốn ODA giải ngân năm 2009 ước đạt trên 3.600 triệu USD, bao gồm vốn vay khoảng 3.255 triệu USD; vốn viện trợ không hoàn lại khoảng 345 triệu USD.
Trong số 28 nhà tài trợ cho Việt Nam năm nay, có 5 đối tác đa phương (ADB, EC, UN Agencies, WB và International NGOs), và 23 đối tác song phương. Trong các nước trực tiếp viện trợ ODA cho Việt Nam, đứng đầu là Cộng hòa Pháp với 280,96 triệu USD, Hàn Quốc 268,7 triệu USD, Đức 186 triệu USD, Hoa Kỳ 128,12 triệu USD... Hàn Quốc và Thái Lan là hai quốc gia châu Á duy nhất cam kết tài trợ cho Việt Nam. Riêng Nhật Bản - nguồn viện trợ khá lớn của Việt Nam các năm trước không có tên trong danh sách các nước cam kết hỗ trợ ODA cho Việt Nam.
* Các kết quả đạt được:
- Việc thu hút và sử dụng ODA trong thời gian qua góp phần quan trọng trong việc thực hiện thành công chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá, giữ vững độc lập, tự chủ và chủ quyền quốc gia.
Tuy tiếp nhận một khối lượng vốn ODA bao gồm các khoản vay gắn liền với các điều kiện về cải cách thể chế, song ta vẫn giữ được độc lập tự chủ và chủ động thực hiện công cuộc đổi mới và cải cách theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- ODA đã bổ sung một nguồn vốn quan trọng góp phần cân đối nguồn vốn đầu tư phát triển trong các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Nguồn vốn ODA đã bổ sung khoảng 11,4% cho tổng vốn đầu tư toàn xã hội và trung bình khoảng 50% tổng đầu tư từ ngân sách. ODA đã thực sự trở thành kênh vốn bổ sung quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Tuy đã vay một lượng vốn ODA đáng kể, song theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), nợ nước ngoài của ta hiện trong giới hạn an toàn.
- ODA đã hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, cải thiện các dịch vụ kinh tế - xã hội, xoá đói, giảm nghèo.
- Nguồn vốn ODA đã góp phần phát triển kinh tế, xã hội và xoá đói giảm nghèo của nhiều địa phương, bao gồm phát triển cơ sở hạ tầng quy mô vừa và nhỏ (nước, đường, trường, trạm, lưới điện, điện thoại...). Nhờ vậy đã tăng cường khả năng tiếp cận với các dịch vụ cơ sở hạ tầng nông thôn, cải thiện cơ sở vật chất trường học, y tế và phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy lợi, thủy sản của nhiều địa phương, đặc biệt ở các tỉnh nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
- Thông qua các chương trình và dự án ODA, ta đã tiếp nhận được các thành tựu khoa học hiện đại, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tăng cường năng lực và phát triển thể chế, hỗ trợ xây dựng chính sách, luật pháp: Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Cạnh tranh, Luật Chống tham nhũng,...và đào tạo cán bộ.
Tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế giai đoạn 2001 – 2009:
Sau hơn 20 năm thực hiện đổi mới, tốc độ tăng trưởng GDP củaViệt Nam đã tăng liên tục. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới (1986 - 1990), GDP chỉ đạt mức tăng trưởng bình quân 4,4%/năm, thì trong 5 năm tiếp theo (1991 - 1995), tăng trưởng GDP bình quân là 8,2%; cao hơn so với kế hoạch đề ra là 5,5% - 6,5%; và thuộc vào loại cao trong số các nước đang phát triển. Trong giai đoạn 1996 - 2000, tốc độ tăng GDP bình quân của Việt Nam là 6,9%; tuy có thấp hơn nửa đầu thập niên 90 thế kỷ XX do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á, nhưng vẫn vào loại cao trong khu vực. Năm 2001, tốc độ tăng GDP của Việt Nam là 6,9%; năm 2002: 7%; năm 2003: 7,3%; năm 2004: 7,7%; năm 2005: 7,5%; năm 2006: 8,2% và năm 2007: 8,5%. So với các nước trong khu vực, Việt Nam đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng rất cao.
Do chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có dấu hiệu của sự sụt giảm đáng kể. Tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm trong nước (GDP) của Việt Nam năm này chỉ đạt 6,23% tức là thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng của năm ngoái và thấp nhất trong vòng 9 năm trở lại đây
Đánh giá chung về tình hình tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam 2009: tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy đã tăng lên, vượt qua giai đoạn suy giảm, nhưng tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào phát triển theo chiều rộng, tăng khối lượng các nguồn lực, nhất là tăng vốn đầu tư, chưa thực sự dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội và nâng cao hiệu quả nên tăng trưởng chưa thật vững chắc, chất lượng và hiệu quả tăng trưởng chưa cao. Tỷ lệ đầu tư so với GDP năm 2008 là 41,3%; năm 2009 là 42,8%; nhưng tốc độ tăng GDP hai năm chỉ đạt 6,18% và 5,32% là chưa tương xứng. Khả năng cạnh tranh của nền kinh tế và của nhiều ngành, nhiều sản phẩm còn thấp.
II/ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VIỆT NAM GIAI ĐỌAN 2001 - 2009
Tác động tới tốc độ tăng trưởng:
Từ năm 2001 đến nay, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam luôn được xếp vào hàng cao của khu vực và thế giới, đặc biệt năm 2006 (8,2%) và năm 2007 ( 8,5%), và mặc dù trong năm 2008 (6,23%), 2009 (5,32%) có sự sụt giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu, nhưng Việt Nam được xếp vào hàng các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới.
Đóng góp vào tăng trưởng kinh tế là 3 yếu tố đầu vào: vốn, lao động và nhân tố năng suất tổng hợp (TFP). Mức độ đóng góp của từng yếu tố đầu vào này trong từng giai đoạn thể hiện bảng sau:
Tốc độ tăng
GDP
Tốc độ tăng năng
suất nhân tố tổng
hợp (TFP)
Đóng góp
của vốn
Đóng góp
của lao
động
2003-2008
45,72
7,55
13,43
6,74
Phần trăm đóng góp
100%
16,51%
86,75%
14,74%
Bình quân TFP hàng năm
1,50
2004-2009
42,22
6,92
30,25
5,04
Phần trăm đóng góp
100%
16,40%
71,66%
11,93%
Bình quân TFP hàng năm
1,47
Như vậy, bảng trên cho thấy: Việt Nam tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư quá mức và dàn trải. Mức đóng góp của yếu tố vốn vào tăng trưởng chiếm đến 68,75% trong giai đoạn năm năm 2003 – 2008 và tăng lên đến 71,40% trong năm năm 2004 – 2009. Đây là một tỷ lệ cao hiếm thấy trên thế giới.
Tuy vốn đầu tư đóng vai trò chủ chốt đối với sức tăng trưởng của kinh tế Việt Nam nhưng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nước ta đang có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây. Điều này thể hiện ở hệ số ICOR:
ICOR Việt Nam qua các giai đoạn 2001-2009
Giai đoạn
ICOR
2001-2003
5.24
2004-2006
5.04
2006-2008
6.15
2009
8
Với nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, theo khuyến cáo của các định chế tài chính có uy tín như Ngân hàng Thế giới, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. Nhưng nhìn vào số liệu đã thống kê ở trên, ICOR Việt Nam luôn ở mức xấp xỉ 5 từ (2001-2006) và tăng đến 6,15 năm 2008, đặc biệt, đạt mức báo động 8 ở năm 2009. Nguyên nhân chủ yếu là do đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm; tình trạng thất thoát, lãng phí trong sử dụng vốn nhà nước vẫn còn xảy ra; công tác cải cách hành chính được thúc đẩy nhưng còn nhiều bất cập. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng tăng trưởng.
Nói đến chất lượng tăng trưởng, phải kể đến nhân tố năng suất (TFP). Năng suất thể hiện những tiến bộ về hiệu quả của nền kinh tế như công nghệ, phương pháp quản lý… Nhưng trong tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) chỉ đóng góp vào tăng trưởng 7,29% trong khi tăng trưởng do đóng góp của vốn vào khoảng 83,2%. Năng suất các nhân tố tổng hợp trong giai đoạn 2004 – 2008 cũng chỉ tăng bình quân khoảng 1,5% nhưng mức tăng này ngày càng giảm dần. Đặc biệt, từ năm 2007 đến nay, năng suất nhân tố tổng hợp chỉ tăng xấp xỉ 1%. Điều này chứng tỏ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không thiên về chiều sâu, chưa chú trọng phát triển các yếu tố khoa học kỹ thuât, chất lượng quản lý…Theo đà phát triển hiện nay, TFP ngày càng trở nên quan trọng. Nâng cao nhân tố TFP sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế trong dài hạn.
Mặt khác, tăng trưởng kinh tế Việt Nam cũng phụ thuộc vào yếu tố số lượng lao động. Nguồn lao động ở Việt Nam khá dồi dào và hàng năm thì tăng khoảng 2%, tức là trên 1 triệu người mỗi năm. Số lượng gia tăng nhanh, nhưng chất lượng lao động không cao dẫn đến tỷ trọng của yếu tố lao động đóng góp vào tăng trưởng kinh tế không cao (ước khoảng 25-27% GDP). Lực lượng lao động phân bố chênh lệch dẫn đến tình trạng thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn.
Tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
2.1 Những thành tựu:
Bảng: cơ cấu GDP và cơ cấu vốn đầu tư theo ngành (%)
Cơ cấu GDP
Cơ cấu vốn đầu tư
1995
2000
2005
2008
1995
2000
2005
2008
Nền kinh tế
100
100
100
100
100
100
100
100
Khu vực I
27.2
24.5
21.0
22.1
13.3
13.8
7.5
8.4
NN và LNghiệp
23.0
19.8
15.8
18.1
12.5
11.4
5.9
4.8
Thủy sản
2.9
3.4
3.9
4.0
0.7
2.5
1.7
1.6
Khu vực II
28.8
36.7
41.0
39.7
34.1
39.2
42.6
40.6
Khai thác mỏ
4.8
9.6
10.6
8.9
5.0
6.3
7.8
8.3
CN chế biến
15.0
18.6
20.6
21.1
17.1
19.3
19.9
17.7
SX và pp điện
2.1
3.2
3.4
3.2
9.2
11.2
11.0
10.5
Xây dựng
6.9
5.4
6.3
6.5
2.8
2.4
3.8
4.1
Khu vực III
44.1
38.7
38.0
38.2
52.7
46.9
49.9
53.0
Thương mại
16.4
14.2
13.6
13.9
1.2
2.0
5.4
4.6
KS nhà hàng
3.8
3.2
3.5
4.4
5.3
2.9
1.9
1.9
Vận tải,tt liên lạc
4.0
3.9
4.4
4.5
15.7
13.2
14.1
14.7
Tài chính tín dụng
2.0
1.8
1.8
1.8
0.1
0.9
0.6
1.2
KH và công nghệ
0.6
0.5
0.6
0.6
0.3
1.2
0.4
0.6
Tài sản và tư vấn
5.4
4.3
4.0
3.6
3.0
2.7
1.7
5.8
Quản lý NN
3.6
2.7
2.7
2.8
3.1
2.6
2.8
2.1
GD và đào tạo
3.6
3.4
3.2
2.6
2.5
4.0
2.9
2.7
Nguồn: NGTK. GDP và vốn đầu tư được tính theo giá hiện hành
Tổng vốn đầu tư ở khu vực I thấp và giảm dần: 13,8% năm 2000, còn 6,5% vào năm 2008 so với tỉ trọng của nhóm ngành này trong GDP năm 1995 là 27% và năm 2008 là 20% thì số đầu tư nói trên là quá thấp. Trong khu vực I, đầu tư giảm chủ yếu trong nông nghiệp, tỷ trọng của ngành này trong GDP cũng giảm rất nhanh từ 23% trong GDP năm 1995 còn có 15% vào năm 2008.
Nội lực của khu vực I là khá mạnh nếu xét từ yếu tố thiên nhiên và nguồn lao động. Nó cũng hấp dẫn khi trên thực tế có hàng ngàn tỷ đồng đầu tư vào nuôi tôm, nuôi cá và theo sau đó là các nhà máy chế biến. Nhưng nông nghiệp do phương thức canh tác của nó, phục thuộc rất nhiều vào thời tiết và khí hậu nên nó là ngành kém hấp dẫn, khó thu hút đầu tư từ bên ngoài vào. Đặc biệt khi gắn nó với nhiệm vụ an ninh lương thực, chống lạm phát thì không thể có mức giá thu hút đầu tư. Do vậy cần có chính sách khuyến khích đầu tư của những người từ trong ngành.
Không thể đánh giá một cách đơn giản về vai trò của nông nghiệp bằng các số liệu về % của nó trong GDP là bao nhiêu hay chỉ vì xu thế đang giảm mà xem nhẹ nó. Cần xem xét các tác động và ảnh hưởng của nó tới ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, xuất khẩu, công ăn việc làm và hàng loạt các vấn đề xã hội. Với tỷ trọng là 20% mà khu vực I chiếm trong GDP thì không phải là nhỏ. Tỷ trọng đó còn lớn hơn so với thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài mà phải mất nhiều năm nhọc công xây dựng chính sách, đầu tư cơ sở hạ tầng mới có được.
Đầu tư mạnh vào khu vực II đã nâng tỷ trọng của khu vực này từ ít hơn 30% hồi năm 95 lên 42% vào năm 2008.Đầu tư nhiều vào khu vực II không chỉ là từ nội bộ khu vực mà còn bởi tác động rất lớn từ Chính phủ về phương diện chính sách và qua kênh phân bổ vốn, bão lãnh vốn cho các DNNN.
Bảng: cơ cấu GDP và vốn đầu tư theo thành phần sở hữu vốn (%)
Cơ cấu GDP theo thành phần
Cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần
1995
2000
2005
2008
1995
2000
2005
2008
Nền kinh tế
100
100
100
100
100
100
100
100
KT nhà nước
40.2
38.5
38.4
34.4
42.0
59.1
47.1
28.6
KT ngoài NN
53.5
48.2
45.6
47.0
27.6
22.9
38.0
40.4
KT có FDI
6.3
13.3
16.0
18.7
30.4
18.0
14.9
31.5
Nguồn: NGTK. GDP và Vốn đầu tư được tính theo giá hiện hành
Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế cho thấy bức tranh phân bổ nguồn lực giữa các tác nhân tham gia quá trình đầu tư. Thành phần kinh tế nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư, lúc cao nhất lên đến 59% năm 2000, năm 2008 là 37%. Nguồn vốn chảy vào thành phần kinh tế này là từ ngân sách nhà nước, vốn từ các ngân hàng, có thể còn là nguồn vay khác với sự bảo lãnh của Chính phủ. Một so sánh khác, nếu tính theo giá cố định thì tỷ trọng của thành phần kinh tế này ở vào khoảng 40% GDP từ 1995 đến 2008 nhưng trong cơ cấu đầu tư thì chiếm đến 55% từ 2000 đến 2005.
Các số liệu trên cho thấy hiệu quả vốn đầu tư ở thành phần kinh tế này là thấp, càng gia tăng đầu tư vào đây thì hiệu quả càng giảm.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm vào khoảng 20 đến 30 % trong tổng vốn đầu tư và vào khoảng từ 14 – 18% GDP. Vốn đầu tư nước ngoài đã bổ sung và trở thành thành phần quan trọng trong tổng mức đầu tư vào nền kinh tế. Tác động nó không dừng lại ở phần mà nó làm ra, đóng góp vào GDP mà còn tạo ra mối liên hệ với các thành phần kinh tế khác trong quá trình đặt hàng và lan tỏa của hiệu ứng đầu tư khi kích thích đầu tư ở các thành phần kinh tế khác. Tuy nhiên số vốn của thành phần kinh tế này không phải hoàn toàn từ nước ngoài chảy vào mà còn có một phần từ vốn vay trong nước và vốn tích lũy trong quá trình kinh doanh tại Việt Nam, sự chuyển vốn của công ty mẹ trong quá trình đầu tư mua sắm.
Khi qui mô của thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài lớn lên và quá trình hoạt động ở Việt Nam đủ lâu, thành phần kinh tế này sẽ tiếp cận các nguồn tín dụng và tài nguyên trong nước không khác gì các doanh nghiệp nhà nước hay doanh nghiệp ngoài nhà nước thì vấn đề sẽ khác, hoàn toàn khác. Sự cạnh tranh phân bổ tài nguyên, nguồn lực, từ nguồn vốn tín dụng, điện năng… sẽ là khó khăn lớn, rất lớn cho thành phần kinh tế ngoài nhà nước, đặc biệt là với kinh tế cá thể. Tác động và ảnh hưởng như thế nào cònphải xem xét những ngành mà đầu tư nước ngoài hướng đến hiện nay để hình thành nên những cấu trúc trong tương lai.
Kinh tế ngoài nhà nước (với đại bộ phận là cá thể) với gần ½ GDP nhưng chỉ chiếm ít hơn 30% trong tổng vốn đầu tư cho thấy sự yếu kém về nội lực của thành phần kinh tế này. Điều đó cũng chỉ ra rằng cạnh tranh quyết liệt trong thời gian tới để giành lấy thị phần, giành lấy nguồn lực bất lợi nghiêng về thành phần kinh tế này. Với viễn cảnh đó đòi hỏi chính sách phải có sự nâng đỡ với thành phần kinh tế này.
2.2 Những nguyên nhân:
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam chưa rõ rệt do một số nguyên nhân sau:
- Kinh tế toàn cầu phát triển mạnh mẽ, chính sách đầu tư Việt Nam tuy có những cải biến đáng kể nhưng chưa tương xứng với yêu cầu để xác định cơ cấu đầu tư được định vị trrong chuỗi giá trị toàn cầu.
- Chính sách đầu tư VN có những cải biến đáng kể của một nền kinh tế đang chuyển đổi, tính thị trường trong huy động và phân bố nguồn lực ngày càng rõ nét, song mức độ vận hành cơ chế thị trường chưa sâu.
- Cơ chế khuyến khích đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư chưa phù hợp và kém tính linh hoạt. Chính sách đầu tư chưa hướng vào các ngành công nghệ cao, ngành có lợi thế cạnh tranh và có đóng góp tích cực cho chất lượng tăng trưởng.
- Chính sách đầu tư chưa quan tâm thỏa đáng đến quy hoạch dẫn đến tình trạng đầu tư thiếu quy hoạch và không đồng bộ, công tác dự báo đầu tư còn hết sức hạn chế.
- Chính sách đầu tư chưa ổn định, thiếu tính linh hoạt trong một số trường hợp không phù hợp với thực tế và một số chính sách đưa ra mang tính chất tình thế hơn là tính chất dài hạn.
Tác động của đầu tư đối với phát triển khoa học - công nghệ:
Khoa học - công nghệ thể hiện vai trò vô cùng quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Vì vậy mà trong những năm vừa qua, Việt Nam đã rất chú trọng đến vấn đề phát triển năng lực công nghệ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời nâng cao chất lượng tăng trưởng và năng lực cạnh tranh. Ngoài việc tiếp tục phát triển các khu công nghệ cao sẵn có từ 2006 như: khu công nghệ cao Hồ Chính Minh, khu công nghệ cao Láng Hòa Lạc…Thì trong năm 2009, nước ta đề xuất và tiến hành xây dựng thêm một số khu công nghệ cao khác như: khu công nghệ cao Đà Nẵng (1400ha), khu công nghệ cao sinh học Đồng Nai…Tuy nhiên, nhận thức về đầu tư đổi mới công nghệ còn hạn chế, cơ chế chính sách cho đầu tư đổi mới công nghệ chưa hoàn thiện và đồng bộ.
Kết quả điều tra cho thấy mức độ hiện đại của các doanh nghiệp như sau:
39% thuộc về những năm 1980
57% thuộc về những năm 1990
10% thuộc về thời kì 1970
Trong đó, 70% công nghệ chỉ đạt mức đồng bộ trung bình, 7% là chắp vá. Điều này dẫn đến mức độ làm chủ công nghệ trong hầu hết các doanh nghiệp ở mức rất thấp, hầu hết còn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu và thiết bị công nghệ nhập khẩu. Hầu hết các doanh nghiệp tiến hành đổi mới công nghệ mang tính thụ động do yêu cầu trong quá trình sản xuất mà chưa có kế hoach dài hạn. Thêm vào đó, phương thức tiến hành chủ yếu là bắt chước, thiết kế lại của nước ngoài (52%), nhập khẩu công nghệ (56%), còn mối quan hệ với các cơ quan nghiên cứu khoa học là rất yếu (31% do hợp tác với trong nước và 8% hợp tác với nước ngoài), và thuê tư vấn trong nước rất ít (5%).
Đầu tư từ ngân sách cho KHCN của VN nếu tính tương đối (khoảng 0,5% GDP) thì không thấp so với thế giới và phù hợp với một nước đang phát triển nhưng đầu tư KH-CN ở khu vực tư nhân quá thấp mới đạt khỏang 0,2% GDP. 10 ngành có giá trị xuất khẩu lớn của Việt Nam (nông nghiệp, thủy sản, dệt may, da giầy...) vẫn chủ yếu là bán sức lao động chứ chưa thể bán "chất xám" hàm chứa trong sản phẩm. Doanh nghiệp trong các ngành này tập trung đầu tư vào công đoạn chế biến sản phẩm với mong muốn hoàn vốn nhanh, còn làm thế nào để có được nguồn nguyên liệu tốt thì họ đùn cho nhà nước. Từ đó, ta thấy vốn đầu tư cho khoa học – công nghệ còn ít, lại dàn trải. Hiện mức đầu tư toàn xã hội cho KHCN còn khoảng 0,7% GDP (thấp nhất thế giới). Còn theo số đầu tư trên đầu người thì chỉ đạt đạt 5 USD/người. Với nguồn kinh phí ít ỏi như trên, cộng với đầu tư dàn trải ở nhiều nơi, nên chưa tập trung giải quyết những vấn đề công nghệ trọng điểm, có ý nghĩa quyết định tạo ra các sản phẩm chiến lược cũng như ngành nghề mới.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nâng cao năng lực cạnh tranh:
Vấn đề phát triển con người và phát triển nguồn nhân lực là một trong những vấn đề được quan tâm nhiều nhất ở nước ta hiện nay. Đất nước đang bước vào một giai đoạn phát triển mới với rất nhiều cơ hội và thách thức, nhưng với thực trạng nguồn nhân lực, nếu không được đầu tư một cách hiệu quả, rất có thể nền kinh tế của chúng ta sẽ trở nên lạc hậu so với thế giới.
Lao động là một trong 3 yếu tố đầu vào đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Việt Nam là một nước có dân số tương đối trẻ, nguồn lao động rất dồi dào với mức tăng 2%/ năm nhưng mức đóng góp của yếu tố lao động vào tốc độ tăng GDP không cao. Nguồn nhân lực không được đánh giá và sử dụng một cách hiệu quả.
*Một số vấn đề:
- Thiếu lao động trong khi tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao. Tính đến cuối năm 2006, Việt Nam có tổng cộng 45,3 triệu lao động, trong đó ba phần tư là lao động ở nông thôn, hiện mới chỉ có 32% số lao động là đã qua đào tạo và tỷ lệ lao động đã có chứng chỉ đào tạo ngắn hạn là 14,4%. Báo cáo về tình hình thị trường lao động Việt Nam do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội soạn thảo đã khẳng định: “Việt Nam thiếu trầm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành tài chính, ngân hàng, du lịch, bán hàng... nên nhiều nghề và công việc phải thuê lao động nước ngoài trong khi lao động xuất khẩu đa phần có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp hoặc mới chỉ qua giáo dục định hướng”. Trong khi đó, thất nghiệp đối với các lao động không được đào tạo lại trở thành vấn nạn của nền kinh tế.
- Kỹ năng làm việc của lao động Việt Nam, đặc biệt các lao động mới ra trường là nỗi lo thường trực của doanh nghiệp. Theo ý kiến của nhiều chủ doanh nghiệp, các cán bộ phụ trách nhận sự thì nguyên nhân chính của thực trạng này nảy sinh ngay từ trong giảng đường, sinh viên chỉ được học kiến thức mà chưa được rèn luyện kỹ năng. Nhiều doanh nghiệp đã phải đào tạo lại sinh viên khi ra trường và vừa đào tạo vừa phải lo lắng vì nhân viên luôn có ý định nhảy việc, tìm công việc mới để có thêm "kinh nghiệm".
Vấn đề làm trái ngành nghề: Thời báo kinh tế Việt Nam 14/09/2007: tổng liên đoàn Lao động Việt Nam vừa thực hiện điều tra, khảo sát thực trạng việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động trong các doanh nghiệp FDI tại một số địa phương thu hút nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo đó, khoảng 74% lao động có việc làm ổn định, 22% lao động không có việc làm ổn định, 4% thiếu việc làm. Chỉ có khoảng 50% lao động có đào tạo được làm đúng nghề.
Hiện tượng chảy máu chất xám, mất đi nguồn nhân lực trình độ cao đang làm đau đầu các nhà chức trách. Học bổng từ ngân sách nhà nước gửi sinh viên đi du học tại nước ngoài nhằm nâng cáo chất lượng nguồn nhân lực bị lãng phí do tâm lý e ngại, không muốn trở về sau khi tốt nghiệp của những sinh viên này.
Đầu tư gián tiếp giải quyết các vấn đề xã hội:
5.1 Xóa đói giảm nghèo:
Do những thành tựu trong tăng trưởng kinh tế đã góp phần giúp Việt Nam thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo tốt hơn. Thành quả xoá đói, giảm nghèo của Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao, báo cáo phát triển Việt Nam năm 2004 đã ghi nhận: “Những thành tựu giảm nghèo của Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất trong phát triển kinh tế” tạo được sự đồng thuận xã hội cao, góp phần ổn định chính trị, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tăng trưởng kinh tế của đất nước, thực hiện cam kết thiên niên kỷ, góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Tỷ lệ hộ nghèo ở Việt Nam giảm nhanh, từ 17,2% năm 2001 xuống còn 6,3% năm 2005 (theo chuẩn nghèo cũ), bình quân mỗi năm giảm được trên 30 vạn hộ, đạt được mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và IX đề ra.
+ Cơ sở hạ tầng thiết yếu của các xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn từng bước được xây dựng, năm 2000 có khoảng 4.000 công trình được đưa vào sử dụng, đến năm 2006 đã có trên 30.000 công trình được xây dựng và đưa vào sử dụng đã làm cho bộ mặt của xã nghèo, xã đặc biệt khó khăn được cải thiện đáng kể nhất là trường học, trạm y tế, thuỷ lợi nhỏ, đường giao thông, nước sạch và vệ sinh môi trường…
+ Chất lượng cuộc sống của người dân ở các xã nghèo đã được nâng lên một bước, thu nhập bình quân của 20% nhóm nghèo nhất năm 2001 đạt 107.000 đồng/người/tháng và tăng 1,45 lần vào năm 2005. Với phương châm huy động đa nguồn, qua các kênh, các hình thức huy động phong phú, từ năm 2001 đến 2005 tổng nguồn lực để thực hiện mục tiêu giảm nghèo đạt khoảng 41 nghìn tỷ đồng.
+ Chính phủ ban hành nhiều chính sách mới như: tín dụng đối với học sinh, sinh viên nghèo; cho vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn; tín dụng đối với hộ gia đình sản xuất - kinh doanh tại vùng khó khăn… Sau 2 năm thực hiện, đã có 2,866 triệu hộ nghèo được vay vốn tín dụng ưu đãi; 1,330 triệu lượt người nghèo được hướng dẫn cách làm ăn; 20 ngàn lao động nghèo được hỗ trợ dạy nghề miễn phí; 62 ngàn lượt cán bộ giảm nghèo các cấp được tập huấn nâng cao năng lực; 29 triệu lượt người nghèo được cấp thẻ BHYT; 2,4 triệu học sinh nghèo được miễn giảm học phí; 230 ngàn hộ nghèo được hỗ trợ về nhà ở; nhiều mô hình giảm nghèo ở các vùng đặc thù, mô hình giảm nghèo gắn với an sinh- quốc phòng và mô hình liên kết với các doanh nghiệp được xây dựng có hiệu quả và nhân rộng.
Tỷ lệ hộ nghèo phân theo thành thị, nông thôn & phân theo vùng
Đơn vị: %
Năm
2004
2006
2007
Cả nước
18,1
15,5
14,8
Phân theo thành
thị - nông thôn
Thành thị
8,6
7,7
7,4
Nông thôn
21,2
18
17,7
Phân theo vùng
lãnh thổ
Đồng bằng sông Hồng
12,9
10,1
9,6
Đông Bắc
23,2
22,2
21,4
Tây Bắc
46,1
39,4
38,1
Duyên hải Nam Trung Bộ
21,3
17,2
16,3
Tây Nguyên
29,2
24,0
23,0
Đông Nam Bộ
6,1
4,6
4,1
Đồng bằng sông Cửu Long
15,3
13
12,4
Nguồn: Niên giám thống kê 2007
5.2. Đầu tư góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp:
Giai đoạn 2001-2009 là giai đoạn kinh tế Việt Nam phát triển và hội nhập sâu rộng cùng kinh tế thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao trong khu vực và thế giới. Cùng với đó, hàng loạt các doanh nghiệp được thành lập đã góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp đáng kể tại Việt Nam. Tính riêng giai đoạn 2001-2007, giai đoạn tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng mạnh với sự ra đời của hàng loạt các khu công nghiệp, các nhà hàng, khách sạn, khu vui chơi giải trí... tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam đã giảm từ 6,42% xuống chỉ còn 4,64%.
Có thể dễ dàng nhận thấy điều này qua bảng số liệu dưới đây:
Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2009
Năm
Vốn đầu tư (nghìn tỷ)
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
2001
170,5
6,28
2002
200,1
6,01
2003
239,2
5,78
2004
290,9
5,60
2005
343,1
5,31
2006
404,7
4,82
2007
521,7
4,64
2008
580
4.7
2009
704.2
4.65
Năm 2008 là năm xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng do nền kinh tế Việt Nam hội nhập chưa sâu nên mức độ ảnh hưởng đến nền kinh tế ít hơn so với các nước khác ( Mỹ, Trung Quốc...), tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam trong năm này có tăng mức nhẹ 4,7%( thêm 0,06% so với năm 2007). Năm 2009, nền kinh tế có sự phục hồi lại đà tăng trưởng, tổng mức vốn đầu tư là 704,2 nghìn tỉ đồng cùng sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp mới đã giúp cho tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta giảm xuống 4,65%.
Tuy tỷ lệ thất nghiệp giai đoạn 2001-2009 giảm xuống rõ rệt (2001-2006) và ít biến động (2007-2009) nhưng vẫn còn ở mức cao. Hiện nay, Việt Nam được xếp vào hàng các quốc gia có dân số trẻ nên lực lượng lao động được bổ sung mỗi năm với số lượng lớn khoảng 2% / năm dẫn đến tình trạng thị trường lao động quá tải. Cơ cấu lao động chưa tương xứng với tăng trưởng, chưa có sự chuyển dịch rõ rệt theo hướng tiến bộ.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG TÁC ĐỘNG CỦA
ĐẦU TƯ TỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I/ MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI VIỆT NAM GIAI ĐỌAN 2011 – 2015:
Theo chỉ thị về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015, mục tiêu tổng quát là phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng nhanh, bền vững, tăng cường tiềm lực phát triển của đất nước.
Định hướng phát triển, đồng thời nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch là phấn đấu GDP bình quân 5 năm 2011-2015 tăng 7-8% mỗi năm. Đồng thời, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn mới bình quân giảm 2-3% mỗi năm. Trong các định hướng phát triển và nhiệm vụ chủ yếu thì các định hướng và nhiệm vụ sau đây được nêu ở hàng đầu: hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, tạo môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn định... tháo gỡ các khó khăn thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh phát triển.
Đồng thời, đầu tư phải kết hợp với tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững. Và như vậy thì cần tăng khả năng tích luỹ của nền kinh tế đồng thời tranh thủ thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài để tạo thêm nguồn lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, mặt khác vẫn phải đảm bảo mục tiêu cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái. Thực hiện đầu tư hiệu quả, xây dựng cơ cấu đầu tư hợp lý đầu tư có trọng điểm, tránh lãng phí, dàn trải nhất là nguồn vốn ngân sách nhà nước
II/ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ NHẰM THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và bố trí kế hoạch đầu tư
Cần ban hành và thực thi Luật Kế hoạch hoá phát triển kinh tế - xã hội. Công tác quy hoạch cần được đổi mới và nâng cao chất lượng, trong xây dựng quy hoạch phải chú ý tới các tác động xã hội và môi trường. Để được như vậy cần đổi mới nội dung, phương pháp xây dựng, quy trình xây dựng, triển khai thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay; phát huy tối đa mọi lợi thế so sánh và nguồn lực của quốc gia, của vùng và địa phương; gắn kết giữa chiến lược, quy hoạch với kế hoạch. Quy hoạch, kế hoạch phải khoa học, công khai, minh bạch, thực sự là công cụ điều hành có hiệu quả của Nhà nước. Quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội là quy hoạch có tính bắt buộc, phải đi trước một bước và phải gắn với quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội nói chung, quy hoạch vùng, ngành hàng năm và 5 năm. Tăng cường công tác quy hoạch đất đai, quy hoạch xây dựng, quy hoạch đô thị nhằm khắc phục tình trạng chồng chéo và mâu thuẫn giữa quy hoạch ngành và quy hoạch lãnh thổ. Công tác quy hoạch phải được triển khai đồng bộ từ quy hoạch tổng thể đến quy hoạch cụ thể, có thể tham khảo kinh nghiệm của những chuyên gia giỏi, kể cả chuyên gia nước ngoài trong việc xây dựng, thẩm định quy hoạch. Tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát, tổ chức thực hiện kế hoạch. Công tác thống kê phải được thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng, các số liệu thống kê phải kịp thời đáp ứng tốt hơn cho việc xây dựng chính sách, điều hành nền kinh tế.
2. Phân bổ và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả
2.1. Nguồn vốn trong nước
2.1.1. Vốn ngân sách nhà nước
Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách cần tiếp tục tăng cường tính công khai minh bạch, chống khép kín trong đầu tư. Không triển khai tổ chức thực hiện những chương trình, dự án thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn hoặc tính khả thi và hiệu quả thấp. Loại bỏ những dự án, chương trình không thể đáp ứng các yêu cầu và điều kiện cần thiết về tài chính, mặt bằng, thị trường…Tất cả hoạt động đầu tư có liên quan đến sử dụng vốn ngân sách nhà nước cần phải được kiểm tra, giám sát.
Đối với đầu tư tại doanh nghiệp, cần tiếp tục đa dạng hoá các nguồn vốn. Giảm bao cấp dưới nhiều hình thức cho đầu tư như trợ cấp giá, lãi suất thấp, khoanh nợ, xoá nợ dẫn đến sự ỷ lại của các doanh nghiệp. Tiếp tục đẩy mạnh chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
Về phân bổ nguồn vốn ngân sách nhà nước, cần xây dựng chiến lược đầu tư hợp lý trên cơ sở xác định các lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư trong thời gian tới. Trong khu vực công nghiệp xây dựng dịch vụ thì đầu tư cho các dự án xây dựng có tác động tầm quốc gia như công trình truyền tải điện về nông thôn, hệ thống giao thông quốc gia và liên tỉnh, liên huyện, công trình thông tin liên lạc phục vụ các vùng nông thôn...Đối với khu vực nông lâm ngư nghiệp thì đầu tư vào hệ thống đê điều quan trọng, hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiêp và chăn nuôi thuỷ sản như hồ chứa nước, kênh dẫn thoát nước hệ trạm bơm, tưới tiêu
* Hướng đầu tư vốn ngân sách nhà nước:
- Trước mắt: Đồng thời ưu tiên đầu tư cho ngành giáo dục và y tế. Đối với các loại hình dịch vụ xã hội khác huy động các nguồn vốn khác ngoài ngân sách.
- Về lâu dài nhà nước nên tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục, y tế một cách toàn diện nhằm thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực phục vụ tăng trưởng kinh tế bền vững. Điều chỉnh tăng đầu tư cho thiết bị, máy móc một cách đồng bộ, chất lượng, hiện đại, thoả mãn các điều kiện về tiêu chuẩn chất lượng hiện hành. Đây là yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện hiện đại hoá, công nghiệp hoá.
Nhà nước nên có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nghiên cứu triển khai. Chuyển dịch mạnh cơ cấu đầu tư theo hướng khai thác mọi tiềm năng, đẩy nhanh tốc độ phát triển của khu vực công nghiệp và dịch vụ. Các ngành công nghệ cao cần được ưu tiên và quan tâm hàng đầu.
2.1.2. Nguồn vốn từ dân cư và tư nhân
Đây là một khoản vốn lớn có thể sử dụng vào đầu tư phát triển các ngành kinh tế, trong tổng vốn đầu tư công hiện nay thì có đến 50% là từ ngân sách Nhà nước, còn 50% là từ các nguồn vốn tín dụng, các doanh nghiệp Nhà nước. Cần có kế hoạch cụ thể về phân bổ sử dụng hợp lý nguồn vốn này tránh thất thoát, lãng phí; đầu tư phải có trọng điểm, đầu tư vào các ngành mũi nhọn phù hợp với lợi thế của từng vùng miền đồng thời cũng phải đầu tư đồng bộ, không để lãng phí nguồn lực. Cần có những phương án hiệu quả hơn, hoặc phải có cơ chế cụ thể trong phân cấp đầu tư và hình thành vốn cho từng vùng, tránh tình trạng đua tranh giữa các địa phương, dẫn đến giảm tính hiệu quả của đồng vốn. Cần có sự phối hợp giữa các địa phương với nhau, giám sát hiệu quả sau đầu tư, tránh để việc đánh giá kết thúc dự án chỉ là cho đủ giấy tờ để thanh toán thôi. Để sử dụng vốn hiệu quả cần khắc phục các vấn đề trong quản lý, như: nghiệp vụ, cơ chế, phối hợp, tổ chức quản lý, giải phóng mặt bằng… Áp dụng một cách trịêt để luật Ngân sách, Luật Phòng chống tham nhũng…Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài chuyển vốn và công nghệ về nước tham gia đầu tư.
2.2. Nguồn vốn từ nước ngoài (gồm ODA và FDI)
Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đất nước dài hạn tốt sẽ là một định hướng tốt cho công tác vận động vốn ODA và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI. Chiến lược thu hút và sử dụng ODA và FDI trong từng giai đoạn một cách đồng bộ, hợp lý, gắn chặt mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của thời kỳ đó. Chiến lược này có các hướng như sau:
- Vốn ODA và FDI nằm trong tổng thể nhu cầu vốn phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Xác lập được danh mục ưu tiên sử dụng vốn ODA và dự án kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài theo ngành và vùng kinh tế.
- Đề xuất được định hướng thu hút vốn từ các đối tác quốc tế, trong đó có xác định rõ đối tác chiến lược
- Đưa ra được các chính sách và giải pháp ưu tiên, khuyến khích thu hút và sử dụng vốn như miến giảm thuế, ưu đãi giá thuê đất…
- Nêu rõ các biện pháp về quản lý và thực hiện trả nợ nước ngoài.
Tiếp tục ưu tiên sử dụng ODA cho các lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, giáo dục, đào tạo, y tế. Tăng cường kiểm soát quá trình sử dụng vốn, tránh thất thoát và thường xuyên đánh giá tính hiệu quả xét cả về mặt kinh tế và xã hội của các dự án ODA đang được triển khai. Chỉ thực hiện dự án khi hiệu quả sử dụng vốn ODA cao hơn so với các nguồn tài trợ khác. Trong khâu đàm phán nên xác định rõ cơ quan chịu trách nhiệm quản lý vốn vay và nguồn trả nợ.
Cần đề ra chính sách ưu đãi cụ thể và thiết thực hơn nhằm khuyến khích các doanh nghiệp FDI thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu nhằm tạo cơ sở vững chắc cho công tác trả nợ. Cần có các biện pháp thiết thực kêu gọi vốn ODA song phương từ các nước có nhiều dự án FDI ở Việt Nam.
3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng suất lao động
Thời gian tới cần tiếp tục đầu tư cho giáo dục và đào tạo với tỷ trọng thoả đáng. Tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo ở các cấp. Đặc biệt là đầu tư phát triển nguồn nhân lực có trình độ khoa học công nghệ cao, xây dựng và tạo ra đội ngũ cán bộ quản lý giỏi ở các cấp, các ngành cùng với đội ngũ công nhân lành nghề. Bên cạnh đó, cũng cần phải chú trọng đến nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn. Tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực ở khu vực này sẽ góp phần trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng giảm dần tỷ trọng lao động tay chân, tăng tỷ trọng lao động có tay nghề, lao động được trang bị kiến thức, có chất xám để làm việc. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ về y tế, môi trường, phòng chống bệnh tât, bảo hiểm y tế để đảm bảo nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất xã hội. Đây là một trong những giải pháp cần thiết để trực tiếp nâng cao năng suất lao động và năng suất tổng hợp, từ đó góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng.
4. Đổi mới và hoàn thiện chính sách đầu tư vào công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh
Để tạo tiền đề cho nâng cao chất lượng tăng trưởng một cách bền vững cần phải có chiến lược đầu tư đúng đắn theo hướng tăng cường đầu tư theo chiều sâu để kịp thời áp dụng các thành tựu mới của khoa học công nghệ hiện đại, nhằm phát triển các ngành, các lĩnh vực và các sản phẩm có sức cạnh tranh và hiệu quả cao. Thực hiện tốt đổi mới công nghệ sẽ quyết định đến nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu và trong cạnh tranh quốc tế thì vần đề mở rộng và chiếm lĩnh thị phần sản phẩm, kể cả thị trường nội địa phải được quan tâm. Công tác xúc tiến thương mại cần được nâng lên một cấp độ mới và nó phải là một bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt chú trọng đến việc đầu tư và xây dựng thương hiệu. Đầu tư cho thương hiệu có ý nghĩa cực kỳ quan trọng để tăng sức cạnh tranh và gia tăng lợi nhuận của sản phẩm.
Cần tập trung hơn vào khai thác và sử dụng triệt để các nguồn lực của nhà nước trong các chương trình khoa học công nghệ, tránh dàn trải vốn cho những chương trình chưa gắn với đòi hỏi thiết thực của cuộc sống. Nhà nước cần có cơ chế đánh giá và khuyến khích đúng đắn, thoả đáng cho các kết quả nghiên cứu và đóng góp thiết thực của các cá nhân và tập thể; tăng cường công tác bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và trí tuệ.
Khi lựa chọn công nghệ cần chú trọng đến tính phổ biến của công nghệ nhằm nâng cao hiệu quả công nghệ được chuyển giao.
Cần quan tâm chỉ đạo công tác giám sát, đánh giá đầu tư, tiếp tục kiện toàn bộ máy, chỉ đạo các cơ quan đơn vị trực thuộc thực hiện các quy định về giám sát đầu tư.
Tăng cường kiểm tra giám sát tài chính đối với tất cả các khâu của quá trình đâu tư để giảm lãng phí, thất thoát và tham nhũng nhất là đối với các dự án được thực hiện bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước. Cần phải thay đổi cơ bản cách thưc thực hiện kiểm tra giám sát theo hướng tăng cường kiểm tra giám sát trước và từ xa đối với các khâu của quá trình đầu tư nhất là khâu chuẩn bị và ra quyết định về chủ trương đầu tư. Cần khuyến khích cơ chế tự giám sát, gắn trách nhiệm của chủ đầu tư và tư vấn giám sát với chất lượng của công trình.
Bên cạnh việc kiểm tra, giám sát cần phải xây dựng một số chế tài đủ mạnh đối với chủ đầu tư, cơ quan cấp trên của chủ đầu tư khi các đơn vị này thực hiện sai cơ chế phân bổ và sử dụng vốn đầu tư. Cần một số hình thức khen thưởng vật chất đối vối các đơn vị thực hiện tốt công tác triển khai thực hiện dự án đầu tư, quyết toán đối với các dự án hoàn thành, đảm bảo chất lượng, đúng thời gian quy định, phê bình các đơn vị không thực hiện nghiêm chỉnh quy chế quản lý, sử dụng vốn đầu tư, thực hiện quyết toán vốn đầu tư chậm.
Về công tác điều hành, cần có sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư như bộ kế hoạch & đầu tư, sở kế hoạch và đầu tư cùng các ban ngành có liên quan khác. Các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư cần rà soảt lại hệ thống văn bản từ khâu chuẩn bị thực hiện đầu tư đến khâu tạm ứng, thanh toán và quyết toán đầu tư nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra các bộ, ngành địa phương trong việc chấp hành các quy định về quản lý đầu tư, phân bổ vốn đầu tư.
Cần nghiên cứu và sớm ban hành mức chi phí cho công tác giám sát, đánh giá đầu tư để tạo điều kiện cho cán bộ và công ty tư vấn thực hiện tốt nhiệm vụ này, trực tiếp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư, góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Thực hiện nghiêm túc quy chế đấu thầu. Tăng cường sử dụng các tổ chức tư vấn, giám sát độc lập trong quá trình thực hiện dự án đặc biệt là các dự án lớn. Cần hoàn thiện chính sách thuế nhằm đảm bảo sự bình đẳng cả về quyền hạn và nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp, không phân biệt thành phần kinh tế để khuyến khích cạnh tranh lành mạnh. Phải có sự quản lý ở tầm vĩ mô trong việc sử dụng các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên. Cần có các quy định cụ thể về trách nhiệm của các bộ, ngành, các cá nhân trong việc tham gia ý kiến về dự án. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về đầu tư trong phạm vi cả nước. Bộ kế hoạch và đầu tư chịu trách nhiệm trước chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về hoạt động đầu tư. Các bộ và cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư đối với lĩnh vực được phân công. Uỷ ban nhân dân các cấp có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về đầu tư trên địa bàn theo phân cấp của Chính phủ.
KẾT LUẬN
Các lý thuyết kinh tế về đầu tư trên đây chủ yếu bàn về sự tác động của đầu tư đến sản lượng và sự tác động của việc gia tăng sản lượng đến đầu tư, vai trò của đầu tư với tăng trưởng phát triển, nguồn vốn đầu tư…
Đầu tư có vai trò quan trọng đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư tác động cả tổng cung và tổng cầu, do vậy việc điều hành chính sách cần linh hoạt trong việc sử dụng các biện pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng. Đầu tư tác động tới cả tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Các nhà quản lí cần nhận thức rõ vai trò của hệ số ICOR trong phân tích, dự báo tăng trưởng và đánh giá hiệu quả đầu tư. Đầu tư còn tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chỉ có trên cơ sở đầu tư đúng, trọng tâm, trọng điểm và đồng bộ, cơ cấu đầu tư hợp lý…mới làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH. Ngoài ra, đầu tư còn tác động tới sự phát triển của khoa học công nghệ. Không thể có công nghệ hiện đại, phù hợp nếu không đầu tư tương ứng và hiệu quả.
Việc đổi mới cơ cấu đầu tư của nhà nước trong thời gian qua, đặc biệt là đầu từ đầu những năm 2001 đến nay đã thu được những thành tựu quan trọng thể hiện rõ nhất trong việc phát triển tăng trưởng của nền kinh tế và cơ cấu đầu tư của ngân sách nhà nước đã tập trung vào cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội… cũng như đầu tư của khu vực tư nhân trong nước, nước ngoài. Cơ chế quản lí đầu tư cũng có những đổi mới và đem lại những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư vẫn còn nhiều hạn chế , tồn tại chưa khắc phục được làm cho vốn đầu tư bị phân tán, dàn trải, thất thoat, hiệu quả đầu tư chưa cao từ đó làm chậm tiến độ tăng trưởng và phát triển đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Đại học Kinh tế quốc dân 2007
Giáo trình kinh tế phát triển
Niên giám thống kê 2001 - 2009
Thời báo kinh tế Việt Nam
Báo đầu tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- k49a_n2_tac_dong_cua_dau_tu_5697.doc