Tài liệu Đề tài Du lịch Yên Tử và những giải pháp để phát triển: LỜI MỞ ĐẦU
Du lịch là một trong những ngành kinh tế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với các giá trị văn hoá, xã hội với môi trường tự nhiên. Ngày nay, nhu cầu đời sống con người ngày càng nâng cao, áp dụng những tiến bộ về khoa hoc kỹ thuật ngày càng tăng cùng với sự tăng trưởng kinh tế, xu thế hoà nhập nhu cầu đa dạng của con người muốn đươc giao lưu để hiểu biết chính mình, hiểu xã hội,thiên nhiên...đang trở thành hiện tượng phổ biến do đó đã dẫn đến sự bùng nổ trong hoạt động du lịch có tính phổ cập toàn cầu. Ngày nay, du lịch càng phát triển với nhiều loại hình như du lịch sinh thái,du lịch văn hoá, thăm quan nghỉ dưỡng... du lịch mang lại sự thoải mái cho du khách về nhu cầu giải trí,cân bằng trạng thái,tinh thần, thể lực sau ngày lao động mệt nhọc vất vả của nếp sống công nghiệp – tuy nhiên, trong một thời gian dài, việc phát triển du lịch mới chỉ quan tâm tới việc xây dựng các khách sạn, nhà hàng, các sản phẩm du lịch với mục đích thu nhập nhiều hơn lượng du khách. Việc làm này...
45 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1240 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Du lịch Yên Tử và những giải pháp để phát triển, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Du lịch là một trong những ngành kinh tế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với các giá trị văn hoá, xã hội với môi trường tự nhiên. Ngày nay, nhu cầu đời sống con người ngày càng nâng cao, áp dụng những tiến bộ về khoa hoc kỹ thuật ngày càng tăng cùng với sự tăng trưởng kinh tế, xu thế hoà nhập nhu cầu đa dạng của con người muốn đươc giao lưu để hiểu biết chính mình, hiểu xã hội,thiên nhiên...đang trở thành hiện tượng phổ biến do đó đã dẫn đến sự bùng nổ trong hoạt động du lịch có tính phổ cập toàn cầu. Ngày nay, du lịch càng phát triển với nhiều loại hình như du lịch sinh thái,du lịch văn hoá, thăm quan nghỉ dưỡng... du lịch mang lại sự thoải mái cho du khách về nhu cầu giải trí,cân bằng trạng thái,tinh thần, thể lực sau ngày lao động mệt nhọc vất vả của nếp sống công nghiệp – tuy nhiên, trong một thời gian dài, việc phát triển du lịch mới chỉ quan tâm tới việc xây dựng các khách sạn, nhà hàng, các sản phẩm du lịch với mục đích thu nhập nhiều hơn lượng du khách. Việc làm này đã mang lại một nguồn lợi đáng kể, song cũng tiềm ẩn những tác động tiêu cực hủy hoại các sinh thái và nguy cơ ô nhiễm môi trường, làm gia tăng các tệ nạn xã hội như mại dâm, ma tuý làm biến đổi các giá trị văn hoá truyền thống và huỷ hoại các khu di tích lịch sử.
Khu di tích lịch sử danh thắng Yên Tử là một khu du lịch thuộc thị xã Uông bí đang ngày càng phát triển và thu hút được sự chú ý của du khách và các nhà đầu tư.
Trong những năm gần đây, du lịch Yên Tử đã có những bước chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả đáng kể. Hạ tầng cơ sở du lịch được đầu tư và cải thiện, cơ sở du lịch và phương tiện, thiết bị phục vụ du lịch được tăng cường; hệ thống sổ theo dõi đươc thiết lập; đội ngũ cán bộ, nhân viên trong Ban đã có bước trưởng thành. số lượng khách về thăm quan lễ phật Yên Tử ngày càng tăng: năm 2001 là 22 vạn lượt khách,năm 2002: 33 vạn lượt khách, năm 2003: 35 vạn lượt và năm 2004: 48 vạn lượt khách.
Công tác quản lý, tổ chức hoạt động du lịch tại Yên Tử góp phần vào qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cải thiện đời sống cho người dân địa phương, tạo ra tiền đề quan trọng để đẩy nhanh tốc độ phát triển du lịch Yên Tử nói riêng và du lịch Quảng Ninh nói chung trong những năm tiếp theo.
Tuy nhiên trong thời gian qua, du lịch Yên Tử kết quả đạt được còn chưa tương xứng với tiềm năng vốn có của khu di tích. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch vừa đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao đồng thời bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc.Chính vì vậy mà tôi đã chọn vấn đề: “Du lịch Yên Tử và những giải pháp để phát triển’’ làm đầu đề cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
Nghiên cứu về sự phát triển du lịch Yên Tử để đưa ra những giải pháp góp phần thúc đẩy nhanh sự phát triển du lịch khu di tích danh thắng Yên Tử thực sự trở thành khu du lịch hấp dẫn đối với khách trong nước và khách quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả của ngành công nghiệp không khói, góp phần đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế – xã hội trên địa bàn thị xã Uông Bí.
Do hạn chế về thời gian cũng như trình độ mà khoá luận chỉ tập trung nghiên cứu một số địa điểm chính, mang tính đại diện và là nơi thu hút nhiều du khách đó là: Khu vực trung tâm khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử (Từ chùa giải oan lên đến chùa đồng) Từ chùa Hoa Yên đi Thác vàng.Từ HoaYên đi thác Bạc, am Hoa, am Dược /.
Trong quá trình làm khoá luận việc thu thập các tài liệu liên quan là rất quan trọng và cần thiết vì vậy chúng tôi đã thu thập những thông tin, tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, lịch sử, quy hoạch phát triển du lịch và một số nghiên cứu về hoạt động du lịch Yên Tử làm cơ sở cho những phân tích nghiên cứu đặt ra đối với khoá luận.
Khoá luận đã sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp và phân tích hệ thống. Do đó đã sử dụng đặc biệt có hiệu quả trong nghiên cứu tự nhiên và tổ chức khai thác lãnh thổ du lịch.
Phương pháp điều tra, phỏng vấn đã giúp chúng tôi thu nhập một cách nhanh chóng và khách quan cũng như có tính chính xác cao, chúng tôi tiến hành phỏng vấn các cá nhân và tổ chức có liên quan tới khu vực nghiên cứu, khi áp dụng phương pháp này việc sử dụng bảng hỏi kết hợp phỏng vấn chính thức được thực hiện. Đối tượng chủ yếu là khách thập phương, các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch và người địa phương.
Kết cấu của khoá luận tốt nghiệp gồm 3 chương.
Chương I: Tiềm năng du lịch.
Chương II: Hiện trạng phát triển du lịch.
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển du lịch Yên Tử bền vững.
CHƯƠNG I: TIỀM NĂNG DU LỊCH
I.1 ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ TÀI NGUYÊN DU LỊCH
I.1.1 Vị trí địa lý
Yên Tử thuộc xã Thượng Yên Công – Thị xã Uông Bí, có toạ độ địa lý:
+ Từ 210 05 đến 210 09 vĩ độ Bắc.
+ Từ 1000 43 đến 1000 45 độ Kinh đông.
Phía Bắc: Giáp tỉnh Bắc Giang, phía nam giáp đường 18 A.
Phía Tây: Giáp huyện Đông Triều, phía Đông giáp khu vực Than Thùng xã Thượng Yên Công, Uông bí. Tổng diện tích tự nhiên 2.686 ha thuộc 3 khoảng của tiểu khu 9, 9 khoảng thuộc tiểu khu 32 và 10 khoảng thuộc tiểu khu 36.
I.1.2 Địa hình, địa thế
Yên tử được giới hạn bởi dãy đông chính Yên Tử với đỉnh cao nhất là 1068 m hai vai là các đỉnh 600 m và 908 m, có 2 dãy dòng phụ chạy theo hướng Bắc Nam.
Phía Bắc là dãy đông chính của Yên Tử; phía Đông từ đỉnh 908 m về suối Bãi Dâu; phía Tây từ đỉnh 600 m đổ xuống ngọn suối chính, suối Vàng Tân, phía Nam giáp đường 18 A từ suối Vàng Tân đến suối Bãi Dâu.
Địa hình ở đây bị chia cắt mạnh, độ dốc bình quâ từ 200- 250 có một số nơi độ dốc có thể đạt tới trên 350, núi đất xen lẫn núi đá và có đỉnh cao nhất của dãy Yên Tử. Hệ thống dòng chính và dòng phụ của khu vực dự án đã ôm trọn hệ thuỷ suối Giải Oan và một mái thu nước của hệ thuỷ suốt Vàng Tân.
I.1.3 Địa chất thổ nhưỡng
Đá mẹ: nền địa chất của Yên Tử nằm trong hệ địa chất của Vòng cung Đông Triều được hình thành từ kỳ đệ tứ qua các cuộc vận động tạo sơn với các loại đá mẹ chính như sau: sa thạch, cuội kết, sỏi sạn kết và phù sa cổ.
Các loại đất chính: Đất Feralit màu vàng, vàng sáng vùng núi phát triển trên đá mẹ sa thạch. Đất Feralít màu vàng, vàng nhạt phát triển trên đá mẹ sa thạch sỏi sạn kết, Đất Feralít màu vàng đỏ, đỏ vàng trên phù sa cổ, nhóm đất ruộng do bồi tụ, dốc tụ thuộc khu vực Năm Mẫu.
Tóm lại: Đất đai, thổ nhưỡng của khu vực Yên Tử có những đặc tính sau: Thành phần cơ giới trung bình: Tầng đất dày trung bình từ 20 – 80 cm; đất tơi xốp, dễ thoát nước, khả năng kết dính kém nên dễ bị xói mòn và rửa trôi.
I.1.4 Khí hậu, thuỷ văn
Khí hậu: Do vị trí địa lý địa hình Yên Tử nằm trên cánh cung Đông Triều do đó có đặc trưng sau:
Mỗi năm có 2 mùa rõ rệt: Mùa Đông lạnh và khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, Mùa hè nóng ẩm mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10, mưa tập trung nhất là tháng 7,8. Tuy nhiên do đặc điểm riêng của vùng tiểu khí hậu mà trong mùa đông lạnh, tại Yên Tử vẫn có mưa xuân tập trung hơn so với các vùng xung quanh.
Chế độ nhiệt: Nhiệt độ bình quân năm: 23,40 C, tháng cao nhất 33,40C. Tháng thấp nhất là 140C. Biên độ nhiệt thay đổi giữa ngày và đêm là 5 – 100 C. Tổng tích ôn từ 70000C – 80000 C/ năm. Thỉnh thoảng có những năm nhiệt độ thấp tới 4 – 50 C nhất là thung lũng Yên Tử với tần xuất xuất hiện không nhiều và không thành chu kỳ.
Lượng mưa: Bình quân năm là 1.785 ly: Năm cao nhất là 2700 ly, Năm thấp nhất là 1423 ly. Lượng mưa tập trung vào tháng 6- 7- 8 chiếm từ 80 – 90% tổng lượng mưa hàng năm. Trong mùa khô lượng mưa nhỏ, tháng khô hanh nhất là tháng 11-12. Độ ẩm không khí xuống thấp nhất là các khu vực gần các cửa lò, làm cho cây trồng cũng như trảng cỏ cây bụi khô héo, rất dễ xảy ra nguy cơ cháy rừng. Độ ẩm không khí là 81%: Năm cao nhất là 86%; năm thấp nhất là 62%, lượng bốc hơi bình quân năm là 1.289 ly, năm cao nhất là 1360 ly, năm thấp nhất là 1120 ly.
Chế độ gió: Thịnh hành nhất là gió Đông Bắc và Đông nam. Gió mùa Đông Bắc thịnh hành từ tháng 11-> Tháng 4 năm sau mang theo hơi lạnh và khô.
Thuỷ văn: Trong khu vực Yên Tử có 2 hệ thống suối chính. Suối Giải Oan: Nằm trọn trong lòng 2 tiểu khu 32 và 36 đó là nguồn nước chính để phục vụ cho sản xuất Nông – Lâm nghiệp và sinh hoạt của nhân dân sinh sống trong khu vực. Những năm gần đây do rừng đã được bảo vệ và việc khai thác than lộ thiên trong khu vực này đã được giải toả thì lượng nước của Suối Giải Oan đã được điều hoà hơn.
Suối Vàng Tân: Là danh giới giữa Đông Triều và Uông bí, một phần lưu vực Suối Vàng Tân là nằm ở 3 khoảnh của tiểu khu 9, trước đây chưa đưa vào dự án 327 của rừng đặc dụng Yên Tử. Hiện nay trong khu vực này vẫn có các mỏ hoạt động; rừng bị khai thác quá mức và không được bảo vệ nghiêm ngặt do vậy nước suối quanh năm bị đục ngầu và lòng suối có quá nhiều đất đá vùi lấp do rửa trôi từ trên xuống. khi có mưa to tập trung thì bị lũ rất nhanh gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất trong khu vực.
I.1.5 Động, thực vật rừng
Hệ thực vật gồm 4 ngành chủ yếu: Thông đất, dương xỉ, hạt trần và hạt kín thuộc 121 dòng họ và 428 loài đặc trưng cho luồng thực vật miền Bắc.
Việt Nam. Có 8 loài gỗ quý hiếm như lát hoa, hoàng đàn giả, thông la hán, sến mật, táu mật, kim xanh, ba gạc, sa nhân... Cần phải được bảo vệ nghiêm ngặt.
Hệ động vật ở Yên Tử rất phong phú: Tổng số loài động vật ở cạn có xương sống lên tới 206 loài, trong đó động vật có vú 40 loài, chim 120 loài, bò sát 25 loài, lương thê 21 loài. Như vậy động vật ở rừng Yên Tử rất phong phú và đa dạng. Có 20 loài thú quý hiếm cần được bảo vệ trong đó:
Thú có 9 loài: Báo gấm, gấu ngựa, cầy gấm, sơn dương, tê tê, cu ly lớn, khỉ mặt đỏ, voọc bạc má, sóc bay lớn.
Chim có 4 loài: Gà lôi trắng, gà tiềm, phượng hoàng đất, cao cát.
Bò sát có 7 loài: Rồng đất, kỳ đà nước, trăn gấm, rắn hổ mang, rắn cạp nong, rắn ráo, tắc kè.
Ngoài ra sự chia cắt của địa hình đã tạo nên cho Yên Tử những cảnh đẹp hùng vĩ, những dòng thác trắng xoá đổ từ trên núi xuống như Thác Vàng, Thác Bạc... đặc biệt nơi đây có những cây xích tùng, cây đại 700 năm tuổi và những rừng trúc xanh rì, có những vạt cây sú vẹt đã hàng trăm năm tuổi ở kkhu vực gần chùa Đồng...
Với sự hấp dẫn về cảnh quan thiên nhiên, tính đa dạng của hệ động, thực vật kết hợp với những hấp dẫn về văn hóa ( bao gồm các di tích lịch sử, kiến trúc, văn hoá bản địa và tôn giáo) Yên Tử đã thu hút không những các nhà khoa học và còn thu hút hàng vạn khách du lịch trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và hành hương lễ hội.
I.2 Điều kiện kinh tế.
Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử nằm gọn trong 2 xã Phương Đông và Thượng Yên Công thuộc Thị xã Uông bí. Là 2 xã miền núi có nhiều dân tộc thiểu số cư trú: Tày, Nùng, Dao, Sán chỉ, Hoa... cùng sinh sống, do đó nền kinh tế phát triển thấp với cơ cấu khá đơn giản chủ yếu dựa vào nông nghiệp, lâm nghiệp và một số hoạt động khác. Đất canh tác chiếm khoảng 4% tổng diện tích đất đai trong hai xã, trong đó khoảng 39% diện tích là trồng lúa nước, 45% là trồng cây hoa màu. Do đó lương thực bình quân chỉ cung cấp đủ trong khoảng 7-8 tháng trong năm. Những tháng còn lại họ phải sống phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động hái lượm và bán các lâm đặc sản như: Gỗ, nấm, măng, cây thuốc, săn bắt động vật hoang dã... hoặc đãi than trôi dưới lòng suối... Những hoạt động này rất phổ biến, công khai đã làm suy thoái tài nguyên rừng Yên tử.
Hiện nay do chính sách đóng cửa rừng của Nhà nước cùng với sự quy hoạch và bảo vệ chặt chẽ của Ban quản lý Yên Tử. Đời sống của người nông dân ở đây gặp rất nhiều khó khăn. Nhà nước và chính quyền địa phương cũng như Ban quản lý Yên Tử đã cố gắng tìm nhiều biện pháp giúp dân xoá đói giảm nghèo, ổn định đời sống, nâng cao thu nhập thông qua các dự án đầu tư của chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình trùng tu và bảo tồn khu di tích Yên Tử, chương trình trồng và bảo vệ rừng... đã và đang thực hiện ở hai xã.
Bên cạnh việc gieo trồng một số loại cây lương thực như ngô, lúa, khoai lang, sắn và rau các loại như cà chua, xu hào, bắp cải.. thì người dân còn trồng nhiều loại cây ăn quả như: mận, đào, vải, nhãn để cung cấp cho khu du lịch Yên Tử... Việc chăn thả trâu, bò, trồng cây hương bài dứơi tán rừng mặc dù có ảnh hưởng tới hệ sinh thái của rừng như làm mất dần đi lớp phủ thực vật tầng thấp, nhưng đây là nguồn thu nhập hết sức quan trọng của nhiều hộ gia đình. Tuy nhiên theo thống kê của chính quyền thì xã Thượng Yên Công vẫn có tỷ lệ đói nghèo nhiều: Bởi vậy việc tạo điều kiện cho người dân trong khu vức tăng thêm nguồn thu nhập mới là vô cùng quan trọng và bức xúc. Điều đó không những góp phần xoá đói, giảm nghèo mà còn giảm áp lực lên tài nguyên thiên nhiên của khu du lịch Yên tử. Trong bối cảnh đó việc phát triển du lịch ở Yên Tử trong những năm gần đây có tầm quan trọng đặc biệt. Tuy nhiên vẫn còn một số hoạt động như khai thác đá phục vụ xây dựng lâm trường, xây kè, săn bắt động vật rừng làm các món ăn đặc sản đã gây ảnh hưởng tới cảnh quan của vùng.
I.3 Điều kiện văn hóa – xã hội
I.3.1 Văn hoá:
Hiện nay tất cả các dân tộc thường sống hoà đồng với nhau trong cùng một địa bàn nên họ có rất nhiều đặc điểm hoà đồng với nhau và còn giữ lại rất ít những nét riêng của mình. Mỗi dân tộc đều có một ngôn ngữ riêng của mình song trong giao tiếp hàng ngày họ thường dùng tiếng việt, còn tiếng mẹ đẻ thường chỉ sử dụng trong gia đình.
Hiện nay ở khu vực Khe Sú – xã Thượng Yên Công còn rất nhiều ngôi nhà xây dựng cách đây hàng trăm năm, cùng với những phong tục tập quán của người dân nơi đây như: Tết rằm tháng 7 của người Dao ( họ coi trọng hơn cả tết Nguyên Đán ) từ ngày 10 đến 15 tháng 7 ( âm lịch); trong đám cưới của người Dao chú rể phải tổ chức cướp cô dâu và đeo mỏ...Ngoài ra trang phục của người dân tộc cũng rất riêng, đặc trưng cho những nét văn hoá truyền thống của các dân tộc khác nhau. Đặc điểm dễ nhận thấy trên trang phục của họ là tính cầu kỳ của hoa văn được thêu trên quần áo. Hiện nay những dân tộc chỉ mặc trang phục truyền thống vào các ngày lễ trọng đại như: Tết, cưới xin, đình đám... còn ngày thường họ mặc như người kinh.
I.3.2 Xã hội:
Yên Tử nằm gọn trong hai xã: Thượng Yên Công và xã Phương Đông. Tổng số dân của xã Thượng Yên Công là 4.382 người, trong đó có 6 dân tộc sinh sống trên địa bàn: Dân tộc kinh có 1.910 người (43,59%), dân tộc Dao 2.283 người (52,10%), dân tộc Tày: 137 người (3,13%), dân tộc Hoa 37 người (0,84%), dân tộc Nùng: 12 người (0,27%), dân tộc sán chỉ 3 người (0,07%), xã Thượng Yên Công có 966 hộ, trong đó có 502 hộ dân tộc ít người chiếm 52%. Tỷ lệ người biết đọc biết viết khoảng 70%.
Tổng số dân của xã Phương Đông là 11.624 người, trong đó có 4 dân tộc cùng sinh sống trên địa bàn xã: Dân tộc kinh 10.093 (95%), dân tộc Dao 319 người (3%), dân tộc Hoa 106 người ( 1%), dân tộc Tày 106 người (1%), tỷ lệ biết đọc biết viết khoảng 89%.
I.4 Tài nguyên du lịch.
I.4.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên
Cũng như đối với nhiều khu du lịch khác, các thắng cảnh là ưu thế nổi trội để phát triển du lịch, các thắng cảnh ở Yên Tử đã và đang được khai thác để phục vụ phát triển du lịch rất phong phú và đa dạng. Từ xa xưa, Yên Tử đã là một danh thắng nổi tiếng của đất Việt và được Nguyễn Trãi khắc hoạ thành thơ:
Trên non Yên Tử chòm cao nhất
Trời mới sang canh đã sáng tinh
Vũ trụ mắt đưa ngoài biển cả
Nói cười người ở giữa mây xanh
Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa
Bao dải tua châu đá rủ mành
Di tích Nhân Tông còn lưu đấy
Trùng đồng thấy giữa ánh quang vinh
Yên Tử là một di sản thiên nhiên, có giá trị lớn về nhiều mặt trong đó có gía trị đa dạng sinh học, có gía trị bảo tồn lớn, có giá trị quốc gia đặc biệt về phương tiện chiến lược quân sự, khoa học và bảo tồn vẻ đẹp thiên nhiên. Những giá trị đó đã được Bộ văn hóa thông tin cấp bằng công nhận Yên Tử là khu di tích lịch sử – văn hóa – thắng cảnh đặc biệt quan trọng của quốc gia từ ngày 13/3/1974.
Khách thập phương đến du lịch hành hương về cội nguồn bước đi dưới tán lá xanh của những cây Xích Tùng đại thụ và tiếng vang của núi rừng, tiếng róc rách của nước suối chảy, tiếng rào rào của thác nước đổ. Lên đến tận cùng của ngọn núi Yên Tử để ngắm tượng đá thiên tạo An Kỳ Sinh, bia Phật và thưởng thức cảnh đẹp của mây trời, gió núi, biển trời man mác. Tất cả tạo nên cảnh đẹp “ Sơn thuỷ hữu tình ”, “ Trời mây non nước hoà quyện”; là nơi để du khách ngắm cảnh, nghỉ ngơi và tận hưởng môi trường sinh thái trong lành.
Ngoài ra Yên Tử còn có rừng nguyên sinh với nhiều giống loài động, thực vật quý hiếm, có những cây đại, cây xích tùng hơn 100 tuổi, có rừng trúc xanh rì, bãi sú vẹt cổ thụ ở độ cao 1.000 m. Ban quản lý Yên Tử và Ban quản lý rừng đặc dụng Yên Tử rất có ý nghĩa trong việc bảo tồn hệ sinh thái đặc biệt này.
I.4.2 Tài nguyên du lịch nhân văn
Trong quá trình con người bắt đầu đến định cư, sinh sống trên mỗi vùng tự nhiên ở Yên Tử với những đặc thù về xã hội và nhân văn, mỗi cộng đồng đã có nhiều hoạt động kinh tế, sinh hoạt, khai thác tài nguyên thiên nhiên và đấu tranh sinh tồn để hình thành nơi ở và nguồn sống lâu dài cho mình. Các hoạt động ấy mang giá trị nhân văn và giá trị ấy dần dần cũng lớn dần lên với thời gian và hình thành nên bản sắc văn hoá cộng đồng - đó chính là tài nguyên du lịch nhân văn của Yên Tử.
Qua sử sách, khảo sát, khai quật và bằng các hiện vật thu được các nhà sử học và các chuyên gia khảo cổ khẳng định Yên Tử là nơi phát tích của thiền phái Trúc Lâm - Đạo Phật của Việt Nam
Vị thế địa lý đã mang lại cho Yên Tử là nơi chiến lược quân sự trọng yếu và là cửa ngõ khiến cho những kẻ xâm lăng thường lợi dụng vào đất Việt. Lịch sử Việt Nam bao giờ cũng đuổi quân xâm lăng. Đại diện cho những anh hùng hào kiệt trên mảnh đất địa linh còn lưu danh trong tiến trình lịch sử này là Bà Vĩnh Huy giả trai, tập hợp binh mã đem quân về tham gia kháng chiến theo lời kêu gọi của hai Bà Trưng, chiến đấu anh dũng. Nay còn đền thờ Bà ở thôn Cổ Khân, xã Vân Hà - Đông Anh – Hà Nội. Hay hai chị em Nguyệt Thai, Nguyệt Độ đã chiến đấu và anh dũng hy sinh ởi vùng địa linh Yên Tử này.
Không gian tâm linh với an dân trị quốc: Trên cửa ngõ mà giặc ngoại bang thường mượn đường xâm lược, các Vua Trần đã nhận ra rằng: Để “ Trị quốc” trước hết phải “an dân” mà an dân phải lấy dân làm gốc: “ Dụng tâm truyền tâm tạo lên sự đoàn kết”, “ lấy tâm để răn dạy hàng quan chức, cận thần”; “không tham quyền – cố vị, làm tâm sạch ” để an dân và bằng “ quang minh”, “chính đại”... lấy tâm của Đạo gắn với phúc của dân tộc và thọ của đời...và tạo lập thành “ Thiền phái Trúc Lâm” của họ Trần trên địa cảnh Yên Tử là sự kiện lịch sử rất nhân văn gắn với nhiều vùng địa linh nhân kiệt của Tỉnh Quảng Ninh.
Cần khai thác được những tiềm năng sâu kín ẩn chìm trong mảnh đất, con suốt của Yên Tử, từ địa cảnh đến nhân văn để làm thức dậy trong du khách vừa là trực quan nghe, nhìn, thấy được, vừa là cảm xúc của một tâm hồn rung cảm với đất – nước – con người Yên Tử.
Yên tử còn là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: Trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, rừng núi Yên Tử đã từng là căn cứ du kích Hưng – Uông ( Hưng Yên – Uông bí ). Những năm chống Mỹ cứu nước, vùng Yên Tử là nơi huấn luyện bộ đội chi viện cho chiến trường góp phần xứng đáng vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta.
Mỗi đoạn đường, mỗi vùng đất, mỗi con suối Yên Tử hôm nay đều mang một giá trị tự nhiên và nhân văn ở mỗi bước đi trong tiến trình lịch sử của Thiền Phái Trúc Lâm cũng như dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Yên Tử nơi lưu giữ được hệ thống chùa, tháp, am dược Thiền phái Trúc Lâm xây dựng hầu hết tập trung trên sườn núi nhìn xuống thôn Nam Mẫu xã Thượng Yên Công sang phía Tây và phía Đông. Mỗi chùa, mỗi am có quy mô, kiểu dáng kiến trúc khác nhau, đặt ở vị trí vừa thâm u vừa ngoạn mục, mang đậm nét dấu vết văn hóa kỷ nguyên Đại Việt. Khách du lịch về Yên Tử qua hệ thống chùa, am, tháp, bước đi dưới tán lá xanh của những cây đại thụ, qua vườn tháp Huệ Quang, nhìn 97 tháp, am vây quanh Tháp Tổ để chiêm ngưỡng tượng Trần nhân Tông, một tác phẩm điêu khắc bằng đá độc đáo, kỳ diệu. Lên tới đỉnh núi Yên Tử ta chiêm ngưỡng chùa Đồng, một thành tựu của nghề đúc đồng những thế kỷ trước. Núi Yên Tử cảnh đẹp hiếm có, lưu giữ những di tích của dòng Phật giáo Trúc Lâm Việt Nam, với những công trình kiến trúc cổ độc đáo, hoà trong cảnh sắc của thiên nhiên, tạo nên vẻ đẹp kỳ thú và sự huyền bí lạ thường.
I.4.2.1 Chùa Bí Thượng
ở phía nam đường 18A, đối diện lối vào Yên Tử, có chùa Bí Thượng, là một ngôi chùa cổ. Du khách về chốn non thiêng Yên Tử sẽ thấy chùa Bí Thượng là chùa đầu tiên trong hệ thống chùa Yên Tử, nên chùa Bí Thượng trở thành chùa Trình....
Đi trình về tạ, Phật linh độ trì...
I.4.2.2 Chùa Suối Tắm
Qua dốc Cửa Ngăn, ta thấy văng vẳng bên tai tiếng suối reo, trông xuống bên trái có con suối nhỏ, và thoang thoảng hương tràm, trông vào trong vòm cây, thấy ngôi chùa nhỏ, đó là chùa Suối Tắm. Xưa nơi đây chỉ có ngôi miếu do nhà sư Chùa Linh Nham ( nay là chùa cầmThực) dựng lên thờ Nguyệt Nga công chúa. Dựa theo truyền thuyết khi Trần Nhân Tông qua đây đã tắm, với ý định rũ sạch bụi trần, trước khi vào Yên Tử tu hành.. Nên ngày nay, ta gọi Chùa Suối Tắm. Sau khi lễ Phật du khách thường xuống suối, và ngược lên hơn một trăm thước để đến Miếu Cô, Miếu Cậu.
I.4.2.3 Chùa Cầm Thực.
Chùa này mới trùng tu có nhiều nhà ( cấp bốn ) để thờ Phật, thờ Mẫu và nhà du khách nghỉ. Xung quanh chùa có thông, trước chùa có nhiều cây cảnh khá đẹp. Di tích để lại có ngôi tháp xây cuối thời Nguyễn. Truyền thuyết kể lại: Vua Trần Nhân Tông uống nước, trừ cơm ( cầm thực) vẫn tồn tại trong dân gian, nên người ta gọi là Chùa Cầm Thực lâu dần thành quen.
I.4.2.4 Chùa Lân
Từ đây, in cảnh động đào
Hai hàng thông cổ, đường vào Chùa Lân.
Lên tới cổng chùa ta thấy đề chữ: Long động tự ( Chùa Long Động). Truyền thuyết là khi Vua Trần Nhân Tông đi qua, nước suối to, phải chăng dây, rồi lân đi, nên người đời gọi chùa Lân để ghi nhớ...
Ngày 19 – 1 –2002 đã làm lễ đặt móng, khởi công xây dựng Chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm – Yên Tử. Ngày 11-11-2002 xây xong và làm lễ khánh thành. Ngày nay Chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử rất khang trang, đẹp đẽ. Thu hút rất nhiều du khách đến tham quan và lễ Phật
I.4.2.5 Chùa Giải Oan
Tiếp tục đi qua bảy suối du khách vòng tay trái lên dốc Đầu Voi, đã trông thấy toàn cảnh Chùa Giải Oan ( nay các suối đều được xây đập tràn )
Chùa này được xây dựng sau khi Trần Nhân Tông lên đây tu hành để giải hết trần duyên với các cung tần, mỹ nữ.
Cuối năm 1997 ( Đinh Sửu ) Chùa Giải Oan đã hoàn thành việc trùng tu, tổng kinh phí 500.000.000 đ. Năm canh thìn (2000) toàn bộ đường từ Dốc Đỏ vào tới chùa Giải Oan được làm bằng bê tông, việc đi lại tham quan vãn cảnh rất thuận lợi.
I.4.2.6 Hòn Ngọc
Sau chùa Giải Oan du khách leo ba dốc liên tiếp ( Lò Rèn, Dây Diều và Voi Quỳ) đi khoảng 1h sẽ thấy Hòn Ngọc ở phía tay trái. Nơi đây có đường Tùng rất đẹp. Con đường này do Trần Nhân Tông mở lối. Người cho trồng giống Thuỷ Tùng và Xích Tùng ấn Độ đã để lại cho du khách nhiều cảm xúc...
Muôn cây xen lẫn, tùng với trúc.
Đẹp thay, cảnh Phật thật phi phàm...
Hòn Ngọc có cụm tháp gồm 8 ngọn, trong đó có ba ngọn tháp đá cao tầng, mang những nét điển hình của tháp đời Lê, ngọn cổ nhất có niên đại Cảnh Hưng năm thứ mười chín (1758). Đang lưng chừng núi có một non đẹp, nên gọi là Hòn Ngọc.
I.4.2.7 Chùa Hoa Yên
Chùa Hoa Yên ngoài chùa chính, đôi bên đều có nhà cho du khách nghỉ.
Chùa được xây dựng lại từ cuối thời Nguyễn ( sau khi bị hoả hoạn) còn trước kia được xây dựng từ thời Lý. Tên chùa cổ gọi là Vân Yên Tự ( Chùa mây khói ) vì nơi đây ở độ cao khoảng 600 thước thi thoảng có làn mây trắng mỏng bay qua. Khi Vua Lê Thánh Tông ( 1470-1479) vãn cảnh chùa, thấy cảnh sắc đẹp bởi hoa muôn sắc, nên đổi tên là Hoa Yên Tự. Ngày nay có người gọi chệch là Hoa Hiên, ngoài ra còn gọi là Chùa Cả.
Ngày Xưa, khu vực này rất nguy nga nhất là khi Trần Nhân Tông tu hành tại đây. Ngoài tiền đường, hậu điện, còn có nhà dưỡng tăng, nhà in kinh, giảng đào và nơi khách nghỉ. Đôi bên có lầu Trống, lầu Chuông.
Phía sau có chùa Phổ Đà Quan Âm Bồ Tát, nay đã đổ nát từ lâu, chỉ còn dấu vết của sáu ngọn tháp.
Năm 2002 Chùa Hoa Yên được trùng tu. Du khách đến lễ Phật, vãng cảnh sẽ được thưởng thức những cảnh đẹp từ độ cao nhìn xuống, không khí trong lành và yên tĩnh.
I.4.2.8 Chùa Bảo Sái
Qua một giờ đồng hồ quý khách sẽ đến Chùa Bảo Sái, ngôi chùa ba gian mới trùng tu:
Chùa cũ hỏng rồi, nay mới làm.
Đẹp nhất đằng sau, là vách đá
Thẳng đứng như thành, dưới đỉnh An..
Đầu thế kỷ 20, còn có tên là chùa Bảo Tháp, ngày nay gọi là Chùa Bảo Sái, là tên một nhà sư ( đứng thứ tư sau Tam Tổ với ý định nối nghiệp) trụ trì tại đây. Chùa rất đẹp và thoáng đãng.
I.4.2.9 Chùa Vân Tiêu
ở phía Nam Chùa Bảo Sái khoảng năm trăm thước là Chùa Vân Tiêu. Trước chùa ( nay chỉ còn nền) có vườn tháp sáu ngọn bằng đá và gạch xây, cái tên Vân Tiêu hấp dẫn dễ làm cho du khách thấy tâm hồn mình thanh thản.. lâng lâng...
Năm 2001 Chùa được làm mới khang trang, do trung tâm nghiên cứu và ứng dụng Phật học thuộc Hiệp hội CLB – UNESCO Việt Nam công đức.
I.4.2.10 Tượng An Kỳ Sinh
Sau chùaVân Tiêu, có lối lên đỉnh núi, đoạn đường này độ dốc cao, leo vừa khỏi dốc đã thấy một tượng đá to, đẹp, đó là tượng An Kỳ Sinh.. Ông là người Trung Quốc, ông học đạo và làm thuốc, ông đi tìm nơi lập nghiệp với điều kiện nơi đó phải là danh lam thắng cảnh, đồng thời có nhiều cây thuốc quý để làm thuốc và luyện đan...Khia ông đi đến vùng Đông Bắc nước ta, xa xa trông thấy đỉnh Bạch Vân Sơn, ông ưng ý lắm, liền dừng lại: Ông chữa bệnh cho dân nghèo với tâm niệm làm phúc... vì vậy dân bản xử quý mến ông, họ gọi ông là An Tử ( thầy An). Ông nhờ người làm một am nhỏ vừa là nơi thờ vừa để luyện đan ở trên núi. Một ngày khi ông lên núi có người đưa lương thực, các thứ cần thiết cho ông, còn ông chủ yếu sống bằng thuốc bổ... Từ đó, tự nhiên người ta gọi là An Tử Sơn ( núi thầy An) để tỏ lòng ngưỡng mộ ông. Ngày nay hơn hai ngàn năm du khách chúng ta tới đây sẽ chiêm ngưỡng tượng đá thiên tạo hình ông sư ( giống như An Kỳ Sinh). An Kỳ Sinh tu tiên đắc đạo, tạo hoá đã để lại cho đời pho tượng đá An Kỳ Sinh.
I.4.2.11 Chùa Đồng
Theo truyền thuyết, sau khi An Kỳ Sinh tu tiên đắc đạo tại đây, tới thời Đinh và nhất là thời Lý, đạo Phật ở nước ta đã hưng thịnh. Hệ thống chùa trên Yên Tử được xây dựng. Lúc đó trên đỉnh núi này có tên là Thiên Trúc Tự. Khi Vua Trần Nhân Tông tu tại đây đã đặt tên là Chùa Đồng.
Phải chăng, tên gọi Chùa Đồng.
Đức Vua xưa muốn: Dân cùng tâm linh...
Đồng tâm, đồng lực, đồng tình...
Non sông Đại Việt, quang vinh đời đời...
Tới thời hậu Lê, một bà vợ Chúa Trịnh đã cung tiến ngôi chùa lợp bằng ngói đồng, và đúc ba pho tượng Trúc Lâm Tam Tổ cũng bằng đồng.
Năm 1740, thời Lê Cảnh Hưng kẻ trộm lấy mất ngói. Đầu thế kỷ 20, một nhà sư hảo tâm đã công đức làm lại bằng kim loại như hiện nay ( đã hỏng nhiều).
Xuân 1994, một phật tử Việt Kiều đã cung tiến ngôi Chùa Đồng mới, dựng bên trái Chùa Đồng cũ.
Khi du khách tới đây, trên đỉnh Yên Sơn, nơi tối thượng non thiêng này sẽ cảm thụ nhiều cảm xúc kỳ thú, quan sát được phong cảnh tận non xa, ở trên độ cao này du khách sẽ cảm nhận được vẻ yên tĩnh, không khí trong lành và sẽ gắng tích thiện để phùng thiện.
Đó là các chùa tiêu biểu trong hệ thống chùa Yên Tử. Ngoài ra còn Thác Vàng, Thác Bạc, Am Hoa, Am Dược, Chùa một Mái... cũng rất đẹp và kỳ thú. Phong cảnh đẹp mắt và thu hút sự tò mò của du khách tham quan qua từng chặng đường để qua lộ trình chặng đường gian nan leo núi nhưng rất thú vị khi chứng kiến tận mắt các cảnh đẹp của mỗi ngôi chùa.
CHƯƠNG II: HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
II.1 Hiện trạng về cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng phục vụ du lịch
II.1.1 Cơ sở vật chất - kỹ thuật
Hệ thống các cơ sở lưu trú là một trong nhiều yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác các tiềm năng du lịch, nhằm thoả mãn nhu cầu của khách du lịch. Chính vì có vai trò quan trọng như vậy nên sự phát triển ngành du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật.
Yên Tử hiện nay còn rất nhiều hạn chề về cơ sở lưu trú phục vụ khách du lịch. Chủ yếu là nhân dân tham gia kinh doanh dưới hình thức các dịch vụ.
Mới đây một hệ thống cáp treo đã đi vào hoạt động phục vụ du khách rất thuận tiện cho cả những ngươì già và trẻ nhỏ.
II.1.2 Cơ sở hạ tầng phụ vụ du lịch.
II.1.2.1 Giao thông
Yên Tử nằm trong địa bàn của Thị xã Uông Bí – Một thị xã có đường quốc lộ 18 A, 18B, đường 10 chạy qua, nối liền Hà Nội, Hải Phòng, các tỉnh duyên hải Bắc Bộ với Thành phố Hạ Long, trung tâm kinh tế, du lịch, thương mại của Tỉnh Quảng Ninh và cửa khẩu quốc tế Móng Cái. Từ phía Đông sang phía Tây có đường xe lửa quốc gia đi qua. Phía Nam có sông Bạch Đằng chảy qua từ phía Tây về phía Đông; Sông Uông, sông Sinh bắt nguồn từ phía Bắc chảy qua thị xã Uông Bí ra huyện Yên Hưng và thành phố cảng Hải Phòng thuận lợi. Mặt khác từ đường 18 quý khách có thể đi vào Yên Tử bằng hai đường:
Một đường từ ngã ba Dốc Đỏ vào Giải Oan ( hiện nay đường đã được trải bê tông, các đập tràn, các cống ngầm đã được xây dựng lại, tại các suối dọc đường đi, làm cho việc đi lại rất thuận tiện. Trong thời gian tới con đường này sẽ mở rộng thành đường hai làn xe )
Một đường đi qua trung tâm thị xã và đi đến cột Đồng Hồ ( trước nhà máy điện ) quý khách đi vào đường Mỏ than Vàng Danh phải đi thẳng sẽ đến Giải Oan – Khu trung tâm của YênTử ( tất cả đề có biển chỉ đường ).
Ở một địa thế có lợi về giao thông đường bộ, đường thuỷ và đường sắt, nên quý khách có thể đi Yên Tử một cách dễ dàng, thuận lợi.
II.1.2.2 Hệ thống thông tin liên lạc
Yên Tử có trạm phát sóng viba đặt tại khu vực Hoa Yên, có bưu điện ở ngay khu vực bến xe Giải Oan và bưu điện Nam Mẫu, có bốt điện thoại thẻ, điện thoại di động đã phủ sóng nên du khách có thể liên lạc bất cứ nơi đâu trong nước và quốc tế.
II.1.2.3 Hệ thống cung cấp điện
Yên Tử có hệ thống điện lưới quốc gia và nhiều trạm biến áp có thể cung cấp đủ nhu cầu sử dụng điện. Hiện nay hệ thống điện đã cung cấp điện cho tất cả các chùa trên núi ( trừ chùa Đồng )
II.1.2.4 Hệ thống cung cấp nước
Vấn đề nước sinh hoạt ở Yên Tử còn là vấn đề cần khắc phục. ở Yên Tử hiện nay còn sử dụng nhiều nguồn nước khác nhau như:
Hệ thống nước tự chảy do người dân và các quán hàng tự tạo, lấy nước từ các thác Vàng, thác Bạc. Hệ thống này ổn định, không phụ thuộc vào mùa nhưng dễ bị ô nhiễm. Hiện nay hầu như các nhà hàng, nhà nghỉ, các quán dịch vụ để sử dụng nguồn nước này.
Ngoài ra còn sử dụng nước giếng đào, giếng khoan, nước mưa, chất lượng nước từ các nguồn này thường cạn kiệt, nước không đủ dùng cho sinh hoạt.
Hiện nay ở Yên Tử đang xây dựng nhà máy lọc nước và đóng chai có thể cung cấp nước sinh hoạt cho tất cả các nhà hàng, khách sạn, các quán dịch vụ và nhu cầu của khách du lịch trong thời gian tới.
II.1.2.5 Đường mòn thiên nhiên
Nhìn chung tuyến đường từ Giải Oan lên chùa Đồng và từ chùa Đồng xuống tương đối tốt. Song các tuyến đường mòn từ Hoa Yên đi Thác Vàng và từ Một mái đi Thác Bạc còn rất xấu, nhỏ hẹp có chỗ nguy hiểm ( cần có lan can bảo vệ ) và chưa có đường mòn liên thông đi đến các điểm tham quan khác. Hiện nay du khách tới tham quan song bắt buộc phải đi quay trở lại theo con đường mòn cũ lúc ban đầu.
II.1.2.6 Biển diễn giải môi trường
Số lượng biển diễn môi trường ở Yên Tử tương đối nhiều và tốt; song còn có rất nhiều điểm cần thêm biển diễn giải môi trường nhằm nâng cao trách nhiệm của du khách và tránh được những tác hại xâm hại tới quần thể khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử.
II.1.2.7 Đầu Tư
Dự án Yên Tử từ 1997 đến 2002.
Ngày 25/10/1996, sau một chuyến về thăm Yên Tử, nguyên Phó Thủ Tướng Nguyễn Khánh và Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm đã chủ trì hội nghị thông qua báo cáo nghiên cứu tiền khả thi dự án đầu tư quy hoạch tổng thể khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử và uỷ quyền cho UBND Tỉnh Quảng Ninh phê duyệt dự án Yên Tử tử 1997 đến 2002.
Dự án tổng thể bao gồm 5 dự án hợp phần:
Quy hoạch tổng thể và chi tiết khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử.
Xây dựng đường vào khu di tích Yên Tử.
Trùng tu tôn tạo các di tích vật thể.
Bảo tồn, tôn vinh các giá trị văn hoá phi vật thể.
Tổng mức kinh phí đầu tư cho toàn bộ dự án là: 65,4 tỷ đồng. Đến nay thực hiện được 45 tỷ đồng đạt 68,8% mức đầu tư dự án được duyệt.
Năm 2001, Công ty phát triển Tùng Lâm đầu tư vào làm hệ thống cáp treo, với tổng kinh phí đầu tư lên tới hàng trăm tỷ đồng.
Các Doanh nghiệp tư nhân đầu tư mạnh vào cuộc xây mới và cải tạo nhà nghỉ, quầy dịch vụ lưu niệm...
Trong thời gian tới tiếp tục đầu tư nâng cấp mở rộng tuyến đường từ Dốc Đỏ vào Yên Tử thành đường hai làn xe cấp V miền núi, tiếp tục xây dựng chùa Lân và Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, nâng cao chất lượng các dịch vụ tại Yên Tử, tôn tạo các di tích Am, Tháp đã xuống cấp.
II.2 Hiện trạng hoạt động du lịch tại Yên Tử
II.2.1 Hiện trạng du khách
Trong những năm gần đây khách du lịch đến Yên Tử ngày càng nhiều và đa dạng. Nếu năm 2000 chỉ có 18 vạn lượt khách thì năm 2001 có tới 22 vạn lượt khách. Tới năm 2002 lượng khách về Yên Tử tăng tới 33 vạn lượt. Năm 2004: 48 vạn lượt khách. Con số này ít hơn thực tế vì Ban quản lý Yên Tử đã miễn vé cho những du khách từ 70 tuổi trở lên và các đoàn sinh viên đi thực tế nghiên cứu học tập tại Yên Tử và miễn giảm vé cho các đối tượng là học sinh, sinh viên... Du khách đến với Yên Tử có 50% là khách hành hương, họ về đây với tâm niệm: Yên Tử là đất tổ, về với Yên Tử là về với đất tổ, về với cội nguồn Phật tổ Việt Nam. Trong tâm khảm của họ cũng như nhiều thế hệ người Việt Nam, đời nọ truyền đời kia, Yên Tử là cõi tâm, cõi thiện là nơi gửi gắm niềm tin và lẽ sống, là nơi giải toả những nỗi niềm u uất, phiền não và đau khổ. Về Yên Tử con người tạm xa lánh cõi trần tục với bao vất vả,lo toan, những nỗi niềm uất ức của kiếp sống con người, tạm quên đi những phiền não đời thường để có những phút giây thanh thản. Trong số khách hành hương về Yên Tử, có người cả đời lận đận, chưa bao giờ được hưởng lợi danh, có những người lập gia đình đã lâu mà chưa có được một “Mụn con”.... Hàng chục người, hàng vạn người mỗi người một số phận, họ về Yên Tử để cầu mong vận đẹp và theo họ: Yên Tử linh thiêng có Phật tổ chở che, ban phước lành cho họ và gia đình họ.
Số khách còn lại họ về Yên Tử với mục đích tham quan thắng cảnh và khu di tích lịch sử, chiêm ngưỡng nét kiến trúc cổ, những cổ vật, nghiên cứu khảo cổ, nghiên cứu động, thực vật, sưu tầm tiêu bản tham gia hội thảo, thám hiểm, leo núi...
Biểu đồ thể hiện hiện trạng du khách đến Yên Tử ( 2000 - 2004)
( Nguồn: Uỷ ban nhân nhân Thị xã Uông Bí và Ban quản lý Yên Tử )
II.2.1.1 Du khách quốc tế
Khách nước ngoài đến du lịch chủ yếu theo các tour du lịch của các công ty lữ hành, đặc biệt là của tư nhân ở Hà Nội, Bãi Cháy, Móng Cái, Hải Phòng và một số nơi khác, ngoài ra còn một lượng nhỏ đi tự do. Các thị trường chính là Châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản... Theo kết quả điều tra khách du lịch quốc tế đến Yên Tử chủ yếu là tham quan phong cảnh thiên nhiên và các kiến trúc văn hóa nghiên cứu khoa học, leo núi...
II.2.1.2 Du khách nội địa
Khách du lịch nội địa đến Yên Tử chủ yếu đi theo đoàn vài chục người tự tổ chức, không có hướng dẫn, hoặc một số đi tự do khoảng vài người một nhóm, hay đi theo nhóm khoảng vài chục ngươi trong các tour của các công ty du lịch hay tổ chức đoàn thể, có hướng dẫn viên của công ty du lịch đó. Thị trường khách du lịch chính trong giai đoạn này vẫn là Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nội... Ngoài ra còn có các tỉnh khác trong toàn quốc. Khác với các du khách quốc tế, khách nội địa đến Yên Tử với mục đích chủ yếu là lễ Phật, tìm hiểu về cội nguồn Phật giáo Việt Nam, tham quan thắng cảnh, chiêm ngưỡng các kiến trúc văn hóa... Các sản phẩm thương mại được khách nội địa ưa thích đó là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, các sản phẩm rừng, các đặc sản Yên Tử như: Rượu mơ, rượu chua... và món ăn độc đáo của các nhà hàng ở Yên Tử.
II.2.2 Doanh thu từ du lịch
Cùng với sự tăng trưởng mạnh mẽ về lượng khách du lịch tới Yên Tử, doanh thu thuần tuý từ du lịch ( bao gồm doanh thu từ vé vãn cảnh và dịch vụ khác cùng với nguồn công đức của khách thập phương) cũng đã liên tục tăng.
Đơn vị tính: nghìn đồng
Năm KH thị xã giao Thực thu Tỉ lệ % so với Tỉ lệ % so
kế hoạch với năm trước
2000 1.650.000 1.792.435.5 108,63 115,00
2001 2.500.000 3.096872 123,87 172,82
2002 3.800.000 5.417.614 142,57 174,88
2003 6.521.000 6.100.000 94,00 112,00
( Nguồn: Ban quản lý Yên Tử )
II.2.3 Lao động trong du lịch
Trong những năm gần đây, số lượng công chức, lao động của Ban quản lý tăng đột biến. Từ tổng số 27 công chức lao động thời điểm cuối năm 2000 ( kể cả lao động bảo vệ rừng ). Sang năm 2001, biên chế của Ban tăng lên thành hơn 50 người. Đến nay là trên 60 người, chưa kể hợp đồng lao động vệ sinh môi trường sau hội xuân. Cuối năm 2000, cả Ban chỉ có hai bộ phận: bộ phận quản lý di tích và Bộ phận quản lý rừng đặc dụng Yên Tử. Từ tháng 6/2001 đến nay đơn vị hình thành các đội và bộ phận nghiệp vụ, trong đó có: Đội quản lý di tích, Đội duy tu đường giao thông, Đội thu phí, Đội bảo vệ rừng đặc dụng Yên Tử, Bộ Phận văn phòng và Bộ phận quản lý phát triển du lịch Lựng Xanh – Hang Son.
Ngoài ra Ban còn tiếp tục kiêm nhiệm Ban quản lý dự án Yên Tử và Ban quản lý dự án Rừng đặc dụng Yên Tử. Trong số công chức, lao động của Ban có tới hơn 50% có trình độ đại học và cao đẳng, 20% có trình độ trung cấp và khoảng gần 30% là tốt nghiệp phổ thông trung học.
Căn cứ yêu cầu nhiệm vụ qua mỗi kỳ hội xuân, lực lượng lao động hợp đồng mùa vụ được tuyển chọn, bổ xung vào đội ngũ, mỗi kỳ Hội xuân từ 40 đến 70 người. Vừa chú trọng tăng cường về số lượng, Ban quan tâm đến tới công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ về quản lý đội ngũ công chức lao động toàn cơ quan. Các lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ về quản lý di tích, bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy, an toàn lao động.... do cơ quan tự tổ chức, thực tế quá trình công tác tại cơ quan và quá trình tự rèn luyện, tự đào tạo đội ngũ công chức, lao động..... đã góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ. Đảng viên là cán bộ lãnh đạo và một số nhân viên trong cơ quan tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị và nghiệp vụ chuyên môn. Đã bố trí đúng người, đúng việc, phát huy hiệu quả công tác của từng người. Đội ngũ cán bộ các đầu mối trực thuộc nâng cao được năng lực quản lý và điều hành. Nhìn chung trình độ quản lý và năng lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên Ban quản lý Yên Tử đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, năm nào cũng hoàn thành các chỉ tiêu Kinh tế – Xã hội Nhà nước giao, có chỉ tiêu hoàn thành xuất sắc.
Ngoài số lượng công chức, lao động của Ban và số hợp đồng mùa vụ ra còn có hàng trăm lao động gián tiếp khác trong các đơn vị có liên quan và cộng đồng địa phương xung quanh Yên Tử.
II.2.4 Quản lý nhà nước về hoạt động du lịch
Từ năm 1985 trở về trước, khu di tích lịch sử và danh thắng Yên tử chủ yếu giao cho 2 xã Thượng Yên Công và xã Phương Đông quản lý theo địa bàn hành chính. Ngày hội, ngành văn hoá cử người vào phối hợp chống mê tín dị đoan. Sau Hội có nhân viên đến kiểm tra tình hình. Năm 1986, UBND thị xã Uông bí giao cho Ban văn hóa thông tin thị xã Uông bí ( 1988 gọi là phòng Văn thể ) xác lập quyền quản lý toàn diện di tích lịch sử và danh thắng Yên tử.
Cuối năm 1991, Uỷ ban nhân dân thị xã chỉ đạo phòng văn thể và phòng tổ chức lập đề án trình Tỉnh thành lập Ban quản lý khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử. Sau Hội xuân Yên Tử 1992, thị xã Uông bí có thêm luận chứng về kinh thế ( Tổng thu 68 triệu ) để trình Uỷ ban nhân dân Tỉnh lập đề án thành lập Ban quản lý di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử.
Tháng 10-1992, Ban quản lý Yên Tử được thành lập và cũng là lúc chấm dứt vai trò quản lý trực tiếp khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử của phòng văn thể.
Từ ngày được thành lập tới nay, Ban quản lý Yên Tử đã phối hợp với các phòng ban chức năng tham mưu cho cấp có thẩm quyền xây dựng, bổ sung và hoàn thiện quy chế quản lý lễ hội, quản lý văn hoá tín ngưỡng tôn giáo tại Yên Tử, quy chế hoạt động và tổ chức bộ máy Ban quản lý Yên Tử, ban hành quyết định về chế độ tiền lương, phụ cấp cho cán bộ, nhân viên ban quản lý Yên Tử; quy hoạch về thu nhận công đức; quy chế hoạt động và tổ chức bộ máy của Ban quản lý Yên Tử. Ban đã xây dựng và hoàn thiện quy định hoạt động của đội bảo vệ rừng đặc dụng Yên Tử, hướng dẫn nghiệp vụ ghi nhận công đức, bán, soát vé vãng cảnh, các bến xe, điều hành trật tự, vệ sinh môi trường... xây dựng kịch bản lễ hội xuân Yên Tử phù hợp với tình hình thực tế của Yên Tử hiện nay; lập và trình duyệt kế hoạch tổ chức các kỳ Hội xuân và việc đón khách về Yên Tử từng năm..
Đến nay, cơ chế quản lý các lĩnh vực hoạt động của Yên Tử đã cơ bản hoàn thiện. Việc quản lý lễ hội đã định hình, tạo thành nề nếp, khẳng định rõ nét nguyên lý khoa học trong quản lý di sản và quản lý lễ hội.
II.3 Những tác động chủ yếu của hoạt động du lịch ở Yên Tử
II.3.1 Tác động tích cực
Cùng với sự phát triển chung của thị xã Uông bí, những năm gần đây, du lịch Yên Tử ( gồm cả du lịch tự nhiên và du lịch nhân văn – ở Yên Tử từ 2 hình thức du lịch này không thể tách rời mà nó còn đan xen, hoà quện vào nhau trong các chuyến về thăm Yên Tử của du khách) đã có những bước phát triển mới.
Doanh thu từ du lịch và doanh thu xã hội ( gián tiếp ) không ngừng tăng. Tính chung tổng doanh thu của Yên Tử năm 2001 đạt: 3.096.872 nghìn đồng, tăng 72,82% so với năm 2000 bằng 17% kế hoạch thu ngân sách của thị xã, năm 2002 đạt: 5.417.614 nghìn đồng, tăng 74,88% so với năm 2001 bằng 24% kế hoạch thu ngân sách của thị xã. Tốc độ tăng trưởng kinh tế du lịch của Yên Tử tương đối cao và ổn định, đã góp phần tăng trưởng các ngành kinh tế khác của thị xã.
Du lịch Yên Tử đã mang lại lợi ích xã hội không nhỏ, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, làm khởi sắc bộ mặt kinh tế – xã hội cũng như diện mạo của du lịch Yên Tử, góp phần đưa nghành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thị xã. Du lịch Yên Tử đã có những đóng góp thiết thực làm cho Uông bí ngày càng trở lên giầu đẹp hơn.
II.3.1.1 Mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng dân cư xung quanh
Sự phát triển mạnh mẽ của du lịch Yên Tử đã mang lại lợi ích không nhỏ cho cộng đồng dân cư xung quanh khu vực Yên Tử. Du lịch phát triển đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân và tạo cơ hội giao lưu văn hoá với khách.
1, Bán sản phẩm mang sắc thái dân tộc: Người dân ở đây chủ yếu bán các sản phẩm hàng hoá như: Đồ lưu niệm, rượu mơ, dược liệu. Trước kia lượng khách du lịch ít, các mặt hàng lưu niệm, dược liệu là do họ tìm kiếm và được sản xuất tại địa phương, nhưng trong thời gian gần đây lượng khách ngày một đông và nhu cầu mua của khách ngày một tăng lên, lượng hàng có sẵn ngày càng khan hiếm, những người bán hàng nhanh chóng chuyển sang mua lại các mặt hàng lưu niệm và dược phẩm từ nơi khác về đây bán lại.
2, Dịch vụ vận chuyển hàng hoá lên núi: Tham gia vào hoạt động này chủ yếu là các thanh niên ở Khe Sú và Nam Mẫu thuộc xã Thượng Yên Công. Họ thường có quan hệ mật thiết với một số quán dọc tuyến du lịch, nhất là Hoa Yên. Những thanh niên này được trả 100.000 đ/ ngày. Công việc chủ yếu là khuân vác đồ, dìu khách và dẫn đường....mỗi tour leo núi mất khoảng 1 ngày – 1,5 ngày.
3, Mở rộng giao lưu và hiểu biết về thế giới quan: Sự phát triển của du lịch Yên Tử đã đem lại những cơ hội giao tiếp, mở rộng thế giới quan, tăng cơ hội hiểu biết của những người dân tộc thiểu số trước đây và thúc đẩy sự hình thành ở họ những nhu cầu mới về văn hóa tinh thần lẫn vật chất. Những điều này đến lượt chúng ta lại là những động lực phát triển của người dân tộc thiểu số trong tương lai.
Ngoài ra còn một số hoạt động khác cũng đem lại nguồn thu đáng kể cho người dân ở đây như mở quán bán hàng tại các điểm trên toàn tuyến du lịch, chụp ảnh ( có sự quy hoạch, quản lý của Ban quản lý Yên Tử ) cung cấp nhân công lao động...
II.3.1.2 Lợi ích đối với khu di tích lịch sử và danh thắng Yên Tử
Cùng với sự phát triển du lịch mà yếu tố then chốt là sự tăng nhanh số lượng du khách đến thăm, đã thúc đẩy đầu tư, kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống nhà hàng, cơ số dịch vụ, hạ tầng kỹ thuật xã hội. Kết quả là bộ mặt của Yên Tử chỉ trong vài năm gần đây đã thay đổi một cách nhanh chóng. Hơn thế nữa giá trị thắng cảnh, lịch sử, văn hoá, tôn giáo của Yên Tử ngày một được nâng cao và có ảnh hưởng sâu rộng trong và ngoài nước. Các di tích vật thể được tôn tạo và trùng tu bảo vệ an toàn 2.686,5 ha rừng. Lập và trình duyệt “ Dự án nâng cấp rừng đặc dụng Yên Tử thành vườn quốc gia Yên Tử” bảo vệ và xây dựng rừng Yên Tử trở thành khu bảo tồn thiên nhiên, tạo sức hấp dẫn về du lịch sinh thái. Dư luận chung của khách về dự hội khen nhiều hơn chê.
II.3.2 Tác động tiêu cực
II.3.2.1 Những tác động về văn hoá xã hội
Khía cạnh tiêu cực trước hết là phương thức bán hàng rong, chạy theo khách, vái lạy du khách ở mọi nơi mọi lúc để mời chào, nài nỉ chèo kéo khách du lịch. Cách thức bán hàng này đã gây mất thẩm mỹ, mỹ quan du lịch, gây nhiều phiền hà khó chịu cho du khách.
Bên cạch đó đã có hiện tượng tranh giành khách, nâng hạ giá bán kết quả là có nhiều người không bán được hàng và cuộc sống của họ sẽ tồi tệ hợn.
Trong những năm gần đây lượng khách đến YênTử ngày càng đông kéo theo gía cả sinh hoạt ngày một nâng cao, xuất hiện một số tệ nạn như móc túi, rạch túi...ảnh hưởng đến giá cả sinh hoạt của dân cư trong vùng và tài sản của du khách.
II.3.2.2 Những tác động về kinh tế
Do du lịch nội địa có tính mùa vụ cao, khách nội địa chủ yếu đi tham quan vãn cảnh, hành hương lễ phật vào ba tháng hội xuân, đặc biệt là tháng 1 và tháng 2 âm lịch với số lượng nhà nghỉ hiện nay ở Yên Tử, vào những ngày đông khách vào các ngày thứ sáu, thứ bẩy, chủ nhật vào tháng 1 tháng 2 có lúc không còn phòng cho thuê, có khi gía phòng lên gấp đôi, gấp ba so với ngày khác. Ngược lại trong 9 tháng ngoài Hội xuân ( từ tháng 4 đến tháng 12 âm lịch) khách ít dần và họ ít khi nghỉ tại Yên Tử, tình hình này dẫn đến các chủ kinh doanh nhà nghỉ cạnh tranh nhau, hạ gía xuống thấp đến mức không ngờ.
II.3.2.3 Sự tập trung hóa cao thu nhập từ du lịch
Dọc dãy Yên Tử có rất nhiều điểm du lịch nhưng hầu như khách nội đều tập trung tổ chức đến Giải Oan, Hoa Yên, Chùa Đồng. Tuy những hoạt động du lịch diễn ra trên toàn tuyến nhưng hầu như lại được chi trả cho các hộ kinh doanh ở Giải Oan, Hoa Yên, chùa Đồng. Do đó mà phần lớn các thu nhập từ du lịch chỉ tập trung vào một số hộ kinh doanh ở Hoa Yên, Giải Oan, chùa Đồng mà chủ yếu là người có điều kiện kinh doanh.
II.3.2.4 Những tác động về môi trường
II.3.2.3.1 Tác động đối với hệ động, thực vật
Sự có mặt đông của khách du lịch làm giảm khả năng săn mồi của động vật hoang dã dẫn đến gỉam số loài động vật và số cá thể trong từng loài.
Do nhu cầu đặc sản của du khách cũng như ý thức chưa tốt của người dân... nên ở đây cũng có sự săn bắt động thực vật ( đũn, sóc, cầy, phong lan, cây thuốc nam....) sự gia tăng của du lịch chắc chắn làm tăng nhu cầu đối với mặt hàng này cũng như việc thu nhập của người dân tăng lên, mặc dù những thứ này không còn nhiều ở Yên Tử, vì vậy công việc bảo vệ rừng và các sản phẩm rừng, nhất là trong khu vực di tích Yên Tử là một việc làm cần thiết và cần có đầu tư và kế hoạch cụ thể, để giúp công tác bảo vệ rừng tốt hơn khi mà sự phát triển mạnh mẽ của du lịch đang gây sức ép lên môi trường tự nhiên nơi đây.
II.3.2.3.2 Xử lý chất thải
Số lượng khách du lịch đến Yên Tử ngày càng đông đã tạo nên áp lực cho hệ thống xử lý rác thải. Đồng thời du khách đã tạo ra một lượng lớn rác thải khó phân huỷ ở khắp mọi nơi. Hiện nay ở Yên Tử, tổ vệ sinh môi trường đã tiến hành thu gom rác, lượng rác thu lượm ước tính đạt 70-80%. Số rác ở Giải Oan thu lượng và chôn lấp ở bãi rác trong rừng cách khu bến xe khoảng 1,5 km. Còn lượng rác ở Hoa Yên chủ yếu không được xử lý mà xả thải theo các máng xuống khu thung lũng phía sau dãy dịch vụ Hoa Yên ( phía đông chùa Hoa Yên) ở khu vực máng rác này tập trung rất nhiều ruồi muỗi, nó phần nào làm mất mỹ quan khu vực và gây mùi xú uế lên trực tiếp tuyến đường đi ngang qua lên chùa Một Mái, Bảo Sái và khu dịch vụ Hoa Yên. Nước thải của các quán dịch vụ ở Hoa Yên không được xử lý mà thải ra môi trường ngay và nó phân tán theo độ dốc của địa hình thấm vào lòng đất.
II.3.2.3.3 Thẩm mỹ cảnh quan
Do ý thức chưa tốt và thói quen xả rác bừa bãi của một số du khách nên rác được thải bừa bãi ở những nơi họ đi qua. Ngoài ra hiện tượng thu hái hoa, bẻ cành lộc, lấy cây cảnh, cây dược liệu, viết, vẽ lên vách đá, thân cây..... gây lên mất thẩm mỹ cảnh quan tự nhiên.
II.3.2.3.4 Sử dụng chất đốt
Nghiên cứu trước đây cho thấy các nhà hàng, quán dịch vụ phần lớn đều dùng nguyên liệu than củi và chúng được mua từ khu vực địa phương và người dân tộc đốt gỗ rừng lấy than. Mặc dù gần đây nhiều nhà hàng, quán dịch vụ đã chuyển sang sử dụng gas và điện để đun nấu. Đây là một hướng tích cực, song việc loại bỏ than củi, hoàn toàn là không thể, mặc dù chưa có các số liệu dự báo cho biết có bao nhiêu than củi đang được tiêu thụ ở Yên Tử và đã giảm được bao nhiêu. Than củi được sử dụng trong nhà hàng, quán, dịch vụ để sưởi ấm, nướng các món ăn. Do vậy khối lượng than củi sử dụng trong lĩnh vực này tỉ lệ thuận với lượng khách du lịch, vì vậy việc khích lệ thay thế nhiên liệu có lợi hơn cho môi trường là rất quan trọng cho sự phát triển du lịch ở Yên Tử một cách lâu dài.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở YÊN TỬ BỀN VỮNG
Yên Tử có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch trong nhiều năm tới lượng khách đến Yên Tử sẽ không ngừng tăng lên và du lịch Yên Tử sẽ mang lại hiệu quả kinh tế quan trọng cho thị xã Uông Bí. Du lịch YênTử đã góp phần làm thay đổi cả một vùng rừng núi này. Du lịch đem lại nguồn lợi kinh tế to lớn cho người dân nhưng chủ yếu là người có điều kiện kinh doanh, người dân tộc thiểu số thì thu nhập từ du lịch chưa cao. Bên cạnh đó còn có nhiều tác động tiêu cực của các hoạt động du lịch tới các hệ sinh thái tự nhiên và đời sống văn hoá của người dân nơi đây. Nhận ra những vấn đề này không phải là để hạn chế hoạt động du lịch mà chỉ nhấn mạnh những mặt tiêu cực để tìm ra những giải pháp tối ưu cho sự phát triển du lịch trong tương lai của Yên Tử.
III.1 Giải pháp về tổ chức quản lý
Quản lý tôt việc thực hiện quy chế cấm vứt rác ra nơi công cộng đồng thời đẩy nhanh việc thực hiện dự án xử lý rác thải, nước thải. Cần xây dựng thêm các điểm vệ sinh công cộng, đặt thùng rác tại các điểm du lịch. Thực hiện nghiêm quy chế nghiêm cấm việc phá hoại cây xanh, cảnh quan khu vực du lịch. Xử lý nghiêm các trường hợp săn bắt và mua bán trái phép động thực vật quý hiếm.
Tiếp tục tổ chức tốt các Hội xuân Yên Tử và các hoạt động sau kỳ Hội xuân trên theo tiêu chí.
Đảm bảo an toàn cho người, phương tiện giao thông, hành trang của du khách; giữ gìn an ninh trật tự, vệ sinh môi trường, phòng chống cháy nổ các khu vực được giao quản lý các khu vực tổ chức lễ hội. Duy trì nếp sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo lành mạnh, tôn nghiêm, đúng pháp luật, bài trừ các biểu hiện và hành vi mê tín dị đoan, biến khu du lịch thắng cảnh trở thành một thị trường nhiễu loạn. Bảo vệ an toàn di sản văn hoá, cảnh quan, tích cực tuyên truyền nhân rộng ảnh hưởng của Yên Tử trong phạm vi cả nước và quốc tế.
Tiếp tục nghiên cứu, tham mưu cho cấp có thẩm quyền ban hành quy định về quản lý di sản, quản lý nhà nước về hoạt động du lịch, tôn giáo tại khu vực Yên Tử, nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý trong tình hình mới.
Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá bản địa trên nguyên tắc: Phát triển du lịch hiện đại không làm mất đi những giá trị và bản sắc văn hoá truyền thống tại Yên Tử, trước hết cần quan tâm tới một số vấn đề sau:
+ Bảo tồn những cây đại, nâng cấp đường Tùng, trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử văn hoá, tôn tạo cảnh quan, xây dựng chỗ bán hàng cho người bán hàng rong, cần có cơ chế chính sách ưu đãi và khuyến khích họ vào những điểm mà Ban quản lý đã quy hoạch cho mảng dịch vụ để bán hàng.
+ Quy hoạch để bảo tồn phát triển một số bản sắc văn hoá dân tộc đặc trưng. Nghiên cứu, đầu tư hình thành Yên Tử thiết chế du lịch phù hợp với thế mạnh tiềm năng du lịch của địa phương ( như cơ sở sản xuất cung ứng dịch vụ hàng lưu niệm ) hệ thống Tour dịch vụ nội vùng, các cơ sở vận chuyển khách nội vùng; có nhà hàng dịch vụ ngọai vi khu di tích...
+ Tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch với sự kết hợp chặt chẽ thống nhất giữa các cấp, các ngành nhằm đưa du lịch có bước phát triển mạnh mẽ hơn. Đồng thời sắp xếp tạo điều kiện hơn cho các doanh nghiệp có chức năng kinh doanh du lịch mở rộng lữ hành quốc tế, đặc biệt đối với doanh nghiệp Nhà nước đủ mạnh, giữ vai trò chủ đạo, làm nền tảng cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
+ Xây dựng trung tâm xúc tiến du lịch và xây dựng Quỹ phát triển du lịch. Việc tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch và quảng cáo du lịch cần được quan tâm đúng mức vì đây là một yếu tố có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thu hút khách du lịch và nhằm đạt được hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh du lịch. Đây là khâu yếu còn tồn tại của du lịch Yên Tử nói riêng và du lịch Uông Bí nói chung. Vì thế việc xây dựng trung tâm xúc tiến du lịch và xây dựng Quỹ phát triển du lịch đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Ban quản lý Yên Tử và sự chỉ đạo của UBND thị xã Uông bí là rất cấp thiết. Trung tâm xúc tiến du lịch có chức năng tuyên truyền, quảng bá du lịch, quảng cáo du lịch, nghiên cứu phát triển du lịch, tư vấn đầu tư và huy động các nguồn vốn phát triển du lịch trên địa bàn Yên Tử.
III.2 Giải pháp về kinh tế
*Có chính sách huy động vốn hợp lý: khả năng huy động vốn đầu tư là yếu tố có tính quyết định quy mô và tốc độ phát triển du lịch. Vì vậy để huy động được nguồn vốn đầu tư phát triển du lịch thì Nhà Nước, Tỉnh Quảng Ninh, thị xã Uông Bí và Ban quản lý Yên Tử cần phải có chính sách thông thoáng ( như giá thuê đất, thuế, vay vốn, lợi nhuận và chuyển lợi nhuận ra nước ngoài, chính sách thu hút khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế) để các thành phần kinh tế trong nước, trong tỉnh, trong thị xã và vốn đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư vào phát triển du lịch. Nhà nước tập trung đầu tư vào kết cấu hạ tầng. Các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đầu tư vào kinh doanh và dịch vụ du lịch.
*Phát huy sức mạnh các thành phần kinh tế: Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp mang tính xã hội rộng rãi. Để phát triển du lịch trước hết phải có nguồn vốn đầu tư do đó cần phải huy động sức mạnh của các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch: Doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Tạo môi trường thuận lợi và hấp dẫn để thu hút vốn đầu tư nước ngoài gồm cả liên doanh và 100% vốn nước ngoài trong hoạt động du lịch.
*Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ và thực hiện thắng lợi các hạng mục công trình thuộc dự án Yên Tử như: Thực hiện giai đoạn 2 xây dựng chùa Hoa Yên, xây dựng giai đoạn 2 chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, xây dựng lễ đài khai hội, bảo tồn 3 cây đại cổ thụ ở chùa Hoa Yên; xây dựng chùa Bí Thượng; nghiên cứu xây dựng chùa Đồng thay thế cho 2 chùa Đồng hiện tại; trùng tu tôn tạo hệ thống tháp gạch khu trung tâm Yên Tử, xây dựng nhà thờ Mẫu Giải Oanh, lắp đặt hệ thống đèn đá từ chùa Giải Oan lên chùa Hoa Yên; nghiên cứu bảo tồn khôi phục đường Tùng; triển khai thực hiện dự án tôn vinh các giá trị lịch sử văn hoá phi vật thể.
*Tiếp tục trình duyệt và thực hiện các dự án mới ( sau dự án Yên Tử 1997- 2002 ) gồm: Dự án xử lý rác thải khu trung tâm Yên Tử ( đang trình duyệt); dự án đầu tư mở rộng hai làn xe đường giao thông Yên Tử ( đang bắt đầu thực hiện); Dự án phòng chống cháy chữa cháy khu di tích Yên Tử ( đã được UBND Tỉnh phê duyệt), xây dựng trụ sở Ban quản lý Yên Tử, nhanh chóng đưa nhà máy lọc nước đi vào hoạt động ( đã xây dựng xong ) và các hạng mục công trình khác.
III.3. Giải pháp về bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch
Bảo vệ tài nguyên, môi trường du lịch là vấn đề rất cần thiết và góp phần quan trọng trong phát triển du lịch Yên Tử chính vì lý do đó mà cần phải chú trọng một số vấn đề sau.
Phát triển du lịch tại các cộng đồng dân tộc ít người ở khu vực Khe Sú xã Thượng Yên Công, với những loại hình du lịch thích hợp đảm bảo khả năng tham gia và hưởng lợi của người dân địa phương như các hoạt động du lịch cộng đồng địa phương và du lịch sinh thái. Đây là một biện pháp hữu hiệu để khuyến khích cộng đồng địa phương tự giác tham gia vào công tác bảo vệ tài nguyên, môi trường đồng thời giảm sức chứa tại khu trung tâm, đặc biệt vào các ngày thứ 7, chủ nhật của Hội xuân và các ngày lễ. Ngoài ra cần nâng cấp hai tuyến đường vào Thác Vàng và Thác Bạc, mở thêm một số tuyến đường mòn từ Thác Vàng, Thác Bạc đi tới các nơi khác trong khu vực để thu hút lượng khách tới các điểm này và tổ chức các hoạt động du lịch vào mùa hè để giảm bớt lượng khách ở trung tâm và từng bước xoá bỏ tính mùa vụ của du lịch
Phối hợp các ban ngành liên quan trong việc ngăn chặn, đồng thời có các chương trình tạo việc làm và thu nhập bổ xung cho cộng đồng dân tộc ít người nhằm xoá bỏ hiện tượng vào rừng chặt cây lấy gỗ, săn bắt động thực vật trái phép gây lên những sự cố môi trường như cháy rừng, sạt lở đất....làm ảnh hưởng đến tính bền vững về tài nguyên và môi trường của khu vực
Một số giải pháp ban đầu nhằm giải quyết tình thế trước mắt như:
Phát triển nông nghiệp địa phương nhằm cung cấp lương thực cho nhu cầu tại chỗ. Về nông nghiệp đưa kỹ thuật và giống cây mới, chủ yếu là sản xuất các mặt hàng như rau xanh, cây ăn quả ( đào, mận, vải nhãn, hồng....có sản lượng và chất lượng cao)
Rừng đặc dụng trước mắt cần có cơ chế chính sách phù hợp để khuyến khích người dân tham gia bảo vệ rừng như cho họ tham gia vào đội bảo vệ rừng theo các dự án hoặc có thể giao đất, giao rừng cho dân, có kiểm tra thường xuyên đối với các hộ gia đình đăng ký tham gia nhận đất và rừng để bảo vệ và phát triển rừng.
Xây dựng hệ thống nhà vệ sinh sinh thái và đầu tư tăng cường các phương tiện và trang thiết bị thu gom, xử lý rác thải, đặt thêm các thùng rác ở các điểm du lịch chính, thực hiện nghiêm nội quy bảo vệ môi trường.
Đối với rác thải hiện tại cần xử lý bằng phương pháp chôn lấp. Trước mắt cần huỷ bỏ các máng rác ở phía tây chùa Hoa Yên và tập trung rác chuyển sâu vào rừng sâu chôn lấp ( đào hố sâu và dùng đất sét để trát 4 xung quanh hố và đáy để chống thấm nước ra ngoài, rác đổ xuống cao 1,5 m thì lại được lấp bằng 1 lớp đất sét).
Đối với nước thải cần phải xây dựng hệ thống dẫn nước và hệ thống xử lý sơ bộ trước khi thải ra môi trường.
Thúc đẩy các chương trình giáo dục và nâng cao nhận thức cộng đồng về ý thức bảo vệ tài nguyên môi trường. Kết hợp với UBND thị xã và phòng Giáo dục đưa giáo dục môi trường vào chương trình chính khoá cuả hệ thống giáo dục phổ thông đồng thời kết hợp với các tổ dân phố và các phường xã thường xuyên tổ chức các buổi họp cộng đồng, phối hợp với đài phát thanh, truyền hình địa phương và trung ương, các phương tiện thông tin đại chúng, ấn phẩm tuyên truyền, hệ thống biển báo và biển hiệu bảo vệ môi trường theo luật bảo vệ môi trường và các quy định của địa phương.
Nhanh chóng thực hiện dự án phòng chống cháy và dự án xử lý rác thải khu trung tâm Yên Tử ( nếu được duyệt )....
III.4 Giải pháp về hoạt động kinh doanh du lịch
Trong những năm gần đây, do sự chuyển đổi cơ chế tổ chức quản lý kinh tế từ hành chính bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và chính sách mở cửa với nước ngoài. Tình hình tổ chức, quản lý du lịch tại Yên Tử có nhiều đổi mới theo chiều hướng tích cực. Hầu hết các hoạt động du lịch trên địa bàn Yên Tử đã quy về một mối dưới sự quản lý của Ban quản lý Yên Tử.
Tuy vậy, việc tổ chức quản lý các hoạt động kinh doanh du lịch còn gặp không ít khó khăn do tình trạng lộn xộn của một thời “Bung ra” người làm du lịch, nhà nhà làm du lịch. Vì vậy để hoạt động kinh doanh du lịch ở Yên Tử có hiệu quả hơn và ổn định hơn, cần tiến hành một số công việc cụ thể sau đây:
Tiếp tục cải cách về cơ chế chính sách, bao gồm các cơ chế về đăng ký kinh doanh, cấp phép đầu tư và các chính sách thu hút khách du lịch, nhằm tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho các đơn vị kinh doanh du lịch ở Yên Tử.
Đề nghị Nhà nước dành thêm nhiều nguồn ngân sách hơn nữa cho việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và đầu tư cho phát triển du lịch ở Yên Tử, đặc biệt ưu tiên đối với các dự án bảo vệ môi trường nhằm đem lại hiệu quả cao cho cộng đồng địa phương và môi trường trong lành hơn, thuận lợi cho du lịch.
Tiếp tục việc sắp xếp tổ chức lại các hộ kinh doanh du lịch trên địa bàn, bao gồm cả việc thu hồi giấy phép kinh doanh đối với các hộ làm ăn thua lỗ không còn đủ điều kiện kinh doanh, cũng như bổ xung thêm chức năng hoạt động cho các hộ kinh doanh hoạt động thực sự có hiệu quả...
Quy định cả đối với mọi hàng hoá và dịch vụ du lịch dựa trên chất lượng và nhu cầu thị trường. Thống nhất mọi khung giá cho các hàng hoá và dịch vụ du lịch giữa các đơn vị kinh doanh du lịch trên địa bàn, không để xảy ra tình trạng nâng giá tuỳ tiện cũng như phá giá cạnh tranh theo mùa vụ du lịch trong năm. Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển sản xuất các sản phẩm truyền thống như đồ lưu niệm, hàng thổ cẩm,.... nhằm đem lại lợi ích rộng rãi cho cộng đồng địa phưong.
III.5 Đào tạo và nâng cao nhận thức
Thời kỳ 2000-2002, số lượng công chức, lao động của Ban quản lý Yên Tử tăng đột biến. Từ tổng số 27 công chức, lao động thời điểm cuối năm 2000, đến cuối năm 2002 là 61 người ( chưa kể lao động vệ sinh môi trường ). Trong thời kỳ 2003-2010 số lao động công chức của Ban sẽ không ngừng tăng. Để nâng cao chất lượng người lao động, yếu tố quyết định sự tăng trưởng của du lịch Yên Tử, cần phải có kế hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ đối với lao động hiện có và tiếp nhận nguồn lao động mới thông qua đào tạo ở các trường đại học và trung học dạy nghề của Nhà nứơc và của Tỉnh.
*Dành nguồn tài chính thích đáng để đào tạo nghiệp vụ chuyên nghành đối với cán bộ nhân viên trong cơ quan, kể cả việc đào tạo trong nước, đào tạo thông qua học hỏi kinh nghiệm ở nước ngoài cụ thể:
Đào tạo lại về quản lý chuyên nghành nghiệp vụ đối với cán bộ và nhân viên hiện đang công tác trong Ban, đảm bảo theo tiêu chuẩn quốc gia và quốc tế.
Đào tạo bổ xung nghiệp vụ cho cán bộ, nhân viên mới được tiếp nhận từ các trường đại học và dạy nghề của Nhà nước.
Đào đạo nghiệp vụ cho lao động thị xã được tuyển vào Ban.
*Có chế độ khen thưởng kịp thời ( nâng lương, đề bạt) đối với cán bộ nhân viên năng động, ham học hỏi, cầu tiến bộ, có những sáng kiến hay được áp dụng vào công tác thực hiện. Đồng thời khiển trách, đưa ra khỏi Ban những cán bộ quản lý quan liêu, tham nhũng, thiếu năng lực và nhân viên không hoàn thành nhiệm vụ.
*Đối với các thành phần khác và cộng đồng địa phương: Chủ yếu tập trung vào các hoạt đông nâng cao nhận thức về các vấn đề có liên quan tới các hoạt động du lịch như hiểu biết về giá trị tài nguyên môi trường, hiểu biết xã hội, những kiến thức pháp luật liên quan.... Đối với các cộng đồng có khả năng tham gia vào các hoạt động du lịch cần được hỗ trợ nâng cao nghiệp vụ và tổ chức quản lý kinh doanh du lịch. Công tác này được tiến hành bởi chính các tổ chức đoàn thể địa phương, bằng nguồn ngân sách địa phương và có sự giúp đỡ của Ban quản lý Yên Tử và các tổ chức bên ngoài.
III.6 Xây dựng phát triển hệ thống an ninh và an toàn trong hoạt động du lịch
Bên cạnh việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chuyên ngành du lịch, thì công tác an ninh và an toàn cho hoạt động du lịch cần được đặc biệt chú trọng. Trước hết phải đảm bảo sự an toàn cho khách về Yên Tử, bảo vệ được tài sản tư trang của họ, bảo vệ an ninh chính trị, khi hoạt động du lịch diễn ra với quy mô lớn, tổ chức và cả vào thời kỳ cao điểm.
III.7 Tăng cường khai thác nguồn khách ở các thị trường gần đồng thời chú trọng khai thác thị trường xa
Du lịch Yên Tử nên đẩy mạnh khai thác cả nguồn khách nội địa và quốc tế. Chú trọng tìm hiểu, nắm bắt được nhu cầu tiêu dùng du lịch của thị trường này trong từng thời gian để chủ động tập trung khai thác nguồn khách. Đặc biệt du lịch Yên Tử nên chú ý khai thác các nguồn khách gắn với các sản phẩm du lịch của khu du lịch Yên Tử.
Đối với học sinh, sinh viên xây dựng một mức giá ưu đãi để khuyến khích nhu cầu du lịch của đối tượng này.
Kéo dài thời gian kinh doanh cũng là một trong những biện pháp khắc phục tính thời vụ trong kinh doanh. Muốn vậy Yên Tử cần thực hiện liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp, các địa phương khác trong tỉnh và cả nước để tiến hành khai thác thị trường xa và thị trường khu vực, quốc tế.
KẾT LUẬN
Kinh tế ngày càng phát triển, đời sống của con người ngày càng được nâng cao, xã hội ngày càng phát triển con người có nhu cầu đi du lịch nhiều. Chính vì vậy du lịch cũng đòi hỏi phải phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu đó.
Yên tử là một vùng đất với nhiều di tích chùa, am tháp và là một di sản thiên nhiên, có giá tri lớn về nhiều mặt như giá trị đa dạng sinh học, giá trị bảo tồn,giá trị khoa học và bảo tồn vẻ đẹp thiên nhiên. Với những giá tri đó Yên tử đã được Bộ văn hoá thông tin cấp bằng công nhậnYên tử là khu di tích lịch sử –văn hoá -thắng cảnh đặc biệt quan trọng của quốc gia từ ngày 13/ 3/1974.
Với thực trạngphát triển du lịch hiện nay ở Yên tử còn có nhiều vấn đề cần xem xét.Mặc dù về cơ sở vật chất và kỹ thuật hạ tậng phục vụ du lịch cơ bản đã được đáp ứng tương đối tốt hơn so với trước đặc biệt hiện nay đã có hệ thống cáp treo do công ty phát triển Tùng Lâm đầu tư vào hoạt động để phục vụ khách du lịch được.Song cần tiếp tục đầu tư mở rộng đường giao thông giúp thuận tiện cho du khách. Khách thập phương đến với Yên tử là được trở về đất tổ của Đạo phật chính vì vậycần tạo được thiện cảm đối với du khách để thu hút khách trở về tham quan nhiều lần.
Để phát triển du lịch Yên tử bền vững, qua nghiên cứu đánh giá cần thực hiện một số giải pháp để khai thác có hiệu quả và lâu dài nguồn tài nguyên du lịchđặc sắccủa Yên tử.
- Xây dựng thể chế du lịch phù hợp với thế mạnh củacvđịa phương như các cơ sở vận chuyển khách nội vùng, cơ sở nhà hàng dịch vụ phục vụ du lịch.
- Đầu tư xây dựng tuyến đường mòn từ Hoa Yên đi Thác Vàng,Một Mái đi Thác Bạc và từ Thác Vàng, Thác Bạc đi các nơi khác để thu hút khách du lịch và giảm bớt lượng khách tại khu trung tâm vào các ngày thứ 6, thứ 7 và chủ nhật của 3 tháng Hội.
-Thúc đẩy việc tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch và quảng cáo du lịch để thu hút khách du lịch đạt được hiệu quả cao trong hoạt động du lịch.
-tăng cường giáo dục môi trường cho nhân dân địa phương và du khách...
Khu di tích lịch sử và danh thắng Yên tử là nơi có tài nguyên du lịch nhiên và nhân văn phong phú, đa dạng và đang trở thành một khu du lịch sinh thái đầy tiềm năng. Nếu Ban quản lý Yên tử thực hiện tốt một cách có hiệu quả các biện pháp nêu trên thì du lịch Yên tử sẽ phát triển một cách bền vững trong tương lai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Đảng bộ thị xã Uông bí. Lịch sử Đảng bộ thị xã
Uông bí.
2. Bộ tài nguyên và Môi trường. Quy chế bảo vệ môi trường trong
lĩnh vực du lịch – 2003
3. Chi bộ Ban quản lý Yên Tử. Tài liệu Đại hội chi bộ Ban quản lý
Yên Tử lần thứ 5 nhiệm kỳ 2003 – 2005.
4. Lê văn Lanh – Du lịch sinh thái – Hà Nội 11/2002.
5. Lê văn Lanh – Một số giải pháp bảo vệ môi trường trong phát
triển du lịch ở Vườn Quốc gia và Khu bảo tồn thiên nhiên. Tạp
chí bảo vệ môi trường tháng 5- 2002.
6. Địa lý du lịch – Nguyễn Minh Tuệ Hà Nội 2001.
7. Nguyễn đình Hoè, Vũ văn Hiếu, Du lịch bền vững. Nhà xuất bản
Đại học Quốc Gia Hà Nôi – 2001.
8. Nguyễn Trần Trương “Bài 1 – Yên Tử- Di tích, thắng cảnh và
Thiền Phái Trúc Lâm”. Trong Đề cương bài giảng – 2000.
9. Nguyễn Trần Chương – Chùa Yên Tử. Nhà xuất bản văn hoá
Thông tin – Hà nội.
10. Phạm Trung Lương. Du lịch sinh thái, những vần đề lý luận và
thực tiễn phát triển ở Việt Nam. Nhà xuất bản Giáo dục 2002.
11. Trần Nhạn. Kinh doanh du lịch. Nhà xuất bản văn hoá thông tin –
Hà nội 1996.
12. Tỉnh Uỷ Quảng Ninh. Nghị quyết Ban Thường vụ tỉnh uỷ về đổi
mới và phát triển du lịch Quảng Ninh thời kỳ 2001 – 2010
13. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh và Sở du lịch Quảng Ninh.
Quy hoạch phát triển du lịch Quảng Ninh thời kỳ 2001 – 2010.
14. Uỷ Ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh. Quyết định của UBND Tỉnh về
việc phê duyệt quy hoạch phát triển du lịch Tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2001 – 2010.
15. Uỷ Ban nhân dân thị xã Uông bí – Chương trình đổi mới và phát triển du lịch thị xã Uông bí giai đoạn 2001 – 2010.
16. Nguyễn Thi – Yên Tử lịch sử và truyền thuyết – 2003.
17. Phạm Trung Lương.Cơ sở lý luận về phát triển du lịch bền vững.
Viện nghiên cứu phát triển du lịch Hà Nội 12/2002.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DL37-.DOC