Tài liệu Đề tài Dự báo vốn khả dụng của ngân hàng thương mại các nước và thực tế Việt Nam: Chủ đề: Dự báo vốn khả dụng của NHTM các nước và thực tế Việt Nam
Nhóm: 1.Phan Thị Chung - NHK.K12 (nhóm trưởng)
2. Tạ Mai Anh - NHD.K12
3. Phan Thị Cẩm Vân - NHD.K12
4. Lê Thị Ly - NHD.K12
5. Nguyễn Thị Duyên - NHD.K12
6.Hoàng Thị Hồng Bưởi - NHD.K12
MỞ ĐẦU
Dự báo là công tác quan trọng trong rất nhiều ngành, đặc biệt là đối với các cơ quan quản lý vĩ mô trong đó có Ngân hàng trung ương. Dự báo vốn khả dụng của NHTW được thực hiện ở ngay những thời điểm đầu tiên của điều hành chính sách tiền tệ (CSTT). Đó là cơ sở để đưa ra những quyết định có liên quan đến khối lượng, kỳ hạn và tần suất của những hoạt động được trên thực tế để cân bằng thị trường của NHTW. Việc thực hiện dự báo là khác nhau giữa các quốc gia, nó phản ánh sự kết hợp giữa truyền thống với các yếu tố đặc trưng của mô hình hoạt động. Thông thường việc dự báo này có thể được thực hiện theo 2 phương pháp: dự báo trên cơ sở bảng cân đối tiền tệ của NHTW và dự báo trên cơ sở báo cáo của tổ chức tín dụng (TCTD).
...
30 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1353 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Dự báo vốn khả dụng của ngân hàng thương mại các nước và thực tế Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chủ đề: Dự báo vốn khả dụng của NHTM các nước và thực tế Việt Nam
Nhóm: 1.Phan Thị Chung - NHK.K12 (nhóm trưởng)
2. Tạ Mai Anh - NHD.K12
3. Phan Thị Cẩm Vân - NHD.K12
4. Lê Thị Ly - NHD.K12
5. Nguyễn Thị Duyên - NHD.K12
6.Hoàng Thị Hồng Bưởi - NHD.K12
MỞ ĐẦU
Dự báo là công tác quan trọng trong rất nhiều ngành, đặc biệt là đối với các cơ quan quản lý vĩ mô trong đó có Ngân hàng trung ương. Dự báo vốn khả dụng của NHTW được thực hiện ở ngay những thời điểm đầu tiên của điều hành chính sách tiền tệ (CSTT). Đó là cơ sở để đưa ra những quyết định có liên quan đến khối lượng, kỳ hạn và tần suất của những hoạt động được trên thực tế để cân bằng thị trường của NHTW. Việc thực hiện dự báo là khác nhau giữa các quốc gia, nó phản ánh sự kết hợp giữa truyền thống với các yếu tố đặc trưng của mô hình hoạt động. Thông thường việc dự báo này có thể được thực hiện theo 2 phương pháp: dự báo trên cơ sở bảng cân đối tiền tệ của NHTW và dự báo trên cơ sở báo cáo của tổ chức tín dụng (TCTD).
Công tác dự báo vốn khả dụng của ngân hàng nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện nghiệp vụ thị trường mở từ năm 2000, tuy nhiên, quá trình tiến hành dự báo còn gặp nhiều khó khăn dẫn đến hạn chế khi đưa ra kết quả dự báo. Nó thể hiện một phần thông qua kết quả của nhiều phiên đấu thầu nghiệp vụ thị trường mở của NHNN không đạt được kết quả như mong muốn. Vì vậy, để góp phần nhận định đúng hơn về những khó khăn trong công tác dự báo vốn khả dụng của một số quốc gia và bài học với Việt Nam.
Dự báo vốn khả dụng của FED
I. Giới thiệu sơ lược về bộ phận cơ quan dự báo và phương pháp dự báo của ngân hàng trung ương Mỹ
Chính sách tiền tệ của Fed gây ảnh hưởng tức thời tới cung, cầu vốn khả dụng hoặc mức lãi suất vốn liên bang, tạo ra một chuỗi các phản ứng lan truyền tác động của chính sách đó tới toàn bộ nền kinh tế. Fed có thể thay đổi tình hình thị trường thông qua sử dụng ba công cụ: dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở.
Trên thực tế, việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở hàng ngày của Fed được tiến hành tại Fed New York. Để có quyết định thực hiện giao dịch nghiệp vụ thị trường mở hàng ngày (khối lượng, kỳ hạn giao dịch), tại Fed New York đã thiết lập bộ phận dự báo vốn khả dụng. Hàng ngày, Bộ phận dự báo vốn khả dụng cập nhật số liệu và điều chỉnh dự báo cần thiết để phục vụ việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở hàng ngày. Nhìn chung, phương pháp của Fed New York trong việc dự báo các yếu tố tác động đến cung, cầu dự trữ của các ngân hàng cũng thực hiện theo phương pháp chung - theo cách tiếp cận từ bảng cân đối của NHTW.
Để thực hiện hoạt động can thiệp, các chuyên gia của Fed New York và các chuyên gia của ban lãnh đạo tại Washington, DC cần đưa ra được mục tiêu vốn khả dụng phù hợp với tinh thần chỉ đạo. Dựa vào những dự báo chi tiết về nhu cầu dự trữ và mức vay chiết khấu được ước tính trước, họ tạo ra một định hướng đối với phần dự trữ không vay Non-borrowed reseves (NBR) – tổng dự trữ trừ đi các khoản vay mượn từ Fed thông qua cửa sổ chiết khấu, hay còn gọi là mục tiêu cho từng giai đoạn duy trì dự trữ kéo dài 2 tuần – yếu tố này quyết định khoảng thời gian của việc dự báo tại Mỹ là hai tuần, tuy nhiên, việc dự báo được tiến hành hàng ngày. Định hướng trong hai tuần này liên tục được cập nhật hàng ngày khi số liệu ước tính về nhu cầu dự trữ được điều chỉnh lại.
Tuy nhiên, hàng ngày, bộ phận dự báo vốn khả dụng được các nhà đại lý cấp 1 cung cấp thông tin về tình hình thị trường và hàng tháng, các nhà đại lý cấp 1 trao đổi, đánh giá tình hình thị trường với các chuyên gia kinh tế, các khách hàng của mình và cung cấp cho bộ phận dự báo vốn khả dụng. Ngoài ra, các hoạt động liên ngân hàng tại Mỹ đều thể hiện qua sự thay đổi của Fed Funds – tiền gửi của các ngân hàng tại Fed nên Fed có điều kiện theo dõi đánh giá tình hình thị trường khá chính xác.
II. Dự báo cầu vốn khả dụng
Cầu vốn khả dụng = cầu dự trữ bắt buộc + cầu dự trữ vượt mức
1. Dự báo về dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc = tỷ lệ DTBB x số dư tiền gửi huy động
DTBB được dựa trên những tài khoản tiền gửi thanh toán giữ tại các ngân hàng thành viên. Các tổ chức này có thể DTBB dưới dạng tiền mặt hoặc gửi vào các chi nhánh của Fed. Để đảm bảo sự linh động, Fed cho phép chỉ cần giữ một lượng dự trữ bắt buộc trung bình trong khoảng thời gian duy trì 2 tuần kết thúc vào ngày thứ tư. Fed thực hiện quản lý DTBB theo phương pháp trùng hoàn toàn (đây là phương pháp quy định kỳ duy trì đồng thời cũng là kỳ xác định), kì tính toán bắt đầu vào ngày 1 và kì duy trì vào ngày 3 hàng tháng. Vì vậy, lượng tiền DTBB được duy trì tương đối ổn định từ ngày đầu tiên đến ngày cuối cùng trong kì và dựa vào lượng tiền gửi huy động hàng ngày. Các ngân hàng báo cáo về lượng tiền gửi huy động phải tính DTBB. Bộ phận dự báo sẽ có kết quả dự báo số liệu tương đối ổn định và chính xác. Hơn nữa, trước mỗi kỳ duy trì DTBB, ngoài tiền gửi DTBB, các ngân hàng đều phải thông báo dự kiến mức dự trữ để đảm bảo khả năng thanh toán cho NHTW, điều này tạo thuận lợi nhất định cho bộ phận dự báo vốn khả dụng của Fed New York trong việc dự báo mức dự trữ cần thiết của toàn hệ thống.
Theo đó thực tế
- FED da dự báo lượng cầu vốn khả dụng ngày 7/1/2010 là 1.700.500 triệu USD, tăng 167.372 triệu USD so với lượng cầu vốn khả dụng của tháng 10/2008
- Trong đó ngân hàng trung ương Mỹ dự báo được sự thay đổi về dự trữ bắt buộc là 57620 triệu USD và cầu về dự trữ vượt mức thay đổi là 109752 triệu USD so với tháng 10/2008
III. Dự báo cung vốn khả dụng
Cung vốn khả dụng = (NFA + NCG +OiN – Tiền ngoài NHTW) + CDMB
1. Tài sản có ngoại tệ ròng và các khoản khác ròng
Tại bảng cân đối của FED 2 khoản mục này nằm trong mục các dự trữ liên bang tài sản. Trong năm 2010 là năm khôi phục nền kinh tế nên tổng 2 tài khoản này tăng lên theo
Do đó Dự báo cho năm 2010: tổng tài sản có ngoại tệ ròng và khoản mục khác ròng tăng
2. Cho vay chính phủ ròng
Cho vay chính phủ ròng = cho vay chính phủ - tiền gửi chính phủ
Ngân sách của chính phủ là do tổng thống đề xuất với quốc hội Hoa Kỳ mà đề nghị cấp kinh phí cho việc tiếp theo năm tài chính bắt đầu từ 1/10 kết thúc vào 30/9 năm kế tiếp
a) Dự báo cho vay chính phủ: căn cứ vào tình hình thu chi ngân sách ta xác định được
- tổng thu
- tổng chi: chi bắt buộc, chi tùy ý
Cho vay = chi đầu tư + chi trả – các khoản vay – khoản phát hành –
chính phủ thường xuyên nợ mới từ NHTM CK mới CP
ròng
vay mới nước ngoài
b) Dự báo tiền gửi chính phủ tại FED:
Kho bạc Mỹ duy trì một tài khoản tại Fed để đáp ứng nhu cầu thu chi. Kho bạc luôn cố gắng duy trì ổn định số dư tài khoản tại Fed để giảm bớt khó khăn của Fed trong việc quản lý vốn khả dụng. Do có quan hệ chặt chẽ với kho bạc và hệ thống thông tin, số liệu của kho bạc cập nhật hàng ngày nên hàng ngày, Fed có thể trao đổi thông tin với kho bạc và việc dự báo tác động của thu chi ngân sách, tiền gửi chính phủ đến dự trữ của các ngân hàng rất thuận lợi. Ngoài ra, Fed New Y ork có một hệ thống cơ sở dữ liệu rất đầy đủ, làm cơ sở xây dựng mô hình dự báo một số yếu tố như mức dự trữ vượt tiền trong lưu thông.
3. Tiền ngoài ngân hàng trung ương
Nhìn chung xu hướng thanh toán của người tiêu dùng sử dụng tiền mặt đang giảm nhanh hơn, 97% là chuyển dịch theo hướng tín dụng, thẻ ghi nợ, quà tặng, thẻ trả trước đặc biệt là sự phát triển của thẻ ghi nợ
Trong năm 2010 được coi là năm khôi phục nền kinh tế của mỹ nên lượng tiền cung ứng trong lưu thông sẽ tiếp tục tăng. Do vậy, dự báo tiền ngoài ngân hàng trung ương năm 2010 tăng
Cuối cùng: xác định chênh lệch cung cầu vốn khả dụng và đưa ra quyết định
IV. Những chính sách mà Mỹ áp dụng trong năm 2010 nhằm điều chỉnh vốn khả dụng
1. Nghiệp vụ thị trường mở
- Ngày 28/6/2010 trao đổi phiếu giảm giá chứng khoán.
- 3/11/2010 bản tuyên bố về mua chứng khoán kho bạc
FOMC chỉ đạo bàn giao dịch thị trường mở tại ngân hàng dự trữ liên bang newyork để mua thêm 600.000.000.000$ của chứng khoán dài hạn kho bạc vào cuối quý II năm 2010
2. Cho vay
- Ngày 11/1/2010 cục dự trữ liên bang sẽ cung cấp 75 tỷ USD tín dụng 28 ngày qua hạn đấu giá cơ sở của nó
- Ngày 8/2/2010 cục dự trữ liên bang sẽ cung cấp 50 tỷ USD tín dụng 28 ngày qua hạn đấu giá cơ sở của nó.
- Ngày 18/2/2010 những thay đổi để các cơ sở chiết khấu
3. Dự trữ
Bảng 02: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các TCTD ở Mỹ (tháng 12/2010)
Reserve Requirements Yêu cầu dự trữ
Liability Type Loại trách nhiệm
Requirement Yêu cầu
% of liabilities % Của các khoản nợ
Effective dateNgày có hiệu lực
Net transaction accounts 1 Tài khoản giao dịch thuần
$0 to $10.7 million 2 $ 0 đến $ 10.700.000
0 0
12-30-10 30/12/2010
More than $10.7 million to $58.8 million 3 Nhiều hơn $ 10.700.000 đến 58.800.000 $
3 3
12-30-10 30/12/2010
More than $58.8 million Nhiều hơn $ 58.800.000
10 10
12-30-10 30/12/2010
Nonpersonal time deposits Nonpersonal tiền gửi thời gian
0 0
27/12/199012-27-9027/12/1990
Eurocurrency liabilities Eurocurrency nợ
0 0
12-27-90 27/12/2010
Nguồn:
Các ngân hàng thực hiện dự trữ bắt buộc theo quy định, trong đó có những khoản được miễn dự trữ bắt buộc với mục đích cụ thể của NHTW
V. Hiệu quả các can thiệp của Mỹ đến nền kinh tế
Nghiệp vụ thị trường mở
- Cùng với bản tuyên bố về mua chứng khoán kho bạc, FED đã công bố một kế hoạch nới lỏng định lượng mới, theo đó bơm 600 tỷ USD để mua trái phiếu kho bạc. Mục đích của FEDlà tăng cung vốn khả dụng kích thích kinh tế phục hồi.
- Mặc dù vậy tốc độ tăng trưởng của mỹ mới chỉ 2% trong quý 3 so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ thất nghiệp bị mắc kẹt ở 9,6%. FED chịu áp lực phải hành động đê kích thích các hoạt động trong nền kinh tế diễn ra mạnh hơn
- Chính sách nới lỏng định lượng của FED có thể tác động bất lợi tới tính thanh khoản của thị trường trái phiếu kho bạc Mỹ
Cho vay
Ngày 18/2 FED tiến hành biện pháp then chốt nhằm bình thường hóa chính sách tiền tệ bằng cách nâng lãi suất tái chiết khấu đối với các khoản vay khẩn cấp thêm 0,25%. Việc nới lỏng lãi suất chiết khấu cùng với việc nâng lãi suất tái chiết khấu nhằm tăng cung ứng vốn ra thị trường. Mà mục đích cuối cùng cũng là thúc đẩy nền kinh tế hậu khủng hoảng
Dự trữ
FED quyết định tăng tỷ lệ quỹ liên bang trước khi kết thúc năm
Trong lợi ích của mỹ duy trì một tỷ lệ thấp sẽ giữ cho đồng tiền của mình cạnh tranh hơn về mặt xuất khẩu và tăng thặng dư thương mại do đó làm tăng việc làm
VI. Liên hệ Việt Nam
* Trong bối cảnh áp lực lạm phát. Những tháng cuối năm 2010 thị trường tiền tệ, thị trường vàng, ngoại tệ diễn biến phức tạp, cung cầu ngoại hối bất cân đối gây sức ép lên tỷ giá, lãi suât ngân hàng tăng cao
* Các kinh nghiệm rút ra
Ngân hàng nhà nước nên chủ động hơn trong điều hành chính sách tiền tệ
Phát triển thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam tạo ra môi trường thuận lợi để ngân hàng nhà nước quản lý vốn khả dụng hiệu quả
Lãi suất: NHNN Việt Nam không thể giảm sâu mức lãi suất cơ bản ngay trong tình hình suy thoái kinh tế
Công cụ chính sách tiền tệ: NHNN tiếp tục đẩy mạnh hình thức cho vay thấu chi trên hệ thống thanh toán liên ngân hàng, đa dạng hóa các giấy tờ có giá dùng để thế chấp, chiết khấu
Kết luận
Khối lượng vốn khả dụng là nguồn vốn quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng thương mại. Tình trạng dư thừa hay thiếu hụt vốn khả dụng đều ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thanh toán, uy tín của các ngân hàng
Thị trường LNH càng phát triển, cơ chế điều hành lãi suất càng tự do thì OMO càng phát huy hết tính linh hoạt trong điều tiết vốn khả dụng. Các công cụ, chính sách còn lại như chính sách cho vay, DTBB, tiền cơ sở càng ít được sử dụng hoặc để hỗ trợ cho OMO.
Kinh nghiệm của NHTW Malaysia
Malaysia sử dụng dự báo vốn khả dụng bằng cách kết hợp phương pháp dựa trên cơ sở báo cáo TCTS và kết hợp hai phương pháp.
NHTW Malaysia giữ tiền gửi của của Chính phủ . Đây là một công cụ hiệu quả để quản lý tiền tệ, không chỉ kiểm soát nguồn vốn khả dụng mà còn đảm bảo rằng hoạt động của chính phủ đồng nhất với hoạt động của NHTW. Việc NHTW bắt đầu giữ trở lại tiền gửi chính phủ năm 1990 là một trong những biện pháp chính đưọc thực hiện trong thời kỳ 1990-1996 để đảm bảo rằng chính phủ không gửi tiền tại hệ thống ngân hàng một cách không cần thiết làm ảnh hưởng đến việc thắt chặt tiền tệ của NHTW trong giai đoạn đó. Theo quy định này, NHTW Malaysia sẽ quản lý tiền của chính phủ, với mức lãi suất phù hợp và hạn chế tình trạng dư thừa vốn khả dụng. Khi vốn khả dụng thiếu, NHTW Malaysia có thể lại bơm những khoản tiền gửi này ra hệ thống ngân hàng. Một thoả thuận tương tự cũng đã được lập với Quỹ hỗ trợ việc làm kể từ tháng 2/1992. Phù hợp với định hướng thị trường, lãi suất trả cho hai tài khoản này là lãi suất thị trường &rdquo
Năm 2002, Malaysia đã hình thành một trung tâm kiểm soát tính thanh khoản nhằm cho phép các ngân hàng hồi giáo có thể xử lý nhu cầu thanh khoản của mình. Chỉ có những ngân hàng hồi giáo, ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư mới được phép tham gia vào thị trường tiền tệ liên ngân hàng hồi giáo. Sự ra đời của thị trường tiền tệ liên ngân hàng hồi giáo đã đóng góp vai trò quan trọng trong thị trường tiền tệ Malaysia. Thị trường tiền tệ liên ngân hàng hồi giáo được xem là như một trung gian về vốn ngắn hạn, cung cấp nguồn vốn đầu tư ngắn hạn dựa trên nguyên tắc Shariah. Thông qua thị trường tiền tệ liên ngân hàng hồi giáo và các ngân hàng tham gia trong hệ thống Islamic Banking Scheme – hệ thống phân phối các ngân hàng hồi giáo, có thể đáp ứng các yêu cầu huy động vốn một các huy động vốn hiệu quả.NHTW Malaysia đã ban hành hướng dẫn chỉ đạo cho thị trường liên ngân hàng hồi giáo vào ngày 18/12/1993 để giúp cho quá trình thực hiện của IIMM được dễ dàng và hiệu quả.
Hiện nay, thị trường tiền tệ Malaysia vẫn tồn tại hai thị trường liên ngân hàng nhưng trong đó hoạt động của thị trường liên ngân hàng hồi giáo chiếm phần lớn giao dịch trong các hoạt động thị trường tiện tệ liên ngân hàng Malaysia. Hoạt động của thị trường liên ngân hàng quy ước vẫn được duy trì để đáp ứng nhu cầu của các ngân hàng không thuộc hệ thống ngân hàng hồi giáo. Hai thị trường này hoạt động thống nhất dưới sự kiểm soát của NHTW Malaysia.
NHTW Malaysia xây dựng Nhóm làm việc về CSTT gồm các đại diện các vụ như vụ CSTT và tài chính,Vụ pháp chế,Vụ kinh tế, Vụ đầu tư và Thị trường tài chính,Vụ quản lý ngoại hối. Trên cơ sở các ý kiến của Nhóm làm việc theo định kỳ 2 tháng/1 lần Ủy ban CSTT họp bàn để ra các quyết định về điều hành CSTT, trong đó có việc điều hành các công cụ CSTT như DTBB, Nghiệp vụ thị trường mở, can thiệp trực tiếp của BNM dưới hình thức vay và cho vay trên thị trường liên ngân hàng…Bộ phận dự báo vốn khả dụng trực thuộc Vụ đầu tư và Thị trường tài chính . Hàng ngày công việc dự báo của bộ phận này đơn giản chỉ tổng hợp kết quả báo cáo của TCTD và đưa ra dự báo diễn ra sự biến động trạng thái vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng trên cơ sở các dự báo từ các TCTD. Số liệu báo cáo được truyền qua hệ thống nối mạng trực tuyến giữa BNM với các TCTD.
Việc dự báo vốn khả dụng của các ngân hàng chủ yếu dựa vào cơ sở luồng tiền hàng ngày dựa trên bảng cân đối của các ngân hàng gồm việc theo dõi, phân tích thời hạn thanh toán của từng danh mục tài sản có và tài sản nợ. Do yếu tố tôn giáo có ảnh hưởng tới những yếu tố điều hàng nên nagy cả thời gian giao dịch và làm việc của không chỉ NHTW mà cả các hoạt động khác của chính phủ thường bắt đầu muộn hơn so với các nước khác do buổi sáng là thời gian cầu nguyện của các tín đồ.
+)Thực tế 4/3/2010 trước tình hình dự báo vốn khả dụng và tình hình kinh tế, tại phiên họp của Ủy ban Chính sách Tiền tệ, Ngân hàng Trung ương Malaysia (BNM) đã quyết định tăng lãi suất chính sách qua đêm từ 2% lên mức 2,25%.
Đây là lần đầu tiên BNM tăng lãi suất này trong vòng 4 năm qua. Điều này thể hiện sự thay đổi quan điểm từ chính sách tiền tệ nới lỏng sang chính sách tiền tệ thắt chặt hơn của ngân hàng trung ương nước này trong bối cảnh kinh tế Malaysia đang phục hồi.
Malaysia là nước thứ 2 ở Đông Nam Á tăng lãi suất sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Trước đó, vào tháng 12/2009, Việt Nam đã tăng lãi suất cơ bản.
Vào tháng 11/2008, Malaysia đã phải giảm lãi suất do những tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Sau đó, BNM đã 2 lần giảm lãi suất vào các tháng 1 và 2/2009, với mức cắt giảm tổng cộng lên tới 1,5 %. BNM đã giữ nguyên mức lãi suất thấp 2% kể từ tháng 2/2009.
Malaysia đã tăng lãi suất trong bối cảnh nhu cầu nội địa ở nước này đã tăng nhờ các biện pháp kích thích kinh tế của Chính phủ và kim ngạch xuất khẩu hồi phục.
+)Theo Báo cáo năm 2011 của Negara, chính sách này sẽ tập trung vào đảm bảo tính bền vững của tăng trưởng kinh tế trong một môi trường ổn định giá cả khi nền kinh tế phải đối mặt với tăng nguy cơ sụt giảm tăng trưởng trong bối cảnh áp lực lạm phát nhẹ nhàng hơn.
Theo Negara, tính thanh khoản trong hệ thống tiền tệ quốc tế đã tăng lên đáng kể trong những năm gần đây tiếp theo sự nới lỏng chính sách tiền tệ ở quy mô chưa từng có của các ngân hàng trung ương ở các nền kinh tế tiên tiến lớn. Thay đổi lớn của tính thanh khoản này đã dẫn đến dòng vốn ra vào lớn đáng kể của các khoản danh mục đầu tư đến và từ các nền kinh tế mới nổi, trong đó có Malaysia. Tuy nhiên, Malaysia có thế mạnh để giải quyết những thách thức này, theo các biện pháp như phát triển hệ thống tài chính đa dạng hơn, linh hoạt điều chỉnh tỷ giá hối đoái khi điều kiện thay đổi, dự trữ ngoại tệ đủ lớn để làm giảm biến động thị trường, cải thiện khả năng quản lý thanh khoản trong nước và hợp tác chặt chẽ với các ngân hàng trung ương trong khu vực cũng như tăng cường khả năng quản trị rủi ro bắt nguồn từ dòng vốn của ngân hàng. Ngày 21/3, Negara đã hạ dự báo tăng trưởng kinh tế nước này năm 2012 từ 5-6% xuống 4-5% trong bối cảnh kinh tế toàn cầu yếu kém. Năm 2011, kinh tế Malaysia tăng trưởng 5,1%, chậm lại đáng kể so với mức tăng 7,2% năm 2010.`
Dự báo vốn khả dụng của Việt Nam
Cơ sở pháp lý
Ngày 24/1/2000, NHNN ban hành quyết định 37/2000/QĐ-NHNN1 về quy chế quản lý VKD.
Theo quyết dịnh này quản lý VKD cảu NHTM tại NHNN là sự kiểm soát của NHNN đối với sự thay đổi tiền gửi của các NHTM tại NHNN và thông qua việc sử dụng các chính sách tiền tệ, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở để tác động đến khả năng thanh toán của NHTM nhằm đạt được mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia.
Sau đây là một số nội dung trong dự báo vốn khả dụng của NHNN Việt Nam:
Cơ quan dự báo vốn khả dụng
Theo điều 9 quyết định 37, cơ quan chịu trách nhiêm dự báo vốn khả dụng là vụ chính sách tiền tệ thuộc NHNN. Vụ chính sách tiền tệ phải có trách nhiệm:
Tập hợp số liệu và thông tin về thu chi ngân sách từ Bộ Tài chính, các số liệu và thông tin từ các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước và các nguồn thông tin khác.
Dự báo vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước .
Xác định mức vốn khả dụng cần duy trì của các tổ chức tín dụng, đưa ra kiến nghị cho việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở theo kỳ dự báo.
Các nghiệp vụ quản lý vốn khả dụng
Theo điều 3 quyết định 37 năm 2000:
Tổ chức thu thập lưu giữ các thông tin liên quan đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ.
Phân tích và dự báo sự thay đổi vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng trong từng thời kỳ.
Xác định mức vốn khả dụng cần duy trì của các tổ chức tín dụng để đảm bảo thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ quốc gia trong từng thời kỳ và đưa ra các kiến nghị cho việc quyết định mua, bán giấy tờ có giá ngắn hạn của ngân hàng Nhà nước trên thị trường mở.
Dự đoán các diễn biến tiền tệ trong thời gian tới và tìm nguyên nhân để Ngân hàng Nhà nước có các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ cho phù hợp với mục tiêu của từng thời kỳ.
Như vậy, công tác dự báo vốn khả dụng là một phần trong công tác quản lý vốn khả dụng. Kết quả dự báo sẽ giúp NHNN có những biện pháp điều hành chính sách tiền tệ phù hợp.
Kỳ dự báo
Theo điều 1 nghị định 38 năm 2000:
- Kỳ dự báo vốn khả dụng là 3 kỳ trong một tháng. Kỳ thứ nhất từ ngày 01 đến ngày 10 của tháng. Kỳ thứ hai từ ngày 11 đến ngày 20 của tháng. Kỳ thứ ba từ ngày 21 đến ngày cuối tháng.
- Trường hợp các ngày 01, 11, 21 trùng vào ngày nghỉ làm việc theo quy định thì kỳ dự báo bắt đầu từ ngày làm việc sau đó.
- Trường hợp các ngày 10, 20 và ngày cuối tháng trùng vào ngày nghỉ làm việc theo quy định thì kỳ dự báo kết thúc vào ngày làm việc trước đó
Để có cơ sở đề xuất khối lượng can thiệp, bộ phận tham mưu dự kiến khối lượng vốn khả dụng dư thừa hay thiếu hụt là cơ sở quan trọng để NHNN quyết định thu tiền về hay bơm tiền ra hàng ngày. Việc dự báo và điều tiết vốn khả dụng hàng ngày tạo điều kiện cho NHNN can thiệp thị trường một cách kịp thời và chính xác. Công cụ điều tiết vốn khả dụng của NHNN hiện nay cũng là công cụ chủ yếu điều hành chính sách tiền tệ bao gồm nghiệp vụ thị trường mở, cho vay cầm cố, thực hiện hoán đổi ngoại tệ,…
Phương pháp dự báo vốn khả dụng
Phương pháp dự báo vốn khả dụng
NHNN Việt Nam đã thực hiện dự báo vốn khả dụng định kì hàng ngày theo phương pháp khuyến nghị của Quỹ tiền tệ Quốc tế là phương pháp tiếp cận từ bảng cân đối rút gọn của NHTW. Việc dự báo định kì hằng ngày gắn với việc sự dụng linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở nên việc điều tiết vốn khả dụng kịp thời, phù hợp với diễn biến thực tế của thị trường và vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng. Cơ chế quy định tại chương III quy chế 37/2000/QĐ-NHNN1 và NĐ 82/2007/NĐ-CP giúp NHNN xây dựng cơ chế thu thập thông tin giữa các đơn vị trong NHNN và giữa NHNN với các bộ ngành để thu thập hầu hết các thông tin về các yếu tố tác động đến vốn khả dụng, phục vụ cho dự báo. Quy định cụ thể như sau:
Thông tin về mua bán ngoại tệ (tác động đến yếu tố tài sản có ngoại tế ròng) do sở giao dịch NHNN cung cấp
Kế hoạch giải ngân vốn cho NHTM (tác động đến cho vay NHTM)
Thu chi của NHNN (tác động đến tài sản có khác)
Tình hình thực hiện nghiệp cụ phát hành phục vụ cho dự báo tiền mặt ngoài lưu thông.
Tình hình vốn khả dụng thực tế của NHTM tác động đến điều chỉnh dự báo vốn khả dụng
Phương pháp dự báo vốn khả dụng theo cách tiếp cận từ bảng cân đối tiền tệ rút gọn của NHTW phù hợp với việc điều tiết theo khối lượng chính sách tiền tệ của NHNN và giúp NHNN chủ động vì nguồn thông tin xuất phát từ chính các hoạt động của NHNN.
Mặt khác việc dự báo vốn khả dụng đã dự báo được mức thay đổi của tiền cơ sở hay lượng tiền cần cung ứng từ lưu thông. Vì vốn khả dụng là thành phần quan trọng của tiền cơ sở thuộc tài sản nợ trên bảng cân đối rút gọn của NHNN.
Ngoài căn cứ vào phương pháp dự báo vốn khả dụng của bảng cân đồi tiền tệ NHNN, bộ phận dự báo cón căn cứ vào nguồn thông tin ngoài thị trường và từ các NHTM để điều chỉnh dự báo vốn khả dụng trong ngắn hạn.
Chính sách điều tiết vốn khả dụng
Điều tiết vốn khả dụng trong thời gian qua đã bảo đảm khả năng thanh khoản cho toàn hệ thống ngân hàng và an toàn cho nền kinh tế. Nhiệm vụ đảm bảo an toàn thanh toán cho hệ thống được thể hiện qua việc hỗ trợ vốn cho hệ thống ngân hàng trong các thời điểm nhu cầu vốn thanh toán của nền kinh tế tăng cao vào dịp lễ tết cuối năm. Ngoài ra việc theo dõi chặt chẽ và hỗ trợ kịp thời thanh khoản của NHTM giúp cho không có NHTM nào rơi vào tình trạng khủng hoảng thanh khoản nghiêm trọng kéo dài mặc cho nền kinh tế vừa qua có nhiều biến động, hoạt động ngân hàng càng phức tạp, thị trường tài chính tiền tệ hoạt động sôi động.
Công cụ điều tiết
Nghiệp vụ thị trường mở
Giai đoạn từ 2000- 2007
Trước năm 2000, NHNN cung ứng vốn khả dụng cho hệ thống ngân hàng bằng việc cho vay trược tiếp cụ thể theo chỉ định của Chính phủ để các NHTM cung ứng tín dụng cho các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, bão lụt, …hoặc trong trường hợp NHTM đang có khó khăn thanh khoản. Việc can thiệp vón khả dụng của NHNN như vậy là một chiều chưa có công cụ hút tiền chủ động, hợp với nền kinh tế tập trung, bao cấp. Đến nay, các công cụ điều tiết VKD khá đa dạng, trong đó có NHNN đã có công cụ chủ động hút tiền là nghiệp vụ thị trường mở; việc cung ứng VKD trên cơ sở điều tiết thị trường như nhu cầu của NHTM, lãi suất của nghiệp vụ, nguồn cung của NHNN. Hiện nay việc áp dụng công cụ nghiệp vụ thị trường mở có nhiều đổi mới, doanh số giao dịch nghiệp vụ thị trường mở ngày càng tăng, số lượng thành viên giao dịch ngày càng lớn, số phiên giao dịch ngày càng nhiều và so với các giao dịch VKD khác ngày càng chiếm tỷ trọng lớn.
Bắt đầu từ ngày 12/7/2000, NHNN tiến hành đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở (OMO) vào hoạt động. Ngay từ khi triển khai, NHNN đã xác định OMO sẽ là công cụ chủ yếu trong điều hành CSTT, điều này thể hiện qua doanh số mua bán GTCG trên thị trường mở tăng nhanh qua các năm:
Dưới đây là bảng tổng kết doanh số trúng thầu OMO qua các năm trong giai đoạn 2000- 2007
Đơn vị: tỷ đổng
Năm thực hiện
Số phiên thực hiện
Khối lượng trúng thầu theo các phương thức giao dịch
Mua kì hạn
Mua hẳn
Bán kì hạn
Bán hẳn
Tổng cộng
2000
17
873,50
480,00
550,00
1903,50
2001
48
3253,81
60,00
50,00
570,00
3933,81
2002
85
7245,53
1900,00
9145,53
2003
107
9844,15
11340,00
21184,15
2004
123
60985,91
950,00
61935,91
2005
159
100679,15
700,00
1100,00
102479,15
2006
155
86302
26332
112634
2007
165
88257
35624
123521
Tổng cộng
859
357441,05
540
750
78006
436737,05
Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam
Việc quyết định mua bán GTCG trên thị trường mở của NHNN phụ thuộc vào công tác dự báo vốn khả dụng của các TCTD. Bộ phận dự báo VKD đã cố gắng cải tiến phương pháp dự báo, khắc phục khó khăn trong thu thập thông tin, thường xuyên trao đổi với các TCTD qua đó làm giảm sai số dự báo, đáp ứng yêu cầu ngày càng phát triển của công cụ này. Bằng việc đưa hệ thống thông tin báo cáo mới của NHNN theo quyết định số 477/2004/QĐ-NHNN, NHNN đã có bước đầu khai thác một số thông tin về VKD qua mạng. Nhờ đó, thông tin về VKD của các TCTD được phản ánh kịp thời và toàn diện hơn.
Giai đoạn 2008- 2009
Năm 2008, nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục được điều hành linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với các công cụ CSTT khác để diều tiết vốn khả dụng cho các TCTD ở mức hợp lý, góp phần ổn định thị trường tiền tệ. Các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện hàng ngày, chủ yếu được được hiện theo phương thức đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất nhằm ổn định thị trường.
Trong 7 tháng đầu năm 2008, NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN kỳ hạn 182 và 364 ngày; lãi suất phổ biến đối với kỳ hạn 182 là 7,5%/năm, kỳ hạn 364 là 7,75%/năm. Đồng thời, để hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các TCTD và khắc phục tình trạng thị trường tiền tệ chưa thực sự thông suốt, NHNN đã thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn (7, 14, 21, 28 ngày), khối lượng chào mua hàng ngày được xác định trên cơ sở nhu cầu vốn thanh toán và diễn biến thị trường tiền tệ.
Từ tháng 8/2008, trước tín hiệu khả quan về kiềm chế lạm phát, NHNN đã từng bước nới lỏng CSTT để tuc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động hạn chế tác động của cuộc khủng hoảng tài chính và ngăn chặn nguy cơ suy giảm kinh tế. Để ổn định tâm lý thị trường và hỗ trợ các NHTM thật sự khó khăn về vốn, NHNN tiếp tục thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá kỳ hạn 7-14 ngày với khối lượng và lãi suất hợp lý, phù hợp với việc điều chỉnh lãi suất cơ bản và các loại lãi suất do NHNN công bố. Trong dịp giáp Tết, nghiệp vụ thị trường mở trở thành kênh hỗ trợ chủ yếu cho các TCTD, góp phần duy trì ổn định tiền tệ.
Năm 2009, các giao dịch nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện hàng ngày, chủ yếu là các giao dịch mua giấy tờ có giá với kỳ hạn ngắn (7, 14 ngày); phương thức đấu thầu khối lượng, công bố lãi suất và khối lượng nhằm ổn định thị trường; lãi suấ được điều chỉnh theo mục tiêu điều hành và phát tín hiệu điều hành của NHNN; khối lượng chào mua phù hợp với mục tiêu điều tiết linh hoạt vốn khả dụng, hỗ trợ thanh khoản.
Nửa đầu năm 2009, NHNN thực hiện các phiên chào mua kỳ hạn 14 ngày, lãi suất giảm từ 9%/ năm xuống 7%/năm để cung ứng vốn ngắn hạn cho nền kinh tế, tạo điều kiện cho các TCTD đáp ứng nhu cầu vốn cho các chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, chương trình kích thích tăng trưởng kinh tế đang ở giai đoạn đầu, nhu cầu vốn của các TCTD vẫn còn đang dư thừa nên nhu cầu tham gia các phiên chào mua nghiệp vui thị trường mở không cao với doanh số trúng thầu chỉ đạt 74% so với lượng tiền chào mua của NHNN. Khối lượng trúng thầu bình quân mỗi phiên đạt khoảng 1000 tỷ đồng/ phiên.
Nửa cuối năm 2009, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của các TCTD có xu hướng tăng cao theo các chương trình kích cầu của Chính phủ, NHNN đã tăng khối lượng chào mua qua nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng trúng thầu bình quân các phiên chào mua tăng mạnh, đạt 95% khối lượng chào mua của NHNN và đạt khoảng 6000 tỷ đồng/ phiên, gấp 6 lần so với mức 6 tháng đầu năm. Đặc biệt trong nửa đầu tháng 12, NHNN đã chào mua qua kênh nghiệp vụ thị trường mở với khối lượng bình quân xấp xỉ 15000 tỷ đồng/ phiên để hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD do nhu cầu thanh toán tăng cao trong dịp Tết dương lịch. Kỳ hạn chào mua được thực hiện linh hoạt 7 ngày và 14 ngày với lãi suất chào mua tương ứng là 7% và 7-8%/ năm. Đồng thời, để chủ động kiểm soát lạm phát và điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các TCTD trong hệ thống, NHNN với định kỳ 3 phiên/ tuần, kỳ hạn 3 tháng và 6 tháng; phương thức đấu thầu lãi suất, xét thầu thống nhất, nhưng trong số 68 phiên đấu thầu bán tín phiếu NHNN chỉ có 2 phiên bán trúng thầu với doanh số đạt 102 tỷ đồng.
Lượng cung ứng tiền qua nghiệp vụ thị trường mở 2008-2011
Trong giai đoạn khủng hoảng 2008- 2009, nghiệp vụ thị trường mở đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn thanh toán cho hệ thống các TCTD; đòng thời, lãi suất giao dịch trên thị trường liên ngân hàng có xu hướng xoay quanh lãi suất chào mua thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Giai đoạn từ 2010 đến nay
Theo thông tin từ NHNN cho biết, trong 6 tháng đầu năm 2010, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện tăng lượng tiền cung ứng thông qua việc điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, chủ yếu là chào mua giấy tờ có giá với kỳ hạn 7 ngày và 28 ngày; giảm lãi suất kỳ hạn 7 ngày từ 7,8%/năm xuống 7,5% - 7%/năm
Tháng 7/ 2010, NHNN vừa công bố 9 nhiệm vụ từ nay đến hết năm 2010, trong đó sẽ tăng thêm khối lượng vốn giao dịch qua nghiệp vụ thị trường mở với kỳ hạn và lãi suất hợp lý
Dưới đây là bảng: Lượng tiền cung ứng ròng qua nghiệp vụ thị trường mở
Cung ứng
Hấp thụ
Cung ứng ròng
Cung ứng
Hấp thụ
Cung ứng ròng
327.868
279.340
48.528
1.285.146
1.202.215
82.931,9
413.952
348.306
65.646
1.014.916
1.084.791,9
-69.875,9
446.510
365.326
81.184
920.385
821.439
98.946
2.108.71
1.814.411
294.304
2.300.0 62
2.287.006
13.056
Lượng tiền NHNN bơm ra trên thị trường mở có xu hướng giảm dần trong 6 tháng đầu năm 2011. Đồng thời lãi suất trên thị trường mở cũng được điều chỉnh tăng, cụ thể đến 4/5/2011, lãi suất trên thị trường mở là 15%, tăng 2% sau hai lần điều chỉnh trong tháng 5 và tăng 8% kể từ tháng 11/2010.
Tháng 7/2011, Lãi suất thị trường mở (OMO) giảm về mức 14%/năm sau 47 ngày duy trì ở mức 15%/năm. Đây là lần đầu tiên kể từ tháng 11.2010 lãi suất OMO được điều chỉnh giảm. động thái này được cho là tín hiệu chính sách ngoại tệ sẽ nới lỏng trong thời gian tới
Trong những tháng tiếp theo năm 2011, dòng vốn trên thị trường mở có những diễn biến mạnh mẽ, dòng vốn được bởm mạnh trên thị trường mở như một dấu hiệu cho quá trình giảm lãi suất. Như vậy, có thể nói, trong suốt giai đoạn này, các công cụ chính sách tiền tệ, trong đó có nghiệp vụ thị trường mở được xử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn, đóng góp mạnh mẽ vào việc kiềm chế tỉ lệ lạm phát và ổn định tỉ giá trên thị trường tiền tệ
Nghiệp vụ thị trường mở được kết hợp chặt chẽ và đồng bộ với các công cụ khác nhằm phát tín hiệu điều hành chính sách tiền tệ và thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ đã thể hiện được vai trò định hường chính sách. Hiện nay, hoạt động nghiệp vụ thị trường mở trở thành kênh thông tin hai chiều giữa NHNN và NHTM.
Công cụ tái cấp vốn
Giai đoạn từ 2000- 2007
Từ đầu năm đến cuối tháng 7/2000, nhằm khuyến khích mở rộng tín dụng của các tổ chức tín dụng, NHNN đã 2 lần giảm lãi suất tái cấp vốn từ 0,5% tháng xuống 0,45% tháng và sau đó giảm xuống 0,4%/tháng. Đồng thời ngân hàng nhà nước cũng giảm lãi suất tái chiết khấu từ 0,45% xuống 0,4%/tháng vào tháng 3/2000 và xuống 0,35%/tháng vào tháng 7/2000.
Khi NHNN đưa hình thức cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng vào áp dụng thì lãi suất cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán được thống nhất với lãi suất cho vay qua đêm. Mức lãi suất này là 0,03%/ngày từ năm 2002 đến nay. Như vậy, mặc dù là 2 hình thức TCV nhưng lãi suất áp dụng đối với 2 hình thức này lại không phù hợp với cơ chế điều hành lãi suất thời đó. Lãi suất cho vay qua đêm cao hơn lãi suất cầm cố GTCG. Đây là một bất cập hiện nay trong cơ chế điều hành lãi suất của NHNN.
Từ năm 2003 đến tháng 10/2005, chênh lệch giữa 2 loại lãi suất này được duy trì là 2%/năm. Cuối năm 2005, NHNN đã tăng các lãi suất lên thêm 0,5%/năm. Điều này nhằm thực hiện cơ chế điều hành lãi suất theo hành lang, theo đó lãi suất trần là lãi suất cho vay cầm cố GTCG và lãi suất sàn là lãi suất chiết khấu GTCG. Lãi suất chiết khấu hiện nay đang là lãi suất vay vốn thấp nhất trên thị trường tiền tệ.
Như vậy, có thể nói công cụ tái cấp vốn chưa thực sự là công cụ hiệu quả trong điều hành chính sách tiền tệ: cung ứng nguồn vốn ngắn hạn và bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán của NHTM. Điều này là do nghiệp vụ này diễn ra không thường xuyên với số lượng không nhiều, chủ yếu tập trung ở các NHTM quốc doanh và chưa tác động đến các điều kiện tín dụng trên thị trường.
Giai đoạn 2008- 2009
Trong những tháng đầu năm 2008, các TCTD có khó khăn tạm thời về vốn khả dụng, NHNN nhất là những NHTM có quy mô nhỏ. Việc NHNN hỗ trợ vốn ngắn hạn cho các NHTM đã có tác động tích cực trong việc ổn định thị trường tiền tệ. Từ quý IV năm 2008, khi tình hình thị trường tiền tệ từng bước đi vào ổn định, nguồn vốn của các TCTD đã được đảm bảo nên nhu cầu vay tái cấp vốn của NHTM đã giảm .
Năm 2009, NHNN thực hiện tái cấp vốn với kỳ hạn 1 tháng và 3 tháng chủ yếu để dung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Lãi suất cho vay tái cấp vốn từ 7-8%/ năm. Các TCTD tham gia vay tái cấp vốn tập trung chủ yếu vào cuối năm 2009 nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu rút tiền gửi cảu các tổ chức kinh tế và dân cư để chi tiêu trong dịp Tết dương lịch.
Giai đoạn từ 2010 đến nay
Nhằm thực hiện mục tiêu mở rộng tín dụng ở mức hợp lý, giảm dần mặt bằng lãi suất, đảm bảo khả năng thanh khoản cho nền kinh tế và cải thiện nguồn cung ngoại tệ, hạn chế nhập siêu, Ngân hàng Nhà nước đã triển khai đồng bộ các biện pháp, trong đó yêu cầu các NHTM giữ ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn ở mức 8%/năm, lãi suất tái chiết khấu ở mức 6%/năm
Do đó, năm 2010 được xem là năm có mà lãi suất tái cấp vốn ổn định nhất trong vòng 10 năm từ 2000-2010 với mức lãi suất là 8% duy trì trong suốt 11 tháng đầu năm, khối lượng cho vay tái cấp vốn cũng tăng lên. Tuy nhiên, trước tình hình lạm phát gia tăng cuối năm, ngày 05/11/2010, NHNN quy định lãi suất tái cấp vốn tăng 1% lên mức 9%/năm
Sang đến năm 2011, nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát, NHTW đã liên tục có những điều chỉnh lãi suất tái cấp vốn cho các NHTM. Cụ thể
Từ ngày 17/2/2011, các ngân hàng thương mại phải vay vốn của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với mức cao hơn khi cơ quan quản lý này vừa điều chỉnh tăng lãi suất tái cấp vốn và lãi suất qua đêm từ mức 9% lên 11%.
Theo các chuyên gia, điều này sẽ làm tăng chi phí vốn của các ngân hàng và có thể sẽ làm lãi suất cho vay của các ngân hàng tăng cao hơn, nhưng điều này nằm trong mục tiêu kiềm chế lạm phát của NHNN
Chỉ trong 2 tháng 2,3, NHNN lại đã một loạt lãi suất chủ chốt,. Trong đó, có 2 đợt tăng lãi suất tái cấp vốn, từ 12% lên 13% rồi 14%. Đây là lần thứ 4 trong năm NHNN nâng lãi suất tái cấp vốn (từ 9% vào tháng 11/2010 lên 14% vào tháng 4/2011). Việc nâng liên tục các lãi suất chủ chốt càng thể hiện quyết tâm của NHNN trong việc siết chặt tiền tệ, kiềm chế lạm phát
Như vậy, trong giai đoạn này, việc cho vay TCTD dưới hình thức tái cấp vốn bị chi phối mạnh mẽ của chính sách tiền tệ thắt chặt
Hạn chế của các chính sách
Lãi suất liên ngân hàng biến động lớn tại một số thời điểm do VKD của một số ngân hàng giảm mạnh. Việc thiếu hụt VKD đã từng xuất hiện vào đầu năm 2008, khi NHNN thực hiện đồng loạt các biện pháp mạnh để thắt chặt tiền tệ. Tại thời điểm này, mặc dù NHNN đã thực hiện các phiên chào mua giấy tờ có giá nhưng khối lượng can thiệp chưa cân đối và phù hợp với yêu cầu vốn thanh khoản của hệ thống ngân hàng, nên đẩy lãi suất thị trường lên cao. Sự hạn chế này do nhiều nguyên nhân:
Trong khuôn mẫu điều hành chính sách tiền tệ hiện nay, NHNN đang lúng túng với khuôn khổ điều tiết khối lượng hay điều tiết lãi suất làm cho việc can thiệp VKD nhiều thời điểm chưa đủ mạnh để ổn định thị trường và lãi suất. Cơ chế điều tiết VKD hiện thời là điều tiết theo khối lượng với mục tiêu hoạt động là tiền cung ứng bổ sung cho lưu thông, mục tiêu trung gian là tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán. Theo đó, khối lượng VKD cần điểu tiết phải trong phạm vi chỉ tiêu tiền cung ứng được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, mục tiêu quản lý VKD hướng tới trực tiếp là tăng trưởng tín dụng và tổng phương tiện thanh toán. Tuy nhiên, thực tế, ngoài việc hướng vào các mục tiêu trung gian là khối lượng (tăng trưởng tín dụng, tổng phương tiện thanh toán), điều tiết VKD còn nhằm hướng vào mục tiêu lãi suất thị trường ( giảm, ổn định hoặc tăng và các loại lãi suất huy động , cho vay NHTM. Vì vậy, việc giới hạn về lượng can thiệp sẽ làm hạn chế khả năng tác động của công cụ này, khối lượng vốn khả dụng can thiệp vào thị trường tại nhiều thời điểm không đủ mạnh để hạ nhiệt thị trường
Chưa có sự rõ ràng và cụ thể khi đặt ra các mục tiêu trọng tâm trong quản lí vốn khả dụng, do vậy, mức dự trữ bắt buộc qua các thời kỳ không ổn định do không phải là mục tiêu hướng tới trong việc điều tiết vốn khả dụng
Cũng như dự trữ bắt buộc, lãi suất liên ngân hàng không phải là mục tiêu hướng tới của việc điều tiết vốn khả dụng, nên thực thế NHNN không thể kiểm soát hoặc không có đủ công cụ để điều tiết ổn định lãi suất. Thêm nữa, những biến động mạnh mẽ của dự trữ bắt buộc đã tác động lên lãi suất gây nên lo ngại trong điều hành của NHNN. Sự thiếu ổn định lãi suất là một nguyên nhân gây khó khăn cho NHNN trong việc lên kế hoạch quản lý vốn khả dụng một cách chủ động
Về công cụ điều tiết, nhìn chung hiện nay công cụ thị trường mở đang được sử dụng một cách tương đối hiệu quả và linh hoạt. Lãi suất thị trường mở trong khoảng giữa lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu đã định hướng lãi suất thị trường trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, khi NHNN vẫn phải áp dụng lãi suất chủ đạo trong các phiên giao dịch thị trường mở thì mối quan hệ giữa lãi suất thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu còn chưa thực sự chặt chẽ
Một thực tế khác là NHNN hiện đang thiếu các công cụ mạng tính chủ động để hút vốn khả dụng một cách hiệu quả. Vai trò của tín phiếu NHNN trong thị trường tiền tệ mờ nhạt, chưa được các ngân hàng thương mại coi là công cụ dự trữ thanh khoản, kỳ hạn của tín phiếu chưa phù hợp với nhu cầu đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các NHTM. Do đó, việc phát hành tín phiếu NHNN chưa đủ khả năng hút tiền về để thực hiện mục tiêu lạm phát. Công cụ cho vay tái cấp vốn và chiết khấu – với vai trò là người cho vay cuối cùng nhưng lại có mức lãi suất thường thấp hơn lãi suất liên ngân hàng cùng kỳ hạn ( mức lãi suất này mới điều chỉnh tăng lên gần đây) nên chưa khuyến khích được NHTM sử dụng vốn trên thị trường liên ngân hàng. Ngoài ra, các công cụ mang tính trực tiếp như tín phiếu bắt buộc vẫn được NHNN sử dụng. Nguồn thông tin về mục tiêu và định hướng của NHNN trong việc quản lý vốn khả dụng chưa được công khai rộng rãi, gây khó khăn cho các NHTM trong việc tiếp cận và từ đó chủ động lên kế hoạch quản lú vốn khả dụng trong nội bộ ngân hàng mình
Đây là những khó khăn mang tính hệ thống và không thể thay đổi trong một sớm một chiều, đòi hỏi các nghiên cứu chuyên sâu và cái nhìn toàn diện hơn của các nhà điều hành trong thời gian tới.
Những hạn chế của công tác dự báo VKD và nguyên nhân
Hạn chế
Dự báo vốn khả dụng hiện nay mới chú trọng đến dự báo ngắn hạn và chủ yếu trên cơ sở các yếu tố tác động đến VKD đã có trong kế hoạch (mua/bán ngoại tệ và cho vay NHTM) nhưng còn thiếu một số nhân tố khác như nhu cầu rút tiền mặt trong ngày, tiền gửi kho bạc nhà nước tăng/giảm trong ngày.
Các dự báo dài hạn trên một tháng tuy đã được thực hiện nhưng không thường xuyên và chủ mang tính dự báo về xu hướng và ước đoán theo dãy số liệu lịch sử vì việc dự báo theo phương pháp tiếp cận từ bảng cân đối của NHNN cho thời gian dài (từ một tháng trở lên) gặp khó khăn do thiếu thông tin về các yếu tố tác động đến VKD trong dài hạn như thu chi ngân sách, cán cân thanh toán, hoặc định kỳ cung cấp thông tin chưa đáp ứng yêu cầu dự báo (phát hành tiền mặt định kỳ 5 ngày/lần). Vì vậy, NHNN khó dự báo trạng thái VKD của hệ thống ngân hàng của từng ngày trong một tháng tiếp theo, thậm chí trong một tuần tiếp theo.
Việc thiếu các dự báo VKD có chất lượng trong dài hạn làm cho việc chủ động điều tiết VKD của NHNN bị hạn chế. Dưới đây là các nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong dự báo VKD:
Nguyên nhân
Diễn biến tài chính, tiền tệ quốc tế và trong nước biến động phức tạp, đặc biệt là về tỷ giá có ảnh hưởng lớn đến chất lượng dự báo VKD: các yếu tố tác động đến cung cầu VKD biến động mạnh, vì vậy việc sử dụng phương pháp dự báo dựa trên chuỗi số liệu lịch sử để dự báo các yếu tố này gặp hạn chế.
Sự phối hợp thông tin giữa các đơn vị trong NHNN và giữa NHNN với các cơ quan liên quan như bộ tài chính, bộ kế hoạch đầu tư, kho bạc nhà nước... chưa thật sự chặt chẽ và chưa đáp ứng được yêu cầu dự báo.
Việc áp dụng chế tài xử phạt hành vi không tuân thủ quy định về cung cấp thông tin cho NHNN đối với NHTM chưa được coi trọng.
Hệ thống chuỗi số liệu lịch sử về tiền tệ, tín dụng của các tổ chức tín dụng, cũng như của NHNN còn nhiều bất cập làm cho việc phân tích dựa trên số liệu lịch sử chưa chính xác và việc sử dụng phương pháp dự báo kinh tế lượng còn hạn chế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận- Dự báo vốn khả dụng của NTTM các nước và thực tế Việt Nam.doc