Tài liệu Đề tài Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản: Lời nói đầu
Lĩnh vực Đầu tư xây dựng cơ bản đã và đang khẳng định vai trò quan trọng, có tính quyết định đối với quá trình Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước thông qua quá trình tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền kinh tế-xã hội. Chúng ta quản lý hoạt động này thông qua việc hình thành và liên tục hoàn thiện một cơ chế quản lý- cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng.
Là lĩnh vực hoạt động đòi hỏi phải hy sinh một lượng rất lớn nguồn lực và chi phí xã hội, đồng thời do ảnh hưởng và tầm quan hệ rộng lớn cũng như tính chất phức tạp trong quản lý, cho nên không phảI lúc nào việc hy sinh những nguồn lực, những chi phí này cũng đem lại hiệu quả tích cực cho nền kinh tế-xã hội. Thực tế đang đặt ra bàI toán phảI giảI quyết, đó là bàI toán về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB.
Nói cách khác, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng của chúng ta đang đặt ra yêu cầu phảI hoàn thiện. Và việc hoàn thiện này là một quá trình liên tục. Mỗi cơ chế quản lý được hoàn thiện, nhưng ngay sau đó việc áp dụng...
98 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 961 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Lĩnh vực Đầu tư xây dựng cơ bản đã và đang khẳng định vai trò quan trọng, có tính quyết định đối với quá trình Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nước thông qua quá trình tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền kinh tế-xã hội. Chúng ta quản lý hoạt động này thông qua việc hình thành và liên tục hoàn thiện một cơ chế quản lý- cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng.
Là lĩnh vực hoạt động đòi hỏi phải hy sinh một lượng rất lớn nguồn lực và chi phí xã hội, đồng thời do ảnh hưởng và tầm quan hệ rộng lớn cũng như tính chất phức tạp trong quản lý, cho nên không phảI lúc nào việc hy sinh những nguồn lực, những chi phí này cũng đem lại hiệu quả tích cực cho nền kinh tế-xã hội. Thực tế đang đặt ra bàI toán phảI giảI quyết, đó là bàI toán về hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB.
Nói cách khác, cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng của chúng ta đang đặt ra yêu cầu phảI hoàn thiện. Và việc hoàn thiện này là một quá trình liên tục. Mỗi cơ chế quản lý được hoàn thiện, nhưng ngay sau đó việc áp dụng vào thực tế lại phát sinh những mâu thuẫn mới. GiảI quyết những mâu thuẫn này sẽ đưa cơ chế hoàn thiện thêm một bước nữa, cứ như vậy, cơ chế luôn vận động, đổi mới, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Trong lĩnh vực đầu tư XDCB, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB chính là mục tiêu mà cơ chế quản lý đầu tư xây dựng hướng tới, cũng như là tiêu thức quan trọng đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế này.
Hai vấn đề này có quan hệ mật thiết với nhau. Việc giả quyết vấn đề này là hết sức quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế-xã hội. Với lý do như vậy, em đã chọn đề tài: “Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB”. Trong quá trình thực tập, em đã được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Phạm thị Thêu, Giảng viên Bộ môn Kinh tế Đầu tư, Đại học Kinh tế Quốc dân cũng như các cán bộ Vụ Đầu Tư-Bộ tàI Chính. Em xin chân thành cám ơn.
Do gặp nhiều khó khăn về khả năng, tàI liệu và việc bố trí thời gian, đề tàI chắc chắn còn nhiều thiếu sót, em rất mong có sự chỉ bảo thêm của các thầy cô giáo để hoàn thiện thêm đề tàI này.
Chương I:
Lý luận chung về đầu tư và đầu tưxây dựng cơ bản-cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng.
=======g*h=======
I. đầu tư phát triển:
1. Đầu tư-khái niệm và vai trò:
Đầu tư, hiểu theo nghĩa chung nhất, là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó, nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó.
Đầu tư, là một định nghĩa, một phạm trù, một hành động, nó thể hiện các mối quan hệ nhân quả tồn tại phổ biến trong hiện thực. Những mối quan hệ này là tất yếu do bản chất hoạt động đầu tư, do mối quan hệ tất yếu giữa tính mục đích và sự hy sinh các nguồn lực, do bản thân quá trình thu hút các nguồn lực cũng như thực hiện để đạt được mục đích. Mối quan hệ này là tất yếu trong tính toàn diện, phổ quát của hoạt động đầu tư.
Định nghĩa đầu tư trên, như vậy, là định nghĩa có nội hàm hẹp nhất mà ở nhiều giác độ, nhiều tiêu thức khác nhau, bằng cách làm phong phú thêm nội hàm, ta có thể xác định được nhiều hoạt động khác nhau mang bản chất là hoạt động đầu tư, ví dụ như: đầu tư tăng trưởng, đầu tư phát triển, đầu tư tài chính, đầu tư thương mại, đầu tư mở rộng, đầu tư chiều sâu...Các hoạt động đầu tư cần thiết phải hy sinh các nguồn lực, và các kết quả nhất định sẽ được tạo ra.
Nguồn lực dùng để tiến hành hoạt động đầu tư có thể là những tài sản hữu hình như tiền vốn, đất đai, nhà cửa, thiết bị, hàng hoá hoặc tài sản vô hình như bằng sáng chế, phát minh, nhãn hiệu hàng hoá, bí quyết kỹ thuật, uy tín kinh doanh, bí quyết thương mại...Các doanh nghiệp còn có thể đầu tư bằng cổ phần, trái phiếu, các quyền sở hữu tài sản khác như quyền thế chấp, cầm cố hoặc các quyền có giá trị về mặt kinh tế như các quyền thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên... các nguồn lực này được kết hợp với nhau trong quá trình đầu tư nhằm tạo ra các tài sản, những giá trị, những kết quả mong đợi, tức là mục tiêu đầu tư nói chung.
Những kết quả, những giá trị này có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất chất lượng cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Những kết quả đó, và do đó là cách thức tiến hành hoạt động đầu tư đáp ứng được các mục tiêu của chủ thể đầu tư và xã hội đến đâu là tiêu chí quan trọng đánh giá tính hiệu quả, hợp lý và đúng đắn của quyết định đầu tư và quá trình đầu tư.
Đầu tư là một hoạt động kinh tế quan trọng ở cấp độ vi mô các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp cũng như ở cấp độ vĩ mô, ở phạm vi nền kinh tế-xã hội.
Đối với một doanh nghiệp, hoạt động đầu tư là công việc khởi đầu quan trọng nhất và cũng là khó khăn nhất của quá trình sản xuất, kinh doanh. Những quyết định của ngày hôm nay về lĩnh vực, quy mô, hình thức, thời điểm đầu tư sẽ chi phối quá trình hoạt động và phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Do đó, chất lượng của các quyết định đầu tư sẽ quyết định sự thịnh vượng hay xuống dốc của doanh nghiệp.
Đối với nền kinh tế nói chung, toàn bộ việc đầu tư được tiến hành ở một thời kỳ nhất định là nhân tố cơ bản duy trì và phát triển cơ sở vật chất-kỹ thuật của nền kinh tế, tạo ra sản phẩm, dịch vụ, giải quyết công ăn việc làm, đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế-xã hội thời kỳ tiếp theo. Xét về lâu dài, khối lượng đầu tư của ngày hôm nay sẽ quyết định dung lượng sản xuất, tốc độ và chất lượng của tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội cũng như mức độ cải thiện đời sống trong tương lai. Vai trò này của đầu tư hay mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng có thể được biểu hiện qua mô hình tăng trưởng nền kinh tế đơn giản sau đây (mô hình Harrod-Domar):
(1)
Trong đó: ICOR là tỉ lệ giữa vốn đầu tư và tăng trưởng kinh tế;
I là vốn đầu tư;
GDP là mức tăng tổng sản phẩm quốc gia.
Từ (1) có thể viết:
(2)
(3)
Như vậy, nếu hệ số ICOR không đổi thì tỉ lệ vốn đầu tư so với GDP sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Tỉ lệ đầu tư càng cao thì tốc độ tăng trưởng kinh tế càng cao và ngược lại.
2. Đầu tư phát triển:
2.1/ Khái niệm:
Hoạt động đầu tư phát triển (còn gọi là đầu tư phát triển) là quá trình sử dụng vốn đầu tư để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội.
2.2/ Đặc điểm:
Đầu tư phát triển thường đòi hỏi lượng vốn lớn và vốn này nằm khê đọng không vận động trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.
Do đặc điểm này, cần phải tính toán kỹ khi tiến hành công cuộc đầu tư, tránh những thiệt hại hay tổn thất mà công cuộc đầu tư có thể gặp phải và cần phải bổ vốn theo tiến độ phù hợp đảm bảo tính liên tục và giảm lượng vốn khê đọng.
Hoạt động đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài, thể hiện:
- Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường kéo dài nhiều năm tháng với nhiều biến động xảy ra. Trong quá trình đó những tác động của môi trường đầu tư có thể làm những dự đoán của chủ thể đầu tư bị sai lệch do vậy cần phải quản lý một cách nghiêm ngặt và có sự điều chỉnh kịp thời quá trình đầu tư.
- Thời gian để vận hành các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn hoặc cho đến khi thanh lý tài sản do vốn đầu tư tạo ra thường cũng kéo dài nhiều năm tháng, có dự án thời gian tồn tại các kết quả mà đầu tư tạo ra là vĩnh viễn (như các công trình văn hoá, kiến trúc lớn ở nước ta cũng như trên thế giới...).
Quá trình đầu tư, cũng như kết quả và hiệu quả hoạt động đầu tư chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bất định theo thời gian và của điều kiện không gian tự nhiên, kinh tế-xã hội.
Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà chúng được tạo dựng nên do đó các điều kiện về địa lý, địa hình sẽ ảnh hưởng không chỉ tới quá trình thực hiện đầu tư mà còn ảnh hưởng tới sự hoạt động và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư sau này.
Đầu tư phát triển, do bản chất của nó, là hoạt động chịu tác động của nhiều yếu tố rủi ro: do đó cần có các biện pháp để hạn chế cũng như ngăn ngừa rủi ro, như nhận diện các yếu tố của rủi ro có thể ảnh hưởng tới dự án, phân tán rủi ro đó bằng các hình thức như bảo hiểm,... và quản lý chặt chẽ các rủi ro, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất.
2.3/. Vai trò của đầu tư phát triển:
2.3.1/ Đối với nền kinh tế.
Đầu tư vừa tác dụng đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế:
Về mặt cầu: Đầu tư là yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế (thường chiếm khoảng từ 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới-số liệu của WB). Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn, khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, kéo theo sản lượng cân bằng tăng theo và dẫn đến giá và các đầu vào của đầu tư cũng tăng theo. Điểm cân bằng cung-cầu dịch chuyển đi lên.
Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đầu tư tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế:
Sự tác động không đông thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi đầu tư tăng sẽ tăng công ăn việc làm dẫn đến giảm thất nghiệp, nâng cao đời sống của nhân dân, do đó góp phần làm giảm tệ nạn xã hội... Nhưng bên cạnh đó thì do tăng đầu tư đến mức nào đó sẽ dẫn đến lạm phát, ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội.
Giảm đầu tư: hạn chế được lạm phát, đời sống nhân dân ổn định, nhưng việc giảm đầu tư, ngược lại cũng làm giảm công ăn việc làm, tình trạng thất nghiệp tăng, làm ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội.
Vì vậy trong quản lý cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
Đầu tư tác động tới tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15-25% so với GDP, tuỳ thuộc vào hệ số ICOR của mỗi nước. Hệ số ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế, phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế, vào hiệu quả đầu tư trong các nghành, các vùng lãnh thổ cũng như hiệu quả của cơ chế chính sách kinh tế của nước đó nói chung. Như công thức (3) ở trên thì, nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư.
Đầu tư ảnh hưởng đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Đầu tư làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với qui luật phát triển, với chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn. Từ đó đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
- Tạo ra được sự cân đối trong phát triển kinh tế-xã hội giữa các ngành các vùng, các lĩnh vực.
- Phát huy được lợi thế cạnh tranh của từng vùng, từng ngành.
Đầu tư tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước:
Công nghệ về nội dung gồm 4 yếu tố: trang thiết bị, kỹ năng của con người, thông tin, tổ chức thể chế. Do đó xét về nội dung thì để tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước cần phải đầu tư mua sắm trang thiết bị, thu thập thông tin, đào tạo nguồn nhân lực...
Xét về phương thức để có công nghệ chúng ta cũng thấy có hai cách đó là tự nghiên cứu triển khai hoặc đi mua, cả hai cách đều phải yêu cầu có vốn để đầu tư.
Như vậy, đầu tư có quan hệ chặt chẽ đối với quá trình cải tạo, đổi mới, tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của lực lượng sản xuất xã hội, của đất nước.
2.3.2/ Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ:
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Đầu tư, trước hết có vai trò tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào-vị lợi hay vô vị lợi. Trong quá trình hoạt động các cơ sở vật chất-kỹ thuật này bị hao mòn, hư hỏng và phải đổi mới để duy trì sự tồn tại và hoạt động bình thường, đồng thời phải luôn đổi mới cho thích ứng với sự tiến bộ của khoa học-kỹ thuật, chống lại những hao mòn vô hình, đáp ứng lại những nhu cầu ngày càng cao của đời sống xã hội. Câu trả lời là tiến hành đầu tư.
Đầu tư trong các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ là một công cụ cạnh tranh và hơn thế nữa quyết định sự thành bại của cơ sở. Đầu tư làm tăng hiệu quả sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, mở rộng thị trường, tăng lợi nhuận cho đơn vị.
Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động công ích, không vì mục tiêu lợi nhuận), việc tiến hành đầu tư là tất yếu để duy trì và tăng cường các cơ sở vật chất-kỹ thuật phục vụ cho mục tiêu hoạt động bình thường của mình.
II. đầu tư xây dựng cơ bản:
1. Khái niệm và vai trò của đầu tư xây dựng cơ bản:
1.1/ Khái niệm:
Đầu tư xây dựng cơ bản ( XDCB ) là hoạt động sử dụng vốn đầu tư để tiến hành thực hiện tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho nền kinh tế thông qua các hình thức: xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại hoá và khôi phục các tài sản cố định.
Đầu tư XDCB là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung, đầu tư phát triển nói riêng. Đó là việc bỏ vốn để tiến hành các hoạt động xây dựng cơ bản (từ việc khảo sát, quy hoạch đầu tư, thiết kế và xây dựng cho đến khi lắp đặt thiết bị để hoàn thiện việc tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật) nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho nền kinh tế.
Như vậy, đầu tư XDCB không phải là hoạt động sản xuất vật chất mà là phạm trù kinh tế tài chính xuất hiện trong quá trình tái sản xuất các tài sản cố định. Nhưng, XDCB là một nghành sản xuất vật chất, tạo ra cơ sở vật chất-kỹ thuật cho xã hội, nó quyết định đến sự phát triển đất nước và quy mô sản xuất của các nghành có liên quan.
1.2/ Vai trò: Đối với bất kỳ một phương thức sản xuất xã hội nào, ở mọi thời kỳ phát triển đều tương ứng với một cơ sở vật chất-kỹ thuật nhất định và dựa trên cơ sở vật chất-kỹ thuật ấy. Sự hiện đại hoá liên tục cơ sở vật chất-kỹ thuật là điều kiện ban đầu, là cơ sở của mọi biến chuyển kinh tế-xã hội. Quá trình hiện đại hoá cơ sở vật chất-kỹ thuật của nền sản xuất xã hội có được nhờ việc tiến hành các hoạt động đầu tư XDCB.
Đầu tư XDCB dù ở lĩnh vực nào, ở nước ta hay trên thế giới, tốc độ và tỷ lệ đầu tư XDCB ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong đầu tư. Quá trình đầu tư XDCB vô cùng phức tạp, liên nghành, do đó đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả của các cơ quan chức năng, ban nghành và của nhiều lĩnh vực.
Sản phẩm đầu tư XDCB và quá trình đầu tư, do bản chất là hoạt động đầu tư phát triển nên có tác dụng làm thay đổi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng cường đổi mới công nghệ, tạo ra và liên tục hiện đại hoá cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền sản xuất xã hội. Những thành quả của đầu tư XDCB làm tăng năng lực sản xuất, tạo điều kiện áp dụng các thành tựu khoa học-kỹ thuật và công nghệ và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực, tạo công ăn việc làm, đáp ứng các yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước; tạo điều kiện tăng cường hội nhập kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Đầu tư XDCB còn là điều kiện để tạo ra một sự đổi mới trong cơ chế quản lý nền kinh tế-xã hội thích hợp với từng giai đoạn phát triển, và nói chung, đầu tư XDCB còn là một trong những nhân tố quan trọng nhất của quá trình chuyển biến phương thức sản xuất cũng như hình thái kinh tế-xã hội của xã hội.
2. Quá trình hình thành công trình xây dựng và các lực lượng tham gia có liên quan:
2.1/ Quá trình hình thành công trình xây dựng theo nghĩa rộng:
Theo nghĩa rộng, quá trình hình thành công trình xây dựng được bắt đầu từ giai đoạn lập chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và quy hoạch tổng thể sử dụng lãnh thổ đến giai đoạn đưa công trình vào vận hành, sử dụng. Quá trình này bao gồm các giai đoạn sau:
Nhà nước tiến hành lập chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và quy hoạch tổng thể sử dụng lãnh thổ cho các mục đích sản xuất-kinh doanh, dịch vụ và các mục đích sinh hoạt xã hội khác.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể sử dụng lãnh thổ, Nhà nước tiến hành quy hoạch tổng thể về mặt xây dựng các công trình trên toàn lãnh thổ, bao gồm các khu công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, các cụm đô thị và nông thôn, các công trình cơ sở hạ tầng kinh tế và văn hoá-xã hội…
Dựa trên chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch tổng thể sử dụng lãnh thổ, quy hoạch tổng thể về mặt xây dựng, nhu cầu thị trường và khả năng, thực lực của Nhà nước, của các doanh nghiệp cũng như của các tầng lớp dân cư sẽ hình thành nên các dự án đầu tư xây dựng của Nhà nước, của các doanh nghiệp và dân cư.
Như vậy, theo nghĩa rộng, quá trình hình thành công trình xây dựng có thể được mô tả như sau:
Sơ đồ: Quá trình hình thành công trình xây dựng theo nghĩa rộng.
Nhà nước lập quy hoạch tổng thể về mặt xây dựng
Nhà nước lập chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và quy hoạch tổng thể sử dụng lãnh thổ.
Hình thành các dự án đầu tư và xây dựng cơ bản
Khả năng đầu tư của Nhà nước, các doanh nghiệp và xã hội
Nhu cầu của thị trường, Nhà nước và xã hội
Chuẩn bị
đầu tư
Kết thúc xây dựng đưa công trình vào
sử dụng
Thực hiện đầu tư (xây dựng công trình)
2.2/ Quá trình hình thành công trình xây dựng theo nghĩa hẹp:
Theo nghĩa hẹp, quá trình hình thành công trình xây dựng bắt đầu từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến giai đoạn thực hiện đầu tư xây dựng và đưa công trình vào vận hành, sử dụng. Theo ” Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng” hiện hành thì quá trình đầu tư xây dựng gồm các giai đoạn sau: ( trình tự, thủ tục đầu tư và xây dựng)
2.2.1/ Giai đoạn chuẩn bị đầu tư, các nhiệm vụ phải thực hiện như sau:
- Nghiên cứu về sự cần thiết phải đầu tư và quy mô đầu tư.
- Tiến hành tiếp xúc, thăm dò thị trường trong nước hoặc ngoài nước để tìm nguồn cung ứng vật tư, thiết bị, nơi tiêu thụ sản phẩm, khả năng cạnh tranh, xem xét các khả năng có thể huy động các nguồn vốn đầu tư và lựa chọn hình thức đầu tư.
- Tiến hành điều tra, khảo sát và chọn địa điểm xây dựng.
- Lập dự án đầu tư.
- Thẩm đinh dự án để quyết định đầu tư.
- Gửi hồ sơ dự án đến nơi quy định.
2.2.2/ Giai đoạn thực hiện đầu tư, bao gồm các nhiệm vụ:
- Xin giao đất hoặc thuê đất theo quy định của Nhà nước (đối với các dự án có sử dụng đất).
- Xin giấy phép xây dựng (nếu cần phải có giấy phép xây dựng) và giấy phép khai thác tàI nguyên (nếu có).
- Tổ chức đền bù giảI phóng mặt bằng, thực hiện kế hoạch di dân, phục hồi và chuẩn bị mặt bằng xây dựng (nếu có).
- Mua sắm thiết bị và công nghệ.
- Thực hiện khảo sát, thiết kế xây dựng.
- Thẩm định, phê duyệt thiết kế và tổng dự toán, dự toán công trình.
- Tiến hành thi công, xây lắp công trình.
- Theo dõi, kiểm tra và thực hiện các hợp đồng.
- Quản lý kĩ thuật, chất lượng thiết bị và chất lượng xây dựng.
- Vận hành thử nghiệm, nghiệm thu, quyết toán vốn đầu tư, bàn giao và thực hiện bảo hành sản phẩm.
2.2.3/ Giai đoạn kết thúc xây dựng và đưa dự án vào khai thác, sử dụng:
- Nghiệm thu, bàn giao công trình.
- Thực hiện việc kết thúc xây dựng công trình.
- Vận hành công trình và hướng dẫn sử dụng công trình.
- Bảo hành công trình.
- Quyết toán vốn đầu tư.
- Phê duyệt quyết toán. Đối với dự án xây dựng các khu tập trung, dự án BOT, BT, BTO, ngoàI các bước trên thì chủ đầu tư còn phảI làm thủ tục `chuyển giao sau khi kết thúc xây dựng hoặc sau khi hết thời gian khai thác sử dụng theo hợp đồng kinh doanh.
2.3/ Các lực lượng tham gia vào quá trình hình thành công trình xây dựng:
Có các lực lượng sau đây tham gia vào quá trình hình thành công trình xây dựng:
Chủ đầu tư (đóng vai trò chính).
Các doanh nghiệp tư vấn.
Các doanh nghiệp xây lắp.
Các doanh nghiệp cung ứng thiết bị và vật tư cho dự án.
Các tổ chức tài trợ, ngân hàng.
Các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư và xây dựng.
Các tổ chức khác...
3. Phân biệt một số kháI niệm về các lĩnh vực và các nghành có liên quan đến đầu tư và xây dựng:
Để thuận tiện cho việc nghiên cứu các vấn đề kinh tế và quản lý xây dựng cơ bản, cần phảI phân biệt một số kháI niệm về các lĩnh vực và các nghành có liên quan đến đầu tư và xây dựng sau đây:
3.1/ Lĩnh vực đầu tư và xây dựng:
Lĩnh vực đầu tư xây dựng là một lĩnh vực hoạt động liên nghành, bao gồm tất cả các bộ phận có liên quan đến việc lập và thực hiện các dự án đầu tư xây dựng, trong đó bao gồm các lực lượng tham gia chủ yếu như: chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn đầu tư xây dựng, các nhà thầu xây dựng, các tổ chức cung ứng vật tư, thiết bị cho dự án, các tổ chức ngân hàng và tài trợ cho dự án, các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư và xây dựng.
3.2/ Nghành công nghiệp xây dựng:
Nghành công nghiệp xây dựng bao gồm các doanh nghiệp xây dựng chuyên nhận thầu thi công xây dựng cho các chủ đầu tư xây dựng ở mọi lĩnh vực. ở Việt Nam hiện nay nghành công nghiệp xây dựng bị phân tán và do nhiều nghành và Bộ sản xuất quản lý, trong đó Bộ Xây dựng được Nhà nước giao cho nhiệm vụ quản lý chủ yếu.
3.3/ Nghành tư vấn đầu tư và xây dựng:
Nghành tư vấn đầu tư và xây dựng chuyên nhận thầu thực hiện các công việc của chủ đầu tư giao như lập dự án đầu tư xây dựng, khảo sát, thiết kế, giám sát công việc xây dựng...Đây cũng là một lĩnh vực đòi hỏi những kiến thức chuyên nghành tổng hợp.
3.4/ Các nghành sản xuất cung cấp đầu vào cho dự án đầu tư xây dựng:
Các nghành sản xuất cung cấp đầu vào cho dự án đầu tư xây dựng bao gồm các nghành chủ yếu sau:
3.4.1/ Nghành công nghiệp vật liệu xây dựng: Có nhiệm vụ chuyên sản xuất các loại vật liệu xây dựng, bán thành phẩm và cấu kiện xây dựng để bán cho nghành công nghiệp xây dựng. Về bản chất nghành này phải được coi là một nghành sản xuất riêng biệt. ở Việt Nam, nghành này hiện còn được quan lý chung với nghành công nghiệp xây dựng.
3.4.2/ Nghành cơ khí xây dựng: Có nhiệm vụ sản xuất các máy móc và thiết bị xây dựng (bao gồm cả công việc sủa chữa máy móc xây dựng) để cung cấp cho nghành công nghiệp xây dựng.
3.4.3/ Các nghành cung ứng vật tư, thiết bị cho dự án đầu tư xây dựng: ở đây phải kể đến các nghành tài chính, ngân hàng, thông tin, đào tạo phục vụ đầu tư xây dựng.
4. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng và sản xuất xây dựng:
4.1/ Đặc điểm của sản phẩm xây dựng:
Trước hết ta phân biệt các kháI niệm có liên quan sau đây đến sản phẩm xây dựng:
4.1.1/ Sản phẩm đầu tư xây dựng: Sản phẩm đầu tư xây dựng là các công trình đã hào chỉnh (bao gồm cả việc lắp đặt thiết bị, công nghệ ở bên trong). Sản phẩm đầu tư xây dựng là kết tinh của các thành quả khoa học-công nghệ và tổ chức sản xuất của xã hội ở một thời kỳ nhất định. Nó là một sản phẩm có tính chất liên nghành, trong đó có những lực lượng tham gia tạo thành sản phẩm chủ yếu: chủ đầu tư; các doanh nghiệp nhận thầu xây lắp; các doanh nghiệp tư vấn đầu tư xây dựng; các doanh nghiệp sản xuất các yếu tố đầu vào cho dự án như thiết bị công nghệ, vật tư thiết bị xây dựng; các tổ chức tổ chức dịch vụ ngân hàng và tàI chính; các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan.
4.1.2/ Sản phẩm xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng:
Sản phẩm xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng chỉ bao gồm phần kiến tạo các kết cấu xây dựng làm chức năng bao che, nâng đỡ và phần lắp đặt các thiết bị, máy móc cần thiết của công trình để đưa chúng vào hoạt động.
Trong khi đơn vị đo của sản phẩm đầu tư xây dựng là tổng vốn đầu tư thực hiện (nếu tính theo giá trị) hoặc là công suất sản xuất hay năng lực dịch vụ hoặc phục vụ đã đưa vào sử dụng (nếu tính theo hiện vật), thì đơn vị đo của sản phẩm xây dựng của doanh nghiệp xây dựng là giá trị dự toán xây lắp đã hoàn thành bàn giao (nếu tính theo giá trị) hoặc là số hay khối tích xây dựng (nếu tính theo hiện vật) đã hoàn thành và bàn giao.
Vì các công trình xây dựng thường rất lớn và phảI xây dựng trong nhiều năm, nên để phù hợp với công việc thanh, quyết toán và cấp vốn người ta phân ra sản phẩm xây dựng trung gian và sản phẩm xây dựng cuối cùng. Sản phẩm xây dựng trung gian có thể là các gói công việc xây dựng, các giai đoạn hay đợt xây dựng đã hoàn thành, đã bàn giao thanh toán. Sản phẩm xây dựng cuối cùng là các công trình xây dựng hay hạng mục công trình xây dựng đã hoàn thành và có thể bàn giao đưa vào sử dụng.
Để phản ánh thực chất và nỗ lực đóng góp của bản thân các doanh nghiệp xây dựng, sản phẩm xây dựng của các doanh nghiệp xây dựng còn được tính theo chỉ tiêu giá trị sản phẩm thuần tuý của các doanh nghiệp này, tức là đem giá trị dự toán xây lắp trừ đI chi phí vật liệu, năng lượng và khấu hao ở tất cả các khoản mục của giá trị dự toán xây lắp.
4.1.3/ Công trình xây dựng:
Công trình xây dựng là sản phẩm của công nghệ xây lắp, được tạo thành bởi vật liệu xây dựng, thiết bị công nghệ, lao động và gắn liền với đất, khoảng không, mặt nước, mặt biển hay thềm lục địa.
4.1.4/ Những đặc điểm của sản phẩm xây dựng:
Những đặc điểm của sản phẩm xây dựng có ảnh hưởng lớn đến phương thức tổ chức sản xuất và quản lý kinh tế trong nghành xây dựng, làm cho các công việc này có nhiều đặc điểm khác biệt so với các nghành khác. Sản phẩm xây dựng với tư cách là các công trình xây dựng hàon chỉnh thường có các đặc điểm sau:
Sản phẩm xây dựng là những công trình, nhà cửa được xây dựng và sử dụng tại chỗ và phân bố tản mạn ở nhiều nơi trên lãnh thổ. Điều này làm cho sản xuất xây dựng có tính lưu động cao và thiếu ổn định.
Sản phẩm xây dựng phụ thuộc chặt chẽ vào điều kiện địa phương nơI đặt công trình xây dựng. Do đó, nó có tính đa dạng và cá biệt cao về công dụng, cách cấu tạo và cách chế tạo.
Sản phẩm xây dựng thường có kích thước và chi phí lớn, có thời gian kiến tạo và thời gian sử dụng lâu dài. Do đó, những sai lầm về xây dựng có thể gây nên các lãng phí lớn, tồn tại lâu dàI và khó sửa chữa.
Sản phẩm xây dựng thuộc phần kết cấu xây dựng chủ yếu đóng vai trò nâng đỡ và bao che, không tác động trực tiếp lên đối tượng lao động trong quá trình sản xuất, trừ một số loại công trình đặc biệt như đường ống, công trình thuỷ lực, lò luyện gang thép…
Sản phẩm xây dựng liên quan đến nhiều nghành cả về phương diện cung cấp các yếu tố đầu vào, thiết kế và chế tạo sản phẩm, cả về phương diện sử dụng sản phẩm của xây dựng làm ra.
Sản phẩm xây dựng có liên quan nhiều đến cảnh quan và môI trường tự nhiên, do đó liên quan nhiều đến lợi ích của cộng đồng, nhất là đến dân cư địa phương nơI dặt công trình.
Sản phẩm xây dựng mang tính chất tổng hợp về kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hoá nghệ thuật và quốc phòng. Tuy nhiên lại mang tính cá biệt về ý tưởng thiết kế, giá thành…
4.2/ Đặc điểm của sản xuất xây dựng:
Sản xuất xây dựng thiếu tính ổn định, có tính lưu động cao theo vùng lãnh thổ: vì trong xây dựng, khác với nhiều nghành khác, con người và công cụ lao động luôn phảI di chuyển theo các công trường, còn sản phẩm xây dựng thì cố định một nơi.
Vì sản phẩm xây dựng có tính đa dạng, cá biệt cao, có chi phí lớn, nên sản xuất xây dựng phảI tiến hành theo đơn đặt hàng của chủ đầu tư thông qua đấu thầu hoặc chỉ định thầu cho từng công trình một.
Chu kỳ sản xuất (thời gian xây dựng công trình) thường dài.
Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp đòi hỏi phảI có nhiều lực lượng hợp tác tham gia thực hiện. Khác với nhiều nghành khác, trong nghành xây dựng, các đơn vị tham gia xây dựng công trình phảI cùng nhau đến công trường với một diện tích làm việc thường là bị hạn chế để thực hiện phần việc của mình theo một trình tự nhất định về thời gian và không gian.
Sản xuất xây dựng phảI tiến hành ngoàI trời và chịu nhiều ảnh hưởng của thời tiết và các điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội nơI diễn ra quá trình thi công xây dựng.
Sản xuất xây dựng chịu ảnh hưởng của lợi nhuận chênh lệch do địa điểm xây dựng đem lại. Cùng một công trình xây dựng nhưng nếu tiến hành xây dựng ở những nơI có sẵn nguồn vật liệu xây dựng, nhân công và các cơ sở cho thuê may xây dựng thì nhà thầu trong trường hợp này có cơ hội cao hơn để thu được lợi nhuận so với các địa điểm xây dựng khác.
Công nghệ xây lắp chủ yếu là quá trình áp dụng các quá trình cơ học để giảI quyết vấn đề vận chuyển ngang và vận chuyển lên cao, hoặc để xâm nhạp vào trong lòng đất. Việc áp dụng tự động hoá qúa trình xây lắp phát triển chậm, tỷ lệ lao động thủ công chiếm cao.
Những đặc điểm của sản xuất xây dựng trong điều kiện tự nhiên và xã hội của Việt Nam:
Về điều kiện tự nhiên: Sản xuất xây dựng ở Việt Nam được tiến hành trong điều kiện khí hậu nhiệt đới ẩm, điều kiện địa chất, thuỷ văn phức tạp, đất nước dàI, hẹp và còn nhiều nơI chưa được khai phá, có một số nguồn vật liệu xây dựng phong phú. Do đó, các giảI pháp xây dựng ở Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh của các yếu tố này.
Về điều kiện kinh tế: Sản xuất xây dựng ở Việt Nam được tiến hành trong điều kiện của một nền kinh tế đang phát triển, còn nhiều mặt yếu kém so với các nước trên thế giới. Trong bối cảnh hợp tác quốc tế hiện nay, nghành xây dựng của Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng có nhiều nguy cơ và thách thức.
Đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đang quyết định phương hướng và tiến độ phát triển của nghành xây dựng Việt Nam.
III. vốn đầu tư xây dựng cơ bản:
1. Khái niệm vốn đầu tư XDCB :
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là toàn bộ chi phí để đạt được mục đích đầu tư, bao gồm: Chi phí cho việc khảo sát, qui hoạch xây dựng, chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí cho thiết kế và xây dựng, chi phí mua sắm và lắp đặt máy móc, thiết bị và các chi phí khác được ghi trong tổng dự toán.
Vốn đầu tư XDCB được vật hoá để hình thành nên cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền kinh tế, là điều kiện của tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho nền kinh tế, có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Nhưng cần lưu ý rằng, có một số công tác mà xét về tính chất lẫn nội dung kinh tế thì thuộc về hoạt động XDCB, nhưng chi phí của chúng thì lại không được tính vào vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Đó là các hoạt động sau đây:
Hoạt động sửa chữa lớn nhà cửa, vật chất kiến trúc.
Các chi phí khảo sát thăm dò tài nguyên, địa chất nói chung trong nền kinh tế...mà không liên quan trực tiếp đến việc xây dựng công trình cụ thể nào cả.
Mặt khác có một số khoản mục, tuy không làm tăng giá trị tài sản cố định nhưng chi phí của chúng vẫn được tính vào vốn đầu tư XDCB:
Chi phí cho việc mua sắm công cụ, dụng cụ không đủ tiêu chuẩn là TSCĐ.
Chi phí đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ công nhân.
2. Bản chất và nội dung kinh tế của vốn đầu tư XDCB:
2.1/ Bản chất và vai trò của vốn đầu tư XDCB:
Tích luỹ là nguồn chủ yếu của tái sản xuất mở rộng. Tích luỹ là sử dụng có kế hoạch một phần thu nhập quốc dân để mở rộng sản xuất, để xây dựng xí nghiệp mới, cải tạo, trang bị lại kỹ thuật các xí nghiệp hiện có, để tăng các tài sản cố định không sản xuất và tạo lập các dự trữ vật tư, tài chính. Phần thu nhập quốc dân dùng để tích luỹ được tạo nên bằng sản phẩm thặng dư, được hình thành một cách có kế hoạch và nhịp độ tăng của nó trước hết phụ thuộc vào nhịp độ tăng tuyệt đối khối lượng thu nhập quốc dân. Trong những điều kiện như nhau, mức tích luỹ sản xuất phụ thuộc không chỉ vào khối lượng thu nhập quốc dân, mà còn phụ thuộc vào sự phân phối thu nhập quốc dân thành tích và tiêu dùng.
Quá trình tích luỹ có tác dụng to lớn đến việc hình thành cơ sở vật chất-kỹ thuật của nền kinh tế. Để nâng cao không ngừng mức tiêu dùng của nhân dân, xã hội cần phải thường xuyên mở rộng sản xuất và do đó cần phải tăng tích luỹ. Tích luỹ không chỉ kéo theo những sự thay đổi về số lượng trong các yếu tố vật chất của lực luợng sản xuất, mà còn có tác động đến tất cả moi lĩnh vực hoạt động của con người, tạo điều kiện để giảm nhẹ lao động, nâng cao nhận thức và trình độ nghề nghiệp của mọi người lao động.
Tích luỹ trước hết được thực hiện thông qua đầu tư XDCB. Theo nội dụng kinh tế, đầu tư XDCB là sử dụng một phần tổng sản phẩm xã hội, mà trước hết là quỹ tích luỹ để tái sản xuất tài sản xuất tài sản cố định. Vốn đầu tư đầu tư XDCB như đã nói ở trên là toàn bộ chi phí để đạt được mục đích đầu tư, bao gồm: Chi phí cho việc khảo sát, qui hoạch xây dựng, chi phí chuẩn bị đầu tư, chi phí cho thiết kế và xây dựng, chi phí mua sắm và lắp đặt máy móc, thiết bị và các chi phí khác được ghi trong tổng dự toán. Vốn đầu tư đầu tư XDCB và vốn cố định là những khía niệm không giống nhau cả về nội dung kinh tế lẫn trong sự biểu hiện giá trị. Sự khác nhau cơ bản giữa chúng thể hiện ở chỗ, vốn đầu tư đầu tư XDCB là vốn cố định dưới dạng tiềm tàng, còn vốn cố định là vốn đầu tư XDCB đã được khai thác, sử dụng. Biểu hiện vật chất của vốn cố định là nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, dụng cụ điều chỉnh, đo lường, dụng cụ sản xuất và kinh doanh có giá trị và thời gian sử dụng ở mức quy định.
Như vậy, ngoài phần vốn đầu tư XDCB huy động từ nước ngoài, thì vốn đầu tư XDCB ở nước ta được hình thành từ việc phân phối tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân. Phần lớn thu nhập quốc dân được sử dụng để tích luỹ, điều đó làm tăng khả năng đầu tư XDCB vào nền kinh tế và tăng năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế. ở Việt Nam cơ sở vật chất-kỹ thuật đã được xây dựng ngay từ những năm kháng chiến chống Pháp, Mĩ. Trong khu vực sản xuất vật chất, chúng ta đã tập trung đầu tư XDCB và hình thành nên cơ sở vật chất-kỹ thuật của 2 nghành là nông nghiệp và công nghiệp, trong khu vực phi sản xuất vật chất, vốn đầu tư được tập trung nhiều vào các nghành giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, khoa học. Những cơ sở công nghiệp quan trọng như điện, than, cơ khí, luyện kim, hoá chất, dệt, may mặc, các công trình thuỷ lợi, hệ thống đường giao thông, các trường học, bệnh viện. Sau ngày thống nhất, việc xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền kinh tế tiếp tục được đẩy mạnh, nguồn vốn đầu tư XDCB đã được huy động cả ở những khu vực không phải là kinh tế Nhà nước, đặc biệt là vốn đầu tư thu hút từ đầu tư nước ngoài đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta. Đầu tư tập trung, đúng hướng đã làm tăng năng lực sản xuất của nhiều nghành kinh tế quốc dân. Đó là các cơ sở của nghành điện ( thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, nhiệt điện Phả Lại,... và hiện nay là nhà máy thuỷ điện có tầm cỡ thế giới-thuỷ điện Sơn La đang được xây dựng), mạng lưới điện đã được phủ hầu hết trên phạm vi cả nước. Đó là cơ sở của nghành vật liệu xây dựng (xi măng Bỉm Sơn, Hoàng Thạch,...); giấy BãI Bằng, Tân mai…các công trình giao thông với hệ thống các cầu (Thăng Long, Chương Dương, cầu Mỹ Thuận, Hoàng Long,...đường Hồ Chí Minh xuyên quốc gia đang được tiến hành xây dựng sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội đất nước); các nhà máy sợi, máy dệt, hàng vạn hecta cao su, cà phê,...và đặc biệt là các dàn khoan đã cho hàng triệu tấn dầu thô, các trung tâm viễn thông, hệ thống truyền hình, phát thanh, các trung tâm nghiên cứu khoa học...cùng với cơ sở vật chất-kỹ thuật của nghành dịch vụ: ngân hàng, tài chính, viễn thông, thương mại, du lịch, hàng không, các khu công nghiệp, khu đô thị, nhiều vùng kinh tế mới...được hình thành đã tạo nên sức phát triển lớn mạnh của nền kinh tế nước ta, đẩy lùi khoảng cách trong phát triển kinh tế-xã hội của nước ta so với thế giới.
2.2/ Nội dung kinh tế của vốn đầu tư XDCB:
Như ta biết, để tiếp tục quá trình sản xuất, khi phân phối tổng sản phẩm xã hội, người sản xuất phải tính toán khôi phục các tư liệu sản xuất (bao gồm cả tư liệu lao động và đối tượng lao động) đã tiêu hao trong quá trình sản xuất. Đối tượng lao động (nguyên, nhiên vật liệu) có đặc tính tham gia một lần, toàn bộ vào một chu kỳ một chu kỳ sản xuất và sau quá trình sản xuất nó hoàn toàn thay đổi hình thái vật chất của mình để trở thành sản phẩm, khi sản phẩm được tiêu thụ, toàn bộ giá trị của đối tượng lao động trở lại dưới hình thái tiền tệ. Nhằm khôi phục đối tượng lao động, người ta phải tích và trích ra một lượng tiền từ doanh số bán hàng-ngang bằng với giá trị của đôi tượng lao động đã di chuyển vào sản phẩm để mua sắm, dự trữ nguyên liệu...cho quá trình sản xuất tiếp theo. Tư liệu lao động (chủ yếu là tài sản cố định), có đặc tính tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất và không thay đổi về mặt hình thái hiện vật ban đầu. Cuối mỗi chu kỳ sản xuất, tài sản cố định bị hao mòn và phần giá trị tương đương với mức hao mòn đó được chuyển vào giá trị sản phẩm sản xuất ra. Khi sản phẩm được tiêu thụ, phần giá trị tài sản cố định hao mòn đó lại trở về hình thái tiền tệ, gọi là vốn khấu hao tài sản cố định. Vốn khấu hao được tích luỹ theo thời gian sử dụng của tài sản cố định hình thành quỹ khâu hao. Quỹ khấu hao được chia ra hai phần: Quỹ khâu hao cơ bản và quỹ khấu hao sửa chữa lớn. Quỹ khấu hao sửa chữa lớn tài sản cố định được dùng sửa chữa lớn nhằm phục hồi và duy trì tính năng, công dụng của tài sản cố định. Quỹ khấu hao cơ bản được dùng để tái tạo lại toàn bộ giá trị của tài sản cố định qua con đường đầu tư XDCB, có nghĩa là tái sản xuất giản đơn tài sản cố định. Quỹ khấu hao TSCĐ chỉ ngang bằng giá trị TSCĐ khi nào TSCĐ đó hết thời hạn sử dụng. Trong điều kiện tập trung quỹ khấu hao của nhiều TSCĐ, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-kỹ thuật và năng suất lao động xã hội ngày càng được nâng cao thì quỹ khấu hao cơ bản không những được dùng tái sản xuất giản đơn mà còn có thể được dùng để tái sản xuất mở rộng TSCĐ.
Nguồn vốn đầu tư XDCB hình thành từ quỹ khấu hao TSCĐ có các tính chất sau:
Hình thành dần dần, tương đối ổn định và được tích luỹ theo mức độ hao mòn TSCĐ.
Nguồn vốn này có giới hạn bởi giá trị ban đầu của TSCĐ.
Chủ yếu được dùng để tái sản xuất giản đơn TSCĐ.
Tống sản phẩm xã hội sau khi bù đắp các tư liệu sản xuất đã tiêu hao được gọi là thu nhập quốc dân. Thu nhập quốc dân được chia ra thành quỹ tích luỹ và quỹ tiêu dùng. Quỹ tích luỹ là nguồn vốn để tái sản xuất mở rộng, trong đó chủ yếu là tái sản xuất mở rộng TSCĐ. ở các đơn vị, xí nghiệp thu nhập quốc được tạo ra dưới hình thức quỹ tiền lương và thu nhập thuần tuý. Một phần thu nhập thuần tuý được để lại xí nghiệp, một phần được tập trung vào ngân sách Nhà nước dưới hình thức thuế. Một phần thu nhập thuần tuý của xí nghiệp và một phần trong số chi của ngân sách Nhà nước được dùng làm nguồn vốn đầu tư đầu tư XDCB, để tạo ra TSCĐ trong nền kinh tế quốc dân. Giữa TSCĐ và thu nhập quốc dân có mối quan hệ biện chứng phụ thuộc lẫn nhau: Tăng TSCĐ sản xuất sẽ dẫn tới tăng thu nhâp quốc dân. Tăng thu nhập quốc dân sẽ có điều kiện để tái sản xuất mơ rộng TSCĐ. TSCĐ tăng thêm trên cơ sở tăng thêm vốn đầu tư XDCB. Khối lượng vốn đầu tư XDCB tăng lên khi thu nhập quốc dân tăng lên và tăng phần tích luỹ trong thu nhập quốc dân.
Nguồn vốn đầu tư XDCB được hình thành từ quỹ tích luỹ có các tính chất cơ bản sau:
Được hình thành từ việc phân phối kết quả của sản xuất kinh doanh.
Mức tăng của nguồn vốn này phụ thuộc mức tăng thu nhập quốc dân, chính sách đầu tư phát triển sản xuất của Đảng, Nhà nước và việc hiải quyết mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng.
Chủ yếu được dùng để tái sản xuất mở rộng TSCĐ.
Trong điều kiện quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế một bộ phận thu nhập quốc dân nước ngoài được di chuyển vào nước ta dưới hình thức viện trợ, cho vay... và trực tiếp đầu tư của chính phủ và các tổ chức, cá nhân nước ngoài. Nguồn vốn đầu tư này có vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển kinh tế nước ta là không thể phủ nhận, tuy nhiên, trong quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội Đảng và Nhà nước ta luôn coi nguồn vốn đầu tư trong nước (khấu hao cơ bản và tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân) là nhân tố chủ yếu, có tính chất quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của mình.
3. Phân loại vốn đầu tư XDCB:
Vốn đầu tư XDCB chủ yếu được phân loại theo một số tiêu thức sau: theo nguồn hình thành, theo cơ cấu nghành, cơ cấu công nghệ và cơ cấu tái sản xuất.
3.1/ Vốn đầu tư XDCB phân theo nguồn hình thành: Bao gồm vốn ngân sách Nhà nước cấp, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước (hai nguồn này đã bao gồm nguồn ODA), vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước, vốn đầu tư của tư nhân và dân cư, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
3.2/ Vốn đầu tư XDCB phân theo cơ cấu nghành: Thể hiện sự phân phối vốn đầu tư XDCB giữa các nghành của nền kinh tế quốc dân.
3.3/ Vốn đầu tư XDCB phân theo cơ cấu công nghệ: Cơ cấu công nghệ thể hiện mối tương quan của vốn đầu tư XDCB theo công dụng. Tức là thể hiện mối tương quan giữa các phần chi phí cho các công tác xây dựng cơ bản, đó là: vốn cho công tác xây dựng và lắp đặt, cho công tác mua sắm máy móc và thiết bị và vốn đầu tư XDCB cho các công tác kiến thiết cơ bản khác.
Hoàn thiện cơ cấu công nghệ của vốn đầu tư có nghĩa là tăng tương đối phần chi mua thiết bị, công cụ. Sự thay đổi cơ cấu vốn đầu tư XDCB theo hướng tăng chi phí mua thiết bị phản ánh tiến bộ kỹ thuật của sản xuất và có ý nghĩa kinh tế quan trọng. Việc hoàn thiện cơ cấu công nghệ vốn đầu tư sẽ ảnh hưởng tích cực đến cải tiến cơ cấu kỹ thuật của TSCĐ , bằng việc tăng phần máy móc, thiết bị. Hiệu quả sản xuất phụ thuộc vào số lượng, chất lượng và trình độ sử dụng các máy móc thiết bị, cho nên nâng cao tỷ trọng chi phí thiết bị, tăng bộ phận tích cực của TSCĐ là một trong những phương hướng quan trọng của hoàn thiện cơ cấu vốn đầu tư.
3.4/ Vốn đầu tư XDCB phân theo hình thức tái sản xuất: Có bốn hình thức tái sản xuất TSCĐ: Xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, trang bị lại kỹ thuật các cơ sở hiện có.
Trong những giai đoạn nhất định của sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế, việc xác định tỷ lệ tối ưu giữa các hình thức tái sản xuất TSCĐ có ý nghĩa quan trọng. Xây dựng mới cho phép áp dụng dễ dàng kỹ thuật mới và thay đổi sự phân bố các nghành bằng cách bố trí các công trình xây dựng mới tại những nơi hợp lý, bảo đảm khai thác đầy đủ hơn các tài nguyên thiên nhiên. Khi nhấn mạnh các ưu điểm trên, từ góc độ hiệu quả toàn bộ nền sản xuất xã hội, xây dựng mới có những nhược điểm nhất định: Đòi hỏi vốn đầu tư lớn, phần đáng kể vốn đầu tư được hướng vào xây dựng nhà xưởng và các công trình phục vụ, xây dựng mới là yếu tố phát triển sản xuất theo chiều rộng, còn cải tạo, trang bị lại kỹ thuật các xí nghiệp hiện có là yếu tố phát triển sản xuất theo chiều sâu.
Có thể đạt được hiệu quả đáng kể nhờ cải tạo và trang bị lại các xí nghiệp hiện có. Điều đó gắn liền với hàng loạt các yếu tố, trước hết là nhờ sử dụng các TSCĐ sẵn có, đặc biệt là bộ phận nhà xưởng, vật kiến trúc. Những mối liên hệ sản xuất đã được xác lập, với cán bộ chuyên môn đã có và kinh nghiệm của họ sẽ góp phần tăng sản xuất sản phẩm với chi phí vốn đầu tư tương đối ít và trong một thời gian ngắn hơn so với xây dựng các xí nghiệp mới. Nâng cao năng lực sản xuất bằng cách cải tạo và trang bị lại các xí nghiệp hiện có, áp dụng thiết bị kỹ thuật hiện đại hơn sẽ dẫn đến nâng cao tỷ trọng bộ phận tích cực của TSCĐ (nâng tỷ trọng máy móc, thiết bị) và giảm thời hạn thu hồi vốn đầu tư. Cải tạo và trang bị lại kỹ thuật các xí nghiệp không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn có ý nghĩa xã hội, có tác dụng giảm nhẹ điều kiện lao động và nâng cao trình độ công nhân.
Đối với vấn đề cơ cấu công nghệ của vốn đầu tư XDCB, cùng với việc xét chọn chặt chẽ các công trình xây dựng mới, đầu tư chiều sâu và đồng bộ hoá phải được coi là một vấn đề rất quan trọng trong việc hoàn thiện cơ cấu đầu tư, trước hết nhằm vào những vào những khâu mấu chốt đem lại hiệu quả cao, tăng nhanh sản lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời việc sử dụng hợp lý, có hiệu quả vốn đầu tư XDCB có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng phát triển kinh tế, văn hoá, ổn định và từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
4. Các nguồn hình thành vốn đầu tư XDCB:
Vốn đầu tư XDCB được hình thành từ các nguồn sau:
Vốn ngân sách Nhà nước được hình thành từ một phần tích luỹ trong nước, một phần vốn khấu hao cơ bản do các đơn vị nộp Nhà nước, một phần vốn vay trong nước thông qua việc phát hành tín phiếu Nhà nước, một phần vốn vay nợ và viện trợ không hoàn lại của nước ngoài bao gồm cả phần vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Vốn ngân sách Nhà nước được cấp theo kế hoạch Nhà nước đã giao.
Vốn tín dụng ưu đãi thuộc ngân sách Nhà nước: hình thành từ ngân sách Nhà nước, vốn thu nợ các năm trước, vốn chính phủ vay nợ nước ngoài theo mục tiêu dự án phải thoả thuận với nước ngoài. Việc bố trí đầu tư cho các dự án này do chính phủ quyết định cụ thể cho từng đối tượng trong thời kỳ kế hoạch. Vốn vay này được hưởng lãi suất ưu đãi hoặc không tuỳ theo dự án, công trình do chính phủ quyết định.
Vốn tín dụng thương mại áp dụng theo cơ chế tự vay, tự trả, và thực hiện đầy đủ các thủ tục đầu tư và điều kiện vay trả vốn. Vốn tín dụng thương mại được ngân hàng Nhà nước cho vay trực tiếp các chủ đầu tư theo các hình thức vay ngắn hạn, dài hạn với lãi suất bình thường.
Vốn tự huy động của các doanh nghiệp Nhà nước: vốn này hình thành từ lợi nhuận để lại, sau khi đã nộp thuế đầy đủ cho Nhà nước, tiền từ thanh lý tài sản, từ vốn khấu hao được Nhà nước cho để lại, từ vốn cổ phần, vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác và từ các quỹ của doanh nghiệp có thể huy động được, cũng như các khoản tự vay khác mà doanh nghiệp tự có.
Vốn hợp tác liên doanh với nước ngoài của các doanh nghiệp Nhà nước theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Vốn này là của các tổ chức cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vào Việt Nam bằng tiền nước ngoài hoặc bằng tài sản thiết bị máy móc, nguyên liệu được chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh xí nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Vốn góp của nhân dân: là vốn huy động nhân dân đóng góp bằng tiền, hiện vật hoặc bằng công lao động cho các dự án đầu tư, chủ yếu sử dụng vào việc xây các công trình phúc lợi công cộng phục vụ trực tiếp cho người góp vốn theo điều kiện cam kết khi huy động vốn.
Vốn đầu tư của các tổ chức kinh tế ngoài quốc doanh: là vốn đầu tư của các chủ đầu tư là các đơn vị tổ chức kinh tế thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh như doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn công ty cổ phần dùng vào đầu tư xây dựng cơ bản, vốn này có thể là vốn tự có hoặc vốn vay.
Những nguồn vốn khác: ngoài những nguồn vốn nói trên, còn có vốn đầu tư của các cơ quan ngoại giao, tổ chức quốc tế và các cơ quan nước ngoài khác được phép xây dựng trên nước ta.
IV. Kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư XDCB :
1. Kết quả của hoạt động đầu tư XDCB:
Kết quả hoạt động đầu tư thể hiện ở khối lượng vốn đầu tư đã được thực hiện, ở các tài sản cố định được huy động hoặc năng lực sản xuất kinh doanh phục vụ tăng thêm.
1.1/ Khối lượng vốn đầu tư thực hiện:
Khối lượng vốn đầu tư thực hiện là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác chuẩn bị đầu tư, xây dựng nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị máy móc, để tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác theo qui định của thiết kế dự toán và được ghi trong dự án đầu tư được duyệt.
1.2/ Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm:
Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm, hàng hoá hoặc tiến hành hoạt động dịch vụ cho xã hội đã được ghi trong dự án đầu tư) đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào hoạt động được ngay.
Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo qui định được ghi trong dự án đầu tư.
2. Hiệu quả của hoạt động đầu tư XDCB:
Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả nền sản xuất xã hội. Điều cơ bản trước tiên của việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư là việc chọn phương án đầu tư có lợi nhất, đảm bảo tăng sản phẩm nhiều nhất trên một đồng vốn đầu tư, rút ngắn thời hạn thu hồi vốn cũng như đáp ứng các tiêu chí khác về kinh tế-tài chính cũng như kinh tế-xã hội mà một dự án đầu tư phải có.
Nâng cao hiệu quả vốn đầu tư cũng có nghĩa là tăng năng suất lao động, tăng khối lượng sản phẩm, giảm giá thành, cảI tiến chất lượng sản phẩm, tăng thu nhập quốc dân, tạo công ăn việc làm, phục vụ việc thực hiện các chủ trương chính sách cũng như đáp ứng tốt nhất việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của Nhà nước, nâng cao mức sông nhân dân,… tạo ra những điều kiện cho việc phát triển toàn diện mỗi cá nhân trong cộng đồng.
TáI sản xuất mở rộng TSCĐ là đòi hỏi chi phí lớn và chỉ mang lại kết quả trong một thời gian dài. Vốn đầu tư bị khê đọng không vận động không sinh lời do quá trình xây dựng kéo dàI. Do đó, điều quan trọng đối với xã hội cũng như mọi nhà đầu tư là phảI biết tiền vốn phảI bỏ ra lúc nào và trong khoảng thời gian bao lâu, khi nào vốn đầu tư sẽ được hoàn lại. Vấn đề sử dụng hợp lý nhanh chóng hoàn lại vốn đầu tư được giảI quyết trên cơ sở xem xét các chỉ tiêu và tiêu chuẩn cụ thể đánh giá hiệu quả kinh tế vốn đầu tư XDCB. Các chỉ tiêu đó rất cần thiết khi xem xét tính hợp lý của đầu tư XDCB ở các giai đoạn kế hoạch hoá, nghiên cứu xem xét các biện pháp hoàn thiện kỹ thuật, cảI tạo và trang bị lại kỹ thuật các cơ sở hiện có. Nhiệm vụ tính toán ở giai đoạn thiết kế là chọn các phương án tối ưu xây dựng các cơ sở, các công trình, đáp ứng được tốt nhất các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế-tài chính. Xác định hiệu quả ở giai đoạn lập kế hoạch đối với các bộ, nghành giúp cho việc lựa chọn đúng hướng đầu tư XDCB, đảm bảo thực hiện các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, tăng phúc lợi vật chất tinh thần của nhân dân…tức là đáp ứng tốt nhất việc thực hiện các chỉ tiêu hiệu quả trên phạm vi nền kinh tế-hiệu quả kinh tế-xã hội. Như vậy, hiệu quả của vốn đầu tư XDCB phảI được xem xét và tính toán đông thời trên cả hai phạm vi: ở khâu cơ sở, nơI dự kiến thực hiện đầu tư vốn đầu tư và trên bình diện nền kinh tế và xã hội.
ở các đơn vị, hiệu quả vốn đầu tư XDCB được thể hiện tập trung ở các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế-tàI chính, đó là:
Các chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án đầu tư XDCB: Đây là các chỉ tiêu phản ánh quy mô lãI của dự án.
chỉ tiêu: Hệ số hoàn vốn hay tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư: Chỉ tiêu này nói lên mức độ thu hồi vốn đầu tư ban đầu từ lợi nhuận thuần thu được hàng năm.
Chỉ tiêu: Tỷ số lợi ích trên chi phí: Chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ tương đối giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra.
Chỉ tiêu: Thời hạn thu hồi vốn đầu tư: Chỉ tiêu này thể hiện số thời gian cần thiết để mà dự án phảI hoạt động để thu hồi đủ số vốn đầu tư đã bỏ ra.
Chỉ tiêu: Hệ số hoàn vốn nội bộ-còn gọi là suất thu lợi nội tại, tỷ suất nội hoàn vốn đầu tư: Hệ số hoàn vốn nội bộ chính là mức lãI suất nếu dùng nó làm hệ số chiết khấu để tính chuyển các khoản thu, chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu cân băng tổng chi. Chỉ tiêu này là một chỉ tiêu cơ bản trong phân tích hiệu quả tàI chính dự án. Nó cho biết mức lãI suất mà dự án có thể đạt được.
NgoàI ra, ở phạm vi này, việc đánh giá hiệu quả vốn đầu tư còn được thực hiện qua nhiều công cụ, chỉ tiêu khác nữa, ví dụ như: Chỉ tiêu điểm hoà vốn, chỉ tiêu đánh giá độ an toàn của dự án…
ở phạm vi nền kinh tế, hiệu quả vốn đầu tư XDCB được đánh giá thông qua các tiêu chí cơ bản sau đây:
Nâng cao mức sông nhân dân: Được thể hiện gián tiếp thông qua các số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm quốc gia, mức gia tăng thu nhập, tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Phân phối thu nhập và công bằng xã hội: Thể hiện qua sự đóng gốp của công cuộc đầu tư và việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triển và đẩy mạnh công băng xã hội.
Gia tăng số lao động có việc làm: Đây là một trong những mục tiêu chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của các nước thừa lao động, thiếu việc làm.
Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ: Những nước đang phát triển không chỉ nghèo mà còn là nước nhập siêu. Do đó, đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu qua việc đầu tư đúng hướng, hợp lý là những mục tiêu quan trọng nhằm tích luỹ và tiết kiệm ngoại tệ cho quốc gia.
Một số chỉ tiêu khác phản ánh hiệu quả kinh tế-xã hội vốn đầu tư XDCB: Như tạo điều kiện khai thác tàI nguyên hợp lý, nâng cao năng suất lao động, nâng cao trình độ lao động, chuyển giao công nghệ tiên tiến cho công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế-xã hội các địa phương nghèo, các vùng mà điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn…
V. Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và hiệu quả vốn đầu tư XDCB:
1. Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng:
Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng là công cụ quản lý mà chủ thể quản lý hình thành và sử dụng nhằm tác động, điều chỉnh và định hướng đối với hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản (đối tượng quản lý). Cơ chế đó là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý, nhưng được hình thành và vận dụng dựa trên các quy luật khách quan, chủ yếu là các quy luật kinh tế, phù hợp với bản chất, đặc điểm và những điều kiện cụ thể của hoạt động đầu tư XDCB.
Cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng được thể hiện ở các hình thức tổ chức quản lý và phương pháp quản lý hoạt động đầu tư XDCB.
Các bộ phận cấu thành chủ yếu của cơ chế này là hệ thống tổ chức bộ máy quản lý và quá trình điều hành quản lý, hệ thống kế hoạch hoá đầu tư, hệ thống quản lý tàI sản của đầu tư XDCB, hệ thống chính sách và đòn bẩy kinh tế, hệ thống pháp luật có liên quan đến đầu tư và xây dựng; các quy chế, thể lệ, các chế độ, hệ thống chuẩn mực, định mức, đơn giá…và các thể lệ khác trong quản lý đầu tư và xây dựng.
2. Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và hiệu quả vốn đầu tư XDCB:
Như đã trình bày ở trên, đầu tư xây dựng cơ bản là lĩnh vực hoạt động có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế-xã hội. Là một dạng hoạt động đầu tư phát triển, đầu tư XDCB có chức năng tạo ra và không ngừng đổi mới, hoàn thiện cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền kinh tế, từ đó mà có tác động quyết định đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Song, như trình bày ở trên ta đã thấy, quá trình hình thành một dự án đầu tư và xây dựng, tức là quá trình hình thành một công trình xây dựng là hết sức phức tạp, mang tính chất liên nghành, có sự tham gia của rất nhiều chủ thể, từ những chủ thể mang quyền lực Nhà nước đến các đơn vị cơ sở thực hiện đầu tư xây dựng cũng như các nghành, các lĩnh vực kinh tế-kỹ thuật có liên quan. Do đó, quản lý đầu tư XDCB có thể nói là một lĩnh vực hết sức phức tạp và nhạy cảm, đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ của nhiều cấp nhiều nghành và sự tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định, các trình tự, thủ tục, chế độ…của các lực lượng tham gia.
Cùng với quá trình phát triển kinh tế đất nước, Nhà nước ta đã không ngừng tăng cường công tác quản lý đầu tư XDCB, bằng một hệ thống đồng bộ các chính sách, chế độ của nghành xây dựng và liên nghành. Đồng thời cũng thường xuyên sửa đổi, bổ xung và hoàn thiện hệ thống chính sách, chế độ này cho ngày càng thêm hiệu quả và phù hợp. Và thực tế, ở một mức độ nhất định, trong lĩnh vực quản lý đầu tư XDCB thời gian qua đã hình thành một cơ chế quản lý có hệ thống. Và quá trình hoàn thiện cơ chế quản lý này không ngoàI mục đích là ngày càng tác động một cách tích cực, hiệu quả lên hoạt động đầu tư XDCB nhằm đảm bảo cho lĩnh vực hoạt động này thực hiện được tốt nhất chức năng quan trọng của mình đối với quá trình xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền kinh tế-xã hội. Song xuất phát từ đặc điểm, vai trò của lĩnh vực này, thì thực chất cơ chế quản lý đầu tư xây dựng được hình thành và hoàn thiện chính là nhằm vào mục đích ngày càng nâng cao hiệu quả quá trình sử dụng vốn đầu tư XDCB. Vì rằng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB cũng chính là cách để tạo ra và hoàn thiện cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền kinh tế-xã hội.
Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khoá VII đã ghi rõ: “ Đổi mới cơ chế quản lý đầu tư XDCB để ngăn chặn tiêu cực, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư nhất là các khâu thiết kế, xác định đơn giá xây dựng, nghiệm thu công trình, sử dụng dịch vụ thẩm định chất lượng, giá cả thiết bị vật tư nhập khẩu và kiểm toán của các công ty trong và ngoàI nước có uy tín trong lĩnh vực này. Mỗi công trình đều phảI có người làm cụ thể; nếu là công trình phảI thu hồi vốn thì phảI thu hồi đủ và đúng hạn cho Nhà nước. Khai thác mọi khả năng tiết kiệm và tự đầu tư phát triển của nhân dân, của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế bằng mọi hình thức sao cho mọi tiềm năng đều được huy động, mọi đông vốn đều được sinh lời…”. Qua đó ta có thể thấy tính chất phức tạp của hoạt động này, tính đa nghành, tính đa diện trong quản lý cũng như vấn đề hiệu quả vốn đầu tư XDCB luôn có tính chất thời sự. Điều này cũng thể hiện vai trò tác động quan trọng của cơ chế quản lý đối với việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư XDCB.
Như vậy, cơ chế quản lý đầu tư xây dựng hoạt động và đóng vai trò như một lực tác động tổng hợp lên quá trình đầu tư XDCB, đảm bảo cho việc thực hiện đầu tư xây dựng diễn ra thuận lợi, nói cách khác một cơ chế quản lý phù hợp sẽ là tác nhân hết sức quan trọng đối với quá trình thực hiện và vật chất hoá vốn đầu tư XDCB để trở thành cơ sở vật chất-kỹ thuật cho nền kinh tế, tức là đảm bảo hiệu quả vốn đầu tư XDCB.
Chương II:
Qúa trình chuyển biến cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và hiệu quả vốn đầu tư XDCB thời gian qua.
========g*h=======
I. KháI quát về quá trình chuyển biến cơ chế quản lý đầu tư xây dựng thời gian qua:
Trong những năm vừa qua, đặc biệt là từ 1990 đến nay, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, ba cơ quan đầu nghành về quản lý đầu tư và xây dựng là: Bộ Xây dựng, Bộ TàI Chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã được thủ tướng Chính Phủ giao nhiệm vụ cùng với các bộ, nghành có liên quan, nghiên cứu đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng. Sự đổi mới này được thể hiện trong các nội dung của Điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng 177/CP (1994), điều lệ Quản lý đầu tư và xây dựng 42/CP (1996), 92/CP (1997) và gần đây là quy chế Quản lý đầu tư và Xây dựng 52/CP (1999) được sửa đổi, bổ sung trong Nghị định 12/NĐ-CP (2000) của Chính Phủ và gần đây nhất, vào năm nay (2003) là Nghị định 07/2003/NĐ-CP của Chín Phủ, cùng với các văn bản hướng dẫn của các Bộ: Kế hoạch đầu tư, TàI Chính, Xây dựng, Quỹ hỗ trợ đầu tư. Mục tiêu của quá trình hoàn thiện này không ngoàI lý do là nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư XDCB thông qua các biện pháp chông lãng phí, tiêu cực và đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng. Có thể nói, quá trình này là sự vận dụng tích cực đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước và những phương pháp quản lý tiên tiến của khu vực và quốc tế trong lĩnh vực đầu tư và xây dựng vào thực tế nước ta.
Kết quả là, việc quản lý đầu tư XDCB cho đến nay đã hình thành một cơ chế rõ ràng và có hệ thống, tuy nó chưa đáp ứng được những yêu cầu kịp thời và cụ thể cho từng lĩnh vực, song nó có tác dụng tăng cường quản lý đầu tư, chống thất thoát, hạn chế lãng phí, thực hiện tiết kiệm, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư XDCB và càng đẩy nhanh tốc độ và quy mô đầu tư, đặc biệt là chiến lược đầu tư được tập trung cho những công trình trọng điểm, có tác dụng làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Quá trình chuyển biến cơ chế quản lý đầu tư và xây dựng có thể được kháI quát trên một số mặt chính sau đây:
1. Đã có bước chuyển đổi cơ bản từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp trong đầu tư và xây dựng sang “cơ chế quản lý theo dự án”.
Với cơ chế này đòi hỏi phảI từng bước thay đổi cách quản lý từ khâu lập dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng, lãnh thổ; quy hoạch phát triển nghành; quy hoạch xây dựng đô thị-nông thôn; quy hoạch chi tiết các trung tâm đô thị và quy hoạch chi tiết sử dụng đất đai. Các quy hoạch này đều có quan hệ ràng buộc lẫn nhau, đó là những ràng buộc về không gian, thời gian, quy mô, địa điểm, môi trường, tài nguyên…
Trong 5 năm 1996-2000 Nhà nước đã tập trung chỉ đạo việc lập và phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội cho hầu hết các vùng, đông thời với việc xây dựng quy hoạch phát triển nghành, các khu công nghiệp tập trung…riêng đồ án quy hoạch đô thị và các khu công nghiệp tập trung được duyệt là cơ sở pháp lý để quản lý đô thị, tiến hành công tác đầu tư xây dựng; lập kế hoạch cải tạo, xây dựng đô thị hàng năm, ngắn hạn và dài hạn thuộc các nghành và địa phương. Nếu như trước năm 1990, hầu như cả nước chưa có quy hoạch chung đô thị được duyệt, thì đến nay 86 thành phố, thị xã đã có quy hoạch chung được duyệt đến năm 2010 và hiện đang trong giai đoạn điều chỉnh đến năm 2020. Đối với 457 thị trấn và gần 9000 xã, Bộ Xây dựng đã cùng UBNN các tỉnh thành phố trực thuộc TW chủ động lập, xét duyệt được nhiều quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết. Cho đến năm 2000, đã có khoảng 2/3 số thị trấn có quy hoạch được duyệt, số còn lại đã được hoàn tất trong năm 2002. Việc lập quy hoạch chi tiết đã được triển khai khẩn trương, nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư xây dựng của các chủ đầu tư thuộc mọi đối tượng: Nhà nước, nhân dân, nước ngoài…hiện nay đã có bản hoàn thành việc lập kế hoạch chi tiết xây dựng 66 khu công nghiệp tập trung trong cả nước và quy hoạch chi tiết sử dụng đất tỷ lệ 1/2000-1/500 đối với các đô thị loại I, II và một số loại III. Tất cả mặt bằng dự án đầu tư xây dựng các khu đô thị đều phảI có quy hoạch chi tiết được duyệt và đây là điều kiện tiên quyết, là cơ sở ban đầu quan trọn nhất để bố trí và lựa chọn dự án đầu tư phát triển, để các cấp có thẩm quyền ra quyết định đầu tư, hoặc cho phép đầu tư. NgoàI ra, các khu kinh tế cửa khẩu, một số vùng kinh tế trọng điểm cũng đã được lập quy hoạch, trong số đó có nhiều quy hoạch được cấp có thẩm quyển phê duyệt.
Nói chung, các quy hoạch phát triển bước đầu là cơ sở tin cậy để xác lập công tác chuẩn bị đầu tư, kêu gọi các nhà đầu tư và là công cụ quản lý Nhà nước, các tổ chức tài trợ. Đầu tư theo quy hoạch đã hạn chế đầu tư theo phong trào trước đây, đã cơ bản xác định được thị trường tiêu thụ, đã sử dụng có hiệu quả hơn tài nguyên, năng lực sản xuất cảu mỗi nghành, tạo ra sự phân bổ hợp lý hơn về năng lực sản xuất, điều kiện tự nhiên, lực lượng lao động của mỗi vùng, mỗi địa phương trong phát triển nền kinh tế quốc dân, có tác dụng quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả vốn đầu tư XDCB.
2. Việc phân loại theo quy mô và tính chất của các dự án theo hướng tăng cường trách nhiệm và quyền hạn cho các nghành địa phương và cơ sở cùng với việc phân chia các dự án Nhà nước theo 3 loại nguồn vốn:
Vốn NSNN cấp phát cho các dự án không có khả năng thu hồi vốn; vốn NSNN đầu tư cho các dự án có khả năng thu hồi vốn, thông qua nguồn vốn tín dụng Nhà nước, hoặc tín dụng có bảo lãnh của Nhà nước và đặc biệt là các dự án đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước, băng các nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp, bao gồm cả vốn khâu hao để lại cho doanh nghiệp. Đây là bước đổi mới rất cơ bản nhằm thiết lập mối quan hệ chủ yếu giữa người đi vay và tổ chức cho vay trong quyết định đầu tư. Tạo thế chủ động cho các doanh nghiệp tiếp cận nhanh và và đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường, đối với các sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra…
Như vậy, với cơ chế này, đối tượng và phạm vi sử dụng nguồn vốn đầu tư XDCB đã có sự thay đổi căn bản theo hướng thu hẹp dần tình trạng bao cấp tràn lan trong lĩnh vực sử dụng vốn NSNN cho đầu tư XDCB. Theo đó, vốn đầu tư từ NSNN chỉ dành cho việc đầu tư phát triển các dự án hạ tầng kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng, các dự án không có khả năng thu hồi vốn, hoặc đầu tư hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp Nhà nước, hỗ trợ cho các quỹ đầu tư quốc gia và các quỹ đầu tư địa phương…Đồng thời chuyển một bộ phận vốn đầu tư XDCB tập trung của NSNN cho đối tượng là các dự án sản xuất kinh doanh, dịch vụ có khả năng thu hồi vốn một cách trực tiếp sang cơ chế cho vay để đầu tư; khuyến khích các doanh nghiệp tự đầu tư, tự vay, tự trả, tự chịu trách nhiệm về kết quả và hiệu quả vốn đầu tư XDCB. Rõ ràng, sự chuyển biến này của cơ chế tài chính trong lĩnh vực đầu tư XDCB đối với hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB là hiện thực và đã được chứng minh.
3. Việc chấp hành trình tự đầu tư và xây dựng đã đạt được những tiến bộ rất rõ rệt:
Đặc biệt trong các khâu: Lập-thẩm định dự án và quyết định đầu tư; lập-thẩm định và phê duyệt hồ sơ thiết kế, dự toán, tạo điều kiện và làm căn cứ quan trọng để ghi kế hoạch vốn đầu tư, mở tài khoản thanh toán, giao nhận thầu hoặc tổ chức đấu thầu…thể hiện qua chất lượng hồ sơ dự án, hồ sơ thiết kế dự toán có nhiều tiến bộ. Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình triển khai thực hiện và giải ngân vốn đầu tư XDCB, nhanh chóng đưa công trình vào khai thác sử dụng, phát huy hiệu quả trong nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình thu hồi vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư XDCB trong nền kinh tế.
4. Về lĩnh vực quản lý chất lượng công trình xây dựng đã có những tiến bộ đáng kể:
Trong nhận thức, chúng ta đều thấy rõ: Quản lý chất lượng công trình xây dựng là một trong những khâu rất quan trọng. Sản phẩm xây dựng có phản ánh đúng với giá trị đích thực của nó hay không, tiến độ công trình có đảm bảo đúng với kế hoạch đề ra hay không, vốn đầu tư XDCB có đảm bảo đúng với tổng mức đầu tư đã được phê duyệt hay không, một phần cũng phụ thuộc vào công tác quản lý chất lượng công trình.
Để tăng cường công tác quản lý này, đặc biệt là với các công trình sở hữu Nhà nước thời gian vừa qua, các văn bản qui định, hướng dẫn qui trình, hệ thống tổ chức quản lí chất lượng xây dựng đã được ban hành. ở các bộ, nghành, địa phương, từng dự án đã có các tổ chức giám sát, nghiệm thu chất lượng công trình. Mô hình quản lý chất lượng thông qua các tổ chức tư vấn, giám sát thay cho mô hình cũ do chủ đầu tư tự tổ chức giám sát được áp dụng rông rãi. các cơ quan chức năng quản lý Nhà nước về chất lượng công trình đã thường xuyên phổ biến, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ cho các tổ chức giám sát chất lượng ở các công trường. Năng lực đội ngũ quản lý chất lượng công trình từng bước được nần cao, trang thiết bị phục vụ công tác giám định được đổi mới, nâng cấp. Do vậy, công tác quản lý chất lượng công trình đã đi vào nề nếp và có tiến bộ rõ rệt. Trong 5 năm 1996-2000 đã xét công nhận 828 công trình đạt chất lượng cao và 262 sản phẩm xây dựng có chất lượng cao. Nhiều đơn vị đã và đang tổ chức mô hình quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO 9000. Đến năm 2000, toàn nghành đã có 16 đơn vị được cấp chứng chỉ ISO 9002. Sự phát triển của lĩnh vực quản lý này tất yếu tạo ra cơ sở để tin chắc rằng các công trình đầu tư xây dựng sẽ ngày càng có chất lượng cao hơn, vốn đầu tư XDCB bỏ ra sẽ mau chóng được thu hồi.
5. Về lĩnh vực quản lý chi phí dự án đầu tư – xây dựng :
Đây là một trong những vấn đề được các nghành, các cấp và xã hội quan tâm. Nó gắn liền với chủ trương chông lãng phí và thất thoát, thực hành tiết kiệm, nâng cao hiệu quả kinh tế–xã hội một cách thiết thực và trực tiếp nhất. Việc hình thành giá cả và chi phí qua các giai đoạn, tổng mức đầu tư ( trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư), tổng dự toán (trong giai đoạn thiết kế kĩ thuật), đến giá thành quyết toán (trong giai đoạn hoàn thành đua công trình vào sử dụng) đã được quy định trong quy chế quản lý đầu tư và xây dựng. Cụ thể Nhà nước thực hiện quản lý chi phí đầu tư – xây dựng thông qua việc ban hành các chế độ, chính sách về giá, các nguyên tắc, phương pháp lập dự toán, các căn cứ để xác định tổng mức đầu tư của dự án, tổng dự toán công trình và dự toán hạng mục công trình (suất đầu tư, chi phí chuẩn, hệ thống định mức dự toán…); còn giá thanh toán là giá trúng thầu và các điều kiện ghi trong hợp đồng giữa chủ đầu tư và nhà thầu. Như vậy , giá dự toán được lập và được phê duyệt sẽ là căn cứ để xét thầu, một trong những tiêu chuẩn quan trọng để lựa chọn đơn vị trúng thầu.
6. Quản lý vốn đầu tư bằng kế hoạch hoá của Nhà nước:
Sau các chiến lược phát triển kinh tế-xã hội (lãnh thổ và khu vực), sau các dự án quy hoạch phát triển, quản lý vốn đầu tư được xác lập bằng các kế hoạch phát triển, đó là kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội nhiều năm và kế hoạch hàng năm. Trong lĩnh vực đầu tư phát triển đã có kế hoạch đầu tư phát triển nhiều năm và hàng năm. Chúng ta đã xây dựng được một số kế hoạch đầu tư phát triển 5 năm cho một số vùng lãnh thổ và một số nghành (tuy chưa đáng là bao), nhưng hàng năm chúng ta đã thực hiện việc quản lý vốn đầu tư bằng các kế hoạch hàng năm, đó là các kế hoạch đầu tư cho các vùng, lãnh thổ (địa phương) và các nghành, lĩnh vực kinh tế-xã hội. Quản lý vốn đầu tư thông qua các kế hoạch hàng năm, chủ yếu được xác lập và tiến hành đối với các nguồn vốn đầu tư Nhà nước. Bằng các kế hoạch vốn đầu tư hàng năm, Nhà nước sử dụng các nguồn vốn của mình để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội hàng năm. Kế hoạch vốn đầu tư hàng năm có một ưu thế nổi bật là: Phân bổ vốn đầu tư của Nhà nước cân bằng với các dự án đầu tư đang triển khai dơ dang năm trước, đảm bảo nguồn vốn đối ứng trong nước để tiếp nhận giảI ngân nguồn vốn ODA, các dự án đầu tư mới phù hợp với quy hoạch và kế hoạch phát triển.
Quá trình kế hoạch hoá này đã làm cho công tác đầu tư XDCB được động không những về vốn, chủ động trong mỗi bước đi, mà còn trong việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong từng giai đoạn và từng bước nâng cao hiệu quả của công tác đầu tư. Nền kinh tế nước ta khi chuyển đổi cơ chế, phát triển với tốc độ nhanh, kéo theo công tác đầu tư XDCB thay đổi trên nhiều phương diện. Để có vốn đáp ứng được yêu cầu đổi mới và yêu cầu phát triển đất nước cần phảI kế hoạch hoá một cách chặt chẽ vốn đầu tư .
II. Đánh giá về kết quả quá trình đổi mới cơ chế quản lý đầu tư xây dựng trong quản lý và thực tế hoạt động đầu tư XDCB:
A.Trong quản lý đầu tư XDCB:
Qúa trình chuyển đổi cơ chế quản lý, với việc ban hành Luât đầu tư nước ngoài, việc cải cách và hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB cũng được chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn có nhiều khó khăn, phức tạp với nhiều dự án đầu tư trong ngoài nước thuộc mọi thành phần kinh tế với kỹ thuật hiện đại, tiên tiến và yêu cầu quản lý ngày càng cao, cùng với sự cạnh tranh gay gắt trong qúa trình thi công xây dựng công trình. Tuy vậy, công tác quản lý đầu tư XDCB của nước ta đã có những chuyển biến tích cực như sau:
1. Các công trình XDCB đều có dự án đầu tư được duyệt:
Trước những năm 1990, các công trình XDCB ở nước ta trước khi đầu tư chỉ có luận chứng kinh tế kỹ thuật và khái toán với nội dụng quá đơn giản. Nhưng từ năm 1991 trở lại đây, các công trình XDCB đều phải có dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các công trình XDCB được chia làm 2 loại: Đối với những công trình có quy mô lớn, kỹ thuật phức tạp, tính chất quan trọng, thì trình tự lập dự án đầu tư được tiến hành theo 2 bước: Bước nghiên cứu tiền khả thi và bước nghiên cứu khả thi. Còn đối với các công trình khác thì việc lập dự án đầu tư chỉ tiến hành một bước-bước nghiên cứu tiền khả thi.
Chính những quy định và cách quản lý đối với từng loại dự án dự án như vậy đã đem lại những kết quả mới trong thực tế quản lý và đầu tư xây dựng các công trình.
2. Công tác đầu tư XDCB được kế hoạch hoá dài hạn và ngắn hạn ở cả hai cấp vĩ mô và vi mô và được cân đối nguồn vốn cho từng dự án đầu tư:
Trong những năm qua, công tác đầu tư XDCB ở nươc ta đã đựoc kế hoạch hoá dài hạn và ngắn hạn một cách chặt chẽ trên cả phương diện của Nhà nước, của nghành và của từng doanh nghiệp.
Công tác kế hoạch hoá này đã làm cho công tác đầu tư XDCB đựoc chủ động không những về nguồn vốn, chủ động trong mỗi bước đi, mà còn trong việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế trong từng giai đoạn và từng bước nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Nền kinh tế nước ta từ khi chuyển đổi cơ chế đã phát triển với tốc độ nhanh, kéo theo công tác đầu tư XDCB thay đổi trên nhiều phương diện. Một trong những chuyển biến quan trọng là việc kế hoạch hoá và cân đối nguồn vốn cho từng công trình đã được thực hiện khá đầy đủ, do đó đã đáp ứng một cách hiệu quả nhu cầu vốn cho phát triển đát nước.
3. Việc tổ chức quản lý các công trình thuộc các dự án có sự phân chia phù hợp giữa các dự án với điều kiện của chủ đầu tư và hình thức quản lý:
Việc phân chia này là hợp lý, theo đó căn cứ vào quy mô, tính chất của dự án và năng lực, điều kiện của mình mà chủ đầu tư thực hiện quản lý dự án theo một trong các hình thức sau:
+ Chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án.
+Chủ nhiệm điều hành dự án.
+Hợp đồng “ Chìa khoá trao tay“ .
+ Tự thực hiện dự án.
Đối với các công trình sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, chủ đầu tư phảI trình người có thẩm quyền quyết định đầu tư quyết định hình thức quản lý thực hiện dự án.
4. Đã áp dụng rộng rãI phương thức đấu thầu thay thế cho phương thức chỉ định thầu:
ở nước ta, trước những năm 1990 áp dụng chủ yếu hình thức chỉ định thầu, nhưng từ năm 1991 trở lại đây đã áp dụng phổ biến hình thức đấu thầu để chọn ra nhà thầu tốt nhất. Hình thức đấu thầu đang được Nhà nước khuyến khích thực hiện cho tất cả các công trình sản xuất kinh doanh hoặc văn hoá-xá hội không phân biệt nguồn vốn. Hiện tại hình thức này là bắt buộc đối với các công trình có chủ đầu tư là các doanh nghiệp Nhà nước hoặc cơ quan, tổ chức Nhà nước có sử dụng vốn Nhà nước phảI tổ chức đấu thầu theo quy chế đấu thầu trừ mộ số dự án, công trình sau được phép chỉ định thầu:
+ công trình có tính chất bí mật quốc gia, bí mật an ninh quốc phòng.
+ công trình có tính chất cấp bách do thiên tai, địch hoạ.
+ công trình có tính chất nghiên cứu thử nghiệm.
Nhờ áp dụng phương thức đấu thầu, đã tạo ra môi trường cạnh trnah lành mạnh trong đầu tư XDCB giữa các nhà thầu trong và ngoàI nước. Từ việc đấu thầu này, các công trình thi công đều hạn thấp được giá thanh toán, giảm vốn đầu tư, rút ngắn được tiến độ thi công và nâng cao được chất lượng công trình.
5. Trình độ chuyên môn và hiệu quả trong quản lý ngày càng được nâng cao:
Trình độ chuyên môn về quản lý đầu tư XDCB trong cơ chế thị trường ngày càng được nâng cao, kinh nghiệm của các nhà quản lý được đức kết thông qua việc cọ sát với môi trường thực tế, đặc biệt là tiếp xúc với các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong XDCB và học hỏi được nhiều kinh nghiệm từ các chuên gia nước ngoài.
Mặt khác, cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường đa phương, nhiều thành phần, nhiều lạo hình doanh nghiệp là sự hoàn thiện không ngừng của Nhà nước về hệ thống chính sách, chế độ và hệ thống công cụ quản lý. Đồng thời cũng là việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, phương tiện hiện đại vào quản lý làm cho hiệu quả quản lý ngày càng được nâng cao.
6. tạo ra một môi trường tốt thu hút hàng triệu lao động có công ăn việc làm:
Bên cạnh những thàn tựu đã đạt đựoc như trên, thông qua việc đầu tư XDCB chúng ta đã tạo ra một bộ mặt mới cho đất nước, hàng triệu người có việc làm, từ đó tác động tích cực đến đời sống, kinh tế-xã hội, an ninh, trật tự…
B. Đối với việc huy động, kết quả và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB:
1. Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư XDCB giai đoạn 1996 – 2000:
Trong giai đoạn 1996-2000, tổng số vốn đầu tư XDCB cho các ngành kinh tế trọng điểm của đất nước (Bao gồm nông nghiệp, công nghiệp, GTVT, VHTT, GD & ĐT) tăng lên rõ rệt. Với tổng số vốn đầu tư XDCB tăng lên 303.474 tỷ đồng gấp hơn hai lần so với thời kỳ 1990 - 1995. So vốn đầu tư cũng tăng lên đáng kễ, năm 1996 là 49078 tỷ đồng so với năm 1995 là 42860 tỷ đồng. Năm 1997 là 56900 tỷ đồng, với tốc độ phát triển gốc là 115,49%. Năm 1998 là 58588 tỷ đồng, tốc độ phát triển 118,83%. Năm 1999 là 63872 tỷ đồng, tốc độ tăng 130%. Năm 2000 là 75579 tỷ đồng với tốc độ phát triển định gốc là 154%. Số liệu trên cho thấy sự gia tăng lượng vốn đầu tư sử dụng trong XDCB có tăng nhưng tốc độ còn hạn chế năm sau mà chỉ gấp rưỡi (tốc độ phát triển định gốc 2000/1996). Điều đó cho thấy mặc dù đã chú trọng sử dụng vốn đầu tư XDCB nhưng lượng vốn này vẫn còn rất ít. Khối lượng vốn đầu tư không nhiều và như vậy đáp ứng được nhu cầu là rất khó. Đó là xem xét về tổng vốn đầu tư, còn trong ngành công nghiệp khối lượng vốn đầu tư luôn nhiều nhất trong các năm của giai đoạn 1996 - 2000 vì đây là ngành có quy mô lớn nhất, quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Mặc dù vậy tốc độ tăng cũng không nhanh, năm 2000 chỉ gấp 1,5 so với năm 1996. Ngành khoa học công nghệ năm 1998, tốc độ tăng còn bị giảm so với năm 1996 chỉ đạt 91,76%. Ngành y tế xã hội năm 1998/1996 là 106,99% trong khi năm 1997/1996 là 122,7%. Sự giảm sút này là vấn đề đáng lo ngại bởi nước ta là nước chậm phát triển, khoa học công nghệ còn lạc hậu và là nước nghèo với các hoạt động y tế xã hội còn hạn chế thì việc đầu tư vào các lĩnh vực này là rất quan trọng.
Giao thông vận tải, thông tin bưu điện cũng là lĩnh vực được đầu tư tương đối trong những năm vừa qua. Sự phát triển nhanh chóng của mạng lưới giao thông và sự bùng nổ thông tin liên lạc những năm gần đây đã cho thấy sự đầu tư vào lĩnh vực này cũng đã có tăng và đạt nhiều thành tựu. Tốc độ tăng vốn đầu tư của ngành này có nhỉnh hơn so với các ngành khác nhưng cũng có thể nói là chưa cao : Từ 10400 tỷ đồng năm 1996 tăng lên đến 17327 tỷ đồng năm 2000.
Thống kê thành tựu của đất cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước: Tức tỷ trọng giá trị tăng thêm của các khu vực (Nông lâm nghiệp và Thuỷ sản, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ) theo giá hiện hành chiếm trong tổng sản phẩm trong nước đã chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng của khu vực công nghiệp và dịch vụ giảm tỷ trọng của khu vực nông nghiệp, tuy nhiên đầu tư vào khu vực nông nghiệp (bao gồm cả lâm nghiệp thuỷ lợi và thuỷ sản) vẫn có xu hướng tăng thêm.
Điều này được thể hiện trong biểu sau:
Cơ cấu vốn đầu tư XDCB các ngành kinh tế giai đoạn 1996 -2000.
Đơn vị %
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
100
100
100
100
100
NN, TL, LN, TS
10,9
10,2
13
11,7
10,7
Công nghiệp
60,6
61,5
60
61
60
GTVT - TT - BĐ
21,3
21,2
21,5
20
22,7
Khoa học công nghệ
0,6
0,5
0,4
0,5
0,4
Giáo dục và đào tạo
2,7
2,6
2,7
3
3,2
Y tế xã hội
1,7
1,7
1,5
1,7
1,5
Văn hoá thể thảo
2,2
2,3
1,9
2,1
1,1
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Từ cơ cấu của vốn đầu tư XDCB các ngành kinh tế cho thấy, chiếm tỷ lệ lớn vẫn là vốn đầu tư cho công nghiệp chiếm 60,6% năm 1996; 61,5% năm 1997; 60% năm 1998; 61% năm 1999 và 60% năm 2000. Nhìn chung công nghiệp vẫn giữ được tỷ trọng đều trong tổng vốn đầu tư, với mức vốn tương đối ổn định mà tỷ trọng giá trị gia tăng tăng dần chứng tỏ đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp đã phát huy được hiệu quả tốt.
Giao thông vận tải cũng chiếm tỷ lệ thứ hai trong tổng vốn đầu tư, năm 1996 là 21,3%; năm 1997 là 21,2%; năm 1998 là 21,5%; năm 1999 là 20%; năm 2000 là 22,7%. Trong những năm qua sự phát triển mạnh của hệ thống giao thông vận tải và thông tin liên lạc Bưu điện cho thấy tỷ lệ vốn trong ngành này cao cũng là phù hợp và cần thiết.
Nước ta là nước nông nghiệp 70 - 80% dân số làm nông nghiệp tuy nhiên hiệu quả ngành này không cao nên tỷ lệ vốn đầu tư vào nông nghiệp cũng thấp hơn so với các ngành khác, chỉ chiếm 10,9% năm 1996; 10,2% năm 1997; 13% năm 1998; 11,9% năm 1999 và 10,7% năm 2000. Sự duy trì tỷ lệ này là hợp lý và cần thiết bởi những người làm nông nghiệp ở nước ta vẫn đang chiếm tỷ lệ cao. Hy vọng trong tương lai tỷ lệ này sẽ giảm bớt và cân bằng với các ngành khác.
Tỷ lệ vốn đầu tư cho giáo dục và đào tạo cũng có xu hướng tăng dần do chính sách của Đảng và Nhà nước chú ý nhiều hơn trong lĩnh vực đào tạo con người, khối lượng vốn đầu tư trong lĩnh vực này ngày càng tăng nhanh và phát huy được tính hợp lý của nó. Theo đánh giá của tổ chức phát triển liên hiệp quốc UNDP thì chỉ số giáo dục ở nước ta năm 1999 đứng thứ 92/174 nước góp phần nâng chỉ số phát triển con người (HDI) từ vị trí thứ 122/174 nước năm 1995, 113/174 năm 1998 lên 110/174 nước năm 1999, xếp trên nhiều nước trong khu vực như : ấn Độ, Pakistan, Myamar, Bangladesh .
Biểu: Vốn đầu tư XDCB của Nhà nước theo giá hiện hành phân theo cấp quản lý.
Năm
Tổng số
Trung ương
Địa phương
Vốn (tỷ đ)
Cơ cấu (%)
Vốn (tỷ đ)
Cơ cấu (%)
Vốn (tỷ đ)
Cơ cấu (%)
1991
5114,6
100
2705,8
52,9
2408,8
41,7
1992
8687,8
100
4956,3
57
3731,5
43
1993
1855,5
100
12238,5
66
6317
34
1994
20796,3
100
12345,8
59,4
8450,5
40,6
1995
26047,8
100
14144
54,3
11903,8
45,7
1996
35894,4
100
20729,6
57,8
15164,8
42,2
1997
46570,4
100
26127,7
56,1
20442,7
43,9
1998
52536,1
100
27247
51,9
25289,1
48,1
1999
63871,9
100
36912,2
57,8
26959,7
42,2
2000
74700
100
43200
57,8
3150
42,2
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
Sự quản lý của Nhà nước đối với vốn đầu tư XDCB của Nhà nước chiếm tỷ lệ cao hơn so với địa phương nhưng với sự chênh lệch không cao. Điều này cho thấy sự phân cấp tương đối hợp lý. Nhà nước chỉ quản lý khối lượng vốn đầu tư trong phạm vi của mình và đối với những công trình mang tính chất quan trọng cấp Nhà nước. Như vậy vừa thể hiện là Nhà nước dân chủ, nhưng cũng không quản lý toàn bộ mà để địa phương quản lý phần vốn đầu tư XDCB ở địa phương mình. Sự phân cấp này làm cho việc sử dụng vốn cũng trở nên thuận lợi hơn, địa phương sẽ sử dụng vốn cho địa phương mình theo từng lĩnh vực mà địa phương thấy cần phải đầu tư nhiều hơn và giảm bớt những lĩnh vực không hoặc chưa cần thiết. Đồng thời Nhà nước cũng giảm nhẹ bớt được sự quản lý của mình đối với khối lượng vốn đầu tư XDCB , tránh sự chồng chéo. Nhìn bảng ta thấy trong giai đoạn từ 1991 - 2000 tuỳ từng năm mà sự phân cấp có khác nhau : Có những năm tỷ lệ vốn giữa Trung ương và địa phương chênh lệch khá rõ như năm 1993 tỷ lệ này là 60% đối với Trung ương và 34% đối với địa phương; năm 1994 Trung ương là 59,4% địa phương là 40,6%. Nhưng cũng có những năm tỷ lệ này tương đối đồng đều: năm 1995 Trung ương là 54,3%, địa phương là 45,7%, năm 1998 Trung ương là 51,9 và địa phương là 48,1%. Sự không đồng đều hoặc đồng đều là do kế hoạch thực hiện đầu tư XDCB của từng năm là khác nhau chứ không hoàn toàn giống nhau.
Cấu thành vốn đầu tư XDCB được thể hiện thông qua biểu sau:
Vốn đầu tư XDCB của Nhà nước phân theo cấu thành (Giá hiện hành).
Năm
Tổng số
Xây lắp
Thiết bị
XDCB khác
Vốn (tỷ đ)
Cơ cấu (%)
Vốn (tỷ đ)
Cơ cấu (%)
Vốn (tỷ đ)
Cơ cấu (%)
Vốn (tỷ đ)
Cơ cấu (%)
1991
5114,6
100
3321,1
64,9
1317,2
26,9
416,3
8,2
1992
8687,8
100
5947,8
68,5
1880,3
21,6
859,7
9,9
1993
1855
100
10717,2
57,7
5933,4
32
1904,9
10,3
1994
20796,3
100
12550
60,3
5957,9
28,6
2288,4
11,1
1995
26047,8
100
15352,4
58,9
7523,8
28,9
3171,6
12,2
1996
35894,4
100
19574,6
54,4
11539,3
32,1
4840,5
13,5
1997
46570,4
100
27693,4
59,5
12422,7
26,7
6454,3
13,8
1998
52536,1
100
31236,2
59,5
13555,1
25,8
7744,8
14,7
1999
63871,9
100
36532,9
57,2
1800,8
26
9336,2
16,8
2000
74700
100
41832
56,0
20169
27
12699
17
Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư:
Cấu thành vốn đầu tư XDCB bao gồm : Vốn xây lắp, vốn mua sắm thiết bị và vốn cho XDCB khác. Trong đó vốn xây lắp chiếm tỷ lệ lớn nhất trên 50% tổng số vốn đầu tư XDCB và tỷ lệ này cũng thay đổi qua các năm trong giai đoạn 1991 - 2000. Có năm chiếm tới 68,5% như năm 1992, 64,9% năm 1991, càng ngày tỷ lệ này càng giảm bớt và giữ ở mức dưới 60% năm 1997, 1998 là 59,5%; năm 1999 là 57,2% và năm 2000 là 56%.
Vốn cho mua sắm thiết bị có tỷ lệ không biến động mạnh riêng hai năm 1993 và 1996 là 32% và 32,1% còn các năm khác dao động trong 26 - 27%, năm 1992 chỉ chiếm 21%.
Vốn XDCB khác có xu hướng tăng dần lên từ 8,2% năm 1991 lên 9,9% năm 1992, 10,3% năm 1993, 11,1% năm 1994; 12,2% năm 1992; 13,5% năm 1996; 13,8 năm 1997; 14,7% năm 1998; 16,8% năm 1999 và 17% năm 2000.
Nhìn vào cấu thành vốn đầu tư XDCB ta thấy sự chênh lệch khá cao giữa các thành phần vốn, vốn xây lắp chiếm tỷ lệ quá lớn trong khi đó vốn cho mua sắm thiết bị lại chỉ chiếm chưa đến 1/2 số vốn xây lắp. Mà máy móc thiết bị là nhân tố chính, chủ yếu làm tăng thêm giá trị sản xuất cho nền kinh tế. Một số ngành như Giao thông vận tải hay giáo dục thì khối lượng vốn đầu tư xây lắp chiếm tỷ lệ lớn là cần thiết, nhưng với các ngành công nghiệp, khoa học kỹ thuật, nông nghiệp thì cũng nên chú ý hơn đối với khâu mua sắm máy móc thiết bị.
Xu hướng giảm bớt tỷ lệ vốn xây lắp trong giai đoạn 1991 - 2000 là điều cần thiết nó sẽ giảm bớt những thất thoát, lãng phí mà chủ yếu hoạt động đầu tư XDCB mắc phải.
2. Kết quả và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư XDCB:
2.1/ Kết quả sử dụng vốn đầu tư XDCB (giai đoạn 1996-2000):
2.1.1/ Khối lượng vốn đầu tư XDCB thưc hiện:
2.1.1.1/ Tình hình thực hiện vốn đầu tư XDCB theo nguồn vốn:
Nhìn chung, khối lượng vốn đầu tư XDCB toàn xã hội thực hiện trong thời gian qua đã tăng lên liên tục qua các năm. Khối lượng vốn đầu tư XDCB toàn xã hội thực hiện năm 1996 là 79.367,4 tỷ đồng, năm 1997 là 96.870,4 tỷ đồng, năm 1998 đạt 97.336,1 tỷ đồng, năm 1999 103.900 tỷ đồng và năm 2000 là 120600 tỷ đồng, thể hiện qua bảng số liệu sau:
Năm
Vốn đầu tư XDCB toàn XH (tỷ đồng)
GDP theo giá thực tế (tỷ đồng)
Tỷ lệ vốn đầu tư XDCBXH so với GDP (%)
Tốc độ tăng GDP (%) giá so sánh
1996
1997
1998
1999
2000
79.367
96.870
97.336
103.900
120600
272.036
313.623
361.468
399.942
444139
29,2
30,9
26,9
26,0
27.1
9,34
8,15
5,76
4,77
6,75
Nguồn:Nghiên cứu Kinh tế số 286 - 3/2002
Từ năm 1996 - nay, so với GDP tỷ lệ vốn đầu tư XDCB toàn xã hội luôn chiếm trên 25% chẳng hạn năm 1996 là 29,2%, năm 1997 là 30,9% hai năm 1998 - 1999 tỷ lệ này có giảm nhưng vẫn trên 25% các tỉ lệ tương ứng là 26,9% và 26%. Tính bình quân 1996 - 2000 thì tỷ lệ vốn đầu tư XDCB xã hội so với GDP đạt 28%, tốc độ tăng GDP theo giá so sánh đạt 7,5% và hệ số ICOR là 3,8 lần. Điều này cho thấy vốn đầu tư XDCB xã hội chiếm một tỷ trọng cao trong GDP, là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong các nguồn vốn huy động cho công tác XDCB, có thể thấy ở giai đoạn này tăng mạnh nhất là vốn đầu tư XDCB từ nguồn vốn tín dụng :
Vốn đầu tư XDCB toàn xã hội 1996 - 2000 theo giá hiện hành phân theo nguồn vốn. Đơn vị: Tỷ đồng
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
79367,4
96870,4
97336,1
103771,9
120600,0
1. Vốn Nhà nước
34784,4
46570,4
52536,1
63871,9
74700,0
* Vốn ngân sách Nhà nước
16544,2
20570,4
22208,9
26197,2
28000,0
- Trung ương
8968,6
9861,3
10076,5
11580,1
13000,0
- Địa phương
7575,6
10709,1
12132,4
14617,1
15000,0
* Vốn tín dụng
8280,2
12700,0
10214,8
14782,2
24700,0
* Vốn tự có ở DNNN
11070,0
13300,0
20112,4
19000,0
22000,0
2. Vốn ngoài QD
20773,0
20000,0
20500,0
21000,0
23500,0
3. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
22700,0
30300,0
24300,0
18900,0
22400,0
Nguồn: Niên giám thống kê 2000.
Qua đó cho thấy chủ trương khai thác, phát huy nội lực, kích cầu đầu tư đã được quan tâm và phát huy tác dụng trong chính sách huy động vốn. Từ năm 1996 là 8280,2 tỷ đồng, năm 1997 là 12700 tỷ đồng, đến năm 2000 con số đó đã là 24700 tỷ đồng ( gấp 2.9 lần năm 1996 ). Cơ chế vốn tín dụng đã từng bước chấm dứt tình trạng bao cấp tràn lan, chuyển một bộ phận quan trọng các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có khả năng thu hồi vốn sang cơ chế tự vay, tự trả tự chịu trách nhiệm trong đầu tư phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Đối với đầu tư XDCB từ nguồn vốn ngoài quốc doanh tính trong giai đoạn trên có tăng về qui mô nhưng rất chậm: năm 1996 vốn đầu tư là 20.779 tỷ đồng và năm 1997 lại bị giảm xuống còn 20.000 tỷ đồng. Đến năm 2000 có tăng lên ( Từ 21000 – 23500 tỷ đồng ), thể hiện sự phát triển của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đang từng bước đi lên tương xứng với tiềm năng của mình.
Vốn đầu tư XDCB từ nguồn vốn của nước ngoài số liệu thống kê cho thấy cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực Châu á đã ảnh hưởng làm cho lượng vốn đầu tư XDCB từ nguồn này giảm: năm 1997 vốn đầu tư XDCB từ nguồn vốn đầu tư nước ngoài là 30300 tỷ đồng thì năm 1998 chỉ còn 24300 tỷ đồng và năm 1999 tiếp tục giảm xuống còn 18900 tỷ đồng. Năm 2000 con số đó đã tăng trở lại (22400 tỷ đồng) cho thấy nền kinh tế nước ta cũng như các nước đã hồi phục và bước ra khỏi khủng hoảng.
Đầu tư XDCB từ nguồn vốn ngoài quốc doanh và đầu tư trực tiếp nước ngoài những năm qua tăng chậm còn do những hạn chế trong cơ chế chính sách của nước ta: như thủ tục hành chính, thuế, giá thuê đất... chưa đủ sức hấp dẫn để khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước bỏ vốn, đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Về cơ cấu vốn đầu tư XDCB toàn xã hội (%)
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
100
100
100
100
100
1. Vốn Nhà nước
45,23
48,07
53,97
61,60
61,9
* Vốn ngân sách Nhà nước
20,85
21,23
22,82
25,02
23,2
* Vốn tín dụng
10,43
13,11
10,49
18,29
20,5
* Vốn tự có ở DNNN
13,95
13,73
20,66
18,29
18,2
2. Vốn ngoài QD
26,17
20,65
21,06
20,21
19,5
3. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
28,60
31,28
24,97
18,15
18,6
Nguồn: Niên giám thống kê 2000.
Qua tính toán ở bảng số liệu trên cho chúng ta thấy nguồn vốn trong nước là nguồn chủ yếu trong đầu tư XDCB, chiếm trên 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Trong đó nguồn vốn đầu tư XDCB của Nhà nước chiếm vị trí chủ đạo không chỉ về số lượng mà còn giữ vị trí then chốt trong các dự án đầu tư trọng điểm, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xây dựng công trình văn hoá, phúc lợi công cộng. Năm 1997, năm 1998 và năm 1999 mặc dù nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn do bị ảnh hưởng nặng nền của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực, nguồn thu ngân sách Nhà nước bị hạn chế, nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm nhưng vốn đầu tư XDCB toàn xã hội đã không giảm mà vẫn tăng qua các năm là do sự tăng tên của vốn đầu tư XDCB của Nhà nước.
Trong giai đoạn 1996 - 2000 chính sách sử dụng vốn đầu tư đã hướng vào trọng tâm là thay đổi cơ cấu vốn đầu tư: vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước tuy được bố trí tăng về qui mô hàng năm, song tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội có xu hướng giảm từ 23,6% giai đoạn 1991 - 1994 giảm xuống còn 21,5% trong giai đoạn này. Trong khi đó vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước lại tăng nhanh từ 6,14% giai đoạn 1991-1994 lên 17,5%. Đây là xu hướng tích cực nhằm xoá bỏ bao cấp, vốn ngân sách Nhà nước được tập trung ưu tiên đầu tư cho những công trình thuộc kết cấu hạ tầng, khả năng thu hồi vốn thấp và có tác dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo ngành và lĩnh vực trong phạm vi cả nước, tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh phát triển. Vốn tín dụng được dành cho các dự án sản xuất kinh d
oanh, xây dựng mới, mở rộng, cải tạo và đổi mới kỹ thuật và công nghệ, nhằm nâng cao chất lượng hiệu quả của nền kinh tế và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Tỷ trọng vốn đầu tư XDCB của tư nhân và dân cư, của khu vực đầu tư nước ngoài so với tổng vốn đầu tư XDCB toàn xã hội không tăng trong những năm gần đây, tỷ trọng này còn thấp so với tiềm năng, cho thấy lĩnh vực đầu tư XDCB chưa có những nét đổi mới để thực hiện sự thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
2.1.1.2/ Đầu tư XDCB theo các ngành kinh tế quốc dân:
Ta có thể quan sát tình hình đầu tư XDCB trong một số ngành kinh tế chủ đạo và cơ cấu vốn đầu tư của các ngành này theo bảng số liệu sau:
Vốn đầu tư XDCB của một số ngành kinh tế chủ đạo.
Đơn vị: Tỷ đồng
1996
1997
1998
1999
Tổng số
27464
36290
54396
66632
1.Nông nghiệp,lâm nghiệp, thuỷ sản.
2988
3735
5638
7452
2. Công nghiệp
1640
22300
33857
40132
3. Giao thông vận tải, bưu điện, TTLL.
5855
7642
10923
12342
4. Khoa học công nghệ
158
192
297
325
5. Giáo dục đào tạo
752
956
1396
2135
6. Y tế, xã hội
457
638
2015
2101
7. Văn hoá thể thao
614
827
1270
2145
Nguồn: Niên giám thống kê 1999.
Trong những năm gần đây vốn đầu tư XDCB cho ngành nông nghiệp (bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ lợi, thuỷ sản) luôn chiếm khoảng 10,3% và tăng bình quân hàng năm 28,3%; đầu tư XDCB cho ngành công nghiệp chiếm khoảng 60% trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội và tăng bình quân hàng năm là 33,8%; vốn đầu tư XDCB cho ngành giao thông vận tải, bưu điện thông tin liên lạc chiếm khoảng trên 20% và tăng bình quân hàng năm 20,9%.
Đầu tư XDCB cho các ngành hạ tầng xã hội đã được chú ý đúng mức chủ yếu là vốn ngân sách và huy động một phần các nguồn vốn khác để tham gia phát triển ngành theo hướng "Nhà nước và nhân dân cũng làm". Đầu tư XDCB cho ngành khoa học công nghệ trong thời gian qua bình quân hàng năm chiếm khoảng 0,5% trong tổng vốn đầu tư XDCB toàn xã hội và tăng bình quân hàng năm 38,6%; đầu tư XDCB cho ngành giáo dục và đào tạo chiếm khoảng 2,6% trong tổng vốn đầu tư XDCB và tăng bình quân hàng năm 31,1%; vốn đầu tư XDCB cho ngành y tế xã hội chiếm khoảng 1,7% tổng vốn đầu tư XDCB và tăng bình quân hàng năm 64,4%; vốn đầu tư XDCB cho ngành văn hoá thể thao chiếm khoảng 2,2% tổng vốn đầu tư XDCB và tăng bình quân hàng năm 44,4%.
Cơ cấu vốn đầu tư XDCB các ngành kinh tế
1996
1997
1998
1999
Tổng số
100
100
100
100
1. Nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp thuỷ sản.
10,886
10,29
10,36
10,02
2. Công nghiệp
60,59
61,45
62,24
62,58
3. Giao thông vận tải, bưu điện, TTLL.
21,32
21,06
20,08
20,04
4. Khoa học công nghệ
0,58
0,53
0,55
0,56
5. Giáo dục đào tạo
2,74
2,63
2,57
2,6
6. Ytế, xã hội
1,66
1,76
1,87
1,84
7. Văn hoá thể thao
2,24
2,28
2,33
2,3
Nguồn: Niên giám thống kê 1999.
Như vậy đầu tư cho ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất năm cao nhất đạt 62,58% (năm 1999) cho thấy vai trò quan trọng của công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, lượng vốn đầu tư XDCB được ưu tiên số 1 cho nền công nghiệp non trẻ của nước nhà. Chỉ có tập trung đầu tư để xây dựng mới, cải tạo và mở rộng các dự án quan trọng cho ngành này thì mới đảm bảo được việc hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ kinh tế xã hội đã đặt ra.
Đối với ngành nông nghiệp vốn đầu tư XDCB vào lĩnh vực này giảm trong tổng vốn đầu tư XDCB toàn xã hội, nhưng xét về giá trị tuyệt đối lượng vốn đầu tư XDCB vào ngành nông nghiệp vẫn gia tăng đáng kể. Tỷ trọng giảm này là do khả năng hấp thụ vốn của ngành này còn kém do cơ sở hạ tầng còn chưa phát triển, hiệu quả sản xuất thấp ....
Tuy nhiên Nhà nước cũng đã tăng vốn đầu tư XDCB từ ngân sách Nhà nước cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Với nguồn vốn hình thành từ vốn ngân sách Nhà nước và huy động trong dân cư thông qua phát hành công trái xây dựng đất nước, Nhà nước đã tăng cường đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn (gồm hệ thống đường sá, cầu cống kênh mương, đê điều, cơ sở sơ chế phơi sấy, chế biến nông sản, hệ thống thông tin, hệ thống giáo dục, y tế, văn hoá...) đặc biệt phát triển hạ tầng 1000 xã nghèo nhất ở vùng sâu vùng cao, vùng đồng bào dân tộc. Bên cạnh những mặt được, công tác này cũng còn bộc lộ một số thiếu sót. Trước hết đó là việc phân bổ vốn đầu tư cho các công trình chưa đều, vốn đầu tư Nhà nước bố trí lớn nhưng ở một số nơi công tác chuẩn bị chưa đáp ứng yêu cầu, trong đấu thầu còn gặp một số khó khăn, có lúc, có chỗ còn có nhiều tiêu cực, nhập nhèm trong việc xét thầu. Bên cạnh đó, sự thiếu phối hợp với các bộ ngành dẫn đến chồng chéo thiếu đồng bộ, điều hành lúng túng gây chậm trễ cũng là một trở ngại. Một số chương trình đã được chính phủ thông qua nhưng thủ tục XDCB còn chậm, tiêu biểu là dự án trồng 5 triệu ha rừng, các chương trình sản xuất đường muối ... Việc quản lý đặc biệt là phân cấp giữa trung ương và địa phương chưa đồng bộ nên đã không phát huy hết các quyền lực, ngay công tác thông tin báo cáo, cũng thường xuyên chậm trễ, thậm chí một số dự án còn thiếu nghiêm túc, ảnh hưởng tới sự điều hành của cấp trên.
Đối với lĩnh vực giao thông vận tải, bưu điện, thông tin liên lạc, sự gia tăng vốn đầu tư XDCB cho các ngành này thấp cho thấy sự thiếu hụt và trình độ thấp kém của cơ sở hạ tầng nước và hiện nay. Qua tình hình thực hiện vốn đầu tư XDCB theo ngành ta cũng thấy giáo dục đào tạo là một ngành đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp phát triển của đất nước nhưng lại chiếm tỷ trọng rất thấp, khoảng 2,6% tổng vốn đầu tư XDCB.
2.1.1.3/ Tình hình đầu tư XDCB theo vùng kinh tế.
Vốn đầu tư XDCB theo các vùng kinh tế.
1996
1997
1998
1999
Tổng số
27464
36290
54396
58826
1. Miền núi phía Bắc
2239
2867
4279
5134
2. Đồng bằng sông Hồng
6835
8744
13892
13982
3. Bắc trung Bộ
2610
3414
5365
5834
4. Duyên hải miền Trung
3245
4044
6120
6583
5. Tây nguyên
1380
1887
3190
4942
6. Đông Nam Bộ
7238
9546
13570
13892
7. Đồng bằng sông C.Long
3917
5688
7980
8459
Nguồn: Tổng cục đầu tư phát triển
Xem xét đầu tư XDCB theo vùng kinh tế từ năm 1996-1999 cho thấy cơ cấu đầu tư XDCB theo vùng lãnh thổ đã có những bước chuyển dịch đáng kể. Bên cạnh những lợi thế trong việc thu hút các nguồn vốn trong vùng kinh tế trọng điểm, chúng ta đã có những cơ chế khuyến khích nhằm huy động nhiều nguồn vốn khác nhau hỗ trợ cho các vùng còn khó khăn.
Trong thời gian 1996-1999 tổng khối lượng vốn đầu tư XDCB cho vùng miền núi phía Bắc đã thực hiện là 114519 tỷ đồng tăng bình quân hàng năm là 31,9% và chiếm 8,1% tổng vốn doanh thu XDCB. Miền núi phía Bắc là vùng tuy có nhiều tiềm năng nhưng vẫn là một trong những vùng chậm phát triển do một bộ phận đáng kể dân số có trình độ dân trí thấp, hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn yếu kém nên việc thu hút vốn đầu tư XDCB còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là vốn đầu tư XDCB từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Khối lượng vốn đầu tư XDCB cho vùng đồng bằng sông Hồng đã thực hiện là 43453 tỷ đồng chiếm 27,8% tăng bình quân hàng năm là 23,3%.
Vùng Đông Nam Bộ khối lượng vốn đầu tư XDCB đã thực hiện là 44246 tỷ đồng chiếm tới 25% và bình quân hàng năm là 21,7%.
Như vậy do lợi thế so sánh về cơ sở hạ tầng và điều kiện thích ứng cơ chế thị trường năng động nên vốn đầu tư XDCB vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Đông Nam Bộ chiếm gần 50% tổng số vốn. Những vùng này cũng là những vùng có số lượng dự án đầu tư FDI nhiều đã góp phần làm tăng nhịp độ tăng trưởng vốn đầu tư.
ở một số vùng kém phát triển, tuy có tiềm năng kinh tế dồi dào nhưng do cơ sở hạ tầng yếu kém, nguồn lao động có trình độ không cao, thời tiết khí hậu khắc nghiệt ... cho nên kinh tế còn chưa phát triển, nguồn vốn đầu tư thu hút chưa nhiều.
Chẳng hạn như Tây Nguyên là vùng có tiềm năng lớn về trữ lương gỗ, đất bazan thích hợp trồng cây công nghiệp, quặng bô xit và trữ năng thuỷ điện lớn là vùng có ý nghĩa chiến lược về phát triển kinh tế của đất nước. Nhưng hiện tại dân cư còn thưa thớt, công nghiệp và điều kiện kết cấu hạ tầng chưa phát triển, lại cộng thêm trình độ dân trí còn thấp nên đây cũng là vùng nhận được ít vốn đầu tư XDCB nhất: lượng vốn đầu tư được thực hiện là 11399 tỷ đồng chỉ chiếm 6,2% trong tổng số tuy nhiên cũng có tiến độ tăng bình quân hàng năm là 47%.
Vùng Bắc Trung Bộ là lĩnh vực có nhiều địa hình dốc và bị chia cắt, sông suối ngắn, nơi hội tụ những điều kiện bất lợi của thiên nhiên là vùng kinh tế chưa phát triển, đời sống dân cư còn gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên vùng này có cả biển, đồng bằng, trung du, miền núi nên nó cho phép phát triển nền kinh tế đa dạng. Có điều kiện phát triển các cảng biển có qui mô lớn. Tiềm năng khoáng sản lớn, đa dạng về chủng loại, có những khoảng sản mang ý nghĩa cả nước (đá vôi, sắt, thép kẽm...). Mặc dù vậy những tiềm năng này vẫn chưa này vẫn chưa được nhận biết nên qui mô vốn đầu tư XDCB cho vùng này nhỏ, tuy có tăng dần qua các năm. Khối lượng vốn đầu tư XDCB thực hiện là 17223 tỷ chiếm 9,6% tăng bình quân hàng năm là 30%.
Hai vùng còn lại là Duyên Hải miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long. Khối lượng vốn đầu tư XDCB thực hiện ở vùng Duyên Hải miền Trung là 19992 tỷ chiếm 11,4% trong tổng số và tăng bình quân hàng năm 25,1% còn vùng đồng bằng Sông Cửu Long có khối lượng vốn đầu tư XDCB thực hiện là 26050 tỷ chiếm 14,4% trong tổng số và tăng bình quân hàng năm 32,6%.
Hai vùng này mặc dù có điều kiện tốt hơn hai vùng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12139.DOC