Đề tài Định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn trong 5 năm tới của đảng và nhà nước ta đề ra, nhằm đưa ra các giải pháp phân bổ vốn ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001- 2005

Tài liệu Đề tài Định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn trong 5 năm tới của đảng và nhà nước ta đề ra, nhằm đưa ra các giải pháp phân bổ vốn ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001- 2005: Lời mở đầu J.M Keynes trong lý thuyết đầu tư và mô hình số nhân đã chứng minh: “Đầu tư sẽ bù đắp những thiếu hụt của cầu tiêu dùng, từ đó tăng số lượng việc làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả cận biên của tư bản và kích thích sản xuất tái phát triển”. Đầu tư là chìa khoá trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, một nền kinh tế muốn giữ được tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thiết phải được đầu tư thoả đáng. Điều đó càng đúng với các quốc gia có thu nhập thấp, tài nguyên hạn chế, phát triển kinh tế từ nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu như nước ta. Chính vì vậy, trong những năm cuối của thập kỷ 90, đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế mà nhất là đầu tư cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn đang được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Những thành tựu đó đã chứng minh con đường lựa chọn của Đảng và Nhà nước là đúng đắn. Để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp nông thôn trong thời gian tới lĩnh vực này cần được đầu tư nhiều hơn nữa. Hiện...

doc70 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1109 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn trong 5 năm tới của đảng và nhà nước ta đề ra, nhằm đưa ra các giải pháp phân bổ vốn ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001- 2005, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu J.M Keynes trong lý thuyết đầu tư và mô hình số nhân đã chứng minh: “Đầu tư sẽ bù đắp những thiếu hụt của cầu tiêu dùng, từ đó tăng số lượng việc làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả cận biên của tư bản và kích thích sản xuất tái phát triển”. Đầu tư là chìa khoá trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, một nền kinh tế muốn giữ được tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thiết phải được đầu tư thoả đáng. Điều đó càng đúng với các quốc gia có thu nhập thấp, tài nguyên hạn chế, phát triển kinh tế từ nông nghiệp, nghèo nàn, lạc hậu như nước ta. Chính vì vậy, trong những năm cuối của thập kỷ 90, đầu tư cho tăng trưởng và phát triển kinh tế mà nhất là đầu tư cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn đang được Đảng và Nhà nước quan tâm đặc biệt và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Những thành tựu đó đã chứng minh con đường lựa chọn của Đảng và Nhà nước là đúng đắn. Để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp nông thôn trong thời gian tới lĩnh vực này cần được đầu tư nhiều hơn nữa. Hiện nay nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn có các nguồn như : chi NSNN, vốn tự có của dân, vốn tín dụng, vốn từ ngoài nước(ODA, FDI). Trong đó vốn đầu tư từ NSNN đóng vai trò rất quan trọng. Vậy làm sao để nguồn vốn này được phân bổ một cách có hiệu quả đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn, nâng cao đời sống của nông dân trong thời kỳ kế hoạch 5 năm tới và cũng là để tạo nên cơ sở vững chắc cho sự nghiệp phát triển lâu dài của đất nước. Đề tài này nghiên cứu trên cơ sở thực trạng đầu tư cho nông nghiệp nông thôn từ NSNN trong 5 năm từ 1996 đến năm 2000 và những “định hướng phát triển nông nghiệp nông thôn trong 5 năm tới của Đảng và Nhà nước ta đề ra, nhằm đưa ra các giải pháp phân bổ vốn NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001- 2005.” Luận văn gồm có ba phần lớn: Phần I: Vai trò của vốn đầu tư từ Ngân sách đối với sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông thôn. Phần II: Đánh giá thực trạng đầu tư từ nguồn vốn Ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 1996-2000. Phần III: Định hướng phân bổ vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 2001-2005. Luận văn của tôi được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo TS. Ngô Thắng Lợi Trường ĐH KTQD và TS. Nguyễn Ngọc Tuyến cùng các anh, chị ở Phòng Chính sách Tài chính Vĩ mô- Vụ Chính sách Tài chính Bộ Tài Chính. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Phần I: Vai trò của vốn đầu tư từ Ngân Sách Nhà Nước đối với sự phát triển Nông nghiệp nông thôn. Sự cần thiết của việc tăng cường đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam . Trong những năm qua, lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã liên tục phát triển toàn diện với tốc độ khá cao, ghóp phần ổn định tình hình kinh tế-xã hội. Nhờ có chính sách đầu tư đúng đắn cho nông nghiệp nông thôn của Đảng và Nhà nước ta mà sản xuất lương thực không ngừng tăng lên đã giải quyết vấn đề lương thực quốc gia, đưa nước ta lên vị trí thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo (3,5 triệu tấn gạo năm 2000). Bộ mặt nông nghiệp nông thôn đã và đang có những thay đổi đáng mừng. Cơ cấu nghành nghề nông nghiệp đã bước đầu chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hoá, hình thành các vùng chuyên canh lớn trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, thúc đẩy chăn nuôi gia súc, gia cầm. Việc trồng rừng bảo vệ rừng, khai thác và nuôi trồng thủy sản được chú trọng. Cơ sở hạ tầng nông thôn ở nhiều tỉnh, thành phố được quan tâm đầu tư cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới. Chưong trình xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm, tăng thu nhập, sức mua, khả năng thanh toán của khu vực dân cư nông thôn đã và đang được Chính phủ tích cực triển khai giải pháp kích cầu hiện nay. Tuy nhiên, trên tổng thể lực lượng sản xuất nông nghiệp và nông thôn nước ta còn bất cập so với yêu cầu sản xuất hàng hoá tập trung trên qui mô lớn. Sản xuất chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán manh mún và chủ yếu vẫn là kinh tế hộ sản xuất nhỏ trồng lúa, cây công nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ hải sản… những ngành nghề phụ thuộc rất lớn vào điều kiện thiên nhiên, đất đai, thổ nhưỡng… cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng còn thấp kém và chưa phát triển đồng đều, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm, lao động nông nghiệp vẫn dư thừa, việc làm thiếu, thu nhập của người nông dân thấp. Khoảng cách về thu nhập giữa nông dân giàu và nghèo, giữa nông thôn và thành thị ngày càng tăng. Nguyên nhân của tình trạng này một phần do thiếu những điều kiện và tiền đề cần thiết để phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó quan trọng nhất là lực lượng sản xuất, một phần do việc đầu tư của Nhà nước chưa thoả đáng. Vốn và tích luỹ của khu vực này rất thấp vì vậy việc tăng cường đầu tư vào phát triển nông nghiệp nông thôn từ NSNN và các nguồn khác trong điều kiện hiện nay là hết sức cần thiết nhằm khắc phục những tồn tại nêu trên điều đó những thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội ở nông thôn mà nó còn tạo điều kiện quan trọng để tiến hành cải cách sâu rộng trong các lĩnh vực kinh tế-xã hội khác trong cả nước. Để phát triển kinh tế với tốc độ cao và có hiệu quả ở một số nước trên thế giới chủ yếu nhằm vào đầu tư phát triển các ngành công nghiệp họ coi đó là cách đầu tư mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Sở dĩ họ lựa chọn như vậy vì đất nước họ có nền công nghiệp rất phát triển và có thành tựu đạt được từ các cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật trước đó. Còn ở các nước Châu á và các nước Đông Nam á thì khi đầu tư cho phát triển kinh tế của đất nước họ lại rất coi trọng vào đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn như: Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan, Malaysia, Indonexia… và vì thế họ đã đạt được những thành công lớn. Hiện nay các nước này đều có nền nông nghiệp phát triển với tốc độ cao các sản phẩm nông nghiệp có giá trị xuất khẩu rất lớn. Trung Quốc là một nước khá thành công trong đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. Hình thức đầu tư chủ yếu là đầu tư xây dựng hàng ngàn xí nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn, thu hút hàng trăm triệu lao độmg dư thừa. Bằng chính sách này vừa giải quyết được vấn đề việc làm cho lao động nông thôn vừa thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp và dịch vụ một cách nhanh chóng. Đối với các nước Đông Nam á như Thái Lan, Malaysia, Indonexia trong thời kì đầu nông nghiệp chiếm từ 70% tới 80% GDP nhưng hiện naycông nghiệp và dịch vụ lại chiếm 80% GDP, trong đó riêng công nghiệp chiếm tới 65% chủ yếu là chế biến nông lâm thuỷ sản. ở Thái Lan đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn là tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là thuỷ lợi và giao thông nông thôn. Độ dài đường giao thông nông thôn ở Thái Lan đã tăng từ 10.400km năm 1960 lên 28.200km năm 1980. Chất lượng các công trình giao thông nông thôn ở Thái Lan được đánh giá là tốt nhất trong khu vực. Thái Lan cũng đã tập trung vào cơ giới hoá nông nghiệp, cụ thể là tỉ lệ đất nông nghiệp được cơ giới hoá tăng từ 14,4% năm 1976 lên 19,6% năm 1986. Các máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp được trang bị thay thế sức kéo của trâu, bò. Những thành công của Thái Lan trong nông nghiệp đã chứng tỏ họ lựa chọn con đường là đúng đắn. Hiện nay Thái Lan là nước xuất khẩu gạo lớn nhất trên thế giới với chất lượng gạo rất tốt, ngoàI ra các mặt hàng chế biến từ nông, lâm, hải sản của Thái Lan cũng đều có mặt trên thị trường quốc tế. Hay như Đài Loan là đất nước nhỏ bé nhưng được coi là nước có tốc độ phát triển kinh tế rất cao. Đài Loan được đánh giá là đất nước thành công nhất về nông ngiệp. Họ đã huy động tiềm năng từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước đầu tư vào nông nghiệp, thông qua việc sử dụng các công nghệ hiện đại để tạo ra các hoạt động sản xuất va dịch vụ thu hút được lao động dư thừa trong nông nghiệp. Mặt khác Đài Loan đã chuyển các xí nghiệp công nghiệp về nông thôn, tích cực đầu tư xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng nông thôn, tạo ra điều kiện cho lao động nông thôn đễ dàng chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp mà vẫn không dời khỏi nông thôn. Xuất phát từ điều kiện kinh tế trong nước và kinh nghiệm của các nước trong khu vực có đặc điểm tự nhiên gần giống ta, Đảng chủ trương lấy nông nghiệp nông thôn làm nền tảng để công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn đầu của thời kì đổi mới, nền kinh tế nước ta là một nền nông nghiệp lạc hậu với cơ sở vật chất thấp kém. Khi đó chúng ta chỉ tập trung vào đầu tư các ngành công nghiệp nặng và các ngành công nghiệp nhẹ cuối cùng chúng ta đã không thành công mà còn kéo theo sự trì trệ, chậm phát triển của các ngành kinh tế khác. ở giai đoạn sau khi chúng ta nhìn nhận lại kết quả đạt được thì thấy rằng sở dĩ chúng ta không thành công là do cơ cấu đầu tư cho các ngành là không hợp lí. Không chú trọng đầu tư vào những ngành có lợi thế để tận dụng được những lợi thế này ví dụ như ngành nông nghiệp có lợi thế rất lớn về đất đai, điêù kiện khí hậu, kĩ thuật canh tác lâu đời thì lại không được quan tâm đầu tư đúng mức. Nhìn ra các nước trong khu vực đặc biệt là các nước Đông Nam á đã thực hiện thành công trong việc xác định nông nghiệp nông thôn làm mũi nhọn để đầu tư phát triển đất nước thì chúng ta tin tưởng rằng sự lựa chọn của Đảng và Nhà nước ta là đúng đắn. Thực hiện đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn chủ yếu đầu tư phát triển khoa học công nghệ như công nghệ hoá học, sinh học, cơ điện năng ứng dụng vào công tác trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Đồng thời nâng cao thời gian cũng như hiệu quả sử dụng đất tạo điều kiện tăng sản lượng nông lâm ngư nghiệp. Bên cạnh đó đầu tư phát triển các ngành khác ghóp phần tác động vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn như: công nghiệp chế biến, ngành nghề truyền thống, dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống dân cư trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Từ đó giải quyết được vấn đề lao động việc làm cho thanh niên nông thôn, tránh được hiện tượng di dân tự do từ nông thôn ra thành thị. Đồng thời nâng cao thu nhập cho người dân thúc đẩy cải tạo nông thôn mới. Ngoài ra khi kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh sẽ cung cấp nguyên liệu sản xuất trong nước cho ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Đặc biệt là từ xuất khẩu nông sản thu ngoại tệ nước ta không những có điều kiện nhập khẩu những máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho sản xuất công nghiệp, nông nghiệp. Và nó cũng ghóp phần giảm thâm hụt ngoại tệ ổn định kinh tế vĩ mô. Để làm rõ vai trò của việc chú trọng đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn ta xét khía cạnh ngược lại. Giả sử chúng ta không quan tâm đến đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn thì nước ta sẽ khó đảm bảo được an ninh lương thực quốc gia vì: Nước ta có đến gần 80% dân số sống ở khu vực nông thôn tức là phần đông dân số nước ta sống phụ thuộc vào nông nghiệp, hàng năm tỉ lệ tăng dân số tự nhiên trong khu vực nông thôn khá nhanh cho nên nhu cầu về lương thực là rất lớn và tăng qua mỗi năm, trong khi đó diện tích đất nông nghiệp không tăng đáng kể.Vậy nếu không tiến hành đầu tư phát triển nông nghiệp để tăng năng suất cây trồng và vật nuôi thì sẽ không đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng đó. Mặt khác mặc dù nước ta là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới nhưng chất lượng gạo chế biến xuất khẩu chưa tốt. Gạo xuất khẩu của ta chưa đủ độ bóng, hạt gạo chưa thơm, chưa có độ dẻo như gạo của Thái Lan, Mĩ. Nên thường bị ép giá do chúng ta chưa có công nghệ chế biến hoàn hảo, giống lúa tốt để nâng cao chất lượng gạo, tăng tính cạnh tranh. Như vậy cần phải đầu tư một công nghệ chế biến, đầu tư cho công tác nghiên cứu giống lúa mới. Các loại nông sản xuất khẩu khác cũng như vậy. Tóm lại: Qua phân tích những nội dung trên đây ta thấy rõ được vai trò và sự cần thiết của đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước và càng khẳng định sự lựa chọn của Đảng ta trong đưòng lối phát triển đất nước là hoàn toàn đúng đắn, vấn đề là chúng ta phải tiếp tục đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng cho đầu tư nông nghiệp nông thôn. các nguồn vốn cơ bản cho đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. II.1. Nguồn vốn trong nước . II.1.1. Nguồn vốn từ NSNN. Huy động vốn có hiệu quả thông qua hoạt động của NSNN là điều kiện quan trọng để giải quyết yêu cầu vốn cho đầu tư, đặc biệt là đầu tư vốn theo các chương trình phát triển kinh tế-xã hội nông nghiệp nông thôn. Huy động vốn cho phát triển kinh tế-xã hội nông nghiệp nông thôn, một mặt phải dựa vào khả năng và tiềm lực tài chính của NSNN trung ương và địa phương trên cơ sở thu đúng, thu đủ và mở rộng diện thu thuế, phí, lệ phí; khai thác tiềm năng vốn từ các nguồn tài nguyên quốc gia, từ vay nợ, trong đó thu thuế và phí là nguồn thu đặc biệt quan trọng. Mặt khác nguồn vốn đầu tư cho khu vực nông nghiệp nông thôn chỉ được cấp phát hoặc cho vay tín dụng ưu đãi từ nguồn của NSNN trong các trường hợp: Các dự án đầu tư phát triển kinh tế-xã hội, đáp ứng mục tiêu quốc kế dân sinh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới nông thôn. Các dự án này Bộ Kế hoạch và Đầu tư được Chính phủ uỷ nhiệm thông báo danh mục hàng năm . Thông thường các dự án này bao gồm: dự án thuỷ lợi, cải tạo đất, đưa điện, nước sạch về nông thôn và tỉ lệ Nhà nước cấp phát vốn từ 30%-40% tổng vốn dự án. Hàng năm các địa phương được phân bổ một số vốn trung và dài hạn ưu đãi. Nguồn vốn này được Bộ Tài chính và Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia chuyển vốn sang các NHTM quốc doanh để cho vay với lãi suất ưu đãi trong các lĩnh vực trọng điểm hoặc các lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích. Các dự án thuộc danh mục Chính phủ chỉ định, nhưng hệ thống NHTM đầu tư vốn toàn bộ. Trường hợp này các đối tượng thực hiện dự án được hưởng lãi suất ưu đãi, chênh lệch giữa lãi suất ưu đãi và lãi suất cho vay trung và dài hạn của Ngân hàng được NSNN cấp bù. Có thể nói nguồn vốn từ NSNN cấp phát hoặc cho vay tín dụng ưu đãi trong các trường hợp trên đã ghóp phần tích cực trong việc thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, song nguồn vốn này có nhược điểm là cấp phát, giải ngân chậm, chưa đáp ứng yêu cầu vốn theo tiến độ thực hiện các dự án, nên ở mỗi mức độ nhất định, đã hạn chế việc phát huy tác dụng của vốn NSNN. Trong thời gian tới, để tăng cường sử dụng một các có hiệu quả và khai thác nguồn vốn từ NSNN, các dự án khả thi theo các chương trình kinh tế phải được xây dựng và công bố ngay từ đầu năm để làm cơ sở cho việc phân bổ, cấp phát chuyển vốn cho các NHTM thực hiện cho vay ưu đã trong năm kế hoạch. II.1.2. Nguồn vốn tín dụng. Trong các nguồn vốn đáp ứng cho yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn, có thể nói nguồn vốn tín dụng ngân hàng đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đổi mới nông thôn trên các mặt: phát triển nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá; khai thác tiềm năng về lao động đất đai, tài nguyên thiên nhiên, phát triển sản xuất hàng hoá, thị trường, thúc đẩy phát triển các quan hệ tiền tệ và hình thành thị trường tài chính ở nông thôn; phát triển cơ sở hạ tầng, đổi mới bộ mặt nông thôn thu dần cách biệt giữa nông thôn và thành thị. Nguồn vốn cần thiết để đầu tư cho nông nghiệp nông thôn là rất lớn. Trong đó vốn tín dụng Ngân hàng chiếm tỉ trọng đáng kể, đặc biệt là vốn trung và dài hạn cho các dự án kinh tế-xã hội phát huy hiệu quả trong tương lai. Chính phủ ban hành Nghị định số 14/CP ngày 2/3/1993 về chính sách cho hộ sản xuất vay để phát triển nông-lâm-ngư-diêm nghiệp và kinh tế nông thôn với nội dung cơ bản sau: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam được giao nhiệm vụ chủ yếu cho vay phát triển sản xuất nông nghiệp. Các hộ sản xuất nông-lâm-ngư-diêm nghiệp được vay vốn trực tiếp tại ngân hàng. Hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp trong giai đoạn nàybao gồm cả hộ gia đình, cá nhân, doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong các lĩnh vực trên và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn. Các tổ chức tín dụng cho vay bổ sung vốn chủ yếu là ngắn hạn, đồng thời, căn cứ vào tính chất và khả năng nguồn vốn, dành một tỉ lệ thích hợp để cho vay vốn cố định, thời hạn dài hơn. áp dụng lãi suất không bao cấp, theo cung cầu thị trường. Tuy nhiên để mở rộng vốn tín dụng phục vụ phát triển sản xuất nông nghiệp nông thôn, khắc phục những vướng mắc của Nghị định trên Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng dự án trình Chính phủ ban hành quyết định số 67/1999/QĐ-TTg ngày 30/3/1999 của Thủ tướng Chính phủ với nội dung sau: Về huy động nguồn vốn : Ngân hàng tự huy động vốn; NSNN hỗ trợ; vay của các tổ chức tài chính quốc tế và nước ngoài. Về đối tượng : Chi phí sản xuất cho trồng trọt, chăn nuôi như : vật tư, phân bón cây giống, con giống, thuốc trừ sâu, thuốc chữa bệnh… chi phí nuôi trồng thửy sản, chi phí sản xuất muối, làm thuỷ lợi nội đồng, tiêu thụ chế biến và xuất khẩu nông, lâm, thuỷ hải sản; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, các ngành nghề dịch vụ ở nông thôn; mua sắm công cụ máy móc, thiết bị phục vụ cho phát triển nông nghiệp và nông thôn như: máy cày, máy tuốt lúa, máy xay sát; phát triển các cơ sở hạ tầng nông thôn như : điện, đường giao thông, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường… Về bảo đảm tiền vay: Cho phép áp dụng mức cho vay đến 10 triệu đồng để đầu tư vào các đối tượng nêu trên đối với các hộ gia đình mà không phải thế chấp tài sản, chỉ nộp kèm đơn xin vay, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Mới đây, thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ , mức cho phép vay không có bảo đảm bằng tài sản được nâng lên đến 20 triệu đồng đối với hộ gia đình, chủ trang trại ; nâng mức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đến 50 triệu đồng đối với các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân vay vốn để sản xuất giống thuỷ sản. Ngoài ra Chính phủ còn đưa ra một số chính sách tín dụng khác như chính sách về lãi suất tiền vay nhằm khuyến khích các hộ nông dân vay vốn đầu tư cho sản xuất nông nghiệp bởi đây là cách tốt nhất giúp đỡ cho các hộ nông dân tự làm giàu thúc đẩy nông nghiệp nông thôn phát triển. II.1.3. Nguồn vốn tích luỹ từ bản thân nội bộ nông nghiệp và nguồn từ các đơn vị kinh tế nông nghiệp Nông nghiệp nước ta đến nay về cơ bản vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, nhưng lại được coi là nguồn tích luỹ vốn ban đầu quan trọng cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; nghĩa là không phải chỉ cho sự phát triển của bản thân nông nghiệp, mà còn cho sự phát triển công nghiệp và một số ngành kinh tế quốc dân khác. Phải chăng đây là gánh nặng quá sức đối với nền nông nghiệp Việt Nam ? Thật ra, không nên chỉ nhìn vào đại lượng tuyệt đối về sự đóng ghóp của kinh tế nông thôn vào NSNN để đánh giá khả năng tích luỹ cho đầu tư và phát triển. Việc đánh giá vai trò của nông nghiệp và nông thôn trong tích luỹ vốn không phải chỉ ở chỗ bản thân chúng tạo được lượng tích luỹ là bao nhiêu, mà còn ở chỗ chúng tạo điều kiện cho các ngành kinh tế khác, tạo ra tích luỹ như thế nào và sự phát triển của chúng đem lại sự ổn định về kinh tế-xã hội của đất nước ra sao. Về nguyên tắc, để có tích luỹ và không ngừng tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển cần tạo ra mức năng suất lao động xã hội ngày càng cao. Song, năng suất lao động trong ngành kinh tế nông thôn lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố: cơ cấu kinh tế, trình độ trang bị kỹ thuật và công nghệ, tổ chức sản xuất và lao động, trình độ thành thạo của lao động, điều kiện tự nhiên. Do đó để tăng năng suất lao động trong các ngành kinh tế nông thôn, phải giải quyết đồng bộ nhiều biện pháp khác nhau mang tính tổng hợp và tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng vùng. Tuy nhiên thực tế mà nói, nguồn vốn tích luỹ từ trong nông nghiệp nông thôn chiếm vai trò rất quan trọng bởi từ trước khi có chính sách đầu tư thích đáng của Nhà nước bằng nguồn vốn ngân sách và nguồn tín dụng thì nguồn này là nguồn vốn chính trong đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. Đối với nguồn vốn đầu tư từ các đơn vị kinh tế nông nghiệp, đây là nguồn vốn đầu tư chủ yếu là của các đơn vị kinh doanh chế biến nông sản. Các đơn vị này đầu tư dưới hình thức là bỏ vốn ra mua giống mới có năng suất cao, có chất lượng tốt về bán cho người nông dân sau đó mua lại sản phẩm đầu ra. Hay hình thức đầu tư khác là mở lớp dạy kỹ thuật canh tác, kỹ thuật chăn nuôi mới cho nông dân để họ tự sản xuất để tạo ra sản phẩm… Như vậy đây cũng là nguồn vốn quan trọng cho phát triển nông nghiệp nông thôn bởi nó góp phần thúc đẩy sản xuất nâng cao đời sống người dân nông thôn. II.2. Nguồn vốn ngoài nước. II.2.1. Nguồn vốn ODA Nguồn vốn này do các Chính phủ, các tổ chức liên chính phủ và phi Chính phủ cung cấp, hàng năm tăng lên đáng kể và nó ghóp phần không nhỏ vào các thành tựu kinh tế-xã hội chung của cả nước trong đó có nông nghiệp nông thôn. Nằm trong vốn tài trợ phát triển nguồn quan trọng nhất là vốn ODA, trong đó vốn vay ưu đãi chiếm 3/4, được tập chung chủ yếu cho các dự án phát triển nguồn nhân lực, phục hồi và phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, cải tạo môi trường, tăng cường thể chế. Trong những năm qua, ODA được sử dụng để cải tạo nâng cấp nhiều công trình quan trọng, đặc biệt là các công trình ở vùng nông thôn, đầu tư cho nông, lâm, ngư nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế. Ngoài vốn ODA còn các khoản tài trợ phát triển khác thể hiện bằng các khoản vay ưu đãi của Chính phủ từ các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như: Quĩ tiền tệ thế giới(IMF), Ngân hàng thế giới(WB), Ngân hàng phát triển Châu á(ADB), trong đó nhà nước chỉ định Ngân hàng đầu tư và phát triển và một số Ngân hàng thương mại quốc doanh làm ngân hàng đại lý và ngân hàng phục vụ có trách nhiệm đưa vốn vay đến người sử dụng, đến người đầu tư cũng như theo dõi trả nợ, thu hồi nợ cho nhà nước. Nguồn vốn này trong những năm qua chúng ta thu hút được và một phần đưa vào phát triển nông nghiệp, nâng cấp hạ tầng nghề cá, thực hiện cơ giới hoá nông nghiệp, cải thiện hệ thống tài chính nông thôn… Song trong quá trình sử dụng nguồn tàI trợ phát triển, việc giải ngân diễn ra chậm chạp xuất phát từ nhiều lý do khach quan và chủ quan, do đó không huy động được toàn bộ số vốn mà các nhà tài trợ cho nước ta. II.2.2. Nguồn vốn FDI. Nguồn vốn này còn gọi là nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, và là nguồn vốn luôn có xu hướng tăng lên trong điều kiện kinh tế mở và phát triển giao lưu quan hệ với các Chính phủ, các tổ chức kinh tế và các nhà kinh doanh nước ngoài và được coi là quan trọng nhất trong tổng nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Trong điều kiện cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội ở nông thôn còn yếu và chưa phát triển, việc hình thành các khu công nghiệp tập trung, khu chế xuất phục vụ cho phát triển nông nghiệp và đẩy mạnh ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm ở khu vực là biện pháp thúc đẩy tăng trưởng tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng là biện pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài bằng nhiều hình thức. Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển năng lực chế biến nông sản, các dự án tận dụng đất đai, đIều kiện tự nhiên để trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và chế biến sản phẩm, các dự án nuôi trồng, khai thác kết hợp chế biến thuỷ sản( đặc biệt là ở Đồng bằng Sông Cửu Long). Ngoài hai nguồn vốn ODA và FDI còn có nguồn vốn vay từ các ngân hàng nước ngoài. Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh và hỗ trợ nguồn vốn huy động trong nước, các Ngân hàng thưong mại ở nước ta thực hiện vay vốn của các ngân hàng nước ngoài(có chú ý đến nguồn vốn trung và dài hạn) rồi sau đó cho các tổ chức, các nhà đầu tư ở trong nước vay lại. Trước mắt các Ngân hàng thương mại, trong đó Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phải đi tiên phong trong việc thực hiện vay vốn của các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam và tập trung rót vốn cho nông nghiệp nông thôn. Vai trò của nguồn vốn NSNN đối với phát triển nông nghiệp nông thôn III.1. Một số khái niệm về NSNN. III.1.1. Khái niệm NSNN. Mỗi một Nhà nước muốn duy trì được sự tồn tại và phát triển đều phải có một nguồn vật chất nhất định để duy trì hoạt động của bộ máy Nhà nước và thực hiện cung ứng các dịch vụ công cộng như: các dịch vụ về an ninh quốc phòng, về giáo dục đào tạo, văn hoá, y tế, và các dịch vụ về quản lý hành chính. Để có được nguồn vật chất này Nhà nước phải tạo nguồn thu từ các đối tượng trong xã hội thụ hưởng các dịch vụ công cộng của nhà nước và được đảm bảo bằng pháp luật của Nhà nước. Các nguồn mà Nhà nước qui định được tập chung vào một quĩ tiền tệ duy nhất thuộc sở hữu Nhà nước, và chỉ những khoản chi nào thuộc nhiệm vụ chung của Nhà nước mới được chi ra. Quĩ tiền tệ này được gọi là quĩ Ngân sách Nhà nước(NSNN). Vậy NSNN là một hệ thống các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình phân phối các nguồn tài chính của xã hội nhằm hình thành quĩ tiền tệ tập chung của Nhà nước để đáp ứng các nhu cầu chi gắn với việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Một khái niệm khác thì NSNN là một bản tường trình về kế hoạch chi tiêu và trợ cấp tương ứng với khả năng thu của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định. III.1.2. Cơ cấu chi tiêu của NSNN. Chi tiêu Ngân sách Nhà nước cho phát triển kinh tế-xã hội được chia thành bốn phần chính, đó là chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển, chi trả nợ và chi dự trữ tài chính. Trong đó chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi của NSNN. Chi thường xuyên: bao gồm Chi cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thế dục thể thao, sự nghiệp khoa học, công nghệ và môi trường và các sự nghiệp khác. Chi cho các hoạt động sự nghiệp kinh tế. Chi cho quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Chi cho các hoạt động của các cơ quan Nhà nước. Chi cho các hoạt động của Đảng cộng sản Việt Nam. Chi cho hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam. Trợ giá theo chính sách của Nhà nước. Các chương trình quốc gia. Hỗ trợ quĩ bảo hiểm xã hội theo qui định của Chính phủ. Trợ cấp cho các đối tượng chính sách xã hội. Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội- nghề nghiệp theo qui định của pháp luật. Trả lãi tiền do Nhà nước vay. Viện trợ cho các Chính phủ và tổ chức nước ngoài. Các khoản chi khác theo qui định của pháp luật. Chi đầu tư phát triển: bao gồm Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội không có khả năng thu hồi vốn. Chi đầu tư và hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước, góp cổ phần liên doanh vào các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực cần thiết có sự tham gia của Nhà nước theo qui định của pháp luật. Chi cho Quĩ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các Quĩ hỗ trợ phát triển đối với các chương trình, dự án phát triển kinh tế. Chi dự trữ Quốc gia. Cho vay của Chính phủ để đầu tư phát triển. Chi trả nợ gốc tiền do Nhà nước vay. Chi bổ xung quĩ dự trữ tài chính. III.2. Nội dung chi NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Trong những năm tài chính tuỳ thuộc vào mục tiêu phát triển kinh tế đất nước, Nhà nước ta sẽ phân chia các khoản chi theo tỷ lệ hợp lý. Từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6 năm 1986 con đường lựa chọn là tập chung phát triển nông nghiệp nông thôn tạo cơ sở vật chất cho công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cho nên trong những năm gần đây phần NSNN dành cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã được chú trọng hơn so với thời gian trước. Và càng đến những năm sau này mức chi cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn càng tăng. Đi vào cụ thể ta thấy trong nội dung chi NSNN cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn có những nội dung sau. III.2.1. Chi NSNN cho nông nghiệp. Các khoản chi trực tiếp để phát triển sản xuất nông nghiệp của Nhà nước bao gồm các khoản chi như: chi cho công tác nghiên cứu khoa học về nông nghiệp: Nghiên cứu phát minh ra các loại máy móc phục vụ sản xuất, tìm ra các phương pháp sản xuất mới, nghiên cứu và ứng dụng các giống cây trồng, vật nuôi mới vào sản xuất; chi cho công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; chi cho sự nghiệp trồng cây, gây rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc và công tác bảo vệ rừng, phòng cháy chữa cháy rừng; chi cho công tác duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa đê điều, đầu tư xây dựng đê điều và hệ thống thuỷ lợi. Cụ thể như sau: Chi NSNN cho việc nghiên cứu, phát minh ra máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp, nghiên cứu tìm ra và đưa vào sản xuất các loại giống cây trồng, vật nuôi mới bao gồm các khoản chi như: Chi cho đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu: lương, thưởng, phụ cấp; chi cho các dự án nghiên cứu; chi để mua sắm các máy móc thiết bị phục vụ cho công tác nghiên cứu; chi cho việc sản xuất thí nghiệm các loại giống mới… Đây là một trong những khoản chi rất quan trọng đối với sự phát triển nông nghiệp vì thực chất khoản chi này ghóp phần phát triển sản xuất theo cả chiều rộng và chiều sâu, vừa đảm bảo chất lượng của nông sản mà vẫn tăng sản lượng nông sản sản xuất ra. Chi NSNN cho sự nghiệp khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư bao gồm: chi lương, thưởng, phụ cấp cho các cán bộ làm công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư; chi để bồi dưỡng kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ như: chi kinh phí cho các lớp học ngắn ngày, chi cho các hội thảo, hội nghị chuyên đề. Khoản chi này nhằm nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ làm công tác khuyến nông, lâm, ngư, giúp họ tiếp thu nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến để áp dụng vào thực tế. Chi cho công tác tuyên truyền, phổ biến rộng rãi cho bà con nông dân về các giống cây trồng vật nuôi có năng suất, chất lượng cao, các phương pháp sản xuất hiệu quả và các loại máy móc phục vụ sản xuất chế biến sản phẩm nông nghiệp. Chi cho công tác tuyên truyền trên đài, báo, truyền hình; chi in ấn các tài liệu, ấn phẩm; chi cho các điểm trình diễn kỹ thuật, chi thao tác trình diễn, chi hỗ trợ về giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, chi cho việc đưa giống mới vào sản xuất. Nội dung chi thứ ba được quan tâm là chi cho công tác trồng, chăm sóc, bảo vệ rừng. Các khoản chi này nhằm tăng độ che phủ của rừng, bảo vệ môi trường sinh thái, giảm tác hại của lũ lụt, hạn hán do nạn chặt phá rừng bừa bãi gây ra. Hàng năm Nhà nước đã đầu tư cho các chương trình trồng rừng phòng hộ, rừng chắn cát, rừng ngăn lũ, rừng đặc dụng; chương trình phủ xanh đất chống, đồi núi trọc; chương trình sử dụng bãi hoang hoá, bãi bồi ven sông, ven biển. Bên cạnh đó thông qua nguồn kinh phí thường xuyên Nhà nước đã chi cho công tác bảo vệ, phòng cháy, chữa cháy rừng. Đây là một nhiệm vụ chi quan trọng vì trồng mà không bảo vệ thì vừa không giữ được rừng mà lại tốn rất nhiều tiền của của Nhà nước. Chi cho công tác phòng cháy, chữa cháy rừng gồm các khoản chi như: chi đảm bảo cho đội ngũ kiểm lâm,; chi mua sắm thiết bị phương tiện dùng cho công tác phong cháy, chữa cháy; chi xây dựng các đường rãnh, kênh mương cản lửa, chòi canh hồ chứa nước, các trạm dự báo cháy rừng; chi khắc phục hậu quả cháy rừng nếu có; chi để khen thưởng cho các tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng. Nội dung thứ tư cũng có ảnh hưởng không nhỏ đối với phát triển nông nghiệp nông thôn đó là chi xây dựng hệ thống đê điều (bao gồm cả hệ thống đê biển và đê sông), xây dựng mới, hoàn thiện và nâng cấp các công trình thuỷ lợi như: xây dựng các hồ đập chứa nước lớn, vừa và nhỏ, các cống tưới tiêu nước, các trạm bơm nước. Các công trình thuỷ lợi này nhằm đảm bảo nước tưới phục vụ sản xuất ( đặc biệt trong những tháng hạn), và tiêu thoát nước kịp thời trong mùa mưa bão. Nhóm nội dung chi khác cũng tác động không nhỏ đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Ví dụ như: chi công tác kiểm dịch động thực vật, chi cho công tác thú y, chi cho hoạt động điều tra, xây dựng quy hoạch nông nghiệp… III.2.2. Chi NSNN cho phát triển kinh tế nông thôn. Cùng với chủ trương đẩy mạnh phát triển nông nghiệp thì Đảng và Nhà nước ta cũng rất quan tâm đến việc phát triển kinh tế nông thôn. Do vậy ngoài việc bảo đảm kinh phí đối với những nội dung chi có tác động tích cực đến sự thay đổi diện mạo nông thôn như trên Nhà nước còn bố trí kinh phí thực hiện hàng loạt các giải pháp khác với những nội dung chủ yếu như: chi xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn, chi chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ thuần nông sang đa ngành, chi cho các chương trình định canh, định cư xây dựng vùng kinh tế mới. Đề cập đến chi NSNN cho kinh tế nông thôn ta có thể nói đến những lĩnh vực sau: - Chi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn Cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm: giao thông nông thôn, nước sạch nông thôn, vệ sinh môi trường, điện nông thôn, trường học, y tế, phát thanh, truyền hình, bưu chính viễn thông và các công trình khác như: chợ, cửa hàng, sân thể thao, nhà văn hoá… Đầu tư xây dựng hệ thống giao thông nông thôn gồm: xây dựng mới và nâng cấp, duy tu, sửa chữa đường liên thôn, liên xã, liên huyện, các trục đường lớn đến trung tâm xã, xây và nâng cấp các cầu, cống, nạo vét sông, kênh rạch ở nông thôn. Đầu tư xây dựng hệ thống dây dẫn cột điện nối liền các thôn, xã và truyền tải điện từ trạm điện ở huyện, xã về vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Đối với nhiều vùng do đặc điểm địa hình phức tạp không thể hoặc chưa có điều kiện xây dựng, trang bị hệ thống điện theo chuẩn qui định chung, Nhà nước đã trang bị cho người dân các vùng đó các thiết bị pin năng lượng mặt trời, tạo điện phục vụ đời sống sinh hoạt và sản xuất của bà con. - Chi NSNN cho phát triển các lĩnh vực văn hoá xã hội ở nông thôn như: vệ sinh môi trường, nước sạch, trạm y tế, phát thanh truyền hình và bưu chính viễn thông; Nhà nước đã quan tâm bố trí vốn xây dựng nhiều lớp học, trạm y tế; cải tạo ổn định hệ thống trường lớp, bảo đảm không còn những lớp học được tạo dựng tạm thời bằng tre, nứa, lá…; xây dựng mới nhiều trạm thu phát sóng các chương trình phát thanh, truyền hình quốc gia, trang bị, trang bị, hỗ trợ các máy radio, máy thu hình màu đối với đồng bào khó khăn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo… qua đó ghóp phần nâng cao dân trí và mức hưởng thụ văn hoá của người dân nông thôn. Chi NSNN ghóp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Trong cơ cấu kinh tế nông thôn nước ta bộ phận nông dân sản xuất thuần nông chiếm tới 80% số hộ nông dân đang sản xuất. Công nghiệp ở nông thôn chủ yếu là công nghiệp chế biến các mặt hàng nông sản và sản xuất các công cụ sản xuất nhỏ. Các dịch vụ chủ yếu là các dịch vụ sửa chữa. Đại bộ phận các cơ sở sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn trình độ kỹ thuật còn lạc hậu, qui mô vốn ít, số lượng lao động hạn hẹp. Để có thể phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn Nhà nước cần phải đầu tư nhưng không phải là đầu tư trực tiếp mà thông qua kênh tín dụng Nhà nước. Đối với sự phát triển kinh tế nông thôn tín dụng Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng, bằng các chương trình cho hộ nông dân vay vốn để sản xuất, Nhà nước đã từng bước tạo ra được sự chuyển dịch đúng hướng của kinh tế nông thôn. Ngoài sản xuất thuần nông các hộ gia đình đã chuyển sang mô hình sản xuất kinh tế vườn, chăn nuôi qui mô lớn, khôi phục các nghề truyền thống… Từ đó kinh tế của từng hộ gia đình nói riêng và kinh tế nông thôn nói chung từng bước đi lên. - Chi trợ giá, trợ cước cho các mặt hàng nông sản chế biến trong nước. Tạo điều kiện để các mặt hàng đó có thể xuất khẩu hoặc bán rộng rãi trong nước. Chính sách này rất có ý nghĩa đối với công nghiệp chế biến ở nông thôn vì trên thực tế người nông dân rất quan tâm đến đầu ra của sản phẩm và nếu chỉ tiêu thụ sản phẩm dưới dạng nguyên liệu thô thì giá bán rất rẻ thậm chí không đáng kể. - Chi NSNN cho các chưong trình định canh, định cư, xây dựng vùng kinh tế mới. Các khoản chi đó bao gồm: hỗ trợ về giống, kỹ thuật sản xuất để bà con dân tộc ổn định sản xuất không rời khỏi làng bản như trước đây. Hỗ trợ cho các hộ đi xây dựng vùng kinh tế mới về cơ sở vật chất ban đầu khi họ đến khai hoang và canh tác. Đây là chương trình kinh tế mang tính chất lâu dài của Đảng và Nhà nước ta. Việc Nhà nước thực hiện hàng loạt các chính sách, các chương trình nêu trên nhằm tăng thêm tỷ trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, xây dựng thêm nhiều cơ sở chuyên sản xuất nhiều máy móc phục vụ sản xuất nông nghiệp và những cơ sở chuyên cung cấp dịch vụ như: phân bón, các loại giống cây trồng, vật nuôi… Như vậy sẽ ghóp phần tăng tỷ trọng chăn nuôi trong sản xuất nông nghiệp và tăng tỷ trọng về giá trị cây công nghiệp, cây ăn quả trong tổng giá trị trồng trọt. Tóm lại: Nông nghiệp và kinh tế nông thôn là một lĩnh vực rất rộng bao gồm nhiều hoạt động kinh tế-xã hội. Vì thế phạm vi chi của NSNN cho lĩnh vực này rất lớn nhưng nó thực sự cần thiết vì nhà nước có quan tâm đầu tư thì mới có thể phát triển mạnh được nông nghiệp nông thôn. III.3. Vai trò của chi NSNN đối với sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Với chức năng quản lý vĩ mô nền kinh tế, Nhà nước thông qua các chính sách kinh tế để tác động đến các hiện tượng kinh tế-xã hội theo một chiều hướng nhất định. Cũng với ý nghĩa như vậy chi NSNN đóng vai trò rất quan trọng cho nông nghiệp nông thôn. Cụ thể như sau: - Thứ nhất: Chi NSNN có tác động thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng. Thông thường chi NSNN cho các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư Nhà nước đã tạo điều kiện để nông dân có thể ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới về giống cây, giống con, phân bón, thuốc trừ sâu… giúp nông dân biết được những phương pháp gieo trồng chăm bón mới đem lại hiệu quả cao hơn và chi phí thấp hơn. Từ đó năng suất và chất lượng nông sản được cải thiện đáng kể. Nhà nước đã đầu tư rất lớn vào các công trình khoa học mang tính ứng dụng thực tiễn của ngành nông nghiệp như: chương trình nghiên cứu về giống lúa lai F1 với sản lượng 1388 tấn, sản xuất ngô lai F1 với sản lượng 1791 tấn, chương trình nạc hoá đàn lợn, chương trình bông lai tiết kiệm ngoại tệ nhập giống… Các chương trình này đem lại hiệu quả rất lớn về thu nhập của bà con nông dân và cũng là hiệu quả về trình độ khuyến nông của cán bộ khuyến nông và bà con nông dân. -Thứ hai: Chi NSNN còn ghóp phần thiết lập một cơ cấu kinh tế cân đối giữa các ngành và các vùng trong nền kinh tế. Thông qua việc đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế như: đường xá, cầu cống, bưu chính viễn thông… Đặc biệt NSNN chi cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn sẽ tạo sức hút cho các nhà doanh nghiệp đến đặt trụ sở và hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì lúc này chi phí của họ được giảm thiểu từ chi phí chuyên chở nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí về nhà ở tiền nhà ở cho người lao động … Cũng nhờ đó mà Nhà nước giải quyết được vấn đề việc làm, thu nhập cho người nông dân, và ghóp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Ngoài ra hàng năm NSNN còn chi rất nhiều tỉ đồng cho việc di dân định canh định cư, xây dựng các vùng kinh tế mới. Chương trình này nhằm phát triển kinh tế đến các vùng sâu, vùng xa và khai thác những tiềm năng còn dồi dào của đất nước. Thông qua chi NSNN cho việc tạo lập các quĩ bình ổn giá lương thực, trợ giá , trợ cước cho một số mặt hàng nông sản. Nhà nước đã khuyến khích được sức sản xuất trong nhân dân, tạo được sự gắn bó của người dân với đông ruộng. Cũng nhờ có sự đầu tư của Nhà nước các thành tựu công nghệ sinh học được áp dụng vào sản xuất ở nông thôn, thực hiện cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá với những nội dung và mức độ thích hợp sẽ ghóp phần tăng năng suất lao động nông nghiệp, đảm bảo hiệu quả sản xuất cao. - Thứ ba: Chi NSNN cải thiện môi trường văn hoá xã hội, tạo điều kiện cho người nông dân tham gia các hoạt động văn hoá lành mạnh, khuyến khích họ xây dựng gia đình văn hoá, làng xã văn hoá mới. Nâng tầm hiểu biết của người nông dân góp phần ổn định chính trị xã hội của đất nước. Tóm lại: Trong nền kinh tế bất cứ ngành bất cứ ngành kinh tế nào,khu vực nào cũng đều cần phải có vốn để phát triển và ngành nông nghiệp nông thôn cũng vậy. Với các nguồn như: nguồn vốn từ NSNN, nguồn vốn này từ các hộ gia đình, nguồn viện trợ và hợp tác từ nước ngoài… Trong thời gian này, khi nền kinh tế nước ta còn đang phát triển thì nguồn vốn đầu tư từ NSNN đóng vai trò rất quan trọng. Nhưng về lâu dài thì ta phải coi nguồn lực từ trong dân là nguồn lực cơ bản. Để có thể huy động được một tiềm năng to lớn về vốn trong nhân dân, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách khai thác tiềm lực từ trong dân để phát triển kinh tế. Các khoản chi của Nhà nước chỉ mang tính chất thu hút và hướng dẫn cho các thành phần kinh tế khác đầu tư vào nông nghiệp nông thôn mà thôi. Sự thu hút hướng dẫn ở đây chính là việc tạo ra cơ sở vật chất tốt, một hệ thống chính sách đồng bộ, tạo ra một hành lang thuận tiện cho các nhà đầu tư bỏ vốn để phát triển kinh tế nông thôn. phần II: Đánh giá thực trạng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn giai đoạn 1996-2000. I. Mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn và nhu cầu đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn thời kỳ 1996-2000. Thời kỳ 1996-2000 là thời kỳ thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội mà Đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra. Trong đó mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn là một trong những mục tiêu quan trọng nhất. Mục tiêu phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn thời kỳ này là phát triển nông nghiệp toàn diện hướng vào bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống, tăng nhanh nguồn thực phẩm rau quả , cải thiện chất lưỡng bữa ăn, gảim suy dinh dưỡng. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn có hiệu quả. Trên cơ sở bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực, chủ yếu là lúa, mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế biển, đảo, kinh tế rừng, khai thác có hiệu quả tiềm năng của nền nông nghiệp sinh thái, tăng nhanh sản lượng hàng hoá gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu, mở rộng thị trường nông thôn tăng thu nhập của nông dân. Đẩy mạnh xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội. Tăng nhanh sản lượng lương thực hàng hoá ở những vùng đồng bằng có năng suất và có hiệu quả cao. Bố trí lại mùa vụ để né tránh thiên tai, chuyển sang các vụ có năng suất cao hoặc các cây khác có hiệu quả hơn. Nhân nhanh những giống mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, thích ứng với từng vùng sinh thái, đặc biệt là giống lúa lai, ngô lai. Qui hoạch và phát triển một số vùng sản xuất các loại lúa gạo ngon có giá trị cao. Dự kiến năm 2000, sản lượng lương thực đạt khoảng 30 triệu tấn, bình quân đầu người 360-370 kg. Phát triển mạnh các loại cây công nghiệp, cây ăn quả, rau đậu có hiệu quả kinh tế cao; hình thành những vùng sản xuất tập trung gắn với công nghiệp chế biến tại chỗ. Trồng cây công nghiệp kết hợp vói chương trình phủ xanh đất chống đồi núi trọc theo hình thức nông lâm kết hợp. Coi trọng các biện pháp thâm canh tăng năng suất. Còn đối với các ngành chăn nuôi,thuỷ sản, lâm nghiệp cũng cần phải được tập chung phát triển cao. Đến năm 2000 nông nghiệp (cả lâm nghiệp và thuỷ sản )chiếm khoảng 19-20% GDP. Để thực hiện và đạt được các mục tiêu đề ra Nhà nước phải có chính sách đầu tư hợp lý cho các ngành kinh tế nói chung và cho nông nghiệp nói riêng. Dự tính trong 5 năm từ 1996 đến năm 2000 tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội phải đạt được 41-42 tỷ USD (tính theo mặt bằng giá 1995) trong đó đầu tư từ NSNN (cả tích luỹ thu từ NSNN và một phần vốn ODA) chiếm 21%, vốn tín dụng Nhà nước 7%, vốn doanh nghiệp Nhà nước tự đầu tư 24%; vốn tự có của dân đầu tư khoảng 17%; còn lại 31%là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư cho nông nghiệp, ngư nghiệp, thuỷ lợi chiếm 20% tổng đầu tư xã hội. Riêng phần vốn Ngân sách Nhà nước thì phần vốn giành cho nông, lâm,ngư nghiệp, thuỷ lợi chiếm 22%. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì tổng nhu cầu vốn cho phát triển Nông-Lâm-Ngư nghiệp như sau: Biểu1: Tổng nhu cầu vốn cho Nông-Lâm-Ngư nghiệp Đơn vị tính: tỷ đồng 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng nhu cầu 12221 15420 1443,1 25815 29976,4 Từ NSNN 3191,6 4133,5 5373,4 9563,2 13750 Từ nước ngoài 4888,5 6168 7777,2 8250,4 8553,3 NH&nội bộ nt 4141,1 5118,5 6292,5 8001,4 8673,1 Nguồn: Bộ Kế hoach & Đầu tư Biểu 2: Kế hoạch của Chính phủ về đầu tư vào nông nghiệp 1996-2000 Đơn vị: nghìn tỷ đồng Đầu tư công cộng Đầu tư của DNNN Đầu tư của hộ GĐ FDI TS % Nông nghiệp 2,9 34,9 14,2 6,5 58,5 61,3% Thuỷ lợi 14,5 0,0 0,0 0,0 14,5 15,2% Lâm nghiệp 4,0 4,0 5,0 0,0 13,0 13,6% Kho tàng xay xát 0,5 4,0 5,0 0,0 9,5 9,9% Toàn ngành 21,9 42,9 24,2 6,5 95,5 100% Toàn ngành(%) 23% 45% 25% 7% 100% Toàn bộ KH đầu tư công cộng 96,8 142,2 76,5 144,3 460,0 Toàn bộ KH đầu tư công cộng(%) 21% 31% 17% 31% 100% Nguồn: Ngân hàng thế giới, Thúc đẩy phát triển nông thôn Việt Nam, 1998 Ta thấy phần lớn các khoản đầu tư công cộng được rót vào các DNNN mặc dù khu vực này kém hiệu quả hơn khu vực tư nhân. Kế hoạch đầu tư ủa Chính phủ vào các Doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước với khoảng 1,5 triệu lao động đòi hỏi hơn 3 tỷ USD trong giai đoạn 1996-2000, tức là gấp đôi số tiền Việt Nam dự định giành cho 10 triệu hộ nông dân. ĐIều này góp phần làm hạn chế các hoạt động công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. II. Phân tích Thực trạng đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước giai đoạn 1996-2000. II.1. Phân tích tổng chi tiêu NSNN cho nông nghiệp nông thôn. Đánh giá thực trạng đầu tư của NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn là cơ sở để so sánh với mục tiêu đầu tư phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn mà Đại hội Đảng VIII đặt ra đối với thực tế mà NSNN đã đầu tư. Từ đó rút ra những kinh nghiệm và những bài học cần thiết để giai đoạn sau (2001-2005 ) thực hiện tốt hơn, mang lại hiệu quả cao hơn. Tuy vậy trước tiên ta phải ta cần phải xem xét các cơ chế chính sách phân bổ NSNN và nguồn thu của NSNN từ nông nghiệp, nông thôn trong giai đoàn 1996-2000 bởi đây là công cụ tiến hành phân bổ và nó cũng là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phân bổ. Chính sách phân bổ vốn đầu tư trực tiếp từ NSNN cho phát triển nông nghiệp nông thôn. Để đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn ngày càng tăng và hiệu quả, trong từng thời kỳ Nhà nước đã có những cơ chế tài chính và ngân sách phù hợp nhằm xác định rõ nhiệm vụ và trách nhiệm của các cấp chính quyền đối với việc bố chí ngân sách cho đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn. Cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý tài chính và kiểm soát các khoản chi NSNN nói chung, kiểm soát các khoản chi NSNN trong lĩnh vực nông nghiệp,nông thôn là một nội dung được Chính phủ quan tâm. Sau khi Luật Ngân sách Nhà nước ban hành ngày 20/3/1996, và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân sách Nhà nước số 06/1998/QH10 ngày 20/5/1998 được ban hành, Chính phủ, Bộ Tài chính đã ban hành hệ thống các văn bản dưới luật qui định, hướng dẫn cụ thể qui trình quản lý, kiểm tra, kiểm soát, cấp phát, thanh toán các khoản chi NSNN. Đối với địa bàn nông thôn, việc thực hiện Luật Ngân sách ở cấp Ngân sách xã là vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, đảm bảo sự hoạt động của các cấp chính quyền cơ sở; đưa chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến với dân, thực hiện phát triển kinh tế-xã hội ở nông thôn. Riêng về vấn đề này, Bộ Tài chính đã có các thông tư số 01/1999/TT-BTC ngày 04/1/1999 hướng dẫn quản lý thu, chi ngân sách xã, thị trấn, phường. Luật NSNN với các qui định ổn định nguồn thu và nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách trong từng thời kỳ, tạo điều kiện các cấp chính quyền địa phương chủ động khai thác thêm các nguồn thu và bố chí các nhiệm vụ chi phù hợp với đặc điểm của từng địa phương, do vậy có điều kiện trong việc tăng chi đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn. Trong bố chí NSNN hàng năm cho đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn ( cơ cấu đầu tư của ngân sách ). Nhà nước chú trọng ưu tiên đầu tư vốn xây dựng cơ bản tức là Nhà nước chủ yếu đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn. Ngoài vốn đầu tư tập trung hàng năm, thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, hàng năm Nhà nước còn bố trí vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn tương ứng với nguồn thu thuế sử dụng đất nông nghiệp. Bên cạnh đó Nhà nước đã thực hiện các chính sách ưu tiên đầu tư vào một số vùng có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp như đầu tư vào các công trình khắc phục lũ lụt, hạn hán, các trung tâm kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long. Thu Ngân sách Nhà nước từ nông nghiệp nông thôn. Trước khi nói tới tình hình chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn ta đề cập tới nguồn thu của Nhà nước từ thuế nông nghiệp và một số khoản thu thuế từ kinh tế nông thôn. Hiện nay các loại thuế được áp dụng theo qui định của pháp luật liên quan đến nông nghiệp và kinh tế nông thôn là: thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế đất ở, đất xây dựng công trình, thuế môn bài, thuế sát sinh, … Nhưng về cơ bản nguồn thu chủ yếu của NSNN từ nông nghiệp là từ thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử dụng đất, thuế đất ở và xây dựng các công trình. Trong những năm đầu thập kỷ 90, thu NSNN từ lĩnh vực nông nghiệp chiếm khoảng 5-7% trong tổng thu NSNN. Tuy nhiên, tỷ lệ này giảm dần qua các năm và ổn định ở mức 3,5-4% trong những năm gần đây. Đây là kết quả của chính sách giảm mức thu trong nông nghiệp nhằm khuyến khích khu vực này phát triển. Bảng 4 dưới đây cho thấy rõ điều này: Biểu 3 Tỷ trọng đóng góp của nông nghiệp trong tổng thu NSNN Đơn vị tính: % Năm Tỷ trọng 1995 1996 1997 1998 1999 DT2000 Tỷ trọng trong tổng thu của NSNN 4,0 4,3 3,7 3,6 3,4 3,1 Trong đó: thuế sử dụng đất nông nghiệp 2,9 3.0 2,8 2,6 2,5 2,3 Luật thuế sử dụng đất được ban hành ngày 10/7/1993 và có hiệu lực từ ngày 1/1/1994. Đặc trưng lớn nhất của Luật thuế này là nhằm giảm động viên đóng góp của người sản xuất nông nghiệp vào NSNN, tạo điều kiện cho họ có thêm nguồn vốn phục vụ cho tái đầu tư mở rộng, thâm canh tăng năng suất, chuyển đổi giống cây trồng. Đối tượng nộp thuế vẫn là các tổ chức cá nhân swr dụng đất vào sản xuất nông nghiệp, đất trồng rừng. Thuế sử dụng đất nông nghiệp được tính bằng thóc và nộp bằng tiền, giá thóc tính thuế do UBND cấp tỉnh qui định. Hàng năm thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp trên dưới 1500 tỷ đồng. Nhưng bắt đầu từ năm 1999 toàn bộ số thu từ thuế sử dụng đất nông nghiệp được để lại toàn bộ cho Ngân sách Địa phương và để đầu tư trở lại cho nông nghiệp. Thuế đất ở, đất xây dựng công trình ( gọi tắt là thuế đất) được thực hiện theo pháp lệnh thuế nhà đất ngày 31/7/1992 và sửa đổi vào tháng 5/1994. Thuế đất được tính và thu hàng năm đối với các tổ chức, cá nhân sử dụng đất ở, đất xây dựng công trình. Bằng việc sửa đổi và bổ sung pháp lệnh thuế đất đã hạ mức thuế đối với đất ở, đất xây dựng công trình ở nông thôn. Thuế được tính trên diện tích, hạng đất và mức thuế qui định cho một đơn vị diện tích, mức thuế đất được xác định trong khung từ 1-32 lần mức thuế sử dụng đất nông nghiệp. Hàng năm số thu từ thuế đất là khoảng 3.000 tỷ đồng. Đây là số thu đóng góp một phần không nhỏ trong tổng thu NSNN. Ngày 1/7/1994 Quốc hội đã ban hành Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất thực hiện điều tiết vào việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc chuyển đổi mà có chênh lệch về giá trị. Đối tượng nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất là các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng đất khi chuyển quyền sử dụng đất theo qui địnhcủa pháp luật về đất đai. Thuế được tính căn cứ vào diện tích đất, giá tính thuế và thuế suất. Thuế suất có thể thay đổi từ 5-50% tuỳ theo việc chuyển qyền sử dụng đất có thay đổi mục đích sử dụng hay không. Hàng năm số tiền thu từ thuế chuyển quyền sử dụng đất về cho NSNN khoảng 1000 tỷ đồng. Tóm lại: Hệ thống chính sách thuế bao quát được toàn bộ quá trình sử dụng đất từ giao đất, cho thuê đất,, thu hồi đất đến sử dụng đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Hệ thống chính sách này đã góp phần nâng cao hiệu quả quản lý đất đai của Nhà nước, khuyến khích sử dụng đất đúng mục đích ( đặc biệt hạn chế chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng cho mục đích khác), khuyến khích sử dụng đất tiết kiệm có hiệu quả, giúp khai thác tiềm năng đất đai và cuối cùng là tăng thu cho NSNN từ nông nghiệp nông thôn, tăng đầu tư cho nông nghiệp nông thôn từ chính nguồn thu đó. Đánh giá chung về cơ cấu vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn từ nguồn vốn NSNN. Trong giai đoạn hiện nay, cần phải khẳng định là nguồn vốn đầu tư của NSNN giữ vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội vào nền kinh tế. Vốn đầu tư phát triển của NSNN giữ vai trò định hướng, thu hút và tạo ra dòng chảy cho vốn đầu tư của các thành phần kinh tế và dân cư. Nguồn vốn NSNN đầu tư cho nền kinh tế có 2 nguồn cơ bản là vốn cấp phát và vốn tín dụng ưu đãi. Bên cạnh hình thức đầu tư cấp phát vốn vào các công trình kinh tế-xã hội không có khả năng thu hút vốn, Nhà nước tăng cường áp dụng hình thức tín dung ưu đãi thuộc NSNN để thực hiện đầu tư đối với các công trình có khả năng thu hồi vốn thông qua hoạt động của quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các quỹ hỗ trợ phát triển và hình thức góp vốn cổ phần của Nhà nước vào các doanh nghiệp. Đầu tư của NSNN cho nông nghiệp và phát triển kinh tế nông thôn cũng vậy, Nhà nước đầu tư dưới hai hình thức chính là cấp phát vốn và cho vay tín dụng ưu đãi đối với các chương trình quốc gia của Nhà nước ở khu vực nông nghiệp nông thôn, cho hộ nông dân vay vốn để phát triển kinh tế hộ gia đình và cho các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh ở nông thôn vay vốn phát triển sản xuất. Trong những năm qua, đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn luôn giành được sự chú ý ngày càng cao của Nhà nước. Điều này ta có thể thấy ở bảng 5 sau: Biểu 4A: Chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn giai đoạn 1996-2000 (Số tuyệt đối) Đơn vị: Tỷ đồng Năm Lĩnh vực chi 1996 1997 1998 1999 DT2000 Tổng chi NSNN 70.539 78.057 81.995 89.400 96.535 Nông nghiệp-NT 7.053,9 8.820,4 12.545,2 18.237,6 23.651,1 Các ngành khác 63.485,1 69.236,6 69.449,8 71.162,4 72.883,9 Biểu 4B: Tỷ trọng chi NSNN chi nông nghiệp nông thôn giai đoạn 1996-2000 Đơn vị: % Năm Lĩnh vực chi 1996 1997 1998 1999 DT2000 Tổng chi NSNN 100 100 100 100 100 Nông nghiệp-NT 10 11,3 15,3 20,4 24,5 Các ngành khác 90 88,7 85,7 79,6 75,5 Theo bảng trên ta thấy qua các năm 1996, 1997, 1998, 1999, 2000 chi NSNN đều tăng cả về số tuyệt đối và số tương đối. Năm 1997 so với năm 1996 tăng không đáng kể xấp xỉ 1767 tỷ đồng tương ứng với 1,3%, như vậy từ năm 1996 đến 1997 tuy chi NSNN có tăng nhưng số tăng rất ít chưa thể đáp ứng nhu cầu chi vì thế chưa thể gọi đây là sự đầu tư cho một ngành kinh tế được coi là mặt trận hàng đầu, nếu ta so sánh tỷ lệ chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn trong tổng chi NSNN với tỷ lệ dân số và lao động trong nông nghiệp với tổng dân số cả nước ta sẽ thấy một sự chênh lệch rất lớn. Trong năm 1996 dến 1997 tỷ lệ chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn chỉ chiếm từ 10-11,3% NSNN trong khi dân số trong nông nghiệp chiếm tới 80% dân số cả nước, lao động nông nghiệp chiếm tới 73% lao động xã hội. Nhưng từ năm 1997 chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn tăng rất nhanh, từ 11,3% năm 1997 tăng lên 15,3% năm 1998; 20,4% năm 1999 và 24,5% năm 2000. Điều này thể hiện việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã thực sự được quan tâm đúng mức. Vì nguồn thu của NSNN hạn chế nên để tăng chi cho nông nghiệp nông thôn Nhà nước phải cắt giảm các khoản chi khác và phát động chính sách tiết kiệm toàn dân. Ta có thể thấy rõ ràng ở bảng trên, từ 90% năm 1996 giảm xuống còn 75,5% năm 2000. Riêng trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn từ năm 1999 Nhà nước đã để lại toàn bộ thuế sử dụng đất nông nghiệp cho Ngân sách Địa phương để đầu tư trở lại cho nông nghiệp nông thôn. Hình thức cấp phát vốn của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp nông thôn thông qua hình thức cho vay tín dụng đối với các hộ nông dân liên tục tăng qua các năm nhất là từ khi có Quyết định số 67 của Thủ tướng Chính phủ (tháng 3/1999) với cơ chế mới là cho vay không cần thế chấp tài sản. Số liệu thống kê của Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHNN&PTNT) cho thấy: cho tới thời điểm tháng 8/2000, dư nợ tín dụng cho khu vực nông thôn đã tăng 10.339 tỷ đồng, tăng 41,85% so với thời điểm trước khi thực hiện Quyết định số 67. Dư nợ cho vay tăng chủ yếu là hộ sản xuất, trong khi dư nợ cho vay các hợp tác xã tăng không đáng kể và doanh nghiệp ( cả doanh nghiệp Nhà nước và ngoài quốc doanh phục vụ nông nghiệp và nông thôn ) cũng tăng 34,45%. Trong số này, NHNN&PTNT là ngân hàng cung cấp tín dụng nhiều nhất, chiếm tới 35.041 tỷ đồng (tính đến hết tháng 8/2000) , tăng 41,9% so với thời điểm tháng 3/1999. Đạt được kết quả khả quan trên một phần do quyết định mạnh dạn cho phép áp dụng cho vay đến 10 triệu đồng đối với các hộ gia đình không phải thế chấp tài sản. Mức cho vay cho đến thời điểm này cũng đã nâng lên 20 triệu đồng và đối với hộ sản xuất nuôi trồng thuỷ sản là 50 triệu đồng. Đây là một biện pháp thông thoáng nhất, tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận vốn tín dụng để đầu tư sản xuất Tóm lại: Mặc dù tổng đầu tư của NSNN cho nông nghiệp nông thôn có tăng lên theo từng năm nhưng trong từng lĩnh vực từng ngành cụ thể chi vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư. Nhất là trong nông-lâm-ngư nghiệp nhu cầu đầu tư đến năm 2000 phải đạt 15 nghìn tỷ đồng nhưng thực tế chỉ đạt có khoảng trên 10 nghìn tỷ đồng một chút mà thôi. Đây là vấn đề cần được xem xét trong thời gian tới. II.2. Phân tích cơ cấu chi NSNN trong sản xuất nông nghiệp Xét về tổng thể chi NSNN cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn tăng. Nhưng vấn đề đặt ra là làm sao để có được một cơ cấu chi hợp lý, chi vào đâu và chi bao nhiêu để mang lại hiệu quả cho khoản chi đó cao nhất. ở phần trên ta đã nói chi NSNN cho nông nghiệp có thể chia thành hai mảng chính. Thứ nhất: chi NSNN cho sự nghiệp nông nghiệp đó là chi cho các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, các chương trình định canh, định cư mới, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Thứ hai chi NSNN cho xây dựng cơ bản trong đó chủ yếu là các công trình thuỷ nông, thuỷ lợi, đê điều, đường, cầu, điện, trường học… Đối với mỗi lĩnh vực chi NSNN đều có vai trò quan trọng trên các giác độ khác nhau nhưng đều cùng một mục đích chung đó là phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Với các khoản chi cho sự nghiệp phát triển nông nghiệp, NSNN có tác động cả trực tiếp và gián tiếp tới sản xuất nông nghiệp. Tác động trực tiếp ở khía cạnh chi hỗ trợ về giống cây, giống con, phân bón, thuốc trừ sâu cho bà con nông dân ở một số vùng đặc biệt khó khăn giúp họ phát triển sản xuất, chi cho các chương trình định canh, định cư mới trong đó có những khoản chi về lương thực, giống cây, giống con ban đầu cho những bà con đi xây dựng vùng kinh tế mới. Tác động gián tiếp được thể hiện qua những khoản chi cho các việc nghiên cứu, cho cán bộ nghiên cứu, cho các chương trình nghiên cứu tìm ra giống cây, giống con mới có năng suất cao, phẩm chất tốt, sáng chế ra các nông cụ phục vụ sản xuất giảm bớt sự lao động nặng nhọc của lao động nông thôn và đồng thời cho năng suất cao hơn, hay tìm ra phương pháp sản xuất mới rút ngắn thời gian sản xuất và cho hiệu quả cao…Ngoài ra ta còn có thể kể đến chi ngân sách cho công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư với công việc chủ yếu là tuyên truyền, phổ biến cho bà con nông dân biết được những kết quả mới về công việc nghiên cứu các giống mới, các công cụ mới, phương pháp sản xuất mới giúp bà con có thể thực hiện sản xuất trong thực tế.Đây là hướng đầu tư mà Nhà nước cần phải quan tâm nhiều hơn nữa vì chỉ có đầu tư như vậy chúng ta có thể phát triển sản xuất nông nghiệp theo chiều sâu, đồng thời tiết kiệm được chi NSNN, vì thực tế Nhà nước không thể bỏ tiền ra để mua giống, mua công cụ thay cho bà con nông dân được mà vai trò của Nhà nước là tạo điều kiện tốt nhất để người sản xuất nông nghiệp phát huy hết khả năng của mình. Với các khoản chi cho lĩnh vực xây dựng cơ bản nông nghiệp, nông nghiệp nông thôn Nhà nước đã đầu tư gián tiếp để sản xuất nông nghiệp cũng như kinh tế nông thôn. Khi có được các công trình thuỷ lợi, thuỷ nông (kênh mương nội đồng) tốt giúp cho việc tưới tiêu nước một cách kịp thời phục vụ sản xuất nông nghiệp, đông thời khắc phục tình trạng nước sinh hoạt cho nhiều dân cư trong khu vực nông thôn. Ta có thể thấy được tình hình đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước cho nông nghiệp như sau: ( Vốn ở đây là vốn đầu tư của Nhà nước bao gồm: vốn NSNN, vốn tín dụng của Nhà nước và vốn đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước ). Biểu 5: Đầu tư XDCB của Nhà nước trong ngành nông nghiệp giai đoạn 1996-1998. (*) Nguồn Niên giám thống kê 1996,1997,1998,1999_ NXB Thống kê Đơn vị: Tỷ đồng Năm Cơ cấu chi 1996 1997 1998 Số tuyệt đối Tỷ trọng Số tuyệt đối Tỷ trọng Số tuyệt đối Tỷ trọng Tổng chi 2384,3 100(%) 2981,2 100(%) 4090,9 100(%) Trồng trọt 429,3 18 294,4 9,9 1399,4 34,2 Chăn nuôi 213,4 8,9 241,3 8,1 42,4 1 Thuỷ lợi &Trạm đội máy kéo 1741,6 73,1 2445,5 82 2649,1 64,8 Qua số liệu ở bảng trên ta thấy từ năm 1996 đến 1997 vốn đầu tư của Nhà nước cho xây dựng cơ bản của ngành nông nghiệp có tăng nhưng lượng tăng không đáng kể cụ thể là tăng 596,9 tỷ đồng hay năm 1997 đầu tư tăng hơn so với năm 1996 là 25%. Tuy nhiên đến năm 1998 lượng vốn đầu tư lại tăng cao, tổng lượng vốn đầu tư là 4090,9 tỷ đồng tăng hơn so với năm 1997 là 1.109,7 bằng 137,2%. Như vậy có thể thấy rằng Nhà nước đang chú trọng tập chung đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành nông nghiệp giai đoạn 1997-1998 tăng gần gấp đôi vốn đầu tư so với giai đoạn 1996-1997. Xét về cơ cấu đầu tư, bảng trên cho thấy rằng việc đầu tư của Nhà nước cho các công trình thuỷ lợi bao giờ cũng chiếm tỷ trọng cao năm 1996 chiếm 73,1% tổng vốn đầu tư ; năm 1997 chiếm 82%; đến 1998 chiếm 64,8%. Mặc dù đầu tư cho các công trình thuỷ lợi của năm 1998 có giảm nhưng nó vẫn chiếm tỷ trọng cao thay vào đó ta thấy năm 1998 đầu tư XDCB cho ngành trồng trọt đột ngột tăng cao chiếm 34,2% tổng đầu tư của năm 1998 mặc dù đầu tư cho trồng trọt hai năm trước chỉ chiếm mức thấp. Riêng đầu tư cho ngành chăn nuôi lại giảm rất nhanh từ 8,9% năm 1996 giảm xuống 8,1% năm 1997 và chỉ còn 1% năm 1998. Như vậy cơ cấu đầu tư tăng giảm rất thất thường điều này cho thấy tuỳ từng điều kiện cụ thể mà Nhà nước thay đổi cơ cấu đầu tư. Như ta đã biết, thực tế không phải cứ chi nhiều là mang lại hiệu quả cao và đạt được mục đích chi, mà hiệu quả của các khoản chi đó phụ thuộc không nhỏ vào sự quản lý chi đó như thế nào. Quản lý chi NSNN được thực hiện từ việc lập dự toán ngân sách cho các khoản chi đó, chấp hành dự toán và kiểm tra giám sát các khoản chi đã được duyệt theo dự toán. Nguyên tắc xuyên suốt để thực hiện quản lý chi NSNN Nhà nước nói chung và chi NSNN cho nông nghiệp nông thôn nói riênglà nguyên tắc bảo đảm chi tiết kiệm và hiệu quả. Đối với việc quản lý chi NSNN, nước ta thực hiện cơ chế phân cấp quản lý tức là phân cấp cụ thể thành Ngân sách Trung ương (NSTW) và Ngân sách Địa phương (NSĐP). Trong tổng chi NSNN cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn chi NSTW chiếm khoảng 70%, chi NSĐP khoảng 30%. Trong 30% chủ yếu bao gồm các khoản chi cho thuỷ lợi, giao thông, điện. Các khoản chi cho giao thông nông thôn chiếm tới 80% chi NSĐP thường là chi để xây dựng mới các tuyến đường liên thôn, liên huyên, liên xã. Cải tạo nâng cấp các tuyến đường cũ, xây dựng các loại cầu cống. Chi NSĐP cho điện nông thôn chiếm khoảng từ 8% đến 10%, kinh phí chủ yếu được sử dụng để xây dựng các lưới điện hạ thế ở địa phương. Việc đầu tư cho lưới điện nông thôn thực hiện theo phương trâm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm” với cơ chế là NSTW đầu tư xây dựng đường dây trung thế, trạm biến áp, công tơ đo điện; NSĐP đầu tư xây dựng lưới điện hạ thế; nhân dân xây dựng nhánh dây hạ thế và đường trục hạ thế đến nhà dân. Tóm lại: Xét một cách tổng thể cơ cấu đầu tư của NSNN vào nông nghiệp nông thôn là hợp lý bởi tỷ trọng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng là cao hơn tất cả so với đầu tư các lĩnh vực khác. Ngoài nguồn vốn NSNN đầu tư cho phát triển nông nghiệp nông thôn còn có các nguồn vốn khác như nguồn vốn tín dụng (không kể đến nguồn vốn tín dụng nhà nước), nguồn vốn ODA, nguồn FDI và các nguồn khác. Tuy nhiên đối tượng để đầu tư của mỗi nguồn này là khác nhau. Chẳng hạn như nguồn vốn FDI đầu tư vì mục đích lợi nhuận thì chủ yếu đầu tư vào các ngành chế biến nông sản. Đối với khu vực nông thôn thì nguồn vốn này cũng có vai trò rất lớn bởi khi thực hiện các dự án đầu tư sẽ giải quyết một phần lao động dư thừa ở nông thôn đồng thời giải quyết đầu ra cho các sản phẩm nông nghiệp. Đối với Nhà nước thì nguồn vốn này góp phần làm giảm gánh nặng đầu tư của NSNN cho khu vực nông nghiệp vì lượng vốn đầu tư của nguồn FDI là rất lớn (tính đến hết tháng 3/1999 có 417 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp, trong đó có 165 dự án kết thúc hoạt động và hiện tại còn 252 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký là 2,588 tỷ USD). Còn nguồn vốn ODA thì chủ yếu đầu tư vào các chương trình trồng rừng, xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn, thường thì khi thực hiện các chương trình này việc đầu tư kèm theo sự đầu tư của vốn NSNN với vai trò là vốn đối ứng tạo điều kiện cho việc thực hiện các chương trình này. Tóm lại: Bằng các chính sách tài chính, Nhà nước tác động trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Hiện nay nguồn NSNN còn hạn chế nên việc đầu tư vào nông nghiệp nông thôn còn gặp nhiều khó khăn nhưng trong tương lai đầu tư cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn không chỉ để hỗ trợ xoá đói giảm nghèo nữa mà thực sự là những khoản đầu tư kinh tế của Nhà nước. II.2. Đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn thông qua các chương trình mục tiêu của Nhà nước. II.2.1. Chương trình xoá đói giảm nghèo ( CT135 ). Vài nét giới thiệu về chương trình 135 Chương trình 135 hay còn gọi là Chương trình phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Chương trình này được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 31/7/1998. Mục tiêu tổng quát của Chương trình là nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đưa nông thôn các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển, hoà nhập vào sự phát triển chung của cả nước; góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội, an ninh quốc phòng. Chương trình này được chia ra làm hai giai đoạn cụ thể: Giai đoạn từ 1998-2000 Mục tiêu của giai đoạn này là về cơ bản không còn các hộ đói kinh niên, mỗi năm giảm được 4-5% hộ nghèo; Bước đầu cung cấp cho đồng bào có nước sinh hoạt, thu hút phần lớn trẻ em trong độ tuổi đến trường, kiểm soát được một số loại dịch bệnh nguy hiểm, có đường giao thông dân sinh kinh tế đến các trung tâm cụm xã, phần lớn đồng bào được hưởng thụ văn hoá thông tin. Giai đoạn từ 2000-2005 Mục tiêu của giai đoạn này là giảm tỷ lệ hộ nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn xuống còn 25% vào năm 2005; Bảo đảm cung cấp cho đồng bào đủ nước sạch sinh hoạt; Thu hút trên 70% trẻ em trong độ tuổi đến trường; Đại bộ phận đồng bào được bồi dưỡng, tiếp thu kinh nghiệm sản xuất, kiến thức khoa học, văn hoá, xã hội, chủ động vân dụng vào sản xuất và đời sống; Kiểm soát được phần lớn các bệnh hiểm nghèo; Có đường giao thông cho xe cơ giới và đường dân sinh kinh tế đến các trung tâm cụm xã; Thúc đẩy phát triển thị trường nông thôn. Phạm vi của Chương trình là trong 1.715 xã thuộc diện khó khăn, Trung ương lựa chọn khoảng 1.000 xã thuộc các huyện đặc biệt khó khăn để tập chung đầu tư thực hiện theo chương trình này. Những xã còn lại được ưu tiên đầu tư thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia và các dự án, chương trình phát triển khác. Nguồn vốn đầu tư cho thực hiện Chương trình này được huy động từ các nguồn sau: Vốn Ngân sách Nhà nước ( kể cả vốn của các Chính phủ và tổ chức quốc tế tài trợ ). Vốn vay tín dụng. Vốn huy động từ các tổ chức và các cộng đồng dân cư. Trong đó nguồn vốn huy động từ NSNN chiếm vị trí quan trọng. Bên cạnh đó để thực hiện được Chương trình này, trước hết phải dựa trên cơ sở phát huy nội lực của từng hộ gia đình để khai thác tại chỗ về đất đai, lao động và các điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội trong vùng, tạo ra bước chuyển biến mới về sản xuất và đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào. Kết quả thực hiện giai đoạn thứ nhất của chương trình Tổng kết giai đoạn thứ nhất thực hiện chương trình, làm việc với Ban chỉ đạo chương trình 135 TW, Thủ tướng Phan Văn Khải vui mừng nói: “ Cho đến nay, chưa có khiếu kiện nào về chương trình 135”. Tổ chức UNDP cũng khẳng định: “CT135 là chương trình hoạt động có hiệu quả nhất ” Năm đầu tiên thực hiện chương trình với số vốn bình quân 400 triệu đồng trên một xã, lại phải bảo đảm xã nào cũng được đầu tư ít nhất một công trình nên hầu hết các công trình có qui mô từ 500 triệu đồng trở xuống, mức đầu tư cho mỗi xã thấp nhất là 200 triệu đồng. Trong tổng số 1753 công trình được xây dựng, chỉ có 69 công trình có mức vốn đầu tư trên 500 triệu đồng/ công trình phải đầu tư xây dựng theo qui định xây dựng hiện hành, còn lại 1648 công trình thực hiện theo cơ chế quản lý CT 135. Để chuẩn bị đầu tư, các tỉnh đã giao nhiệm vụ cho các đơn vị tư vấn, cán bộ kỹ thuật nghiệp vụ của tỉnh , huyện để giúp đỡ các xã đặc biệt khó khăn lập báo cáo đầu tư, khảo sát, thiết kế, dự toán. Phần lớn các tỉnh đã thực hiện theo đúng qui định và có một số tỉnh đã qui định các đơn vị tư vấn chỉ được nhận 60-70% kinh phí khảo sát thiết kế theo qui định, phần còn lại hỗ trợ cho những nơi khó khăn. Năm 1999, chương trình đã được NSNN cấp 408 tỷ đồng, ngay từ đầu năm tiền đã chuyển đến kho bạc Nhà nước các huyện. Nhưng do là năm đầu tiên thời gian cấp phát vốn được kéo dài đến 30/4/2000. Trong 6 tháng đầu năm 2000, theo báo cáo bước đầu, tổng số vốn đầu tư cho các xã thuộc CT 135 khoảng gần 1.100 tỷ đồng, trong đó Ngân sách Trung ương là 700 tỷ đồng và vốn đầu tư của các chương trình lồng ghép là 400 tỷ đồng. 1.100 tỷ đồng được đầu tư vào 2.971 công trình đúng mục tiêu, đúng đối tượng. Hầu hết cho các công trình: đường giao thông, thuỷ lợi nhỏ, cấp nước sinh hoạt, điện, trường học, trạm y tế, chợ. Cơ cấu đầu tư phù hợp: giao thông chiếm 47,09%, thuỷ lợi nhỏ là 16,99%, nước sinh hoạt 5,24%, điện 7,52%, trường học 21,56%, trạm y tế 0,85%, chợ 0,76% tổng số vốn đầu tư. Đến ngày 30/6/2000 vốn của CT 135 năm 1999 chưa quyết toán chỉ còn 23,5 tỷ đồng. Triển khai kế hoạch năm 2000, mới giải ngân được trên 10 tỷ đồng. Tuy vậy, vẫn còn một số băn khoăn trong quá trình thực hiện.Vấn đề nổi cộm được nhiều người quan tâm là làm thế nào để thực hiện được yêu cầu ” xã có công trình, dân có việc làm, dân có thu nhập”. Vì thực tế dân tham gia xây dựng công trình còn quá ít. Từ khi có CT 135 phát sinh nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn quá. Các công ty đã làm hết việc của dân. Như thế là không đúng tinh thần của CT 135. Bởi vì dân có làm thì dân mới yêu quý công trình, công trình mới bền vững, và dân cũng mới có thu nhập. Chính vì nhà thầu làm hết, nên chất lượng một số công trình chưa tốt, mới sử dụng đã mà đã dột nước, long vôi. Thêm nữa, mối lo vốn về chậm sẽ ảnh hưởng đến tốc độ giải ngân, và hết năm 2000 vốn không sử dụng hết trả lại kho bạc, làm cho tất cả các tỉnh không yên tâm . Bộ Tài chính có quyết định từ năm 2000, kho bạc không cấp thẳng vốn 135 cho các chủ đầu tư, mà phải qua hệ thống tài chính duyệt trước khi kho bạc cấp phát tiền và đây là một nguyên nhân làm chậm tốc độ giải ngân của chương trình chậm giao kế hoạch cho các địa phương. Bộ Tài chính chỉ giao kế hoạch chung cho các địa phương mà lẽ ra phải cân đối các nguồn ngân sách địa phương để giao cho các tỉnh. Riêng Bộ kế hoạch đầu tư đã giao kế hoạch cụ thể cho 11 sở KH-ĐT, nhưng các địa phương vẫn không đầu tư cho 124 xã đặc biệt khó khăn. Thật ra phương thức cấp phát vốn thông qua hệ thống kho bạc là mang lại hiệu quả như đã làm trong năm 1999. II.2.2. Chương trình 5 triệu ha rừng 661 Giới thiệu về chương trình 5 ha rừng Xuất phát từ đặc điểm nước ta có hơn 2/3 diện tích là rừng núi và trung du. Trong vài thập kỷ trở lại đây, diện tích rừng đang ngày càng bị thu hẹp do nạn chặt phá, khai thác bừa bãi, do nạn du canh du cư, đốt rừng làm nương rẫy. Dẫn đến năng lực phong hộ của rừng bị suy giảm, nạn lũ lụt, khô hạn với qui mô ngày càng lớn, gây thiệt hại không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung, nhất là đời sống sinh hoạt của đồng bào miền núi. Trước tình hình đó, nhằm ngăn chặn hiểm hoạ môi trường sinh thái, đồng thời phát triển kinh tế-xã hội các địa phương miền núi, vùng cao, vùng sâu, ngày 29/7/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định 661/QĐ-TTg về mục tiêu, nhiệm vụ, chính sách và tổ chức thực hiện trồng mới 5 triệu ha rừng. Quyết định này còn có tên là Chương trình 5 triệu ha rừng 661. * Mục tiêu của chương trình: - Vừa thực hiện trồng mới 5 triệu ha rừng, vừa bảo vệ có hiệu quả 9,3 ha rừng hiện có, tăng độ che phủ của rừng lên 43%, đảm bảo an ninh môi trường, giảm nhẹ thiên tai, tăng khả năng sinh thuỷ, bảo tồn nguồn gen và tính đa dạng hoá sinh học. - Sử dụng có hiệu quả diện tích đất trống, đồi trọc, tạo thêm khoảng 2 triệu việc làm thường xuyên, tăng thu nhập cho dân cư sống trong khu vực có rừng, góp phần xoá đói giảm nghèo, định canh định cư, ổn định chính trị xã hội, an ninh quốc phòng nhất là các vùng cao, biên giới. - Hàng năm cung cấp khoảng 15 triệu m3 gỗ và 20 Ste củi làm nguyên liệu để sản xuất 1 triệu tấn giấy, một triệu m3 ván nhân tạo, đáp ứng nhu cầu gỗ củi trong nước và có dư để xuất khẩu, đưa lâm nghiệp thành một ngành kinh tế quan trọng. Giá trị nông sản thu hoạch từ cây nông lâm kết hợp đạt khoảng 1 tỷ USD/ năm, tạo điều kiện thay đổi cơ bản cục diện kinh tế xã hội của miền núi. Phạm vi thực hiện chương trình là trên cả nước. * Nội dung cụ thể của chương trình: - Gây trồng rừng phòng hộ đặc dụng: 2 triệu ha rừng trong đó trồng mới 1 triệu và khoanh nuôi tái sinh kết hợp bổ sung 1 triệu ha rừng phòng hộ đầu nguồn, phục hồi sinh thái rừng đặc dụng. - Trồng rừng sản xuất: 3 triệu ha trong đó trồng rừng và cây nông nghiệp lâu năm tập trung 2 triệu ha, trồng cây phân tán 1 triệu ha. * Chính sách đầu tư và tín dụng để huy động nguồn vốn Để thực hiện mục tiêu và hoàn thiện nhiệm vụ chương trình đề ra cần một lượng vốn ước tính khoảng 63.200 tỷ đồng trong đó vốn đầu tư từ NSNN vào khoảng 6.000 tỷ đồng, vốn vay khoảng 57.200 tỷ đồng. Tuy nhiên, theo tính toán ban đầu của các chuyên gia lâm nghiệp, yêu cầu vốn đầu tiên tới 31.000 tỷ đồng so với nguồn vốn hạn hẹp hiện nay gấp 2,5 lần vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập chung của NSNN trong một năm. Dự kiến trồng 2 triệu ha rừng phòng hộ, đặc dụng dự tính chiếm khoảng 20% tổng vốn đầu; rừng kinh tế khoảng 3 triệu ha chiếm gần 70%; dành khoảng 10% đầu tư xây dựng cơ bản ở khu vực rừng trồng và 5-6% cho công tác quản lý. +Vốn đầu tư từ NSNN: - Tiếp tục thực hiện chính sách bảo vệ rừng đặc dụng, rừng phòng hộ ở vùng rất xung yếu trên diện tíchkhoảng 2 triệu ha đã thực hiện theo chương trình 327. Mức độ phân bổ cho các tỉnh không quá 50.000/ha/năm với thời hạn không quá 5 năm. - Trồng rừng phòng hộ ở vùng xung yếu với mức đầu tư bình quân 2,5 triệu đồng/ha, gồm trồng mới và chăm sóc. - Đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu. - Nghiên cứu khoa học, khuyến nông, khuyến lâm khoảng 1% tổng vốn NSNN. - Hỗ trợ bình quân 2 triệu đồng/ha cho các tổ chức, gia đình và cá nhân tự bỏ vốn trồng rừng là các loại cây gỗ đặc biệt quý hiếm, có chu kỳ trên 30 năm. - Kinh phí quản lý dự án trồng rừng phòng hộ, đặc dụng được trích 8% trogn tổng vốn đầu tư của NSNN dành cho dự án, trong đó ngân sách trung ương là 0,7%; tỉnh, huyện, xã là 1,3%, chủ dự án ở cơ sở là 6%. Vốn NSNN cấp phát qua hệ thống kho bạc Nhà nước, có ứng trước 30% sau khi dự án được duyệt. Nhà nước sẽ trước tiền cây giống năm đầu, sau đó luân truyển qua các năm tiếp theo, khi kết thúc dự án thu hồi trả lại NSNN. + Vốn tín dụng đầu tư: - Các tổ chức, cá nhân trồng rừng sản xuất được vay vốn từ Quĩ hỗ trợ đầu tư quốc gia và hưởng các chế độ ưu đãi khác theo qui định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước mới được Quốc hội thông qua. - Các nhà đầu tư phát triển chế biến nông lâm sản được hưởng chế độ ưu đãi theo luật khuyến khích đầu tư trong nước, được vay vốn từ Quĩ hỗ trợ đầu tư quốc gia để xây dựng nhà máy trực tiếp trồng rừng hoặc liên doanh liên kết với nông dân trồng rừng. + Vốn nước ngoài: Nguồn vốn nước ngoài đầu tư cho chương trình là vốn ODA và FDI, trong đó chủ yếu vẫn là vốn ODA. Như vậy việc kêu gọi sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cho thực hiện chương trình là hết sức cần thiết mỗi năm khoảng 120-150 triệu USD kể cả cây công nghiệp lâu năm và phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản. Kết quả thực hiện chương trình Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, kết thúc năm 1999 cả nước đã trồng mới hơn 200 nghìn ha rừng, đạt 110% kế hoạch, trong đó rừng phòng hộ đặc dụng 75,7% nghìn ha, vượt kế hoạch 12%, rừng sản xuất cây lâm nghiệp đạt 85,7 nghìn ha vượt 22%, rừng trồng bằng vốn viện trợ 23 nghìn ha và rừng trồng từ vốn NSNN địa phương 16 nghìn ha, bằng 80% kế hoạch . Nét mới trong năm đầu thực hiện dự án trồgn 5 triệu ha rừng là có sự phối hợp trong tổ chức, chỉ đạo và huy động nguồn lực của trung ương , địa phương và vốn viện trợ từ bên ngoài. NgoàI vốn trung ương đã cấp 314 tỷ đồng, đạt 100% kế hoạch, vốn địa phương là 48 tỷ đồng, vốn viện trợ quốc tế là 69 tỷ đồng, vốn vay tín dụng ưu đãi 755 tỷ đồng. Bên cạnh đó chương trình còn trồng mới 15.400 ha cây công nghiệp và cây ăn quả, triển khai các hoạt động lâm sinh khác như tu bổ , bảo vệ, chăm sóc, tái sinh rừng hiện có. Diện tích rừng được khoán bảo vệ trong năm là 1,538 nghìn ha, khoanh nuôi tái sinh rừng là 295 nghìn ha, chăm sóc rừng 263,2 nghìn ha. Tuy đạt được những kết quả đáng ghi nhận, nhưng dự án trồng 5 triệu ha rừng đã gặp nhiều khó khăn và thách thức lớn. Đó là khó khăn về vốn, theo quyết định của Chính phủ, vốn đầu tư cho dự án trồng 5 triệu ha rừng chủ yếu là vốn chuyển tiếp của CT 327 chuyển sang mà trong số này phần lớn vốn chuyển tiếp là dành cho các hoạt động chăm sóc rừng và bảo vệ rừng tự nhiên, chỉ một phần bố chí cho việc trồng 67.000 ha rừng đặc dụng, rừng phòng hộ theo chương trình 661. Tốc độ vốn giải ngân cũng không đạt kế hoạch. Khó khăn nữa là tình trạng thiếu giống cây trồng phù hợp với yêu cầu của dự án, số lượng cây giống ít nhưng chất lượng cũng không cao. Thứ ba là thị trường tiêu thụ các sản phẩm chế biến chưa ổn định nên chưa là yên lòng các địa phương. Cuối cùng là khó khăn do thời tiết diễn biến phức tạp, lũ lụt, hạn hán liên tiếp xảy ra. Trong thời gian tới để thực hiện tốt chương trình nên tìm cách giải quyết những khó khăn nêu ra ở trên. II.2.3. Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Vài nét giới thiệu về chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn Vấn đề nước sạch và vệ sinh môi trường hiện nay không chỉ là vấn đề của các khu vực thành thị mà còn là các vấn đề ở khu vực nông thôn nhất là các khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Bởi ở những khu vực này nước dùng cho sinh hoạt thì nhiều nhưng đa phần lượng nước ở đây đều không đảm bảo tiêu chuẩn nước sạch . Thực tế là khi sử dụng nước bà con thường bị mắc rất nhiều các chứng bệnh về đường tiêu hoá, đường hô hấp và một số chứng bệnh nan y khác. Sử dụng nước không sạch trong sinh hoạt là nguyên nhân gây bệnh, ngoài ra còn có một nguyên nhân nữa là do môi trường sống xung quanh của người dân không đảm bảo vệ sinh làm xuất hiện nhiều mầm bệnh nguy hiểm. Để giải quyết vấn đề này, ngày 3/12/1998 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 237/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Đối tượng chính của Chương trình là tất cả các xã ở khu vực nông thôn trong cả nước, trong đó tập trung ưu tiên đầu tư cho các vùng biên giới, hải đảo, dân tộc ít người và các vùng nông thôn khó khăn khác. Nội dung của Chương trình bao gồm: Đầu tư xây dựng các công trình cung cấp nước sạch. Hỗ trợ xây dựng mô hình hố xí hợp vệ sinh. Hỗ trợ xây dựng mô hình xử lý chất thải chuồng trại chăn nuôi. Hỗ trợ xử lý nước thải ở các làng nghề. Nguồn vốn sử dụng cho hoạt động của Chương trình có: Vốn Ngân sách Nhà nước ( bao gồm cả vốn vay và viện trợ ), và các nguồn vốn khác như vốn huy động trong dân, vốn của các thành phần kinh tế khác. Việc cấp phát vầ phân bổ kinh phí dựa trên dự toán chi tiết theo nội dung chi và theo mục lục NSNN. Cụ thể như sau: Công trình cung cấp nước sạch: Đối với các công trình cấp nước tập chung thì Nhà nước hỗ trợ một phần xi măng, gạch, cát, thiết bị cho hạng mục công trình đầu nguồn, trạm xử lý nước, đường ống dẫn nước chính. Còn đối với các công trình cấp nước phân tán Nhà nước nước hỗ trợ cho người nghèo và gia đình chính sách xã hội, hộ gia đình vùng 1.715 xã nghèo, vùng núi cao, hải đảo. Nhà nước hỗ trợ một phần vật tư như: ống nhựa, bơm tay xi măng, máng thu hứng nước mưa tuỳ theo từng loại hình cấp nước. Các công trình xử lý chất thải làng nghề: Nhà nước hỗ trợ một phần vật tư như xi măng, gạch, cát cho các cụm công trình xử lý hoặc kênh dẫn chính, thiết bị. Với mức hỗ trợ cụ thể là Nhà nước hỗ trợ không quá 40% giá trị công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Mô hình hố xí hợp vệ sinh: Nhà nước hỗ trợ cho một xã để thực hiện mô hình điểm tối đa không quá 100 triệu đồng. Đó là - Chi chọn điểm xây dựng dự án, phỏng vấn, xử lý lấy số liệu - Chi phí cán bộ chỉ đạo kỹ thuật - Chi tuyên truyền vận động xã hội, hướng dẫn kỹ thuật cho dân - Chi kiểm tra, nghiệm thu dự án - Chi hỗ trợ một phần vật tư (xi măng, gạch, cát…) Mô hình xử lý chất thải chuồng trại chăn nuôi hợp vệ sinh: Nhà nước hỗ trợ cho một xã để thực hiện mô hình điểm tối đa là 100 triệu đồng, với nội dung chi giống như mục trên. Kết quả sau hai năm thực hiện chương trình Theo báo cáo sơ bộ của cơ quan thường trực chương trình, đến nay cả nước đã xây dựng được 4.220.568 công trình cấp nước, 500.000 giếng khoan, 2.997.480 giếng đào các loại, 15% số hố xí hợp vệ sinh, 7.108 hầm ủ Biogas và nhiều công trình khác. ở vùng miền núi phía Bắc đã có khoảng 3,5 triệu người được dùng nước sạch, nâng tỷ lệ bao trùm lên 35%, trong đó có những tỉnh như: Phú Thọ, Quảng Ninh có tỷ lệ tăng trưởng cao ( 13-16%). Giải quyết cung cấp nước sạch ở vùng đồng bằng Sông Cửu Long cũng đạt tốc độ tăng trưởng cao 12% như miền núi phía Bắc, đặc biệt Trà Vinh đạt 19%, Cần Thơ đạt 15%… Tại đây các tỉnh đã có chính sách huy động nội lực, xã hội hoá bằng nhiều hình thức, có một số mô hình kinh doanh nước sạch tốt (công ty cấp nước VSMT, hợp tác xã, tổ hợp tư nhân…) và có sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế. Đây là kết quả bước đầu rất đáng khích lệ, nhất là trong điều kiện Chương trình mới thực hiện chính thức được hai năm. Ban chủ nhiệm chương trình đã phối hợp với các cơ quan, đoàn thể, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng như truyền hình, báo chí, đàI phát thanh, các ấn phẩm, áp phíc, tờ rơi. Đã mở được lớp tập huấn cho các đối tượng trực tiếp triển khai cấp nước và vệ sinh môi trường nông thôn. Đặc biệt, đã mở 3 lớp tập huấn cho các cán bộ chủ chốt ở địa phương về nội dung quản lý và điều hành chương trình. Về nguồn lực đầu tư cho chương trình, hiện nay đã hình thành gồm 3 thành phần: Ngân sách Nhà nước, vốn huy động từ các tổ chức quốc tế và phần vốn của dân cư địa phương đóng góp. Hai năm qua, tổng vốn huy động được khoảng 1.260 tỷ đồng, trong đó NSNN chiếm 25% (315 tỷ đồng), vốn quốc tế 11% (138,6 tỷ đồng) và vốn tự có của dân cư địa phương 64% (806,4 tỷ đồng). Theo đúng tinh thần chỉ đạo và các qui định của chương trình, số vốn huy động được tập chung hầu hết cho các địa phương (97%). Các bộ ngành Trung ương chỉ có 3%, chủ yếu là vốn NSNN và vốn quốc tế để tập chung vào một số công việc có tính chất thí điểm, truyền thông, tập huấn, đào tạo và xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn chất lượng nước và VSMT… Thực hiện chủ trương ưu tiên vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng thiếu nước nhất của cả nước- đó là vùng núi phía Bắc, vùng này được đầu tư 47% vốn NSNN và 24% vốn quốc tế. Đối với vùng lũ lụt miền Trung, chương trình cũng ưu tiên bố trí 11% vốn NSNN và 9,6 tỷ đồng vốn quốc tế để khắc phục hậu quả lũ lụt, khôI phục chương trình cấp nước và vệ sinh môi trường. Việc thực hiện được mục tiêu cơ bản là dựa vào phát huy nội lực, xã hội hoá chương trình, huy động vốn của dân dưới nhiều hình thức. Qua tổng hợp số liệu tại vùng Đông Nam Bộ, 90% vốn hoạt động do dân đóng góp, ở vùng Đồng bằng Sông Cửu Long con số đó là 79%, Đồng bằng Sông Hồng là 79%. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện chương trình còn có một số vướng mắc,đó là việc thực hiện chương trình ở các xã đặc biệt khó khăn nhất là các xã vùng sâu, vùng xa có rất nhiều phức tạp do địa hình, do trình độ dân trí thấp và nguồn vốn thực hiện cho chương trình ở địa phương toàn bộ là vốn NSNN và vốn ngoài nước, những người dân địa phương chỉ đóng góp sức lao động của mình trong quá trình tiến hành dự án. Tóm lại: Bằng những chương trình mục tiêu cụ thể Nhà nước đã đầu tư và đạt được có hiệu quả các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội nông nghiệp nông thôn, đảm bảo chi đúng, chi đủ các khoản đầu tư của NSNN mà tổn thất kinh phí trong quá trình thực hiện là rất thấp. Tuy nhiên Nhà nước nên quản lý chặt chẽ các Chương trình quốc gia để kết quả đạt được tốt hơn. Những kết luận về hiệu quả kinh tế-xã hội của đầu tư NSNN cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn. III.1. Những thành tựu về nông nghiệp . Nhờ có chính sách đầu tư đúng đắn cho nên có thể nói giai đoạn 1996-2000 là giai đoạn đạt được những thành công lớn trong sản xuất nông nghiệp. Sản xuất lương thực phát triển tốt, bảo đảm giữ vững an ninh lương thực quốc gia, tạo nguồn xuất khẩu lớn thứ hai trên thế giới. Sản lượng lương thực tăng nhanh là một thành tựu nổi bật trong nông nghiệp. Thể hiện ở Biểu 1 dưới đây: Biểu 6: Sản xuất lương thực giai đoạn 1996-2000(*) Thời báo kinh tế Việt Nam 1999-2000 Năm 1996 1997 1998 Ước 1999 Ước 2000 Tổng SLLT qui thóc (1000 tấn) 29.217 30.618,1 31.853,9 34.253,9 35.600 Sản lượng lúa (1000 tấn) 26.396,7 27.523,9 29.141,7 31.393,8 32500 Nếu như năm 1986 sản lượng lương thực nước ta chỉ có 18,3 triệu tấn và 21,5 triệu tấn năm 1990 khi đó chưa đáp ứng đủ nhu cầu lương thực trong nước thì đến năm 1996 đã là 29,217 triệu tấn và sản lượng này liên tục tăng đều qua các năm ( bình quân là 1,3 triệu tấn / năm) Tốc độ tăng lương thực 5% cao hơn tốc độ tăng dân số ( 2%) nên lương thực bình quân đầu người cũng tăng dần qua các năm: từ 372 kg năm 1995 lên 455 kg năm 2000. Trong lương thực, sản xuất lúa tăng nhanh và ổn định cả về diện tích và năng suất. Những năm gần đây diện tích lúa gieo trồng cũng có tăng lên nhưng mức độ tăn chậm đặc biệt là từ năm 1996 diện tích gieo trồng cả nước là 7003,8 nghìn ha tăng lên 7099,7 nghìn ha năm 1997. Từ năm 1997 trở lại đây diện tích gieo trồng lúa có tăng nhanh hơn cụ thể : diện tích canh tác năm 1998 là 7337,4 nghìn ha; năm 1999 là 7648,1 nghìn ha và đến năm 2000 ước tính là 7671,2 nghìn ha. Sở dĩ diện tích canh tác tăng lên là do khai hoang và do tăng vụ. Cơ cấu mùa vụ và cây trồng đã có sự chuyển biến tích cực theo hướng tăng diện tích lúa đông xuân, lúa hè thu, giảm diện tích lúa mùa có năng suất thấp, tạo điều kiện để thâm canh tăng năng suất lúa từng vụ và cả năm. Thành tựu mở rộng diện tích lúa rõ nét nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2000, diện tích lúa vùng này đạt 3,97 triệu ha, tăng 1,39 triệu ha, chủ yếu do khai hoang, tăng vụ ở Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu. Cùng với mở rộng diện tích, những năm qua sản xuất lúa ở nước ta còn đạt được tiến bộ về thâm canh tăng năng suất và nâng cao chất lượng lúa gạo. Trình độ thâm canh lúa của nông dân tăng lên cùng với sự tác động tích cực của khoa học-kỹ thuật, nhất là giống lúa mới đã tạo ra sự phát triển ổn định về năng suất từ 37,7 tạ / ha năm 1996 lên 38,8 tạ / ha năm 1997; 39,7 tạ / ha năm 1998; 41 tạ / ha năm 1999 và 42,6 tạ / ha năm 2000. Năng suất lúa tăng bình quân gần 1 tạ / ha một năm. Vì vậy, tăng năng suất lúa là yếu tố quan trọng làm tăng sản lượng lúa của nước ta từ 26.396,7 nghìn tấn năm 1996 lên 32,5 triệu tấn năm 2000 ( số liệu cụ thể qua các năm ở Bảng 1), bình quân mỗi năm tăng thêm 1,2 triệu tấn, năm sau cao hơn năm trước. Song song với những tiến bộ về tăng vụ, chuyển vụ và thâm canh lúa, trong những năm qua đã hình thành một số vùng lúa đặc sản phục vụ xuất khẩu ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Long An, Sóc Trăng, Cần Thơ, Tiền Giang, đều qui hoạch vùng lúa thâm canh cao, chất lượng tốt phục vụ yêu cầu xuất khẩu. Trung bình mỗi tỉnh có từ 10 đến 20 vạn ha lúa đặc sản, với nhiều chủng loại khác nhau nhưng có đặc điểm giống nhau là hạt gạo dài, thơm ngon, đáp ứng yêu cầu của thị trường. Tỉnh An Giang đã xuất hiện mô hình liên doanh sản xuất lúa xuất khẩu gắn với thị trường tiêu thụ ở Nhật Bản, theo qui trình công nghệ của Nhật Bản. ở vùng đồng bằng Sông Hồng, nhiều địa phương đã khôi phục vùng lúa gạo đặc sản có chất lương cao chủ yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước ( như tám thơm, lúa dự hương, nếp cái hoa vàng, các giống lúa mới có chất lượng cao). Vùng lúa áp dụng công nghệ Nhật Bản ở Hải Dương, Hưng Yên bước đầu phát huy tác dụng đối với thâm canh lúa vùng này. Sản lượng và chất lượng lúa tăng lên trong những năm qua đã ghốp phần tích cực bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong điều kiện thời tiết không thuận, đẩy lùi tình trạng thiếu đói giáp hạt ở các tỉnh miền Bắc, tăng lượng gạo xuất khẩu. Trong 3 năm từ 1996-1998 nước ta xuất khẩu 10,4 triệu tấn gạo, nhiều hơn lượng gạo xuất khẩu 5 năm trước đó 1 triệu tấn đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới sau Thái Lan. Kim ngạch xuất khẩu gạo năm 1998 đạt trên 1 tỷ USD, chiếm khoảng 11% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Chất lượng gạo tăng do cơ cấu gạo xuất khẩu, tỷ trọng gạo 25% tấm giảm xuống còn 30% hiện nay. Nếu từ năm 1995 về trước chênh lệch giá gạo cùng loại xuất khẩu giữa Việt Nam và Thái Lan là 40-50 USD/ tấn, thì hiện nay chỉ còn 15-20 USD/ tấn. Cùng với lúa, sản xuất ngô phát triển khá ổn định ghóp phần bổ sung nguồn lương thực cho người và thức ăn cho gia súc. Năm 2000 diện tích ngô cả nước là hơn 70 vạn ha, năng suất 26,6 tạ/ ha và sản lượng 1,93 triệu tấn, là cây màu lương thực chủ yếu hiện nay và trong tương lai. Cùng với việc mở rộng diện tích, việc áp dụng tiến bộ công nghệ sinh học, đặc biệt là đưa các giống ngô lai năng suất cao, chất lượng tốt vào sản xuất đại trà, đã tạo ra sự đột biến về năng suất và sản lượng ngô. Đã hình thành một số vùng ngô tập chung qui mô lớn, nhiều sản phẩm hàng hoá như vùng Đông Nam Bộ (30 vạn tấn), miền núi, trung du Bắc Bộ ( 50 vạn tấn). Ngô đã trở thành một mặt hàmg nông sản xuất khẩu với qui mô trên 100 ngàn tấn/ năm và có khả năng tăng trong những năm tới. Với kết quả đó, nước ta đã vượt được mục tiêu sản xuất lương thực của năm 2000 vào năm 1998 và năm 2000 còn vượt nhiều hơn 5,6 triệu tấn. Ngoài những kết quả đạt được của nông nghiệp trong sản xuất lương thực mà còn đạt được rất nhiều thành tựu khác trong trồng trọt, chăn nuôi…Đó là chăn nuôI phát triển nhanh và toàn diện. Năm 2000, đàn lợn đạt 20,2 triệu con, sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 1,4 triệu tấn, đàn bò sữa cũng tăng khá; Lâm nghiệp và thuỷ sản cũng tăng nhanh về sản lượng. Năm 2000, diện tích trồng rừng đạt 10,9 triệu ha, sản lượng thuỷ sản đạt hơn 2,1 triệu tấn. Tóm lại những kết quả đạt được trong sản xuất nông nghiệp giai đoạn 1996-2000 là những kết quả rất đáng khích lệ, nó là cơ sở cho những bước phát triển tiếp theo ở giai đoạn sau. III.2. Những thành tựu về phát triển kinh tế-xã hội nông thôn. Cùng với những thành tựu đạt được trong phát triển nông nghiệp kéo theo sự phát triển các lĩnh vực khác, các ngành khác ở nông thôn Cơ cấu kinh tế nông thôn đang chuyển dịch theo hướng tích cực. Cùng với sự chuyển dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế, cơ cấu kinh tế nông thôn cũng có những chuyển biến tích cực thể hiện ở Bảng 2 dưới đây: Biểu 7A: Cơ cấu GDP của cả nước thời kỳ1996-2000(*Nguồn Báo kinh tế Việt Nam 2000-2001_Thời báo kinh tế ) Đơn vị tính: % 1996 1997 1998 1999 2000 Công nghiệp 29,73 32,08 32,70 35,50 36,61 Nông nghiệp 27,70 25,77 25,98 25,43 24,30 Dịch vụ 42,51 42,15 42,32 40,67 39,09 Biểu 7B: Cơ cấu GDP của khu vực nông thôn thời kỳ 1996-2000(** Nguồn Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 1/2001 ) Đơn vị tính:% 1996 1997 1998 1999 2000 Công nghiệp 14,70 15,50 15,90 16,10 16,40 Nông nghiệp 71,50 70,80 70,30 70,20 70,10 Dịch vụ 13,80 13,70 13,80 13,70 13,50 Biểu trên cho thấy, trong cơ cấu GDP của toàn bộ nền kinh tế, nông nghiệp, tuy tăng về tuyệt đối, nhưng giảm về tỷ trọng vì tốc độ tăng công nghiệp và dịch vụ cao hơn nông nghiệp nhiều lần. Riêng hai năm 1999 và năm 2000 thì cơ cấu kinh tế có sự thay đổi đáng kể, đó là tỷ trọng của ngành công nghiệp có tăng từ 32,7 năm 1998 lên 35,50 năm 1999 và 36,61 năm 2000. Trong khi đó các ngành nông nghiệp và dịch vụ lại có xu hướng giảm dần về tỷ trọng. Điều này cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta có nhiều biến động theo chiều hướng tăng tỷ trọng công nghiệp và giảm tỷ trọng nông nghiệp và dịch vụ mà mục tiêu phát triển kinh tế nước ta là tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ và giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP. Cơ cấu GDP của khu vực nông thôn cũng vậy, cả công nghiệp và dịch vụ đều tăng mạnh, trong khi nông nghiệp giảm vào các năm từ 1996 đến năm 1998 nhưng hai năm 1999 và năm 2000 lại có sự thay đổi. Đó là tỷ trọng ngành công nghiệp tiếp tục tăng từ 15,90 năm 1998 lên 16,10 năm 1999 và 16,40 năm 2000 và tỷ trọng của các ngành nông nghiệp và dịch vụ cũng lại tiếp tục giảm. So với cơ cấu GDP của toàn nền kinh tế thì cơ cấu GDP của khu vực nông thôn có sự khác biệt rất lớn.Bởi trong khu vực nông thôn ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất lớn thường trên 70% trong khi các ngành còn lại mỗi ngành chỉ có trên 10%, điều đó cũng đúng vì rằng khu vực nông thôn kinh tế phát triển chủ yếu là nông nghiệp. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn đã hình thành và phát triển trong các lĩnh vực chế biến, vận chuyển, phơi sấy, bảo quản nông, lâm thuỷ sản và sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị phục vụ nông nghiệp. ở những vùng sản xuất hàng hoá nông sản tập trung, quy mô lớn như lúa gạo ĐBSCL, cà phê ở Tây Nguyên, cao su ở Đông Nam Bộ, thuỷ sản ở các vùng ven biển…đã và đang hình thành một số trung tâm công nghiệp chế biến nông thuỷ sản với quy mô vừa và nhỏ, được trang bị máy móc và thiết bị tương đối hiện đại, có khả năng đáp ứng các nhu cầu sơ chế, tinh chế sản phẩm phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Đến nay, ở vùng ĐBSCL trên 90% sản lượng lúa hàng hoá phục vụ xuất khẩu được say xát và đánh bóng tại các cơ sở sản xuất công nghiệp-dịch vụ tư nhân ở Sa Đéc, Cần Thơ, Long Xuyên… với tổng công suất 2000-3000 tấn/ ngày. Mô hình cụm, trung tâm công nghiệp phục vụ nông nghiệp đã có tác động tích cực tới sản xuất nông nghiệp, tạo công ăn việc làm và thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong khu vực nông thôn. Tại các vùng ven đô, do tác động của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá nên cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển nhanh theo hướng công nghiệp và dịch vụ. Từ năm 1997, một số huyện ngoại thành TP HCM được chuyển sang quận nội thành, tốc độ công nghiệp hoá, đô thị hoá được đẩy nhanh kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, phi nông nghiệp. ở các vùng đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Trung du miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn tuy có chậm hơn so với Nam Bộ nhưng cũng có những khởi sắc trên một số ngành và địa phương. Tại các tỉnh đồng bằng sông Hồng, các nghề mới xuất hiện và phát triển, thu hút ngày càng nhiều lao động nông thôn, tạo ra sự phân công lao động mới ở những vùng đất hẹp, người đông. Hà Tây, Nam Định, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Bình là những tỉnh điển hình tại miền Bắc có chuyển biến tích cực trong chuyển cơ cấu kinh tế nông thôn. Cơ cấu kinh tế trong nội bộ khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản thời kỳ 1996-2000 được chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của ngành nông nghiệp và giảm dần tỷ trọng của ngành lâm nghiệp, thuỷ sản. Tuy nhiên trong thời gian tới nên đầu tư nhằm nâng cao dần tỷ trọng của ngành thuỷ sản bởi đây là ngành có giá trị xuất khẩu cao thu về nhiều ngoại tệ cho đất nước. Bảng 3 dưới đây cho thấy sự chuyển dịch rõ rệt trong cơ cấu của nội bộ ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản: Biểu 8: Tỷ trọng nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản trong tổng giá trị sản xuất toàn ngành giai đoạn 1996-2000 (*) Nguồn số liệu thống kê nông-lâm nghiệp, thuỷ sản Việt Nam 1975-2000 _ NXB thống kê 2000 Tạp chí con số và sự kiện số1+2/2000 (giá so sánh năm 1994) Đơn vị tính: % 1996 1997 1998 1999 2000 Nông nghiệp 80,50 80,90 80,80 81,80 86,04 Lâm nghiệp 5,20 4,80 5,00 4,40 4,00 Thuỷ sản 14,30 14,30 14,20 13,80 9,96 Tổng 100 100 100 100 100 Trong nội bộ ngành nông nghiệp (nghĩa hẹp), cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi cũng có những thay đổi nhất định. Trong giai đoạn 1996-1998 tỷ lệ này là 80/20 do tốc độ tăng trưởng của chăn nuôi cao hơn trồng trọt. Đời sống nông dân được cải thiện. Nông nghiệp và kinh tế nông thôn phát triển, thu nhập và đời sống của tuyệt đại đa số nông dân được cải thiện rõ rệt. Hầu hết có đủ lương thực, thực phẩm cho tiêu dùng. Đồ dùng gia đình lâu bền được mua sắm nhiều, nhà ở được xây dựng khang trang. Bình quân thu nhập đầu người năm 1989 mới chỉ có 21.000 đồng, năm 1995 là 169.000 đồng, 1996 là 188.000 đồng, năm 1998 là 212.000 đồng và năm 1999 là 225.000 đồng. Năm 1999 thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tăng 19,7% so với năm 1996 hay tăng 6,2%/năm. Nếu loại trừ yếu tố tăng giá thì tăng 1,3%/năm. Mặc dù mức tăng hàng năm là không cao nhưng nó cũng ghóp phần giảm số hộ đói nghèo từng bước nâng cao đời sống nông dân. Tỷ lệ hộ đói nghèo ở nông thôn từ 30% năm 1989 giảm xuống còn 15,96% năm 1999 tức là bình quân giảm nghèo được 2%/năm, nhiều vùng nông thôn không còn hộ đói. Tỷ lệ hộ giàu từ 3% năm 1989 tăng lên 10% vào năm 1999. Sở dĩ thu nhập bình quân của người nông dân thấp hơn nhiều so với các vùng thành thị là do cơ cấu thu nhập của dân cư nông thôn chủ yếu dựa vào nông nghiệp và lâm nghiệp (48,03%) và xu hướng này ít thay đổi so với các năm trước trong khi giá cả nông, lâm, thuỷ sản không ổn định, biến đông theo hướng bất lợi cho người nông dân, nhất là người trồng lúa nên dù những năm qua nông nghiệp có tăng trưởng nhưng thu nhập của người nông dân không tăng với tốc độ tương ứng. Sự giảm sút của giá nông sản mà giá của các mặt hàng công nghiệp tăng với tốc độ nhanh hơn làm doãng cánh kéo giá cả giữa hai nhóm mặt hàng này kéo theo sự giảm thu nhập thực tế của người nông dân. Tuy trong những năm gần đây Chính phủ đã sử dụng rất nhiều biện pháp ngăn chặn sự giảm sút giá cả của nông sản nhằm bảo vệ sản xuất cho người nông dân như biện pháp tăng mua lượng gạo tạm trữ của Nhà nước… Với những kết quả này Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá cao trong nỗ lực xoá đói, giảm nghèo và từng bước thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Cơ sở hạ tầng nông thôn có những bước tiến đáng kể. Trong những năm qua mặc dù nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn nhưng nhờ chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn được quan tâm đầu tư đáng kể. Việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tập trung chủ yếu vào việc xây dựng các công trình: hệ thống thuỷ lợi, mạng lưới giao thông nông thôn, điện nông thôn, trạm y tế,trường học, bưu chính viễn thông, phát thanh truyền hình,… * Nhận xét: Trong thời gian qua, những kết quả to lớn đạt được nêu trên trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn đã cho thấy được vai trò của đầu tư vốn cho phát triển nông nghiệp nông thôn mà đứng đầu là đầu tư từ nguồn vốn Ngân sách Nhà nước. Tuy vậy, qua 4 năm thực hiện luật NSNN, việc quản lý và kiểm soát chi NSNN cho nông nghiệp và kinh tế nông nghiệp nông thôn đã bộc lộ một số tồn tại cần khắc phục như sau: Quy mô và cơ cấu đầu tư từ NSNN cho nông nghiệp nông thôn trong tổng đầu tư của NSNN chưa hợp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12810.DOC
Tài liệu liên quan