Đề tài Định hướng đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Thái Bình

Tài liệu Đề tài Định hướng đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Thái Bình: lời mở đầu Trong nền kinh tế quốc dân, nông nghiệp là một trong những ngành có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là điểm khởi đầu, là nền tảng cho quá trình phát triển kinh tế. Đồng thời nông nghiệp là ngành có liên quan trực tiếp đến việc làm, thu nhập và đời sống của đại đa số dân cư nước ta...Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao thì đòi hỏi về nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng đa dạng phong phú cả về lượng và chất cũng như về chủng loại (do sự gia tăng dân số, do sự tăng lên của nhu cầu bản thân từng con người). Do vậy, chỉ có một nền nông nghiệp phát triển cao mới có hy vọng đáp ứng được. Ngoài ra nạn đói, nạn ô nhiễm môi trường sinh thái... đang là những vấn đề liên quan trực tiếp đến nông nghiệp nông thôn... và trên thực tế cũng chứng minh rằng, nước nào có nền nông nghiệp phát triển bền vững chắc đều là nước có nền kinh tế phát triển ổn định. Sự phát triển nông nghiệp nông thôn sẽ tạo ra một thị trường rộng lớn cho công nghiệp và các ngành...

doc70 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1118 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Định hướng đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Thái Bình, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu Trong nền kinh tế quốc dân, nông nghiệp là một trong những ngành có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là điểm khởi đầu, là nền tảng cho quá trình phát triển kinh tế. Đồng thời nông nghiệp là ngành có liên quan trực tiếp đến việc làm, thu nhập và đời sống của đại đa số dân cư nước ta...Xã hội ngày càng phát triển, đời sống con người ngày càng được nâng cao thì đòi hỏi về nhu cầu lương thực, thực phẩm ngày càng đa dạng phong phú cả về lượng và chất cũng như về chủng loại (do sự gia tăng dân số, do sự tăng lên của nhu cầu bản thân từng con người). Do vậy, chỉ có một nền nông nghiệp phát triển cao mới có hy vọng đáp ứng được. Ngoài ra nạn đói, nạn ô nhiễm môi trường sinh thái... đang là những vấn đề liên quan trực tiếp đến nông nghiệp nông thôn... và trên thực tế cũng chứng minh rằng, nước nào có nền nông nghiệp phát triển bền vững chắc đều là nước có nền kinh tế phát triển ổn định. Sự phát triển nông nghiệp nông thôn sẽ tạo ra một thị trường rộng lớn cho công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Nông nghiệp nông thôn không chỉ là nơi cung cấp lao động, nguyên liệu và dược liệu cho công nghiệp mà còn là nơi tiêu thụ lớn các sản phẩm của công nghiệp. Chính vì thế, phát triển kinh tế nông nghiệp là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Nó càng quan trọng khi nước ta có hơn 80% dân số sống trong khu vực nông thôn và chủ yếu sinh sống bằng nghề nông.Tuy nhiên, để ngành nông nghiệp ngày càng phát triển thì cần phải có sự đầu tư thoả đáng. Vì đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển, là chìa khoá sự tăng trưởng của từng ngành, từng quốc gia. Hiện nay, vốn đầu tư được tất cả các quốc gia trên Thế giới quan tâm, vấn đề này cũng rất bức xúc đối với quá trình tăng trưởng và phát triển ở nước ta. Do đó,việc đầu tư sử dụng vốn như thế nào cho hợp lý là rất quan trọng. Thái Bình là một tỉnh ven biển thuộc đồng bằng châu thổ sông Hồng, sản xuất nông nghiệp có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh. Cùng với sự biến đổi của nền kinh tế cả nước, trong những năm đổi mới, sản xuất nông nghiệp của tỉnh đã có bước phát triển toàn diện vững chắc, đạt được những kết quả đáng khích lệ: Sản xuất lương thực tăng trưởng với nhịp độ cao, chăn nuôi phát triển...đã từng bước đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân trong tỉnh và có sản phẩm dự trữ, xuất khẩu. Tuy vậy, sản xuất nông nghiệp hiện nay vẫn còn bộc lộ những mặt hạn chế như: trồng trọt vẫn trong tình trạng độc canh cây lúa, chăn nuôi vẫn chưa có hướng đi đúng để trở thành một ngành sản xuất chính và các hoạt động dịch vụ nông nghiệp vẫn còn nặng về sản xuất, kinh doanh chưa thực sự thúc đẩy sản xuất phát triển. Hiểu rõ được điều này, trong thời gian qua, Nhà nước và tỉnh đã đầu tư khá thoả đáng nhằm đưa nền kinh tế tỉnh phát triển mạnh hơn nữa trong đó lĩnh vực nông nghiệp cũng được quan tâm đầu tư thoả đáng... nhưng cũng chỉ đạt được phần nào mục tiêu đề ra. Do đó, để nông nghiệp ngày càng phát triển và góp phần quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh, trong thời gian tới, tỉnh cần quan tâm đầu tư hơn nữa đến lĩnh vực này. Đồng thời phải có những biện pháp nhằm huy động các nguồn vốn khác tăng cường đầu tư cho phát triển nông nghiệp Thái Bình. Trong thời gian thực tập tại Phòng Nông nghiệp - Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Bình, qua quá trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tôi chọn đề tài “Định hướng đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Thái Bình" Đề tài này tập trung nghiên cứu quá trình đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Thái Bình và các kết quả đạt được của quá trình đầu tư. Đồng thời đưa ra những định hướng giải pháp nhằm thu hút, sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp tỉnh. Đề tài được chia làm 3 phần: Phần I: Cơ sở lý luận. Phần II: Thực trạng đầu tư ngành nông nghiệp Thái Bình. Phần III: Định hướng đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Thái Bình - những giải pháp thích hợp. Do thời gian có hạn và bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu, nên chuyên đề này không tránh khỏi những sai sót, em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Ngọc Mai cùng các thầy, cô giáo và các cô chú trong Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành đề tài này./. Phần I: Cơ sở lý luận I. Khái niệm, bản chất vai trò của đầu tư. Một số khái niệm: Trong lĩnh vực sản xuất vật chất nói chung, hoạt động kinh tế bao giờ cũng gắn liền với việc sử dụng tiền vốn và các nguồn tài nguyên khác nhằm đem lại lợi ích kinh tế xã hội nhất định. Trong nền kinh tế quốc dân, phạm vi một địa phương, một vùng kinh tế, đầu tư là một lĩnh vực hoạt động để tạo ra hoặc đổi mới và duy trì hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật thuộc các ngành kinh tế quốc dân nhằm khai thác đầy đủ và hiệu quả các nguồn tài nguyên của đất nước. - Theo nghĩa chung nhất thì đầu tư được hiểu là sự bỏ ra, sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại nhằm đạt được những kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. + Các nguồn lực ở hiện tại có thể là tiền, sức lao động, của cải vật chất, trí tuệ... + Những kết quả đạt được trong tương lai có thể là lợi nhuận, tạo việc làm, tăng tài sản vật chất (nhà máy, đường xá, cầu cống...), tăng tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn, trình độ quản lý, khoa học kỹ thuật...), tạo ra những công nghệ mới và tạo ra những lợi ích cho nền kinh tế. 2. Bản chất các loại đầu tư trong phạm vi quốc gia: -Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu Chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành .Sự đầu tư dưới hình thức này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu, cổ phiếu cho người khác).Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ tiền ra đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. - Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, sự đầu tư ở hình thức này lại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. - Đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo ra việc làm, nâng cao mọi đời sống của người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. - Từ các loại khái niệm đầu tư nói trên, có thể thấy đầu tư có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế đất nước nói chung. Đầu tư cho nông nghiệp chính là hoạt động đầu tư nhằm tạo ra và tăng thêm những tài sản vật chất trong nông nghiệp như cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm...); máy móc thiết bị trong nông nghiệp; nâng cao trình độ chuyên môn ứng dụng khoa học công nghệ vào nông nghiệp; tạo ra nhiều loại giống, vật nuôi mới; đầu tư làm tăng nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp; phát triển mạnh công nghiệp chế biến tạo điều kiện tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản. Vì vậy, đầu tư phát triển nông nghiệp là mang ý nghĩa chiến lược, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. 3.Vai trò của đầu tư phát triển: Qua việc xem xét khái niệm, bản chất của đầu tư phát triển, chúng ta có thể thấy đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng, là yếu tố quyết định đến sự phát triển kinh tế, là chìa khoá tăng trưởng của mọi quốc gia. Vai trò này của đầu tư được thể hiện ở các mặt sau: 3.1. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế đất nước: Thứ nhất, đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. - Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên Thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, kéo theo sản lượng cân bằng tăng và giá cả các đầu vào của đầu tư tăng . - Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó giá cả sản phẩm giảm đồng thời cho phép tăng tiêu dùng. Tiêu dùng tăng sẽ kích thích sản xuất và sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống mọi thành viên trong xã hội. Thứ hai, đầu tư có sự tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế . Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định nền kinh tế của mọi quốc gia. Khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố đầu tư tăng làm cho giá các hàng hoá liên quan tăng ( giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố liên quan tăng, sản xuất các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế . Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết những tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. Thứ ba, đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 - 25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư . ở các nước phát triển, ICOR thường lớn, từ 5 - 7 do thừa vốn, thiếu lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại có giá trị cao. Còn ở các nước chậm phát triển ICOR thấp từ 2 - 3 do thiếu vốn, thừa lao động nên có thể và cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ. Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước. Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn ICOR trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. Do đó, ở các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. Thứ tư, sự đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế . Kinh nghiệm của các nước trên Thế giới cho thấy con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9 - 10%) là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 - 6 % là rất khó khăn. Như vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế . Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị,... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác càng phát triển . Thứ năm, đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Khoa học công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với Thế giới và khu vực.Do đó, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của nước ta sẽ gặp nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Chúng ta đều biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu, phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. 3.2.Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ: Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Đầu tư quyết định sự ra đời của mỗi cơ sở. Chẳng hạn để tạo dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng , cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựngcơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất - kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư Đầu tư quyết định sự tồn tại của các cơ sở. Đối với các cơ sở sản xuất , kinh doanh dịch vụ đang tồn tại : sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vạt chất - kỹ thuật của những cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được hoạt động bình thường cần tiến hành định kỳ sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới với sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Đầu tư quyết định sự phát triển của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thị trường, để doanh nghiệp ngày càng phát triển, đáp ứng được khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp phải đổi mới sản phẩm, áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, không ngừng nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên của đơn vị trong quá trình sản xuất, đồng thời phải tăng cường khâu tiếp thị... Như vậy, doanh nghiệp sẽ có lợi nhuận cao và đứng vững trên thị trường . Tất cả các hoạt động trên cũng đều là hoạt động đầu tư . II . Kết quả và hiệu quả của hoạt động đầu tư . A . Kết quả của hoạt động đầu tư. Khái niệm kết quả của hoạt động đầu tư : Kết quả của hoạt động đầu tư được thể hiện ở khối lượng vốn đầu tư đã được thực hiện, ở các tài sản cố định được huy động hoặc năng lực sản xuất kinh doanh phục vụ tăng thêm. 2 . Các chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động đầu tư : 2 .1 Khối lượng vốn đầu tư thực hiện. Khối lượng vốn đầu tư thực hiện là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư, bao gồm các chi phí cho công tác chuẩn bị đầu tư, xây dựng nhà cửa và các cấu trúc hạ tầng, mua sắm thiết bị máy móc, để tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác theo quy định của thiết kế dự toán và được ghi trong dự án đầu tư được duyệt. Đối với từng công cuộc đầu tư khác nhau thì cách tính vốn đầu tư thực hiện sẽ khác nhau. Đối với những công cuộc đầu tư quy mô lớn, thời gian thực hiện đầu tư dài thì vốn đầu tư được tính là thực hiện khi từng hoạt động hoặc từng giai đoạn của mỗi công cuộc đầu tư đã hoàn thành. Đối với những công cuộc đầu tư quy mô nhỏ, thời gian thực hiện đầu tư ngắn thì số vốn đã chi được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện khi toàn bộ các công việc của quá trình thực hiện đầu tư kết thúc. Đối với những công cuộc đầu tư do ngân sách tài trợ, để số vốn đã chi được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện thì các kết quả của quá trình đầu tư phải đạt các tiêu chuẩn và tính theo phương pháp sau đây: + Vốn đầu tư thực hiện của công tác xây dựng được tính theo phương pháp đơn giá. Theo phương pháp này để tính vốn đầu tư thực hiện trước hết phải căn cứ vào bảng đơn giá dự toán quy định của Nhà nước, căn cứ vào khối lượng công tác xây dựng hoàn thành và áp dụng công thức sau đây để tính: Ivc = ồQxi x Pi + Cin + W Trong đó: Ivc: Mức vốn đầu tư thực hiện về xây dựng ồQxi: Khối lượng công tác xây dựng đã hoàn thành theo đúng quy định Pi: Đơn giá dự toán Cin: Phụ phí gồm những chi phí chưa được tính trong đơn giá dự toán. W: Lãi định mức được nhà nước quy định theo tỷ lệ % với giá thành dự toán hoặc giá trị dự toán của khối lượng. 2 .2.Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm. Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tương xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập (làm ra sản phẩm, hàng hoá hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ cho xã hội đã được ghi trong dự án đầu tư ) đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu sử dụng, có thể đưa vào hoạt động được ngay. F = Ivb + Ivr - C - Ive Trong đó: F: giá trị các tài sản cố định được huy động trong kỳ Ivb: vốn đầu tư được thực hiện ở các kỳ trước chưa được huy động chuyển sang kỳ nghiên cứu (xây dựng dở dang đầu kỳ). Ivr: vốn đầu tư được thực hiện ở kỳ nghiên cứu trong kỳ. C: chi phí trong kỳ không làm tăng giá trị tài sản cố định. Ive: Vốn đầu tư chưa được huy động chuyển sang kỳ sau (xây dựng dở dang cuối kỳ). - Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động và sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các hoạt động dịch vụ theo quy định được ghi trong dự án đầu tư . B. hiệu quả của hoạt động đầu tư . Khái niệm. 1. Hiệu quả tài chính: Hiệu quả tài chính (Etc) của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kỳ khác, các cơ sở khác hoặc so với định mức chung. Các kết quả mà cơ sở thu được do thực hiện đầu tư Số vốn đầu tư mà cơ sở đã thực hiện để tạo ra các kết quả trên Etc = Etc được coi là hiệu quả khi Etc > Etco . Trong đó, Etco là chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của các kỳ khác mà cơ sở đã đạt được chọn làm cơ sở so sánh, hoặc của đơn vị khác đã đạt tiêu chuẩn là hiệu quả. Để phản ánh hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư một cách chính xác, người ta phải sử dụng một số chỉ tiêu: IRR, NPV, RR.... 2. Hiệu quả kinh tế xã hội . Hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế xã hội phải bỏ ra khi thực hiện đầu tư . Các lợi ích thu được có thể là lợi nhuận, tăng thu cho ngân sách hoặc cũng có thể là số chỗ làm việc, đáp ứng được các mục tiêu chính sách của Nhà nước. Các chi phí mà xã hội phải gánh chịu như chi phí môi trường, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, sức lao động... Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội . 2.1. Các tiêu chuẩn đánh giá Để xác định các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội , phải dựa vào các tiêu chuẩn sau: Nâng cao mức sống của dân cư để thực hiện gián tiếp qua các số liệu cụ thể về mức gia tăng sản phẩm quốc gia, mức gia tăng tích luỹ vốn, mức gia tăng đầu tư, tốc độ phát triển , tốc độ tăng trưởng. Phân phối lại thu nhập thể hiện qua sự đóng góp của công cuộc đầu tư vào việc phát triển các vùng kinh tế kém phát triển , nâng cao đời sống của các tầng lớp dân cư. Gia tăng số lao động có việc làm. Tăng thu và tiết kiệm ngoại tệ. Các mục tiêu kế hoạch kinh tế quốc dân khác là: + Tận dụng hay khai thác tài nguyên chưa được quan tâm hay mới phát hiện. + Phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo. + Phát triển kinh tế xã hội ở các địa phương nghèo, các vùng xa xôi, dân cư thưa thớt nhưng có nhiều triển vọng về tài nguyên để phát triển kinh tế . 2.2. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội do thực hiện đầu tư . Xuất phát từ góc độ nhà đầu tư : Là các doanh nghiệp, lợi ích kinh tế xã hội của đầu tư được xem xét biệt lập với những tác động của nền kinh tế đối với nó ( như trợ giá đầu vào, bù lỗ đầu ra ... của Nhà nước). Trong trường hợp này, phương pháp được áp dụng là dựa trực tiếp vào số liệu của các báo cáo tài chính của hoạt động đầu tư để tính các chỉ tiêu định lượng như: NPV, IRR, Wi, T,... Ngoài ra các doanh nghiệp cũng xem xét các chỉ tiêu định tính sau: Mức đóng góp cho ngân sách hàng năm của cả đời dự án. Số chỗ làm việc tăng thêm khi thực hiện đầu tư . Số làm việc tăng thêm = Số lao động thu hút thêm - Số lao động mất việc Số ngoại tệ thu được từ hoạt động đầu tư Số ngoại tệ thực thu = Tổng thu ngoại tệ - Tổng chi ngoại tệ Mức tăng năng suất lao động và trình độ sản xuất Mức nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động và của các cán bộ quản lý. Tạo thị trường mới và mức độ chiếm lĩnh thị trường. Các tác động đến môi trường. Đáp ứng các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đối với các cấp quản lý vĩ mô của Nhà nước, địa phương và của ngành. M B PF = RF x Khi xem xét hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư phải tính đến mọi chi phí trực tiếp và gián tiếp có liên quan đến việc thực hiện đầu tư, mọi lợi ích trực tiếp và gián tiếp thu được do đầu tư đem lại, đồng thời phải tiến hành điều chỉnh các giá chi phí và lợi ích này theo giá xã hội như giá CIF, FOB, cước phí, thuế... Để điều chỉnh các giá CIF, FOB về tiền nội địa cần sử dụng tỷ giá hối đoái có điều chỉnh. PF: Tỷ giá hối đoái có điều chỉnh RF: Tỷ giá hối đoái chính thức B: Giá trị các khoản thu hữu hình và vô hình bằng tiền trong nước M: Giá trị các khoản thanh toán hữu hình và vô hình bằng tiền trong nước. 2. 3.Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư ở tầm vĩ mô. Các nguyên tắc cần thiết khi xây dựng hệ thống chỉ tiêu: Để qua các chỉ tiêu có thể đánh giá, nhận xét và rút ra kết luận về tính hiệu quả, cũng như những tồn tại về đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Thái Bình thì việc xây dựng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư phải đảm bảo các yếu tố sau: - Tính so sánh: các chỉ tiêu phải đảm bảo tính so sánh tức là các chỉ tiêu phải so sánh được giữa năm này với năm khác, vùng này với vùng khác, giữa thời kỳ nghiên cứu và thời kỳ gốc; thời kỳ nghiên cứu và thời kỳ kế hoạch. Tính hệ thống của các chỉ tiêu: các chỉ tiêu đánh giá phải có chỉ tiêu này bổ sung cho các chỉ têu khác hỗ trợ nhau trong phân tích. Tính thống nhất trong phương pháp xác định tính toán các chỉ tiêu: tức là các chỉ tiêu phải được xác định theo nguyên tắc nhất định, sử dụng cùng một nguồn số liệu trong tính toán. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư ở tầm vĩ mô. * Tổng giá trị sản xuất (GO) và tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng thêm do đầu tư. Tổng giá trị sản xuất (GO) : Tổng giá trị sản xuất là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ tạo ra trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) do lao động trong các ngành của nền kinh tế quốc dân tạo ra. GO = ồGOi (GOi là tổng giá trị sản xuất ngành i) - Tổng sản phẩm trong nước (GDP): Tổng sản phẩm trong nước là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng trong hệ thống chỉ tiêu quốc gia, phản ánh toàn bộ kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định (thường là một năm) đó là giá trị gia tăng của tất cả các ngành kinh tế trong một vùng lãnh thổ hay một quốc gia. GDP = ồ GOi - ồ ICi (ICi là chi phí trung gian ngành i) Từ các công thức trên có thể thấy GDP là một phần của GO. GO là kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh (vì nó vẫn chứa IC), còn GDP có thể nói là kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất . * Chỉ tiêu suất đầu tư (ICOR): Vốn đầu tư Mức tăng GDP ICOR = Chỉ tiêu ICOR phản ánh mối quan hệ giữa vốn đầu tư với mức gia tăng GDP. Nếu bỏ qua độ trễ của vốn đầu tư thì chỉ tiêu ICOR được tính: Qua công thức trên cho ta thấy ICOR là mức vốn đầu tư cần thiết để làm tăng thêm một đơn vị GDP. * Chỉ tiêu số lao động có việc làm do thực hiện dự án và số lao động có việc làm tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư . Số lao động có việc làm ở đây bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp và số lao động có việc làm ở dự án liên đới (số lao động có việc làm gián tiếp). Các dự án liên đới là các dự án khác được thực hiện do sự đòi hỏi của dự án đang xem xét. * Chỉ tiêu mức giá trị gia tăng của mỗi nhóm dân cư (những người làm công ăn lương, những người có vốn hưởng lợi tức, Nhà nước thu thuế...) hoặc vùng lãnh thổ. Chỉ tiêu này phản ánh tác động điều tiết thu nhập giữa các nhóm dân cư hoặc vùng lãnh thổ. * Chỉ tiêu tiêu ngoại hối ròng (tiết kiệm ngoại tệ). Một nhiệm vụ cơ bản khi xem xét lợi ích kinh tế xã hội của dự án là xem xét tác động của dự án đến cán cân thanh toán quốc tế của đất nước. Xác định chỉ tiêu mức tiết kiệm ngoại tệ của dự án cho biết mức độ đóng góp của dự án vào cán cân thanh toán của nền kinh tế đất nước. * Các chỉ tiêu khả năng cạnh tranh quốc tế. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm do dự án sản xuất ra trên thị trường quốc tế. * Những tác động khác của dự án: Những ảnh hưởng đến kết cấu hạ tầng : sự gia tăng năng lực phục vụ của những kết cấu hạ tầng sẵn có, bổ sung năng lực phục vụ mới của kết cấu hạ tầng mới. Tác động đến môi trường: đây là những ảnh hưởng của các đầu vào, đầu ra của dự án môi trường. Trong các tác động có tác động tích cực, tác động tiêu cực. Nếu có tác động tiêu cực thì phải có giải pháp khắc phục. Nâng cao trình độ kỹ thuật sản xuất, trình độ nghề nghiệp của người lao động, trình độ quản lý của những nhà quản lý, nâng cao năng xuất lao động, nâng cao thu nhập của người lao động. Những tác động về xã hội , chính trị và kinh tế khác (tận dụng và khai khác tài nguyên chưa được quan tâm hay mới phát hiện, tiếp nhận được các công nghệ mới nhằm hoàn thực hiện cơ cấu sản xuất, những tác động đến các ngành, các lĩnh vực khác; tạo thị trường mới, tham gia vào phân công lao động quốc tế, phát triển các địa phương yếu kém, các vùng xa xôi nhưng có tiềm năng về tài nguyên...). * Ngoài ra, có thể sử dụng các chỉ tiêu sau để phân tích hiệu quả của các hoạt động đầu tư: Tỷ lệ GO (hay GDP) so với vốn đầu tư thực hiện = GO (hay GDP) Vốn đầu tư thực hiện Thứ nhất, chỉ tiêu tỷ lệ GO (hay GDP) so với vốn đầu tư thực hiện của kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc: Chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ giữa kết quả đầu ra (GO hay GDP) so với vốn đầu tư của năm đó hay thời kỳ đó. ý nghĩa của chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn đầu tư thực hiện (đã thực sự đem vào sản xuất kinh doanh) sẽ tạo ra giá trị đầu ra là bao nhiêu. Thứ hai, chỉ tiêu tỷ lệ GO ( hay GDP) tăng thêm so với vốn đầu tư tăng thêm: Tỷ lệ GO (hay GDP) tăng thêm so với vốn đầu tư tăng thêm = Giá trị GO (hay GDP) tăng thêm Vốn đầu tư tăng thêm Chỉ tiêu này cho thấy một đồng vốn đầu tư tăng thêm làm ra thêm được bao nhiêu giá trị đầu ra (GO hoặc GDP). Chỉ tiêu này lớn chứng tỏ nền kinh tế mạnh, kết quả đầu tư đạt tỷ lệ cao, tạo cơ sở vững chắc cho nền kinh tế. Thứ ba, chỉ tiêu tỷ lệ GDP/GO Như đã biết giữa GDP và GO có sự chênh lệch đó là tiêu dùng trung gian IC, do vậy so sánh tương đối giữa GO và GDP cho ta thấy được kết quả thực sự mà đầu tư tạo ra là GDP chênh lệch so với GO. Chỉ tiêu này được xác định qua công thức sau: Tỷ lệ GDP/GO = GDP GO ý nghĩa: nếu chỉ tiêu tỷ lệ GDP/GO cao điều đó thể hiện IC là nhỏ và giá trị gia tăng là càng lớn. Tức là tỷ lệ GDP/VĐT hay hiệu quả thực sự của vốn đầu tư đem lại càng cao. Mức vốn đầu tư thực hiện = Vốn đầu tư thực hiện Tổng vốn đầu tư Thứ tư, chỉ tiêu tình hình thực hiện sử dụng vốn đầu tư ý nghĩa: chỉ tiêu này có thể tính cho từng năm hoặc cho từng thời kỳ, để phản ánh tốc độ thực hiện đầu tư . Nếu tỷ lệ này lớn chứng tỏ một điều là tình trạng tràn lan trong đầu tư được khắc phục. Trên đây là hệ thống các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư của các hoạt động đầu tư . Phân tích các chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ đổi mới, chuyển hướng chiến lược... Dựa vào đó, chúng ta có thể đưa ra những chiến lược đúng đắn, thích hợp về đầu tư vào từng ngành, vùng lãnh thổ. Từ đó, sẽ góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế của vùng, lãnh thổ, đất nước. III. Khái niệm, đặc điểm và vai trò nông nghiệp. ở hầu hết các quốc gia một hiện tượng có tính quy luật là nông nghiệp luôn chậm phát triển so với công nghiệp và dịch vụ. Có thể thấy sự chênh lệch về sự phát triển giữa hai khu vực trên ở nhiều khía cạnh: mức độ hiện đại hoá, năng suất lao động, mức sống dân cư... Tuy nhiên, ở các quốc gia đó nông nghiệp vẫn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế . Hiện tượng này cũng hoàn toàn đúng với nước ta. Với đặc điểm đi lên từ nông nghiệp , sản xuất nông nghiệp đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Nó là nền tảng cho quá trình phát triển kinh tế đất nước. Để hiểu rõ vấn đề này, chúng ta đi xem xét khái niệm, đặc điểm và vai trò của nông nghiệp . Từ đó có thể có những nhận thức kỹ hơn để tiến hành thực hiện các chính sách đầu tư phát triển đúng đắn, đạt hiệu quả cần thiết. Khái niệm về nông nghiệp . Nông nghiệp theo nghĩa hẹp chỉ có hai ngành: trồng trọt và chăn nuôi. Hiểu theo nghĩa rộng nó bao gồm cả ngành lâm nghiệp và ngư nghiệp. 2.Đặc điểm của nông nghiệp . 2.1 Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên một địa bàn rộng lớn, phức tạp, lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực. Đặc điểm này vô cùng quan trọng đối với quá trình phát triển nông nghiệp . Để nông nghiệp ngày càng phát triển và đóng góp hiệu quả hơn cho nền kinh tế quốc dân thì đòi hỏi trong quá trình tổ chức, chỉ đạo sản xuất nông nghiệp cần lưu ý các vấn đề có tính kinh tế kỹ thuật sau: - Tổ chức tốt các cuộc điều tra các nguồn tài nguyên nông - lâm - ngư nghiệp của đất nước cũng như của mỗi vùng để có sự quy hoạch, bố trí các loại cây trồng, các con vật nuôi thích hợp. - Việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật phải được tiến hành phù hợp với đặc điểm sinh học của từng loại cây trồng, từng con vật nuôi, cũng như phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế cụ thể của mỗi vùng. - Cần có hệ thống chính sách phù hợp với điều kiện từng vùng, khu vực nhất định. Đặc biệt là chính sách ruộng đất, đầu tư và thuế. 2.2 Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Đất đai là tư liệu sản xuất, song nó là loại tư liệu sản xuất đặc biệt, không giống các loại tư liệu sản xuất khác. Bởi vì, nó có hạn chế về mặt diện tích, cố định về mặt vị trí và sức sản xuất của nó thì không có giới hạn. Chính vì thế khi sử dụng ruộng đất phải: Hết sức tiết kiệm, nhất là trong xây dựng cơ bản, trong làm thuỷ lợi và phát triển hệ thống giao thông . Tích cực mở rộng diện tích đất nông nghiệp bằng khai hoang, tăng vụ. Đẩy mạnh đầu tư chiều sâu, thâm canh sản xuất, coi thâm canh là con đường chủ yếu phát triển sản xuất nông nghiệp . Chú trọng bảo vệ đất đai, không ngừng cải tạo đất, làm cho độ phì nhiêu của đất ngày càng tăng. - Cần thực hiện việc quản lý ruộng đất bằng pháp luật. . Sản xuất nông nghiệp gắn với cơ chế sống. Các cây trồng và con vật nuôi với tư cách là tư liệu sản xuất đặc biệt, được tái sản xuất trong nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở chu trình sản xuất trước làm tư liệu sản xuất ở chu trình sản xuất sau. Bởi vậy, để đảm bảo chất lượng giống cây trồng và con vật nuôi ngày càng tốt hơn đòi hỏi phải: - Thường xuyên chọn lọc các giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt, thích nghi với điều kiện cụ thể của từng vùng sinh thái. - Tập trung đầu tư, nghiên cứu nhằm tạo ra các giống mới có phẩm chất cao hơn. 2.4. Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ cao. Sản xuất nông nghiệp muốn đạt được kết quả cuối cùng, ngoài sự tác động trực tiếp của con người, các cây trồng và con vật nuôi cần phải có thời gian tác động của tự nhiên. Vì vậy, trong sản xuất nông nghiệp, thời gian lao động luôn xen kẽ với thời gian sản xuất. Sự không trùng khớp với thời gian lao động và thời gian sản xuất đã đề ra tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp. Để giảm bớt tính thời vụ trong sản xuất nông nghiệp, cần phải đầu tư mạnh mẽ để giải quyết vấn đề sau: Thực hiện chuyên môn hoá sản xuất kết hợp với phát triển tổng hợp. Tạo ra các giống cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn để có thể làm nhiều vụ trong năm. Mở mang các ngành nghề, các hoạt động sản xuất kinh doanh khác trong nông thôn để thu hút lao động. Bố trí cơ cấu cây trồng, con vật nuôi thích hợp để sử dụng tối đa lực lượng lao động và sử dụng có hiệu quả các loại vật tư kỹ thuật. 3. Vai trò của nông nghiệp trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân. Nông nghiệp nông thôn là một khái niệm gắn liền với những vùng, những khu vực sinh sống chủ yếu của dân cư, trong đó người sản xuất sinh sống chủ yếu bằng nghề nông. Đồng thời, nông thôn gắn liền với nó những hoạt động xã hội, phong tục tập quán trên một cộng đồng nhất định. Chính vì vậy, nông nghiệp nông thôn luôn đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước bởi đây là nơi cung cấp những sản phẩm thiết yếu cho con người, là nơi quyết định đến vấn đề bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái bền vững. Trên giác độ tăng trưởng và phát triển kinh tế, sự phát triển vững chắc nông nghiệp nông thôn là nguồn tăng trưởng kinh tế của đất nước. Hàng loạt các nước trên Thế giới, điểm xuất phát của sự cải cách và phát triển kinh tế đều bắt nguồn từ nông nghiệp nông thôn. 3.1. Nông nghiệp là ngành cung cấp lương thực, thực phẩm - nhu cầu cần thiết cho con người. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của con người ngày càng tăng và phát triển đa dạng. Nhưng trước hết, như Mác đã khẳng định, con người trước hết phải có ăn sau đó mới nói đến các hoạt động khác. Rằng nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt cho con người... và việc sản xuất tư liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên của sự sống và của mọi lĩnh vực sản xuất nói chung. Đặc điểm này khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng cuẩ nông nghiệp trong việc nâng cao mức sống dân cư, bảo đảm sự ổn định chính trị xã hội của đất nước. Từ đó khẳng định ý nghĩa to lớn của vấn đề lương thực trong chiến lược phát triển nông nghiệp, của năng suất lao động nông nghiệp đối với việc bố trí và phân công lại lao động trong xã hội . Vấn đề này đặc biệt quan trọng đối với nước ta. Với gần 80% dân số sống ở nông thôn, sản xuất nông nghiệp đã cung cấp phần lớn tư liệu sinh hoạt cho người dân, đồng thời nó cũng đáp ứng được nhu cầu việc làm cho người lao động. Quan trọng hơn, sản xuất nông nghiệp nước ta đã đóng một vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. 3. 2. Nông nghiệp nông thôn là thị trường rộng lớn, tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Đối với các nước đang phát triển nói chung, nước ta nói riêng, nông nghiệp và nông thôn chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội và cơ cấu dân cư. Đời sống dân cư ngày càng được nâng cao, cơ cấu kinh tế nông thôn ngày càng đa dạng và đạt tốc độ tăng trưởng cao thì nông nghiệp nông thôn sẽ trở thành thị trường tiêu thụ ngày càng rộng lớn và ổn định của nền kinh tế quốc dân. Nhờ vào sự phát triển mà nhu cầu của người dân ngày càng tăng, không chỉ tiêu dùng những tư liệu sinh hoạt đơn giản phục vụ cho ăn no mặc ấm, mà nhu cầu ngày càng mở rộng, người ta càng quan tâm đến ăn ngon, mặc đẹp và những phương tiện ngày càng hiện đại phục vụ cho đời sống vật chất cũng như tinh thần. Cùng với quá trình đó, sản xuất nông nghiệp cũng đòi hỏi ngày càng được cơ khí hoá và áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ vào trong sản xuất. Chính vì vậy, nó không chỉ dừng lại ở đòi hỏi sản phẩm nông nghiệp mà sản phẩm công nghiệp ngày càng được đòi hỏi nhiều hơn, ngày càng đưa về phục vụ cho nông nghiệp, nông thôn nhiều hơn. Cho nên, nó đã thúc đẩy mạnh mẽ đến sản xuất công nghiệp và phát triển dịch vụ, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển ngành công nghiệp và dịch vụ. Qua đó, sẽ giúp cho nền kinh tế quốc dân ngày càng phát triển. 3. 3 Nông nghiệp là ngành cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho xã hội. Đối với các nước đang phát triển nói chung, nước ta nói riêng, nguyên liệu từ đầu vào là bộ phận chủ yếu để phát triển công nghiệp chế biến và nhiều ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Một số loại nông sản, nếu tính trên một đơn vị diện tích, có thể tạo ra số việc làm sau nông nghiệp nhiều hơn hoặc tương đương với việc làm của chính khâu sản xuất ra nông sản ấy. Hơn nữa, thông qua công nghiệp chế biến, giá trị nông sản được tăng lên và đa dạng hơn, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế. Vấn đề này đã được thể hiện rõ ở nước ta, đó là nông nghiệp đã cung cấp nguyên liệu cho thuỷ, hải sản, cao su, cà phê, mây, tre,... tạo điều kiện cho phát triển công nghiệp , tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho xã hội . Để thực hiện vai trò này của công nghiệp, đòi hỏi phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp, đặc biệt giữa nông nghiệp và công nghiệp chế biến. Vấn đề cần giải quyết chính là quá trình phân bố sản xuất , quy trình kỹ thuật, mô hình tổ chức và quan hệ về lợi ích kinh tế . 3. 4. Nông nghiệp là ngành cung cấp một khối lượng hàng hoá lớn để xuất khẩu . Từ đó, đã đem lại một nguồn thu ngoại tệ lớn cho nền kinh tế. Nông sản dưới dạng thô hoặc qua chế biến là bộ phận hàng hoá xuất khẩu chủ yếu của hầu hết các nước đang phát triển ở thời kỳ đầu. Theo quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, tỷ lệ nông sản xuất khẩu nhất là xuất khẩu thô có xu hướng giảm xuống nhưng thường vẫn tăng lên về giá trị tuyệt đối. Vì vậy, trong giai đoạn đầu của sự phát triển , ở nhiều nước nông nghiệp trở thành ngành xuất khẩu chủ yếu tạo ra tích luỹ để tái sản xuất và phát triển nền kinh tế quốc dân. 3. 5. Nông nghiệp là khu vực cung cấp lao động phục vụ công nghiệp và các lĩnh vực hoạt động xã hội khác. Đây là xu hướng có tính quy luật trong phân công lại lao động xã hội. Tuy vậy, yêu cầu chuyển lao động từ nông nghiệp sang các lĩnh vực khác phụ thuộc vào nhiều nhân tố: trước hết là năng suất lao động nông nghiệp phải không ngừng tăng lên, công nghiệp và dịch vụ ở thành thị ngày càng mở rộng, chất lượng nguồn lao động ở nông thôn phải được nâng cao. 3. 6. Nông nghiệp là ngành có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường sinh thái. Quá trình phát triển nông nghiệp gắn liền với sử dụng thường xuyên đất đai, nguồn nước, các loại hoá chất,... đồng thời việc trồng và bảo vệ rừng, luân canh cây trồng, phủ xanh đất trống đồi trọc,...đều có ảnh hưởng lớn đến môi trường. Phải thấy rằng việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên, môi trường sinh thái còn là điều kiện để quá trình tái sản xuất nông nghiệp diễn ra bình thường có hiệu quả . Từ các đặc điểm và vai trò của nông nghiệp nông thôn, chúng ta có thể thấy rõ nông nghiệp là ngành có liên quan trực tiếp đến việc làm, thu nhập của đại đa số dân cư... Chính vì thế, phát triển kinh tế nông nghiệp là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của nước ta.Và để ngành nông nghiệp ngày càng phát triển thì cần phải có sự đầu tư thoả đáng. Vì đầu tư là yếu tố quyết định sự phát triển, là chìa khoá của sự tăng trưởng từng ngành, cũng như của mỗi quốc gia. IV. Đặc trưng của đầu tư trong nông nghiệp . Xuất phát từ đặc điểm của ngành nông nghiệp, đặc trưng của đầu tư trong nông nghiệp được thể hiện như sau: 1. Đầu tư trong nông nghiệp được tiến hành trên một địa bàn rộng lớn, phức tạp và còn lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên. Khác với các lĩnh vực đầu tư khác, đầu tư trong nông nghiệp để tiến hành sản xuất nông nghiệp, vì vậy, nó được thực hiện trên một địa bàn rộng (như áp dụng tiến bộ về giống cho cả một huyện...). Ngoài ra, việc đầu tư còn lệ thuộc vào đất đai, thời tiết, khí hậu và thuỷ văn của từng vùng. Do vậy, quá trình đầu tư diễn ra rất phức tạp, nó không được dập khuôn mà phải diễn ra theo một quá trình, nó được xuất phát từ việc điều tra các nguồn tài nguyên nông - lâm - ngư nghiệp của đất nước cũng như của mỗi vùng để có sự đầu tư vào nghiên cứu và sử dụng các loại cây trồng, các con vật nuôi thích hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng. Trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật là rất quan trọng, nó quyết định đến việc thành công của việc sản xuất. Nhưng để cơ sở hạ tầng kinh tế này phát huy tác dụng cần phải tiến hành phù hợp với đặc điểm từng cây trồng, từng con vật nuôi, điều đặc biệt quan trọng là phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, địa hình kinh tế của từng vùng. Quá trình đầu tư trên rất phức tạp và khó thực hiện. Vì vậy, để nông nghiệp nông thôn ngày càng phát triển, nông nghiệp cần đưa ra những chính sách thích hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, từng khu vực nhất định. Đặc biệt là chính sách ruộng đất, chính sách đầu tư và chính sách thuế. Làm được như vậy, chắc chắn nông nghiệp sẽ phát triển nhanh và góp phần to lớn vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. 2. Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được. Do vậy đầu tư nông nghiệp là đầu tư để cải tạo đất. Đất đai là điều kiện cần thiết cho tất cả các ngành sản xuất, nhưng nội dung kinh tế của nó lại rất khác nhau. Trong công nghiệp và các ngành kinh tế khác, đất đai chỉ là nền móng để xây dựng các công xưởng trụ sở phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh . Trái lại trong nông nghiệp đát đai là tư liệu sản xuất không thể thay thế được. Đất đai là tư liệu sản xuất nhưng có giới hạn về diện tích, cố định về mặt vị trí mà nhu cầu sản xuất lại không ngừng tăng lên. Do vậy, đầu tư để cải tạo ruộng đất là quá trình vô cùng quan trọng, nó quyết định đến quá trình sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao đời sống dân cư. Vấn đề đặt ra là đầu tư cải tạo đất như thế nào cho phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, lãnh thổ. Trong thời gian qua, nước ta đã chú trọng đầu tư mở rộng, cải tạo đất thông qua các biện pháp khai hoang, tăng vụ, đẩy mạnh đầu tư chiều sâu, thâm canh sản xuất . Không ngừng áp dụng các loại giống mới, có chất lượng cao vào sản xuất, đồng thời sử dụng các loại phân bón vừa có tác dụng nâng cao năng suất cây trồng, vừa có tác dụng cải tạo đất và luôn luôn luân canh sản xuất làm cho độ phì nhiêu của đất ngày càng tăng. Để làm được như vậy, Nhà nước và các hộ dân cư tăng cường đầu tư cho lĩnh vực này, đồng thời có sự hướng dẫn đúng các quy định đã được đề ra trong chính sách ruộng đất. Trong thời gian tới, để đẩy mạnh lượng hàng hoá xuất khẩu và đời sống nhân dân được nâng cao, Đảng và Nhà nước cần quan tâm đầu tư hơn nữa đến lĩnh vực này, đồng thời có những biện pháp thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn khác, đặc biệt là nguồn vốn trong dân đầu tư cho cải tạo đất và phát triển nông nghiệp . 3. Đầu tư trong nông nghiệp là quá trình đầu tư phát triển hệ thống giống và chế biến nông sản. Cây trồng và con vật nuôi - đối tượng sản xuất của nông nghiệp, là những cơ thể sống, chúng sinh trưởng và phát triển theo những quy luật sinh học nhất định. Là những cơ thể sống do đó chúng rất nhạy cảm với môi trường tự nhiên. Mỗi sự thay đổi về thời tiết, khí hậu, về sự chăm sóc của con người đều tác động trực tiếp đến quá trình sinh trưởng và phát triển của chúng và đương nhiên là ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của sản xuất . Vì vậy, đặc trưng của đầu tư trong nông nghiệp là đầu tư cho phát triển hệ thống giống. Trong thời gian vừa qua, chúng ta đã đầu tư xây dựng được một số trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống với nhiều loại giống tốt góp phần to lớn cho quá trình sản xuất nông nghiệp đạt kết quả cao. Trong thời gian tới, để ngành nông nghiệp ngày càng phát triển , nhất thiết chúng ta phải tăng cường đầu tư hơn nữa để cải tạo và xây dựng các trung tâm nghiên cứu và sản xuất giống. Việc làm này không chỉ ở một số nơi mà cần mở rộng ta nhiều nơi, mỗi vùng đặc trưng ít nhất phải có một trung nghiên cứu và sản xuất giống. Ngoài việc nghiên cứu và sản xuất các loại giống mới phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, cần phải đầu tư hơn nữa để tạo ra các loại giống có phẩm chất tốt nhằm tạo ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao. Có như vậy, quá trình sản xuất nông nghiệp mới đạt kết quả cao, ngành nông nghiệp mới khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân. Ngoài việc đầu tư phát triển hệ thống giống, đầu tư cho chế biến nông sản cũng vô cùng quan trọng, nó giúp cho các nông sản sau khi thu hoạch được bảo đảm và việc chế biến nông sản làm cho giá trị nông sản hàng hoá được nâng cao, góp phần tăng thu nhập cho người lao động PHần II: thực trạng đầu tư ngành nông nghiệp Thái Bình. I. khái quát về tình hình phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Thái Bình. 1. Đặc điểm, vị trí tỉnh Thái Bình . Thái Bình là một tỉnh đồng bằng ven biển châu thổ sông Hồng, có toạ độ địa lý là: 20o17 đến 22o44 độ vĩ bắc và 106o06 đến 106o39 kinh độ đông. Phía Đông giáp vịnh Bắc bộ, phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Nam Định và Hà Nam, phía Bắc giáp tỉnh Hải Dương, Hưng Yên và thành phố Hải Phòng. Từ Tây sang Đông dài 54 km, từ Bắc xuống Nam dài 49 km. Thái Bình ở trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng: Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long và được bao bọc bởi hệ thống sông biển khép kín, có 5 cửa sông lớn (Văn úc, Diêm Điền, Ba Lạt, Trà Lý, Lân) có các sông lớn của miền Bắc như: Sông Hồng 67 km, Sông Luộc 53 km, Sông Hoá 35 km, và phía Đông tiếp giáp vịnh Bắc bộ với chiều dài bờ biển trên 49 km (Thái Thuỵ 21.5 km, Tiền Hải 27.7 km) và tổng số chiều dài đê sông, đê biển là 366 km. Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, bức xạ mặt trời lớn, tạo nên nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình trong năm là 23 - 24oC, nhiệt độ thấp nhất ở 4oC và cao nhất tới 38 - 39oC. Số giờ nắng trong năm từ 1600 - 1800 giờ. Lượng mưa trung bình hàng năm 1500 - 1900 mm, cao nhất là 2528 mm thấp nhất là 1173mm. Có trận mưa trong vòng 1 - 2 ngày từ 300 - 500 mm nên công tác phòng chống bão lụt được các cấp các ngành trong tỉnh hết sức quan tâm chỉ đạo. Thái Bình có 105.5 ngàn ha đất nông - lâm nghiệp, thuỷ sản trong đó: diện tích đất nông nghiệp 96.382 ha chiếm 62.67% so với tổng diện tích đất tự nhiên, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 6.652 ha và diện tích đất lâm nghiệp 2259 ha. Vị trí địa lý như vậy, đã tạo cho Thái Bình điều kiện thuận lợi là đất đai màu mỡ, bằng phẳng dễ canh tác và hàng năm được phù sa Sông Hồng bồi đắp. Song cũng có mặt khó khăn do chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa nên hàng năm Thái Bình vẫn gặp nhiều khó khăn do thiên tai, bão lụt gây ra làm thiệt hại về mùa màng, của cải, công trình kiến trúc và thậm chí cả con người. Tuy diện tích hẹp và mật độ dân cư đông đúc nhưng đồng ruộng Thái Bình phì nhiêu, xóm làng nối tiếp, giao thông liên lạc thuận tiện, nông dân có truyền thống và kỹ thuật thâm canh lúa nước từ lâu đời và cũng có nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng. Từ xa xưa và đặc biệt là trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Thái Bình được coi là “kho người, vựa lúa”. Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, Thái Bình là một tỉnh trọng điểm về sản xuất lương thực của cả nước. Xuất phát từ một tỉnh kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, mật độ dân cư đông đúc, bình quân ruộng đất cho một nhân khẩu nông nghiệp thấp nhất so với nhiều tỉnh vùng đồng bằng Sông Hồng, việc đảm bảo đời sống cho toàn dân trong tỉnh và có tích luỹ là một bài toán khó cho các cấp lãnh đạo. Thời gian qua, với sự nỗ lực cố gắng, đồng lòng, nhìn chung tình hình kinh tế xã hội của tỉnh đạt được những kết quả đáng khích lệ. 2. Tình hình kinh tế xã hội tỉnh Thái Bình 1991 - 2000. Từ năm 1991 - 2000 là thời kỳ tiếp tục phát huy hiệu quả của công cuộc đổi mới được khởi xướng từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. cơ sở vật chất của nền kinh tế của tỉnh được tăng cường và ngày càng hoàn thiện, nền kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng tương đối cao. Giá trị tổng sản phẩm trong tỉnh năm 2000 gấp hơn 2 lần năm 1990, bình quân hàng năm tăng 7%. Tuy nhiên, trong giai đoạn này thì thời kỳ 1991 - 1995 có kết quả đạt được cao nhất, bình quân hàng năm tăng10,25%, trong đó sc nông nghiệp tăng 5,8%, công nghiệp xây dựng tăng 21%, các ngành dịch vụ tăng 22,8%.m Thời kỳ 1996 - 2000 với nhiệm vụ trọng tâm là thực hiện định hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá nhưng lại có nhiều khó khăn mới xuât hiện như cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính trong khu vực, thị trường tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp, sự mất ổn định ở nông thôn kéo dài... Tình hình trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kỳ này chỉ đạt 4,5% hàng năm, trong đó sản xuất nông nghiệp tăng 2,6%, công nghiệp xây dựng tăng 3,3%, và khu vực dịch vụ tăng 9,4%. Như vậy mặc dù có những khó khăn xuất hiện trong những năm gần đây, nhưng nền kinh tế của tỉnh vẫn tăng trưởng liên tục dù mức độ có khác nhau giữa các thời kỳ, giữa các ngành nghề... - Sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản: Tổng giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản năm 2000 đạt 3.893 tỷ đồng (giá so sánh năm 1994) tăng 52,1%so với năm 1990. Giá trị tổng sản phẩm GDP của khu vực này dự kiến đạt 2.677 tỷ đồng so với năm 1990 tăng 51,49%, bình quân mỗi năm tăng 4,2%. Cả hai ngành trồng trọt và chăn nuôi đều có sự tăng trưởng khá (bình quân mỗi năm sản phẩm trồng trọt tăng 3,8%, chăn nuôi tăng 5,25%). Sự chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp sau 10 năm (1990 - 1999) cho thấy tỷ trọng sản phẩm trồng trọt trong GDP của nông nghiệp từ 85,17% năm 1990 giảm xuống còn 83,84% năm 1999 và sản phẩm chăn nuôi từ 12,56% năm 1990 tăng lên 14,24% năm 1999. Tuy nhiên từ năm 1996 đén nay tốc độ tăng trưởng của khu vực này đạt thấp hơn thời kỳ 1991 -1995; Tổng sản phẩm ngành nông nghiệp, thuỷ sản năm 2000 so với năm 1995 tăng 14,25%, bình quân mỗi năm tăng 2,7%. Nhìn chung sau 10 năm, đến nay nông nghiệp của tỉnh Thái Bình đã có bước tiến khá dài, trong đó nổi bật nhất là kết quả thực hiện chương trình an ninh lương thực và chăn nuôi các đàn gia súc gia cầm và nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản. - Sản xuất công nghiệp : Đã được tổ chức và sắp xếp lại sản xuất, tăng cường đầu tư mua sắm thiết bị và đổi mới công nghệ ở một số ngành nghề đồng thời tích cực tìm kiếm thị trường tiêu thụ đã tạo cho sản xuất công nghiệp thời kỳ 1991 - 1995 phát triển khá mạnh mẽ. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1995 đạt 960 tỷ đồng tăng 134% so với năm 1990, bình quân hàng năm tăng 18,75%, giá trị tăng thêm năm 1995 đạt 302 tỷ đồng tăng 94.2% so với năm 1990 bình quân hàng năm tăng 14,2%. Thời kỳ 1996 - 2000, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, thị trường tiêu thụ sản phẩm bị thu hẹp, nhiều cơ sở phải dừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp thời kỳ này chậm hơn so vớt các thời kỳ trước. Giá trị sản xuất năm 2000 đạt 1.403 tỷ đồng tăng 46,14% so với năm 1995, bình quân hàng năm tăng 8%. Giá trị tăng thêm năm 2000 đạt 429 tỷ đồng tăng 44,4% bình quân mỗi năm tăng 7,3%. Nhìn chung cả thời kỳ từ 1991 - 2000: Giá trị sản xuất công nghiệp bình quân hàng năm tăng 13%. Giá trị tăng thêm năm 2000 gấp 2,8% lần năm 1990, bình quân hàng năm tăng 9,8%. Như vậy, sản xuất công nghiệp của tinh Thái Bình trong 10 năm qua đã có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, nhất là các năm 1991 - 1995. Những năm tiếp theo có một số khó khăn nảy sinh như việc áp dụng thiết bị công nghệ, khả năng đầu tư vốn và sức cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế, tốc độ tăng chậm lại nhưng vẫn giữ được sự tăng trưởng liên tục. - Tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản toàn xã hội 10 năm (1991 - 2000)thực hiện được 6.513 tỷ đồng, trong đó khối lượng vốn đầu tư năm 2000 dự kiến thực hiện trên 961 tỷ đồng gấp 2,1 lần năm 1991 và 1,4 lần năm 1995. Riêng vốn đầu tư thời kỳ 1996 - 2000 đạt 3.589 tỷ đồng tăng 28% so với thời kỳ 1991 -1995. Như vậy, xét trong cả thời kỳ 1991 - 2000, tổng số vốn đầu tư khá lớn và tăng liên tục, bình quân hàng năm tăng 8,6%. - Các ngành Giao thông vận tải - Bưu điện trong những năm vừa qua cũng được đầu tư khá lớn và phát triển nhanh. - Công tác xuất nhập khẩu từ năm 1996 đến nay dã có nhiều chuyển biến đáng kể, các mặt hàng và thị trường xuất khẩu đã ổn định hơn. Tổng giá trị hàng xuất khẩu năm 2000 đạt 35 triệu 566 nghìn USD tăng 17 triệu 432 nghìn USD so với năm 1995. Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm (1996 - 2000) đạt 136,2 triệu USD. Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh hiện nay là gạo tẻ, lợn sữa, hàng mây tre đan, gang tay da, ... Tổng giá trị hàng nhập khẩu 5 năm qua dự kiến đạt 141,2 triệu USD, trong đó năm 2000 nhập khẩu khoảng 32,6 triệu USD. Những mặt hàng chủ yếu nhập khẩu là thép , bông, men sản xuất gạch, nguyên liệu may mặc,... - Hoạt động tài chính ngân hàng đã đảm bảo được cân đối thu chi phục vụ tốt cho các mặt công tác của tỉnh. - Các hoạt động văn hoá, giáo dục, y tế, thể dục thể thao đều có bước phát triển. Công tác giáo dục đã được chú trọng đầu tư, tăng cường cơ sở vật chất cho công tác giảng dạy và học tập. Đến nay cả tỉnh Thái Bình đã có 295 trường mẫu giáo và 608 trường phổ thông các cấp, lực lượng giáo viên và học sinh cũng tăng lên khá nhiều, chất lượng giảng dạy được nâng lên đáng kể. Công tác y tế, chăm sóc sức khoẻ và kế hoạch hoá gia đình đã có nhiều tiến bộ. Các cơ sở vật chất của ngành y tế từ xã đến các trung tâm y tế đều được nâng cấp. Cán bộ ngành y tế cũng tăng lên đáng kể. Có 98,9% số trẻ em dưới 4 tuổi được tiêm chủng đủ loại vác xin, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng còn 33,6%. Các năm qua những bệnh dịch xảy ra đều được dập tắt kịp thời.Công tác khám chữa bệnh có nhiều tiến bộ, việc quản lý bảo hiểm y tế được chặt chẽ đã giảm bớt khó khăn cho người bệnh. Tình hình lao động việc làm và đời sống của nhân dân: Kết quả điều tra dân số 1/4/1999 cho thấy số người từ 13 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành KTQD chiếm 69% và số ngươì không có việc làm hoặc thiếu việc chiếm 5,93%. Thời gian qua giải quyết việc làm đối với người lao động đã được các cấp các ngành trong tỉnh quan tâm đúng mức với các biện pháp như đầu tư xây dựng thêm các cả sản xuất dịch vụ, chuyển dân đi xây dựng các vùng kinh tế mới ngoài tỉnh, xuất khẩu lao động, cho các hộ vay vốn đầu tư sản xuất, mở rộng ngành nghề...Những chính sách và biện pháp trên đã góp phần giải quyết việc làm và từng bước nâng cao đời sống của nhân dân. Sự phát triển kinh tế xã hội trong những năm qua mà tỉnh Thái Bình dã đạt được là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố: Bên cạnh sự chỉ đạo, hướng dẫn của UBND tỉnh, ý thức người dân còn có sự đóng góp quan trọng của nguồn vốn ngân sách, các nguồn hỗ trợ chính thức (ODA), xuất nhập khẩu ... Tuy nhiên ngoài những nét chung, sự phát triển kinh tế xã hội vẫn mang những đặc điểm của một tỉnh mà sản xuất nông nghiệp giữ vai trò chủ yếu (56%), điểm xuất phát của sản xuất công nghiệp và dịch vụ rất thấp. Sản xuất nông nghiệp trong những năm qua phát triển ổn định và đat được mục tiêu phấn đấu của tỉnh, nhưng nhìn chung vẫn chưa có những đột phá quan trọng và mới đạt được mục tiêu số lượng bảo đảm an toàn về lương thực nhưng hiệu quả kinh tế chưa cao. Sản phẩm nông nghiệp tiêu thụ ở dạng thô là chủ yếu. Trồng trọt và chăn nuôi vẫn còn mất cân đối. sản xuất công nghiệp và dịch vụ tuy có tốc độ phát triển cao nhưng chưa ổn định. Giá trị hàng hoá xuất khẩu bình quân đầu người mới đạt 19,7 USD dạt thấp hơn tiềm năng hiện có... Để giải quyết vấn đề trên, tỉnh Thái Bình cần phải có một chính sách đầu tư thoả đáng, hợp lý. Nguồn vốn dùng để đầu tư ngoài nguồn ngân sách ra còn có thể khai thác từ nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA của các Chính phủ nước ngoài, tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ (NGO), huy động nguồn vốn từ dân. II. thực trạng đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình những năm vừa qua. 1. Tình hình đầu tư nói chung tại tỉnh Thái Bình. Trong những năm vừa qua, với những chính sách đầu tư được cụ thể hoá, chi tiết hoá và được phân cấp nhỏ quản lý, do vậy mà vai trò về quản lý, huy động vốn của tỉnh Thái Bình nói riêng và 61 tỉnh thành trong cả nước nói chung được nâng cao. Đối với tỉnh Thái Bình, tỉnh đã thực hiện đúng đắn và nghiêm túc các chính sách của Chính phủ về huy động và sử dụng các nguồn vốn đã được huy động. Tỉnh đã cụ thể hoá các chính sách và áp dụng chi tiết sao cho phù hợp với những điều kiện, những hoàn cảnh của tỉnh đặc biệt là những chính sách khuyến khích đầu tư vào các lĩnh vực như nông - lâm - ngư nghiệp, thuỷ sản ... Đó là những chính sách miễn giảm thuế, giá cả, tín dụng, tiêu thụ... nhằm ngày càng thu hút được nhiều nguồn vốn với số lượng vốn hơn nữa đầu tư trong tỉnh. Tỉnh đã giao nhiệm vụ và chỉ đạo sát sao cho Sở Kế hoạch và Đầu tư thực hiện tốt kế hoạch thu hút và sử dụng vốn đầu tư, thực hiện các nhiệm vụ như thẩm định, lập kế hoạch, quản lý dự án... Một vấn đề quan trọng nữa là các thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư, xin thành lập doanh nghiệp , đăng ký kinh doanh, đã được Tỉnh chỉ đạo nhanh chóng, nghiêm túc và đúng quy định. Đồng thời, giảm bớt các thủ tục hành chính rườm rà không cần thiết gây nản lòng cho chủ đầu tư. Nhờ vậy, trong những năm qua tỉnh Thái Bình đã thu hút được nhiều nguồn vốn với số lượng đáng kể ( vốn ngân sách, vốn tín dụng, vốn đầu tư từ dân, đặc biệt là vốn đầu tư cuả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh...). Cụ thể các nguồn vốn được thể hiện ở bảng sau:(trang bên) Theo bảng 1 chúng ta thấy tổng số vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình giảm mạnh trong năm 1998 (giảm 112.276 triệu đồng so với năm 1997) nhưng được phục hồi vào năm 1999 (tăng 139.155 triệu đồng so với năm 1998). Cũng theo bảng này, vốn đầu tư các đơn vị do điạ phương quản lý bị giảm mạnh trong năm 1998 và được phục hồi vào năm 1999, cụ thể là năm 1998 giảm 131.282 triệu đồng so với năm 1997 và năm 1999 tăng 113.803 triệu đồng so với năm 1998. Vốn đầu tư các đơn vị TW trên lãnh thổ địa phương năm 1997 giảm đáng kể và được tăng dần trong những Bảng 1:Thực hiện vốn đầu tư XDCB toàn xã hội địa bàn tỉnh Thái Bình. (Theo giá hiện hành) Đơn vị tính: Triệu đồng. 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số vốn 681912 670646 679003 566727 705882 A.Các đơn vị do địa phương quản lý 671412 627519 645500 514218 628021 I. Khu vực trong nước Chia theo nguồn vốn 1. Vốn ngân sách Nhà nước 98791 53867 52504 56348 96239 Trong đó: Nsách TW trợ cấp 61565 30000 58858 2. Vốn tín dụng ưu đãi 16100 27108 12407 25884 28826 3. Vốn đầu tư của các d.nghiệp ngoài q.doanh 47965 21035 115968 29855 30726 4. Vốn đ.tư XDCB của dân 400000 397000 400000 350000 390000 5. Các nguồn vốn khác 108556 125509 64621 52131 82230 II. Khu vực vốn đầu tư nước ngoài B. Các đơn vị TW trên lãnh thổ địa phương 10500 46127 33503 52509 77861 Vốn ngân sách Nhà nước 10500 45649 33503 52509 69861 Ghi chú: Riêng vốn đầu tư XDCB của dân là số liệu suy rộngtừ điều tra mẫu. Niên giám thống kê 1990 - 1999 Cục thống kê Thái Bình. năm kế tiếp. Các điều này xảy ra là do vốn đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh giảm mạnh, đồng thời vốn đầu tư XDCB của dân và các nguồn vốn khác cũng giảm. Cụ thể nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh năm 1997 giảm 86.113 triệu đồng so với năm 1998... Như chúng ta đã biết, nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu á trong thời gian qua, đã gây nên sự mất ổn định kinh tế trong khu vực và nước ta cũng không tránh khỏi tầm bị ảnh hưởng làm tâm lý chung của người dân Thái Bình không dám tiếp tục bỏ tiền ra đầu tư và chủ yếu tích luỹ tiền. Do vậy, lượng vốn đầu tư bị giảm đáng kể. Hiện nay cuộc khủng hoảng đã qua, nền kinh tế châu á đang được phục hồi, chúng ta cần có những biện pháp hợp lý nhằm thu hút nhiều hơn nữa các nguồn vốn đầu tư vào mọi lĩnh vực nhằm đưa nền kinh tế của tỉnh phát triển góp phần thúc đẩy nền kinh tế đất nước. Bảng 2: Cơ cấu vốn đầu tư XDCB toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Thái Bình . Đơn vị: % 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng số vốn 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 A.Các đơn vị do đ.phương quản lý 98.46 93.57 95.06 90.73 88.97 I. Khu vực trong nước Chia theo nguồn vốn 1. Vốn nsách Nhà nước 14.49 8.00 7.70 9.90 13.63 Trong đó: Nsách TW trợ cấp 9.00 - - 5.30 8.30 2. Vốn tín dụng ưu đãi 2.26 4.04 1.82 4.57 4.08 3.Vốn đầu tư các D.N ngoài q.doanh 7.03 3.14 17.08 5.27 4.35 4. Vốn đ.tư XDCB của dân 58.66 59.19 58.91 61.76 55.25 5. Các nguồn vốn khác 15.92 18.71 9.52 9.20 11.65 II. Khu vực vốn đầu tư nước ngoài B.Các đơn vị TW trên địa phương 1.54 6.88 4.93 9.26 11.03 Vốn ngân sách Nhà nước 1.54 6.81 4.93 9.26 9.90 Theo bảng 2, tỷ trọng vốn đầu tư xây dựng cơ bản của dân so với tổng vốn đầu tư là rất lớn. Năm 1998 là 61,76% tăng 2,85% so với năm 1997 nhưng lai giảm mạnh 6,51% so với năm 1999. Điều đó chứng tỏ tiềm lực nguồn vốn trong dân rất mạnh mẽ, vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để dân tích cực, mạnh dạn hơn nữa trong việc bỏ vốn ra để đầu tư. Vốn ngân sách Nhà nước cũng là một trong những nguồn cơ bản, quan trọng. Mặc dù giảm đáng kể trong năm 96 và 97 nhưng cũng dần lấy lại tỷ trọng so với tổng vốn đầu tư chứng tỏ sự quan tâm của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Một điều cần thấy rõ là tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài là không có. Do đó, cần có biện pháp để thu hút nguồn vốn này.Bên cạnh đó, để nền kinh tế của tỉnh ngày càng phát triển, một mặt phải tăng tỷ trọng đầu tư từ ngân sách; mặt khác, quan trọng hơn cần phải có những chính sách cụ thể nhằm khai thác,thu hút ngày càng lớn các nguồn vốn thu hút từ dân và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, cố gắng tạo nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất có thể có để giúp các chủ đầu tư an tâm trong việc bỏ vốn ra đầu tư. Đặc biệt trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp và thuỷ sản. Tỉnh phải chủ trương làm nổi bật những ưu thế của các lĩnh vực này, để các chủ đầu tư thấy được khi đầu tư, đồng vốn của họ được đảm bảo và có lãi. Làm như vậy, chắc chắn nền kinh tế tỉnh sẽ phát triển đồng đều và bền vững. Như vậy, giai đoạn qua là giai đoạn có bước phát triển mới của kinh tế xã hội tỉnh Thái Bình. Nền kinh tế vẫn tiếp tục tăng trưởng theo nhịp độ chung của cả nước. Tình hình xã hội ở nông thôn đã từng bước được ổn định và chuyển biến nâng cao. Trên đây là tổng quan về tình hình nguồn vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua, để thấy rõ về tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn, chúng ta phải nghiên cứu cụ thể cơ cấu nguồn vốn đầu tư và tình hình đầu tư cho lĩnh vực này. 2.Cơ cấu vốn đầu tư. Theo số liệu phòng Đầu tư và XDCB Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Bình thì tổng vốn toàn xã hội năm (91 - 95) là 2.949 tỷ đồng; năm (96 - 2000) là 3.821,48 tỷ đồng tăng 1,29 lần trong đó vốn đầu tư được phân bổ như sau: - Đối với nguồn vốn ngân sách tập trung: Trong 5 năm qua do nguồn vốn đầu tư ngân sách còn hạn hẹp, tỉnh đã dành vốn đầu tư ưu tiên theo xu hướng sau: + Tập trung cho các công trình trọng điểm: công trình tưới tiêu thuỷ lợi, hoàn chỉnh cảng Diêm Điền... + Tập trung đầu tư cho các công trình chuyển tiếp dở dang, sớm đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả. + Đầu tư cho các công trình cần thiết, cấp bách của tỉnh. + Thực hiện các mục tiêu chương trình kinh tế xã hội (Hỗ trợ các vùng khó khăn, vốn khuyến nông...) Cụ thể những nổi bật trong cơ cấu đầu tư: Đã ưu tiên đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ lợi từ 9,5% năm 1996 đến 29% năm 1999 và 36,3% kế hoạch năm 2000; Tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông công cộng đô thị, thị trấn: điện chiếu sáng, cấp thoát nước, vỉa hè đường phố... Đặc biệt trong 1 - 2 năm gần đây đã bố trí vốn cho kiên cố hoá kênh mương nội đồng, vốn hỗ trợ các xã vùng khó khăn; Năm 2000 đã bố trí 30 tỷ đồng vốn vay cho kiên cố hoá kênh mương; năm 1999 bố trí 14 tỷ đồng và năm 2000 là 15 tỷ đồng cho các xã khó khăn Những năm gần đây có nhiều tiến bộ trong đầu tư là tập trung vốn cho công trình chuyển tiếp, chỉ để kéo dài chậm nhất là công trình nhóm C hoàn thành trong 2 năm, giảm khá mạnh những công trình khởi công mới. Đối với những công trình vay vốn tín dụng đầu tư thì đã tập trung cho những dự án có hiệu quả kinh tế cao, giải quyết nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Các nguồn vốn khác như ODA, vốn đầu tư qua Bộ (ADB) ngày càng tăng: có dự án giống lúa chất lượng cao, dự án chế biến gạo xuất khẩu Đan Mạch, dự án PAM, EU, UNFA, dự án (ADB) thuỷ lợi, cầu Tân Đệ, nâng cấp đường 10 vốn vay Nhật Bản... Đáng chú ý là nguồn vốn của dân đóng góp xây dựng các cơ sở hạ tầng nông thôn bị giảm sút do tình hình nông thôn mất ổn định, tiền thu từ nguồn bán đất ngày càng quản lý chặt chẽ, kkhông rầm rộ như những năm trước đây. 3. Hiệu quả kinh tế xã hội vốn đầu tư phát triển trong nông nghiệp đã có nhiều nổi bật. - Các công trình đầu tư trong lĩnh vực thuỷ lợi những năm trước đây, nhất là thời kỳ 1990 – 1995 và 1996 - 2000 đã cơ bản hệ thống thuỷ lợi. Nó góp phần nâng cao và ổn định năng suất cây trồng tạo điều kiện cho 11 năm liền tỉnh ta liên tiếp được mùa. 10 năm qua, bộ mặt của nông thôn ngày càng được đổi mới, các công trình hạ tầng cơ sở và nhà ở nhân dân ngày càng được khang trang, đường xá sạch sẽ hơn nhiều so với những năm trước đây. Khu vực đô thị, thị xã, thị trấn đã có bước phát triển nhanh về cơ sở hạ tầng và công trình phúc lợi công cộng, vệ sinh nước sạch môi trường ngày càng được quan tâm. Bên cạnh những kết quả đã đạt được về đầu tư nói trên, tình hình đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn tại Thái Bình vẫn còn những vướng mắc, khó khăn còn tồn tại. Nó đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự nghiệp phát triển kinh tế tỉnh. 4. Một số những khó khăn hạn chế còn tồn tại trong quá trình đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình thời gian qua. Thời gian qua, mặc dù cán bộ và nhân dân tỉnh Thái Bình đã đồng lòng bắt tay xây dựng một nền kinh tế vững chắc mà nền tảng là nông nghiệp nông thôn, nhưng vẫn còn bộc lộ những khó khăn, tồn tại sau: Vốn đầu tư thực tế so với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh còn quá thấp, nhất là nguồn vốn ngân sách còn quá hạn hẹp, vốn huy động đóng góp của dân còn hạn chế nên các công trình cấp thiết như đường giao thông nông thôn, việc đầu tư kiên cố hoá kênh mương nội đồng không đáp ứng yêu cầu... - Chưa thu hút mạnh mẽ nguồn vốn đầu tư của nước ngoài vào trong tỉnh, không tạo ra được tiềm năng để phát triển, khai thác thế mạnh của vùng kinh tế ven biển. - Tuy đã chú trọng đầu tư tập trung, nhưng danh mục công trình vẫn còn dàn trải và chậm khắc phục, số công trình chuyển tiếp năm trước còn nhiều. - Khâu thủ tục chuẩn bị đầu tư một số công trình cấp thiết vẫn còn chậm, đến hết quý I vẫn còn có công trình chưa hoàn chỉnh thủ tục đầu tư. - Một số công trình đầu tư vốn lớn nhưng hiệu quả mang lại còn thấp và chưa phát huy tác dụng: trạm bơm Thuỳ Dương, cơ sở chế biến gạo xuất khẩu cầu Nguyễn. - Tốc độ đầu tư cho công trình sản xuất chậm, khả năng tiếp thu vốn đầu tư có xu hướng chững lại, thừa vốn vay lãi suất thấp. III. Những kết quả đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Thái Bình thời gian qua. 1. Những kết quả đạt được. Nhờ vào việc thực hiện tốt quá trình đầu tư trong những năm vừa qua, nền kinh tế tỉnh Thái Bình đã đạt được những kết quả khả quan sau: 1. 1. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế của tỉnh đã đạt được sự chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tỷ trọng trong nông lâm như nghiệp đã giảm từ 63,9% năm 1995 xuống còn 59,64% trong năm 1999. Tỷ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ tăng từ 8,23% năm 1995 đến 9,33% năm 1999. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ tăng khối lượng sản phẩm hàng hoá mà còn giải quyết việc làm cho lực lượng lao động nhàn rỗi ở nông thôn, góp phần làm tăng thu nhập, nâng cao đời sống và ổn định chính trị, xã hội ở nông thôn. 1. 2. Giá trị sản xuất nông,lâm nghiệp và thuỷ sản tiếp tục tăng trưởng, phát triển. Thật vậy, theo số liệu của phòng nông nghiệp của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình, Niên giám thống kê 1990 - 1999 Cục Thống kê Thái Bình, chúng ta có thể thấy bảng giá trị sản xuất ngành nông lâm nghiệp và thuỷ sản trong thời gian qua ( theo giá so sánh năm 1994 và theo thực tế) như sau: Và từ bảng này, chúng ta có các bảng sau: - Bảng lượng tăng tuyệt đối liên hoàn giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. - Bảng tốc độ tăng trưởng liên hoàn giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản. - Bảng cơ cấu giá trị sản xuất nông lâm nghiệp, thuỷ sản (Theo giá cố định năm 1994) 1. 2. 1. Tình hình phát triển chung. a. Về tốc độ tăng trưởng: Theo bảng 5, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất ngành nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đã có tiến bộ rõ rệt: từ giảm 1,39% vào năm 1996 đến tăng dần 3,4% năm 1997, 4,56% năm 1998 và tăng trưởng khá năm 1999 là 6,76% so với năm 1998 (tất cả được tính trên mức giá so sánh năm 1994).Như vậy, ngành nông lâm ngư nghiệp đã và đang là chủ chốt trong thời gian vừa qua. b. Về cơ cấu giá trị sản xuất: Theo bảng 6, nhìn chung cơ cấu giá trị sản xuất nghành nông nghiệp khá ổn định và có xu hướng giảm tỷ trọng trong một vài năm trở lại đây, tỷ trọng trồng trọt có tăng đôi chút (từ 72,14 năm 1998 lên 73,14 năm 1999); tỷ trọng ngành chăn nuôi cũng không thay đổi nhiều và cùng với dịch vụ nông nghiệp giảm tỷ trọng không đáng kể. Ngành lâm nghiệp có sự đi xuống đáng kể, từ tỷ trọng chiếm 2,08% năm 1995 đã giảm xuống còn 0,56% năm 1999 và xu hướng sẽ còn giảm tiếp tục. Sự giảm tỷ trọng này đồng nghĩa với sự tăng tỷ trọng của các ngành khác, đặc biệt là với ngành thuỷ sản. Ngành này đã có những bước tiến đáng kể: từ 4,2% năm 1995 đến 6,09% năm 1999. Nhìn chung thời gian này, trong cơ cấu nội bộ các ngành có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng cây trồng vật nuôi có chất lượng cao. 1. 2. 2. Tình hình phát triển cụ thể của các ngành: Ngành trồng trọt. Theo bảng 4, chúng ta có thể thấy trong thời gian qua, ngành trồng trọt đã có bước phát triển rất tốt. Mặc dù năm 1996 giảm tốc độ tăng trưởng 2,72% so với năm 1995 nhưng đã tăng 1,66% vào năm 1997 và năm 1998 tăng 3,58% so với năm 1997 và đặc biệt năm 1999 đã có tốc độ tăng trưởng là 8,12% cùng với giá trị sản xuất cũng tăng 221319 triệu đồng (theo bảng). Mặt khác, theo bảng 6, tỷ trọng ngành trồng trọt lại khá ổn định giảm dần và chỉ tăng một chút vào năm 1999 do giá trị sản xuất lớn. Phải nói rằng đây là một kết quả đáng mừng trong chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh và cũng khẳng định nông nghiệp với trồng trọt là ngành chủ yếu. Những kết quả đạt được trong thời gian qua đã chứng tỏ sự đầu tư đúng đắn của tỉnh. Để thời gian tới tiếp tục phát huy, tỉnh cần có sự quân tâm tăng cường đầu tư cho ngành thông qua các lĩnh vực: đầu tư vào hệ thống giống, chế biến xay xát gạo chất lượng cao, đầu tư vào cải tạo đất, đầu tư vào thuỷ lợi... b. Ngành chăn nuôi. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng nhanh đáng kể trong thời gian qua. Mặc dù tốc độ tăng trưởng cùng tỷ trọng ngành chăn nuôi có vẻ chậm lại và có xu hướng giảm xuống vào năm 1999 nhưng với những kết quả đã đạt được chứng tỏ ngành chăn nuôi đang đi đúng hướng và trong thời gian tới, với những chính sách chiến lược hợp lý, chắc chắn ngành sẽ có vị thế vững chắc. Với chủ trương nuôi lợn “hướng nạc”, bò “lai sin”, cùng với các loại gia cầm đang có xu hướng phát triển như gà, vịt..., tỉnh cần đầu tư hơn vào ngành như cải tiến, nâng cao thiết bị công nghệ cho xí nghiệp đông lạnh tỉnh để xuất khẩu lợn con, giúp đỡ khuyến khích người dân chăn nuôi giỏi... Như vậy ngành chăn nuôi nhất định sẽ mang lại hiệu quả cao cho người dân Thái Bình nói riêng va nền kinh tế tỉnh nói chung. c. Dịch vụ nông nghiệp. Theo bảng trên, ta thấy giá trị dịch vụ nông nghiệp năm sau đều tăng so với năm trước mặc dù tốc độ tăng trưởng chưa ổn định lắm, nhưng ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng khá cao vào năm 1997 là 5,05% so với năm 1996. Đồng thời theo bảng 6, tỷ trọng ngành lại khá ổn định với mức xấp xỉ 3% trong toàn bộ giá trị ngành nông lâm, thuỷ sản...Với kết quả như vậylà khá khả quan và phù hợp với tình hình phát triển chung của đất nước. d. Ngành lâm nghiệp. Một điều có thể thấy ngay là ngành lâm nghiệp của tỉnh trong thời gian gần đây có chiều hướng thu nhỏ quy mô lẫn giá trị sản xuất, tỷ trọng trong toàn ngành nông lâm ngư nghiệp, dẫn đến tốc độ tăng trưởng liên tục giảm. Cụ thể đến năm 1999 đã giảm tốc độ tăng trưởng 27,36% so với năm 1998. Tỷ trọng của ngành cũng giảm liên tục từ 2,08% năm 1995 xuống còn 0,56% năm 1999. Với vị trí địa lý của tỉnh, nên đầu tư cho ngành lâm nghiệp khai thác tối đa số diện tích đất trồng và trồng cây rừng ngoài việc có tính chất phòng hộ nên là các loại cây ăn quả quen thuộc sẽ mang tính hiệu quả kinh tế cao. e. Ngành thuỷ sản. Theo bảng 5,6, những năm vừa qua ngành thuỷ sản đã liên tục tăng trưởng cả về tốc độ, tỷ trọng lẫn giá trị sản xuất. Tốc độ tăng trưởng ngành là khá cao, đặc biệt năm 1996 là 55,29% so với năm 1995 (theo bảng 5) và năm 1999 là 15,42%. Riêng về tỷ trọng của ngành đã tăng dần từ 4,2% năm 1995 lên đến 6,09% năm 1999. Điều này chứng tỏ ngành đã lấy được vị trí khá quan trọng trong toàn ngành và tận dụng được sự đầu tư của tỉnh, tận dụng được diện tích vùng nước mặn và nước ngọt, lợi thế gần biển. Với kết quả như vậy, ngành thuỷ sản đã góp phần tích cực vào quá trình phát triển nền kinh tế của tỉnh. Như thế, với việc thay đổi cơ chế quản lý, tăng cường cơ sở vật chất xây dựng và củng cố hệ thống thuỷ lợi và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật sinh học đã tạo ra cho sản phẩm sản xuất nông lâm nghiệp, thuỷ sản của tỉnh phát triển ổn định cả trong trồng trọt, chăn nuôi... Năm 2000, tổng giá trị sản xuất ngành nông lâm nghiệp, thuỷ sản đạt 3.893 tỷ đồng (giá so sánh năm 1994) tăng 52,1% so với năm 1990. Giá trị tổng sản phẩm (GDP) của khu vực này dự kiến đạt 2.677 tỷ đồng so với năm 1990 tăng 51,49% bình quân mỗi năm tăng 4,2%. Cả hai ngành trồng trọt và chăn nuôi đều có sự tăng trưởng khá (bình quân mỗi năm sản phẩm trồng trọt tăng 3,8%, chăn nuôi tăng 5,25%).Tổng sản phẩm ngành thuỷ sản năm 2000 so với năm 1995 tăng 14,25%, bình quân mỗi năm tăng 2,7%. 2. Một số kết quả khác. Như vậy, thời gian qua ngoài những kết quả đã đạt được ở trên, trong lĩnh vực đầu tư cho nông nghiệp, thuỷ lợi còn hoàn thành hệ thống Cống Lân II (dự án vốn ADB) phục vụ tưới tiêu cho 56.552 ha, trong đó diện tích canh tác là 38.992 ha; Hệ thống Tam Lạc - Nguyệt Lân phục vụ tưới tiêu cho 8.296 ha; nạo vét sông Kiên Giang tưới tiêu cho 32.408 ha. Kết hợp 3 hệ thống công trình ở trên nâng hệ số tưới tiêu từ 2,5 l/s/ha lên 5 l/s/ha, giải quyết cho hệ thống thuỷ nông Nam Thái Bình. Hệ thống cải tạo cống Đào Thành Hưng Hà tưới tiêu cho 1.020 ha của khu vực Hưng Nhân; Hoàn thành hệ thống đê PAM của 2 huyện Thái Thuỵ, Tiền Hải dài 13 km đê biển. Ngoài ra hoàn thành các công trình trên kênh M1 trạm bơm Thống Nhất, công trình sau trạm bơm Minh Tân Hưng Hà, sửa cống Trà Linh II... Toàn tỉnh trong 5 năm xây dựng được gần 200 cống đập dưới đê, gần 1000 cống đập trên hệ thống song trục, phục vụ cho công tác tưới tiêu; nạo vét được trên 30 km sông trục, xây dựng và cải tạo hơn 600 trạm bơm điện, tương ứng với 900 máy bơm, với tổng công suất 1.350.000 m3/h bảo đảm được việc chủ động tưới tiêu cho cây trồng. Trong lĩnh vực nông nghiệp hoàn thành cơ sở sản xuất giống chất lượng cao với quy mô 4000 tấn/năm phục vụ cho hệ thống giống trong toàn tỉnh và một số công trình hạ tầng nông nghiệp khác đặc biệt là hoàn thành cơ sở chế biến gạo xuất khẩu cầu Nguyễn với công suất thiết kế 27.000 tấn/năm..., xây dựng 2 bến cá Tân Sơn Thái Thuỵ, Nam Thịnh Tiền Hải đảm bảo cho gần 1000 tàu cá ra vào và an toàn trong mùa lũ bão. Trồng hơn 5000 ha rừng phòng hộ ven biển cải tạo môi trường sinh thái... 3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư cho phát triển nông nghiệp và nông thôn Thái Bình thời gian qua. Như đã nêu ở trên, đánh giá hiệu quả nhằm so sánh những gì bỏ ra (vốn đầu tư) với những gì thu được (GO hay GDP) để từ đó só sánh với các chỉ tiêu của toàn quốc gia nhằm phần nào đưa ra các giải pháp thúc đẩy phát triển, phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế, những yếu điểm. Để xác định những vấn đề tên, trước hết chúng ta xem xét giá trị GDP của ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. 3. 1. Giá trị GDP của ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. Từ giá trị sản xuất của ngành ta có giá trị GDP như sau: Bảng 7: Giá trị GDP của ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. (Theo giá so sánh năm 1994). Đơn vị: triệu đồng 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng 2342538 2295262 2356237 2460607 2634390 Nông nghiệp 2207934 2173195 2239957 2319901 2480979 Lâm nghiệp 50421 33442 22550 2054 14678 Thuỷ sản 84173 88625 93730 120202 138733 Nguồn: Phòng Nông nghiệp Sở Kế hoạch Đầu tư T.B - Niên giám thống kê 1990-1999 Ta có GDP = GO -IC mà theo bảng 7, giá trị GDP so với GO (bảng 3) nhìn chung tương đối cao chứng tỏ IC (chi phí trung gian) khá cao. Điều này cho thấy hiệu quả đầu tư vào lĩnh vực này là trung bình. Để hiểu rõ vấn đề này, ta xem xét các chỉ tiêu tiếp theo: 3. 2. Hệ số ICOR Để thấy rõ được hiệu quả đầu tư, cũng như để so sánh với hệ số ICOR chung của cả nước, chúng ta cần xem xét hệ số của ngành. Bảng 8: Hệ số ICOR của ngành nông lâm nghiệp và thuỷ sản. Đ.vị 1995 1996 1997 1998 1999 GDP Tr.đ 2342538 2295262 2356237 2460607 2634390 Mức tăng GDP Tr.đ - -47276 60975 104370 173783 Vốn đt thực hiện Tr.đ 44333 38786 22979 80594 103675 ICOR - - -0.82 0.38 0.77 0.60 Theo bảng 8, hệ số ICOR của ngành như vậy là quá thấp so với cả nước (cả nước ằ 2) điều này cũng phản ánh đúng tình trạng ở tỉnh Thái Bình là do thiếu vốn, quá thừa lao động. Mặt khác theo bảng 9, ta thấy chỉ tiêu ICOR không ổn định. Có thể lý giải là do vốn đầu tư vào ngành bị giảm mạnh trong vài năm vừa qua và mức GDP tăng thêm khá lớn đồng thời sự tăng GDP trong nông nghiệp không hẳn là do đầu tư mà còn do một số tác động khác.Vì vậy, chúng ta phải làm rõ điều này để từ đó có hướng chiến lược nhằm thu hút và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả vào ngành này. 3. 3. Hiệu quả đầu tư cận biên. Như trình bày trong phần I đã giới thiệu lý do tại sao phải đánh giá hệ thống chỉ tiêu này. Trên cơ sở đó, chúng ta xem xét các chỉ tiêu sau đây: Bảng 9: Các chỉ tiêu hiệu quả ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. Đ.vị 1995 1996 1997 1998 1999 Tổng gtsx(GO) tr.đ 3393040 3345766 3459623 3617356 3862004 Giá trị GDP tr.đ 2342538 2295262 2356237 2460607 2634390 Tổng vốn đt tr.đ 44333 38786 22979 80594 103675 GO tăng thêm tr.đ -47274 113857 157733 244648 GDP tăng thêm tr.đ -47276 60975 104370 173783 Vốn đt tăng thêm tr.đ -5547 -15807 57615 23081 GDP/GO 0.69 0.69 0.68 0.68 0.68 GO/vốn đt 76.53 86.26 150.55 44.88 37.25 GDP/vốn đt 52.84 59.18 102.54 30.53 25.41 GO tăng/vốn đt tăng 8.52 -7.2 2.74 10.6 GDP tăng/VĐT tăng 8.52 3.86 1.81 7.53 Theo bảng 9, các chỉ tiêu tính được từ GO/VĐT, GDP/VĐT qua các năm có thể thay đổi và không ổn định. Với ý nghĩa của chỉ tiêu GO/VĐT cho biết một đồng vốn tạo ra so với giá trị ban đầu là bao nhiêu. Cũng theo bảng 9, chỉ tiêu này là cao, nó thể hiện được hiệu quả của đầu tư vào khu vực này. Nhưng để biết được xu hướng tăng hay giảm hiệu quả của đầu tư trong những năm tới thì cần xem xét và đánh giá chỉ tiêu hiệu quả đầu tư tăng thêm. Với hai chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả cận biên: GO tăng thêm/VĐT tăng thêm và GDP tăng thêm/VĐT tăng thêm được tính cụ thể trong bảng 9 có thể nhận xét: các chỉ tiêu có sự biến động vào năm 1997 và 1998 do ảnh hưởng cuộc ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu á nên hiệu quả việc đầu tư không ổn định. Tuy nhiên cũng có dấu hiệu tăng khả quan trong thời gian sau này và cần có những định hướng, giải pháp hợp lý để tăng hiệu quả đầu tư. Và cũng theo bảng 9, chúng ta có tỷ lệ GDP/GO. Như chúng ta đã biết IC là phần chênh lệch giữa GDP và GO, do vậy việc so sánh tương đối giữa GDP và GO cho thấy được kết quả thực sự mà đầu tư đem lại (GDP) và có chênh lệch nhiều với GO không. Nếu GDP dần tiến tới GO điều đó chứng tỏ IC là nhỏ và GDP/VĐT cũng dần tiến tới GO/VĐT tức là hiệu quả thực sự của đầu tư đem lại là cao. Qua bảng 9, ta thấy rằng tỷ lệ GDP/GO hầu như không thay đổi qua các năm (chỉ là 0.69 - 0.68). Tỷ lệ này là tương đối cao chứng tỏ giá trị tiêu dùng trung gian cũng khá thấp. Qua đó, thấy được hiệu quả thực sự mà đầu tư tạo ra (GDP) là tương đối cao, tức là hiệu quả đầu tư khá cao. Qua đánh giá các chỉ tiêu xét ở trên, có thể kết luận tình hình đầu tư nói chung về ngành nông nghiệp nông thôn tại Thái Bình vừa qua là đạt kết quả khá. Tuy nhiên trong những năm tới không nên chủ quan về tính hiệu quả của đầu tư cũng như cần thực hiện những giải pháp phù hợp để không ngừng nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển của ngành nông lâm ngư nghiệp, góp phần hơn nữa vào việc phát triển kinh tế tỉnh Thái Bình. 4. Một số thuận lợi và khó khăn trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình. Trong những năm vừa qua, ngành nông, lâm, ngư nghiệp của tỉnh đã có những bước tiến khá vững vàng. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất khá cao, cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch dần theo hướng tiến bộ... Những kết quả trên đạt được là nhờ một số những thuận lợi nhất định. 4. 1. Những thuận lợi trong quá trình đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình . - Thời tiết thuận lợi: trong những năm gần đây, sức ảnh hưởng tàn phá do bão lụt, hạn hán ít xảy ra. Thời tiết ổn định là một trong những yếu tố cơ bản dẫn tới những năm được mùa liên tục. - Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã được áp dụng rộng rãi vào trong sản xuất: sử dụng nhiều giống lúa mới trong sản xuất nông nghiệp: giống lúa, ngô có năng suất và giá trị cao như giống lúa lai1, các giống vật nuôi như lợn hướng nạc theo công nghệ PIC, bò “lai Sin”... - Ngành được sự quan tâm giúp đỡ, chỉ đạo của các cấp lãnh đạo, các ngành có liên quan, tạo điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, các chính sách hỗ trợ phát triển nông nghiệp. Trong những năm vừa qua, tỉnh đã đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp nông thôn bằng nguồn vốn chủ yếu của ngân sách như các công trình thuỷ lợi, giao thông, nước sạch... Các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp được thực hiện như khuyến nông, trợ giá gốc, bảo vệ thực vật, cho vay với lãi suất ưu đãi... Bên cạnh những thuận lợi đã nêu ở trên, trong quá trình phát triển nông nghiệp nông thôn tỉnh cũng gặp một số khó khăn sau: 4. 2. Một số khó khăn trong đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp tỉnh Thái Bình. Cơ cấu nông nghiệp đã chuyển biến theo hướng tích cực song còn chậm: tỷ trọng ngành chăn nuôi còn thấp so với toàn ngành; tỷ trọng trồng trọt lớn... Sản xuất quy mô nhỏ, phân tán, chưa hình thành các vùng, khu vực sản xuất chuyên môn hoá nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hoá lớn có hiệu quả và sức cạnh tranh cao trên thị trường. Sản xuất trồng trọt còn manh mún, ruộng đất bị chia cắt nhỏ theo hộ gia đình và phân tán nhiều địa điểm, sản phẩm sản xuất khối lượng nhỏ do nông dân tự tiêu thụ do vây hiệu quả thấp. Các hộ nông dân cũng chỉ làm chỉ để đủ ăn, không có hướng sản xuất để kinh doanh nên giá trị không cao. Ngành chăn nuôi còn phát triển theo hướng tận dụng phụ phẩm và thức ăn thừa trong gia đình là chủ yếu, nhất là chăn nuôi lợn, trâu bò... Công nghiệp chế biến nông sản phát triển chậm, chủ yếu là sơ chế, chưa hình thành các cơ sở chế biến lớn, có công nghệ hiện đại như chế biến thịt, tôm, rau quả... từ đó tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định, hình thành các vùng nguyên liệu cho công nghiệp. Dân số lao động nông nghiệp trong nông thôn là còn rất lớn nên nhiều khi dẫn tới dư thừa, tạo ra áp lực lớn về yêu cầu giải quyết việc làm. Một số khó khăn khác còn tồn tại như kinh tế hợp tác xã đã chuyển đổi hoạt động theo luật song hiệu quả còn thấp chưa hỗ trợ tích cực cho kinh tế hộ phát triển. Kinh tế hộ đong vai trò và sản xuất ra chủ yếu sản phẩm trong nông thôn song với phương thức sản xuất manh mún, công nghệ lạc hậu, lao động thủ công là chính sẽ khó cạnh tranh trên cơ chế thị trường. Thị trường đầu ra cho sản phẩm của nông dân còn bấp bênh, chưa ổn định, tạo tâm lý không yên tâm khi sản xuất... Trên đây là những kết quả mà ngành nông, lâm, ngư nghiệp tỉnh Thái Bình đã đạt được trong thời gian qua và một số những khó khăn, thuận lợi của ngành. Với thực trạng đó, ban lãnh đạo tỉnh và các cấp ngành có liên quan cần đưa ra những phương hướng, giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy hơn nữa quá trình đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn tạo điều kiện phát triển kinh tế tỉnh Thái Bình ngang bằng với các tỉnh lân cận. Phần III: Định hướng đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Thái Bình - những giải pháp thích hợp. I. phương hướng kế hoạch 5 năm 2001 - 2005. Tập trung khai thác kinh tế ven biển: phát triển đầm nuôi tôm, đánh bắt xa bờ. Trồng rừng phòng hộ ven biển, khai thác khu cồn vành, cồn đen. Chuyển đổi cơ cấu giống cây, giống con, chọn giống có năng suất, chất lượng cao, chú ý đặc biệt sản phẩm phục vụ cho xuất khẩu có giá trị cao: tập trung triển khai các đề tài nghiên cứu về giống như lúa lai F1, lợn hướng nạc theo công nghệ PIC... Nâng cấp hệ thống đê biển, đê sông theo hướng kiên cố hoá. Tập trung nâng cấp và cải tạo các công trình thuỷ lợi đầu mối, phát huy hiệu quả của hệ thống thuỷ nông bắc, thuỷ nông nam Thái Bình. Đầu tư kiên cố hoá kênh mương nội đồng, cải tạo đất trồng vùng bãi ven sông. Đầu tư cho vùng sản xuất lúa có chất lượng cao, tạo sản phẩm xuất khẩu đáp ứng nguyên liệu cho nhà máy chế biến cầu Nguyễn. Đầu tư phát triển chăn nuôi theo hướng trang trại tập trung để phát huy tiềm năng mọi thành phần kinh tế. (trong đó đặc biệt quan tâm giống lợn, giống tôm). Để đáp ứng yêu cầu mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong kế hoạch năm năm của tỉnh, nguồn vốn đầu tư XDCB được xác định như sau: - Huy động và khai thác tốt mọi nguồn vốn vào việc ổn định và phát triển kinh tế theo hướng đẩy nhanh công nghiệp hoá và hiện đại hoá, rút ngắn khoảng cách chậm phát triển so với các tỉnh khác trong khu vực. - Bố trí vốn theo chương trình mục tiêu, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của nguồn vốn đầu tư. Tạo ra sự chuyển biến rõ rệt trong việc bố trí vốn tập trung, nguồn ngân sách Nhà nước để công trình đầu tư sớm phát huy hiệu quả, đáp ứng yêu cầu mục tiêu cấp thiết của tỉnh trong từng thời kỳ. Bảng 10: Dự kiến xây dựng cơ bản 2001 - 2005. Đơn vị: tr.đ 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng 97.500 138.300 161.800 183.000 194.000 I.Trạm trại quốc doanh Nn 2.100 3.300 3.800 3.000 1.500 II.Công trình thuỷ lợi 58.500 79.000 94.000 110.000 113.500 III.Nuôi trồng thuỷ sản 3.000 5.000 15.000 20.000 30.000 IV.Bến cá DĐiền Cửa Lân 3.500 4.000 5.000 1.000 - V.Chuyển đổi c.cấu cây trồng 20.000 40.000 40.000 40.000 40.000 VI.Xây dựng csht vùng kt mới 3.300 4.000 5.000 5.000 5.000 VII.Nước sạch nông thôn 2.200 3.000 4.000 4.000 4.000 Nguồn: Phòng Nông nghiệp Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình. Như vậy, theo dự kiến xây dựng cơ bản 2001 - 2005 thì kế hoạch đầu tư 5 năm sử dụng một khối lượng vốn lớn là 779.800 triệu đồng, để có được nguồn vốn này tỉnh phải sử dụng một lượng vốn ngân sách tương đối lớn, đồng thời có những giải pháp nhằm thu hút các nguồn vốn khác như vốn huy động từ trong dân, từ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vốn vay tín dụng... II. giải pháp thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình. 1. Các giải pháp nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình. Theo biểu dự báo trên , chúng ta thấy nhu cầu về vốn đầu tư là khá lớn. Mà nhu cầu đó được thực hiện trong bối cảnh có nhiều khó khăn về vốn. Các khó khăn đó là: - Vốn ngân sách Nhà nước đang rất eo hẹp và khả năng trong những năm tới là không lớn. - Vốn tín dụng Nhà nước giải ngân chậm do các thủ tục phiền hà, mặt khác các doanh nghiệp, các hộ nông dân chưa thưc sự chuẩn bị đủ các điều kiện để giải ngân nhanh và khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này. - Các nguồn vốn trong nông dân còn manh mún, các hộ nông dân còn chưa tự tin khi đầu tư, còn mang nặng tư tưởng làm đủ ăn. - Nguồn vốn đầu tư nước ngoài quá ít... Bên cạnh những khó khăn về nguồn vốn như trên thì công tác quản lý và triển khai các dự án đầu tư vào nông nghiệp nông thôn đang còn nhiều khó khăn bất cập như: chất lượng tư vấn các dự án đầu tư còn yếu gây khó khăn cho khâu xét duyệt và triển khai thực hiện; sự phối hợp giữa các ngành các cấp còn lỏng lẻo, chưa ăn khớp, những điều này gây khó khăn không ít cho việc thực hiện các dự án đầu tư. Trước những bối cảnh trên đây, để nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn tỉnh Thái Bình ngày càng nhiều và hiệu quả thì tỉnh cần tập trung chỉ đạo làm tốt các công việc sau: 1.1. Chính sách tạo vốn. Thứ nhất, xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội tỉnh. Huy động tát cả mọi nguồn vốn đầu tư: nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn đầu tư từ tín dụng, nguồn vốn đầu tư từ các doanh nghiệp và nguồn vốn đầu tư từ các hộ nông dân. Trong đó nguồn vốn ngân sách là nhân tố “dẫn đường, dọn đường, nền tảng” của mọi công cuộc đầu tư vào nông nghiệp nông thôn, do đó phải tiết kiệm, bảo toàn, đề cao hiệu quả kinh tế xã hội của nguồn vốn này. Xây dựng những dự án đầu tư tổng thể vào nông nghiệp để cứ một đồng vốn đầu tư ngân sách phải kéo theo nhiều đồng vốn của mọi thành phân kinh tế khác. Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Bình cần phải cụ thể hoá phương châm phát huy nội lực trong huy động vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn trên cơ sở đa dạng hoá, khai thác sử dụng có quy hoạch, có hiệu quả mọi tiềm năng, thế mạnh sẵn có: lao động dồi dào, giao thông vận tải... Bên cạnh đó, cần hết sức tôn trọng nguyên tắc “lấy ngắn nuôi dài”: bảo toàn tái tạo và tăng trưởng giá trị vốn bằng tiền dưới dạng vốn tài chính, vốn tín dụng, vốn sử dụng đất, vốn góp lao động, vốn cổ phần... Thứ hai, tỉnh và Sở Kế hoạch và Đầu tư Thái Bình cần tạo mọi điều kiện thuận lợi thực hiện chính sách đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Để triển khai chính sách đầu tư cho nông nghiệp nông thôn cần kiện toàn chính sách tài chính tiền tệ với khâu then chốt là các ưu đãi cho khu vực nông nghiệp, nông thôn về thuế, lãi suất tín dụngvà phân bố vốn ngân sách.Tỉnh cần thực hiện chính sách bảo hộ xuất khẩu, chính sách tiêu thụ hàng nông sản, chính sách đất đai, chính sách thương mại đúng đắn, hợp lý... là những cấu thành hết sức quan trọng góp phần tháo gỡ ách tắc “đầu vào - đầu ra” trong lưu thông hàng nông sản, thiết lập môi trường căn bản thu hút vốn đầu tư vào nông nghiệp nông thôn của tỉnh. 1. 2. Chính sách đầu tư bằng nguồn ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp nông thôn tỉnh Thái Bình trong thời gian tới. Vốn ngân sách Nhà nước đang rất eo hẹp và khả năng trong những năm tới là không lớn. Do vậy, cần có cơ chế và chính sách để tận dụng và khai thác triệt để các nguồn thu trên địa bàn để khả năng phân bổ ngân sách cho đầu tư phát triển. Trước mắt cần thực hiện tốt các khoản thu từ thuế, phí, lệ phí, thu phạt... giải pháp chủ yếu là tăng cường các biện pháp nghiệp vụ của cơ quan hành thu, tạo cơ chế quản lý phối hợp đồng bộ hoạt động gỡa cơ quan thu với các cơ quan quản lý Nhà nước; giáo dục tính tự giác của nhân dân; tăng cường các biện pháp hành chính. Mục tiêu trước mắt là chống thất thu và tăng thu ngân sách, tạo điều kiện nguồn vốn ngân sách để đầu tư vào các lĩnh vực cần thiết trong đó có nông nghiệp nông thôn. 3. Giải pháp tín dụng. Nguồn vốn đầu tư từ tín dụng có vai trò không nhỏ trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn. Do vậy ngày càng tăng cường nguồn vốn này có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển. Để nguồn vốn này phat huy có hiệu quả cần phải thực hiện theo các giải pháp sau: * Về nhận thức cần làm rõ cho các cấp, các ngành và nông dân trong tỉnh thấy rõ hơn tín dụng là kênh vốn chủ yếu cho nông dân để phát triển kinh tế xã hội . * Dự báo nhu cầu vốn tín dụng Nhà nước cho hộ nông dân trong tỉnh thời gian tới (2001 - 2005). * Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức tín dụng Nhà nước cho nông dân (ngân hàng đầu tư và phát triển nông nghiệp , quỹ quốc gia giải quyết việc làm... ). * Tăng cường nhu cầu thực sự về vốn của các hộ nông dân (hay nói cách khác là kích cầu vốn tín dụng đối với các hộ nông dân). Để thực hiện được biện pháp này cần: - Thực hiện hiện quy hoạch chi tiết, hình thành các dự án phát triển kinh tế xã hội cho từng xã, từng huyện, thị trấn trong tỉnh. - Tập trung thực hiện các giải pháp để giúp nông dân giảm thiểu rủi ro, an toàn trong sản xuất và kinh doanh tiêu thụ để giúp người dân tự tin, mạnh dạn hơn trong đầu tư. * Đào tạo nông dân hỗ trợ họ trở thành những người chủ thực sự có khả năng vay vốn, tiêu hoá vốn và có ý thức trả nợ. Về nội dung cần thực hiện những vấn đề sau: - Hình thành các chương trình bồi dưỡng cho các chủ hộ theo từng nhóm hộ như giàu, nghèo; ngành nghề kinh tế; độ tuổi của chủ hộ... - Đa dạng hoá hình thức đào tạo, nhấn mạnh giải pháp dạy nghề. - Tổ chức tuyên truyền, toạ đàm để nâng cao ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ trong việc vay vốn của Nhà nước. * Tăng cường hiệu lực của Nhà nước và tỉnh đối với việc quản lý vốn của Nhà nước cho nông dân vay. - Có hướng dẫn thống nhất về xử lý tình trạng nợ quá hạn giữa các văn bản pháp luật của Nhà nước và các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội trên từng địa bàn. - Tăng cường quản lý Nhà nước để giảm thiểu tối đa rủi ro trong kinh doanh (cả sản xuất và tiêu thụ cho hộ nông dân) góp phần giảm rủi ro tín dụng, tạo cầu ổn định về vốn vay của nông dân. * Cần mở rộng tín dụng nông thôn cả về nguồn vốn, phạm vi và hình thức hoạt động, cho nông dân vay vốn ưu đãi hay vay vốn với lãi suất bằng 0, thủ tục đơn giản, linh hoạt về mức vay, thủ tục vay, biện pháp thế chấp, tín chấp và phương thức cho vay(cho vay tổ chức hay thông qua tổ chức, đại diện). Cho vay tín dụng bằng hiện vật hay bán hàng (vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu, giống...) cho nông dân vay theo phương thức trả chậm, trả góp. * Cần có chính sách vầ giải pháp nâng cao tỷ lệ cho vay trung và dài hạn, phù hợp với chu kỳ đầu tư, thu hồi vốn và chu kỳ sinh trưởng của cây trồng và vật nuôi. * Có quy chế hoạt động và hỗ trợ tài chính với các hiệp hội ngành nghề trong làng, xã, thôn xóm, khôi phục lại các quỹ hỗ trợ lẫn nhau ở nông thôn và cần đầu tư trực tiếp và hỗ trợ tín dụng thông qua các chương trình kinh tế và dự án như chương trình xoá đói giảm nghèo, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, thanh toán bệnh xã hội, dân số và kế hoạch hoá gia đình, phòng chống HIV/AIDS, chương trình quốc gia về thể thao. Các chính sách cần triển khai ở đây là phát triển thành phần kinh tế, chính sách đất đai ((giao đất, đồn điền, trang trại), thuế thị trường và giá cả. Ngoài ra còn tranh thủ các nguồn vốn thuộc chương trình của Nhà nước: vốn hỗ trợ giải quyết việc làm, vốn vay từ quỹ xoá đói giảm nghèo, vốn ODA và các chương trình khác. 1. 4. Huy động vốn từ trong dân và các doanh nghiệp . Cùng với các nguồn vốn khác, vốn đầu tư từ nội lực nông thôn, từ các doanh nghiệp nông thôn có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác đầu tư cho nông nghiệp nông thôn. Trong nhiều năm qua, các làng xã đã xây dựng, tu bổ nhiều công trình hạ tầng (đường xá, cầu cống...), góp phần đáng kể vào việc nâng cao đời sống phục vụ người dân. Theo số liệu thống kê ước tính mở rộng theo điều tra mẫu của Tổng cục thống kê thì nguồn vốn trong dân là khá lớn, chiếm 55.25% tổng số vốn đầu tư XDCB trên toàn địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, việc đầu tư trên mới chỉ là bước đầu, quy mô vừa và nhỏ, nguồn lực trong nông thôn chưa được kkhai thác nhiều và có hiệu quả. Để huy động được và nâng cao hiệu quả đt với nguồn vốn này cần bổ sung, hoàn thiện và thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô (thuế tiêu thụ chế biến, đất đai, tín dụng, giá cả...). Từ đó nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn, các hộ nông dân có vốn, có kinh nghiệm quản lý tự đầu tư hoặc liên kết, liên doanh, tạo các hình thức kinh tế hỗn hợp, có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, chế biến nông lâm, thuỷ sản, dịch vụ ở nông thôn, đồng thời cũng khuyến khích tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng nông thôn, cụ thể như sau: * Cần huy động vốn trong dân để đầu tư xây dựng bảo dưỡng cơ sở hạ tầng nông thôn. Dùng cơ chế hỗ trợ một phần ngân sách để thấy có lợi trong việc bỏ vốn đầu tư xây dựng đường làng, ngõ xóm cho hoàn thiện thêm. Đối với các dự án đầu tư cho thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh mương, ngoài phần huy động đóng góp tự nguyện (cả bằng tiền và sức lao động), có thể khuyến khích người dân cho Nhà nước vay để đầu tư trở lại cho hệ thống thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp . Ngoài ra, cần mở rộng cơ chế huy động đóng góp của dân chúng cho sự phát triển các hoạt động y tế, giáo dục, bảo đảm sức khoẻ, tri thức cơ bản cho người dân. *Cần khuyến khích dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực: sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là chế biến nông lâm, thuỷ sản và dịch vụ nông thôn.Đồng thời phải có những chính sách ưu tiên cho các doanh nghiệp, hộ nông dân kinh doanh trên các lĩnh vực này, từ đó sẽ khuyến khích họ thực hiện quá trình tái đầu tư, mở rộng sản xuất đổi mới trang thiết bị... Xây dựng quy chế hoạt động và hỗ trợ tài chính đối với các hiệp hội, ngành nghề trong nông thôn. áp dụng chính sách ưu đãi về thuế, giá thuế đất vầ các hình thức hỗ trợ khác để khuyến khích phát triển chế biến nông sản tại chỗ, phát triển các làng, ngành nghề truyền thống, trang trại. Thực hiện giảm thuế, cho phép nộp chậm tiền thuế đất đối với kinh tế hợp tác xã, thúc đẩy phát triển các hình thức hợp tác xã giữa các doanh nghiệp và hộ gia đình, có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp và hộ gia đình, các hợp tác xã mới thành lập. Tôn vinh ưu đãi những tập thể , cá nhân có công đầu tư phát triển ngành nghề, phát triển thị trường, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho tỉnh. *Cần đẩy nhanh lộ trình cổ phần hoá doanh nghiệp . Để huy động tốt nguồn vốn trong dân và các vốn đầu tư dài hạn, con đường rộng mở nhất là đẩy nhanh lộ trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Cổ phần hoá sẽ huy động được nguồn vốn trong mọi tầng lớp dân cư, mọi thành phần kinh tế xã hội và nâng cao hiệu quả sử dụng nó. Bằng việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp do thành phố quản lý, theo đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu, sẽ huy động được nguồn vốn lớn còn trong dân để đưa vào sản xuất kinh doanh. Vì thế càng đẩy nhanh được lộ trình cổ phần hoá càng sớm huy động được nguồn vốn ổn định và dài hạn doanh nghiệp lại hoàn toàn chủ động trong việc sử dụng. Với chính sách hiện nay, việc bán cổ phần sẽ được thực hiện rộng rãi trong xã hội. Tuy nhiên, trên tình hình thực tế tại Thái Bình thì việc tiến hành cổ phần hoá còn gặp nhiều khó khăn do người dân chưa hiểu rõ và chưa thực sự tin vào hiệu quả của hình thức đầu tư này. Nhất là tư tưởng của nhiều người dân Thái Bình nói riêng và vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng nói chung là đều không có ý thức kinh doanh, làm chỉ cần để đủ ăn... Do đó việc tiến hành thông báo cổ dộng như thế nào để có khả năng và hấp dẫn người mua, nhằm thu hút tối đa nguồn vốn nhàn rỗi do để dành, tiết kiệm được trong dân chúng đầu tư trực tiếp vào phát triển sản xuất. Để làm được điều này, cần

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc16885.DOC