Tài liệu Đề tài Điều tra tình hình chăn nuôi và dịch bệnh của chó, mèo ở một số phường trên địa bàn quận Hoàng Mai - Hà Nội: MỤC LỤC
Phần I: Mở đầu
1. Đặt vấn đề
2. Mục đích
Phần II. Tổng quan tài liệu
1. Một số lý luận về nuôi dưỡng, chăm sóc đàn chó, mèo
1.1. Nguồn gốc loài chó, mèo
1.2. Một số giống chó hiện nuôi ở Việt Nam
1.3. Một số giống mèo hiện nuôi ở Việt Nam
1.4. Thức ăn trong chăn nuôi chó, mèo
1.5. Phương thức chăn nuôi chó, mèo
2. Công tác phòng bệnh cho chó, mèo
2.1. Tiêm phòng cho chó
2.2. Tiêm phòng cho mèo
3. Chỉ tiêu sinh lý của chó, mèo
3.1. Thân nhiệt
3.2. Tần số hô hấp
3.3. Tần số tim mạch
4. Bệnh thường gặp ở chó, mèo
4.1. Bệnh Carre
4.2. Hội chứng tiêu chảy ở chó
4.3. Bệnh viêm phổi
4.4. Bệnh do xoắn trùng
4.5. Bệnh dại
4.6. Bệnh giun đũa
4.7. Bệnh sán dây
Phần III. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
2. Nội dung nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
Phần IV. Kết quả và thảo luận
1. Điều tra cơ bản
1.1. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội của quận Hoàng Mai
* Vị trí địa lý
* Điều kiện kinh tế – xã hội
1.2....
74 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Điều tra tình hình chăn nuôi và dịch bệnh của chó, mèo ở một số phường trên địa bàn quận Hoàng Mai - Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Phần I: Mở đầu
1. Đặt vấn đề
2. Mục đích
Phần II. Tổng quan tài liệu
1. Một số lý luận về nuôi dưỡng, chăm sóc đàn chó, mèo
1.1. Nguồn gốc loài chó, mèo
1.2. Một số giống chó hiện nuôi ở Việt Nam
1.3. Một số giống mèo hiện nuôi ở Việt Nam
1.4. Thức ăn trong chăn nuôi chó, mèo
1.5. Phương thức chăn nuôi chó, mèo
2. Công tác phòng bệnh cho chó, mèo
2.1. Tiêm phòng cho chó
2.2. Tiêm phòng cho mèo
3. Chỉ tiêu sinh lý của chó, mèo
3.1. Thân nhiệt
3.2. Tần số hô hấp
3.3. Tần số tim mạch
4. Bệnh thường gặp ở chó, mèo
4.1. Bệnh Carre
4.2. Hội chứng tiêu chảy ở chó
4.3. Bệnh viêm phổi
4.4. Bệnh do xoắn trùng
4.5. Bệnh dại
4.6. Bệnh giun đũa
4.7. Bệnh sán dây
Phần III. Đối tượng, nội dung và phương pháp nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
2. Nội dung nghiên cứu
3. Phương pháp nghiên cứu
Phần IV. Kết quả và thảo luận
1. Điều tra cơ bản
1.1. Một số đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội của quận Hoàng Mai
* Vị trí địa lý
* Điều kiện kinh tế – xã hội
1.2. Tình hình phát triển chăn nuôi chó, mèo tại quận Hoàng Mai
1.2.1. Tình hình chăn nuôi
1.2.2. Công tác phòng, chống dịch bệnh
* Công tác vệ sinh thú y
* Công tác tiêm phòng
2. Điều tra, tìm hiểu thực trạng tình hình chăn nuôi ở quận Hoàng Mai
2.1. Số lượng đàn chó mèo tại tháng 4/2007
2.2. Giống chó mèo được nuôi ở quận Hoàng Mai
* Giống chó
* Giống mèo
2.3. Thức ăn chăn nuôi chó, mèo
+ Thức ăn cho chó của hãng Pedigree
+ Thức ăn cho mèo của hãng Wiskas
2.4. Phương thức chăn nuôi chó, mèo
2.5. Công tác tiêm phòng
3. Kết quả khám và điều trị bệnh của chó, mèo
3.1. Kết quả khám và điều trị bệnh cho chó
3.2. Kết quả khám và điều trị bệnh cho mèo
Phần V. Kết luận
1.1. Tình hình chăn nuôi
1.2. Công tác vệ sinh thú y
1.3. Tình hình dịch bệnh
1. 4. Công tác điều trị
2. Đề nghị
Tài liệu tham khảo
PHẦN I
MỞ ĐẦU
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một nước có nền kinh tế đang phát triển và có sự đổi mới về mọi mặt, trong đó ngành chăn nuôi cũng không phải là một ngoại lệ. Cùng với sự phát triển chung của ngành chăn nuôi, chăn nuôi chó, mèo đã ngày càng được quan tâm và phát triển.
Từ buổi sơ khai chó, mèo đã trở thành người bạn đồng hành với con người, người ta nuôi chúng với nhiều mục đích khác nhau: làm cảnh, giữ nhà, trông nom gia súc, đi săn, phục vụ an ninh quốc phòng. Đặc biệt, ở các nước Âu Mỹ, người già thường sống độc thân, không ở chung với con cái, chó mèo nuôi trong nhà là con vật hết sức gần gũi đối với họ. Các thành phố lớn ỏ Việt Nam như Hà Nội và Hồ Chí Minh là nơi có nhiều hộ gia đình khá giả có khuynh hướng chọn nuôi các giống chó quý, nhập ngoại nhân giống và kinh doanh.
Chó, mèo là loài ăn thịt, đặc biệt là các giống ngoại nhập đòi hỏi một chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc và phòng bệnh đặc biệt nhằm thích nghi với điều kiện ở Việt Nam, nhưng trong thực tế với điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc còn nhiều hạn chế làm phát sinh nhiều dịch bệnh, gây nhiều thiệt hại, tổn thất lớn cho người nuôi và cả người yêu thích chúng.
Hiện nay trên thế giới hệ thống bệnh viện chó, mèo rất phát triển. Ở nước ta, tại một số thành phố lớn là Hà Nội và Hồ Chí Minh, các bệnh viện, phòng mạch chữa bệnh cho chó mèo được lập lên ngày càng nhiều. Song hoạt động cụ thể của các phòng mạch còn chưa được nhiều người biết đến.
Hoàng Mai là một quận mới ở Hà Nội, người dân có tập quán chăn nuôi và dịch bệnh của chó khác nhau, từ đó xuất hiện nhiều bệnh của chó mèo.
Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Điều tra tình hình chăn nuôi và dịch bệnh của chó, mèo ở một số phường trên địa bàn quận Hoàng Mai - Hà Nội”.
2. MỤC ĐÍCH
- Điều tra tình hình chăn nuôi chó, mèo và tình hình dịch bệnh ở một số phường trên địa bàn quận Hoàng Mai.
- Điều tra công tác vệ sinh phòng bệnh và một số bệnh thường gặp ở đàn chó, mèo trên địa bàn quận Hoàng Mai - thành phố Hà Nội.
- Đưa ra một số biện pháp phòng và điều trị để khuyến cáo cho người chăn nuôi chó, mèo.
PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1. MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ NUÔI DƯỠNG, CHĂM SÓC CHÓ, MÈO.
1.1. Nguồn gốc loài chó, mèo.
Bằng những thành tựu khoa học tự nhiên và xã hội, căn cứ vào những tài liệu về khảo cổ lịch sử, thông qua việc so sánh về hình thái cơ cấu, cấu tạo của bộ xương, bộ não và các khí quan trong cơ thể loài chó các nhà sinh học trên thế giới đều cho rằng: Tổ tiên của giống chó ngày nay là chó sói. Theo các nhà khoa học thì chó nhà được sinh ra từ sự tạp giao giữa chó sói, cáo và được con người nuôi dưỡng thuần hoá, chọn lọc để trở thành chó nhà thuần chủng.
Nhiều nhà sinh học cho rằng: Chó nhà được con người thuần dưỡng từ 30 - 40 nghìn năm trước đây vào giữa thời kỳ đồ đá. Trải qua nhiều thế hệ, với sự tác động tích cực của con người trong việc thuần dưỡng, lai tạo, chọn lọc cho tới nay con người đã tạo ra trên 500 giống chó khác nhau, phân bố khắp thế giới. (Hồ Đình Chúc, Phạm Sỹ Lăng, Phạm Anh Tuấn (1989). Kỹ thuật nuôi dạy và phòng bệnh cho chó cảnh và chó nghiệp vụ. NXB Nông nghiệp.)
1.2. Một số giống chó hiện đang được nuôi ở Việt Nam.
Hiện nay trên thế giới có nhiều giống chó, đa dạng về tính năng, chiều cao, kích thước, bộ lông, sắc lông. Trong những năm gần đây nhiều giống chó ngoại, chó quý đã được nhập vào Việt Nam để nhân giống, kinh doanh. Việc tham khảo đặc điểm của một số giống chó trước khi mua là hết sức cần thiết. Bên cạnh đó việc nắm được những kiến thức cơ bản trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc giúp kéo dài đời sống của chó. Giống chó đang được nuôi tại quận Hoàng Mai - Hà Nội có đặc điểm sau:
- Japenese Chin (Chó Nhật)
Là giống chó có nguồn gốc từ Nhật Bản. Bộ lông có màu trắng đốm đen, đốm đỏ. Có mõm ngắn, lông dài. Khi đến tuổi trưởng thành chó có trọng lượng
trung bình từ 2 – 4 kg và có chiều cao trung bình 23 cm.
Japanese Chin là giống chó cảnh đựơc yêu quý nhất ở Nhật Bản. Vào ba ngàn năm trước, khi tổ tiên của chúng đến từ Trung Quốc (hoặc Hàn Quốc), các nhà quý tộc đã cho ăn gạo và saki nhằm giữ cho chó đủ nhỏ để đựng trong những lồng chim bằng vàng. Japanese Chin thích được tham gia các hoạt động cùng với gia đình chủ, từ những bữa ăn trong những chuyến đi nghỉ hè và có thể hờn dỗi chút ít nếu bị bỏ rơi. Cũng giống như những giống chó khác, Japanese Chin cũng cần sự chăm sóc dịu dàng, quan tâm. Những cử chỉ dịu dàng mà chúng nhận được từ chủ nhân sẽ tránh được những thói xấu mang tính bản năng của chúng. Cần chải lông hàng ngày để kiểm tra lông rụng và giữ cho chó có bộ lông rực rỡ.
- Giống Berger Đức (German sheperd)
Là giống chó có nguồn gốc từ Đức, trước kia được nuôi vào việc chăn cừu. Berger có sức khỏe tốt, thông minh, hình dáng “tao nhã”, có đôi tai và chiếc đầu rất linh hoạt, lanh lợi. Bốn chân chắc khỏe nhanh nhẹn. Hiện nay giống chó này được phân bố ở rất nhiều nơi, nhưng nhiều nhất là ở Châu Âu.
Tùy theo quá trình thích nghi với từng môi trường thuần hóa mà chó có bộ dài lông, màu sắc lông thay đổi như màu đen, đen vàng, đen xám…
Khi trưởng thành thân hình chó cao trung bình từ 57 - 62 cm, thường có trọng lượng khoảng 35 - 40 kg.
Giống chó Berger Đức là loại chó vui vẻ điềm tĩnh, biết vâng lời, dễ thân thiện với đồng loại và con người, thuộc loại thông minh, dễ huấn luyện nhưng lại rất dũng cảm khi làm nhiệm vụ. Giống chó này được dùng nhiều trong an ninh quốc phòng. Đặc biệt trong việc đánh hơi truy lùng tội phạm, ngoài ra chúng còn được dùng trong nhiều lĩnh vực khác nhau như hải quan, kiểm lâm, bảo vệ kho tàng, cứu hộ,…
- Giống Rottweiler
Năm 1800 phát hiên tại thành phố nhỏ thuộc nước Đức. Trước kia Rottweiler được nuôi chủ yếu vào việc chăm sóc, chăn thả gia súc, bảo vệ tài sản. Trong lĩnh vực quân sự Rottweiler đáng được khâm phục: nó tham gia nhảy dù cùng quân đội Brazin; lục địa châu Âu bị ngập lụt, những con chó đã di cư cùng đoàn người Ronan, những con chó lớn lại tham gia bảo vệ lương thực, chăn thả gia súc sau đó chúng kết bạn với giống chó địa phương và sinh ra các giống chó khác như Brnard và Rottweiler.
Với thân hình chắc và 4 chân vững chắc không cao lắm, đầu to, mắt sáng, khoảng cách 2 mắt khá xa, chó này trở thành giống chó bảo vệ tốt và dần được chăn nuôi rộng rãi.
Chó có mầu lông đem sẫm, hình dáng cao trung bình khoảng 58 – 70 cm, trọng lượng từ 41 - 50 kg.
- Giống xù Bắc Kinh
Là giống có nguồn gốc từ Tây Tạng - Trung Quốc, sau đó được nuôi cải tạo ngoại hình theo yêu cầu thị hiếu làm cảnh tại khu vực Bắc Kinh và dần được gọi là giống chó xù Bắc kinh.
Đâylà giống chó có ngoại hình nhỏ, dài khoảng 40 cm, cao khoảng từ 20 – 25 cm, trọng lượng từ 4 – 5 kg. Chó có bộ lông dài, trắng mượt, lượn sóng, phủ kín toàn thân, xung quanh mõm có màu nâu (hoặc đen), đầu nhỏ, mũi gãy, tai cụp, lông xù ở 4 chân như đi ủng và được rất nhiều người ưa thích.
- Chó Fook
Là giống chó có nguồn gốc từ Pháp, chó trưởng thành có độ cao trung bình từ 15 – 23 cm và có trọng lượng từ 2 – 4 kg.
Có tất cả các màu trên chó. Chó có thân hình nhỏ, lông ngắn, tai to vểnh, mắt to xinh xắn mõm nhỏ dài. Với 2 đôi chân cao nó có vẻ như nhảy dựng lên. Mặc dù có kích thước nhỏ, nhưng chú chó săn chuột nàylại rất khẻo mạnh, dẻo dai, thông minh và nhanh nhẹn. Chó này trông nhà rất tốt và cũng đáp ứng với các nhu cầu huấn luyện. Không cần tốn nhiều diện tích để nuôi chó, nó là một con chó nội thành tuyệt vời, một người bạn đồng hành tốt.
- Dalmatian (chó Đốm)
Là giống chó có nguồn gốc từ Nam Tư. Chó trưởng thành có độ cao trung bình từ 56 – 61 cm và có trọng lượng trung bình từ 23 – 25 kg. Có lông màu trắng đốm đen, dáng cao, eo thon. Được dùng trong việc chuyên chở.
Dalmatian có nguồn gốc từ đâu trên thế giới? Vài người cho rằng giống chó này đến từ Ấn Độ đi cùng đoàn người buôn đến Yougoslavie thời Trung cổ. Người khác lại cho rằng từ thời cổ Ai Cập chó đi theo một xe ngựa như là một bằng chứng xuất phát từ Châu Phi. Tuy nhiên nguồn gốc nào cũng không quan trọng, có một điều chắc chắn lịch sử của Dalmatian chỉ là chó đốm. Tuy nhiên, khi mới sinh ra chó con thuần màu trắng. Bộ nhớ tinh tế và sự hăng hái sẽ rất có ích trong việc huấn luyện mặc dù đôi khi nó không dễ dạy. Nó rất dẻo dai và cần được vận động nhiều.
- Chó Tây Ban Nha
Là giống chó rất gần gũi và thân thiện với chủ. Chó trưởng thành có độ cao trung bình từ 30 – 40 cm, trọng lượng khoảng 20 – 30 kg. Nó như một nghệ sĩ trên sân khấu cũng như công việc nhà. Với bộ lông màu cánh dán, màu vàng hay màu gụ, thân hình mảnh, đầu dài, tai rủ xuống hai bên, hai mắt màu xanh sáng.
- Một số giống chó địa phương
Hiện nay các hộ gia đình thường nuôi chó ta (giống chó đã được người dân thuần hoá từ hàng nghìn năm nay) như:
Chó vàng: có bộ lông vàng tuyền, tầm vóc trung bình, biết đi săn và khá tinh khôn.
Chó mực: lông đen tuyền, tầm vóc trung bình, lanh lẹ và có khả năng bắt chuột giỏi.
Chó vá: lông đốm trắng đen hoặc khoang được nuôi để giữ nhà.
Ngoài ra còn có một số giống chó khác như chó Ngao Đức, Ngao Italia, Tawry Boxer…
1.3. Một số giống Mèo đang được nuôi ở Việt Nam.
- Mèo Mướp (Mèo Châu Âu).
Là giống mèo vừa dịu dàng, vừa độc lập lại vừa rất ngông cuồng và ưa nề nếp. Thích thám hiểm nên thường hay lấp mình để rình mồi.
- Mèo Ba Tư.
Là giống mèo có lông dài, mượt trắng muốt béo mập, mũm mĩm, thông minh và thanh lịch. Loài mèo này được coi là lãnh chúa trong thế giới mèo. Mèo Ba Tư rất dễ gần, dịu dàng, vui vẻ, nhanh nhẹn, tốt bụng và kiên nhẫn. Gắn bó với chủ, gần gũi với các em bé. Nhưng công việc chăm sóc lại cần nhiều thời gian. Mèo Ba Tư có thể là những con mèo có mắt 2 màu (mắt xanh và mắt nâu. Ở phương Đông người ta cho rằng những con mèo như vậy sẽ đem lại may mắn cho chủ nhân).
- Mèo Abysesin - Mèo man xứ Ai Cập
Hình dáng của loài mèo này giống tượng mèo thiêng thời Ai Cập cổ đại. Giống mèo này luôn gần gũi với chủ nhân nhưng lại không gần gũi với người lạ, thích chạy nhảy thăng bằng.
- Mèo Xiêm
Hiếu động, thông minh, thích kêu nhưng lại mang những nét đẹp dễ nhận thấy ở nó. Mèo Xiêm là loại ích kỷ, ít độ lượng với các con vật khác, nhưng lại rất gần gũi với chủ nhân, biết vâng lời, ghét ồn ào và luôn cần sự yên tĩnh.
- Mèo Miến Điện
Đây là giống mèo có cặp mắt xanh lơ lóng lánh màu đá saphire. Với tấm áo khoắc mượt và mỏng, đôi bàn chân nhỏ nhắn trắng muốt. Chúng rất thân thiện, thích được âu yếm, có tính cách ôn hoà, thích nghi nhanh với cuộc sống.
1.4. Thức ăn sử dụng trong chăn nuôi chó, mèo.
Chó mèo thích ăn những thức ăn nóng ấm (38 - 390C). Như nhiệt độ con mồi tự nhiên. Chó thích ăn những loại thức ăn có độ ẩm chênh lệch lớn (10 – 75 %), thức ăn nát, miếng nhỏ, ăn nhiều lần và không thích thức ăn ngọt. Loài mèo lại thích những loại thức ăn sống như cá, phủ tạng heo. Chó thường thích các cơ quan nội tạng hơn là những thức ăn được nấu chín. Chúng có thể thích vị ngọt, có thể ăn được rau cải. Cả hai loài đều dễ bị thức ăn lôi cuốn.
Ngày nay các nhà khoa học đã có nhiều nghiên cứu và hiểu biết về khẩu phần thức ăn cho chó, mèo. Tuy nhiên cũng có ít nhiều khác biệt trong nhu cầu cố định giữa các tác giả và các tổ chức nhà nước. Điều đáng ngạc nhiên là nhu cầu của loài này khác loài kia kể cả giữa chó và mèo. Người ta nghiên cứu để đảm bảo cho thú con phát triển một cách hài hoà, cho thú trưởng thành duy trì thể trọng phòng ngừa tối đa những bệnh lý liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến các yếu tố dinh dưỡng để kéo dài cuộc sống cho con thú bằng cách tạo ra các loại thức ăn hỗn hợp cho chó và cho mèo.
* Thức ăn hỗn hợp cho chó.
Có ba nhóm thức ăn chăn nuôi chính: chia thành 2 loại.
+ Theo tính chất của thức ăn
- Thức ăn khô có mức năng lượng 3.500 kcal/kg thức ăn.
- Thức ăn đóng hộp 1300 kcal/ kg thức ăn.
- Thức ăn nửa khô, nửa ướt đóng hộp hay trong bao plastic 3000 kcal/kg thức ăn.
+ Theo hình thức của thức ăn
- Thức ăn dạng khối: có dạng khối đồng chất, có cấu trúc từ sệt tới xốp.
- Thức ăn dạng lát miếng: được sản xuất từ thịt, gan, thận…thành những mảng khối và đóng hộp.
- Thức ăn dạng hỗn hợp trộn lẫn: gồm thịt xay dạng viên, thịt cắt nhỏ được nhồi chung với ngũ cốc, rau đậu nấu trong nước.
Tuỳ theo khối lượng cơ thể mà thành phần thức ăn trong khẩu phần, mức độ dinh dưỡng và chế độ ăn (mức độ phân phối thức ăn) khác nhau.
Điều đó được thể hiện trong một số bảng dưới đây:
Trang 48. Nuôi dưỡng – chăm sóc và phòng trị bệnh chó, mèo. Nguyễn Phước Trung (2002). NXB Nông nghiệp.
Mức phân phối thức ăn cho chó trưởng thành
Trọng lượng chó
(kg)
Thức ăn khô
(g)
Thức ăn ướt
(g)
Nửa khô
Nửa ướt (g)
5
125
340
150
10
210
570
250
15
290
770
330
20
355
960
400
25
420
1130
490
30
480
1300
560
35
540
1460
630
40
600
1600
700
45
650
1760
760
50
700
1900
820
55
760
2050
890
60
800
2200
950
Khẩu phần cho chó trưởng thành
Loại thức ăn
(gam)
Khối lượng của chó (kg)
5
15
30
50
Thịt bò gầy(200kcal/100g)
Gạo (gạo khô)
Rau cải
Dầu ăn
Carbonate de calcium
Muối
110
250
400
530
56
125
200
270
60
120
200
270
3
6
10
13
2
5
8
11
1
3
6
10
Nhu cầu dinh dưỡng của chó (% vật chất khô)
Tình trạng
Sinh lý
Đạm
Thô
Béo
thô
Xơ
thô
Ca
P
Na
Tăng trưởng,
Giai đoạn cuối
mang thai,
Cho bú
28 - 35
20 - 30
0 - 5
1,0 – 1,8
0,8 – 1,6
0,3 – 0,7
Duy trì
(trưởng thành)
20 - 28
10 - 20
0 - 5
0,5 – 0,9
0,4 – 0,9
0,25 – 0,5
ít hoạt động,
Hạn chế béo
20 - 25
8 - 12
5 - 15
0,5 – 1,0
0,4 – 0,9
0,25 – 0,5
Già
15 - 25
10 - 20
0 - 5
0,5 – 0,85
0,4 – 0,75
0,25 – 0,4
Làm việc,
stress, hồi phục
bệnh
25 - 30
25 - 30
0 - 5
0,7 – 1,4
0,7 – 1,4
0,3 – 0,7
Trang 49. Nuôi dưỡng – chăm sóc và phòng trị bệnh chó, mèo. Nguyễn Phước Trung (2002). NXB Nông nghiệp.
*Thức ăn cho mèo
+ Dinh dưỡng cho mèo.
Mèo là loài động vật ăn thịt. Dinh dưỡng cho mèo giống như chó với một vài đặc điểm riêng: nhu cầu đạm cao, không có khả năng chuyển hoá õ_carotene thành Vitamin A và cung cấp acid arachidonic. Mèo cần ít xơ
Nhu cầu trong những tháng đầu tiên gắn với tăng trọng. Tốc độ tăng trưởng của mèo rất nhanh trong 3 - 4 tháng đầu. Khối lượng trung bình của mèo đực trưởng thành (450 ngày) là 3.2 ± 0.9 kg và của mèo cái là 2.75 ± 0.5 kg. Mèo ăn nhiều loại thức ăn khác nhau. Mèo con đang lớn và mang thai, cho con bú phải được cho ăn tự do hay nhiều lần trong ngày để thoả mãn nhu cầu. Các bệnh liên quan đến dinh dưỡng như bệnh ký sinh trùng, thận, tuyến tuỵ, gan, tiêu hoá và hầu hết các rối loạn thức ăn đều có ảnh hưởng đến sinh lý, bệnh lý của mèo.(Trang 50. Nuôi dưỡng – chăm sóc – phòng trị bệnh chó mèo. Nguyễn Phước Trung (2002). NXB Nông nghiệp).
+ Thức ăn cho mèo.
Thức ăn cho mèo có 3 dạng khác nhau: Đóng hộp (22% chất khô), khô (90 - 94% chất khô), patê (70% chất khô). Tuỳ theo dạng thức ăn mà chế độ cho uống khác nhau. Thức ăn đóng hộp chiếm đến 78% nước. Việc sử dụng thức ăn này cần nhiều tri phí nhưng đem lại lợi ích cao và phòng ngừa hội chứng tiết niệu ở mèo. Thức ăn cho mèo có hàm lượng đạm cao (26-28%).
Nhu cầu hàng ngày của mèo
Tình trạng và độ tuổi
Thể trọng
(kg)
Năng lượng
biến dưỡng
(kcal/kgTT)
Tiêu thụ (thức ăn/kg thể trọng)
Thức ăn ướt
(1.240 cal/kg)
Thức ăn khô
(3.860 kcal/kg)
+ Mèo con
10 tuần
20 tuần
30 tuần
40 tuần
+ Trưởng thành
Nghỉ ngơi
Hoạt động
Mang thai
Cho sữa
0,4 – 1
1,2 – 2
1,5 – 2,7
2,2 – 3,8
2,2 – 4,5
2,2 – 4,5
2,5 – 4
2,2 – 4
250
130
100
80
70
85
100
250
200
105
81
65
56
69
81
200
65
34
26
21
18
22
26
65
Trang 54. Nuôi dưỡng – chăm sóc – phòng trị bệnh chó mèo. Nguyễn Phước Trung (2002). NXB Nông nghiệp.
Công thức thức ăn cho mèo
Loại thức ăn (g)
Khối lượng của mèo (kg)
2,5
4
4,5
Thịt
Gạo khô
Rau cải
Hỗn hợp dầu + nấm
men + khoáng + sinh tố
50
20
20
10
75
30
30
15
85
35
35
20
Mèo cho sữa cần một lượng thức ăn gấp đôi khẩu phần của mèo bình thường nặng 4 kg.
1.5. Phương thức chăn nuôi chó, mèo.
Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam ngoài loại thú sống hoang dã ở tự nhiên như các loại chó sói, mèo rừng,… thì những con vật nuôi đã được thuần dưỡng và nuôi trong gia đình đều được nuôi dưỡng theo các phương thức chăn nuôi chủ yếu sau:
- Các nước Âu châu, chó mèo chủ yếu nuôi dưỡng theo phương thức lồng, sàn: chó mèo đều có phòng, chuồng, nhà hay lồng nhốt riêng, đến giờ đi dạo, đi chơi hoặc tập thể dục chúng sẽ được thả ra ngoài.
Ở Việt Nam các gia đình thường hay xích chó vào chỗ riêng để giữ nhà. Một số chó khác được nuôi nhốt trong lồng, sàn, chuồng, các cũi đóng bằng gỗ hoặc hàn bằng sắt. Cách này chủ yếu thực hiện ở các trang trại hoặc một số gia đình xem chó như một người bạn. Tuỳ theo từng hoàn cảnh riêng mà người chủ sẽ quyết định cách kiểu làm chuồng. Kiểu chuồng thích hợp cho chó cần vững vàng, sạch sẽ, khô ráo và ấm áp. Đối với chuồng nuôi nhiều chó, người chủ phải quan tâm đến mức độ tiện lợi của chuồng để thuận tiện cho hoạt động của chó. Chuồng nuôi phải sáng sủa trừ chỗ ngủ (nếu ban ngày có chút ánh nắng dọi vào chuồng thì tốt). Cửa chuồng phải làm bằng thép vững chắc không cho chó nhảy ra ngoài. Chuồng chó không cần quá rộng. Nếu chúng ta có điều kiện nên thả cho chó ra ngoài tập luyện, không nên làm nền chuồng bằng bê tông vì dễ trơn trượt. Chuồng phải khô ráo ấm áp vào mùa đông và thoáng mát vào mùa hè.
2. PHÒNG BỆNH CHO CHÓ, MÈO.
Sức khoẻ của thú nuôi phụ thuộc vào sự chăm sóc nuôi dưỡng và hiểu biết của người chăn nuôi về những con thú nuôi. Dù là chó hay mèo đều có nguy cơ nhiễm nhiều bệnh truyền nhiễm khác nhau trong suốt cuộc đời chúng. Chương trình vaccin phòng ngừa sẽ giúp duy trì sức khoẻ con vật nuôi chống lại các bệnh này. Dinh dưỡng tốt và luyện tập thường xuyên được phối hợp với việc kiểm tra định kỳ hàng năm sẽ giúp duy trì sự khoẻ mạnh cho thú nuôi. Người chăn nuôi mong muốn mang đến cho thú nuôi một sự chăm sóc tốt nhất. Những chú chó, mèo khoẻ mạnh, đáng yêu sẽ mang lại nhiều niềm vui cho gia chủ và cộng đồng.
2.1. Tiêm phòng cho chó
Chương trình tiêm phòng dựa trên cơ sở:
- Miễn dịch thụ động truyền từ mẹ qua sữa đầu: tuổi tiêm phòng cho chó con tuỳ thuộc vào mức độ miễn dịch truyền từ mẹ sang. Kháng thể này được loại trừ trong khoảng 8 - 12 tuần tuổi.
- Giai đoạn nguy cơ ít hay nhiều đối với từng bệnh do virus trong khoảng thời gian này chó không thể tiêm phòng vì còn tồn tại kháng thể thụ động từ mẹ, nhưng có thể đã bị nhiễm bởi virus bên ngoài. Giai đoạn này nguy hiểm đối với chó con, bệnh có thể kéo dài do một số loại vius (đến 3 tuần đối với bệnh do Parvovirus).
- Tình hình dịch tễ trong vùng hay nơi chăn nuôi.
- Đối với chó con sống trong môi trường vệ sinh, sinh ra từ con mẹ đã được tiêm phòng, chương trình chủng ngừa có thể được áp dụng theo bảng dưới đây. Khi chó đã được 12 tuần tuổi thì 1 mũi tiêm đầu tiên cũng đủ để bảo hộ.
- Trong môi trường có nhiễm, đặc biệt là trong một số trại nuôi, việc chủng ngừa chống bệnh Parvo phải được tăng cường và cần thiết có thể tiêm hàng
tuần, từ tuần 7 – 12, cho đến khi thanh toán được bệnh thì mới cho phép trở lại chương trình chủng ngừa bình thường.
Lịch tiêm phòng bệnh cho chó
Tuổi
Vacxin chủng ngừa (Tetradog)
Khoảng 2 tháng tuổi
- Bệnh Parvo
- Bệnh Carre
- Bệnh viêm gan truyền nhiễm
Sau 3 tháng tuổi
- Bệnh Parvo
- Bệnh Carre
- Bệnh viêm gan truyền nhiễm
- Bệnh xoắn khuẩn (tiêm lần đầu) lặp lại vào 1 tháng sau đó.
- Bệnh dại với vaccin Hexadog
Tiêm lặp lại 1 năm sau đó
- Bệnh Parvo
- Bệnh Carre
- Bệnh viêm gan truyền nhiễm
- Bệnh xoắn khuẩn
- Bệnh dại
Mỗi năm
- Bệnh dại
- Bệnh xoắn khuẩn với vaccin Hexadog
Hai năm 1 lần
- Bệnh parvo
- Bệnh Carre
-Bệnh viêm gan truyền nhiễm (Rubarth)
Với vaccin Tetradog
2.2. Tiêm phòng cho mèo
Cần lưu ý đến các vấn đề sau đây:
- Miễn dịch của mèo còn tuỳ thuộc vào mức độ miễn dịch từ sữa mẹ.
- Tuỳ theo mức độ kháng thể truyền từ mẹ sang. Miễn dịch thụ động này sẽ biến mất từ 8 tuần tuổi.
- Tình trạng dịch tễ trong vùng.
Đối với mèo sống trong môi trường vệ sinh, chương trình chủng ngừa có thể đề nghị theo bảng dưới đây:
Lịch tiêm phòng bệnh cho mèo
Tuổi
Chương trình chủng ngừa
Khoảng 2 tháng tuổi
- Bệnh toàn giảm bạch cầu
Sau 2 tháng tuổi
- Bệnh toàn giảm bạch cầu lần 2
- Bệnh dại
Lặp lại hàng năm
- Bệnh toàn giảm bạch cầu lần 2
- Bệnh dại
Chủng ngừa bệnh dại bao gồm tiêm lần đầu 2 mũi, tiêm dưới da cách nhau 1 tháng và lặp lại hàng năm.
3. CHỈ TIÊU SINH LÝ CỦA CHÓ MÈO
3.1.Thân nhiệt
Thân nhiệt là nhiệt độ cơ thể gia súc được đo qua trực tràng. Ở điều kiện bình thường, mỗi gia súc có chỉ số thân nhiệt ổn định. Sự điều hòa thân nhiệt của cơ thể gia súc phụ thuộc vào hai quá trình sinh nhiệt và thải nhiệt. Hai quá trình này tuy đối lập nhau về bản chất và chức năng nhưng lại được tiến hành đồng thời với nhau dưới sự điều tiết chặt chẽ của hệ thần kinh và thể dịch. Ở chó và mèo sự điều tiết thân nhiệt chủ yếu là qua tuyến mồ hôi và hệ hô hấp.
Chó và mèo không có tuyến mồ hôi (trừ một phần ở gương mũi) nên về mùa hè chúng thường thè lưỡi ra để thải nhiệt qua đường hô hấp.
Cơ chế điều hòa thân nhiệt
Khi môi trường thay đổi sẽ tác động lên trung khu điều tiết nhiệt ở vùng dưới đồi rồi truyền lên vỏ não. Từ vỏ não các kích thích được truyền đến cơ làm tăng hoặc giảm trao đổi chất. Mặt khác từ vùng dưới đồi các kích thích sẽ tác động lên hệ thần kinh thực vật, qua đó chi phối các tuyến mồ hôi, gây ra sự co giãn da, tác động lên tuyến giáp, tuyến thượng thận gây kích thích hoặc ức chế hoocmon tham gia điều tiết thân nhiệt thông qua sự tăng hoặc giảm trao đổi chất. Khi hai quá trình sinh nhiệt và thải nhiệt bị mất cân bằng cơ thể rơi vào trạng thái bệnh lý. (Nguyễn Xuân Tịnh, Tiết Hồng Ngân, Nguyễn Bá Mùi, Lê Mộng Loan (1996). Sinh lý gia súc. NXB Nông nghiệp).
3.2.Tần số hô hấp
Tần số hô hấp là số lần thở ra hít vào của gia súc trong một phút. Tần số hô hấp phụ thuộc vào tuổi, tầm vóc, tình trạng bệnh lý của gia súc đó. Ở gia súc non, cường độ trao đổi chất mạnh nên tần số hô hấp cao hơn ở gia súc già.
Động vật có tầm vóc nhỏ thì tần số hô hấp cao hơn ở động vật có tầm vóc lớn. Khi gia súc vận động, tần số hô hấp cũng cao hơn so với trạng thái bình thường.
Tần số hô hấp của gia súc tăng bất thường hay gặp ở gia súc bị bệnh ở đường hô hấp, các bệnh gây sốt (bệnh truyền nhiễm, bệnh viêm não, bệnh ký sinh trùng). Tần số hô hấp giảm hơn bình thường khi cơ thể bị một số bệnh như hẹp khí quản, tràn dịch não, chảy máu não hoặc khi cơ thể bị nhiễm lạnh hay khi năng lượng dự trữ của cơ thể bị thiếu do rối loạn trao đổi chất. (Nguyễn Xuân Tịnh, Tiết Hồng Ngân, Nguyễn Bá Mùi, Lê Mộng Loan (1996). Sinh lý gia súc. NXB Nông nghiệp).
3.3.Tần số tim mạch
Tần số tim mạch là số lần co bóp của tim trong một phút (lần/phút). Khi tim đập thì mỏm tim hoặc thân tim chạm vào thành ngực, vì vậy mà ta có thể dùng tay, áp tai hoặc dùng tai nghe áp vào thành ngực vùng tim để nghe được tiếng tim.
Ở chó mèo đo tần số tim mạch ở vị trí tim đập là khoang sườn 3 - 4 phía bên trái. Tần số tim thể hiện tần số trao đổi chất, trạng thái sinh lý, bệnh lý của tim cũng như của cơ thể. Tần số tim phụ thuộc vào tầm vóc của gia súc, độ béo gầy, lứa tuổi, giống loài. Gia súc non có tần số tim đập lớn hơn gia súc già, gia súc hoạt động nhiều thì tần số mạch đập tăng lên. Mạch đập liên quan chặt chẽ tới phổi vì vậy tần số tim mạch và tần số hô hấp tỷ lệ nhau. Khi gia súc bị các bệnh truyền nhiễm cấp tính, viêm cấp tính, viêm cơ tim, viêm bao tim, bệnh ở van tim, các trường hợp thiếu máu, hạ huyết áp, những bệnh đau đớn, thần kinh bị kích thích, trúng độc, các bệnh làm tăng áp lực xoang bụng (dãn dạ dày, đầy hơi ruột…) đều làm cho tần số tim đập tăng. Tần số tim đập trong trường hợp các bệnh làm tăng áp lực sọ não, tăng hưng phấn thần kinh phế vị. Ngoài ra, tần số tim đập giảm do viêm thận cấp tính, huyết áp tăng và trúng độc. (Nguyễn Xuân Tịnh, Tiết Hồng Ngân, Nguyễn Bá Mùi, Lê Mộng Loan (1996). Sinh lý gia súc. NXB Nông nghiệ).
4. BỆNH THƯỜNG GẶP Ở CHÓ MÈO
4.1.Bệnh Carre (Febris Carrhalis Canium)
Bệnh Carre là bệnh truyền nhiễm lây lan rất dữ dội, chủ yếu ở chó non với các hội chứng sốt, viêm phổi, viêm ruột, viêm da, niêm mạc và các nốt sài ở chỗ da ít lông. Cuối thời kì bệnh thường có hội chứng thần kinh. Sự kế phát các vi khuẩn ký sinh sẵn ở dường tiêu hoá, hô hấp thường làm bệnh trầm trọng thêm, lúc đó bệnh thể hiện chủ yếu dưới 2 dạng: Viêm phổi và viêm ruột.
* Nguyên nhân:
Bệnh do virus thuộc nhóm Paramyxo gây nên, nó chỉ có một serotyp tuy động lực có khác nhau. Virus có kích thước 100 -300 Mm nhân chứa ARN. Virus carre xâm nhập vào cơ thể thông qua đường hô hấp và tiêu hoá. Sau khi vào cơ thể Virus nhân lên trong mô bạch huyết ở đường hô hấp trên sau đó Virus vào máu và đi khắp cơ thể. Mầm bệnh được đào thải ra ngoài qua dịch tiết ở mắt, mũi, nước bọt, dịch môn, nước tiểu, phân.
* Dịch tễ học
Bệnh xẩy ra quanh năm, ở mọi nữa tuổi, đặc biệt ở chó non 2- 4 tháng tuổi hay mắc nhất và thường bị bệnh nặng nhất. Tỷ lệ chết khoảng 90-100%.
* Triệu chứng
Biểu hiện bệnh rất đa dạng tuỳ thuộc vào tuổi chó mắc bệnh, giống chó, tình trạng sức khẻo, chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng, độc lực của mầm bệnh. Bệnh xuất hiện nhiều khi có sự thay đổi thời tiết đặc biệt ở những ngày mưa nhiều, độ ẩm cao.
Đa số chó bị bệnh ở thể cấp. Chó thường ủ rũ, biếng ăn, ít vận động, lông không mượt, sốt cao từ 39,5 – 400C. Viêm tấy, xuất huyết niêm mạc, chảy nước mắt, mắt đỏ, gương mũi khô tróc vẩy. Chó nôn nhiều, đi tiểu ít, nước tiểu vàng sánh. Chó gầy mòn nhanh, suy kiệt và chết.
Dựa vào tiến triển bệnh có thể phân ra các thể bệnh: thể ngoài da, thể tiêu hoá, thể hô hấp và thể thần kinh.
Thể ngoài da: Ở các vùng da (bụng, ngực, háng, đùi trong) xuất hiện các nốt sài, các nốt này lúc đầu nhỏ có màu đỏ, sau bội nhiễm vi khuẩn mềm ra có mủ. Khi vỡ các nốt sài làm cho lông bị bết lại, sau đó khô và đóng vẩy.
Thể tiêu hoá: Chó mắc bệnh thường nằm úp bụng xuống đất, thích uống nước lã. Chó bỏ ăn, nôn, lúc đầu nôn ra thức ăn sau nôn khan hoặc nôn ra bọt màu vàng. Chó bị ỉa chảy lúc đầu phân loãng tanh khẳm sau đó phân lẫn máu thường có màu cà phê phạt. Trong trường hợp bệnh nặng thường thấy cả máu tươi, có khi cả niêm mạc ruột do đó phân co mùi tanh khẳm rất khó chịu. Do chó đi ngoài nhiều nên cơ hậu môn dão.
Thể hô hấp: Chó rất mệt, nhịp thở tăng rõ rệt, có thể thở thể bụng, mắt có dử, gương mũi khô nứt hình vẩy cá, niêm mạc mũi, niêm mạc đường hô hấp viêm cata. Hiện tượng viêm phổi thể hiện rõ: thở khò khè có tiếng ran ướt, có khi ở khoé mũi có máu.
Thể thần kinh: Nếu bệnh kéo dài 10 ngày chó xuất hiện các triệu chứng thần kinh như: co giật, liệt, đâm vào tường, sùi bọt mép.
* Chẩn đoán
Dựa vào triệu chứng lâm sàng: Sốt cao, viêm đường hô hấp, viêm ruột, các nốt sài ở da, các cơn co giật bất thường, nôn.
* Phòng bệnh
Chăm sóc và nuôi dưỡng tốt, giữ vệ sinh sạch sẽ, tẩy uế chuồng trại định kỳ. (Trần Minh Châu, Hồ Đình Chúc, Lê Thanh Hứa, Phạm Sĩ Lăng, Đào Hữu Thanh, Dương Công Thuận, (1988). Bệnh thường gặp ở chó và biện pháp phòng trị.NXB Nông thôn).
4.2.Hội chứng tiêu chảy ở chó.
Bệnh diễn biến nhanh có thể làm chết 70 - 100% chó bệnh ( trích theo Trần Minh Châu, Hồ Đình Chúc (1988) [3]).
* Nguyên nhân
Bệnh viêm ruột cấp ở chó do nhiều nguyên nhân:
- Do Virus: Parvovirus, Canine Adenovirus…….
- Do vi khuẩn Esscherichia Coli, Salmonella spp, Clostridium spp……
- Do ký sinh trùng đường tiêu hóa: Giun đũa (Toxocara canic), giun móc (Ancylostomum caninum), sán hạt dưa (Diphyllium canium)….Có thể đơn bào ký sinh: Amip (Entamoeba histolitrca), trùng roi (Giardia intestinalis).
- Do ăn phải thức ăn ôi thiu, thức ăn mốc thức ăn quá cứng không tiêu hóa được, ăn phải chất độc, cảm lạnh.
Trong tất cả các nguyên nhân trên thì nguyên nhân do vi khuẩn là chủ yếu.
Theo tác giả Manninger, Janos mocsy……..đã xác nhận các vi khuẩn có thể gây ra hội chứng viêm ruột ở chó là:
+ Nhóm vi khuẩn thương hàn: Salmonella enteritidis, S.paratyphi A, B, S. murinum. Nhóm vi khuẩn này có nhiều serotyp khác nhau, là tác nhân gây bệnh cho hầu hết các động vật có vú kể cả người.
+ Nhóm vi khuẩn E. coli: Nhóm vi khuẩn này rất phong phú sống trong ruột già của chó và tất cả những động vật máu nóng, trong đó có rất nhiều chủng gây dung huyết và gây bệnh ở đường tiêu hóa. Bệnh ở chó là do những E.coli có kháng nguyên O và K chiếm ưu thế.
+ Nhóm tụ cầu và liên cầu khuẩn: Hai nhóm vi khuẩn này gây bệnh cho hầu hết các nội quan của động vật máu nóng, trong đó có chó, mèo. Ở chó bị viêm ruột cấp người ta xác minh được tác nhân gây bệnh là Staphylococcus aureus, Streptococcus fealis, Streptococcus pyogenes…..
+ Nhóm vi khuẩn yếm khí: Một số chủng vi khuẩn yếm khí cũng gây bệnh viêm ruột rất nặng ở chó, nhất là chó nhỏ như: Clostridium perfringens,
necrophorus.
Và một số vi khuẩn khác: Proteus vulgaris, Klebsiella, Listeria monocitogenes.
Có khoảng 50% trường hợp viêm ruột cấp ở chó là do nhiễm khuẩn thứ phát mà nguyên nhân đầu tiên là các loại ký sinh trùng gây tổn thương niêm mạc đường tiêu hóa, tạo điều kiện cho vi khuẩn gây bệnh.
* Dịch tễ học:
- Bệnh xảy ra ở mọi giống chó đang được nuôi ở nước ta và ở mọi lứa tuổi. Nhưng chó dưới 6 tháng tuổi thì bệnh nặng và tỷ lệ chết cao hơn có thể lên tới 90 - 100%. Chó trưởng thành và chó nội có sức đề kháng với bệnh cao hơn nên tỷ lệ chết thấp hơn 40 - 50%.
- Bệnh lây truyền chủ yếu qua các đường tiêu hóa do chó ăn phải thức ăn, nước uống có vi khuẩn gây bệnh.
- Chó thường bị bệnh trong các tháng trời nóng ẩm. Do trời mưa là điều kiện thuận lợi cho các vi khuẩn đường ruột phát tán đi xa, vào các ao hồ lây nhiễm cho chó. Tuy nhiên, bệnh vẫn xảy ra quanh năm gây thiệt hại nhiều cho chó cảnh và chó nghiệp vụ.
* Triệu chứng lâm sàng:
Triệu chứng nổi bật nhất là tiêu chảy kèm theo nôn mửa, do mầm bệnh cư trú ở dạ dày, ruột. Chúng phát triển nhanh về số lượng, chúng tiết ra các men, độc tố gây viêm phá họa niêm mạc ruột,dạ dày, kích thích làm tăng nhu động dạ dày, ruột.
Trong 1 - 2 ngày đầu bị bệnh: chó ăn ít hoặc bỏ ăn, mệt mỏi, hay uống nước, thân nhiệt tăng 39,5 – 400C, đặc biệt khi bị nhiễm Smonella, Staphyloccus, Clostridium chó sẽ bị sốt cao 40 – 410C trong vài ngày.
Sau đó chó nôn mửa liên tục, uống nước cũng nôn, đồng thời ỉa chảy dữ dội, đầu tiên phân táo bón sau loãng như nước, có màu xanh xám hoặc vàng xám, có lẫn niêm mạc dạ dày, ruột lày nhầy, mùi tanh khẳm. Do nôn mửa và ỉa chảy liên tục chó bị mất nước rất nhanh và gây rối loạn cân bằng điện giải, trụy tim mạch và chết nhanh, biểu hiện mắt trũng sâu, lông xơ xác, da nhăn nheo, bụng thóp lại.
Thời kỳ cuối của bệnh: Ruột thường bị xuất huyết nên có màu cà phê hoặc đỏ tươi.
Trước khi chết thân nhiệt hạ xuống 36 – 370C, hạ huyết áp, tim đập nhanh 120 – 150 nhịp/phút, thở gấp và nông 80 – 100 lần/phút. Chó bị kiệt sức không đi lại được, nằm một chỗ, phân lỏng chảy ra hậu môn không kiềm chế được. Khi tiêm thuốc chó mất cảm giác đau đớn, chó chết trong trạng thái kiệt sức.
Nếu không chữa kịp thời chó chết với tỷ lệ 70 – 100% trong vòng 2 – 4 ngày.
* Chẩn đoán:
- Chẩn đoán lâm sàng: Nôn mửa liên tục, ỉa lỏng, phân tanh có lẫn máu và niêm mạc ruột.
- Chẩn đoán nguyên nhân:
+ Xét nghiệm phân tìm trứng giun, đốt sán.
+ Lấy mẫu phân lập vi khuẩn và làm kháng sinh đồ.
4.3. Bệnh viêm phổi (pneumonia)
Bệnh viêm phổi thường do kế phát của viêm phế quản hay do bội nhiễm vi khuẩn của các bệnh truyền nhiễm khác như: Carre, bệnh viêm khí phế quản truyền nhiễm chó, mèo (trích theo Vương Đức Chất, Lê Thị Tài (2004),[4])
* Nguyên nhân
Có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau:
- Thường do kế phát từ viêm đường hô hấp trên.
- Kế phát từ bệnh Carre, viêm phế quản truyền nhiễm.
- Do ký sinh trùng: Giun phổi (Filaroides, Aelustrongylus), nấm phổi (Aspergillus, Histoplasma, Coccidioids).
* Triệu chứng lâm sàng
Bệnh tiến triển nhanh từ những ngày đầu con vật bị sốt, ủ rũ, niêm mạc đỏ. Chó ít ho nhưng ho đau đớn, thở khó, môi nhợt nhạt và tím, chó thở thể bụng, thở nhanh và nông sau vài ngày thì ho nhiều hơn.
Bệnh diễn biến bất thường, chó có thể chết ngay trong tuần đầu do bọt khí tràn đầy đường hô hấp, có khi kéo dài trở thành mãn tính. Có trường hợp bệnh nhẹ chỉ kéo dài mấy ngày và không có triệu chứng rõ rệt.
* Chẩn đoán
Chẩn đoán bệnh viêm phổi không khó nhưng để xác định đúng nguyên nhân cần phải xét nhiều yếu tố phải qua xét nghiệm dịch tiết, dịch nhầy. Bệnh do Virus thường có thân nhiệt cao 40 – 410C. Bệnh do nấm thường ở thể mãn tính và khi dùng kháng sinh không có hiệu quả. Bệnh viêm phế quản phổi kèm theo chứng viêm cất phế quản, thân nhiệt không ổn định và bệnh kéo dài. Trường hợp viêm phổi và màng phổi thường xuất hiện thủy thũng dưới bụng và ngực, có thể phát hiện bàng chọc, hút dịch.
4.4. Bệnh do xoắn trùng (leptospirosis)
Bệnh xoắn khuẩn là bệnh truyền nhiễm chung cho nhiều loại gia súc trong đó có chó, động vật hoang dã và người. Bệnh làm hoàng đản toàn thân, viêm gan, thận, viêm não, đái ra huyết sắc tố hoặc máu.
* Nguyên nhân
- Do một loại vi khuẩn đặc biệt gọi là xoắn khuẩn gây ra.
* Dịch tễ học
- Bệnh xảy ra quanh năm nhưng nhiều hơn vào mùa mưa. Bệnh có thể lây trực tiếp từ con ốm sang con khỏe.
- Có thể lây gián tiếp qua các yếu tố trung gian: thức ăn, nước uống……. Nhưng quan trọng nhất là do chuột.
Xoắn khuẩn có thể xuyên qua da, niêm mạc lành lặn vào gây bệnh cho cơ thể, xoắn khuẩn có sức đề kháng mạnh với môi trường.
- Do xử lý vết thủng, vết thiến, vết mổ không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.
- Qua đường giao phối: con đực truyền mầm bệnh cho con cái
- Do mẹ truyền bệnh cho con qua bào thai.
Mối liên quan giữa nguồn bệnh, động vật cảm thụ và yếu tố trung gian truyền lây được tóm tắt theo sơ đồ sau:
Chuột: ổ chứa Leptospira nguyên thủy
Người
Chất thải, thức ăn, nước
Chất thải, thức ăn, nước
* Triệu chứng lâm sàng
Chó tất cả các lứa tuổi đều mắc bệnh, nhưng chó dưới một năm bị bệnh nặng hơn. Chó đực tỷ lệ bệnh cao hơn chó cái. Thời gian nung bệnh 5 – 10 ngày, đội khi bệnh phát ra đột ngột.
- Chó suy yếu, bỏ ăn, nôn, 39.5 - 40oC
- Trong một vài ngày chó hết sốt, suy nhược, khó thở. Do độc tố của vi khuân tác động lên niêm mạc đường tiêu hóa và đường hô hấp bị hoại tử, miệng có vết loét và mùi rất hôi, da và niêm mạc có xuất huyết điểm, chân sau yếu, thở khó, vàng da và niêm mạc mắt.
- Nước tiểu màu cà phê hoặc đi tiểu ra máu
- Nếu bệnh nặng: chó bị run cơ bắp, đau vùng bụng, nôn ra máu, chảy máu mũi, gầy nhanh, sút cân, da khô mắt trũng, viêm kết mạc, thân nhiệt hạ, khó thở, khát nước, đi tiểu nhiều, mất nước, suy kiệt, hôn mê và chết.
- Chó con bị bệnh đột ngột có thể nôn, mất nước, shock và chết trong vòng 3 ngày.
- Chó có chửa dễ bị xảy thai, thai sảy bị xuất huyết trên da.
* Chẩn đoán
Dựa vào triệu chứng lâm sàng là chủ yếu: vàng da toàn thân, niêm mạc mắt vang, hơi thở rất hôi. (Đào Trọng Đạt(1990). Bệnh thường thấy ở chó và biện pháp phòng trị. NXB Nông thôn).
4.5. Bệnh dại
Bệnh dại gây ra bởi vius có hướng thần kinh, sau khi xâm nhập vào cơ thể người và động vật di chuyển theo dây thần kinh vận động vào tuỷ sống và lên não, gây ra trạng thái điên dại ở động vật và người. Vius dại được truyền trực tiếp từ chó dại sang chó khoẻ và người. Trong nước dãi chó dại có vius dại nên khi cắn ngưòi và thú vật khác, vius dại sẽ từ nước dãi xâm nhập vào vết thương.
Trước khi cho phát ra các triệu chứng dại từ 8 – 14 ngày, nước dãi của chó có vius dại. Mèo, chó sói, chồn, khi bị dại cũng có vius dại trong nước dãi và cũng truyền bệnh cho các thú vật khác và người giống như chó dại.
* Triệu chứng
+ Thể điên: Sau thời gian ủ bệnh chó lên cơn điên dữ dội: mắt đỏ ngầu, chảy dãi như bọt xà bông quanh mép, không còn cảm giác, lao vào mọi người kể cả chủ nó và các con vật khác để cắn xé. Thời kỳ này chó bỏ ăn hoặc nhai nuốt tất cả vật gì mà nó gặp trên đường. Chó sủa có tiếng khàn khàn hoặc rú lên từng hồi ghê rợn khác hẳn với trạng thái bình thường. Vài ngày sau đó chó bỏ nhà đi hoặc rúc vào bờ bụi, xó tối và chết trong trạng thái gầy rạc, sức kiệt, bại liệt với những vết thương rớm máu trên thân thể do tự cắn xé.
Bệnh tiến triển trong vòng 2 – 5 ngày chó suy kiệt rồi chết.
+ Thể bại liệt:
Đầu tiên chó thể hiện các trạng thái bất thường: ngơ ngác, bồn chồn, đi lại, ăn ít hoặc bỏ ăn. Sau đó chó lặng lẽ chui vào một xó tối nằm im, do đó gọi là thể dại im lặng hoặc thể dại câm, khác hẳn với thể điên cuồng. Vài ngày sau, chó bị liệt chân, liệt hàm, không thể há mồm ra được nhưng nước dãi vẫn chảy quanh mép như bọt xà phòng. Sau khi phát bệnh từ 3 – 5 ngày, chó chết trong trạng thái bại liệt hoàn toàn.
Thể này rất nguy hiểm vì người ta không nghĩ đến bệnh dại và mấy ngày đầu chó có thể cắn chủ nhà khi đến chăm sóc nó. Thể bại liệt chiếm 20 – 30% số chó bị bệnh dại.
* Phòng chống bệnh dại
Bệnh dại rất nguy hiểm vì hiện nay không có thuốc điều trị đặc hiệu. Ở nước ta việc phòng chống bệnh dại đã đưa thành chương trình quốc gia phòng chống bệnh dại. Trong đó qui định tất cả chó, mèo nuôi đều phải được tiêm phòng dại và lặp lại thành định kì hằng năm.
*Xử lý vết thương khi bị chó mèo cắn.
Nhằm tránh sự lây truyền bệnh dại, khi bị chó mèo cắn cần thực hiện các biện pháp sau:
Rửa sạch vết thương bằng xà bông, sau đó sát trùng lại bằng cồn. Không dùng các phương pháp phòng bệnh dân gian như lấy nọc, uống thuốc nam…
Đến ngay trạm vệ sinh phòng dịch gần nhất tiêm vaccin phòng chống bệnh dại. Trường hợp vết cắn gần vùng đầu hoặc vết thương quá sâu phải tiêm phòng bằng kháng huyết thanh dại trước khi tiêm phòng bằng vaccin. Trường hợp cần thiết có thể tiêm thêm vaccin phòng uốn ván theo chỉ định của cơ quan y tế.
4.6. Bệnh giun đũa (Ascariasis)
* Nguyên nhân
- Có 3 loại giun đũa gây bệnh cho chó, mèo: Toxocara canis, Toxascaris leonia, Toxocara cati.
- Toxocara canis: Thường gây mạnh ở chó non. Giun co vòng đời từ 26 - 28 ngày, phát triển ở niêm mạc ruột. Ấu trùng giun có thể chui qua nhau thai để vào thai, cũng có thể di hành trong cơ thể người.
- Toxascaris leonia: Cả chó và mèo đều nhiễm nhưng chó dưới 6 tháng tuổi ít thấy. Khi xâm nhập vào đường tiêu hóa ấu trùng di hành theo tĩnh mạch ruột tới tĩnh mạch cửa rồi vào gan, theo hệ tuần hoàn đến tim, phổi, và các phế nang. Chó ho và nuốt trở lại vào đường tiêu hóa.
- Toxocara cati: Thường kí sinh trên mèo, ấu trùng có thể qua sữa để gây nhiễm cho mèo con.
* Triệu chứng
Bệnh chủ yếu phát ra ở chó con và gây tác hại ở chó 20 ngày tuổi đến 3 tháng tuổi. Chó con mắc bệnh có biểu hiện triệu chứng lâm sàng như sau: Gầy còm, lông xù, bệnh phình to, căng tròn, phân sệt trắng xám, phân bị bết ở lông xung quanh hậu môn. Bệnh thường biến chứng thành các thể bệnh phức tạp như:
- Giun đũa nhiều gây tắc ruột, lồng ruột dẫn đến chết
- Giun đũa chui ống mật làm chó bị đau đớn, nôn khan, bỏ ăn, suy kiệt rồi chết.
- Chó con phình bụng cóc, tổ chức dưới da thủy thũng thấm dịch thành dạng keo bùng nhùng.
- Nếu bị bệnh nặng thì ấu trùng di hành làm tổn thương cơ quan thực thể như gan, thận, phổi rồi biến chứng gây ra bệnh báng nước.
* Chẩn đoán
- Dựa vào triệu chứng lâm sàng
- Xét nghiệm phân tìm trứng băng phương pháp Fuleborn.
(Nguyễn Đức Hiển (2001). Sổ tay hướng dẫn kỹ thuật thú y và nuôi chó - mèo. Chi cục thú y tỉnh Cần Thơ).
4.7. Bệnh sán dây (Costodiosis)
* Nguyên nhân
Có 2 loại sán dây gây bệnh ở chó, mèo là: Diphyllobothirium mansoni và Diphyllidium canium.
- Diphyllobothirium mansoni: Khi trưởng thành bài xuất trứng qua phân ra ngoài môi trường. Trứng hình thành ấu trùng hình cầu có nhiều lông và chui ra khỏi trứng sau 21 ngày. Ấu trùng trôi xuống nước chui vào các loài giáp xác. Ấu trùng phát triển sau20 ngày có khả năng gây nhiễm cho vật chủ trung gian là các loài ếch nhái. Ếch nhái ăn phải các loài giáp xác có ấu trùng, ấu trùng sẽ chuyển vào sống ở phúc mạc hoặc cơ của ếch nhái. Chó mèo ăn phải ếch nhái có ấu trùng sau 13 ngày sẽ có sán trưởng thành ở ruột.
- Diphyllidium canium: Đốt sán già thải ra ngoài có mang theo trứng. Đốt sán vỡ ra trứng thải ra môi trường được vật chủ trung gian là bọ chét chó, mèo và chấy ăn phải sẽ phát triển thành ấu trùng. Chó, mèo và thú ăn thịt khác ăn phải vật chủ trung gian có ấu trùng sẽ bị nhiễm sán dây.
* Triệu chứng:
Bệnh do Diphyllobothrium mansoni
Trong quá trình ký sinh sán bám vào vách ruột gây tổn thương niêm mạc kích thích làm cho chó hay nôn mửa, chảy máu ruột. Tiếp đó là quá trình viêm thứ phát do những vi khuẩn gây bệnh đường ruột.
Chó bị các triệu chứng thần kinh do độc tố của sán gây ra: Run rẩy, ngơ ngác, nằm lỳ một chỗ hay trở nên dữ hơn. Chó bị loạn tiêu hóa thường xuyên lúc táo bón, lúc ỉa chảy. Hiện tượng này xảy ra phổ biến ở chó 1 - 4 tháng tuổi. Chó nhỏ nhiễm sán phần lợn bị viêm ruột cấp chết 60 - 70%. Chó trưởng thành bị bệnh mãn tính: gầy dần, thiếu máu kéo dài mặc dù vẫn ăn bình thường. Kết thúc chó bị chết do kiệt sức.
Bệnh do Điphyllidum caninum
Sán dây gây bệnh cho chó mèo bằng cách chiếm đoạt chất dinh dưỡng, gây tổn thương cơ giới trên niêm mạc ruột, tiết tố gây rối loạn bệnh lý đường tiêu hóa. Chó mèo bị bệnh ở 2 thể: thể cấp tính và thể mãn tính.
+ Thể cấp tính: Thường gặp ở chó nhỏ từ 1 - 4 tháng tuổi. Chó thể hiện ăn kém, nôn mửa liên tục do sán kích thích vào niêm mạc ruột, Đầu sán có nhiều móc bám vào vách ruột gây tổn thương và chảy máu ruột, phân có mầu xám hoặc đỏ tươi. Tiếp đó là quá trình viêm ruột cấp do những vi khuẩn có sẵn trong đường tiêu hóa. Chó ỉa liên tục trong phân có niêm mạc ruột tróc ra có lẫn đốt sán rụng ra. Nếu không điều trị tốt chó sẽ chết với tỷ lệ cao 60 - 90% trong tình trạng mất máu, mất nước và mất chất điện giải.
+ Thể mãn tính: Xảy ra phổ biến ở chó trưởng thành. Chó có biểu hiện nôn mửa, ăn kém, rối loạn tiêu hóa, viêm ruột mãn, chó bị suy nhược, thiếu máu dài, kiệt sức rồi chết do các bệnh đường ruột thứ phát.
Đặc biệt trong bệnh sán dây ở chó trưởng thành, chó vẫn ăn khỏe nhưng gầy dần trong phân có đốt sán già rụng ra. Đốt sán giống hạt dưa, khi ra ngoài môi trường vẫn cử động được sau vài giờ nên gọi là “sán hạt dưa”.
* Chẩn đoán
- Kiểm tra phân tìm trứng
- Kiểm tra đốt sán trong phân.
(Phạm Sỹ Lăng (2002). Bệnh sán dây của chó ở một số tỉnh phía Bắc Việt Nam. Tạp chí KHKT thú y. Tập IX số 2)
PHẦN III
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
- Đàn chó, mèo của quận Hoàng Mai
- Các ca bệnh trên chó, mèo tại trại chó, mèo cảnh số 176 - Trương Định
- Các ca bệnh trên chó, mèo điều trị ngoại trú tại nhà dân trong quận.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.1. Điều tra cơ bản
+ Đặc điểm tự nhiên kinh tế - xã hội của quận Hoàng Mai.
+ Điều tra tình hình chăn nuôi chó, mèo của các hộ gia đình trên một số phường ở quận Hoàng Mai - Hà Nội.
- Tổng đàn chó, mèo qua các năm 2004 - 2006.
- Công tác vệ sinh thú y.
- Công tác tiêm phòng.
2.2. Điều tra khảo sát thực trạng.
+ Số lượng đàn chó, mèo từ 11/01 đến 30/05/2007.
+ Giống chó, mèo được nuôi ở địa bàn quận.
+ Chăm sóc và nuôi dưỡng
+ Vệ sinh phòng bệnh.
+ Phương thức chăn nuôi chó, mèo
2.3. Bệnh chó, mèo trong quá trình thực tập từ 11/01/07 đén 30/05/07.
- Triệu chứng bệnh lý…
- Phác đồ điều trị.
3. Phương pháp nghiên cứu.
- Dịch tễ học miêu tả.
- Dịch tễ học phân tích.
- Số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê sinh học.
- Tổng hợp, phân tích kết quả bằng phương pháp thường quy.
PHẦN IV
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. ĐIỀU TRA CƠ BẢN.
1.1. Một số tự nhiên, kinh tế - xã hội của quận Hoàng Mai.
* Vị trí địa lí.
Hoàng Mai là một quận mới được thành lập đầu năm 2003, nằm ở phía Nam thành phố Hà Nội.
- Phía Đông chạy dọc bờ sông Hồng giáp với Gia Lâm.
- Phía Tây giáp với quận Thanh Xuân.
- Phía Nam giáp với huyện Thanh Trì
- Phía Bắc giáp với quận Hai Bà Trưng.
Ngoài ra, còn có đường quốc lộ 1A, 1B chạy dọc qua nên rất thuận lợi cho việc giao lưu vận chuyển hàng hóa nói chung và việc vận chuyển gia súc, gia cầm, thực phẩm tiêu dùng (tới 80% được vận chuyển qua quận). Hoàng Mai còn là vùng tiêu úng của cả thành phố, vì nơi đây có các hồ điều hoà ở phường Yên Sở. Đây là nguy cơ tiềm ẩn bệnh lây lan, phát dịch cho đàn vật nuôi và ô nhiễm môi trường, gây khó khăn cho công tác phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm.
*Điều kiện kinh tế – xã hội.
Đầu năm 2003 thành phố đã tiến hành phân chia lại địa giới hành chính của huyện Thanh Trì, tách 9 xã ven nội thành và 5 phường của quận Hai Bà Trưng thành lập quận Hoàng Mai. Quận Hoàng Mai có 14 phường (Bảng 1). Phần lớn số phường này đang trong giai đoạn chuyển đổi cơ cấu, hình thành các khu phố đô thị, kinh doanh thương mại và buôn bán nhỏ. Các phường vùng ven bãi sông Hồng như Lĩnh Nam, Trần Phú, Yên Sở. Phù hợp với việc sản xuất rau màu và chăn nuôi đại gia súc, tiểu gia súc ( chó, mèo,…), thuỷ cầm.
Bảng 1. THỐNG KÊ TỔNG HỢP PHÂN LOẠI CẤP XÃ PHƯỜNG.
TT
TÊN PHƯỜNG
DIỆN TÍCH
(ha)
Theo 364
DÂN SỐ
(NGƯỜI)
12/2005
YẾU TỐ ĐẶC THÙ
Tổng số điểm
Phân loại đạt loại
Thuơng nghiệp
Tiểu thủ công
Trâu, bò
Lợn
Gia cầm
Chó, mèo
1
ĐẠI KIM
273,2
14.135
X
X
X
X
X
X
6
2
2
ĐỊNH CÔNG
270
27.927
X
X
0
X
0
X
4
1
3
HOÀNG VĂN THỤ
166
20.976
X
X
0
X
0
X
4
1
4
HOÀNG LIỆT
485,04
15.785
X
X
0
X
0
X
4
1
5
TÂN MAI
121
21.117
X
X
0
X
0
X
4
1
6
TƯƠNG MAI
76,1
24.243
X
X
0
X
0
X
4
1
7
MAI ĐỘNG
80
16.532
X
X
0
X
0
X
4
1
8
THANH TRÌ
333,8
13.753
X
X
X
X
0
X
5
2
9
LĨNH NAM
560,2
14.891
X
X
X
X
TS
X
5
1
10
THỊNH LIỆT
294,3
20.921
X
X
0
X
0
X
4
1
11
GIÁP BÁT
75
15.429
X
X
0
X
0
X
4
1
12
VĨNH HƯNG
179,65
20.725
X
X
X
X
0
X
5
1
13
TRẦN PHÚ
395,80
6.722
X
X
X
X
X
X
6
3
14
YÊN SỞ
725,17
11.772
X
X
X
X
X
X
6
2
Ghi chú: X là có nuôi các giống vât nuôi đã nêu ở trên
0 là không nuôi các giống vật nuôi đã nêu ở trên
Mỗi chữ X được tính bằng 1 điểm
TS là chăn nuôi thuỷ sản
Nhìn vào bảng thống kê trên ta thấy trong quận Hoàng Mai phường có diện tích lớn nhất là Yên Sở (725,17 ha), nhỏ nhất là phường Giáp Bát (75 ha). Dân số biến động từ 6722 người (Trần Phú) đến 27927 người (Định Công). Xếp loại có 10 phường đạt loại 1; 3 phường đạt loại 2; 1 phường loại 3. Để đánh giá phân loại cho từng phường người ta dựa vào các tiêu chí sau:
+ Phường đạt loại 3 là:
- Phường đạt từ 6 điểm trở lên và có số dân thấp nhưng lại phân bố theo nhiều ngành nghề như Trần Phú.
+ Phường đạt loại 2 là:
- Phường có số điểm từ 5 đến 6 và có số dân nhiều hơn số dân của phường đạt loai 3 nhưng thấp hơn loại 1 và cũng được phân bố vào nhiều nghành nghề nhưng chăn nuôi chiếm tỷ lệ thấp.
+ Phường đạt loại 1 là:
- Những phường có số điểm từ 4 đến 5 có mật độ dân số cao nhưng chủ yếu sống bằng các nghề buôn bán và tiểu thủ công nghiệp nên có mức đô thị hoá cao hơn.
1.2. Tình hình phát triển chăn nuôi chó, mèo tại quận Hoàng Mai.
1.2.1 Tình hình chăn nuôi.
Với đặc điểm các phường trong quận Hoàng Mai là những xã thuần nông trước đây, đến nay, đất nông nghiệp giảm không có nghề chuyên môn, nguy cơ không có việc làm tăng cao, chăn nuôi là cách lựa chọn tạo công ăn việc làm cho lao động nông nhàn. Nhận thức được vấn đề này, quận Hoàng Mai tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân để phát triển sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, nâng cao hiệu quả sản xuất khuyến khích phát triển mô hình kinh tế trang trại chất lượng trong đó có chăn nuôi chó, mèo. Nhưng vì điều kiện, người dân nuôi chó để giữ nhà, mèo để bắt chuột hoặc làm cảnh, để giải trí là chính. Tuy nhiên, có một số ngưòi đã đầu tư hàng trăm triệu đồng để phát triển chăn nuôi chó mèo. Như ông Nguyễn Văn Thành đã mở trang trại nuôi chó mèo ở khu công viên Yên Sở. Ở 167 Trường Định có trại chó mèo cảnh ( chuyên buôn bán, khám chữa bệnh…) cho chó mèo của ông Nguyễn Bảo Sinh. Những trang trại này đã nắm được khoa học kĩ thuật và đã thuê những cán bộ thú y có chuyên môn về làm việc tại đó. Song số lượng mô hình chăn nuôi này còn quá ít. Phần lớn các hộ gia đình của quận Hoàng Mai đều nuôi chó mèo theo mô hình nhỏ lẻ mang tính tập quán để phục vụ đời sống và tận dụng thức ăn trong gia đình. Trình độ dân trí thấp, không am hiểu kĩ thuật gây khó khăn cho công tác quản lí giám sát dịch bệnh trên đàn vật nuôi.
1.2.2. Tổng đàn chó mèo qua các năm 2004, 2005 và 2006
Cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội, đời sống của người dân ngày càng được nâng cao và phát triển thì tình hình chăn nuôi chó mèo ở quận Hoàng Mai Hà Nội cũng không ngừng được nâng lên về chất lượng. Theo khai thác số liệu thống kê về chăn nuôi và phỏng vấn, khảo sát trực tiếp qua mấy năm gần đây ta thấy số lượng chó, mèo được nuôi trong gia đình có sự chênh lệch không đáng kể nhưng về chất lượng con giống, thức ăn và mục đích nuôi là khác nhau, có nhiều sự chênh lệch giữa các giống chó mèo lai ngoại với nhau. Trong những năm trước người dân nuôi chó mèo chủ yếu là để giữ nhà, bắt chuột và lấy thịt nên chủ yếu là nuôi chó ta và mèo ta. Những năm gần đây người dân nuôi chó, mèo ngoài mục đích là giữ nhà, bắt chuột ra thì còn để làm cảnh và càng ngày chất lượng cuộc sống nâng cao người dân có nhiều điều kiện để nghỉ ngơi và chăm chút cho các chú chó, chú mèo cưng hơn. Cũng vì thế mà số lượng chó lai, chó ngoại như Becgie, Boxer, Fook… Được nuôi nhiều hơn thay thế dần dần những chú chó ta. Với loài mèo cũng vậy số lượng chung thì cũng có sự biến động nhưng về số lượng mèo ngoại và mèo lai được thay thế nhiều cho các chú mèo ta, mèo mướp hiền lành. Ngoài ra những vật nuôi trong nhà như chó, mèo đã được nuôi dưỡng chăm sóc tốt hơn rất nhiều so với trước đây.
(Không kể chó, mèo được nuôi ở tại trại chó mèo cảnh)
Từ bảng 2 chúng tôi có một số nhận xét:
- Tổng đàn chó, mèo của mỗi phường qua 3 năm là không có biến động lớn, chỉ tăng giảm vài chục con qua các năm. Phường Tân Mai năm 2004 có 570 con, năm 2005 có 565 con và đến năm 2006 có 500 con. So sánh tổng đàn chó mèo của các phường trong 1 năm cho thấy giữa các phường có sự chênh lệch rõ rệt, như ở phường Tương Mai tổng đàn năm 2004 chỉ có 338 con, chiếm 4,82%, ở phường Vĩnh Hưng tổng đàn năm 2004 có 870 con, chiếm 12,40%. Hoặc trong năm 2006 tổng đàn chó mèo ở phường Định Công có 760 con, chiếm 10,63% còn ở phường Trần Phú có 260 con, chiếm 3,64%.
- So sánh số lượng chó của mỗi phường qua 3 năm cũng không có sự chênh lệch nhiều, như ở phường Hoàng Văn Thụ ta thấy tổng số chó của phường năm 2004 là 450 con, năm 2005 là 470 con và đến năm 2006 là 500 con. Tương tự như vậy, số mèo của mỗi phường qua 3 năm là tương đối ổn định. Phường Hoàng Liệt năm 2004 có 45 con mèo đến năm 2005 có 40 con và đến năm 2006 cũng là 40 con. Mặt khác, số lượng và cơ cấu giữa chó và mèo của mỗi phường trong một năm là có sự chênh lệch rất lớn. Năm 2004, số lượng chó của phường Tân Mai là 500/6225 con chiếm 8,03%; số lượng mèo là 70/790 con chiếm 8,86%. Năm 2005 số lượng chó ở Phường Mai Động là 320/6465 con chiếm 4,95% còn số lượng mèo là 65/738 con chiếm 8,81%. Nếu tính tổng số chó của toàn quận trong mỗi năm cũng lớn hơn rất nhiều so với năm 2004 toàn quận có 6225/7015 con chó chiếm 88,74% và 790/7015 con mèo chiếm 11,26%. Năm 2006 có 6390/7152 con chó chiếm 89,35% và 772/7152 con mèo chiếm 10,79%. Thực trạng của vấn đề này là do vị trí địa lý, tập quán chăn nuôi của mỗi phường mà số chó mèo được nuôi trong nhà khác nhau. Hơn nữa lại tuỳ vào mục đích sử dụng mà việc chăn nuôi cũng khác nhau. Đa số gia đình nuôi chó để giữ nhà, nuôi mèo để bắt chuột, một số khác nuôi với mục đích là để làm cảnh. Nổi lên là phường Vĩnh Hưng ở các năm đều có số lượng chó, mèo lớn hơn so với các phường khác do phường này gần khu thịt chó Mai Động nên người dân thường nuôi chó theo cách tận dụng để bán lấy thịt.
1.2.3. Phòng chống dịch bệnh
* Công tác phòng chống dịch bệnh:
Đối với vật nuôi nói chung và chó, mèo nói riêng vẫn còn nhiều bất cập như tỷ lệ tiêm phòng dại chưa cao và tỷ lệ những hộ gia đình tiêm phòng các bệnh cho chó mèo còn rất thấp. Hiện nay chính quyền cơ sở của một số phường chưa nhận thức hết được trách nhiệm hoặc xem nhẹ công tác thú y cơ sở, thiếu sự chỉ đạo sát sao. Hầu hết UBND các phường đã triển khai công tác thú y theo kế hoạch chung nhưng lại thiếu sự kiểm tra đôn đốc, đề ra biện pháp thực hiện cụ thể, không sơ kết, tổng kết đánh giá. Phần lớn là do cán bộ thú y cơ sở tự tổ chức thực hiện.
Thực tế các phường đựơc chính quyền quan tâm chỉ đạo sát sao là phường Giáp Bát, Hoàng Văn Thụ, Mai Động…, cán bộ thú y tranh thủ được sự quan tâm của chính quyền về công tác thú y cơ sở, hoạt động thuận lợi hơn, hiệu quả hơn.
* Công tác vệ sinh thú y:
Quận Hoàng Mai là điểm nóng của thành phố Hà Nội. Đây là quận mới có số dân cư đông, có các đầu mút giao thông của thành phố. UBND quận đã chỉ đạo trạm thú y quận triển khai công tác giám sát dịch tễ, tổ chức chặt chẽ hệ thống mạng lưới thú y tại các phường. Những năm gần đây, quận đã tổ chức nhiều buổi tập huấn về công tác vệ sinh thú y. Năm 2006 quận đã cấp kinh phí tổ chức 9 buổi tập huấn về phòng chống dịch bệnh và có 950 lượt người tham gia. Cuối năm 1/12/2006 đến 31/12/2006 trạm thú y quận đã tham mưu cho UBND quận phát động tháng vệ sinh tiêu độc, khử trùng môi trường trên địa bàn. UBND phường tổ chức đội phun tiêu độc (đoàn thanh niên thực hiện). Cán bộ thú y quận Hoàng Mai tham gia và hướng dẫn sử dụng hoá chất, bình bơm. Trước khi bơm tiêu độc UBND các phường đã tổ chức nhân dân dọn vệ sinh, khơi cống, phát quang cỏ. Là địa bàn từ xã mới chuyển lên phường, nên có rất nhiều chuồng trại chăn nuôi tại các hộ gia đình. Đây là điểm chính để tiến hành việc phun tiêu độc kết quả. Kết quả đến đầu tháng 1/2007 đã tổ chức thu gom, dọn rác, phun tiêu độc cả địa bàn 14 phường 2 lần/cả đợt.
Công tác giám sát dịch tễ: Đây là công tác quan trọng trong công tác chuyên môn của cán bộ thú y, thực chất công tác là theo dõi diễn biến thực hiện trên đàn gia súc gia cầm trên địa bàn, những ảnh hưởng của điều kiện địa lý tự nhiên, điều kiện thời tiết, mùa vụ biểu hiện bệnh dịch. Từ đó xây dựng kế hoạch phòng chống dịch hiệu quả nhất, mạng lưới thú y cơ sở cũng đã nắm được tình hình dịch bệnh trên địa bàn, thu thập báo cáo kịp thời về cơ quan chuyên môn cấp trên như trạm thú y quận và chi cục thú y thành phố, giúp cho công tác phòng chống dịch bệnh được kịp thời.
* Công tác tiêm phòng:
Để chủ động phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc gia cầm theo sự chỉ đạo của chi cục thú y Hà Nội và trạm thú y quận Hoàng Mai, hàng năm tổ chức 2 đợt tiêm phòng đại trà cho đàn gia súc. Trong đó tiêm phòng dại cho đàn chó mèo được thực hiện vào đầu tháng 4 và tiêm bổ sung vào tháng 11 hàng năm. Đối với đàn gia súc tiêm phòng các bệnh long móng lở mồm, tụ huyết trùng, dịch tả lợn, nhiệt thán…. Ngoài ra cán bộ thú y cơ sở còn tiêm phòng bổ sung cho đàn gia súc mới nhập về.
Ngoài việc tiêm phòng dại hàng năm, có gia đình đã nhận rõ tầm quan trọng của việc tiêm phòng bệnh, các bệnh khác cho đàn chó mèo…. Nên đã có những gia đình tiêm phòng các vaccin phòng 4 bệnh hoặc 5 bệnh cho chó nhà mình. Hoặc tiêm vaccin suy giảm miễn dịch hồng cầu cho mèo. Nhưng số này vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp do chưa nhận thức được giá trị của nó và nói chung giá thành của các vaccin này vẫn còn tương đối cao vì đó chủ yếu là vaccin ngoại.
Từ bảng 3 chúng tôi có nhận xét:
Tỷ lệ đàn chó, mèo được tiêm phòng dại qua 3 năm là không có sự tăng đột biến mà chỉ sàn sàn nhau. Năm 2004, tổng số chó mèo được tiêm phòng đạt tỷ lệ 66,67%. Năm 2005, tổng số chó mèo được tiêm phòng đạt tỷ lệ 69,33%. Năm 2006, tổng số chó mèo được tiêm phòng đạt tỷ lệ 69,68%.
Tỷ lệ đàn chó, mèo được tiêm phòng dại giữa các phường trong 1 năm là có sự khác nhau. Năm 2004, tỷ lệ tiêm phòng dại cho chó mèo ở phường Yên Sở là 61,76% còn ở phường Giáp Bát là 71,58%. Năm 2005, tỷ lệ tiêm phòng ở phường Định Công là 72,33% còn ở phường Trần Phú là 63,19%. Năm 2006, tỷ lệ tiêm phòng ở phường Lĩnh Nam là 60,82% còn ở phường Mai Động là 87,14%.
Tỷ lệ tiêm phòng dại cho chó, mèo ở mỗi phường qua các năm tăng giảm không nhiều nhưng có xu hướng tăng dần ở phường Mai Động năm 2004, tỷ lệ tiêm phòng đạt 66,22%. Năm 2005, tỷ lệ tiêm phòng đạt 81,82%. Năm 2006, tỷ lệ đạt 87,14%. Còn tỷ lệ tiêm phòng ở mèo so với ở chó thì thấp hơn nhiều, do nhận thức chưa đúng đắn của người nuôi là mèo ít nhiễm bệnh hơn so với chó.
Điều này còn do công tác thú y cơ sở còn nhiều bất cập. Thực tế không phải phường nào cũng có đầy đủ các hệ thống mạng lưới thú y như mô hình mỗi phường có một cán bộ trưởng ban thú y phường có nhiệm vụ tổ chức hoạt động về công tác thú y trên địa bàn phường. Tại các tổ, cụm dân cư có cán bộ thú y viên làm nhiệm vụ giám sát tổ chức hoạt động về công tác thú y trên địa bàn tổ cụm dân cư. Một số phường chỉ có trưởng ban thú y không có các thú y viên tại các tổ, cụm cư dân như Yên Sở, Hoàng Liệt … Số xã còn lại có mạng lưới thú y viên thường không đầy đủ, hoạt động đơn lẻ, không mang tính tổ chức rõ rệt. Một điều bất cập đó là gần 40% số các bộ thú y trưởng của quận Hoàng Mai có độ tuổi cao từ 60 – 70 tuổi mà chưa có các bộ thú y thay thế, đây là một khó khăn cho hoạt động công tác thú y cơ sở quận Hoàng Mai. Nguyên nhân nữa do nhận thức của người dân về dịch bệnh và công tác phòng chống dịch bệnh chưa cao. Nhiều người sợ tiêm phòng xong chó mèo của mình lại không sinh đẻ được hoặc nuôi để thịt cần gì phải tiêm phòng… Điều này do khâu vận động tuyên truyền của UBND các phường cũng như của các cán bộ thú y cơ sở chưa thật sự tuyên truyền sâu sát đến người dân. Dẫn đến kết quả của tiêm phòng và chống dịch bệnh chưa đạt kết quả cao. Tất nhiên ngoài những nguyên nhân trên còn khách quan là do một số chó mèo còn non, đang chửa hoặc mới sinh con nên chúng ta không tiêm phòng dại được cho chúng.
2. ĐIỀU TRA TÌM HIỂU THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI Ở QUẬN HOÀNG MAI.
2.1. Tổng đàn chó mèo tại tháng 4 năm 2007.
Bằng phương pháp thống kê thông thường số lượng đàn chó mèo trong các phường thuộc địa bàn quận Hoàng Mai ở tháng 4 năm 2007 chúng tôi thu được kết quả trình bày ở bảng 4.
Nhìn vào bảng 4 dưới đây ta có nhận xét:
So sánh tổng đàn chó mèo của quận Hoàng Mai trong đầu năm 2007 với các năm (2004, 2005, 2006) chúng tôi thấy số lượng đàn chó, mèo đã tăng lên từ 7152 con (năm 2006) đến 8915 con (năm 2007). Do nhu cầu của đời sống nâng cao nên người dân ngoài việc nuôi chó mèo theo phương thức tận dụng với mục đích trông nhà, bắt chuột… họ còn nuôi chó mèo để đáp ứng nhu cầu về tinh thần. Mèo, chó trở thành động vật cảnh ngày càng có nhiều người yêu quý coi chúng như những người bạn thân thiết trong gia đình. Tổng đàn chó, mèo của các phường trong quận có sự chệnh lệch rõ rệt: Tân Mai có 430 con nhưng một số phường lại có số lượng cao hơn nhiều, Định
Bảng 4. TỔNG ĐÀN CHÓ, MÈO Ở THỜI ĐIỂM (4/2007)
Công có 931 con, Đại Kim có 1060 con và Thanh Trì có 1247 con. Điều này là do các phường Định Công, Đại Kim, Thanh Trì có mật độ dân số thấp, không gian rộng rãi nên thuận tiện cho việc nuôi gia súc hơn phường Tân Mai.
STT
Tên phường
Số hộ chăn nuôi (hộ)
Tổng đàn chó, mèo (con)
Trong đó
Chó
Mèo
(con)
Tỷ lệ %
(con)
Tỷ lệ %
1
Tân Mai
390
430
355
4,54
75
6,84
2
Giáp Bát
715
794
720
9,21
74
6,75
3
Tương Mai
785
850
770
9,85
80
7,29
4
Mai Động
295
370
300
3,84
70
6,38
5
Thanh Trì
1020
1247
1107
14,16
140
12,76
6
Yên Sở
250
300
260
3,33
40
3,65
7
Định Công
806
931
821
10,50
110
10,03
8
Đại Kim
880
1060
970
12,41
90
8,20
9
Lĩnh Nam
385
456
400
5,12
56
5,10
10
Vĩnh Hưng
660
725
645
8,25
80
7,29
11
Thịnh Liệt
425
504
420
5,37
84
7,66
12
Hoàng Liệt
310
380
320
4,09
60
5,47
13
Trần Phú
170
233
190
2,43
43
3,92
14
Hoàng Văn Thụ
545
635
540
6,91
95
8,66
Tổng cộng
7636
8915
7818
87,69
1097
12,31
Một số phường số lượng chó mèo trong năm 2007 tăng đáng kể so với các năm trước, năm 2006 số lượng chó mèo ở phường Thanh Trì có 340 con, năm 2007 tăng lên 1247 con. Điều này có được do nhu cầu ẩm thực của người dân. Thực tế cho thấy năm 2006 phường Thanh Trì có “phòng trào” đưa các món thịt chó vào “cải thiện”, thịt chó trở thành thực phẩm ưa thích và để tiêu thụ. Người dân phường Đại Kim cũng có hiện tượng tương tự như vậy. Số hộ chăn nuôi chó, mèo của từng phường cũng khác nhau. Những phường Tân Mai, Thịnh Liệt, Hoàng Văn Thụ người dân chỉ nuôi chó để giữ nhà, làm cảnh nên mỗi hộ thường nuôi một con và số hộ chăn nuôi cũng tương đương với số chó mèo được nuôi. Phường Thanh Trì, Đại Kim... với mục đích nuôi để bán thịt nên mỗi hộ chăn nuôi có thể nuôi 1 hoặc 2 con (Thanh Trì có 987 hộ với 1247 con)
Số lượng chó chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với mèo trong tổng số đàn. Như phường Thanh Trì số lượng chó là 1107 con, chiếm tỷ lệ 14,16%, còn mèo là 140 con, chiếm tỷ lệ 12,76%.
2.2. Giống chó mèo nuôi ở quận Hoàng Mai.
*Giống chó
Trong quá trình thực tập tôi đã khảo sát thực trạng tại địa bàn một số phường trong quận và có kết luận sau:
- Số lựơng chó ngoại được nuôi tăng lên qua các năm ở các phường nội đô và tỷ lệ tiêm phòng các bệnh của các giống chó ngoại này cao.
Những hộ gia đình chăn nuôi theo mô hình trang trại hoặc những gia đình khá giả yêu thích chó mèo thực sự đã liên hệ trực tiếp với các trung tâm giống của nhà nước hoặc các cơ sở giống có uy tín để mua con giống tốt và bảo đảm chất lượng. Đối với những hộ chăn nuôi gia đình thường sử dụng các con giống trôi nổi trên thị trường hoặc tự cung, tự cấp. Hoặc của một số gia đình quen biết có kinh nghiệm nuôi lâu năm. (Theo kết quả phỏng vấn và điều tra trong 388 hộ nuôi chó của quận thì có đến 8 giống chó khác nhau được nuôi).
Kết quả điều tra phỏng vấn được thể hiện trong bảng dưới đây.
Bảng 5. Giống chó nuôi theo điều tra 4 phường của quận Hoàng Mai.
STT
Giống chó
Tổng
Số
Định Công
Giáp Bát
Thanh Trì
Hoàng Văn Thụ
Số
con
Tỷ lệ
%
Số con
Tỷ lệ
%
Số
con
Tỷ lệ %
Số
con
Tỷ lệ
%
1
Berger
50
14
28,0
9
18,0
8
16,0
19
38,0
2
Chó
nhật
45
10
22,22
14
31,11
9
20,0
12
26,67
3
Chó Fook
74
18
24,32
6
8,11
40
54,05
10
13,51
4
Chó ta
140
30
21,43
36
25,71
44
31,43
30
31,43
5
Chó Roweler
19
2
10,53
1
5,26
11
57,89
5
26,32
6
Chó Bắc Kinh
30
5
16,67
11
36,67
8
26,67
6
20,0
7
Chó Đốm
18
5
27,78
3
16,67
6
33,33
4
22,22
8
Tây Ban Nha
12
2
16,67
4
33,33
3
25,0
3
25,0
Tổng
388
86
22,16
84
21,65
129
33,25
89
22,94
Trong 388 hộ nuôi chó chúng tôi thấy có 140 hộ là nuôi chó ta, chiếm 36,1% tổng số hộ nuôi. Khi được hỏi và thông qua phiếu điều tra các hộ gia đình đều nói do điều kiện về kinh tế và chỗ ở nên nuôi chó ta là phù hợp nhất vì nó không quá to, dễ nuôi, tận dụng được thức ăn thừa trong gia đình và dễ phòng bệnh. Vacxin chủ yếu phòng bệnh là vacxin phòng bệnh dại do phường tổ chức tiêm định kỳ hàng năm và được phát phiếu xác nhận đã tiêm phòng dại. Ngoài ra số lượng chó Fook cũng được các hộ gia đình nuôi nhiều 74/388 hộ nuôi chó, chiếm 19,1%. Loại chó này được nuôi với mục đích làm cảnh trong nhà và được trẻ em ưa thích. Có thể nói đây là một loại chó sạch nhất trong các giống chó hiện nay nuôi ở Việt Nam, chúng rất dễ cho ăn và rất gần người. Khi nuôi giống chó này được tiêm phòng đầy đủ 2 loại Vacxin: Vacxin phòng bệnh dại và Vacxin phòng 5 bệnh.
Qua kết quả điều tra chúng tôi thấy một lượng lớn chó Berger cũng được nuôi trong các hộ gia đình với mục đích là để coi nhà. Loại chó này khó nuôi, ngoài ra rất hôi nhất là vào những ngày trời mưa, trời nồm và những ngày ẩm ướt. Thức ăn chủ yếu là chế sẵn.
Các loại chó khác như chó Nhật, chó Bắc Kinh, chó Rotwerler cũng được các hộ nuôi nhưng chủ yếu là các hộ được cho, biếu, tặng. Các loại chó này đều được tiêm phòng định kỳ hàng năm đầy đủ.
* Giống mèo
Qua phỏng vấn trực tiếp và phiếu điều tra chúng tôi thấy số lượng mèo được nuôi trong các hộ gia đình khá lớn có gia đình nuôi 3 – 4 con. Với số lượng đó thì đều thuộc về các gia đình mèo nhà tự sinh sản nên để lại nuôi cả.
Tuỳ điều kiện mà các gia đình chọn nuôi mèo ta hoặc mèo ngoại. Mèo ta được nuôi ở nước ta từ lâu, gồm mèo Mướp, mèo Tam thể …. Mèo ngoại là loại mèo được nhập từ Trung Quốc về. Các hộ nuôi với mục đích là bắt chuột và làm cảnh nên cũng rất chú trọng việc tiêm phòng và đều được tiêm phòng đầy đủ Vacxin phòng bệnh dại. Thức ăn chủ yếu là chế biến sẵn được bán trên thị trường.
2.3. Thức ăn chăn nuôi chó, mèo.
Dựa vào tập tính ăn uống và nhu cầu dinh dưỡng của chó mèo người nuôi chó, mèo trên địa bàn quận Hoàng Mai sử dụng chủ yếu 2 loại thức ăn:
+ Thức ăn tự cung tự cấp (thức ăn tận dụng): Là những thức ăn mà gia đình xử dụng trong bữa ăn hằng ngày (thịt, cá, rau …) Một số gia đình cho chó mèo ăn thêm một số phế phụ phẩm như phủ tạng heo,… đầu gà luộc hoặc thinh thoảng cho ăn thêm thịt bò sống v v.
Những loại thức ăn này (thức ăn tận dụng) phù hợp với chó ta, mèo ta hoặc những giống chó, mèo dễ nuôi vì nhu cầu dinh dưỡng của chúng không quá khắt khe, không quá lớn để duy trì sức khoẻ, sức sản xuất, đổi lông v.v…
Ngoài thức ăn truyền thống, trên thị trường đã có một số thức ăn công nghiệp của một số công ty, cơ sở đã nghiên cứu sản xuất nhiều chủng loại thức ăn để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng hàng ngày cho chó, mèo. Vấn đề quan trọng là người chăn nuôi cần nắm được nhu cầu của từng loại chó, từng lứa tuổi, cũng như thành phần của các loại thức ăn để đạt được một khẩu phần cân đối cho thú nuôi. Sau đây là một số loại thức ăn hỗn hợp chế biến sẵn cho chó, mèo.
* Thức ăn cho chó lớn của hãng Pedigree
Thành phần thức ăn.
STT
Thành phần
1
Ngũ cốc nguyên hạt (Gạo, Ngô)
2
Đạm và các sản phẩm từ rau và ngũ cốc
3
Thịt và các sản phẩm từ thịt (Bò, Gia cầm, Cá, Gan)
4
Dầu thực vật hoặc mỡ động vật
5
Muối iốt, các vitamin và khoáng chất (vitamin A, B1, B2, B5, B6, B12, D, E, Choline, Folicacid, Niacin, Canxi, Phốt pho, Măng gan,Sun fát kẽm, Ferrous, Gluconate (Sắt, Đồng), màu thực phẩm, các chất bảo quản và gia vị.
Khối lượng thức ăn (g /kgP /ngày)
STT
Khối lượng chó(kg)
Lượng thức ăn (g)
1
< 5
105
2
5 – 10
105 – 180
3
10 – 25
180 – 360
4
25 – 50
360 – 600
Ghi chú: - Tăng hoặc giảm lượng cho ăn tuỳ theo mức độ hoạt động của chó
- Luôn có sẵn nước sạch cho chó uống.
* Thức ăn cho mèo của hãng Wiskas
Thành phần thức ăn
STT
Thành phần
1
Ngũ cốc nguyên hạt chọn lọc (gạo, bắp)
2
Thực phẩm từ gia cầm
3
Gluten bắp
4
Thực phẩm từ cá (cá biển)
5
Thực phẩm từ đậu nành: dầu đậu nành hoặc stearm
6
Đường, Muối iốt, Taurine, Các vitamin và khoáng chất thiết yếu, màu thực phẩm, chất bảo quản và hương thực phẩm
Cho ăn hàng ngày (g /con)
STT
Khối lượng của mèo
(kg)
Liều lượng cho ăn hàng ngày (g)
1
2
40 – 60
2
3
60 – 80
3
4
80 – 105
4
5
105 – 135
Ghi chú: - Có thể cho mèo ăn 1 hoặc 2 lần một ngày theo hướng dẫn trên.
- Luôn có sẵn nước cho mèo uống
2.4 Phương thức chăn nuôi chó mèo.
Ở Việt Nam cũng như ở địa bàn quận Hoàng Mai có hai hình thức chăn nuôi đó là chăn nuôi chó, mèo thả rông và chăn nuôi theo kiểu xích hoặc nhốt chó, mèo trong chuồng, lồng.
Qua thực tế ta thấy 2 phương thức chăn nuôi có sự khác biệt:
+ Nuôi chó, mèo theo hình thức thả rông: hình thức này phổ biến và sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc quản lý, nuôi dưỡng, chăm sóc và phòng trừ dịch bệnh cho chó, mèo. Hàng ngày, chó mèo thả rông sẽ đi lang thang ra ngoài đường, những bãi đất trống, vườn bỏ hoang tìm ăn những thức ăn đã ôi thiu hoặc xác những con vật chết như: chuột, rắn, cóc…Chúng thải phân, nước tiểu bừa bãi ra ngoài đường làm mất vệ sinh đường làng ngõ xóm, gây ô nhiễm môi trường và là nguồn lây lan mầm bệnh cho các loài gia súc, gia cầm khác. Hơn nữa, những con vật có thể thay đổi tính nết trở lên hung dữ và cắn người. Những con vật đó, nếu chưa được tiêm phòng đầy đủ thì rất dễ mang mầm bệnh virus dại cho người và các động vật khác, làm ảnh hưởng đến kinh tế xã hội.
+ Nếu chăn nuôi theo hình thức nuôi nhốt: chó được nhốt vào các chuồng lồng hay xích ở trong khuôn viên của gia đình. Hình thức này hiện nay rất phổ biến ở những phường nội thành như: Tân Mai, Tương Mai, Định Công, Giáp Bát, …Chăn nuôi theo hình thức này sẽ có nhiều thuận lợi trong việc quản lý, nuôi dưỡng, chăm sóc và phòng trừ dịch bệnh cho chó, mèo. Vì hàng ngày chúng ta có thể quan tâm gần gũi với chúng hơn, cho chúng ăn những thức ăn sạch sẽ, việc chăm sóc tắm chải cho chúng cũng gặp nhiều thuận lợi hơn, hạn chế được nhiều nguồn bệnh tật lây lan ra bên ngoài. Nhưng đối với hình thức này, người dân sẽ tốn nhiều thời gian và tiền của hơn hình thức chăn nuôi thả rông, thu được hiệu quả cao hơn trong chăn nuôi an toàn cho người và động vật xung quanh.
2.5. Công tác tiêm phòng. Thực hiện chỉ thị của uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội, sở Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Hà Nội về tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh gia súc gia cầm trên địa bàn.
Thực hiện kế hoạch tiêm phòng của chi cục thú y Hà Nội.Trạm thú y quận Hoàng Mai đã bắt đầu thực hiện hiện đợt tiêm phòng 6 tháng đầu năm cho đàn gia súc của quận Hoàng Mai vào ngày 31/03/2007 và kết thúc vào cuối tháng 04/2007.
Bảng 6. KẾT QUẢ TIÊM PHÒNG ĐỢT I, THÁNG 05/2007
Stt
Tên phường
Tổng đàn chó, mèo (con)
Kết quả tiêm phòng
Chó (con)
Mèo (con)
Tổng cộng
Con
%
1
Tân Mai
430
270
40
310
72,09
2
Giáp Bát
794
525
54
579
72,92
3
Tương Mai
850
564
50
614
72,24
4
Mai Động
370
260
49
309
83,51
5
Thanh Trì
1247
654
55
709
56,86
6
Yên Sở
300
180
15
195
65,0
7
Định Công
931
645
70
715
76,80
8
Đại Kim
1060
621
45
666
62,83
9
Lĩnh Nam
456
300
20
320
70,18
10
Vĩnh Hưng
725
461
60
521
71,86
11
Thịnh Liệt
504
390
55
445
88,29
12
Hoàng Liệt
380
241
35
276
72,63
13
Trần Phú
233
129
25
154
66,09
14
Hoàng Văn Thụ
635
410
70
480
75,59
Tổng cộng
8915
5650
643
6293
70,59
Qua bảng tổng hợp tiêm phòng dại đợt I năm2007 ta thấy:
- Tỷ lệ tiêm phòng của chó và mèo năm 2007 so với năm 2004, 2005 và 2006 là đã có sự thay đổi, đã tăng hơn so với những năm trước.
Năm 2004 tỷ lệ tiêm phòng của toàn đàn là: 66,67% đến năm 2007 tỷ lệ của toàn đàn là: 70,59%. Tỷ lệ tiêm phòng cho chó và mèo của các phường trong đợt I năm 2007 có xu hướng tăng lên so với các năm trước. Tỷ lệ tiêm phòng cho chó mèo trong cùng đợt I năm 2007 giữa các phường có sự chênh lệch rất rõ. Phường Thanh Trì chỉ đạt tỷ lệ tiêm phòng là 56,86% trong tổng đàn nhưng phường Thịnh Liệt đạt 88,29% tổng đàn. Hay tỷ lệ tiêm phòng chó, mèo ở phường Đại Kim chỉ đạt tỷ lệ là 62,83% còn phường Mai Động đạt 83,51%. Điều này xảy ra do nhiều nguyên nhân khác nhau như công tác tuyên truyền vận động ở một số phường vẫn chưa được sâu sắc đến với người dân. Đội ngũ cán bộ thú y tại một số phường như Yên Sở, Hoàng Liệt… còn thiếu, vừa làm công tác tiêm phòng vừa chống dịch cúm gia cầm nên kết quả còn hạn chế. Một số người dân chưa có ý thức trong việc tiêm phòng bệnh bằng vaccin cho vật nuôi nhà mình. Tuy nhiên, một số phường luôn nhận được sự chỉ đạo, quan tâm giúp đỡ của UBND các cấp, các ban ngành, ban chỉ đạo công tác thú y quận và các cơ quan chức năng, ban lãnh đạo chi cục thú y Hà Nội. Thú y trưởng các phường nhiệt tình có nhiều kinh nghiệm trong chuyên môn và công tác tuyên truyền. Mặt khác ban lãnh đạo trạm đòan kết, quán triệt tốt, phân công hợp lý trong công tác. Ngoài việc tiêm phòng dại cho đàn chó mèo hàng năm, có nhiều người dân đã nhận thức được tác dụng của vaccin đối với việc phòng chống dịch bệnh và nhiều gia đình đã biết cách tẩy giun sán định kỳ cho chó, mèo.
Có được kết quả đó thể hiện sự cố gắng của mạng lưới thú y cơ sở. Mặc dù hoạt động trong điều kiện về vật chất nhân lực và sự quan tâm chỉ đạo của chính quyền cơ sở chưa thực sự sát sao, cán bộ thú y đã phấn đấu đạt được kết quả nhất định góp phần trong công tác phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc gia cầm.
3. KẾT QUẢ KHÁM VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH CỦA CHÓ, MÈO
Chúng tôi tiến hành ghi bệnh án thú y cho mỗi con vật khi điều trị. Thông qua việc hỏi chủ gia súc về trạng thái con vật kết hợp với khám lâm sàng, sơ bộ kết luận con vật nghi mắc bệnh gì và đưa ra phác đồ điều trị. Sau đó tập hợp các bệnh án lại và phân loại theo nguyên nhân, triệu chứng và công tác chẩn đoán. Kết quả phân loại được trình bày ở bảng 6 và bảng 7.
3.1. Kết quả khám và điều trị bệnh của chó
Kết quả khám và điều trị bệnh cho chó được trình bày ở bảng 6
Trong 195 ca điều trị chúng tôi thấy chó thường mắc một số bệnh sau:
* Bệnh truyền nhiễm.
Có 28 ca chiếm 14,36% tổng số ca bệnh ở chó. Bệnh truyền nhiễm chó hay gặp nhất là Parvovius, có 14 ca chiếm 50% tổng số bệnh truyền nhiễm, bệnh carre có 8 ca chiếm 28,57%, bệnh leptospira có 3 ca và bệnh viêm gan có 3 ca.
+ Bệnh do leptospira:
Hay gặp ở chó đực, chó cái cũng mắc nhưng ít hơn. Chó có triệu chứng sốt 39,5 – 40oC, chó suy yếu, bỏ ăn, nôn. Sau vài ngày chó hết sốt vì vi khuẩn tác động lên niêm mạc đường tiêu hóa và hô hấp nên trong miệng có vết loét, hơi thở rất hôi. Da và niêm mạc xuất huyết điểm, con vật thở khó, chân sau yếu, vàng da và niêm mạc. Nước tiểu màu cà phê, có trường hợp đi tiểu ra máu.
Chó bị bệnh nếu phát hiện sớm thì điều trị khỏi. Còn những chó có biểu hiện bệnh nặng như bị rung cơ bắp, đau vùng bụng, nôn ra máu, chảy nước mũi, gầy nhanh, da khô, mắt trũng, viêm kết mạc, thân nhiệt hạ, khó thở, khát nước, đi tiểu nhiều, suy kiệt, hôn mê những trường hợp này điều trị không khỏi. Chó có chửa bị bệnh rất dễ sảy thai, xuất huyết trên da.
Bảng 7. Kết quả điều trị bệnh cho chó tại trại chó mèo cảnh Bảo Sinh
(Số 167 Trương Định - Hoàng Mai - Hà Nội) và ở các hộ gia đình.
Tên bệnh
Số con điều trị
Khỏi
Không khỏi
Chết
Số con
Tỷ lệ (%)
Số con
Tỷ lệ (%)
Số con
Tỷ lệ (%)
Truyền nhiễm
-Bệnh Carre
-Bệnh Parvovirus
-Bệnh Leptospira
-Bệnh viêm gan
28
8
14
3
3
6
1
4
1
0
21,43
12,50
28,57
33,33
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
22
7
10
2
3
78,57
87,50
71,43
66,67
100,0
Nội khoa
-Bệnh đường tiêu hóa
-Bệnhđường hô hấp
-Bệnhđường tiết niệu
- Thiếu Canxi
- Cảm lạnh
- Ngộ độc
100
55
35
1
3
4
2
77
40
32
0
2
3
0
77,00
77,72
91,43
0
66,67
75,0
0
6
4
2
0
0
0
0
6,00
7,27
5,71
0
0
0
0
17
11
1
1
1
1
2
17,00
20,0
2,86
100,0
33,33
25,0
100,0
Ngoại khoa
- Viêm da
- Viêm giác mạc
- Tai nạn
- Mổ u
- Thiến, triệt sản
30
12
5
3
2
8
26
10
4
2
2
8
86,67
83,33
80,0
66,67
100,0
100,0
4
2
1
1
0
0
13,33
16,67
20,0
33,33
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
Sản khoa
- Viêm sinh dục
- Đẻ khó
15
6
9
13
4
9
86,67
66,67
100
2
2
0
13,13
33,33
0
0
0
0
0
0
0
Bệnh ký sinh trùng
13
11
84,62
1
7,69
1
7,69
Bệnh khác
9
8
88,89
0
0
1
11,11
Tổng
195
141
72,31
13
6,67
41
21,03
Chúng tôi đã điều trị bệnh leptospira bằng phác đồ sau:
- Dùng kháng sinh:
Pencillin G 25000 - 40000UI/kg tiêm bắp ngày 2 lần, 2 đến 3 ngày.
Sau đó dùng Penicillin V 16mg/kg cho uống ngày 2 lần, trong 10 ngày.
Tetracyline 25 - 50mg/kg tiêm bắp ngày 2 lần.
Để giải quyết vấn đề mất nước và nhiễm độc axit, dùng các chất điện giải kết hợp với vitamin nhóm B, truyền hoặc cho uống, nhưng cần lưu ý với các con chó với biểu hiện vô niệu thì không được truyền quá nhiều nước mà cần khống chế khoảng 90 - 100ml/ngày cho chó trung bình từ 18 - 20kg.
Nhưng kết quả với 3 con điều trị số chó khỏi là 1 con (33,33%); chết 2 con(67,67%). Chúng tôi khuyến cáo cho người nuôi chó cách phòng bệnh như sau:
Tiêm vác xin lúc chó 7 - 9 tuần tuổi.
Vệ sinh thức ăn nước uống, chuồng trại sạch sẽ.
Phải diệt chuột thường xuyên.
+ Bệnh Parvovirus:
Là bệnh phổ biến ở chó, chúng tôi đã phát hiện được 14 ca. Bệnh xảy ra ở mọi giống chó và ở các lứa tuổi khác nhau. Nhưng chó Becger và chó cảnh mắc là chủ yếu. Bệnh do virus gây ra và tác động chủ yếu lên hệ tiêu hóa và hệ thống miễn dịch. Bệnh chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, chó qua khỏi khi phát hiện sớm, điều trị kịp thời. Chúng tôi đã điều trị bằng phác đồ sau:
- Dùng thuốc điều trị triệu chứng:
Alagin để hạ sốt giảm đau: 1ml/con
Vitamin K để cầm máu: 1ml/con
Atropin sunfat để chống nôn, giảm co thắt cơ trơn: 1ml/con
Dimedrol có tác dụng an thần: 1ml/con
- Dùng kháng sinh hoặc phổ rộng để diệt vi khuẩn kế phát:
Gentamycin 2mg/kgP/ngày
Anamycin 10 – 20 mg/kgP/ngày hoặc Bio D.O.C
- Trợ sức, trợ lực:
Vitamin B1 : 1ml/con/ngày
Vitamin B12 : 1ml/con/ngày
Vitamin C :100mg/con/ngày
Tiêm chậm vào tĩnh mạch dung dịch sinh lý mặn ngọt ( glucoza +ringerlactac) chống mất nước, mất chất điện giải: 30 - 60ml/ngày
Hộ lý cho con vật ăn thức ăn dễ tiêu ( nước cháo loãng), cho ăn từng ít một và chia làm nhiều lần trong ngày.
Nhưng tỷ lệ khỏi đạt 28,6%. Theo chúng tôi cách phòng bệnh hiệu quả nhất là:
Giữ vệ sinh nơi ở cho chó, không thả rông chó tránh tiếp xúc với mầm bệnh.
Chăm sóc, nuôi dưỡng tốt.
Tiêm vaxin phòng bệnh parvo định kỳ.tiêm vacxin lần 1 cho chó 8 tuần tuổi, tiêm nhắc lại mũi thứ 2 sau 4 tuần. Sau 1 năm thì tiêm nhắc lại định kỳ.
+ Bệnh carre:
Xảy ra chủ yếu ở chó Becger, Becger lai và một số chó nội. Virus là nguyên nhân chính gây ra bệnh, chưa có thuốc tiêu diệt nguyên nhân chính, mới chỉ chữa trị triệu chứng. Chúng tôi đã sử dụng phác đồ sau:
Chưa có thuốc đặc trị: chủ yếu là dùng thuốc trợ sức, trợ lực.
Cần phát hiện sớm, cách ly và giữ ấm cho chó ở nơi khô ráo, ấm áp
- Sử dụng thuốc để điều trị triệu chứng:
Anagin để hạ sốt giảm đau: 1ml/con
Vitamin K để cầm máu: 1ml/con
Atropin sunfat để chống nôn, giảm co thắt cơ trơn: 1ml/con
Dimedrol có tác dụng an thần: 1ml/con
- Dùng kháng sinh hoặc phổ rộng để diệt vi khuẩn kế phát:
Kanamycin với liều 10 - 20mg/kgP/ngày
Hoặc Bio D.O.C hay gentamycin với liều 2mg/kgP/ngày
- Trợ sức, trợ lực:
Vitamin B1 : 1ml/con/ngày
Vitamin B12 : 1ml/con/ngày
Tiêm chậm vào tĩnh mạch dung dịch sinh lý mặn ngọt ( glucoza +ringerlactac) chống mất nước, mất chất điện giải: 30 - 60ml/ngày
Kết quả điều trị khỏi thấp, chỉ đạt 12,5% khi được phát hiện sớm và điều trị tích cực.
+ Bệnh viêm gan:
Bệnh do virus phá hủy thành mạch máu gây xuất huyết tràn lan, thường gặp ở chó cai sữa và chó con. Vì chủ gia súc mang chó đén điều trị rất muộn khi chó đã có triệu chứng điểm hình: sốt cao, bụng sưng to, sờ thấy cứng đau, con vật nôn và hậu quả là điều trị không có hiệu quả.
* Bệnh nội khoa:
Có 100 chó mắc bệnh, chiếm tỷ lệ 51,28% tổng số chó đến khám và điều trị. Trong các bệnh nội khoa chó mắc bệnh ở đường tiêu hóa là nhiều nhất: 55 ca chiếm tỷ lệ 55%. Các bệnh đường tiêu hóa gồm viêm ruột, ỉa chảy và rối loạn tiêu hóa. Chó mắc bệnh viêm ruột ỉa chảy có triệu chứng nôn mửa, đồng thời ỉa chảy dữ dội, phân lúc đầu táo bón sau lỏng như nước, phân có màu vàng xám hoặc xám, có lẫn niêm mạc. Do tác động đén đường tiêu hóa ảnh hhưởng tới quá trình hấp thu chất dinh dưỡng của cơ thể vì vậy cơ thể gầy sút rất nhanh. Còn chó bị rối lọan tiêu hóa thường do ăn phải thức ăn bị ôi thiu, bị chua quá hoặc ăn phải thức ăn lạ chó cũng có biểu hiên ỉa chảy nhưng phân không có lẫn máu, sốt nhẹ hoặc không sốt. Khi tiến hành điều trị chúng tôi đã sử dụng kháng sinh liều cao, hoạt phổ rộng, kết hợp với thuốc điều trị triệu chứng cộng với hộ lý chăm sóc tốt: 88,06%.
Trong 55 ca mà chúng tôi theo dõi vẫn còn 11 ca chết, chiếm tỉ lệ 20% và 4 ca chuyển sang mãn tính chiếm tỉ lệ 7,3%; Do chủ gia súc không đưa chó đến khám điều trị kịp thời, không điều trị triệt để liên tục, không hộ lí chăm sóc theo đứng chỉ dẫn của bác sĩ.
+ Bệnh đường hô hấp:
Có 35 ca chiếm 35% trong tổng số bệnh nội khoa, chủ yếu là viêm phế quản và viêm phổi. Để xác định rõ nguyên nhân bệnh còn phải xét nhiều yếu tố và xét nghiệm dịch tiét, dịch nhầy. Thực tế chúng tôi chưa làm được những xét nghiệm để xác định rõ nguyên nhân mà chúng tôi mới chỉ điều trị triệu chứng.
Trong quá trình điều trị chúng tôi đã sử dụng các đơn thuốc sau:
Rp1: Anagin để giảm đau, hạ sốt: 1 ml/con
Ampi - Kana: 15 mg/ kgP tiêm bắp
D.O.C: 1ml/ 5kgP tiêm bắp
Vitamin B1, vitamin B12: 100g/ngày
Liệu trình điều trị: ngày 1 lần, 5 - 7 ngày liên tục
Rp2: Anagin giảm đau, hạ sốt: 1ml/con
Cefotaxime: 0,24 - 0,5 ml/kgP tiêm bắp
VitaminB1, vitaminB12: 100g/ngayf
Liệu trình điều trị: ngày 1 lần, 3 -5 ngày liên tục
Cụ thể chúng tôi đã sử dụng phác đồ 1 để điều trị cho 17 con chó. Sau 3 ngày điều trị liên tục cả 17 con chó đều giảm ho, sau 5 ngày điều trị: 4 chó khỏi hẳn, còn 9 chó khỏi 7 ngày điều trị. Vậy tỉ lệ chó khỏi bệnh là 76,47%, vẫn còn 4 chó chuyển sang bệnh mãn tính.
Phác đồ 2 được chúng tôi sử dụng để điều trị cho 18 chó. Ngay sau ngày đầu điều trị chó đã giảm triệu chứng ho. Sau 3 ngày điêù trị liên tục đã có 8 chó khỏi hẳn, sau 5 ngày điều trị có chó hẳn. Tỷ lệ điều trị khỏi là 83,33%. Vẫn còn 3 con chuyển sang thể mãn tính.
Như vậy phác đồ điều trị mang lại hiệu quả điều trị cao hơn phác đồ điều trị ngắn hơn, tỉ lệ khỏi cao hơn. Để có được hiệu quả điều trị như trên cần thực hiện tốt việc giữ ấm cho chó, cách li con khỏe với con ốm, cho chó ăn đầy đủ chất dinh dưỡng…. Vẫn còn 7 chó( 4 con điều trị bằng phác đồ 1 và 3 còn điều trị bằng phác đồ 2) chuyển sang thể mãn tính do chó quá già, chủ gia súc không hộ lí chăm sóc tốt, không điều trị liên tục, đúng liệu trình…
+ Bệnh đường tiết niệu:
Có một ca chiếm tỷ lệ 1% trong tổng số bệnh nội khoa, điều trị không khỏi. Chưa xác định rõ được nguyên nhân và chưa điều trị theo nguyên nhân. Chúng tôi mới sử dụng kháng sinh liều cao để chống vi khuẩn bội nhiễm.
+ Bệnh cảm lạnh:
Thường gặp khi thời tiết thay đổi, rét đột ngột, có 4 ca chiếm tỉ lệ 4% trong tổng số bệnh nội khoa. Tỉ lệ trị khỏi cao (75%), vẫn còn 1 gia súc bị chết do chủ gia súc mang con vật đi điều trị quá muộn, hoặc không hộ lí chăm sóc tốt.
+ Bệnh thiếu canxi:
Bệnh thường thấy ở chó cảnh, đặc biệt là chó fook đang cho con bú. Có 3 ca chiếm tỷ lệ 3% trong tổng số bệnh nội khoa, tỷ lệ điều trị khỏi cao khoảng 66,67 % nếu phát hiện sớm, điều trị kịp thời.
+ Ngoài ra trong quá trình điều trị chúng tôi còn gặp 2 ca có bị ngộ độc do liếm phải thuốc trị kí sinh trùng lên da, lông, do ăn bả…cả 2 con đều chết.
* Bệnh ngoại khoa: Có 30 khoa, chiếm tỉ lệ 15,38% trong tổng số bệnh chó.
+ Bệnh viêm da:
Chó viêm da có thể do dị ứng hoặc do kí sinh trùng. Việc điều trị bệnh viêm da đem lại hiệu quả hơn các năm trước là do chúng tôi chưa đưa ra phác đồ điều trị mới, kết hợ giữa thuốc uống, thuốc tiêm và khâu hộ lí chăm sóc tại nhà.
Cụ thể chúng tôi đã dùng:
Krepnizolon: cho uống ngày
Ivermectin: 2 - 3 mg/ kg
VitaminC: 3 - 5 ml/con/ngày
Liệu trình điều trị 5 ngày/1 lần, điều trị 2 - 3 ngày liên tục.
Việc điều trị bệnh viêm da thu được hiệu quả cao là do có sự hợp tác tích cực của chủ gia súc. Chủ gia súc phải vệ sinh sạch sẽ chỗ ở của chó, tắm cho chó theo cách tắm 2. Thì bằng nước lá chắt đặc(tốt nhất là dùng nước chè đặc ) tuyệt đối không dùng xà phòng. Tắm 2 thì có nghĩa là chủ gia súc dội nước lá chắt lên toàn thân chó trước khi tắm thật 10 - 15 phút. Mục đích để nước ngấm vào các vẩy khi tắm thật, khi tăm thật ta có thể dễ dàng làm bong tróc các vẩy ra. Rồi dội nước thật sạch toàn thân, cứ cách 1 ngày ta tắm cho chó 1 lần.
Kết quả đã có 10 chó khỏi, chiếm tỉ lệ 83,3% vẫn còn 2 chó chuyển sang thể mãn tính do chủ gia súc không làm tốt khâu vệ sinh và không điều trị đúng liệu trình.
+ Các bệnh viêm giác mạc, tai nạn, mổ u, thiến và triệt sản chó mắc ít, tỷ lệ chữa khỏi lại cao.
* Bệnh sản khoa:
Có 15 ca chiếm 7,7% trong đó có 6 ca viêm sinh dục chủ yếu là viêm tử cung. Chúng tôi tiến hành điều trị bằng kháng sinh liều cao, biện pháp cuối cùng là cắt bỏ toàn bộ tử cung. Chúng tôi đã điều trị khỏi 4 ca, chiếm 66,67%. Có 9 ca đẻ khó chủ yếu là chó fook chúng tôi đã mổ đẻ cứu mẹ và con thành công.
* Bệnh kí sinh trùng:
Chúng tôi đã phát hiện 13 ca có triệu chứng điển hình của bệnh giun đũa, sán dây, giun móc…như nôn mửa, ỉa ra giun sán. Chúng tôi đã điều trị bằng cách tẩy giun sán kết hợp với điều trị bằng kháng sinh, trự sức, trợ lực để làm hạn chế vi khuẩn kế phát gây viêm ruột ỉa chảy, do tổn thương thành ruột giun sán gây ra. Các phác đồ chúng tôi đã sử dụng để điều trị là:
* Với bệnh giun đũa:
Bệnh nên điều trị sớm, nhất là trên chó non.
- Sử dụng một trong những thuốc tẩy sau:
Piperazin: 100mg/kgP/lần uống lần 1 lúc chó 21 ngày tuổi, lặp lại 1 tháng và 6 tháng.
Mebendazol: 20mg/kgP/ngày: uống 1 lần/ngày trong 3 ngày (thuốc không dùng cho mèo).
- Cách phòng bệnh:
Vệ sinh chuồng trại, sân chơi cho chó thường xuyên.
Tiêu độc chuồng trại bằng hóa chất, lửa.
Chó cái 3 tuần trước khi đẻ và 2 ngày sau khi đẻ phải cho uống Mebendazol 25mg/kgP.
Cho chó uống thuốc tẩy giun lúc chó 2 tuần tuổi và sau đó cứ 2 tuần cho chó uống 1 lần cho đến khi chó được 2 tuần tuổi.
Khi chó được 3 - 4 tháng tuổi thì 3 tháng cho uống thuốc tẩy giun 1 lần.
* Bệnh ký sinh trùng.
+ Bệnh sán dây
- Tẩy sán:
Chó bị nhiễm sán do Diphyllobothrium mansoni
Dùng Niclosamide 100mg/kgP tẩy trong một buổi sáng, cho chó nhịn ăn 2 buổi sáng(buổi sáng thứ nhất: dùng 150mg/kgP, 8h30 cho uống 1/2 liều, 9h30 cho uống 1/2 liều, 12h cho ăn bình thường; buổi sáng thứ 2: dùng 50mg/kgP, 8h30 cho uống 1/2 liều, 9h30 cho uống 1/2 liều, 11h30 cho ăn bình thường).
- Điều trị viêm ruột:
Dùng kháng sinh: Có thể dùng một trong các loại: Ampi - Kân, Trimazol.
Tiêm Atropin sunfat để chống nên, giảm co thắt cơ trơn: 0,25mg/con.
Tiêm chậm vào tĩnh mạch dung dịch mặn ngọt đẳng trương để chống mất nước, mất điện giả.
- Cách phòng bệnh:
Vệ sinh chuồng trại, sân chơi thường xuyên.
Tiêu độc chuồng trại bằng hóa chất, nước nóng hoặc lửa.
Cho chó ăn thức ăn nấu chín, không cho ăn thịt sống để tránh ăn phải ấu trùng.
Thường xuyên tắm cho chó, nếu có nhiều bọ chét thì có thể dùng Dipterex 1% ( phải rọ mõm chó để tắm).
Cho chó đi vệ sinh đúng nơi quy định, phân có thể cho vào hố xí tự hoại hoặc ủ phân để diệt đốt sán, trứng sán.
Định kỳ 4 tháng kiểm tra phân chó một lần và tẩy sán dự phòng bằng thuốc Niclosamide.
* Một số bệnh khác:
Viêm tai, viêm lợi, u máu ở tai…chó mắc với tỷ lệ thấp, tỷ lệ điều trị khỏi cao.
3.2. Kết quả khám và điều trị bệnh ở mèo.
Kết quả khám và điều trị bệnh ở mèo được trình bày ở bảng 7.
* Bệnh truyền nhiễm: Có 1 ca mèo bị viêm gan truyền nhiễm; bệnh khó chữa, tỷ lệ chết cao.
Trong 1 ca mèo bị viêm gan truyền nhiễm chủ gia súc phát hiện muộn khi đến điều trị con vật đã có triệu chứng điển hình: da rất vàng, bụng sưng to và cứng (sờ nắn không còn tính đàn hồi), nước tiểu màu vàng đậm…Đây là bệnh rất nguy hiểm có thể lây từ người sang người.
* Bệnh nội khoa: là bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất, trong đó bao gồm các bệnh sau:
+ Bệnh đường tiêu hóa:
Mèo là loài động vật rất mẫn cảm với những thay đổi về thức ăn và thời tiết vì vậy khi có sự thay đổi vè thời tiết dễ làm cho mèo bị giảm sức đề kháng gây viêm ruột ỉa chảy. Khi hệ thống niêm mạc đường tiêu hóa bị tổn thương thì việc điều trị bệnh ở mèo thường kéo dài.
Bệnh đường tiêu hóa có 26 ca chiếm tỷ lệ 43,33% tổng số bệnh nội khoa, bao gồm cả ỉa chảy cấp và mãn tính. Tỷ lệ điều trị khỏi là 88,46%, còn 1 con chuyển sang thể mãn tính và 2 con bị chết.
Theo chúng tôi, để giảm số ca mèo bị mắc bệnh đường tiêu hóa thì chủ gia súc nên giữ ấm cho mèo và sử dụng thức ăn sẵn cho mèo ( đảm bảo chất lượng) cho mèo ăn thường xuyên.
Trong tổng số 104 ca đến điều trị chúng tôi thấy mèo thường mắc các bệnh sau:
+ Bệnh đường hô hấp:
Có 8 ca chiếm 13,33% trong tổng số bệnh nội khoa. Mèo mắc bệnh đường hô hấp ít hơn chó. Chúng tôi đã sử dụng phác đò điều trị như sau:
Penicillin G:200.000UI/ngày/mèo chia làm 2 lần và tiêm bắp.
Streptomycin: 15mg/kgP, tiêm bắp
Trường hợp do nấm sử dụng Ketrconazole cho uống, 10mg/kgP chia 2 lần.
Nếu do ký sinh trùng dùng thuốc tẩy:
Ivermectin 02mg/kgP; uống hoặc tiêm dưới da.
Và thu được kết quả chữa khỏi là 75,0% vẫn còn 2 con chuyển sang thể mãn tính do mèo đã già, chức năng của phổi kém hoặc chủ gia súc để mèo bị lạnh thường xuyên. Cách phòng bệnh viêm phổi cho mèo là:
Vào mùa lạnh phải giữ ấm cho mèo, dinh dưỡng tốt, cách ly chó ốm.
Tiêm vacxin Leucorfelin cho mèo 4 - 6 tuần tuổi.
+ Bệnh đường tiết niệu:
Có 10 ca chiếm tỷ lệ 16,67% trong tổng số bệnh nội khoa. Mèo mắc bệnh viêm tiết niệu nhiều hơn chó, tỷ lệ chữa khỏi rất thấp 10%. Còn 9 con bị viêm chết tỷ lệ 90,0%. Tỷ lệ chết rất cao do chúng tôi chưa làm được kháng sinh đồ để xác định vi khuẩn gây bệnh là vi khuẩn gì? (con vật bị bệnh ở bàng quang, bể thận, cầu thận…). Khi chủ gia súc mang mèo đến thấy con vật đã căng bàng quang rất to, bí đái hoàn toàn, hút nước ở bàng quang thấy có màu đỏ con vật có nhẹ nhàng hơn, đỡ đau đớn hơn nhưng sau một vài giờ con vật lại trở lại trạng thái căng cứng bàng quang. Vì mèo không chạy thận nhân tạo được như người lượng nước tiểu sinh ra liên tục bị ứ lại ở bàng quang sẽ thấm vào máu làm con vật bị trúng độc ủ huyết, con vật chết nhanh do không giải độc được.
Bảng 8. Kết quả điều trị bệnh cho mèo tại trại chó mèo cảnh Bảo Sinh (Số 167 Trương Định - Hoàng Mai - Hà Nội) và các hộ gia đình.
Tên bệnh
Số con điều trị
Khỏi
Không khỏi
Chết
Số con
Tỷ lệ (%)
Số con
Tỷ lệ (%)
Số con
Tỷ lệ ( (%)
Truyền nhiễm
- Viêm gan
1
1
0
0
0
0
0
0
0
0
1
1
100
100
Nội khoa
- Bệnh đường tiêu hóa
- Bệnh đường hô hấp
- Bệnh đường tiết niệu
- Thiếu Canxi
- Cảm lạnh
- Ngộ độc
60
26
8
10
3
10
3
41
23
6
1
3
8
0
68,33
88,46
75,0
10,0
100
80,0
0
4
1
2
0
0
1
0
6,67
3,84
25,0
0
0
10,0
0
15
2
0
9
0
1
3
25,0
7,69
0
90,0
0
10,0
100
Ngoại khoa
-Viêm giác mạc
- Thiến, triệt sản
- Tai nạn
29
4
20
5
28
4
20
4
96,55
100
100
80,0
1
0
0
1
3,45
0
0
20
0
0
0
0
0
0
0
0
Sản khoa
-Viêm đường sinh dục
- Đẻ khó
3
1
2
3
1
2
100
100
100
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
Bệnh ký sinh trùng
6
5
83,33
0
0
1
16,67
Bệnh khác
5
5
100
0
0
0
0
Tổng
104
82
78,85
5
4,81
17
16,35
+ Bệnh thiếu canxi:
Có 3 ca mèo bị thiếu canxi có biểu hiện là yếu chân, chúng tôi đã bổ sung canxi trực tiếp cho con vật và cả 3 con đều khỏe trở lại bình thường.
+ Bệnh cảm lạnh:
Có 10 ca chiếm 16,67% trong tổng số bệnh nội khoa. Nguyên nhân chủ yếu là do thời tiết thay đổi đột ngột hoặc mèo bị mưa ứơt, tắm trong những ngày thời tiết lạnh. Mèo bị cảm lạnh thân nhiệt giảm, bỏ ăn nằm lim dim, kêu yếu, có trường hợp mèo nằm liệt, nôn, ỉa chảy. Tỷ lệ điều trị khỏi là 80,0% do được phát hiện sớm điều trị kịp thời. Trong trường hợp thân nhiệt của mèo bị hạ quá thấp 35 - 36oC mèo bị trụy tim mạch, suy hô hấp khó điều trị, dễ tử vong. Vì thế có 1 mèo bị chết chiếm tỷ lệ 10,0%.
- Trong thời gian thực tập, chúng tôi gặp 3 ca mèo bị ngộ độc. Và cả 3 ca đều tử vong do chủ gia súc phát hiện muộn, mèo trong tình trạng hôn mê sâu.
* Bệnh ngoại khoa:
+ Bệnh viêm giác mạc mắt:
Có 4 ca đén điều trị với biểu hiện mắt mèo có rất nhiều dử, thậm chí mắt bị kéo màng. Chúng tôi đã sử dụng kháng sinh vừa tiêm, vừa nhỏ trực tiếp vào mắt mèo. Kết quả sau 3 - 5 ngày điều trị liên tục mèo khỏi 100%.
- Chúng tôi tiến hành thiến và triệt sản 20 ca, tỷ lệ thành công là 100%. Có được kết quả này là do bác sĩ rất có kinh nghiệm cộng với khâu vô trùng dụng cụ tốt, hậu phẫu bằng kháng sinh đầy đủ đối với mèo triệt sản.
- Có 5 mèo bị tai nạn chúng tôi dã sử lý thành công 4 ca chiếm tỷ lệ 80%. Còn 1 ca do chủ gia súc mang mèo đến muộn, chúng tôi không khắc phục được, con vật phải mang dị tật suốt đời.
* Bệnh sản khoa:
+ Đẻ khó:
Có 2 ca chiếm tỷ lệ 3,33%tổng số mèo đến điều trị, thường gặp mèo mang thai quá nhiều, thai quá to không qua được cổ tử cung hoặc sức rặn quá yếu dùng oxytoxin không có hiệu quả. Chúng tôi đã tiến hành mổ đẻ và tất cả đã thành công.
+ Bệnh viêm đường sinh dục: ở mèo có 1 ca ít hơn ở chó, tỷ lệ điều trị khỏi là 100% do bệnh nhẹ và phát hiên sớm.
* Bệnh ký sinh trùng:
Có 6 ca chiếm tỷ lệ 10% tổng số ca mèo điều trị bao gồm cả ký sinh trùng và đường tiêu hóa (giun đũa, sán dây…) và ký sinh trùng ngoài da (bọ chét, ghẻ…), tỷ lệ điều trị khỏi là 83,3%. Còn 1 số con bị chết do cơ thể quá gầy yếu.
* Một số bệnh khác ở mèo: Hóc xương, nấm da, lòi dom…chúng tôi gặp 5 ca tỷ lệ điều trị là 100%.
PHẦN V
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. KẾT LUẬN.
Sau quá trình thực hiện đề tài chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
1.1. Số lượng đàn chó mèo
Số lượng đàn chó mèo tăng dần qua các năm và tương đối cao so với các quận lân cận. Tỷ lệ về số lượng giữa đàn chó và đàn mèo khá ổn định qua các năm.
1.2. Công tác thú y của quận Hoàng Mai.
Do lực lượng thú y còn mỏng, công tác tổ chức thực hiện chưa hợp lý nên công tác phòng và chống dịch bệnh còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại như chưa theo dõi được hết các ca bệnh; việc giám sát và quản lý dịch bệnh thiếu triệt để. Tỷ lệ tiêm phòng từ 66,67% (2004) tăng lên 70,59% (2007).
Cần nâng cao nhận thứccho người chăn nuôi về kỹ thuật chăn nuôi cũng như công tác phòng, chống dịch bệnh trên đàn vật nuôi, đặc biệt là đàn chó mèo.
1.3. Tình hình dịch bệnh.
Chó, mèo ở quận Hoàng Mai có thể mắccác bệnh truyền nhiễm, nội khoa, ngoại khoa, ký sinh trùng…
Trên chó: Từ tháng 1/ 07 đến tháng 5/ 07 có 195 con mắc bệnh trong đó;
- Bệnh nội khoa: 100 con.
- Bệnh ngoại khoa: 30 con.
- Bệnh truyền nhiễm: 28 con.
- Bệnh sản khoa: 15 con.
- Bệnh ký sinh trùng và các bệnh khác:13 con.
Ở mèo: Số con mắc bệnh được điều trị là 104 con. Chủ yếu là:
- Bệnh nội khoa: 60 con
- Bệnh ngoại khoa: 29 con
- Bệnh sản khoa: 3 con.
- Bệnh ký sinh trùng: 6 con.
- Bệnh truyền nhiễm (viêm gan): 1 con.
- Bệnh khác: 5 con.
1.4. Công tác điều trị .
Trong quá trình thực tập chúng tôi thấy công tác điều trị đã có những kết quả nhất định. Đã có phác đồ điều trị phù hợp.
Tuy nhiên, để nâng cao tỷ lệ khỏi bệnh cần có sự kết hợp của những người chăn nuôi để phát hiện bệnh sớm và điều trị kịp thời
2. Đề nghị.
Các cấp chính quyền cần quan tâm và chỉ đạo sát sao hơn nữa trong công tác tuyên truyền vận động người dân có ý thức cao trong việc phòng chống bệnh dịch cho đàn gia súc, gia cầm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Hồ Đình Chúc, Phạm Sỹ Lăng, Phạm Anh Tuấn (1989). Kỹ thuật nuôi dạy và phòng bệnh cho chó cảnh và chó nghiệp vụ. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Đỗ Hiệp. (1994) Chó cảnh nuôi dạy vàchữa bệnh. Nhà xuất bản Hà Nội.
Vũ Văn Hoá. (1997) Chăm sóc và chữa bệnh cho chó. Nhà xuất bản Nông nhiệp.
Phan Địch Lân, Phạm Sỹ Lăng. Cách nuôi và phòng trị bệnh chó cảnh.
PTS.BS. Bùi Đức Lưu, PTS, BS. Nguyễn Hữu Vũ (1997). Thuốc thú y và cách sử dụng. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
Hoàng Văn Nam (dịch). Giáo trìng chăn nuôi và huấn luyện chó nghiệp vụ. Trường nuôi dạy chó nghiệp vụ Cộng hoà nhân dân Trung Hoa.
Hoàng Văn Nhâm (dịch). Giáo trình chăn nuôi và huấn luyện chó. Trường huấn luyện chó Cộng hoà dân chủ Đức.
Nguyễn Xuân Tịnh, Tiết Hồng Ngân, Nguyễn Bá Mùi, Lê Mộng Loan. (1996) Sinh lý gia súc. Nhà xuất bản Nông nghiệp, 1996.
Đặng Đình Tín, Nguyễn Hồng Nguyệt. (1986) Giáo trình sản khoa và bệnh sản khoa thú y. Trường Đại học Nông nghiệp I – Hà Nội.
Francis Cr Kein.(1993) German Sheppherds USD.
Vũ Triệu An (1987). Đại cương sinh lý bệnh.NXB Y học
Trần Văn Cận, Vương Đức Chất, Hoàng Thị Thắng, Ngô Huyền Thuý, Trần Kim Vạn, Phạm Đăng Vĩnh (2000). Sổ tay cán bộ thú y cơ sơ. NXB nông nghiệp.
Trần Minh Châu, Hồ Đình Chúc, Lê Thanh Hải, Phạm Sỹ Lăng, Đào Hữu Thanh, Dương Công Thuận (1988). Bệnh thường gặp ở chó và biện pháp phòng trị. NXB nông thôn.
Vương Đức Chất, Lê Thị Tài (2004) .Bệnh thường gặp ở chó, mèo và cách phòng trị. NXB nông nghiệp.
Đào Trọng Đạt (1990). Bệnh thường thấy ở chó và biện pháp phòng trị. NXB nông thôn.
Đỗ Hiệp (1994).Chó cảnh kỹ thuật nuôi dạy và chữa bệnh.NXB Hà Nội.
Phạm Khắc Hiếu, Lê Thị Ngọc Diệp (1997). Dược lý học thú y.NXB nông nghiệp.
Phạm Sỹ Lăng (2002). Bệnh sán dây của chó ở một số tỉnh phía BắcViệt Nam. Tạp trí KHKT thú y. Tập IX. Số 2.
Nguyễn Đức Lưu, Nguyễn Hữu Vũ (2003). Thuốc thú y và cach sử dụng. NXB nông nghiệp.
Hồ Văn Nam (1982) Chẩn đoán bệnh không lây.NXB nông nghiệp.
Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch (1997).Giáo trình bệnh nội khoa gia súc. NXB Hà Nội.
Hồ Thị Nga, Huỳnh Thị Bạch Yến (2002). Khảo sát một số hằng số sinh lý, sinh hoá máu chó nội trưởng thành. Tạp trí KHKT thú y. Tập IX.Số 2.
Lê Quý Oánh (1999). Nghiên cứu một số chỉ tiêu lâm sàng, phi lâm sàng của chỏ bị viêm ruột ỉa chảy.Báo cáo TNTY khoá 39 - Trường ĐHNN I - HN.
Nguyễn Vĩnh Phước (1974). VSV thú y, tập 1, tập 2.NXBKHKT Hà Nội.
Nguyễn Phước Trung. Nuôi dưỡng - chăm sóc và phòng trị bệnh chó mèo. NXB nông nghiệp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 272i7873u tra tnh hnh ch259n nui v d7883ch b7879nh camp791.doc