Đề tài Điều tra thực trạng và đề xuất một số biện pháp quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, Hà Nội

Tài liệu Đề tài Điều tra thực trạng và đề xuất một số biện pháp quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, Hà Nội: PHẦN I MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Nền kinh tế Việt Nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra hết sức khẩn trương, bộ mặt xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cho đến nay, nó không chỉ phát triển ở các thành phố, khu đô thị lớn của nước ta mà đang mở rộng ra các huyện lân cận. Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống của người dân được cải thiện đáng kể. Mức sống của người dân càng cao thì nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm xã hội càng cao, điều này đồng nghĩa với việc gia tăng lượng rác thải sinh hoạt. Rác thải sinh hoạt phát sinh trong quá trình ăn, ở, tiêu dùng của con người, được thải vào môi trường ngày càng nhiều, vượt quá khả năng tự làm sạch của môi trường dẫn đến môi trường bị ô nhiễm. Thanh Oai là một huyện nằm liền kề với quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Huyện có đường giao thông thuận lợi, lại tiếp giáp với thủ đô nên các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp ngày càng được mở rộng thu hút một lượng lớn lao...

doc78 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1190 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Điều tra thực trạng và đề xuất một số biện pháp quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I MỞ ĐẦU 1.1 Tính cấp thiết của đề tài Nền kinh tế Việt Nam đang có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra hết sức khẩn trương, bộ mặt xã hội đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cho đến nay, nó không chỉ phát triển ở các thành phố, khu đô thị lớn của nước ta mà đang mở rộng ra các huyện lân cận. Cùng với sự phát triển kinh tế, đời sống của người dân được cải thiện đáng kể. Mức sống của người dân càng cao thì nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm xã hội càng cao, điều này đồng nghĩa với việc gia tăng lượng rác thải sinh hoạt. Rác thải sinh hoạt phát sinh trong quá trình ăn, ở, tiêu dùng của con người, được thải vào môi trường ngày càng nhiều, vượt quá khả năng tự làm sạch của môi trường dẫn đến môi trường bị ô nhiễm. Thanh Oai là một huyện nằm liền kề với quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Huyện có đường giao thông thuận lợi, lại tiếp giáp với thủ đô nên các cơ sở sản xuất, các khu công nghiệp ngày càng được mở rộng thu hút một lượng lớn lao động ở các tỉnh, huyện khác. Dân số trong huyện tăng lên nhu cầu tiêu dùng của người dân cũng tăng theo. Các chợ, quán xá, các dịch vụ phục vụ người dân cũng ngày càng phong phú và đa dạng. dẫn đến lượng rác thải tăng lên rất nhiều. Tuy nhiên, điều đáng quan tâm ở đây là chưa có một giải pháp cụ thể nào về việc xử lý các nguồn rác thải phát sinh này. Nếu có thì cũng chỉ là rác thải được thu gom tập trung ở một bãi rác lộ thiên, không tiến hành xử lý, chôn lấp, làm mất vệ sinh công cộng, mất mỹ quan môi trường, gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí. Đặc biệt, những bãi rác này còn là nguy cơ gây bệnh dịch, nguy hại đến sức khoẻ con người. Xuất phát từ thực trang trên, nhằm tìm ra biện pháp quản lý, xử lý phù hợp góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường do rác thải sinh hoạt, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Điều tra thực trạng và đề xuất một số biện pháp quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, Hà Nội”. 1.2 Mục đích nghiên cứu. + Điều tra số lượng, thành phần của rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn. + Điều tra công tác quản lý, vận chuyển, thu gom, công tác tuyên truyền vệ sinh môi trường và nhận thức của người dân về rác thải sinh hoạt. + Đề xuất một số biện pháp quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt nhằm góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường. 1.3. Yêu cầu. + Xác định được khối lượng và thành phần rác thải sinh hoạt hộ gia đình, lượng rác thải bình quân trên đầu người ( kg/người/ngày ) trên địa bàn thị trấn. + Thống kê lượng rác thải sinh hoạt trung bình theo ngày (tấn/ ngày ) ở từng tổ dân cư trên địa bàn thị trấn. + Đề xuất được các biện pháp quản lý, xử lý rác thải để đạt được hiệu quả tốt nhất. PHẦN II TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 2.1 Một số khái niệm 2.1.1 Khái niệm rác thải Rác thải là bất kì loại vật liệu nào ở dạng rắn mà con người loại bỏ mà không được tiếp tục sử dụng như ban đầu [3]. Rác thải là các loại rác thải không ở dạng lỏng, không hòa tan được thải ra từ các hoạt động sinh hoạt, công nghiệp. Rác thải còn bao gồm cả bùn cặn, phế phẩm nông nghiệp, xây dựng, khai thác mỏ…[5]. Rác thải là những vật chất ở dạng rắn do các hoạt động của con người và động vật tạo ra. Những “sản phẩm” này thường ít được sử dụng hoặc ít có ít, do đó nó là “sản phẩm” ngoài ý muốn của con người. Rác thải có thể ở dạng thành phẩm, được tạo ra trong hầu hết các giai đoạn sản xuất và trong tiêu dùng [4]. 2.1.2 Rác thải sinh hoạt Rác thải sinh hoạt là những chất thải có liên quan đến các hoạt động của con người, nguồn tạo thành chủ yếu từ các khu dân cư, các cơ quan, trường học, các trung tâm dịch vụ, thương mại. Rác thải sinh hoạt có thành phần bao gồm kim loại, sành sứ, thủy tinh, gạch ngói vỡ, đất, đá, cao su, chất dẻo, thực phẩm dư thừa hoặc quá hạn sử dụng, xương động vật, tre, gỗ, lông gà lông vịt, vải, giấy, rơm, rạ, xác động vật, vỏ rau quả v.v…[1]. 2.1.3 Quản lý chất thải Quản lý chất thải là hoạt động phân loại, thu gom, vận chuyển, giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế, xử lý, tiêu hủy, thải loại chất thải [6]. 2.1.4 Quản lý môi trường Quản lý môi trường là sự tác động liên tục, có tổ chức, có phương hướng và mục đích xác định của chủ thể ( con người, địa phương, quốc gia, tổ chức quốc tế v.v… ) đối với một đối tượng nhất định ( môi trường sống ) nhằm khôi phục, duy trì và cải thiện tốt hơn môi trường sống của con người trong khoảng thời gian dự định [1]. 2.2 Nguồn gốc, phân loại, thành phần rác thải 2.2.1 Nguồn gốc Khối lượng rác thải sinh hoạt ngày càng tăng do tác động của sự gia tăng dân số, sự phát triển kinh tế - xã hội, sự thay đổi tính chất tiêu dùng trong các đô thị và các vùng nông thôn. Trong đó các nguồn chủ yếu phát sinh chất thải bao gồm: Từ các khu dân cư (chất thải sinh hoạt). Từ các trung tâm thương mại, các công sở, trường học, công trình công cộng. Từ các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, các hoạt động xây dựng. Từ các làng nghề ..v..v…[1]. Hình 2.1 Sơ đồ nguồn phát sinh chất thải Chính quyền địa phương Rác thải Nơi vui chơi, giải trí Bệnh viện, cơ sở y tế Khu công nghiệp, nhà máy, xí nghiệp Nhà dân, khu dân cư. Chợ, bến xe, nhà ga Giao thông, xây dựng Cơ quan trường học (Nguồn: Huỳnh Tuyết Hằng, TP Huế, 08/2005) 2.2.2 Phân loại rác thải Rác thải được thải ra từ các hoạt động khác nhau được phân loại theo các cách sau: - Theo vị trí hình thành: người ta phân biệt ra rác thải trong nhà, rác thải ngoài nhà, rác thải trên đường, chợ….. - Theo thành phần hóa học và đặc tính vật lý: người ta phân biệt theo các thành phần vô cơ, hữu cơ, cháy được, không cháy được, kim loại, da, giẻ vụn, cao su, chất dẻo… - Theo mức độ nguy hại: + Rác thải nguy hại: bao gồm các loại hóa chất dễ gây phản ứng, độc hại, rác thải sịnh hoạt dễ thối rữa, các chất dễ cháy, nổ hoặc các rác thải phóng xạ, các rác thải nhiễm khuẩn, lây lan… có thể gây nguy hại tới con người, động vật và gây nguy hại tới môi trường. Nguồn phát sinh ra rác thải nguy hại chủ yếu từ các hoạt động y tế, công nghiệp và nông nghiệp. + Rác thải không nguy hại: là những loại rác thải không có chứa các chất và hợp chất có một trong các đặc tính nguy hại trực tiếp hoặc tương tác thành phần. 2.2.3 Thành phần của rác thải Thành phần của rác thải rất khác nhau tùy thuộc từng địa phương, tính chất tiêu dùng, các điều kiện kinh tế và nhiều yếu tố khác. Thông thường thành phần của rác thải bao gồm các hợp phần sau: Chất thải thực phẩm, giấy, catton, vải vụn, sản phẩm vườn, gỗ, thủy tinh, nhựa, bụi tro, cát đá, gạch vụn… Bảng 2.1 Thành phần rác thải sinh hoạt ở một số vùng năm 2000 (tính theo % trọng lượng) Thành phần Hà Nội Việt Trì Thái Nguyên Đà Nẵng Hạ Long Chất hữu cơ 53,00 55,0 55,0 45,47 49,20 Cao su, nhựa 9,15 4,52 3,0 13,10 3,23 Giấy, catton, giẻ vụn 1,48 7,52 3,0 6,36 4,6 Kim loại 3,40 0,22 3,0 2,30 0,4 Thủy tinh, gốm, sứ 2,70 0,63 0,7 1,85 3,7 Đất, đá,cát, gạch vụn 30,27 32,13 35,3 - 38,87 Độ trơ 15,9 13,17 17,15 10,9 11,0 Độ ẩm 47,7 45,0 44,23 49,0 46,0 Tỷ trọng (tấn/m3) 0,42 0,43 0,45 0,50 0,50 (Nguồn: Báo cáo kết quả khảo sát của CEETIA, 2001) 2.4 Tác hại của rác thải 2.4.1 Tác hại của rác thải sinh hoạt đến môi trường - Môi trường đất + Rác thải sinh hoạt nằm rải rác khắp nơi không được thu gom đều được lưu giữ lại trong đất, một số loại chất thải khó phân hủy như túi nilon, vỏ lon, hydrocacbon… nằm lại trong đất làm ảnh hưởng tới môi trường đất: thay đổi cơ cấu đât, đất trở nên khô cằn, các vi sinh vật trong đất có thể bị chết. + Nhiều loại chất thải như xỉ than, vôi vữa… đổ xuống đất làm cho đất bị đóng cứng, khả năng thấm nước, hút nước kém, đất bị thoái hóa. - Môi trường nước + Lượng rác thải rơi vãi nhiều, ứ đọng lâu ngày, khi gặp mưa rác rơi vãi sẽ theo dòng nước chảy, các chất độc hòa tan trong nước, qua cống rãnh, ra ao hồ, sông ngòi, gây ô nhiễm nguồn nước mặt tiếp nhận. + Rác thải không thu gom hết ứ đọng trong các ao, hồ là nguyên nhân gây mất vệ sinh và ô nhiễm các thủy vực. Khi các thủy vực bị ô nhiễm hoặc chứa nhiều rác thì có nguy cơ ảnh hưởng đến các loài thủy sinh vật, do hàm lượng oxy hòa tan trong nước giảm, khả năng nhận ánh sáng của các tầng nước cũng giảm, dẫn đến ảnh hưởng tới khả năng quang hợp của thực vật thủy sinh và làm giảm sinh khối của các thủy vực. + Ở các bãi chôn lấp rác chất ô nhiễm trong nước rác là tác nhân gây ô nhiễm nguồn nước ngầm trong khu vực và các nguồn nước ao hồ, sông suối lân cận. Tại các bãi rác, nếu không tạo được lớp phủ bảo đảm hạn chế tối đa nước mưa thấm qua thì cũng có thể gây ô nhiễm nguồn nước mặt. - Môi trường không khí + Tại các trạm/ bãi trung chuyển rác xen kẽ khu vực dân cư là nguồn gây ô nhiễm môi trường không khí do mùi hôi từ rác, bụi cuốn lên khi xúc rác, bụi khói, tiếng ồn và các khí thải độc hại từ các xe thu gom, vận chuyển rác. + Tại các bãi chôn lấp chất thải rắn vấn đề ảnh hưởng đến môi trường khí là mùi hôi thối, mùi khí metan, các khí độc hại từ các chất thải nguy hại. 2.4.2 Tác hại của rác thải sinh hoạt đối với sức khỏe con người - Tác hại của rác thải lên sức khỏe con người thông qua ảnh hưởng của chúng lên các thành phần môi trường. Môi trường bị ô nhiễm tất yếu sẽ tác động đến sức khỏe con người thông qua chuỗi thức ăn. - Tại các bãi rác, nếu không áp dụng các kỹ thuật chôn lấp và xử lý thích hợp, cứ đổ dồn rồi san ủi, chôn lấp thông thường, không có lớp lót, lớp phủ thì bãi rác trở thành nơi phát sinh ruồi, muỗi, là mầm mống lan truyền dịch bệnh, chưa kể đến chất thải độc hại tại các bãi rác co nguy cơ gây các bệnh hiểm nghèo đối với cơ thể người khi tiếp xúc, đe dọa đến sức khỏe cộng đồng xung quanh. - Rác thải còn tồn đọng ở các khu vực, ở các bãi rác không hợp vệ sinh là nguyên nhân dẫn đến phát sinh các ổ dịch bệnh, là nguy cơ đe dọa đến sức khỏe con người. Theo nghiên cứu của tổ chức y tế thế giới (WHO), tỷ lệ người mắc bệnh ung thư ở các khu vực gần bãi chôn lấp rác thải chiếm tới 15,25 % dân số. Ngoài ra, tỷ lệ mắc bệnh ngoại khoa, bệnh viêm nhiễm ở phụ nữ do nguồn nước ô nhiễm chiếm tới 25 % [7]. 2.4.3 Rác thải sinh hoạt làm giảm mỹ quan đô thị - Rác thải sinh hoạt nếu không được thu gom, vận chuyển đến nơi xử lý, thu gom không hết, vận chuyển rơi vãi dọc đường, tồn tại các bãi rác nhỏ lộ thiên… đều là những hình ảnh gây mất vệ sinh môi trường và làm ảnh hưởng đến vẻ mỹ quan đường phố, thôn xóm. - Một nguyên nhân nữa làm giảm mỹ quan đô thị là do ý thức của người dân chưa cao. Tình trạng người dân đổ rác bừa bãi ra long lề đường và mương rãnh vẫn còn rất phổ biến, đặc biệt là ở khu vực nông thôn nơi mà công tác quản lý và thu gom vẫn chưa được tiến hành chặt chẽ. 2.5 Các phương pháp xử lý rác thải sinh hoạt 2.5.1 Khái niệm về xử lý rác thải Xử lý rác thải là dùng các biện pháp kỹ thuật để xử lý các chất thải nhằm làm giảm ảnh hưởng tới môi trường, tái tạo lại các sản phẩm có lợi cho xã hội nhằm phát huy hiệu quả kinh tế, xử lý rác thải là một công tác quyết định đến chất lượng bảo vệ môi trường. Hiện nay, ô nhiễm môi trường và suy thoái môi trường là nỗi lo của nhân loại: môi trường đất, nước, không khí ngày càng ô nhiễm nặng nề, nhất là những thành phố lớn tập trung dân cư đông đúc, tài nguyên môi trường cạn kiệt [8]. 2.5.2 Các phương pháp xử lý rác thải sinh hoạt chủ yếu 2.5.2.1 Phương pháp chôn lấp Phương pháp truyền thống đơn giản nhất là chôn lấp rác. Phương pháp này có chi phí thấp và được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển. Việc chôn lấp được thực hiện bằng cách dùng xe chuyên dụng chở rác tới các bãi đã xây dựng trước. Sau khi rác được đổ xuống, xe ủi san bằng, đầm nén trên bề mặt và đổ lên một lớp đất, hàng ngày phun thuốc diệt ruồi muỗi, rắc vôi bột… theo thời gian, sự phân hủy của vi sinh vật làm cho rác trở nên tơi xốp và thể tích của bãi rác giảm xuống. Việc đổ rác lại được tiếp tục cho đến khi bãi rác đầy thì chuyển sang bãi rác mới. Hiện nay việc chôn lấp rác thải sinh hoạt được sử dụng chủ yếu ở các nước đang phát triển nhưng phải tuân thủ các quy định về bảo vệ môi trường một cách nghiêm ngặt. Việc chôn lấp rác có xu hướng giảm dần, tiến tới chấm dứt ở các nước đang phát triển. Các bãi chôn lấp rác phải cách xa khu dân cư, không gần nguồn nước ngầm và nguồn nước mặt. Đáy của bãi rác nằm trên tầng đất sét hoặc được phủ các lớp chống thấm bằng màn địa chất. Ở các bãi chôn lấp rác cần phải thiết kế khu thu gom và xử lý nước rác trước khi thải vào môi trường. Việc thu khí ga để biến đổi thành năng lượng là một cách để tận dụng từ rác thải rất hữu ích [8]. - Ưu điểm của phương pháp: + Công nghệ đơn giản, rẻ tiền và phù hợp với nhiều loại rác thải. + Chi phí vận hành bãi rác thấp. - Nhược điểm của phương pháp: + Chiếm diện tích đất tương đối lớn. + Không được sự đồng tình của người dân khu vực xung quanh. + Nguy cơ gây ô nhiễm môi trường (đất, nước, không khí) cao. + Tìm kiếm xây dựng bãi rác mới là việc làm khó khăn. 2.5.2.2 Phương pháp đốt rác Xử lý rác bằng phương pháp đốt là giảm tới mức tối thiểu chất thải cho khâu xử lý cuối cùng. Nhờ thiêu đốt dung tích chất thải rắn được giảm nhiều chỉ còn khoảng 10 % so với dung tích ban đầu, trọng lượng giảm chỉ còn 25% hoặc thấp hơn so với ban đầu. Như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu gom và giảm nhu cầu về dung tích chứa tại chỗ, ngay tại nguồn, đồng thời cũng dễ dàng chuyên chở ra bãi chôn lấp tập trung nếu cần. Tuy nhiên phương pháp đốt rác sẽ gây ô nhiễm không khí cho khu vực dân cư xung quanh, đồng thời làm mất mỹ quan đô thị, vì vậy phương pháp này chii dùng tại các địa phương nhỏ, có mật độ dân số thấp [1]. Phương pháp này chi phí cao, so với phương pháp chôn lấp rác, chi phí để đốt một tấn rác cao hơn gấp 10 lần. Công nghệ đốt rác thường sử dụng ở các quốc gia phát triển vì phải có một nền kinh tế đủ mạnh để bao cấp cho việc thu đốt rác sinh hoạt như là một dịch vụ phúc lợi xã hội toàn dân. Tuy nhiên việc đốt rác sinh hoạt bao gồm nhiều chất thải khác nhau sinh khói độc và dễ sinh khí dioxin nếu không giải quyết tốt việc xử lý khói. Năng lượng phát sinh khi đốt rác có thể tận dụng cho các lò hơi, lò sưởi hoặc cho ngành công nghệ nhiệt và phát điện. Mỗi lò đốt phải được trang bị một hệ thống xử lý khí thải tốn kém nhằm khống chế ô nhiễm không khí do quá trình đốt gây ra. Hiện nay tại các nước Châu Âu có xu hướng giảm đốt rác thải vì hàng loạt các vấn đề kinh tế cũng như môi trường cần phải giải quyết. Việc thu đốt rác thải thường chỉ áp dụng cho việc xử lý rác thải độc hại, rác thải bệnh viện hoặc rác thải công nghiệp và các phương pháp khác không xử lý triệt để được [8]. 2.5.2.3 Phương pháp ủ sinh học Ủ sinh học (compost) là quá trình ổn định sinh hóa các chất hữu cơ để hình thành các chất mùn, với thao tác sản xuất và kiểm soát một cách khoa học tạo môi trường tối ưu đối với quá trình. Quá trình ủ hữu cơ từ rác hữu cơ (sản xuất phân bón hữu cơ) là một phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến ở các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam. Quá trình ủ được coi như quá trình lên men yếm khí mùn hoặc hoạt chất mùn. Sản phẩm thu hồi là hợp chất mùn không mùi, không chứa vi sinh vật gây bệnh và hạt cỏ. Để đạt mức độ ổn định như lên men, việc ủ đòi hỏi năng lượng để tăng cao nhiệt độ của đống ủ. Trong quá trình ủ oxy sẽ được hấp thụ hàng trăm lần và hơn nữa so với bể aeroten. Quá trình ủ áp dụng với chất hữu cơ không độc hại, lúc đầu là khử nước, sau là xử lý cho đến khi nó thành xốp và ẩm. Độ ẩm và nhiệt độ được kiểm tra thường xuyên và giữ cho vật liệu ủ luôn ở trạng thái hiếu khí trong suốt thời gian ủ. Quá trình tự tạo ra nhiệt riêng nhờ quá trình oxy hóa các chất thối rữa. Sản phẩm cuối cùng là CO2, nước và các hợp chất hữu cơ bền vững như: lignin, xenlulo, sợi…[1]. Công nghệ ủ có thể là ủ đống tĩnh thoáng khí cưỡng bức, ủ luống có đảo định kỳ hoặc vừa thổi vừa đảo. Xử lý rác làm phân hữu cơ là biện pháp rất có hiệu quả, sản phẩm phân hủy có thể kết hợp tốt với phân người và phân gia súc cho ta chất hữu cơ có hàm lượng dinh dưỡng cao, tạo độ tơi xốp, rất tốt cho việc cải tạo đất 2.5.2.4 Phương pháp xử lý rác bằng công nghệ ép kiện Phương pháp ép kiện được thực hiện trên cơ sở toàn bộ rác thải tập trung thu gom vào nhà máy. Rác được phân loại bằng phương pháp thủ công trên băng tải, các chất trơ và các chất có thể tận dụng được như: kim loại, nilon, giấy, thủy tinh, nhựa… được thu hồi để tái chế. Những chất còn lại sẽ được băng tải chuyền qua hệ thống ép nén rác bằng thủy lực với mục đích làm giảm tối đa thể tích khối rác và tạo thành cac kiện với tỷ số nén rất cao. Các kiện rác đã nén ép này được sử dụng vào việc đắp các bờ chắn hoặc san lấp các vùng đất trũng sau khi được phủ lên các lớp đất cát. Trên diện tích này có thể sử dụng làm mặt bằng các công trình như: công viên, vườn hoa, các công trình xây dựng nhỏ và mục đích chính là làm giảm tối đa mặt bằng khu vực xử lý rác. Hình 2.2 Sơ đồ công nghệ xử lý rác bằng phương pháp ép kiện Rác thải Phễu nạp rác Băng tải rác Phân loại Máy ép rác Băng tải thải vật liệu Các khối kiện sau khi ép Kim loại Thủy tinh Giấy Nhựa (Nguồn: Trần Hiếu Nhuệ, Quản lý chất thải rắn đô thị, 2001) 2.5.2.5 Phương pháp xử lý rác bằng công nghệ Hydromex Đây là một công nghệ mới lần đầu tiên được áp dụng ở Mỹ (2/1996). Công nghệ Hydromex nhằm xử lý rác đô thị (kể cả rác độc hại) thành các sản phẩm phục vụ ngành xây dựng, vật liệu, năng lượng và sản phẩm dùng trong nông nghiệp hữu ích. Bản chất của công nghệ Hydromex là nghiền nhỏ rác sau đó polime hóa và sử dụng áp lực lớn để nén, định hình các sản phẩm. Rác thải được thu gom (rác hỗn hợp, kể cả rác cồng kềnh) được chuyển về nhà máy, không cần phân loại và đưa vào máy cắt nghiền nhỏ, sau đó đưa đến các thiết bị trộn bằng băng tải. Chất thải lỏng pha trộn trong bồn phản ứng, các phản ứng trung hòa và khử độc thực hiện trong bồn. Sau đó chất thải lỏng từ bồn phản ứng được bơm vào các thiết bị trộn: chất lỏng và rác thải kết dính với nhau sau khi cho thêm thành phần polime hóa vào. Sản phẩm ở dạng bột ướt được chuyển đến máy ép cho ra sản phẩm mới. Các sản phẩm này bền, an toàn với môi trường [8]. Hình 2.3 Sơ đồ xử lý rác theo công nghệ Hydromex CTR chưa phân loại Kiểm tra bằng mắt Cắt, xé,nghiền tơi nhỏ Làm ẩm Trộn đều Ép hay đùn ra Sản phẩm mới Chất thải lỏng hỗn hợp Thành phần polyme hóa (Nguồn: www.scribd.com/doc/6899000/4PP-xl-rac-thai-ran) 2.5.2.6 Xử lý rác bằng công nghệ Seraphin Ban đầu rác thải được đưa tới nhà máy và đổ xuống nhà tập kết nơi có hệ thống phun vi sinh khử mùi cũng như ozone diệt vi sinh vật độc hại. Tiếp đến, băng tải sẽ chuyển rác tới máy xé bông để phá vỡ mọi loại bao gói. Rác tiếp tục đi qua hệ thống tuyển từ (hút sắt thép và các kim loại khác) rồi lọt xuống sàng lồng. Sàng lồng có nhiệm vụ tách chất thải mềm, dễ phân huỷ, chuyển rác vô cơ (kể cả bao nhựa) tới máy vò và rác hữu cơ tới máy cắt. Trong quá trình vận chuyển này, một chủng vi sinh ASC đặc biệt, được phun vào rác hữu cơ nhằm khử mùi hôi, làm chúng phân huỷ nhanh và diệt một số tác nhân độc hại. Sau đó, rác hữu cơ được đưa vào buồng ủ trong thời gian 7-10 ngày. Buồng ủ có chứa một chủng vi sinh khác làm rác phân huỷ nhanh cũng như tiếp tục khử vi khuẩn. Rác biến thành phân khi được đưa ra khỏi nhà ủ, tới hệ thống nghiền và sàng. Phân trên sàng được bổ sung một chủng vi sinh đặc biệt nhằm cải tạo đất và bón cho nhiều loại cây trồng, thay thế trên 50% phân hoá học. Phân dưới sàng tiếp tục được đưa vào nhà ủ trong thời gian 7-10 ngày. Do lượng rác vô cơ khá lớn nên các nhà khoa học tục phát triển hệ thống xử lý phế thải trơ và dẻo, tạo ra một dây chuyền xử lý rác khép kín. Phế thải trơ và dẻo đi qua hệ thống sấy khô và tách lọc bụi tro gạch. Sản phẩm thu được ở giai đoạn này là phế thải dẻo sạch. Chúng tiếp tục đi qua tổ hợp băm cắt, phối trộn, sơ chế, gia nhiệt bảo tồn rồi qua hệ thống thiết bị định hình áp lực cao. Thành phẩm cuối cùng là ống cống panel, cọc gia cố nền móng, ván sàn, cốp pha... Cứ 1 tấn rác đưa vào nhà máy, thành phẩm sẽ là 300-350 kg seraphin (chất thải vô cơ không huỷ được) và 250-300kg phân vi sinh. Loại phân này hiện đã được bán trên thị trường với giá 500 đồng/ kg. Như vậy, qua các công đoạn tách lọc - tái chế, công nghệ seraphin làm cho rác thải sinh hoạt được chế biến gần 100% trở thành phân bón hữu cơ vi sinh, vật liệu xây dựng, vật liệu sản xuất đồ dân dụng, vật liệu cho công nghiệp. Các sản phẩm này đã được cơ quan chức năng, trong đó có Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường chất lượng kiểm định và đánh giá là hoàn toàn đảm bảo về mặt vệ sinh và thân thiện môi trường. Với công nghệ seraphin, Việt Nam có thể xoá bỏ khoảng 52 bãi rác lớn, thu hồi đất bãi rác để sử dụng cho các mục đích xã hội tốt đẹp hơn [9]. 2.6 Tình hình quản lý, xử lý rác thải trên thế giới và Việt Nam 2.6.1 Tình hình quản lý, xử lý rác thải trên thế giới 2.6.1.1 Phát sinh rác thải trên thế giới Nhìn chung, lượng rác thải sinh hoạt ở mỗi nước trên thế giới là khác nhau, phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế, dân số và thói quen tiêu dùng của người dân nước đó. Tỷ lệ phát sinh rác thải tăng theo tỷ lệ thuận với mức tăng GDP tính theo đầu người. Tỷ lệ phát sinh rác thải theo đầu người ở một số thành phố trên thế giới như sau: Băng Cốc (Thái Lan) là 1,6kg/người/ngày; Singapo là 2kg/người/ngày; Hồng Kông là 2,2kg/người/ngày; NewYork (Mỹ) là 2,65kg/người/ngày [5]. Tỷ lệ chất thải sinh hoạt trong dòng chất thải rắn đô thị rất khác nhau giữa các nước. Theo ước tính, tỷ lệ này chiếm tới 60-70% ở Trung Quốc (Gao et al.2002); chiếm 78% ở Hồng Kông; 48% ở Philipin và 37% ở Nhật Bản, chiếm 80% ở nước ta. Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, các nước có thu nhấp cao chỉ có khoảng 25-35% chất thải sinh hoạt trong toàn bộ dòng chất thải rắn đô thị [11]. + Các số liệu thống kê gần đây về tổng lượng chất thải ở Anh cho thấy hàng năm Liên hiệp Anh tạo ra 307 triệu tấn chất thải, trong đó ước tính 46,6 triệu tấn chất thải sinh học và chất thải dạng tương tự phát sinh ở Anh, 60% số này được chôn lấp, 34% được tái chế và 6% được thiêu đốt. Chỉ tính riêng rác thải thực phẩm, theo dự án khảo sát được thực hiện từ tháng 10/2006-3/2008, chất thải thực phẩm được thải ra từ hộ gia đình nhiều hơn tới hàng tấn so với chất thải bao bì, chiếm 19% chất thải đô thị. Tổng số hàng năm các hộ gia đình ở Anh phát sinh 6,7 triệu tấn chất thải thực phẩm, chỉ riêng ở England là 5,5 triệu tấn, trong đó 4,1 triệu tấn là thực phẩm vẫn có thể sử dụng được. Trung bình mỗi hộ gia đình thải ra 276 kg chất thải thực phẩm/năm hay 5,3 kg/tuần, trong đó 3,2 kg vẫn có thể sử dụng được [15]. + Theo số liệu thống kê mới đây của Bộ Môi trường Nhật Bản, hằng năm nước này có khoảng 450 triệu tấn rác thải, trong đó phần lớn là rác công nghiệp (397 triệu tấn). Trong tổng số rác thải trên, chỉ có khoảng 5% rác thải phải đưa tới bãi chôn lấp, trên 36% được đưa đến các nhà máy để tái chế. Số còn lại được xử lý bằng cách đốt hoặc chôn tại các nhà máy xử lý rác. Với rác thải sinh hoạt của các gia đình, khoảng 70% được tái chế thành phân bón hữu cơ, góp phần giảm bớt nhu cầu sản xuất và nhập khẩu phân bón [12]. + Mỗi ngày Singapore thải ra khoảng 16.000 tấn rác. Rác ở Singapore được phân loại tại nguồn (nghĩa là nhà dân, nhà máy, xí nghiệp...). Nhờ vậy 56% số rác thải ra mỗi ngày (khoảng 9.000 tấn) quay lại các nhà máy để tái chế. Khoảng 41% (7.000 tấn) được đưa vào bốn nhà máy thiêu rác để đốt thành tro. Cuối cùng, mỗi ngày chừng 1.500 tấn tro rác cùng với 500 tấn rác không thể đốt được sẽ lên sà lan trực chỉ Semakau Landfill. Như vậy về khối lượng, từ 16.000 tấn rác mỗi ngày, sau khi đốt rác Singapore chỉ cần bãi đổ rác cho hơn 10% lượng rác đó, xấp xỉ 2.000 tấn. Trong khi đó, mỗi ngày TP.HCM thải ra khoảng 8.000 tấn rác (chỉ bằng 1/2 Singapore) nhưng lại phải tìm chỗ chôn lấp cho ngần ấy số rác (gấp bốn lần Singapore).Chưa hết, nhiệt năng sinh ra trong khi đốt rác được dùng để chạy máy phát điện đủ cung cấp 3% tổng nhu cầu điện của Singapore [13]. + Ở Nga, mỗi người bình quân thải ra môi trường 300kg/người/năm rác thải. Tương đương một năm nước này thải ra môi trường khoảng 50 triệu tấn rác, riêng thủ đô Matxcova là 5 triệu tấn/năm [4]. Theo Ngân hàng Thế giới, các đô thị của Châu Á mỗi ngày phát sinh khoảng 760.000 tấn chất thải rắn đô thị. Đến năm 2025, dự tính con số này sẽ tăng tới 1,8 triệu tấn/ngày. Bảng 2.1: Phát sinh chất thải rắn đô thị và sinh hoạt ở một số nước Châu Á Quốc gia Năm Dân số (triệu người) GDP/người Lượng phát sinh CTRĐT (kilôtấn/năm) Tỷ lệ phát sinh MSW/người/ngày Lượng RTSH (nghìn tấn/năm) Tỷ lệ phát sinh RTSH (kg/người/ngày) Trung Quốc 2000 1267,4 856 130320 1,701 781933 1,023 Hồng Kông 2003 6,8 23800 34404 1,39 27004 1,09 Ấn Độ 2002 1052,0 471 - 0,2-0,55 - - Indonesia 1995 194,8 1038 - 0,766 - - Hàn Quốc 2002 47,6 10013 181897 1,05 - - Malaysia 2002 24,5 3868 - 0,88-1,448 - - Philipin 2002 76,5 978 106709 0,5-0,79 - - Đài Loan 2002 22,6 12570 797010 0,97 - - Thái Lan 2002 62,8 5430 1431711 0,62 - - Thổ Nhĩ Kỳ 2001 68,5 2146 2510012 1,00 - 0,57 (Nguồn: Waste management and recycling in Asia, IGES, 2005) Thành phần rác ở các nước trên thế giới là khác nhau tùy thuộc vào thu nhập và mức sống của mỗi nước. Đối với các nước có nền công nghiệp phát triển thì thành phần các chất vô cơ trong rác thải phát sinh chiếm đa số và lượng rác này sẽ là nguyên liệu cho ngành công nghiệp tái chế. Hàng năm toàn nước Mỹ phát sinh một khối lượng rác khổng lồ lên tới 10 tỷ tấn. Trong đó, rác thải từ quá trình khai thác dầu mỏ và khí chiếm 75%; rác thải từ quá trình sản xuất nông nghiệp chiếm 13%; rác thải từ hoạt động công nghiệp chiếm 9,5%; rác thải từ cặn cống thoát nước chiếm 1%; rác thải sinh hoạt chiếm 1,5% [14]. Bảng 2.2 Thành phần và tỷ lệ rác thải ở Mỹ Thành phần Tỷ lệ % các loại rác theo các nguồn khác nhau Tại bãi rác Colombia Theo EPA Trung bình cả nước Giấy 41 33 35 - 47 Hữu cơ 21 17 18 - 29 Nhựa 16 12 11 - 21 Kim loại 6 6 4 - 8 Thủy tinh 3 6 2 - 6 Các loại khác 13 24 10 - 15 (Nguồn: tạp chí Waste Management Research. Volum 23 số 1, 2/2005) (EPA: Environmetal Protection Ageney) 2.6.1.2 Quản lý, xử lý rác thải trên thế giới Vấn đề quản lý, xử lý rác thải ở các nước trên thế giới đang ngày càng được quan tâm hơn. Đặc biệt tại các nước phát triển, công việc này được tiến hành một cách rất chặt chẽ, từ ý thức thải bỏ rác thải của người dân, quá trình phân loại tại nguồn, thu gom, tập kết rác thải cho tới các trang thiết bị thu gom, vận chuyển theo từng loại rác. Các quy định đối với việc thu gom, vận chuyển, xử lý từng loại rác thải được quy định rất chặt chẽ và rõ ràng với đầy đủ các trang thiết bị phù hợp và hiện đại. Một khác biệt trong công tác quản lý, xử lý rác thải của các nước phát triển là sự tham gia của cộng đồng. + Có thể nói, ngành tái chế rác ở Đức đang dẫn đầu trên thế giới hiện nay. Việc phân loại rác đã được thực hiện nghiêm túc ở Đức từ năm 1991. Rác bao bì gồm hộp đựng thức ăn, nước hoa quả, máy móc bằng nhựa, kim loại hay carton được gom vào thùng màu vàng. Bên cạnh thùng vàng, còn có thùng xanh dương cho giấy, thùng xanh lá cây cho rác sinh học, thùng đen cho thủy tinh. Những lò đốt rác hiện đại của nước Đức hầu như không thải khí độc ra môi trường. Das Duele System Deutschland (DSD) – “Hệ thống hai chiều của nước Đức” - được các nhà máy tái chế sử dụng để xử lý các loại rác thải và năm vừa rồi, các nhà máy này đã chi khoản phí gần 1,2 tỷ USD để sử dụng công nghệ trên. Tại các dây chuyền phân loại, các camera hồng ngoại hoạt động với tốc độ 300.000km/s để phân loại 10 tấn vật liệu mỗi giờ. Những ống hơi nén được điều khiển bằng máy tính đặt ở các băng chuyền có nhiệm vụ tách riêng từng loại vật liệu. Sau đó rác thải sẽ được rửa sạch, nghiền nhỏ và nấu chảy. Quá trình trên sẽ cho ra granulat, một nguyên liệu thay thế dầu thô trong công nghiệp hoặc làm chất phụ gia. Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ nhỏ bắt đầu từ việc phân loại rác là một trong những phương pháp mà những nhà quản lý tại Đức đã áp dụng. Rác được phân loại triệt để là điều kiện để quá trình xử lý và tái chế rác trở nên thuận lợi và dễ dàng hơn rất nhiều. Từ đó, khái niệm về rác thải dần được thay thế bằng nguồn tài sản tiềm năng, mang lại lợi nhuận đáng kể với những ai biết đầu tư vào việc cải tiến công nghệ [16]. Hình 2.4 Sơ đồ hệ thống hoạt động tái chế ở Đức: Người tiêu dùng Chính quyền địa phương Đốt rác, chôn lấp Hệ thống tái chế chất thải Các công ty sản xuất và bán Tái dùng dụngdụng Cơ quan trường học chất thải khác Ngời tiêu dùng rác thải bao bì Đầu tư Đưa ra giá thu gom và tái chế + Tại Nhật, chuyển từ hệ thống quản lý chất thải truyền thống với dòng nguyên liệu xử lý theo một hướng sang xã hội có chu trình xử lý nguyên liệu theo mô hình 3R (reduce, reuse, recycle).Về thu gom chất thải rắn sinh hoạt, các hộ gia đình được yêu cầu phân chia rác thành 3 loại: Rác hữu cơ dễ phân hủy, rác khó tái chế nhưng có thể cháy và rác có thể tái chế. Rác hữu cơ được thu gom hàng ngày để đưa đến nhà máy sản xuất phân compost; loại rác khó tái chế, hoặc hiệu quả tái chế không cao, nhưng cháy được sẽ đưa đến nhà máy đốt rác thu hồi năng lượng; rác có thể tái chế thì được đưa các nhà máy tái chế. Các loại rác này được yêu cầu đựng riêng trong những túi có màu sắc khác nhau và các hộ gia đình phải tự mang ra điểm tập kết rác của cụm dân cư vào giờ quy định, dưới sự giám sát của đại diện cụm dân cư. Công ty vệ sinh thành phố sẽ cho ô tô đến đem các túi rác đó đi. Nếu gia đình nào không phân loại rác, để lẫn lộn vào một túi thì ban giám sát sẽ báo lại với Công ty và ngay hôm sau gia đình đó sẽ bị công ty vệ sinh gửi giấy báo đến phạt tiền. Với các loại rác cồng kềnh như tivi, tủ lạnh, máy giặt,... thì quy định vào ngày 15 hàng tháng đem đặt trước cổng đợi ô tô đến chở đi, không được tuỳ tiện bỏ những thứ đó ở hè phố. Sau khi thu gom rác vào nơi quy định, công ty vệ sinh đưa loại rác cháy được vào lò đốt để tận dụng nguồn năng lượng cho máy phát điện. Rác không cháy được cho vào máy ép nhỏ rồi đem chôn sâu trong lòng đất. Cách xử lý rác thải như vậy vừa tận dụng được rác vừa chống được ô nhiễm môi trường. Túi đựng rác là do các gia đình bỏ tiền mua ở cửa hàng. Việc thu gom rác ở Nhật Bản không giống như ở Việt Nam. Rác thải từ hộ gia đình thuộc trách nhiệm quản lý của Nhà nước, còn từ các công ty, nhà máy... cho tư nhân đấu thầu hoặc các công ty do chính quyền địa phương chỉ định. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất phải tự chịu trách nhiệm về lượng rác thải công nghiệp của họ và điều này được quy định bằng các điều luật về bảo vệ môi trường [12]. + Tại Singapore, nhiều năm qua đã hình thành một cơ chế thu gom rác rất hiệu quả. Việc thu gom rác được tổ chức đấu thầu công khai cho các nhà thầu. Công ty trúng thầu sẽ thực hiện công việc thu gom rác trên một địa bàn cụ thể trong thời hạn 7 năm. Singapore có 9 khu vực thu gom rác. Rác thải sinh hoạt được đưa về một khu vực bãi chứa lớn. Công ty thu gom rác sẽ cung cấp dịch vụ “từ cửa đến cửa”, rác thải tái chế được thu gom và xử lý theo chương trình Tái chế Quốc gia.Có thể nói Singapore được xem là một quốc gia có môi trường xanh - sạch - đẹp của thế giới, Chính phủ rất coi trọng việc bảo vệ môi trường. Cụ thể là pháp luật về môi trường được thực hiện một cách toàn diện là công cụ hữu hiệu nhất để đảm bảo cho môi trường sạch đẹp của Singapore. Thời gian đầu Chính phủ tổ chức giáo dục ý thức để người dân quen dần sau đó phạt nhẹ nhắc nhở và hiện nay các biện pháp được áp dụng mạnh mẽ là là phạt tiền, phạt tù, bắt bồi thường và đối với những vi phạm nhỏ thì phạt cải tạo lao động bắt buộc. Ở Singapore vứt rác, hút thuốc không đúng nơi quy định bi phạt tiền từ 500 đô la Sing trở lên…[13]. Tại các nước đang phát triển thì công tác thu gom rác thải còn nhiều vấn đề bất cập. Việc bố trí mạng lưới thu gom, vận chuyển rác thải chưa hợp lý, trang thiết bị còn thiếu và thô sơ dẫn đến chi phí thu gom tăng mà hiệu quả lại thấp. Sự tham gia của các đơn vị tư nhân còn ít và hạn chế. So với các nước phát triển thì tỷ lệ thu gom rác ở các nước đang phát triển như Việt Nam và khu vực Nam Mỹ còn thấp hơn nhiều. Bảng 2.3 Hoạt động thu gom rác tại một số thành phố ở Châu Á Thành phố Dân số (triệu người) Số trạm trung chuyển Số chuyến vận chuyển trong ngày Bombay 8,5 2 2 Bangkok 5,6 - 1,8 Manila 7,6 65 2 Jakarta 7,9 776 3 Scoul 10,3 630 3,4 (Nguồn: Trung tâm quốc gia về phát triển khu vực của Nhật Bản, 2004) Đối với các nước Châu Á chôn lấp chất thải vẫn là phương pháp phổ biến để xử lý chất thải vì chi phí rẻ. Các bãi chôn lấp chất thải được chia thành 3 loại: bãi lộ thiên, bãi chôn lấp bán vệ sinh (chỉ đổ đất phủ) và bãi chôn lấp hợp sinh. Chất lượng của các bãi chôn lấp liên quan mật thiết với GDP. Các bãi chôn lấp hợp vệ sinh thường thấy ở các nước có thu nhập cao, trong khi đó các bãi rác lộ thiên thấy phổ biến ở các nước đang phát triển. Tuy vậy, các nước đang phát triển đã có lỗ lực cải thiện chất lượng các bãi chôn lấp, như Thổ Nhĩ Kỳ, Ấn Độ đã hạn chế chôn lấp các loại chất thải khó phân hủy sinh học, chất thải trơ, các loại chất thải có thể tái chế. Theo báo cáo Diễn biến môi trường Việt Nam 2004 cho biết, hầu hết các nước Nam Á và Đông Nam Á rác thải được chuyển đến các bãi chôn lấp hoặc các bãi lộ thiên để tiêu hủy. Các nước như Việt Nam, Bangladet, Hongkong, Srilanka Ấn Độ, Trung Quốc và Hàn Quốc có tỷ lệ chôn lấp lớn nhất lên tới trên 90%. Đối với chất thải hữu cơ, ủ phân compost là phương pháp tiêu hủy chủ yếu. Một số nước như Ấn Độ, Philippin, Thái Lan… áp dụng phương pháp này khá phổ biến. Tuy nhiên, chưa có nước nào tận dụng hết tiềm năng sản xuất phân compost. Bảng 2.4 Các phương pháp xử lý rác thải của một số nước ở Châu Á (Đơn vị %) Nước Bãi rác lộ thiên, chôn lấp Thiêu đốt Chế biến phân compost Phương pháp khác Việt Nam 96 - 4 - Bangladet 95 - - 5 Hongkong 92 8 - - Ấn Độ 70 - 20 10 Indonexia 80 5 10 5 Nhật Bản 22 74 0,1 3,9 Hàn Quốc 90 - - 10 Malayxia 70 5 10 15 Philipin 85 - 10 5 Srilanka 90 - - 10 Thái Lan 80 5 10 5 (Nguồn: Viện khoa học thủy lợi, 2006) 2.6.2 Tình hình quản lý, xử lý rác thải ở Việt Nam 2.6.2.1 Phát sinh rác thải ở Việt Nam Theo số liệu điều tra năm 2007 của Tổng cục Môi trường (Cục Bảo vệ Môi trường trước đây) chất thải rắn sinh hoạt trong cả nước phát sinh khoảng 17 triệu tấn, trong đó rác thải sinh hoạt tại đô thị khoảng 6,5 triệu tấn (năm 2008 là 7,8 triệu tấn theo báo cáo của Bộ Xây dựng). Ngoại trừ một số ít địa phương như Hà Nội, Thừa Thiên - Huế, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng đang thí điểm phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn theo dự án 3R, còn lại hầu hết rác thải sinh hoạt vẫn là một mớ tổng hợp các chất hữu cơ từ các gia đình cho tới nơi xử lý. Điều đáng lo ngại là tới thời điểm này, việc xử lý chất thải rắn vẫn chưa đi theo hướng tái chế như mong muốn. Khoảng 70% chất thải sinh hoạt đô thị được thu gom và khoảng 80% số chất thải này vẫn được xử lý theo cách chôn lấp. Còn rác thải nông thôn thì hầu như được đổ bừa bãi ra ven làng, ao hồ, bãi sông, bãi tạm hoặc tự đốt. Hội Xây dựng Việt Nam cảnh báo, trong số 91 bãi rác lớn trên cả nước chỉ có 17 bãi hợp vệ sinh, chiếm khoảng 15%. Lượng chất thải rắn sinh hoạt (CTRSH) tại các đô thị ở nước ta đang có xu thế phát sinh ngày càng tăng, tính trung bình mỗi năm tăng khoảng 10%. Tỷ lệ tăng cao tập trung ở các đô thị đang có xu hướng mở rộng, phát triển mạnh cả về quy mô lẫn dân số và các khu công nghiệp, như các đô thị tỉnh Phú Thọ (19,9%), thành phố Phủ Lý (17,3%), Hưng Yên (12,3%), Rạch Giá (12,7%), Cao Lãnh (12,5%)... Các đô thị khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ phát sinh CTRSH tăng đồng đều hàng năm và với tỷ lệ tăng ít hơn (5,0%). Tổng lượng phát sinh CTRSH tại các đô thị loại III trở lên và một số đô thị loại IV là các trung tâm văn hóa, xã hội, kinh tế của các tỉnh thành trên cả nước lên đến 6,5 triệu tấn/năm, trong đó CTRSH phát sinh từ các hộ gia đình, nhà hàng, các chợ và kinh doanh là chủ yếu. Lượng còn lại từ các công sở, đường phố, các cơ sở y tế. Chất thải nguy hại công nghiệp và các nguồn chất thải y tế nguy hại ở các đô thị tuy chiếm tỷ lệ ít nhưng chưa được xử lý triệt để vẫn còn tình trạng chôn lấp lẫn với CTRSH đô thị. Kết quả điều tra tổng thể năm 2006 - 2007 cho thấy, lượng CTRSH đô thị phát sinh chủ yếu tập trung ở 2 đô thị đặc biệt là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Tuy chỉ có 2 đô thị nhưng tổng lượng CTRSH phát sinh tới 8.000 tấn/ngày (2.920.000 tấn/năm) chiếm 45,24% tổng lượng CTRSH phát sinh từ tất cả các đô thị. Bảng 2.5 Lượng CTRSH phát sinh ở các đô thị Việt Nam đầu năm 2007 STT Loại đô thị Lượng CTRSH bình quân trên đầu người (kg/người/ngày) Lượng CTRSH đô thị phát sinh Tấn/ngày Tấn/năm 1 Đặc biệt 0,84 8.000 2.920.000 2 Loại I 0,96 1.885 688.025 3 Loại II 0,72 3.433 1.253.045 4 Loại III 0,73 3.738 1.364.370 5 Loại IV 0,65 626 228.490 Tổng 6.453.930 Nguồn: kết quả khảo sát năm 2006, 2007 và báo cáo của các địa phương Tính theo vùng địa lý (hay vùng phát triển kinh tế - xã hội) thì các đô thị vùng Đông Nam bộ có lượng CTRSH phát sinh lớn nhất tới 2.450.245 tấn/năm (chiếm 37,94% tổng lượng phát sinh CTRSH các đô thị loại III trở lên của cả nước), tiếp đến là các đô thị vùng Đồng bằng sông Hồng có lượng phát sinh CTRSH đô thị là 1.622.060 tấn/năm (chiếm 25,12%). Các đô thị khu vực miền núi Tây Bắc bộ có lượng phát sinh CTRSH đô thị thấp nhất chỉ có 69.350 tấn/năm (chiếm 1,07% ), tiếp đến là các đô thị thuộc các tỉnh vùng Tây Nguyên, tổng lượng phát sinh CTRSH đô thị là 237.350 tấn/năm (chiếm 3,68%). Đô thị có lượng CTRSH phát sinh lớn nhất là TP. Hồ Chí Minh (5.500 tấn/ngày), Hà Nội (2.500 tấn/ngày); đô thị có lượng CTRSH phát sinh ít nhất là Bắc Kạn - 12,3 tấn/ngày; Thị xã Gia Nghĩa 12,6 tấn/ngày, Cao Bằng 20 tấn/ngày; TP. Đồng Hới 32,0 tấn/ngày; TP Yên Bái 33,4 tấn/ngày và thị xã Hà Giang 37,1 tấn/ngày. Bảng 2.6 Lượng CTRSH đô thị theo vùng địa lý ở Việt Nam đầu năm 2007 STT Đơn vị hành chính Lượng CTRSH bình quân trên đầu người(kg/người/ngày) Lượng CTRSH đô thị phát sinh Tấn/ngày Tấn/năm 1 Đồng bằng sông Hồng 0,81 4.444 1.622.060 2 Đông Bắc 0,76 1.164 424.860 3 Tây Bắc 0,75 190 69.395 4 Bắc Trung bộ 0,66 755 275.575 5 Duyên hải Nam Trung bộ 0,85 1.640 598.600 6 Tây Nguyên 0,59 650 237.250 7 Đông Nam bộ 0,79 6.713 2.450.245 8 Đồng bằng sông Cửu Long 0,61 2.136 779.640 Tổng cộng 0,73 17.692 6.457.580 Nguồn: kết quả khảo sát năm 2006, 2007 và báo cáo của các địa phương Tỷ lệ phát sinh CTRSH đô thị bình quân trên đầu người tại các đô thị đặc biệt và đô thị loại I tương đối cao (0,84 – 0,96kg/người/ngày); đô thị loại II và loại III có tỷ lệ phát sinh CTRSH đô thị bình quân trên đầu người là tương đương nhau (0,72 - 0,73 kg/người/ngày); đô thị loại IV có tỷ lệ phát sinh CTRSH đô thị bình quân trên một đầu người đạt khoảng 0,65 kg/người/ngày. Tỷ lệ phát sinh CTRSH tính bình quân lớn nhất tập trung ở các đô thị phát triển du lịch như TP. Hạ Long 1,38kg/người/ngày; TP. Hội An 1,08kg/người/ngày; TP. Đà Lạt 1,06kg/người/ngày; TP. Ninh Bình 1,30kg/người/ngày. Các đô thị có tỷ lệ phát sinh CTRSH tính bình quân đầu người thấp nhất là TP. Đồng Hới (Tỉnh Quảng Bình) chỉ 0,31kg/người/ngày; Thị xã Gia Nghĩa 0,35kg/người/ngày; Thị xã Kon Tum 0,35kg/người/ngày; Thị xã Cao Bằng 0,38kg/người/ngày. Trong khi đó tỷ lệ phát sinh bình quân đầu người tính trung bình cho các đô thị trên phạm vi cả nước là 0,73kg/người/ngày [18]. Theo số liệu của Bộ Xây dựng , tính đến năm 2009 tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị phát sinh trên toàn quốc ước tính khoảng 21.500 tấn/ngày. Dự báo của Bộ Xây dựng và Bộ TN&MT cho biết, đến năm 2015, khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh từ các đô thị ước tính khoảng 37 nghìn tấn/ngày và năm 2020 là 59 nghìn tấn/ngày cao gấp 2 - 3 lần hiện nay. Như vậy, với lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị gia tăng nhanh chóng và các công nghệ hiện đang sử dụng không thể đáp ứng yêu cầu do điều kiện Việt Nam mật độ dân số cao, quỹ đất hạn chế, việc xác định địa điểm bãi chôn lấp khó khăn, không đảm bảo môi trường và không tận dụng được nguồn tài nguyên từ rác thải. Việc áp dụng các công nghệ mới hạn chế chôn lấp chất thải rắn nhằm tiết kiệm quỹ đất, đảm bảo môi trường và tận dụng nguồn tài nguyên từ rác thải là cấp bách. Tỷ lệ phần trăm các chất có trong rác thải không ổn định, rất biến động theo mỗi địa điểm thu gom rác, phụ thuộc vào mức sống và phong cách tiêu dùng của nhân dân ở mỗi địa phương. Tính trung bình, tỷ lệ thành phần các chất hữu cơ chiếm 45% - 60% tổng lượng chất thải, tỷ lệ thành phần nilông, chất dẻo chiếm từ 6 - 16%, độ ẩm trung bình của rác thải từ 46 % - 52%. Theo Chi cục Bảo vệ môi trường Hà Nội, tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt (rác thải) của TP Hà Nội hiện nay ước khoảng 5.000 tấn/ngày, trong đó có khoảng 3.500 tấn là chất thải sinh hoạt đô thị và khoảng 1.500 tấn chất thải sinh hoạt nông thôn.    Tại các vùng ngoại thành Hà Nội, lâu nay xuất hiện tình trạng rác thải sinh hoạt đổ tràn lan khắp các ngõ xóm, đường quốc lộ, tỉnh lộ, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến cảnh quan. Mặc dù biết rõ việc ô nhiễm và ảnh hưởng đến đời sống của người dân, nhưng do thiếu nguồn kinh phí và không có kế hoạch thu gom nên chính quyền đành đứng “nhìn”. Phần lớn các khu vực ngoại thành Hà Nội hiện nay chưa có các điểm tập kết rác thải sinh hoạt, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Những bãi rác được xả “vô tư” ra đường mà không hề được thu gom, tập kết để xử lý. Tình trạng ô nhiễm môi trường, mất mỹ quan đô thị do rác thải trên những trục đường quốc lộ, tỉnh lộ là hệ quả tất yếu của việc không có các điểm tập kết rác để xử lý. Thậm chí, các đống rác ven các đường quốc lộ, tỉnh lộ đang lấn chiếm diện tích canh tác. 2.6.2.2 Quản lý, xử lý rác thải tại Việt Nam 2.6.2.2.1 Quản lý rác thải tại Việt Nam Quản lý rác thải sinh hoạt tại Việt Nam, nhất là tại các thành phố như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng…. đang là thách thức lớn đối với các nhà quản lý. Tốc độ tăng rác thải không chỉ vì dân số đô thị tăng, sản xuất, dịch vụ tăng, mà còn vì mức sống của người dân đang ngày một tăng lên. Tỷ lệ thu gom chất thải sinh hoạt ở các quận nội thành đạt khoảng 95%, còn các huyện ngoại thành tỷ lệ này chỉ đạt 60%; Lượng CTR công nghiệp được thu gom đạt 85-90% và chất thải nguy hại mới chỉ đạt khoảng 60-70%. Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động thu gom rác thải chủ yếu dựa vào kinh phí bao cấp từ ngân sách nhà nước, chưa huy động được các thành phần kinh tế tham gia, tính chất xã hội hoá hoạt động thu gom còn thấp, người dân chưa thực sự chủ động tham gia vào hoạt động thu gom cũng như chưa thấy rõ được nghĩa vụ đóng góp kinh phí cho dịch vụ thu gom rác thải. Có thể nói, hiện nay trên địa bàn của các đô thị nhỏ vẫn chưa có hệ thống thu gom, vận chuyển chất thải rắn một cách có hệ thống xuyên suốt toàn tỉnh, mà tuỳ theo yêu cầu bức xúc của các huyện, thị và mỗi địa phương, hình thành một xí nghiệp công trình công cộng hoặc đội vệ sinh để tiến hành thu gom rác thải sinh hoạt và một phần rác thải công nghiệp tại các khu trung tâm nhằm giải quyết yêu cầu thu gom rác hàng ngày. Theo nghiên cứu của URENCO thì Ở nhiều nước đang phát triển trên thế giới, chi phí cho công tác quản lý CTR đô thị chiếm xấp xỉ 20% tổng chi ngân sách đô thị. Ở nước ta, các nhà chuyên môn đánh giá, tổng chi cho quản lý CTR cũng chiếm khoảng 6,7% tổng chi phí ngân sách đô thị. Tuy nhiên vẫn có từ 5 - 7% lượng chất thải sinh hoạt hàng ngày chưa được thu gom, xử lý. Hơn nữa, các biện pháp xử lý rác thải hiện nay vẫn chủ yếu là chôn lấp. Nhưng bãi rác Nam Sơn cũng chỉ xử lý được khoảng 1.603 tấn/ngày (xử lý bằng phương pháp chôn lấp).Các nhà khoa học đã đưa ra nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý CTR ở Hà Nội, trong đó việc đầu tư sản xuất phân compost từ chất thải được đặt lên hàng đầu. Tại các thành phố, việc thu gom và xử lý chất thải đô thị thường do Công ty Môi trường đô thị (URENCO) đảm nhận. Tuy nhiên đã xuất hiện các tổ chức tư nhân tham gia công việc này. Việc thu gom chất thải rắn sinh hoạt và quét dọn đường phố thường làm vào ban đêm để tránh nắng nóng ban ngày và tắc nghẽn giao thông. URENCO cho biết, trung bình mỗi ngày công ty thu gom hơn 2.000 tấn rác thải, trong đó, thành phần rác hữu cơ nếu được phân loại tốt sẽ tận dụng được tới 40%. Hiện nay, công nhân của Công ty này tự phân loại được 100 tấn rác hữu cơ/ngày để làm phân bón ở nhà máy xử lý rác thải Cầu Diễn. Theo tính toán của cơ quan chuyên môn, nếu thực hiện tốt mô hình 3R mỗi tháng thành phố Hà Nội sẽ tiết kiệm được gần 4 tỷ đồng chi phí xử lý rác. URENCO đưa ra mục tiêu từ 2010 đến 2020, rác sinh hoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội sẽ được phân loại tại nguồn và phấn đấu đến 2010 sẽ tận dụng được 30% rác. Như vậy, mỗi người dân đều có thói quen phân loại rác ngay tại nhà thì sẽ tận dụng được rác để tái chế, tiết kiệm được tài nguyên, tiết kiệm được sức người. 2.6.2.2.2 Xử lý rác thải tại Việt Nam Việc xử lý chất thải rắn đô thị cho đến nay chủ yếu vẫn là đổ ở các bãi thải lộ thiên không có sự kiểm soát, mùi hôi và nước rác là nguồn gây ô nhiễm cho môi trường đất, nước và không khí. Theo báo cáo của sở khoa học công nghệ và môi trường các tỉnh, thành và theo kết quả quan trắc của 3 vùng, mới chỉ có 32/64 tỉnh, thành có dự án đầu tư xây dựng bãi chôn lấp hợp vệ sinh, trong đó 13 đô thị đã được đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, trừ bãi chôn lấp chất thải rắn tại Khu Liên hợp Xử lý chất thải Nam Sơn, Hà Nội và bãi chôn lấp chất thải rắn tại thành phố Huế đang hoạt động trong sự tuân thủ các yêu cầu đảm bảo môi trường một cách tương đối, còn các bãi khác, kể cả bãi chôn lấp rác thải hiện đại như Gò Cát ở thành phố Hồ Chí Minh, cũng đang ở trong tình trạng hoạt động không hợp vệ sinh. Hoạt động tái chế, giảm lượng chất thải sinh hoạt được tập trung chủ yếu vào đầu tư xây dựng các nhà máy chế biến rác thành phân hữu cơ. Tuy nhiên do chưa có những khảo sát chi tiết về khả năng chấp thuận của cộng đồng đối với sản phẩm phân vi sinh, đồng thời do kỹ năng phân loại trong quá trình sản xuất của các nhà máy này còn thấp, nên hiệu quả hoạt động của các nhà máy này chưa cao. Theo số liệu của Bộ Xây dựng, gần đây, đã có một số công nghệ trong nước được nghiên cứu, phát triển với nhiều ưu điểm như khả năng phân loại rác tốt hơn, đặc biệt là đã tái chế, tái sử dụng được phần lớn lượng chất thải, đáp ứng các tiêu chuẩn môi trường như công nghệ SERAPHIN, ANSINH-ASC và MBT-CD.08 với sản phẩm là phân hữu cơ, các sản phẩm nhựa tái chế và viên nhiên liệu, đã được triển khai áp dụng tại Nhà máy xử lý rác Đông Vinh (Nghệ An), Nhà máy xử lý rác Sơn Tây, (Hà Nội); Nhà máy xử lý rác Thủy Phương (TT-Huế); Nhà máy xử lý rác Đồng Văn (Hà Nam), bước đầu đã đạt kết quả nhất định. Tuy nhiên, các công nghệ trong nước đều do doanh nghiệp tư nhân tự nghiên cứu phát triển nên việc hoàn thiện công nghệ cũng như triển khai ứng dụng trong thực tế còn gặp một số khó khăn. Vì vậy, vừa qua, Bộ Xây dựng đã xây dựng Chương trình xử lý chất thải rắn sinh hoạt áp dụng công nghệ hạn chế chôn lấp giai đoạn 2009 - 2020, với quan điểm kết hợp đầu tư của Nhà nước và khuyến khích, huy động các thành phần kinh tế tham gia đầu tư trong lĩnh vực xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị, đảm bảo đáp ứng mục tiêu đến năm 2020 các địa phương đều được đầu tư xây dựng các nhà máy xử lý chất thải rắn sinh hoạt áp dụng công nghệ xử lý hạn chế chôn lấp, đặc biệt đối với các khu xử lý chất thải rắn có tính chất vùng bằng các nguồn vốn khác nhau nhằm giải quyết triệt để vấn đề bức xúc về ô nhiễm môi trường do chất thải rắn sinh hoạt đô thị trong toàn quốc. Giai đoạn 2009 đến 2015 sẽ có 85% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị phát sinh được thu gom và xử lý đảm bảo môi trường, trong đó khoảng 60% được tái chế, tái sử dụng, sản xuất phân hữu cơ hoặc đốt rác thu hồi năng lượng. Giai đoạn 2016 đến 2020 sẽ có 90% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt đô thị phát sinh được thu gom và xử lý đảm bảo môi trường, trong đó 85% được tái chế, tái sử dụng, sản xuất phân hữu cơ hoặc đốt rác thu hồi năng lượng. Việc thực hiện Chương trình xử lý chất thải rắn sinh hoạt áp dụng công nghệ hạn chế chôn lấp giai đoạn 2009 - 2020 có ý nghĩa to lớn đối với nước ta trong giai đoạn hiện nay nhằm phát huy mọi nguồn lực tham gia giải quyết những bức xúc về chất thải rắn, góp phần thực hiện chủ trương xã hội hóa công tác quản lý chất thải rắn trong cả nước. Các nhà máy xử lý rác thải của chương trình được xây dựng sẽ góp phần thực hiện mục tiêu hạn chế chôn lấp rác thải, tiết kiệm kinh phí, đất đai, hạn chế gây ô nhiễm môi trường... và giải quyết triệt để vấn đề rác thải hiện đang gây bức xúc tại các đô thị. 2.6.2.2.3 Những hạn chế trong công tác quản lý, xử lý rác thải tại Việt Nam Việc thu gom, vận chuyển chất thải sinh hoạt còn nhiều hạn chế: Mất vệ sinh cục bộ bởi phương thức thu gom hiện nay hầu hết là gián tiếp, thông qua các xe đẩy tay từ các khu vực dân cư, tập kết về một điểm tự phát rồi chuyển lên ô tô chuyên dụng tại các ngã tư, góc đường… Việc rác thải chưa được phân loại tại nguồn cũng gây khó khăn cho việc vận chuyển, xử lý. Năng lực của các xí nghiệp môi trường đô thị về thiết bị, phương tiện thu gom vẫn còn thiếu, tải trọng nhỏ, cũ, hỏng…chưa theo kịp các yêu cầu thực tế. Đối với khu vực ngoại thành thì lại có đặc điểm diện tích rộng, dân cư không tập trung, thành phần rác thải “phong phú hơn” do hoạt động nông nghiệp: các loại bao bì phân bón, vỏ hộp thuốc trừ sâu…khó thu gom do ý thức người dân chưa cao và hệ thống vận chuyển bị hạn chế cả về nhân lực lẫn phương tiện. Ngay cả công tác xử lý, tiêu hủy, tái chế rác thải hiện cũng còn rất nhiều hạn chế chủ yếu dựa vào việc chôn lấp tại bãi rác Nam Sơn (chất thải ở đây hầu như không được phân loại). Còn riêng nhà máy chế biến rác thải tại Cầu Diễn, mới chỉ đạt sản lượng khoảng 7.000 tấn/năm, nghĩa là chỉ có khoảng 7% lượng rác thải sinh hoạt được tái chế thành phân vi sinh. Hiện nay, chỉ tính riêng Hà Nội vẫn còn 66% số xã chưa có nơi chôn lấp hoặc xử lý rác thải. Khu vực ngoại thành có 361/435 xã, thị trấn đã thành lập tổ thu gom rác; trong đó có 148 xã đã tổ chức chuyển rác đi xử lý, chôn lấp tại bãi rác tập trung của thành phố (đạt tỉ lệ 34%), còn lại vẫn chủ yếu tổ chức chôn lấp hoặc đổ ra các bãi đất trống công cộng ngay tại địa phương. Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn Hà Nội cho biết: Để nâng cao đời sống vật chất cho người dân khu vực ngoại thành, Hà Nội đặt mục tiêu đến năm 2015, 100% số xã ở khu vực ngoại thành có xử lý rác thải sinh hoạt và đến năm 2020, 100% làng nghề bị ô nhiễm nặng được xử lý chất thải. Theo đó, trong giai đoạn từ nay đến hết năm 2010, thành phố sẽ đầu tư mở rộng các khu xử lý rác thải tập trung ở Nam Sơn (Sóc Sơn) và Núi Thoong (Chương Mỹ); chuẩn bị đầu tư xây dựng một số khu xử lý rác tập trung xa trung tâm thành phố như khu Đồng Ké (huyện Chương Mỹ), khu Châu Can (huyện Phú Xuyên). Các huyện có điều kiện thuận lợi về địa lý như: Thanh Trì, Từ Liêm, Gia Lâm, Đông Anh, Sóc Sơn, Mê Linh và một số xã thuộc các huyện: Quốc Oai, Chương Mỹ, Phú Thọ, Thạch Thất…sẽ tổ chức thu gom và vận chuyển rác thải đến các khu xử lý tập trung của Thành phố. Ở các khu vực còn lại, UBND các huyện quy hoạch và bố trí ngân sách để đầu tư, xây dựng ở mỗi huyện 1 bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh quy mô cấp huyện. Trong giai đoạn từ 2011 đến 2015, Hà Nội sẽ hoàn thành việc xây dựng các khu xử lý rác thải sinh hoạt quy mô cấp thành phố; nâng cấp và cải tiến dây chuyền công nghệ tại các khu xử lý hiện có và tổ chức vận chuyển rác để đi xử lý tập trung cho tất cả các xã còn lại để đảm bảo 100% số xã được xử lý rác thải sinh hoạt. PHẦN III NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu + Đối tượng nghiên cứu: nghiên cứu về hiện trạng rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Kim Bài (nguồn phát sinh, thành phần, khối lượng rác) và hiện trạng quản lý rác thải tại đây ( tình hình thu gom, vận chuyển, xử lý…) + Phạm vi nghiên cứu: thị trấn Kim Bài. 3.2 Nội dung nghiên cứu + Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Thanh Oai. Đặc điểm điều kiện tự nhiên: Vị trí địa lý; địa hình, địa mạo; khí hậu, thủy văn, các nguồn tài nguyên. Đặc điểm kinh tế, xã hội: Tốc độ tăng trưởng kinh tế; dân số, lao động, việc làm và thu nhập; sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. + Quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Kim Bài: Thực trạng phát sinh rác thải sinh hoạt của thị trấn: thành phần rác thải sinh hoạt, lượng bình quân… Lượng rác thải của hộ gia đình (kg/người/ngày ). Điều tra công tác quản lý và xử lý rác thải trên địa bàn thị trấn: hoạt động quản lý, thu gom, thái độ của nhà quản lý, công nhân thu gom, các hộ gia đình… Những vấn đề còn tồn tại trong công tác quản lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn hiện nay. + Đề xuất một số biện pháp quản lý, xử lý rác thải phù hợp với tình hình thực tế của thị trấn. 3.3 Phương pháp nghiên cứu: 3.3.1Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: + Thu thập, tổng hợp tài liệu có liên quan như: điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của địa phương; hiện trạng rác thải sinh hoạt, công tác thu gom, vận chuyển thông qua các cơ quan của huyện Thanh Oai + Các số liệu thu thập thông qua các cơ quan của UBND thị trấn Kim Bài +Tìm hiểu qua sách báo, mạng internet….. 3.3.2 Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp + Phương pháp khảo sát thực địa để thấy được tình hình chung về rác thải trên địa bàn. + Phỏng vấn bằng phiếu điều tra nhằm thu thập ý kiến của các hộ gia đình về tình hình quản lý rác thải sinh hoạt tại địa phương. 3.3.3 Phương Pháp chuyên gia: + Hình thức thực hiện phương pháp này thông qua các buổi gặp gỡ, trao đổi và thảo luận với các cán bộ tại địa phương và giáo viên hướng dẫn nhằm tháo gỡ những thắc mắc. 3.3.4 Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu + Tổng hợp tất cả các số liệu thu thập được từ các phương pháp trên. + Xử lý số liệu bằng Excel. Phần IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN THANH OAI THÀNH PHỐ HÀ NỘI 4.1.1. Điều kiện tự nhiên 4.1.1.1. Vị trí địa lý Thanh Oai là một huyện đồng bằng nằm ở phía Tây Nam của thành phố Hà Nội, có vị trí địa lý liền kề với thành phố Hà Đông, với trung tâm kinh tế - chính trị là thị trấn Kim Bài cách thành phố Hà Đông khoảng 14km, cách trung tâm thành phố Hà Nội 20 km về phía Bắc. Toàn huyện có 20 xã và 1 thị trấn, có tổng diện tích tự nhiên của huyện tính đến tháng 1/2009 là 12.385,56 dân số 169.344 người. Địa giới hành chính bao gồm: - Phía Đông giáp huyện Thường Tín, huyện Thanh Trì; - Phía Tây giáp huyện Chương Mỹ; - Phía Nam giáp Ứng Hoà và huyện Phú Xuyên; - Phía Bắc giáp thành phố Hà Đông và huyện Hoài Đức; Với vị trí nằm liền kề với thành phố Hà Đông và trung tâm thành phố Hà Nội, Thanh Oai có nhiều điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, giao lưu buôn buôn bán đặc biệt thuận lợi trong việc tiêu thụ các sản phẩm nông sản và các sản phẩm sản xuất từ các làng nghề truyền thống. 4.1.1.2. Địa hình, địa mạo Thanh Oai có địa hình đồng bằng tương đối bằng phẳng với hai vùng rõ rệt là vùng đồng bằng sông Nhuệ và vùng bãi sông Đáy, có độ dốc từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam. Điểm cao nhất là xã Thanh Mai với độ cao 7.5m so với mặt nước biển và điểm thấp nhất là xã Liên Châu có độ cao 1.5m so với mặt nước biển. 4.1.1.3. Khí hậu Khí hậu Thanh Oai nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa của miền Bắc với 2 mùa rõ rệt, đó là mùa hè nắng nóng mưa nhiều, mùa đông khô hanh, lạnh rét mưa ít. Hàng năm chịu ảnh hưởng của 2-3 cơn bão, với số giờ nắng trong năm từ 1700 – 1800 giờ. - Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình hàng năm 23,80C, nhiệt độ cao nhất vào tháng 7 có ngày lên tới 38 - 390C, nhiệt độ thấp nhất vào tháng giêng có ngày chỉ có 10-120C. - Lượng mưa: Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa bình quân hàng năm là 1600 – 1800 mm, cao nhất có năm đạt 2.200 mm, song có năm thấp nhất chỉ đạt 1300 mm. Lượng mưa tập trung chủ yếu vào các tháng 6,7,8 với cường độ lớn (chiếm hơn 80%) nên thường gây ra úng lụt cục bộ tại những vị trí ven sông Đáy gây thiệt hại cho mùa màng. Mùa khô từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, mùa này thiếu nước nghiêm trọng, cây trồng và vật nuôi bị ảnh hưởng của thời tiết lạnh. - Độ ẩm không khí: Độ ẩm trung bình 80%. Tổng lượng nước bốc hơi cả năm 700 – 900 mm, lượng nước bốc hơi nhỏ nhất vào tháng 12, tháng 01 năm sau, lớn nhất vào tháng 5 – 6. - Nắng: Số giờ nắng trung bình cả năm là 1700 – 1800 giờ, số giờ nắng cao nhất trong năm là 2000 giờ, số giờ nắng thấp nhất trong năm là 1500 giờ. Hình 4.1 Biểu đồ diễn biến một số yếu tố khí hậu huyện Thanh Oai 4.1.1.4. Thuỷ văn Hệ thống thuỷ văn của huyện gồm hai sông lớn là sông Đáy, sông Nhuệ và hệ thống hồ, đầm lớn tập trung ở các xã Thanh Cao, Cao Viên, Cao Dương… Sông Đáy chạy dọc phía Tây của huyện có chiều dài khoảng 20,5 km với độ rộng trung bình 100 – 125m, hiện tại bề mặt sông đã bị người dân trong vùng thả bè rau muống nên chỉ còn một lạch nhỏ cho thuyền đi qua. Đây là tuyến sông quan trọng có nhiệm vụ phân lũ cho sông Hồng. Sông Nhuệ ở phía Đông của huyện có chiều dài 14,5 km lấy nước từ sông Hồng để cung cấp cho sản xuất nông nghiệp và phục vụ đời sống của nhân dân các xã ở ven sông như Liên Châu, Tân Ước, Đỗ Động… và còn là nơi cung cấp nguồn nước cho công trình thuỷ lợi La Khê. 4.1.1.5. Các nguồn tài nguyên a) Tài nguyên đất Trong phạm vi của huyện có các loại đất chính sau: - Đất phù sa được bồi là loại đất có màu nâu thẫm, diện tích 618,90 ha được phân bố chủ yếu ở khu vực ngoài đê trong vùng phân lũ sông Đáy, có độ màu mỡ cao, thành phần cơ giới cát pha thịt nhẹ thích hợp cho canh tác các loại rau màu và cây trồng cạn. - Đất phù sa không được bồi có màu nâu tươi, diện tích 6.445,64 ha đất có phản ứng ít chua ở tầng mặt, hàm lượng mùn trung bình, lân khá, kali cao, lân dễ tiêu thấp. Đây là loại đất chủ yếu của huyện phân bố rộng khắp trong khu vực đồng bằng, đã được khai thác cải tạo lâu đời phù hợp cho thâm canh tăng vụ, với nhiều loại mô hình canh tác cho hiệu quả kinh tế cao như mô hình lúa – màu, lúa – rau, lúa – cá, và trồng các loại cây lâu năm như cam, vải, bưởi như ở Hồng Dương, Dân Hoà, Tam Hưng… - Đất phù sa gley có diện tích 1.264,85 ha phân bố chủ yếu ở các khu vực địa hình úng trũng và canh tác ruộng nước. Đây là loại đất chuyên để trồng lúa, ở những chân tương đối cao dễ thoát nước, có thể sản xuất 3 vụ/năm và có vị trí quan trọng trong sản xuất lương thực của huyện, phù hợp với mô hình lúa – cá, lúa – cá - vịt như ở Liên Châu, Tân Ước, Đỗ Động… Nhìn chung, đất đai của huyện có độ phì cao, đặc biệt là khu vực ngoài đê có thể phát triển nhiều loại cây trồng như cây lương thực, cây rau màu, cây lâu năm, cây ăn quả và có thể ứng dụng nhiều mô hình đạt hiệu quả kinh tế cao. b) Tài nguyên nước Nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong huyện được lấy từ hai nguồn là nước mặt và nước ngầm. - Nước mặt: chủ yếu là sông Hồng vào sông Nhuệ qua hệ thống thuỷ nông La Khê, và sông Đáy. Ngoài ra, còn có hệ thống hồ, đầm, ao rất rộng lớn (hơn 300 ha), đặc biệt là đầm Thanh Cao – Cao Viên. Nguồn nước mặt cung cấp đáp ứng cơ bản nhu cầu tưới cho cây trồng, còn vùng bãi sông Đáy về mùa khô vẫn chua đáp ứng đủ nhu cầu nước tưới cho cây trồng vùng bãi. - Nước ngầm: tầng chứa nước nằm ở độ sâu 30 - 60m, bao gồm 2 lớp cát và sỏi cuộn. - Về chất lượng nước: theo kết quả phân tích mẫu nước thô ở nhà máy Bia Kim Bài ngày 15/09/1999 cho thấy hàm lượng sắt và mangan cao hơn tiêu chuẩn cho phép. Vì vậy, để có thể sử dụng được nguồn nước trên phục vụ cho sinh hoạt cần phải được xử lý trước khi đưa vào sử dụng. Như vậy, với hệ thống kênh mương và ao, hồ, đầm của huyện sẽ rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp và phục vụ sinh hoạt của người dân. Tuy nhiên vào mùa mưa hệ thống kênh mương và ao hồ cũng gây ra ngập úng ở một số vùng trũng, vào mùa khô lại thường bị thiếu nước ở các vùng bãi ven sông. 4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 4.1.2.1. Phát triển kinh tế Năm 2009 tổng giá trị sản xuất thực hiện đạt: 3450 tỷ đồng, tăng 21,9 % so với năm 2008. Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp 27,19 %; công nghiệp xây dựng 18,71 %, thương mại-dịch vụ 21,62 %. Giá trị tăng thêm bình quân đầu người đạt 3,7 triệu đồng. Bảng 4.1 Tổng giá trị sản xuất của huyện trong 3 năm 2007, 2008, 2009 Năm 2007 2008 2009 Chỉ tiêu SL(tỷ đồng) C(%) SL(tỷ đồng) C(%) SL(tỷ đồng) C(%) Tổng GTSX 2068 100 2830 100 3450 100 1.Ngành nông nghiệp 678 32,79 698 24,66 938 27,19 Trồng trọt 315 15,23 330 11,66 492 14,26 Chăn nuôi 365 17,55 368 13,00 444 12,87 1.Ngành công nghiệp 659 31,87 1079 38,13 1123 32,55 3.Ngành xây dựng cơ bản 321 15,52 582 20,57 645 18,71 4.Thương mại-dịch vụ 410 19,83 417 16,64 764 21,62 GTSX/hộ/năm 0,049 0,0671 0,0781 GTSX/khẩu/năm 0,0121 0,0161 0,0198 (Nguồn: Niêm giám thống kê huyện Thanh Oai,2009) a. Nông nghiệp Năm 2009, sản xuất nông nghiệp thực hiện đạt 938 tỷ đồng, tăng 34,38 % so với năm 2008. - Trồng trọt: Tổng sản lượng lương thực 99,197 tấn (trong đó thóc 94.133 tấn), bình quân lương thực đạt 514kg/người. Giá trị sản xuất 1 ha gieo trồng đạt 38,4 triệu đồng. - Chăn nuôi: So với năm 2008 thì hiện tại đàn trâu có 720 con, giảm 21,57%, đàn bò 6209 con, giảm 11,85% và đàn lợn 211.412 con tăng 10,15%, đàn gia cầm tổng số có 955.800 con tăng 43,3%. - Công tác chuyển đổi mô hình canh tác: Thực hiện 80,1 ha (trong đó có 23,5 ha cây ăn quả; 56,6 ha lúa - cá). b. Công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản - Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp có sản lượng đạt 1123 tỷ đồng tăng 4,07 % so với năm 2008. - Huyện có 38 làng nghề, việc duy trì hoạt động của các làng nghề truyền thống đã góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng của các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. - Xây dựng cơ bản thực hiện đạt 645 tỷ đồng, trong đó các công trình xây dựng thuộc Nhà nước quản lý trên địa bàn huyện đạt 367,428 tỷ đồng, các công trình dân sinh 277,572 tỷ đồng. c. Dịch vụ - thương mại Ngành dịch vụ thương mại trong huyện tăng mạnh và phát triển rộng khắp trên địa bàn huyện, hoạt động có hiệu quả, phục vụ kịp thời cho sản xuất, đời sống của nhân dân và đặc biệt tạo ra thị trường tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp khá phát triển. Giá trị dịch vụ thương mại năm 2009 thực hiện 746 tỷ đồng, tăng 78,89 % so với năm 2008. 4.1.2.2. Dân số, lao động, việc làm Theo thống kê năm 2009 dân số của huyện là 179.763 người, được phân ra 20 xã và 1 thị trấn, với mật độ dân số 1.368 người/km2, tốc độ tăng dân số khoảng 1%. Tổng số lao động toàn huyện là 106.415 người chiếm 59,19 % tổng dân số, trong đó lao động nông nghiệp chiếm khoảng 68,45% tổng lao động xã hội trong toàn huyện. Lao động làm trong các ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản và dịch vụ thương mại chiếm 31,55 %. Tỷ lệ công nhân lành nghề, kỹ thuật viên còn ít. Bảng 4.2 Dân số huyện Thanh Oai tính đến 30/12/2009 STT Tên xã, thị trấn Số hộ Dân số (người) 1 Thị trấn Kim Bài 1677 6223 2 Cự Khê 1485 5580 3 Bích Hòa 2577 8782 4 Cao Viên 4280 16536 5 Thanh Cao 2465 9474 6 Bình Minh 3122 12433 7 Tam Hưng 2833 10407 8 Mỹ Hưng 1587 6585 9 Thanh Thùy 1965 6920 10 Thanh Mai 2273 9229 11 Kim An 860 3537 12 Kim Thư 1447 4880 13 Phương Trung 3963 16154 14 Đỗ Động 1500 5521 15 Thanh Văn 1500 5651 16 Cao Dương 2174 9873 17 Xuân Dương 1379 5788 18 Dân Hòa 2234 7915 19 Hồng Dương 2935 12023 20 Tân Ước 2108 8202 21 Liên Châu 2235 8050 Tổng số 46599 179763 (Nguồn: Niêm giám thống kê huyện Thanh Oai, 2009) 4.1.2.3. Thực trạng phát triển cơ sở hạ tầng a. Giao thông Giao thông của huyện bao gồm các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ, huyện lộ, đường liên xã và đường dân sinh. + Quốc lộ: Tuyến quốc lộ 21B từ thành phố Hà Đông chạy dọc theo chiều dài huyện đi hầu hết các xã và là tuyến đường huyết mạch chính của huyện hiện tại đã được nâng cấp, cải tạo nhưng lòng đường vẫn còn hẹp. + Tỉnh lộ: có 02 tuyến là tỉnh lộ 71 và tỉnh lộ 73 với tổng chiều dài khoảng 15 km, đảm bảo thông thương giữa trung tâm huyện với các xã Tam Hưng, Mỹ Hưng, Thanh Văn, Thanh Thuỳ, Cao Dương, Xuân Dương… Các tuyến tỉnh lộ nói trên đều đã được nâng cấp, cải tạo và trải nhựa, thuận lợi cho giao lưu trao đổi hàng hoá, đi lại của nhân dân. + Hệ thống đường liên xã, liên thôn: có tổng chiều dài hàng trăm km, tất cả các xã đều có đường ô tô vào tận thôn, xóm. Hiện tai đường trong các thôn xóm hầu hết đã được bê tông hoá, việc đi lại của người dân khá thuận tiện. b. Thuỷ lợi Hệ thống kênh La Khê có chiều dài khoảng 20 km, phục vụ tưới nước cho hầu hết các xã trên địa bàn huyện, tất cả 21 xã, thị trấn đều có trạm bơm tưới tiêu nước và hàng trăm km kênh mương chính lớn, nhỏ. Trong năm 2009 huyện đã tiến hành tu sửa 16 trạm bơm, lắp đặt 53 máy bơm công suất cao ở 18 vị trí nâng tổng số 66 trạm bơm trên toàn huyện, trong đó nhà nước quản lý 25 trạm bơm với 213 máy bơm. Đồng thời huyện cũng đã lắp thêm 3 trạm biến áp tại các trạm bơm Nhân Hiền, Phương Trung II, Đầu kênh N9 để phục vụ chống hạn. c. Bưu chính viễn thông Huyện có tổng số 17 điểm bưu điện văn hoá xã, đảm bảo thông tin liên lạc phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội của địa phương. Hệ thống truyền thanh của huyện được xây dựng, sửa chữa, nâng cấp đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời những thông tin về tình hình kinh tế - xã hội, chủ chương, đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. d. Năng lượng Mạng lưới điện của huyện được phát triển đến tất cả các thôn, xóm. Ngành điện đã đầu tư 1,9 tỷ đồng xây mới 11 trạm biến áp với tổng công suất 2.110 KVA và 5,7 km đường dây cao thế cho 09 xã, đảm bảo cung cấp điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. e. Y tế Công tác y tế chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho nhân dân trong huyện được tăng cường với hệ thống mạng lưới y tế cơ sở khá hoàn thiện. Ở hầu hết các xã, thị trấn trong huyện đã có đội ngũ y, bác sỹ. Trên địa bàn huyện có 1 bệnh viện huyện, 1 phòng khám đa khoa, 100% xã có trạm y tế xã. Tuy nhiên cán bộ y tế làm y, bác sỹ còn ít với chủ yếu là y tá và nữ hộ sinh, 100% trạm y tế xã có đủ giường bệnh; 100% trạm y tế xã có trang thiết bị chuyên môn từ tối thiểu đến hoàn thiện. f. Giáo dục – đào tạo Thanh Oai có 03 trường Trung học phổ thông đó là Nguyễn Du, Thanh Oai A, Thanh Oai B. Huyện có 25 trường Trung học cơ sở; 56 trường tiểu học; 100% các xã, thị trấn có trường mầm non, lớp mẫu giáo. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên được kiện toàn, nâng cao chất lượng. Số lượng giáo viên của các bậc học ngày một tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Hệ thống trang thiết bị cũng được tăng cường, ngoài thiết bị được cấp theo quy định, huyện còn đầu 33.87 tỷ đồng để cải tạo nâng cấp các trường và đã có 4 trường THCS công nhận đạt chuẩn quốc gia: Dân Hoà, Hồng Dương, Tam Hưng, Bình Minh. g. Văn hoá thông tin Công tác quản lý nhà nước về hoạt động văn hoá được tăng cường, các dịch vụ văn hoá hoạt động đúng pháp luật, phong trào xây dựng làng văn hoá được triển khai đồng đều trên các địa phương, đơn vị. Kết quả năm 2009 huyện vinh dự được đón nhận 8 bằng di tích lịch sử văn hoá, trên toàn huyện có 35.925 hộ đạt danh hiệu gia đình văn hoá, có 5 làng, 7 cơ quan, đơn vị đạt danh hiệu làng, cơ quan văn hoá nâng tổng số làng, cơ quan đơn vị đạt danh hiệu văn hoá lên 58 làng, 74 cơ quan, đơn vị. h. Thể dục thể thao Trong năm 2009 huyện đã tổ chức 18 giải thi đấu thể thao với 3087 vận động viên tham gia. Tham gia 10 giải thi đấu thể thao ở tỉnh, thành phố đạt 7 huy chương vàng, 7 huy chương bạc, 10 huy chương đồng. Thành lập mới 11 câu lạc bộ thể dục thể thao nâng tổng số trên toàn huyện là 71 câu lạc bộ. Phong trào thể dục, thể thao của huyện trong những năm qua đã có nhiều tiến bộ, từng bước được mở rộng và phát triển góp phần vào nâng cao đời sống tinh thần của người dân. 4.1.3. Đánh giá chung 4.1.3.1. Thuận lợi + Huyện Thanh Oai thành phố Hà Nội có vị trí thuận lợi nằm tiếp giáp với thành phố Hà Đông và thành phố Hà Nội, có hệ thống giao thông tương đối hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi giao lưu thông thương hàng hoá với các địa bàn trong thành phố và trong cả nước. Trong thời gian tới huyện được đầu tư xây dựng mới và nâng cấp nhiều công trình hạ tầng cơ sở, mở rộng, phát triển đô thị và tiếp nhận các dự án phát triển công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp, thương mại, du lịch… + Là huyện có địa hình bằng phẳng, khí hậu thuận lợi phù hợp với một số loại cây trồng có giá trị kinh tế cao như: lúa, ngô, khoai lang, đậu tương. . . Bên cạnh đó ngành chăn nuôi cũng có điều kiện phát triển. + Thanh Oai có lực lượng lao động dồi dào, các làng nghề truyền thống vẫn được duy trì và ngày càng mở rộng là nguồn lực quan trọng thúc đẩy kinh tế của huyện phát triển, hơn thế nữa trình độ dân trí ngày được nâng cao, thuận lợi cho việc tiếp thu khoa học kỹ thuật để áp dụng vào sản xuất. 4.1.3.2. Khó khăn + Việc khai thác tài nguyên bừa bãi không chỉ lãng phí, gây ô nhiễm môi trường, làm cạn kiệt tài nguyên mà hiệu quả kinh tế mang lại chưa cao. + Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã được thực hiên trong những năm vừa qua cũng đã tạo ra được những hiệu quả đáng kể cho sự phát triển kinh tế song tốc độ còn chậm. + Lực lượng lao động dồi dào chủ yếu là lao động nông nghiệp nên tình trạng lao động nông nhàn vẫn còn phổ biến, hiện tượng lao động nông nhàn đi làm thêm ở thành phố lớn vẫn còn nhiều. Điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý nhân khẩu và lao động. + Nhiều mặt hàng sản xuất truyền thống mới chỉ phục vụ cho nhu cầu của người dân trong huyện và các huyện liền kề chứ chưa được tiêu thụ rộng rãi gia cả nước và quốc tế. 4.2. Thực trạng rác thải sinh hoạt thị trấn Kim Bài 4.2.1 Nguồn phát sinh rác thải Nguồn phát sinh rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn chủ yếu từ sinh hoạt của các hộ gia đình, ngoài ra từ các cơ quan, các chợ, quán ăn, trường học và các hoạt động thương mại, dịch vụ khác. Nguồn phát sinh rác thải sinh hoạt của toàn thị trấn được thể hiện ở bảng 4.3 Bảng 4.3. Nguồn phát sinh rác thải trên địa bàn thị trấn Kim Bài Nguồn Khối lượng (tấn/ngày) Tỷ lệ (%) RTSH hộ gia đình 3,92 62,32 Rác thải từ các chợ 0,83 13,24 Rác thải từ các quán ăn, dịch vụ công cộng... 0,95 15,07 Rác thải từ trường học, cơ quan, công ty 0,59 8.98 Tổng 6,29 100 ( Nguồn:UBND thị trấn Kim Bài) Từ bảng trên cho thấy: Rác thải sinh hoạt từ các hộ gia đình chiếm tỷ lệ lớn nhất (62,32%). Rác thải từ các chợ: thị trấn Kim Bài có 3 thôn và một khu phố, mỗi nơi có 1 chợ để phục vụ đời sống hàng ngày của nhân dân nên lượng rác thải cũng chiếm một tỷ lệ tương đối (13,24%); nhất là ở khu vực bán rau, hoa quả và các hàng ăn uống. Rác thải từ nguồn này chủ yếu là chất hữu cơ dễ phân huỷ như thức ăn thừa, rau củ, quả bị hỏng...ngoài ra còn một lượng lớn các loại bao bì, túi nilon. Thêm vào đó là rác thải từ các hoạt động dịch vụ, nhà hàng và các quán ăn. Do khu phố thuộc thị trấn có tuyến quốc lộ 21B chạy qua, mặt khác ở đây tập trung toàn bộ các cơ quan hành chính của huyện nên việc kinh doanh buôn bán rất phát triển đặc biệt là các nhà hàng, quán ăn.... Vì vậy, lượng rác thải phát sinh từ nguồn này cũng chiếm một lượng đáng kể (15,07%). Rác thải từ khu vực trường học, cơ quan, công sở chiếm tỷ lệ nhỏ nhất (8,98%), do ở đây chủ yếu là giấy, bao bì plastic... 4.2.2 Thành phần rác thải Theo kết quả điều tra hộ gia đình, rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Kim Bài chủ yếu là chất hữu cơ, tỷ lệ này chiếm khoảng 40% bao gồm: vỏ rau củ, thức ăn thừa; tỷ lệ chất thải phi hữu cơ là 60% bao gồm chủ yếu túi nilon, vỏ hến, vỏ trai, giấy, giẻ vụn, các loại vỏ hộp…được thể hiện ở bảng 4.4 dưới đây: Bảng 4.4. Thành phần RTSH tại thị trấn Kim Bài Thành phần rác Tỷ lệ Chất hữu cơ 40% giấy, giẻ rách 12% nhựa, cao su, bao nilon 15% kim loại, vỏ đồ hộp 3% thuỷ tinh, mảnh vụn kiến trúc 5% đất cát, xỉ than,và các tạp chất khác 25% (Nguồn: Điều tra hộ gia đình - 2010) Hình 4.2.Thành phần RTSH tại thị trấn Kim Bài Sau quá trình phân loại rác tại các hộ gia đình thấy được rằng tỷ lệ các chất hữu cơ và vô cơ trong rác thải ở các thôn nhìn chung rất khác nhau. Bảng 4.5. Tỷ lệ chất hữu cơ và vô cơ trong rác thải STT Tên thôn Chất hữu cơ (%) Chất vô cơ (%) 1 Cát Động 43 57 2 Kim Lâm 24 76 3 Kim Bài 28 72 4 Khu Phố 65 35 Kết quả cho thấy khu Phố có tỷ lệ chất hữu cơ cao nhất (65%) do ở đây chủ yếu là các hộ gia đình kinh doanh, buôn bán, công nhân viên chức có mức thu nhập khá cao và ổn định. Chợ ở đây cũng rất phong phú với nhiều loại hàng hóa chủ yếu là thực phẩm. Không có hoạt động chăn nuôi nên thực phẩm, thức ăn thừa không được tận dụng mà thải bỏ toàn bộ. Do vậy tỷ lệ chất hữu cơ trong rác thải ở đây là rất cao chủ yếu là chất hữu cơ dễ phân hủy sinh học, còn thành phần chất vô cơ không đáng kể chủ yếu là túi nilon, đất cát. bụi đường( do có tuyến đường 21B chạy qua). Tiếp đến là thôn Cát Động với tỷ lệ chất hữu cơ là 43%. Cát Động là thôn thuần nông với ngành sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi là chủ yếu do vậy thực phẩm dư thừa của các hộ gia đình được tận dụng hầu hết cho chăn nuôi. Tuy nhiên, các hộ gia đình ở đây đều có nghề trồng rau mùng tơi trên diện tích đất màu rất lớn. Lá rau già bị bỏ đi khi thu hoạch rau (2 lần/tuần) không sử dụng được cho chăn nuôi, người dân cũng không tận dụng làm phân bón luôn cho rau mà thải bỏ chung cùng với rác thải sinh hoạt. Vì thế mà tỷ lệ chất hữu cơ trong rác thải của thôn vẫn khá cao. Tại hai thôn Kim Bài và Kim Lâm do không thuận lợi về giao thông nên ở đây không có các dịch vụ ăn uống cũng như có rất ít các ngành dịch vụ khác. Người dân chủ yếu là trồng trọt và chăn nuôi, thực phẩm thừa hàng ngày được tận dụng cho chăn nuôi là chính, lá cây rụng người dân thường đốt ngay tại vườn. Do đó thành phần chất hữu cơ trong rác thải sinh hoạt ở hai thôn này thấp, thôn Kim Bài (28%), thôn Kim Lâm (24%). Mặt khác khi đi điều tra thực địa, quan sát thấy tại 2 thôn này người dân đun nấu bằng than tổ ong rất phổ biến nên lượng xỉ than thải ra ở hai thôn này là khá caovà nhìn chung thì rác thải tại đây chủ yếu là rác vô cơ (túi nilon, xỉ than, đất cát, rẻ rách….). Hình 4.3. Tỷ lệ rác hữu cơ và vô cơ tại các thôn của thị trấn Kim Bài Việc phân tích số liệu và khảo sát thực địa cho thấy các thôn có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội khác nhau thì lượng rác thải phát sinh cũng khác nhau kể cả về khối lượng và thành phần các chất nhưng nhìn chung chủ yếu vẫn là các chất hữu cơ. Tỷ lệ các chất hữu cơ cao rất thuận lợi cho việc tận dụng rác thải để sản xuất phân bón nếu rác thải được phân loại đúng cách. Tuy nhiên đây cũng là bất lợi cho công tác thu gom và xử lý vì rác thải không được thu gom kịp thời sẽ bốc mùi khó chịu gây ô nhiễm môi trường không khí và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm khác. 4.2.3 Khối lượng rác thải phát sinh Theo kết quả điều tra hộ gia đình, bình quân mỗi người dân của thị trấn thải ra lượng rác là 0,63 kg/người/ngày. Như vậy với tổng số dân là 6223 người thì lượng rác thải sinh hoạt phát sinh từ các thôn trên địa bàn thị trấn khoảng 3,92 tấn/ngày. Đó là chưa kể một lượng lớn rác thải sinh hoạt phát sinh từ các khu chợ, các hoạt động thương mại dịch vụ và từ các cơ quan, công ty, trường học trên địa bàn thị trấn. Theo số liệu thống kê của UBND thị trấn thì lượng rác thải sinh hoạt phát sinh từ các nguồn này khoảng 2,37 tấn/ngày. Như vậy rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn phát sinh khoảng 6,29 tấn/ngày. Vào những ngày nghỉ cuối tuần hay những ngày lễ hội thì khối lượng rác thỉa phát sinh lại tăng lên, nếu lượng rác này không được thu gom thường xuyên sẽ gây ra ô nhiễm môi trường, mất mỹ quan đô thị và ảnh hưởng tới sức khỏe người dân. Bảng 4.6 Phân bố dân cư và lượng rác thải sinh hoạt của thị trấn Kim Bài STT Thôn Số khẩu Khối lượng RTSH ( tấn/ngày) Tỷ lệ (%) 1 Cát Động 1805 1,79 28,4 2 Kim Lâm 1409 1,30 20,8 3 Kim Bài 1586 1,52 24,2 4 Khu Phố 1463 1,68 26,6 5 Tổng 6223 6,29 100 ( Nguồn : UBND thị trấn Kim Bài và điều tra hộ gia đình) Hình 4.4 Khối lượng RTSH của các thôn tại thị trấn Kim Bài Từ hình trên cho thấy lượng rác thải sinh hoạt phát sinh cao ở nơi có số dân cư đông (thôn Cát Động) và nơi có mức thu nhập của người dân cao (khu Phố). Còn các thôn khác dân số ít thì lượng rác thải sinh hoạt cũng ít hơn. Kết quả cân rác của 20 hộ gia đình trong 30 ngày liên tục trên địa bàn thị trấn cho thấy lượng phát sinh rác thải sinh hoạt ở các hộ khác nhau thì khác nhau. Bảng 4.7. Lượng rác thải của hộ/ngày (Điều tra 20 hộ) Lượng RTSH bình quân (kg/người/ngày) Tần suất lặp lại Tỷ lệ (%) 0,30 - 0,50 60 10 0,51 - 0,60 168 28 0,61 - 0,70 191 31,8 0,71 - 0,80 132 22 0,81 – 1 40 6,7 > 1 9 1,5 Tổng 600 100 ( Nguồn: Điều tra hộ - 2010) Từ bảng trên cho thấy lượng rác thải sinh hoạt bình quân trên địa bàn thị trấn dao động phổ biến ở mức 0,51 – 0,8 kg/người/ngày ( chiếm 81,8% ). Lượng rác thỉa bình quân ở mức 0,3 – 0,5 kg/người/ngày và mức 0,81 – 1 kg/người/ngày chiếm tỷ lệ nhỏ ( chiếm 18,2%). Tốc độ phát thải tuỳ thuộc vào đối tượng hộ gia đình vì mỗi hộ có sức mua, tiêu thụ hàng hoá khác nhau và phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, số nhân khẩu trong hộ gia đình. 4.3 Thực trạng quản lý rác thải sinh hoạt tại thị trấn Kim Bài Công tác quản lý rác thải trên địa bàn thị trấn ở mức thấp. Tại đây chưa có sự quản lý đồng bộ chung cho toàn thị trấn mà từng thôn có sự quản lý riêng. Do vậy, không có biện pháp quản lý hoạt động của đội thu gom cũng như không theo dõi được tình hình phát sinh rác thải của thị trấn. 4.3.1 Thực trạng quản lý rác thải tại thôn Cát Động và thôn Kim Lâm Công tác quản lý rác thải trên địa bàn 2 thôn này đang ở mức rất thấp, mới chỉ dừng lại ở việc thôn đưa ra quyết định thành lập đội thu gom rác thải mà không có biện pháp quản lý hoạt động của đội thu gom cũng như không theo dõi được tình hình phát sinh rác thải của thôn. Thôn chọn ra địa điểm làm bãi đổ rác, sau đó tiến hành thành lập đội thu gom rác của từng thôn. Những người thu gom rác là những người dân tự nhận trách nhiệm thu gom và đăng kí với chính quyền thôn. Các ông trưởng thôn sẽ xác định ranh giới Và số hộ gia đình trong từng thôn giao cho người thu gom rác phải chịu trách nhiệm thu gom, sau đó các ông trưởng thôn sẽ có trách nhiệm nhắc nhở, đôn đốc người thu gom hoàn thành công việc của mình nhằm giữ gìn vệ sinh môi trường trong toàn thôn. Do không quản lý lượng rác thải phát sinh hàng ngày đã dẫn đến việc lựa chọn bãi đổ rác không thích hợp cả về quy mô lẫn vị trí gây ra những bất cập trong đời sống hàng ngày của người dân như: bãi rác nhỏ không đáp ứng được lượng rác thải phát sinh, bãi rác quá gần khu vực sinh sống của người dân, gần đường giao thông gây ô nhiễm mùi rất lớn đặc biệt các ngày có gió lớn. Đây chính là mặt yếu kém trong công tác quản lý rác thải tại 2 thôn này. 4.3.2 Thực trạng quản lý rác thải tại thôn Kim Bài Công tác quản lý rác thải tại thôn Kim Bài đã có sự khác biệt. thôn đưa ra quyết định thành lập đội thu gom gồm 2 người tham gia vào công tác thu gom với những điều khoản thỏa thuận giữa người thu gom và thôn. Tại đây, rác thải sau khi thu gom sẽ được đưa đến 1 thùng côngtennơ đặt ở một địa điểm do thôn đã chọn, cách xa khu dân cư. Khi rác đầy thùng côngtennơ này thì xe của công ty môi trường đô thị Hà Nội sẽ đến chở đi. Do vậy đã theo dõi được lượng rác thải phát sinh hàng ngày trên địa bàn thôn. Tuy nhiên, việc quản lý tần xuất thu gom rác ở đây chưa được chặt chẽ. Theo phản ánh của người dân ở thôn Kim Bài thì người đi thu gom rác thường xuyên không đi thu gom đúng lịch như thôn đã quy định là 3 lần/tuần, có những khi 4 hay 5 ngày mới đi thu gom 1 lần. Đây là lỗi do sự quản lý thiếu chặt chẽ của những người có trách nhiệm tại thôn mới để xảy ra hiện tượng như trên. 4.3.3 Thực trạng quản lý rác thải tại khu Phố Khu phố được coi như là bộ mặt của thị trấn, vì thế công tác quản lý rác thải tại đây diễn ra rất chặt chẽ. Thị trấn trực tiếp quản lý, chọn địa điểm đặt côngtennơ để chứa rác sau thu gom. UBND thị trấn đã kí hợp đồng với 2 người chịu trách nhiệm thu gom rác ở khu Phố. Họ đi thu gom rác hàng ngày vào buổi sáng sớm kết hợp với quét dọn đường phố khi xe cộ chưa lưu thông qua lại nhiều để trách gây ách tắc giao thông. Ở chợ lại có một người thu gom rác chợ riêng. Khi rác đầy thùng côngtennơ người chịu trách nhiệm về vấn đề môi trường ở thị trấn sẽ thông báo cho công ty môi trường đô thị Hà Nội về vận chuyển đi. Do có sự quản lý tốt và chế độ đãi ngộ đối với người thu gom rác phù hợp nên thị trấn đã quản lý được tần xuất thu gom cũng như lượng rác thải phát sinh hàng ngày trên địa bàn khu phố. 4.4 Thực trạng thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt tại thị trấn Kim Bài 4.4.1 Khả năng đáp ứng của công tác thu gom a. Thiết bị và phương tiện thu gom + Thôn Cát Động Thiết bị và phương tiện thu gom của thôn rất đơn giản gồm: 1 chổi, 1 xẻng, 2 bộ quần áo bảo hộ lao động, 1 đôi ủng, 2 đôi găng tay, 1 xe bò kéo. Những trang thiết bị này do thôn đầu tư cho 1 người thu gom/năm. + Thôn Kim Bài Thiết bị và phương tiện thu gom gồm: 1 chổi, 1 xẻng, 2 đôi ủng, 2 mũ, 2 bộ quần áo bảo hộ lao động, 2 đôi găng tay, 1 xe thu rác chuyên dụng. Những trang thiết bị này cũng do thôn đầu tư cho 1 người thu gom/năm. + Thôn Kim Lâm Thiết bị và phương tiện thu gom gồm: 1 bộ quần áo bảo hộ lao động, 2 đôi găng tay, 1 xẻng, 1 chổi, 1 đôi ủng, 1 mũ , 1 xe bò kéo dùng chung cho cả 2 người thu gom của thôn. Những trang thiết bị này do thôn đầu tư cho người thu gom/năm. + Khu Phố Thiết bị và phương tiện thu gom gồm: 3 xe chuyên dụng, 2 bộ quần áo bảo hộ lao động/năm, 2 đôi găng tay/tháng, 2 đôi ủng/năm, 2 chổi, 2 xẻng. b. Thành phần và tiền công thu gom + Thôn Cát Động Thôn có 4 người tham gia vào công tác thu gom. Toàn thôn được chia làm 4 đội, mỗi người chịu trách nhiệm thu gom 1 đội. Do thôn có dân số đông nhất, lại có diện tích lớn nên số người tham gia vào công tác thu gom cũng nhiều hơn các thôn khác. Trong thôn không có chợ lớn mà chỉ chỉ có chợ nhỏ rải rác vì thế rác ở chợ thuộc địa bàn đội nào thì người thu gom ở đội đó có trách nhiệm thu gom. Tiền công thu gom được lấy từ việc thu lệ phí của người dân trong thôn. Mỗi người thu gom được trả 500 nghìn đồng/tháng. + Thôn Kim Bài Thôn có 2 người tham gia vào công tác thu gom. Thôn được chia làm đôi, mỗi người chịu trách nhiệm thu gom một nửa thôn. Chợ trên địa bàn của ai người đó chịu trách nhiệm thu gom. Tiền công thu gom được lấy từ việc thu lệ phí của người dân trong thôn. Mỗi người thu gom được trả 1 triệu đồng/tháng. + Thôn Kim Lâm Thôn có 2 người tham gia vào công tác thu gom. Hai người này cùng đi thu gom ở cả thôn do diện tích của thôn nhỏ. Tiền công thu gom được lấy từ việc thu lệ phí của người dân trong thôn. Mỗi người thu gom được trả 500 nghìn đồng/tháng. + Khu Phố Khu phố có 3 người tham gia vào công tác thu gom trong đó có 2 người chịu trách nhiệm thu gom rác từ các hộ gia đình và 1 người chịu trách nhiệm thu gom rác chợ. Tiền công thu gom được lấy từ việc thu lệ phí của người dân trong khu Phố. Mỗi người thu gom được trả 1triệu 450 nghìn đồng/tháng. Ngoài ra, mỗi tháng còn được trợ cấp thêm 2 kg xà phòng. c. Tần xuất thu gom rác thải + Thôn Cát Động Theo kết quả điều tra hộ hộ gia đình được biết tần xuất thu gom là 3 lần/tuần.mỗi người thu gom đi thu gom hết đội của mình sẽ vận chuyển rác ra bãi rác chung của thôn. Sau thu gom rác được đổ trực tiếp ra bãi mà không qua phân loại cũng như không có xử lý sơ bộ. + Thôn Kim Bài Tại đây tần xuất thu gom cũng là 3 lần/tuần. Thời gian thu gom vào buổi sáng. Người thu gom sau khi thu gom rác sẽ vận chuyển rác đến vị trí đặt côngtennơ đổ vào đó. + Thôn Kim Lâm Tần xuất thu gom của thôn Kim Lâm là 3 lần /tuần. Thời gian thu gom vào buổi chiều. Người thu gom sau khi thu gom rác sẽ vận chuyển đến bãi rác của thôn. Bãi rác của thôn Kim Lâm là một ao nhỏ đã không sử dụng, lại ngay gần đường đi và nguồn nước tưới cho nông nghiệp, khi rác ngấm nước bốc mùi rất khó chịu khi đi qua đây, có nguy cơ ô nhiễm không khí và nguồn nước nghiêm trọng. + Khu Phố Tần xuất thu gom của khu Phố là 1 lần/ngày. Thời gian thu gom vào buổi sáng sớm. Người thu gom sau khi thu gom rác sẽ vận chuyển rác đến vị trí đặt côngtennơ đổ vào đó. Riêng chợ Kim Bài thuộc khu phố có 1 người đảm nhận việc thu gom và cũng đi thu gom hàng ngày. Bảng 4.8 Lượng người, tần suất và tiền công của người thu gom rác Tên thôn Số người thu gom Tần suất thu gom (lần/tuần) Tiền công (nghìn đồng/người/tháng) Cát Động 4 3 500 Kim Bài 2 3 1 triệu Kim Lâm 2 3 500 Khu Phố 3 7 1 triệu 450 4.4.2 Thực trạng xử lý rác thải sinh hoạt của từng thôn a. Thôn Cát Động + Tự tiêu hủy: Hình thức này diễn ra tại đây ít, tuy nhiên hiện tượng vứt rác bừa bãi ra ven ao, bờ mương còn khá phổ biến. Tỷ lệ xử lý theo hình thức này chiếm khoảng 16.8 %. + Tái sử dụng: Các hộ gia đình thường có thói quen giữ lại những loại rác thải có thể tái chế được như hộp giấy, vỏ lon, chai lọ, đồ nhựa, kim loại để bán cho người đi thu mua đồng nát. Hình thức tái sử dụng thứ hai là người dân tận dụng thực phẩm dư thừa trong sinh hoạt hàng ngày vào chăn nuôi.Theo kết quả điều tra tỷ lệ xử lý theo hình thức này chiếm khoảng 42,2%. + Thu gom: đây là hình thức xử lý cuối cùng đối với nguồn rác thải trên địa bàn thôn Cát Động. Rác thải không được tận dụng từ các hộ gia đình, các chợ, trường học… được người thu gom rác thu gom và vận chuyển đến bãi rác chung của thôn. Bãi rác của thôn rộng khoảng 200 m2 (theo số liệu của trưởng thôn Cát Động), bãi rác này nằm ở cách đồng gần chân đê (cách đê khoảng 150m). Đây chỉ là vùng đất được thôn chọn để đổ rác chứ chưa hề có nghiên cứu, đánh giá để lựa chọn vị trí xây dựng bãi rác hợp vệ sinh. Biện pháp xử lý duy nhất được áp dụng tại bãi rác là khi mà rác thải nhiều họ sẽ tiến hành đốt rác. Khói khi đốt rác theo chiều gió sẽ đưa vào trong thôn gây ô nhiễm không khí. Theo kết quả điều tra tỷ lệ xử lý theo hình thức này chiếm khoảng 41%. Hình 4.5 Tỷ lệ % cách xử lý rác thải của người dân thôn Cát Động b. Thôn Kim Bài + Tự tiêu hủy: đây vẫn còn là hình thức khá phổ biến của người dân trong thôn, việc tự tiêu hủy diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau như đổ tại góc vườn, đổ tại các khu đất trống, đổ ra vên bờ mương… Theo kết quả điều tra tỷ lệ xử lý theo hình thức này chiếm khoảng 22%. + Tái sử dụng: là hình thức khá phổ biến đang diễn ra trong thôn. Họ giữ lại những vật liệu có thể bán được và bán cho người thu mua phế liệu. Bên cạnh việc tận dụng phế liệu để bán là hình thức tận dụng nguồn thực phẩm dư thừa của nhiều hộ gia đình vào chăn nuôi. Theo kết quả điều tra tỷ lệ xử lý theo hình thức này chiếm khoảng 41%. +Thu gom: rác sau khi thu gom được vận chuyển đến vị trí đặt côngtennơ để đổ. Vị trí đặt côngtennơ cách đường 21B khoảng 500m, cạch đường lớn thuận tiện cho xe ô tô vào vận chuyển đi. Mỗi khi côngtennơ chứa đầy rác, thôn sẽ báo với người chịu trách nhiệm về vấn đề môi trường ở UBND thị trấn vận chuyển rác đi xử lý. Rác sẽ được công ty môi trường đô thị vận chuyển đến bãi rác Lam Sơn để xử lý. Theo kết quả điều tra tỷ lệ xử lý theo hình thức này chiếm khoảng 37%. Hình 4.6 Tỷ lệ % cách xử lý rác thải của người dân thôn Kim Bài c. Thôn Kim Lâm +Tự tiêu hủy: là hình thức phổ biến đang diễn ra trong thôn. Do ở thôn Kim Lâm mới bắt đầu áp dụng thu gom rác thải vảo tháng 1/2010 nên người dân chưa quen hẳn với việc tập trung rác thải chờ người thu gom đến đem đi mà thường tự tiêu hủy tại nhà như đốt rác trong vườn, đổ ra bờ ao, mương trong làng… gây ô nhiễm, mất mỹ quan thôn xóm. Theo kết quả điều tra tỷ lệ xử lý theo hình thức này chiếm khoảng 26,5%. + Tái sử dụng: Ngay trong thôn có hộ chuyên thu mua sắt vụn nên những phế liệu có thể tận dụng như: vỏ lon, đồ nhựa hỏng, đồ kim loại… họ đều tận dụng để đem bán. Trong thôn các hộ chăn nuôi theo kiểu hộ gia đình là phổ biến nên thực phẩm dư thừa hầu như được giữ lại cho chăn nuôi. Theo kết quả điều tra, tỷ lệ xử lý theo hình thức này chiếm khoảng 39 %. +Thu gom: là hình thức sử lý cuối cùng đối với nguồn rác thải trên địa bàn thôn. Rác thải không tận dụng được người thu gom vận chuyển ra bãi rác của thôn.Bãi rác của thôn được chọn là một thùng ngoài cách đồng của làng. Hình thức xử lý duy nhất tại đây là đốt rác và chỉ một phần rác thải cháy được. Bãi rác của thôn là một bãi rác lộ thiên nằm ngay cạch đường đi ra đồng nên khi người dân đi làm đồng sẽ phải ngửi mùi ở bãi rác bốc lên rất khó chịu. Mặt khác thùng cũng nằm cạch mương tưới tiêu nước nên nước chảy sang bên thùng chứa rác rất nhiều làm cho rác một phần bị dìm trong nước phân hủy và bốc mùi gây ô nhiễm trầm trọng đến môi trường nước, môi trường không khí tại đây. Theo kết quả điều tra, tỷ lệ xử lý theo hình thức này chiếm khoảng 34,5% Hình 4.7 Tỷ lệ % cách xử lý rác thải của người dân thôn Kim Lâm d. Khu Phố + Tự tiêu hủy: Hình thức xử lý này diễn ra rất ít tại đây do ý thức người dân tham gia vào việc bảo vệ môi trường là khá cao. Theo khảo sát thực địa thì rất ít hộ vứt rác ra đường, phần rác tồn tại trên đường giao thông chủ yếu là do việc vứt rác bừa bãi của người qua đường. Theo kết quả điều tra, tỷ lệ xử lý theo hình thức này chiếm khoảng 5,5%. + Tái sử dụng: Hình thức này diễn ra cũng không đáng kể. Việc tái sử dụng chủ yếu là việc giữ lại các phế thải có thể bán được để bán đồng nát nhưng hình thức này cũng không nhiều. Hình thức tái sử dụng thứ hai là tận dụng thực phẩm thừa làm thức ăn chăn nuôi là hầu như không có do các hộ gia đình tại Khu Phố hầu hết không chăn nuôi. Vì thế tại đây rác thải có thể tận dụng được hầu hết không được tận dụng mà đều bị thải bỏ. Theo kết quả điều tra, tỷ lệ xử lý theo hình thức này chiếm khoảng 10%. + Thu gom: đây là hình thức xử lý chính tại khu Phố. Rác thải được người đi thu gom rác thu gom hàng ngày vận chuyển đến vị trí đặt côngtennơ và đổ ở đó. Sau đó thì công ty môi trường đô thị Hà Nội sẽ đến vận chuyển rác đến bãi rác Lam Sơn để xử lý. Tuy nhiên do vị trí đặt côngtennơ nằm ngay cạch đường 21B mà tuyến đường này xe cộ hàng ngày lưu thông qua lại rất đông nên gây ô nhiễm không khí và làm mất mỹ quan đô thị. Theo kết quả điều tra, tỷ lệ xử lý theo hình thức này chiếm khoảng 84,5%. Hình 4.8 Tỷ lệ % cách xử lý rác thải của người dân khu Phố 4.5 Thái độ của nhà quản lý, công nhân thu gom và hộ gia đình đối với công tác quản lý rác thải sinh hoạt 4.5.1 Thái độ của nhà quản lý Theo điều tra thực tế cho thấy, những người có trách nhiện trong việc quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt ở thôn cũng như ở thị trấn chưa có sự quan tâm sát xao đến công việc của mình dẫn đến tình trạng quản lý chưa chặt chẽ vấn đề thu gom, xử lý rác thải. Mặt khác những người chịu trách nhiệm quản lý này thiếu kiến thức chuyên môn cần thiết cho công việc của mình. Do đó việc tuyên truyền cho người dân hiểu trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong việc bảo vệ môi trường là rất kém. 4.5.2 Thái độ của người thu gom Theo kết quả phỏng vấn người thu gom rác thải của các thôn họ đều phản ánh là nhận được mức lương chưa thỏa đáng, cụ thể: ở thôn Cát Động là 500 nghìn đồng/người/tháng; thôn Kim Bài là 1 triệu đồng/người/tháng; thôn Kim Lâm là 500 nghìn đồng/người/tháng; khu Phố là 1triệu 450 nghìn đồng/người/tháng. Ngoài lương ra họ chưa có chế độ đãi ngộ nào trong khi phải tiếp xúc với mùi hôi thối từ rác thải. Khi được hỏi về ý thức của người dân trên địa bàn thị trấn thì đa số người dân chấp hành tốt việc đổ rác bên cạch đó vẫn có hành vi đổ rác ra những nơi công cộng một cách bừa bãi không đúng nơi quy định. 4.5.3 Thái độ của hộ gia đình + Mức phí vệ sinh hàng tháng: Các thôn trên địa bàn thị trấn đều thu mức phí chi trả cho công tác thu gom và xử lý rác thải. Tuy nhiên có thôn thu theo nhân khẩu (thôn Kim Lâm 2.000 đồng/người/tháng; thôn Cát Động 1.500 đồng/người/tháng; khu Phố 3.000 đồng/người/tháng); có thôn thu theo hộ gia đình (thôn Kim Bài 5.000 đồng/hộ gia đình/tháng) không phân biệt các hộ các hộ sản xuất, kinh doanh và hộ không sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên có một vài hộ lại không đóng phí vệ sinh vì cho rằng họ không có mấy rác thải và họ có thể tự xử lý được không cần thu gom. Có 27% số hộ điều tra cho rằng mức phí đó là cao do các hộ đó thu nhập chính từ nông nghiệp. Có 48% số hộ cho rằng mức phí đó là phù hợp. Và 25% số hộ đánh giá mức phí đó thấp. + Địa điểm thường xuyên đổ rác: Kết quả điều tra và khảo sát thực tế cho thấy địa điểm thường xuyên đổ rác của các hộ gia đình phụ thuộc rất nhiều vào thói quen của người dân, quy định chung của từng thôn. Nhìn chung các hộ gia đình thường để rác ở khu vực xung quanh nhà mình như trước ngõ, lề đường nơi xe đẩy rác đi qua... sau đó có người đến thu gom. Tuy nhiên vẫn có các trường hợp đổ rác sai quy định, tiện đâu đổ đó. + Tham gia vào hoạt động dọn dẹp vệ sinh môi trường: Đa số người dân được hỏi đều trả lời có tham gia don dẹp vệ sinh xung quanh nhà ở và tổng vệ sinh đường làng, ngõ xóm vào các buổi sáng thứ 7 hàng tuần. + Ý kiến của người dân về chất lượng của dịch vụ thu gom rác thải: Theo kết quả điều tra người dân về chất lượng của hoạt động thu gom rác thải tại thôn mình thì có 40% số người được hỏi cho là tốt, 20% cho là bình thường, 33% cho là chưa tốt, 7% có ý kiến khác. Một phần nhỏ số người được hỏi phản ánh thái độ của người thu gom còn chưa tốt, chỉ thu gom rác của các hộ gia đình để ở túi nilon, xô hoặc bao tải, không quét dọn đường làng, ngõ xóm và rác rơi vãi… Như vậy, công tác thu gom, vận chuyển rác thải sinh hoạt vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định cần phải khắc phục. Hình 4.9 Đánh giá của người dân về chất lượng thu gom RTSH 4.6 Dự báo lượng rác thải phát sinh của thị trấn đến năm 1015 Nền kinh tế phát triển và sự gia tăng dân số là hai yếu tố quyết định đến lượng rác thải phát sinh trong sinh hoạt hàng ngày của người dân. Khi kinh tế phát triển đời sống người dân được nâng cao, dân số tăng lên làm cho lượng rác thải cũng tăng lên. Theo quan điểm quy hoạch kinh tế - xã hội của huyện thì tốc độ đô thị hóa của huyện nói chung và của thị trấn nói riêng trong những năm tới là rất lớn, do vậy lượng rác thải sinh hoạt phát sinh sẽ tăng lên rất đáng kể do dân số tăng lên từ việc gia tăng dân số tự nhiên, do dân di cư từ nơi khác đến và do kinh tế phát triển hơn. Bảng 4.9 Dự báo dân số thị trấn Kim Bài đến năm 2015 Năm Tỷ lệ gia tăng dân số (%)(*) Dân số dự báo (người) 2009 1,05 6223 2010 1,15 6295 2011 1,07 6362 2012 1.20 6438 2013 1,18 6514 2014 1,13 6588 2015 1,11 6661 (Nguồn: (*) Báo cáo tổng hợp cơ cấu dân cư UBND thị trấn Kim Bài giai đoạn 2005-2015) Dựa vào dân số dự báo và tình hình tăng trưởng kinh tế của thị trấn, ta có thể ước tính giả sử trung bình mỗi năm lượng rác thải phát sinh sẽ tăng 0,05 kg/người/ngày. Ta có dự báo lượng rác thỉa phát sinh đến năm 2015 ở bảng dưới đây: Bảng 4.10 Dự báo lượng rác thải phát sinh của thị trấn Kim Bài đến năm 2015 Năm Dân số dự báo (người) Lượng rác phát sinh theo đầu người (kg/ngày) Khối lượng rác phát sinh (tấn/ngày) 2009 6223 0,63 3,92 2010 6295 0,68 4,28 2011 6362 0,73 4,65 2012 6438 0,78 5,02 2013 6514 0,83 5,41 2014 6588 0,88 5,8 2015 6661 0,93 6,2 Với sự gia tăng về lượng rác thải sinh hoạt hàng ngày ở năm 2009 là 3,92 tấn/ngày và đến năm 2015 là 6,2 tấn/ngày. Cùng với sự phát triển ngày càng tăng của kinh tế, mức sống tăng cao và sự đa dạng về các ngành nghề dịch vụ… thì thành phần và tính chất của rác thải sinh hoạt cũng sẽ thay đổi đa dạng phong phú hơn nhiều. Như vậy chắc chắn sẽ gây áp lực về diện tích bãi đổ thải, áp lực đến cảnh quan và môi trường. Vì vậy thị trấn cần có những biện pháp về quản lý và xử lý thích hợp để có thể kiểm soát được lượng rác thải phát sinh hàng ngày và giữ gìn được môi trường sống trong lành. 4.7 Đề xuất một số biện pháp quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt trên địa bàn thị trấn Kim Bài 4.7.1 Những hạn chế trong công tác quản lý, xử lý rác thải a. Hạn chế trong công tác quản lý + Chưa có hệ thống quản lý chất thải chung cho toàn thị trấn mà vẫn là từng thôn tự quản lý, thị trấn chỉ có một cán bộ chuyên trách về môi trường nên vấn đề thu gom và phản ánh của người dân chưa được chú ý giải quyết. + Thiếu sự đầu tư cho công tác quản lý chất thải. Cụ thể là trang thiết bị thu gom, vận chuyển còn thiếu, cũ, lạc hậu chưa đáp ứng được yêu cầu cần thiết. Mức phí vệ sinh môi trường còn chưa hợp lý, chưa công bằng, chưa đáp ứng đầy đủ và đúng mức cho công tác quản lý rác thải. + Công tác quản lý còn thiếu chặt chẽ dẫn đến không theo dõi được tần xuất thu gom có đúng như quy định hay không, và vũng không theo dõi được lượng rác thải phát sinh trên toàn thị trấn. + Hoạt động tuyên truyền vấn đề rác thải nói riêng và vấn đề vệ sinh môi trường nói chung mới chỉ mang tính chất phát động, chưa được triển khai liên tục. Công tác tuyên truyền chủ yếu là đọc trên loa phát thanh. Kết quả điều tra hộ gia đình cho thấy có 35% số hộ gia đình được hỏi thường xuyên nghe hệ thống phát thanh của thôn tuyên truyền về vấn đề vệ sinh môi trường; 22% trả lời thỉnh thoảng nghe; 29% không để ý và 14% chưa từng nghe. Hình 4.10 Hiệu quả của phương tiện truyền thanh Như vậy, có thể thấy công tác giáo dục, tuyên truyền chưa phát huy được hiệu quả trên thực tế. b. Hạn chế trong công tác xử lý + Việc thu gom rác thải mới chỉ dừng lại ở việc đổ rác từ các dụng cụ chứa rác của các hộ gia đình, chưa chú ý đến việc quét dọn đường làng, ngõ xóm (trừ khu Phố). + Trên địa bàn thị trấn hoàn toàn chưa được phổ biến về phân loại rác thải nên nhận thức của người nhân còn kém. Nhiều người còn cho rằng rác là thứ bỏ đi không cần mất công phân loại. Một số hộ nhận thức được tầm quan trọng của phân loại rác thì cho rằng khó có thể thực hiện trong điều kiện hiện nay khi mà có phân loại thì lúc thu gom các loại rác vẫn được đổ chung với nhau. + Ý thức của người dân chưa cao, vẫn còn hiện tượng đổ rác không đúng quy định làm mất mỹ quan, tăng thêm sự vất vả của công nhân thu gom. + Rác thải chưa được đem đi xử lý toàn bộ, mới chỉ có thôn Kim Bài và khu Phố là được công ty môi trường đô thị vận chuyển rác đi xử lý, còn lại rác thải sau thu gom chỉ được đổ tại bãi rác lộ thiên của thôn. Mặt khác việc đốt rác tại những bãi rác này đã gây nên tình trạng ô nhiễm không khí mà đối tượng phải chịu sự ô nhiễm này chính là người dân sống trong thôn làm tổn hại đến sức khỏe người dân. + Việc áp dụng các văn bản pháp luật trong công tác quản lý và xử lý rác thải chưa phát huy được trong thực tế, chưa áp dụng các hình phạt đối với người đổ rác không đúng nơi quy định. 4.7.2 Đề xuất một số biện pháp quản lý, xử lý rác thải a. Biện pháp quản lý Với dự báo lượng rác thải phát sinh trong thời gian tới sẽ đặt ra những yêu cầu cấp bách trong công tác quản lý rác thải tại thị trấn chính vì vậy cần phải có những biện pháp quản lý thích hợp. Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện nhiệm vụ quản lý môi trường nói chung và quản lý rác thải sinh hoạt nói riêng, ta có thể áp dụng nhiều công cụ khác nhau như: công cụ pháp luật, công cụ kinh tế, giáo dục cộng đồng…nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm bảo vệ môi trường cho toàn thị trấn. + Thành lập bộ máy quản lý môi trường, phối hợp với nhau để nắm vững được tình hình môi trường chung của thị trấn, nâng cao hiệu quả quản lý Mỗi thôn có người phụ trách quản lý về môi trường. Tổ chức tập huấn cho đội thu gom rác thải về kĩ thuật thu gom, phân loại rác, có trách nhiệm trong công việc của mình và chịu sự quản lý của cán bộ quản lý môi trường của từng thôn. Tổ chức tập huấn cho cán bộ môi trường để nâng cao trình độ chuyên môn, khả năng quản lý mình. + Thực hiện quản lý chung cả thị trấn chứ không quản lý riêng từng thôn như hiện nay. Như vậy sẽ nắm bắt được tình hình phát sinh rác của thị trấn và cũng sẽ dễ dàng lựa chọn biện pháp quản lý thích hợp. + Tăng ngân sách nhà nước cho hoạt động tuyên truyền và bảo vệ môi trường, phải có quỹ môi trường để chi trả cho các hoạt động khuyến khích và giải quyết sự cố môi trường ngay tại địa phương. + Công nhân trực tiếp làm việc thu gom rác phải được xếp ở ngành lao động độc hại từ đó có chế độ tiền lương, phụ cấp độc hại, bảo hộ lao động cho phù hợp. + Gi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc272i7873u tra th7921c tr7841ng v 2737873 xu7845t m7897t s7889 b.doc