Tài liệu Đề tài Đề xuất một số giải pháp phát triển và nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch ở Việt Nam trong thời gian tới: Mục Lục
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch là sứ giả của hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia, các dân tộc. Trên thế giới, du lịch được xem là một trong những ngành kinh tế hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, thu hút được nhiều quốc gia tham gia vì những lợi ích to lớn về kinh tế – xã hội mà nó đem lại. Điều này càng thể hiện rõ hơn trước xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế.
Trong 40 năm hình thành và phát triển, đặc biệt từ năm 1990, Du lịch Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực, trở thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, góp phần tích cực vào quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Du lịch Việt Nam còn có những khó khăn, hạn chế, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước.
Việt Nam cũng được đánh giá là một đất nước rất an toàn, ổ...
94 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1130 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đề xuất một số giải pháp phát triển và nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch ở Việt Nam trong thời gian tới, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Du lịch là sứ giả của hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia, các dân tộc. Trên thế giới, du lịch được xem là một trong những ngành kinh tế hàng đầu, phát triển với tốc độ cao, thu hút được nhiều quốc gia tham gia vì những lợi ích to lớn về kinh tế – xã hội mà nó đem lại. Điều này càng thể hiện rõ hơn trước xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá nền kinh tế.
Trong 40 năm hình thành và phát triển, đặc biệt từ năm 1990, Du lịch Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực, trở thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, góp phần tích cực vào quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Du lịch Việt Nam còn có những khó khăn, hạn chế, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của đất nước.
Việt Nam cũng được đánh giá là một đất nước rất an toàn, ổn định về chính trị xứng đáng là “Điểm đến của thiên niên kỷ mới” Chính vì vậy, số lượng khách quốc tế đến với Việt Nam tính từ năm 1990 đến 1999, tăng 7,5 lần, từ 250 nghìn lượt lên tới 1,78 triệu lượt; từ năm 2000 cho tới 2002, đã tăng từ 2,1 triệu lượt lên tới 2,6 triệu lượt khách. Tuy nhiên, những vấn đề còn tồn tại về công tác quản lý cấp Nhà nước, tay nghề của đội ngũ những người làm du lịch, thời gian cấp Visa, cước phí viễn thông, hơn nữa sự thiếu ổn định về chính trị khu vực Trung Đông, chiến tranh Iraq và đặc biệt dịch cúm lạ gây viêm đường hô hấp cấp vừa xảy ra tại Hà nội cũng đã phần nào ảnh hưởng tới sự phát triển của nghành du lịch Việt Nam hiện nay.
Do vậy, để có được những giải pháp đúng đắn nhằm phát triển du lịch Việt Nam trong thời gian tới, chúng ta cần đưa ra sự đánh giá tổng quan về thực trạng hoạt động du lịch Việt Nam là một việc làm hết sức cần thiết.
2. Mục đích nghiên cứu
Đánh giá tổng quát tình hình và xu thế phát triển du lịch của các nước trên thế giới và khu vực trong nhữg năm gần đây.
Phân tích thực trạng hoạt động du lịch ở Việt Nam, đưa ra những vấn đề còn tồn tại và nguyên nhân.
Đề xuất một số giải pháp phát triển và nâng cao hiệu quả của hoạt động du lịch ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Phương pháp nghiên cứu
Trong bài khoá luận này, em đã sử dụng các phương pháp tổng hợp, thông kê, phân tích, đánh giá và so sánh.
4. Bố cục khoá luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khoá luận gồm có 3 chương:
Chương I: Du lịch và Những Vấn đề Cơ bản về Du lịch
Chương II: Thực trạng Hoạt động của Du lịch Quốc tế ở Việt Nam từ năm 1990
Chương III: Chiến lược và Giải pháp Phát triển Du lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010.
Trong quá trình viết khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong được thầy cô cùng bạn bè góp ý, chỉ bảo cho kiến thức của em được hoàn thiện hơn.
Nhân dịp này, em xin chân thành cảm ơn, Thầy giáo hướng dẫn - Thạc sĩ Nguyễn Quang Minh đã nhiệt tình chỉ bảo và cung cấp nhiều tài liệu quý giá cho bài khoá luận của em được hoàn thành tốt đẹp. Em cũng xin được gửi lời cảm ơn tới các cô chú cán bộ của Tổng Cục Du lịch Việt Nam và thầy cô khoa Kinh Tế Ngoại Thương đã giúp đỡ để em hoàn thiện bài khoá luận này.
Hà nội, tháng 5 năm 2003.
Chương I
Du lịch và Những vấn đề cơ bản của du lịch
Một số khái niệm cơ bản của du lịch
Lịch sử của du lịch
Từ xa xưa, con người đã đi lại, hầu hết là để tránh đói hoặc rét. Những dấu tích của họ được phân bố khá rộng rãi. Chẳng hạn như, những di tích hoá thạch của loài người đầu tiên, Loài người đứng thẳng (Homo erectus) đã được tìm thấy ở Tây Âu, Châu Phi, Trung Quốc và Java. Sự kiện đáng chú ý này cho thấy khả năng đáng nể của những con người cổ xưa đã đi một khoảng cách kinh ngạc dưới những điều kiện còn rất nguyên thuỷ.
Việc phát minh ra tiền của người Xume (Babylonia) và sự phát triển thương mại, khoảng đầu năm 4000, có lẽ đã đánh dấu thời kỳ đầu của một kỷ nguyên du lịch hiện đại. Người Xume không những là người đầu tiên có được ý tưởng của tiền và sử dụng nó trong việc trao đổi kinh doanh, họ còn phát minh ra chữ viết và bánh xe, như vậy họ phải được coi là những người sáng lập ra ngành du lịch; giờ đây con người có thể chi trả cho việc đi lại và ăn nghỉ hoặc là bằng tiền hoặc là trao đổi cũng được.
Năm ngàn năm về trước, những chuyến thám hiểm đã xuất hiện và được tổ chức từ đất nước Ai Cập. Có lẽ chuyến đi đầu tiên được tiến hành vì những mục đích của hoà bình và chuyến đi này đã được thực hiện bởi Nữ Hoàng Hatshepsut tới những mảnh đất của người Punt (Nay là Somalia) vào năm 1490 trước Công Nguyên. Những miêu tả về chuyến đi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng này đã được khắc nghi trên tường của Đền Deit El Bahari ở Luxor. Những bản chữ viết và các bức phù điêu là một trong những công trình nghệ thuật quý nhất và và đông đảo mọi người đều thán phục về vẻ đẹp lạ kỳ và những đặc trưng nghệ thuật. ở Thebes có nhiều bức tượng của Memnon
được đặt trên kệ khắc tên những người du lịch người Hy Lạp vào thế kỷ 5 trước Công Nguyên.
Người Phi Ni Xi (Phoenicians) có lẽ là những người du lịch thương mại đầu tiên với suy nghĩ rát tiến bộ. Họ đã đi từ nơi này sang nơi khác với vai trò là những thương nhân. Du lịch cũng sớm xuất hiện ở các nước Phương Đông, đặc biệt là Trung Quốc và ấn Độ, vì buôn bán trao đổi ở những nước này cũng rất phát triển.
Những người Du lịch đầu tiên
Những người Châu Đại Dương
Nói về những chuyến đi đầu tiên, thì những chuyến đi ở Châu Đại Dương thật đáng khâm phục. Những con thuyền nhỏ, không dài qúa 12 mét đã được sử dụng cho những chuyến đi từ Đông Nam á qua vùng Micronesia qua Thái Bình Dương tới những hòn đảo của người Mackizơ (Marquesas Islands) và của người Tuamoto Archipelago. Khoảng 500 năm sau công nguyên, những người thuộc quần đảo Polinedi (Polynesian) từ Mackizơ đi Hawaii, một chặng đường hơn 2000 dặm. Kinh nghiệm hàng hải đã được trau dồi từ cách quan sát vị trí của mặt trời và những vì sao. Nói đến những vấn đề về cung cấp nước ngọt và thực phẩm, thì cuộc du ngoạn trên biển như thế này thật đáng kinh ngạc.
Người Địa Trung Hải
Đối với nguồn gốc cổ xưa của nền văn minh Châu Âu này, những chuyến đi có mục đích buôn bán, thương mại, tôn giáo, chữa bệnh tật, hay giáo dục đã phát triển rất sớm. Có khá nhiều dẫn chiếu về những đoàn lái buôn và thương nhân trong cuốn Kinh Cựu Ước (Old Testament). Chẳng hạn như Noah cùng với con thuyền lớn của anh đã trở thành người thực hiện chuyến du ngoạn đầu tiên, tuy nhiên hành khách của anh ta đa số mới chỉ là động vật.
Người Rome cổ đã tạo nên một trang sử mới cho ngành du lịch. Sự hưng thịnh của đế quốc La Mã cổ đại và quyền lực hùng mạnh là những yếu tố cơ bản cho du lịch phát triển. Để quản lý đế chế của họ, người La Mã đã xây dựng một hệ thống đường xá để
có thể đi du lịch khoảng 100 dặm một ngày bằng cách sử dụng xe ngựa đặt ở các trạm cách nhau 5 đến 6 dặm. Người La mã cũng hành trình để thăm các đền thờ nổi tiếng trong khu vực Địa Trung Hải, đặc biệt các kim tự tháp và nhiều công trình của Ai Cập. Hy Lạp và các nước ở Châu á là điểm đến phổ biến. Sự hưng thịnh của đế chế La Mã, phát triển đường xá, các điểm thu hút du khách, nhu cầu nghỉ ngơi, quan sát thành phố, và nhu cầu du lịch tạo ra nhu cầu ăn nghỉ và các dịch vụ du lịch khác tạo tiền đề cho việc hình thành khuôn mẫu sớm của du lịch.
ở Châu á, bắt đầu bằng việc thiết lập một chính phủ do Alexander Đại Đế ở Ephesus (bây giờ là Thổ Nhĩ Kỳ) vào năm 334 trước Công Nguyên. Đã có khoảng 700.000 khách du lịch tụ tập ở Ephesus chỉ vì một lý do rất đơn giản là để được giải trí xem những người nhào lộn, xiếc thú, xiếc tung hứng, ảo thuật. Ephesus đã trở thành một trung tâm buôn bán sầm uất và dưới thời Alexander, đây là một trong những thành phố quan trọng nhất của thế giới cổ đại.
Khách du lịch chỉ muốn đi tới những nơi an toàn và thoải mái. Khi những đế chế này còn ở đỉnh cao, du lịch rất phát triển và việc đi lại thuận lợi. Giải trí dưới nước và các kỳ nghỉ hè đã rất phổ biến và được tiếp tục tồn tại cho tới ngày nay. Nhưng khi đế chế suy tàn thì du lịch cũng như vậy. Giới thượng lưu đã giảm đáng kể, đường xá bị hư hỏng, tình hình an ninh vùng nông thôn không đảm bảo vì cướp bóc, trộm cắp, và bọn du thủ du thực. Du khách không bao giờ thích đi đến những nơi thiếu an toàn.
Người Châu Âu
Sự sụp đổ của Đế chế La Mã vào thế kỷ thứ 4 và thứ 5 được gọi là thảm hoạ của du lịch ở Châu Âu. Vào thời kỳ Trung Cổ (từ khi đế chế La Mã Châu Âu xụp đổ năm 476 sau Công Nguyên cho tới khi bắt đầu của một kỷ nguyên mới, 1450 sau Công
Nguyên) chỉ có những người phiêu lưu nhát mới đi du lịch. Chuyến đi nào trong thời gian này cũng nguy hiểm, không ai kết hợp du lịch với giải trí. Chỉ có một sự ngoại lệ đặc biệt trong thời kỳ không có du lịch ở Châu Âu đó là những cuộc thập tự trinh (Crusades). Đến cuối thời Trung Cổ, một số lượng lớn những người hành hương đi tới
những vùng chính của Châu Âu, và du lịch lại trở thành công cụ giải trí. Tuy nhiên, nó vẫn bị chế ngự bởi những động cơ tôn giáo.
Kể từ thời du mục của người thượng cổ, con người đã đi du lịch khắp mọi nơi trên địa cầu. Từ thời kỳ của những nhà thám hiểm Marco Polo và Christopher Columbus đến nay, du lịch đã phát triển liên tục. Vào thế kỷ XX, sự phát minh ra ô tô, máy bay và thiết lập các chuyến bay quốc tế đã làm du lịch tăng trưởng nhanh chóng. Du thuyền, xe buýt, tàu hoả hiện đại, các khu nghỉ ngơi đã tạo những bước phát triển nhanh cho du lịch.
Bản Chất Của Du Lịch
2.1 Xét từ góc độ nhu cầu của khách du lịch
Khi đã có được một khoản tiền nhất định để chi trả cho những chi phí dự kiến, một khoảng thời gian rỗi, tuỳ theo nhu cầu và sở thích của mỗi người, địa điểm và hoạt động được lựa chọn sẽ tương ứng với nhu cầu của du khách lúc đó. Có thể là thăm quan danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, văn hoá lễ hội, phong tục tập quán… cũng có thể là chuyến thăm bạn bè, người thân, nghỉ mát, kết hợp với an dưỡng, chữa bệnh… mà không phải vì mục đích sinh lời.
Cùng với hiện tượng bùng nổ khách du lịch, ngày nay nhu cầu của khách ngày càng đa dạng và đòi hỏi cao. Không chỉ dừng lại ở nhu cầu ăn ở, đi lại, thăm quan mà còn yêu cầu các chương trình du lịch đặc sắc, chất lượng cao để họ có thể tận hưởng những giá trị tinh thần, vật chất có tính văn hoá cao, thật đặc sắc, khác lạ so với quê hương họ.
Ngoài việc phải đáp ứng các phương tiện vận chuyển, hạ tầng cơ sở, sân bay, bến cảng hiện đại, du khách còn có nhu cầu đi trên các phương tiện truyền thống như thuyền rồng, voi, xe ngựa… Đấy là một cách để du khách tìm thấy những cái riêng, lạ mà ở quê hượng họ không có. Người kinh doanh nên tìm kiếm và sáng tạo nhằm
đáp ứng tối ưu những nhu cầu của du khách nhằm ngày càng thu hút được nhiều khách du lịch hơn.
Tóm lại, xét từ góc độ nhu cầu của khách du lịch: Bản chất đích thực của du lịch là du ngoạn để thẩm nhận những giá trị vật chất và tinh thần có tính văn hoá cao, kể cả
việc kết hợp với chữa bệnh, chơi thể thao, thăm viếng, công tác, dự hội nghị, hội thảo, học tập hay nghiên cứu khoa học…
2.2 Xét từ góc độ chính sách phát triển du lịch quốc gia
ở những nước có nền du lịch phát triển như Pháp, Mỹ, Italia, Nhật… chúng ta thấy họ đều dựa trên những nền tảng: tiềm năng nhân văn bao gồm tiềm năng về các di tích lịch sử, di tích văn hoá, phong tục tập quán, lễ hội… và tiềm năng thiên nhiên như cảnh quan đất nước, hệ sinh thái động thực vật, khí hậu, thổ nhưỡng, sông ngòi, hang động… Từ những tiềm năng đó hoạch định chiến lược phát triển du lịch, đầu tư xây dựng thiết bị cơ sở hạ tầng tương ứng như sân bay, bến cảng, đường xá, khách sạn, xe cộ… tạo ra những sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn.
2.3 Xét từ góc độ sản phẩm du lịch
Nhiều tác giả đã đưa ra các cách sắp xếp những sản phẩm du lịch và những thành phần tạo nên chúng. Chẳng hạn như nhà nghiên cứu kinh tế học người Mỹ J.Krippendorf trong tác phẩm “Marketing và Du lịch” đã chia sản phẩm du lịch thành 4 nhóm sau:
Những thành phần tự nhiên: Khí hậu, phong cảnh, địa hình động thực vật, tình hình địa dư.
Những hoạt động của con người: Ngôn ngữ, tình cảm, lòng hiếu khách, văn hoá truyền thống dân gian.
Hạ tầng cơ sở nói chung: Hệ thống giao thông, viễn thông, cung cấp điện nước.
Trang thiết bị du lịch: Chỗ ở, nơi giải trí, các cửa hàng bán đồ lưu niệm…
Tuy nhiên dưới đây là một trong những cách sắp xếp tài nguyên đầy đủ nhất trình bày trong một báo cáo của Tổ chức Du lịch Thế giới, xoay quanh 7 vấn đề quan trọng:
Di sản tự nhiên
Di sản năng lượng
Di sản về con người được phân chia thành các phần: Các dữ liệu dân tộc học, điều kiện sống, quan điểm, tâm tính của dân cư đối với hiện tượng du lịch và các dữ liệu văn hoá.
Những hình thái về thiết chế, chính trị, pháp chế, hành chính.
Những hình thái xã hội, nhất là cơ cấu xã hội của đất nước, sự tham gia của dân chúng vao nền dân chủ trong nước, sự sắp đặt thời gian làm việc và nghỉ ngơi, những ngày nghỉ có lương, trình độ và các tập tục về giáo dục, y tế và vui chơi.
Những điều tốt đẹp và mọi dịch vụ, các phương tiện vận chuyển và trang bị: hạ tầng cơ sở đặc trưng của vui chơi giải trí.
Những hoạt động kinh tế tài chính.
Dù sản phẩm du lịch được sắp xếp theo nguyên tắc nào đi nữa, chúng ta vẫn thấy rằng để đạt được hiệu quả kinh doanh du lịch, để có được một sản phẩm du lịch đạt chất lượng cao, đòi hỏi người thực hiện chương trình du lịch (người hướng dẫn viên) có khả năng ngôn ngữ và am hiểu sâu sắc giá trị văn hoá, giá trị thiên nhiên và phương pháp tổ chức các đoàn du lịch.
2.4 Xét từ góc độ tìm kiếm thị trường:
Để đạt được hiệu quả kinh doanh du lịch, những người làm công tác du lịch luôn đặt mục tiêu đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách lên hàng đầu. Để thực hiện được điều này, người làm du lịch cần nghiên cứu nhu cầu của du khách. Đáp ứng nhu cầu của du khách tức là làm công tác du lịch thành công trong việc thu hút du khách
đến với mình, từ đó nâng cao khả năng mở rộng thị trường, tạo tiền đề cho sự tìm kiếm thị trường mới.
2.5 Xét từ tỷ lệ khách du lịch
Tỷ lệ khách du lịch đến một nước nào đó cao hơn so với nước khác không hẳn nước đó có nền kinh tế phát triển mà chính là bởi nước đó có một nền kinh tế du lịch phát triển. Chúng ta cần phải phân biệt rõ ngành kinh tế du lịch với các ngành kinh tế khác, phân biệt nhu cầu của khách du lịch với khách kinh tế. Điều làm khách du lịch đến thăm quan một nước nhiều hơn so với nước khác là do nước đó có tiềm năng nhân văn và tiềm năng thiên nhiên giàu có, có quốc sách phát triển du lịch đúng đắn, thoả mãn được tối ưu nhu cầu của khách du lịch. Họ có thể thưởng thức nhiều cảnh đẹp nổi tiếng, truyền thống văn hoá lâu đời, nhiều di tích lịch sử, tôn giáo, kiến trúc nghệ thuật đặc sắc. Chính những giá trị văn hoá, tinh thần đó đã lôi quốn, thu hút họ đi du lịch. Đó cũng chính là bản chất của du lịch mà chúng ta muốn tìm hiểu.
Một số khái niệm cơ bản của du lịch
Tổng thống Mexico Gustavo Diaz Ordaz đã từng nói: “Thế giới đừng bao giờ coi du lịch chỉ đơn thuần là một ngành kinh doanh, mà phải coi đây là một phương thức để con người có thể biết và hiểu lẫn nhau; việc hiểu được nhau của con người là bản chất quan trọng nhất của thế giới thực tại”.
Du lịch có thể được định nghĩa là ngành khoa học, nghệ thuật và ngành kinh doanh bằng cách thu hút và chuyên chở khách thăm quan, cung cấp nơi ăn nghỉ và đáp ứng nhu cầu và ước muốn của du khách một cách tốt nhất. Mọi cố gắng nhằm định nghĩa
về du lịch và mô tả bao quát về phạm vi của lĩnh vực du lịch đều phải xét đến các nhóm người khác nhau tham gia và chịu ảnh hưởng bởi nền công nghiệp này. Mối liên hệ giữa các nhóm này rất quan trọng cho việc đưa ra một định nghĩa toàn diện.
Bốn mối liên hệ khác nhau của du lịch được phân biệt như sau:
1.Khách Du Lịch (The Tourist): Khách du lịch có nhiều nhu cầu khác nhau về tinh thần về vật chất và muốn nhận được sự thoả mãn. Bản chất của những vấn đề này sẽ có quyết định rất lớn trong việc lựa chọn những điểm đến và các hoạt động vui chơi khác.
2.Các công ty cung cấp sản phẩm và dịch vụ du lịch (The business providing tourist goods and services): Những nhà kinh doanh coi du lịch là cơ hội để kiếm lời bằng cách cung cấp sản phẩm và dịch vụ mà thị trường khách du lịch yêu cầu.
3. Chính phủ tại địa bàn du lịch (The government of the host community or area): Các nhà chính trị quan niệm ngành du lịch như một nhân tố thịnh vượng trong nền kinh tế dưới thể chế của họ. Mối tương quan giữa chúng có quan hệ tới những thu nhập mà công dân của họ nhận được từ ngành kinh doanh này. Các nhà chính trị cũng chú trọng tới doanh thu về ngoại tệ có được từ du lịch quốc tế cũng như là khoản thuế thu được từ tiêu dùng của du khách dù là trực tiếp hay gián tiếp.
4. Dân chúng địa phương (The host community): Người dân địa phương thường quan niệm ngành du lịch là nhân tố văn hoá và tạo việc làm. Vấn đề quan trọng ảnh hưởng tới nhóm này đó là sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa rất nhiều người nước ngoài và dân địa phương. ảnh hưởng này có thể có lợi, có thể có hại, hoặc cả hai.
Chính vì vậy, du lịch được định nghĩa là toàn bộ những hiện tượng và các mối quan hệ phát sinh từ việc trao đổi qua lại giữa khách du lịch, doanh nghiệp, chính phủ, và cộng đồng dân chúng địa phương trong quá trình thu hút và tiếp đón những du khách này.
Một số khái niệm của Tổ chức Du lịch Thế giới – WTO (World Trade Organisation) về du lịch đã được Liên Hợp Quốc thừa nhận:
Du khách quốc tế (International Tourist): Là một người lưu trú trong một thời kỳ ít nhất là 1 đêm, nhưng không vượt quá 1 năm.
Du khách trong nước (Domestic Tourist): Là một người đang sống trong một quốc gia, không kể quốc tịch nào, đi đến một nơi khác trong quốc gia đó khác nơi tường trú hiện tại trong thời gian ít nhất là 24 giờ và không vượt qua 1 năm với bất cứ mục đích gì ngoài làm việc để lĩnh lương ở nơi đến.
Những thuật ngữ được Uỷ Ban Thống Kê Liên Hợp Quốc (United Nations Statistical Commission) công nhận ngày 4/4/1993 theo đề nghị của WTO để thống nhất việc soạn thảo thống kê du lịch:
Du lịch quốc tế (International Tourism):
+ Khách du lịch nước ngoài vào trong nước (Inbound Tourism): Gồm những nguời từ nước ngoài đến thăm một quốc gia.
+ Khách du lịch trong nước ra nước ngoài (Outbound Tourism): Gồm những người đang sống trong một quốc gia đi viếng thăm nước ngoài.
Du lịch của người dân trong nước (Internal Tourism): Gồm những người đang sống trong một quốc gia đi thăm quan trong nước.
Du lịch trong nước (Domestic Tourism): Gồm Inbound Tourism cộng với Internal Tourism. Đây là thị trường cho các cơ sở lưu trú trong nước và các nguồn thu hút khách du lịch của một quốc gia.
Du lịch quốc gia (National Tourism): Gồm Outbound Tourism cộng với Internal Tourism. Đây là thị trường cho các đại lý lữ hành và các hãng hàng không.
Du lịch là một tổng thể các hoạt động, dịch vụ và các ngành công nghiệp đem lại hoạt động du lịch. Du lịch liên quan đến giao thông đi lại, nghỉ ngơi, ăn uống, mua sắm, giải trí, những tiện nghi du lịch, và những dịch vụ hiếu khách khác dành cho những khách lẻ hay đoàn đi du lịch. Nó bao gồm tất cả những nhà cung ứng và các dịch vụ dành cho khách. Du lịch là toàn bộ ngành công nghiệp du lịch thế giới, khách sạn, vận chuyển, và tất cả các thành phần khác, gồm cả chương trình xúc tiến
phục vụ nhu cầu và mong muốn của du khách. Cuối cùng, du lịch là tổng các tiêu dùng của du khách trong vùng lãnh thổ của một nước hoặc vùng thuộc chính phủ hoặc khu vực kinh tế của các quốc gia tiếp giáp nhau.
Những loại hình doanh nghiệp du lịch cơ bản
4.1. Đại lý du lịch hoặc lữ hành (Travel Agency):
Là loại hình doanh nghiệp chuyên thực hiện các dịch vụ phục vụ khách du lịch như: dịch vụ du lịch trọn gói, dịch vụ đại lý như bán vé vận chuyển, đăng ký chỗ tại các cơ sở lưu trú, dịch vụ và thị thực, dịch vụ hướng dẫn du lịch…
Ngành kinh doanh lữ hành là ngành đặc trưng, ngành xương sống của kinh tế du lịch, nó đã trở thành một ngành công nghiệp (Travel Industry) có vai trò quyết định đối với sự phát triển của thế giới. Trên 80% khách du lịch quốc tế sử dụng dịch vụ của ngành lữ hành.
4.2. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lưu trú (khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ…)
Đây là loại hình doanh nghiệp chuyên cung cấp các dịch vụ về ở cho khách du lịch. Tất cả các khách sạn đều được phân cấp tiêu chuẩn quốc tế: từ 1 sao – 5 sao tuỳ thuộc vào mô hình, không gian, trang thiết bị tiện nghi, chất lượng dịch vụ của khách sạn.
4.3. Doanh nghiệp kinh doanh về dịch vụ ăn uống: (nhà hàng, quán Bar…)
Là loại hình doanh nghiệp chuyên cung cấp các dịch vụ về ăn uống cho khách du lịch.
Các khách sạn ngày càng mở rộng kinh doanh các loại hình dịch vụ bổ xung như giải trí, hàng hoá lưu niệm, cho thuê phương tiện vận chuyển, giặt là, viễn thông, phiên dịch, hướng dẫn viên, tổ chức hội nghị, hội thảo...
4.4. Các doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch:
Doanh nghiệp vận tải hàng không: Gồm các hãng hàng không có tuyến bay chuyên phục vụ khách du lịch bằng chuyên cơ và các chuyến bay dừng chân (Stop-over)…
Doanh nghiệp vận tải hành khách và khách du lịch bằng đường thuỷ, đường biển, đặc biệt là các hãng tàu biển chuyên chở khách theo tuyến (Cruise).
Ngoài ra, khách du lịch còn có thể sử dụng các phương tiện vận chuyển truyền thống vận chuyển trong cự ly ngắn nhưng thú vị, lạ và thu hút du khách như: voi, xe ngựa, thuyền rồng, thuyền độc mộc, xích lô, xe đạp...
4.5. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giải trí, văn hoá, thể thao:
Nhiều dịch vụ giải trí như: vũ trường, karaoke, công viên, khu giải trí liên hợp.
Dịch vụ văn hoá: kinh doanh các diểm thăm quan du lịch, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh, viện bảo tàng, công trình kiến trúc, các loạI hình lễ hội.
Dịch vụ thể thao: sân golf, bể bơi, tennis, phòng tập thể dục...
4.6. Doanh nghiệp kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ, hàng hoá tiêu dùng và các dịch vụ liên quan tới phục vụ khách du lịch.
vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân, xu thế phát triển du lịch toàn cầu và khu vực
Vai trò của du lịch trong nền kinh tế quốc dân
Ngày càng có nhiều quốc gia đưa ra những chính sách hấp dẫn cũng như các khoản đầu tư lớn nhằm thu hút và phát triển Du lịch theo hướng lâu dài bởi họ nhận thấy những lợi thế mà nó đem lại. Vị trí của du lịch trong nền kinh tế quốc dân càng được khẳng định. Xét về ý nghĩa kinh tế, đầu tư cho du lịch thu lại lợi nhuận nhiều và thu hồi vốn nhanh. Du lịch được coi là “ngành công nghiệp không khói” hay “ngòi nổ để phát triển kinh tế” trong vấn đề thu hút ngoại tệ, doanh thu từ du lịch cao, tạo nhiều công ăn việc làm...
Để hiểu được vai trò to lớn của du lịch, ta sẽ đi phân tích các nội dung chủ yếu sau:
Nguồn: Tổ chức Du lịch Thế giới
Du lịch là một ngành kinh tế mang lại lợi nhuận cao, có khả năng thu hồi vốn nhanh và bảo toàn được vốn. Theo nghiên cứu của Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO) thì cứ 1 USD đầu tư vào công nghiệp đem lại 1,1 USD, nhưng 1 USD đầu tư vào du lịch sẽ mang lại 1,4 USD. Khi lợi nhuận tăng, tất nhiên nó sẽ đóng góp được nhiều hơn vào Ngân sách nhà nước cùng với nguồn ngoại tệ lớn góp phần cải thiện cán cân thanh toán và phát triển nền kinh tế quốc dân.
ở nhiều nước phát triển cũng như đang phát triển, du lịch là nguồn thu rất quan trọng từ thu nhập ngoại tệ và giải quyết được nhiều việc làm. Doanh thu toàn cầu đã lên tới 462 tỷ USD vào năm 2001 có nghĩa là thế giới thu khoảng 1,3 tỷ USD hoặc 1,4 tỷ Euro trong một ngày. So với năm 2000, doanh thu đã giảm 2,5% từ 474 tỷ USD. Tính bằng Euro, thì doanh thu du lịch quốc tế đã tăng lên 516 tỷ Euro từ 514 tỷ năm 2000, tăng 0,5% do đồng USD đã tăng 3% so với Euro. Doanh thu trung bình một lượt khách là 670 USD hoặc 750 Euro.
Doanh thu du lịch quốc tế đạt mức tăng trưởng 4,5% so với năm 1999. Hơn nữa, thu nhập từ vận chuyển du lịch ước tính đạt 97 tỷ USD. Doanh thu cao nhất tính trên lượt khách là ở Châu Mỹ (1060 USD) tiếp sau là Nam á (800 USD) và Đông á và khu vực Thái Bình Dương (là 740 USD).
Nguồn: Tổ chức Du lịch Thế giới
Trong năm 2000, Mỹ là nước dẫn đầu với doanh thu du lịch quốc tế là 85,2 tỷ USD. Ba điểm đến quan trong vùng Địa Trung Hải là Tây Ban Nha, Pháp và Italia, mỗi nước đạt khoảng 30 tỷ. Anh đạt 20 tỷ và Đức, Trung Quốc, áo và Canada mỗi nước đạt trên 10 tỷ USD.
Đối với nhiều nước có nền du lịch phát triển mạnh như Mỹ, Tây Ban Nha, Pháp, ý, Trung Quốc, và Đức... như số liệu từ bảng dưới đây thì doanh thu từ du lịch thật khổng lồ:
Bảng 1: 15 Nước có Doanh thu Du lịch lớn nhất thế giới
Đơn vị tính: Tỷ USD
TT
Nước
2000
2001
Tỷ lệ thay đổi (%) 2001/2000
Thị Phần (%)
2001
1
Mỹ
82.0
72.3
- 11.9
15.6
2
Tây Ban Nha
31.5
32.9
4.5
7.1
3
Pháp
30.7
29.6
- 3.7
6.4
4
ý
27.5
25.9
- 5.7
5.6
5
Trung Quốc
16.2
17.8
9.7
3.8
6
Đức
17.9
17.2
- 3.7
3.7
7
Anh
19.5
15.9
- 18.8
3.4
8
áo
10.0
12.0
19.7
2.6
9
Canada
10.7
-
-
-
10
Hy Lạp
9.2
-
-
-
11
Thổ Nhĩ Kỳ
7.6
8.9
17.0
1.9
12
Mê Hi Cô
8.3
8.4
1.3
1.8
13
Hong Kong
7.9
8.2
4.5
1.8
14
Australia
8.0
7.6
- 4.8
1.6
15
Thuỵ Sỹ
7.5
7.6
1.6
1.6
Nguồn: Tổ chức Du lịch Thế giới (Dữ liệu thu thập tháng 6, 2002)
Đổi mới và đẩy mạnh phát triển du lịch sẽ tạo ra động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước, kéo theo phát triển nhiều ngành kinh tế như xây dựng, giao thông vận tải, bưu điên, ngân hàng…
Thực ra, khi du lịch phát triển hoặc khi chúng ta có chính sách phát triển du lịch thì tất yếu dòi hỏi về xây dựng cơ sở hạ tầng như đường xá, cầu cống, các điểm du lịch, khách sạn, nhà hàng sẽ tăng lên. Một quốc gia có nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp hay có bề dày văn hoá với những di tích lịch sử nổi tiếng, những kỳ quan nổi tiếng chắc chắn sẽ hấp dẫn khách du lịch nhưng quốc gia đó sẽ thu hút được lượng khách nhiều hơn nếu biết đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng, biết tôn tạo và phát triển đúng hướng.
Xét sâu xa hơn, du lịch và các ngành khác có mối quan hệ tương hỗ, tác động qua lại lẫn nhau. Ví như ở một số quốc gia có hệ thống giao thông vận tải thuận tiện, ngành viễn thông và ngân hàng phát triển sẽ thúc đẩy khách du lịch đến với mình. Khi đến với Việt Nam, nhiều khách du lịch cảm thấy e ngại khi vẫn phải mang theo nhiều tiền mặt. Vì ở các nước phát triển, hầu hết việc thanh toán thông qua thẻ tín dụng và ngân hàng, hay qua Internet giúp khách du lịch thuận tiện trong việc đi lại, mua sắm, tiết kiệm được thời gian cho việc đi du lịch. Ngược lại, khi du lịch phát triển, nó sẽ buộc ngành ngân hàng tự cải tiến, nâng cao chất lượng phục vụ để cạnh tranh và thu hút khách hàng.
Hơn nữa, du lịch phát triển kéo theo sự phát triển của các ngành công nông nghiệp và chế biến thực phẩm. Khi khách du lịch lưu trú ở một nước hoảng năm ngày, họ sẽ phải tiêu thụ một khối lượng lớn lương thực. Không phải xây dựng nhà máy, không phải đầu tư nhiều vào đóng gói, bảo quản và vận chuyển, nước này có thể tiêu thu tại chỗ một khối lượng lớn thực phẩm, tạo ra nhiều việc làm và thu hút được số luợng lớn ngoại tệ.
Theo tính toán của Tổ chức Du lịch Thế giới, thì trong cơ cấu chi tiêu của du khách, có tới 40% số tiền khách đi du lịch dùng chi vào việc mua sắm. Đây là nhu cầu cần thiết của khách mà du lịch phải tìm cách đáp ứng, và việc đáp ứng nhu cầu này có thể tạo ra nhiều lao động cũng như thu được nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Du lịch quốc tế cũng đem lại những điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng các quan hệ kinh tế của các thương gia, các nhà đầu tư trong và ngoài nước thông qua việc khách du lịch kết hợp tham quan du lịch với việc tìm hiểu thị trường, môi trường đầu tư kinh doanh. Du lịch làm thay đổi sắc thái, cơ cấu kinh tế của mỗi vùng, mỗi địa phương và mỗi quốc gia. Thông qua việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch và các cung cấp dịch vụ khác, du lịch tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế huy động nguồn lực vật chất, lao động để phát triển kinh tế địa phương. Du lịch tạo điều kiện phát triển tới cả các vùng sâu, vùng xa, từ đó nâng cao trí thức, tạo việc làm và thu nhập cho người bản địa và từ đó tạo nên chính khoản đầu tư cho cuộc sống họ.
Du lịch quốc tế là chiếc cầu nối của tình hữu nghị, tạo sự hiểu biết giao lưu giữa các dân tộc, tạo nên một thế giới hoà bình, thịnh vượng và tôn trọng lẫn nhau.
Với vị trí kinh tế của du lịch như đã đề cập ở trên, nhiều nhà kinh tế còn gọi du lịch là “ngành xuất khẩu vô hình”:
Xét trên phương diện kinh tế, doanh thu du lịch quốc tế được xếp ngang hàng với doanh thu xuất khẩu và tiêu dùng trong du lịch quốc tế được xếp cùng với nhập khẩu. Đối với nhiều nước, du lịch quốc tế là nguồn không thể thiếu được trong khoản lợi nhuận thu được từ ngoại tệ.
Năm 1999, du lịch quốc tế và doanh thu từ vận chuyển hành khách đạt gần 8% tổng doanh thu xuất khẩu thực phẩm và Dịch vụ toàn cầu. Tổng doanh thu du lịch quốc tế, gồm cả lợi nhuận thu được từ vận chuyển du lịch quốc tế, ước tính đã tăng lên tới 555 tỷ USD, vượt qua tất cả các loại hình kinh doanh quốc tế khác.
Đơn vị tính: Tỷ USD.
Nguồn: Tổ chức Du lịch Thế giới, Quỹ Tiền tệ Thế giới
Với vị trí kinh tế, chính trị, xã hội như vậy, du lịch quốc tế đã và đang ngày càng khẳng định vị trí của mình trong tổng thể nền kinh tế xã hội của mỗi nước, là mục tiêu phát triển của nhiều quốc gia. Như vậy, rõ ràng phát triển du lịch là một hướng đi đúng đắn.
Tình hình phát triển du lịch trên thế giới
Ngày nay cùng với xu thế toàn cầu hoá, thế giới ngày càng liên kết chặt chẽ hơn về mọi mặt, quan hệ giữa các quốc gia cũng trở nên mật thiết hơn. Hợp tác để phát triển kinh tế là mục đích của các nhà chính trị và các quốc gia. Việc tạo dựng ngôi nhà chung Châu Âu, hệ thống quy đổi đồng tiền chung đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhập cảnh giữa các nước với nhau, dễ dàng trong việc thanh toán, kích thích nhu cầu đi lại thăm quan du lịch. Hơn nữa việc bùng nổ các phương tiện chuyên trở hiện đại ở mọi nơi mọi lúc giúp rút ngắn được thời gian hành trình, lưu trú, giảm chi phí cho du khách, kéo dài thời gian giải trí vốn eo hẹp của khách du lịch. Ngoài ra, Cuộc cách mạng Công nghệ Thông tin (Information Technology Revolution) đã phát triển rộng rãi trên toàn thế giới nhờ những tiến bộ toàn cầu hoá nền kinh tế. Và sự phát triển công nghệ thông tin liên lạc sẽ ngày càng đẩy nhanh sự cá nhân hoá. Điều này cũng phản ánh trong ngành công nghiệp du lịch. Một cá nhân giờ đây tuỳ ý lựa chọn điểm du lịch, đặt vé máy bay, chương trình du lịch, ăn nghỉ và thậm chí đặt du lịch tự chọn ngay tại nhà của mình. Thậm chí khoản tiền trả cho các công ty hàng không, các công ty du lịch, khách sạn... đều qua Internet, một phần của hệ thống thương mại điện tử. Nhiều thời gian nghỉ ngơi hơn, thu nhập có thể tiêu dùng tăng, giáo dục phát triển, và mật độ thông tin tạo nên sự đa dạng trong việc lựa chọn và làm cho nhu cầu của du khách cũng nhiều hơn.
Trong qúa trình phát triển, du lịch thế giới đã hình thành các khu vực lãnh thổ với các thị phẩn khách du lịch quốc tế khác nhau. Năm 1999, Châu âu là khu vực đứng đầu với 58,7% thị phần khách du lịch quốc tế. Tiếp đó là Châu Mỹ với 19,3%, Đông á - Thái Bình Dương 14,35%... Tuy nhiên bước vào thế kỷ XXI, hoạt động du lịch có xu
hướng chuyển dịch sang khu vực Đông á - Thái Bình Dương. Theo dự báo của Tổ chức Du lịch Thế giới đến 2010 khu vực Đông á - Thái Bình Dương sẽ vượt Châu Mỹ, và trở thành khu vực đứng thứ 2 sau Châu Âu về đón khách du lịch quốc tế, với 22,08% thị phần và đến năm 2020 là 27,34%.
2.1 Tổng quan hoạt động du lịch thế giới theo vùng
2.1.1 Châu Âu: Là khu vực phát triển nhất của du lịch thế giới năm 2000, thu hút lượng du khách lớn đến với Đức tham dự EXPO 2000 và tới Italia với lễ hội Vatican. Các nước Đông Âu đã hồi phục trở lại sau xung đột Kosovo và Thổ Nhĩ Kỳ cũng hồi phục lại sau 2 năm du lịch suy giảm do sự bất ổn định về chính trị cũng như xuất hiện nhiều thảm hoạ tự nhiên. Croatia tiếp tục phát triển mạnh sau 1 năm suy xụp, đón 2 triệu lượt khách vào năm 1999. Slovania cũng có bước nhảy vọt (tăng 23%), Macedonia (tăng 24%), Bosnia Herzegovina (tăng 24%) và Nga (15%), Phần Lan (10%), Estonia (16%).
Nguồn: Tổ chức Du lịch Thế giới
2.1.2 Châu Mỹ: Đạt mức tăng trưởng nhanh nhất vùng Ca-ri-bê (tăng 7,5%), trong khi Trung tâm và Bắc Châu Mỹ cũng đạt những mức tăng khích lệ 7% và 5,7%. Lượng khách đến với Mỹ tăng lên 4,9% do các thị trường chính ở các nước khác tiếp tục tăng, đặc biệt là Anh và Nhật, Canada và Mexico đã lấy lại được nhịp độ về khách du lịch và khách thương mại.
2.1.3 Đông á và Thái Bình Dương: Cũng có được sức tăng trưởng về lượng khách du lịch chính là do mức tăng rất lớn ở Trung Quốc và các đặc khu hành chính của nó là Hong Kong và Macao.
Trong khu vực Đông á - Thái Bình Dương, Du lịch các nước Đông Nam á (ASEAN) có vị trí quan trọng, chiếm khoảng 36% lượng khách và 38% thu nhập du lịch của toàn khu vực. Bốn nước ASEAN có ngành du lịch phát triển nhất là Thailand, Singapore, Malaysia và Indonesia. Những nước này đều đã vượt qua con số đón 5 triệu lượt khách quốc tế/năm và thu nhập hàng tỷ đô la từ du lịch. Năm 1999, Thailand thu hút 8,65 triệu khách du lịch quốc tế và thu nhập du lịch đạt 6,68 tỷ USD, tiếp đến là Malaysia (7,93 triệu khách), Singapore (6,95 triệu khách), lượng khách du lịch quốc tế đến Indonesia năm 1999 giảm do tình hình chính trị trong nước mất ổn định nhưng vẫn đạt 4,73 triệu lượt khách.
Việt Nam và Philipines là hai nước thu hút được lượng khách du lịch quốc tế cao nhất trong 6 nước Đông Nam á còn lại, nhưng cũng chỉ đạt xấp xỉ 1/3 lưưọng khách quốc tế so với 4 nước trên (Việt Nam: 1,78 triệu, thu nhập 1,1 tỷ USD; Philipines 2,2 triệu, thu nhập 2,53 tỷ USD). Theo dự báo của WTO, năm 2010 lưọng khách quốc tế đến khu vực Đông Nam á là 125 triệu, với mức tăng trưởng bình quân giai đoạn 1995 - 2010 là 6%/năm so với 1 - 2% giai đoạn 1998 - 2000 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực.
Malaysia, Thailand, Indonesia, Việt Nam và Campuchia đang trở thành một trong nhũng điểm đến ưa chuộng của thế giới. Australia cũng chứng kiến sự bùng nổ khách du lịch vì có Olympics Sydney và công tác quảng bá rộng rãi.
2.1.4 Nam á: Cũng là một điểm thành công trong năm 2000, với số lượt khách tăng tới 11%. Mặc dù nước này không tổ chức một sự kiện nổi tiếng thế giới nào, khách
du lịch đang ngày càng muốn tìm đến những nơi mới lạ kỳ của khu vực này đặc biệt là Iran và ấn Độ.
Nguồn: Tổ chức Du lịch Thê giới
2.1.5 Châu Phi: Tăng trưởng lượng du khách quốc tế đạt 4.4% năm 2000. Trong khi Zambia, Mauritius, Morocco và Algeria đều đón nhận mức tăng trưởng cao, hai nước lớn còn lại là Nam Phi và Zimbabwe lại không hề tăng trưởng.
Trung Đông: Du lịch khu vực này đã chứng kiến một năm thành công nhất do du khách đổ xô đến các khu di tích lịch sử gắn liền với cuộc đời của Chúa Jesus nhân dịp kỷ niệm 2000 năm ngày sinh của chúa. Trong 9 thnág đầu năm, lượng khách đã tăng lên tới 20%, nhưng khu vực này vẫn không đạt mức tăng trưởng cao như dự báo là 12% khi kết thúc năm vì xung đột lại xảy ra vào quý cuối cùng của năm.
2.2 Du lịch thế giới nhanh chóng ổn định và hồi phục
Một lần nữa, du lịch lại cho thấy nó là một ngành kinh tế ổn định như thế nào. So với những dự đoán đưa ra tháng 1 năm 2001, con số thống kê mới đã cho thấy ngành du lịch thế giới chỉ trải qua sự sụt giảm không đáng kể vào năm 2001. Theo thống kê năm 2002, sự sụt giảm lượng khách du lịch quốc tế đã được điều chỉnh còn - 0,7%.
Có tổng số 693 triệu lượt khách du lịch quốc tế trên toàn cầu năm 2001 tương ứng với sự tụt giảm 0,6% hay 4 triệu lượt khách từ 697 triệu lượt vào năm 2000. Mức tăng trưởng du lịch đã thuyên giảm trước sự kiện 11/9 vì tình hình suy giảm về kinh tế làm ảnh hưởng hầu hết các nền kinh tế Bắc Châu Mỹ, Châu Âu và Châu á cùng một thời điểm. Mức tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã giảm từ 4,7% năm 2000 xuống còn 2,5% vào năm 2001 và những nền kinh tế trên đã rơi vào cuộc khủng hoảng mất một thời gian. Đã thế, vụ tấn công khủng bố 11/9 lại càng làm tình hình thêm trầm trọng, đây là lần đầu tiên kể từ năm 1982 (sau cuộc khủng hoảng về dầu hoả, thiết quân luật ở Ba Lan, chiến tranh tại quần đảo Falkland và cuộc xung đột giữa Israel và Lebanon) số khách du lịch toàn cầu đã bị giảm.
Thực tế, không phải tất cả các vùng đều bị ảnh hưởng. Vùng bị ảnh hưởng nhiều nhất là vùng Nam á (bị giảm tới 24% trong thời gian từ tháng 9 – 12, 2001), Châu
Mỹ (giảm 20%) và Trung Đông (giảm 11%). Tính cả năm thì Châu Mỹ và Nam á đã giảm 6%, Trung Đông 3%. Hai khu vực vẫn tăng trưởng là: Đông á và Khu vực
Nguồn: Tổ chức Du lịch Thế giới
Thái Bình Dương (tăng 5%) và Châu Phi (tăng 4%). Châu Âu cũng bị ảnh hưởng một chút, giảm 0,6%.
Tổng số khách du lịch quốc tế toàn cầu năm 2000 là 697 triệu lượt. Khách hầu như đi du lịch quanh Châu Âu là chính. Châu Mỹ là vùng được đón nhận 129 triệu lượt khách năm 2000, tiếp sau là Đông á và Thái Bình Dương với 112 triệu lượt. Ngoài ra, Châu Phi ước tính đạt 28 triệu lượt khách quốc tế năm 2000, khu vực Trung Đông 20 triệu và Nam á là 6 triệu lượt.
Châu Âu và Châu Mỹ vẫn là những khu vực đón nhiều khách du lịch nhất. Nhưng từ khi những khu vực khác phát triển nhanh hơn, thì thị phần của các khu vực này có phần giảm xuống. Năm 2000, Châu Âu đã đạt 58% còn Châu Mỹ đã đạt 19%. Đông á và Thái Bình Dương là khu vực thu lợi nhiều nhất từ sự thay đổi về thị phần này. Theo con số thống kê, khu vực này đã đạt mức tăng trưởng cao nhất, đạt 16% thị phần toàn cầu vào năm 2000.
Bảng 2: 15 nước là điểm đến hàng đầu thế giới
Đơn vị tính: Triệu lượt người
TT
Nước
2000
2001
Tỷ lệ thay đổi (%) 2001/2000
Thị Phần (%)
2001
1
Pháp
75.6
76.5
1.2
11.0
2
Tây Ban Nha
47.9
49.5
3.4
7.1
3
Mỹ
50.9
45.5
- 10.6
6.6
4
ý
41.2
39.0
- 5.3
5.6
5
Trung Quốc
31.2
33.2
6.2
4.8
6
Anh
25.2
23.4
- 7.4
3.4
7
Liên bang Nga
21.2
-
-
-
8
Mê Hi Cô
20.6
19.8
- 4.0
2.9
9
Canada
19.7
19.7
- 0.1
2.8
10
áo
18.0
18.2
1.1
2.6
11
Đức
19.0
17.9
- 5.9
2.6
12
Hungary
15.6
15.3
- 1.5
2.2
13
Ba Lan
17.4
15.0
- 13.8
2.2
14
Hồng Kông
13.1
13.7
5.1
2.0
15
Hy Lạp
13.1
-
Nguồn: Tổ chức Du lịch Thế giới (WTO), Dữ liệu thu thập tháng 6, 2002
Malaysia, Thailand, Singapore và Indonesia là những điểm đến về du lịch dẫn đầu ở Châu á. Theo số liệu do Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á (ASEAN) cung cấp thì
du lịch nội vùng là đặc điểm quan trọng của thị trường du lịch Châu á. Năm 2000 khách du lịch ASEAN trung bình chiếm 70% lượng khách du lịch đến mỗi nước, tiếp theo là khách du lịch Châu Âu.
2.3 Triển vọng du lịch
Triển vọng Du lịch Năm 2020 (Tourism 2020 Vision) là kế hoạch dự báo và đánh giá dài hạn của Tổ chức Du lịch Thé giới về sự phát triển du lịch trong vòng 20 năm của thiên niên kỷ mới. Mục đích chính của Triển vọng Du lịch Năm 2020 là những dự báo trong thời gian 25 năm, năm 1995 là năm khởi điểm và những dự báo cho năm 2010, 2020.
Triển vọng Du lịch Năm 2020 của Tổ chức Du lịch Thé giới dự báo lượt khách du lịch ước tính đạt trên 1.56 tỷ vào năm 2020. Trong đó, 1.18 tỷ lượt sẽ là khách đi du lịch giữa các vùng còn lại 0.38 tỷ lượt sẽ là khách đi du lịch đường dài.
Tổng số lượt khách theo vùng vào năm 2020 cho thấy 3 khu vực đứng đầu sẽ là Châu Âu (717 triệu khách), Đông á và Thái Bình Dương (397 triệu) và Châu Mỹ (282), tiếp đó là Châu Phi, Trung Đông và Nam á.
Đông á và Thái Bình Dương, Nam á, Trung Đông và Châu Phi dự báo đạt mức tăng trưởng trên 5% một năm, trong khi đó trung bình thị phần thế giới là 4.1%. Những khu vực phát triển mạnh như Châu Âu và Châu Mỹ lại dự báo chỉ đạt dưới mức tăng trưởng trung bình nói trên.
Bảng 3: Triển vọng Du lịch 2020: Dự báo du lịch thế giới theo khu vực
Đơn vị tính: Triệu lượt người
Dự báo
2010
2020
Mức tăng trưởng TB năm (%)
1995 - 2020
Thị phần
1995 2020
Thế Giới
1,006.4
1,561.1
4.1
100
100
Châu Phi
47.0
77.3
5.5
3.6
6.0
Châu Mỹ
190.4
282.3
3.9
19.3
18.1
Đông á và TBD
195.2
397.2
6.5
14.4
25.4
Châu Âu
527.3
717.0
3.0
59.8
45.9
Trung Đông
35.9
68.5
7.1
2.2
4.4
Nam á
10.6
18.8
6.2
0.7
1.2
Du lịch nội vùng
790.9
1,183.3
3.8
82.1
75.8
Du lịch đường dài
215.5
377.9
5.4
17.9
24.2
Nguồn: Dữ liệu của Tổ chức Du lịch Thế giới.
Biểu dự báo khách du lịch thế giới đến năm 2020
(Dự tính đến năm 2020, thế giới sẽ vượt 1,6 tỷ lượt khách du lịch)
Nguồn: Tổ chức Du lịch Thế giới
Châu Âu sẽ duy trì thị phần cao nhất về lượng khách, mặc dù có sự sụt giảm từ 60% (năm 1995) xuống còn 465 vào năm 2020. Vào năm 2010, Châu Mỹ sẽ giảm từ 19% (năm 1995) xuống còn 18% (năm 2020) và sẽ phải nhường vị trí thứ hai của mình
cho khu vực Đông á và Thái Bình Dương, vùng sẽ đón nhận 25% lượng khách du lịch của thế giới vào năm 2020.
Du lịch đường dài toàn cầu sẽ tăng trưởng nhanh hơn, đạt 5.4% một năm trong suốt giai đoạn 1995-2020, cao hơn du lịch giữa các vùng (đạt 3.8%). Như vậy, tỷ lệ giữa du lịch nội vùng và du lịch đường dài sẽ chuyển dịch từ 82:18 năm 1995 thành con số sát hơn 76:24 năm 2020.
Về kinh tế, doanh thu du lịch được xếp ngang hàng với doanh thu từ xuất khẩu và tiêu dùng du lịch được xếp ngang hàng với chi phí nhập khẩu. Đối với nhiều nước, Du lịch quốc tế là nguồn thu không thể thiếu trong doanh thu ngoại tệ.
Nguồn: Tổ chức Du lịch Thế giới
Xu hướng vận động chủ yếu của nền kinh tế và du lịch thế giới
Những xu hướng vận động của nền kinh tế thế giới và các quan hệ kinh tế quốc tế đang làm cho nền kinh tế của các quốc gia và lãnh thổ phát triển trong điều kiện mới, đặc biệt gia tăng lĩnh vực kinh tế dịch vụ, trong đó có dịch vụ du lịch.
Sự bùng nổ của cách mạng khoa học - công nghệ
Ngày nay, mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội đều được hiện đại hoá và tự động hoá thiết kế, năng xuất lao động không ngừng tăng , thu nhập quóc dân trên đầu người cao, thời gian nhàn rỗi nhiều, nhờ đó thu nhập du lịch tăng. Đặc biệt là cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho con người có thể tổ chức cho mình chuyến du lịch thông qua mạng thông tin toàn cầu.
Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới
Quá trình này đang diễn ra với quy mô ngày càng lớn, với tốc độ ngày càng cao làm cho nền kinh tế thế giới hình thành một chỉnh thể thống nhất mà trong đó mỗi quốc gia là một bộ phận giữa chúng có sự phục thuộc lẫn nhau. Điều đó tất yếu đưa đến việc phải mở cửa nền kinh tế và tham gia vào phân công lao động quốc tế, phải coi thị trường thế giới “vừa là đầu ra, vừa là đầu vào” tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ. Chính đây là cơ sở khách quan cho việc hình thành chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, phát triển dịch vụ, trong đó có du lịch quốc tế của nhiều quốc gia.
Quan hệ kinh tế quốc tế chuyển từ lưỡng cực sang đa cực
Thế giới đã và đang hình thành các trung tâm kinh tế và liên kết kinh tế mới, xu hướng đối thoại và hợp tác đa phương đang thay thế cho xu hướng đối đầu và biệt lập. Do vậy, các quốc gia vừa phải biết chủ động tham gia và khai thác các mặt tích cực, vừa phải biết đấu tranh khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của quá trình này. Hàng
năm, khối lượng hàng hoá, dịch vủtao đổi, hoạt động du lịch quốc tế giữa các quốc gia, kể cả giữa các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau đều tăng lên.
Xu hướng phát triển dịch vụ du lịch
Kinh tế dịch vụ du lịch vừa mỗi nước phát triển gắn liền với xu thế vận động của nền kinh tế thế giới và quan hệ kinh tế quốc tế. Hiện nay đang diễn ra những xu hướng phát triển dịch vụ du lịch như sau:
Xu hướng thứ nhất: Là sự chuyển hướng đi của nguồn khách du lịch. Trước đây khách du lịch Châu Âu thường đi nghỉ ở các nước láng giềng hoặc ở những vùng du lịch nổi tiếng thế giới như Địa Trung Hải, Biển Đen, Hawai, vùng Caribe hoặc trượt tuyết trên dãy Alpơ, khách Châu á cũng chỉ đi du lịch các nước trong khu vực thì nay nguồn khách được phân đến những vùng, những nước mới phát triển du lịch để tìm hiểu và phát hiện những điều mới mẻ, bất ngờ và lý thú.
Xu hướng thứ hai: Cơ cấu chi tiêu của khách du lịch thay đổi. Những năm trước đây, tỷ trọng chi tiêu của khách cho các dịch vụ cơ bản (ăn ở, vận chuyển) lớn thì hiện nay tỷ trọng chi tiêu của khách cho các dịch vụ bổ xung (mua sắm hàng hoá, thăm quan, giải trí) tăng lên. Các nhà kinh tế đã tổng kết: Nếu trước đây tỷ trọng này là 7/3 thì nay là 3/7, có nghĩa là trước đây khách hàng giành 7 phần cho ăn ở, đi lại và 3 phần cho mua sắm hàng hoá, tham quan, giải trí, nhưng ngày nay thì ngược lại.
Xu hướng thứ ba: Khách du lịch chỉ sử dụng 1 phần dịch vụ của các tổ chức kinh doanh du lịch chức không mua chương trình du lịch trọn gói vì theo hướng này, khách hoàn toàn được tự do trong chuyến đi du lịch của mình mà không bị phụ thuộc vào người khác và không báo trả phí dịch vụ cho các tổ chức du lịch.
Xu hướng thứ tư: Hiện nay các nước đang tiến hành giảm thiểu các thủ tục về thị thực hải quan nhằm cạnh tranh, lôi cuốn khách. Như vậy khách du lịch sẽ không phải mất nhiều thời gian chờ đợi thủ tục, giảm được chi phí không đáng có.
Chương II
THực trạng hoạt động của Du Lịch quốc tế ở Việt Nam từ năm 1990 đến nay
Khái quát quá trình phát triển của ngành du lịch Việt Nam
Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của du lịch Việt Nam
Do phải trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt cùng với những hạn chế của một nền kinh tế bao cấp nên mặc dù Việt Nam có tiềm năng đầy hứa hẹn, ngành du lịch Việt Nam vẫn phát triển chậm hơn so với các nước trong khu vực.
Nghị định 26/CP ra ngày 9/7/1960 của Chính phủ về: “Thành lập Công ty Du lịch Việt Nam” đã đánh dấu sự ra đời của ngành du lịch Việt Nam. Giai đoạn này ngành du lịch không có điều kiện để phát triển vì đất nước đang trong tình trạng chiến tranh, cơ sở vật chất ban đầu có một vài khách sạn cũ với 20 buồng phục vụ khách quốc tế, phương tiện vận chuyển chỉ có một xe Zin của Liên Xô đưa xang trưng bày triển lãm, sau đó nhà nước giao cho Công ty để đón khách và một chiếc xe Simca cũ mua lại của tư nhân. Số lượng cán bộ công nhân viên của công ty tính đến cuối năm 1961 là 112 người với trình độ nghiệp vụ khác nhau nhưng chưa ai hiểu gì về du lịch. Nhiệm vụ chủ yếu của ngành du lịch Việt Nam trong giai đoạn này là phục vụ các đoàn khách quốc tế, chủ yếu của các nước XHCN hoặc khách du lịch nội địa là những công dân có thành tích trong chiến đấu lao động, học tập, được nghỉ mát, điều dưỡng... do vậy hiệu quả kinh tế xã hội du lịch chưa cao.
Sau cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước toàn thắng vào mùa xuân năm 1975, đất nước Việt Nam chuyển sang một thời kỳ mới, du lịch Việt Nam cũng có những biến chuyển. Các tổ chức kinh doanh du lịch được hình thành ở hầu hết các tỉnh và đặc khu. Từ khi có đường lối đổi mới kinh tế của đất nước, sự biến động chính trị của các nước Đông Âu và Liên Xô cũ đã làm thay đổi cơ bản thành phần cơ cấu khách du
lịch quốc tế đến Việt Nam. Khách du lịch ký kết dưới hình thức Nghị định thư theo giá bao cấp không còn nữa, lúc này các khách sạn ở các tỉnh miền Nam được giao cho Công ty Du lịch quản lý một phần và một phần khác giao cho các công ty du lịch trực thuộc UBND tỉnh, thành phố.
Ngày 27/6/1978, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị định số 282/NQ-QHK6, thành lập Tổng Cục Du lịch Việt Nam trên cơ sở mật vụ của Bộ Nội Vụ. Từ đây, Tổng Cục Du lịch trực thuộc hội đồng Bộ trưởng. Chính sự thay đổi về mặt tổ chức này đã mở rộng thẩm quyền và chức năng của cơ quan quản lý du lịch, giai đoạn này bộ máy tổ chức và quản lý của Tổng Cục Du lịch dần được hoàn thiện.
Ngày 23/11/1979, Hội Đồng Bộ Trưởng ra nghị định 32/CP quy định chức năng và nhiệm vụ của ngành du lịch Việt Nam: “ là cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, có trách nhiệm thống nhất quản lý du lịch trong cả nước” và năm 1981 ban hành nghị định 137/CP quy định phương hướng phát triển của ngành. Cũng năm 1981, du lịch Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Du lịch Thế giới.
Ngày 31/3/1990, Hồi đồng Nhà nước ban hành Quyết định 244/QĐ - HĐNN giao cho Bộ Văn Hoá - Thông Tin - Thể Thao và Du lịch quản lý Nhà nước đối với ngành du lịch.
Tháng 12/1991, Chính phủ quyết định chuyển chức năng quản lý Nhà nước đối với ngành Du lịch sang Bộ Thương Mại và Du lịch.
Ngày 26/10/1992, Chính phủ có Nghị định 05/CP về việc thành lập Tổng Cục Du lịch.
Ngày 7/8/1995, Chính phủ ra nghị định 53/CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng Cục Du lịch.
Bắt đầu từ đây, Du lịch Việt Nam chuyển sang trang mới. Công tác quản lý Nhà nước về Du lịch được tăng cường, quy hoạch tổng thể về du lịch được triển khai, hệ thống doanh nghiệp được sắp xếp lại theo hướng chuyên môn hoá ngành nghề, nhiều thành
phần kinh tế tham gia hoạt động du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật của toàn ngành được nâng cao.
Cơ cấu bộ máy tổ chức ngành du lịch Việt Nam
Đây là một công cụ quan trọng thúc đẩy du lịch Việt Nam phát triển vì khi bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch từ trung ương đến địa phương được kiện toàn, nó sẽ phát huy được chức năng tham mưu, quản lý của Nhà nước, xây dựng và triển khai quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành, bộ máy của Tổng Cục Du lịch được tổ chức theo Nghị định 20/CP và Nghị định 53/CP, hiện có 6 chức năng, thanh tra, văn phòng và các đơn vị sự nghiệp là viện nghiên cứu, tạp chí du lịch. tuần báo du lịch, trung tâm công nghệ thông tin, hai trường trung học và dạy nghề ở Ha Nội và Bà Rịa Vũng Tàu cùng 14 Sở Du lịch và 47 Sở Thương mại – du lịch ở 61 tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung Ương.
Mô hình dưới đây là cơ cấu bộ máy tổ chức của Tổng cục Du lịch Việt Nam:
CHính PHủ
tổng cục du lịch
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc tW
các tổ chức đoàn thể xã hội
vụ hợp tác quốc tế
các đơn vị kinh doanh du thuộc đại bàn khu vực I, II, III, IV
các đơn vị kinh doanh du thuộc đại bàn khu vực I, II, III, IV
các tổ chức kinh doanh du lịch trực thuộc UBND các tỉnh, TP thuộc TW
các đơn vị kinh doanh du lịch trực thuộc các sở du lịch
các công ty kinh doanh du lịch trực thuộc các tổ chức đoàn thể xã hội
văn phòng và các ĐV sự nghiệp
thanh tra
vụ
tổ chức
vụ kh và đầu tư
vụ pháp chế
vụ khách sạn
Vụ
du lịch
công ty du lịch Việt Nam
các sở du lịch và thương mại du lịch ở các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương
II. Thực trạng kinh doanh du lịch quốc tế ở Việt Nam hiện nay và Những vấn đề còn hạn chế
Bối cảnh và tình hình quốc tế ảnh hưởng tới sự phát triển của du lịch quốc tế Việt Nam
1.1 Bối cảnh và tình hình quốc tế
Sau khi Liên Xô và khối liên minh chính trị kinh tế các nước Đông Âu tan rã vào đầu những năm 1990, tình hình thê giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Mâu thuẫn thời đại vẫn còn tồn tại và phát triển. Xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ, sắc tộc và tôn giáo, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi.
Khủng hoảng kinh tế xuất phát từ Thái Lan sau đó lan ra khu vực và một số nước Châu Mỹ cũng đã ảnh hưởng tới sự phát triển và hiện trạng của du lịch. Đến năm 2001, hoạt động du lịch thế giới cũng bị tác động do sự kiện 11/9 xảy ra ở Mỹ tạo nên bức tranh ảm đạm về nền du lịch thế giới. Ngành hàng không bị ảnh hưởng nặng nề, gây ra sự suy giảm lớn cho ngành kinh doanh khách sạn và toàn bộ hệ thống phân phối trên toàn thế giới. Lượt khách du lịch quốc tế đã giảm từ 697 triệu lượt vào năm 2000 xuống còn 689 triệu lượt vào năm 2001, lượng khách du lịch quốc tế giảm 0,6%, là lần đầu tiên kể từ năm 1982 du lịch quốc té có mức tăng trưởng âm. Trầm trọng hơn, căn bệnh SARS mà các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra được thuốc chữa đã gây cho toàn thế giới sự hoang mang, thiệt hại nặng nề tới ngành du lịch đang hứa hẹn của thế giới sau một năm 2002 thăng hoa. Du lịch toàn Châu Âu đã giảm 30%, Châu á giảm 40% hoặc Hồng Kông, tới 60 ngàn người làm việc trong ngành du lịch đã bị thất nghiệp vì không có khách.
Mặc dù vậy, thế giới vẫn tin tưởng vào sự phục hồi nhanh chóng của du lịch và dự báo đầy triển vọng về tốc độ tăng trưởng của trong tương lai gần.
Kết quả của hoạt động kinh tế đối ngoaị và tình hình trong nước
Trong bối cảnh hoà bình, nhu cầu du lịch tăng mạnh, du lịch thế giới đang phát triển nhanh với xu thế chuyển dần sang khu vực Đông á - Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông Nam á. Đây thực sự là một cơ họi tốt tạo đà cho Du lịch Việt Nam phát triển.
Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế đối ngoại, trong đó có du lịch, phát triển. Đảng và Nhà nước đã quan tâm, chỉ đạo sát sao đối với sự nghiệp phát triển du lịch của đất nước. Du lịch được xác định là ngành kinh tế tổng hợp quan trọng trong cơ cấu kinh tế - xã hội của đất nước, đưa du lịch thực sự là ngành kinh tế mũi nhọn trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đặc điểm nổi bật nhất trong thời gian qua là công cuộc đổi mới tiếp tục được củng cố và thu được những thành tựu quan trọng. Mối quan hệ hợp tác quốc tế về du lịch ngày càng được mở rộng cả trong và ngoài khu vực, cả song phương và đa phương, ở cấp quốc gia, địa phương và doanh nghiệp. Du lịch Việt Nam đã tham gia tích cực đầy đủ hơn các nội dung hợp tác, tham gia đầy đủ các diễn đàn du lịch ASEAN (theo sáng kiến của Việt Nam, lần đầu tiên Hội Nghị Bộ trưởng Du lịch ASEAN + 3 (Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản) đã được tổ chức). Chúng ta đã giành được những thắng lợi về ngoại giao đánh dấu những bước đi lên của kinh tế Việt Nam như:
Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Du lịch Thê giới (WTO), Hiệp hội Du lịch Châu á TBD (PATA), hợp tác APEC, và ASEM, hợp tác du lịch tiểu vùng Mekong mở rộng, hợp tác hành lang Đông - Tây, rồi đang trên con đường tiến tới gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), ký Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ sẽ mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội canh tranh và đầu tư hơn. Là cơ hội để Việt Nam tăng cường hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới, qua đó cũng thu hút thêm lượng khách du lịch đến với Việt Nam. Việt Nam đã ký kết với Thái Lan, Phillipines về việc miễn thị thực nhập cảnh cho khách đi du lịch trong một thời gian nhất định đến ba nước này
và trong thời gian tới Việt Nam sẽ ký với các nước khác trong khu vực nhằm thúc đẩy du lịch và kinh tế phát triển.
Hệ thống pháp luật của đất nước ngày một đầy đủ và đông bộ: Pháp lệnh du lịch đã được ban hành tạo cơ sở pháp lý toàn diện hơn cho hoạt động du lịch trên phạm vi cả nước. Nhiều văn bản pháp luật được xây dựng mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, luật khuyến khích đầu tư trong nước tạo hành lang pháp lý cho du lịch phát triển. Việt Nam có chế độ chính trị ổn định, an ninh đảm bảo, là điểm du lịch còn mới trên bản đồ du lịch thế giới với tiềm năng tài nguyên du lịch đa dạng và phong phú là điều kiện đặc biệt quan trọng để du lịch phát triển.
Ban chỉ đạo Nhà nước về du lịch đã được lập để phối hợp các hoạt động du lịch giữa các cấp, các ngành, giải quyết kịp thời các vướng mắc trong hoạt động liên ngành và các vấn đề liên quan đến phát triển du lịch trong tình hình mới. Chương trình hành động quốc gia về du lịch và các sự kiện du lịch Việt Nam năm 2000 được triển khai tạo tiền đề và khởi sắc cho du lịch Việt Nam bước vào thế kỷ XXI.
Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội xủa đất nước ta, đặc biệt là hệ thống giao thông các sân bay, cảng biển và đường giao thông, trong đó có đường quốc lộ 1A, quốc lộ 5, quốc lộ 51, quốc lộ 18... được đầu tư nâng cấp tạo điều kiện thuận lợi cho việc khai thác các tiềm năng du lịch to lớn của đất nước, tăng khả năng giao lưu giữa các vùng và phát triển các tuyến, điểm tham quan du lịch. Đời sống nhân dân được cải thiện, nhu cầu du lịch nội địa tăng nhanh.
Những kết quả đạt được của hoạt động du lịch quốc tế
2.1 Nhịp độ tăng trưởng khách du lịch hàng năm
Lượng khách du lịch ở nước ngoài đến Việt Nam và Việt kiều về thăm quê hương, Tổ Quốc ngày một đông. Năm 1986 Việt Nam mới đón được 54.350 lượt khách quốc tế,
năm 1988 là 92.500 người, năm 1990 tăng lên 250.000 người, năm 1992 đạt 440.000 người, năm 1994 đạt con số 1 triệu người, và năm 1996 là 1,6 triệu người. Từ năm 1990 trở lại đây lượng khách du lịch quốc tế đến Việt nam luôn tăng trưởng với nhịp độ xấp xỉ 30%/năm. Việt Nam đã đạt con số 1 triệu khách du lịch quốc tế năm 1995. Lượng khách du lịch tới Việt Nam liên tục tăng nhanh từ 1.35 triệu năm 1995 tới 1.78 triệu năm 1999 với tỷ lệ tăng trưởng trung bình năm khá cao 6.9%. Trong suốt thời kỳ này, Tỷ lệ tăng trưởng kép hàng năm của các nước ASEAN lần lượt đạt ở mức 12.5% và 3.4%. Về tỷ lệ tăng trưởng khách du lịch đến Việt Nam đã vượt xa tỷ lệ của các nước ASEAN cũng như của thế giới ở 4.2%.
Bảng 4: Số lượng Khách Quốc Tế Đến Việt Nam 1995-2002
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Tổng Cộng
1.351.296
1.607.155
1.715.637
1.520.128
1.781.754
2.140.100
2.330.050
2.627.988
1. Các Thị Trường
Trung Quốc
62.640
377.555
405.279
420.743
484.102
626.102
627.846
724.385
Nhật Bản
119.540
118.310
122.083
95.258
113.514
152.755
204.860
279.769
Châu á
167.281
255.388
240.883
269.448
Mĩ
189.090
146.488
147.982
176.578
210.377
208.642
230.470
259.967
Đài Loan
224.127
175.486
154.566
138.529
173.920
212.370
200.061
211.072
Pháp
137.890
87.795
81.513
83.371
86.026
86.492
99.700
111.546
Nam Triều Tiên
43.333
53.452
75.167
105.060
úc
96.624
Anh
52.820
40.692
44.719
39.631
43.863
56.355
64.673
69.682
Đức
21.719
32.058
39.096
46.327
Các Nước Khác
520.939
626.285
730.462
540.971
604.900
433.942
502.294
454.108
2. Phương Tiện Giao Thông
Hàng Không
1.206.799
939.635
1.033.743
873.690
1.022.073
1.113.140
1.294.465
1.540.108
Đường Bộ
122.752
505.653
550.414
489.274
571.749
770.908
274.612
778.800
Tầu Biển
21.745
161.867
131.480
157.164
187.932
256.052
750.973
309.080
3. Mục Đích Viếng Thăm
Du Lịch
610.647
661.716
691.402
598.930
837.550
1.138.920
1.225.161
1.460.546
Thương Mại
308.015
364.896
403.175
291.865
266.001
419.646
395.158
445.751
Quan Hệ Đối Ngoại
202.694
273.784
371.849
300.985
337.086
399.962
390.229
430.994
Các Mục Đích Khác
229.940
306.759
249.211
328.348
341.117
181.572
319.502
290.697
Nguồn: Tổng Cục Du lịch Việt Nam
Năm 1998, khách du lịch vào Việt Nam sụt giảm đột ngột 11.4% so với năm trước đó vì sự đình trệ của nền kinh tế gây ra bởi cuộc Khủng hoảng Tài chính Châu á. Tuy nhiên, năm 1999, lượng khách du lịch đã phục hồi trở lại và vượt số lượt khách đạt được năm 1997 với mức tăng trưởng rất tốt 17.2%. Sự sụt giảm của năm trước đó đã hoàn toàn được phục hồi. Các nước ASEAN cũng đã lấy lại được sự hồi phục nhanh chóng với tỷ lệ tăng 15.3%. Điều này phản ánh sự hồi phục về kinh tế của các nước ASEAN.
Bảng 5: Lượng khách quốc tế đến Việt Nam năm 2002
Đơn vị: Lượt người
Một số thị trường chủ yếu
2001
2002
Quý I - 2003
Trung Quốc
672.846
724.385
174.300
Đài Loan
200.061
211.072
56.000
Nhật Bản
204.860
279.769
82.200
Hàn Quốc
75.167
105.060
35.900
Mỹ
230.470
259.967
81.800
Canada
35.963
43.552
15.600
Pháp
99.700
111.546
34.500
Anh
64.673
69.682
18.600
Đức
39.096
46.327
15.200
úc
84.085
96.624
29.400
Các Nước ASEAN
240.883
269.448
72.600
Các thị trường khác
272.198
286.485
105.2
Tổng số
2.330.050
2.627.988
712.500
Nguồn: Tổng cục Du lịch
Sự gia tăng đáng kể khác về khách du lịch quốc tế vào Việt Nam là sự qua lại của du khách đi qua biên giới từ những nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia và Thái Lan. Thị phần của lượng khách du lịch qua biên giới là 34% trên tổng số khách đến Việt Nam năm 1999. Khách từ Trung Quốc tới đạt 484,000 lượt chiếm 81%. Mức tăng trưởng du khách quốc tế tăng 2.7% so với năm trước. Khách du lịch quốc tế chưa bao gồm khách qua biên giới chiếm 66% trên tổng số lượt khách và mức tăng trưởng hàng năm chỉ là 0.3%.
Năm 1998, trước bối cảnh khủng hoảng tài chính tiền tệ và cạnh tranh gay gắt về Du lịch trong khu vực và thế giới, để đẩy mạnh sự phát triển Du lịch theo chỉ đạo của Bộ Chính Trị trong thông báo số 179/TB-TW ngày 11/11/1998,
Tổng cục Du lịch đã xây dựng Chương trình hành động cuốc gia về Du lịch và các sự kiện du lịch Việt Nam năm 2000 với tiêu đề Việt Nam - Điểm đến của Thiên niên kỷ mới. Chương trình này đã được Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt tại công văn số 406/CP-KTTH, ngày 20/4/1999.
Sau hơn hai năm triển khai, Việt Nam đã thu hút một lượng lớn khách nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài về thăm tổ quốc và tăng nhanh lượng khách du lịch nội địa. Năm 2000, du lịch Việt Nam đã đón được 2,142 triệu lượt khách quốc tế và 11,2 triệu lượt khách đi du lịch nội địa, về đích trước thời gian của Chương trình HĐQG về du lịch đề ra. Đến năm 2002, có lẽ phải mất nhiều năm, ngành du lịch Việt Nam mới lấy lại phong độ sôi nổi và phấn khích như năm này, Du lịch Việt Nam đạt 2,6 triệu lượt khách quốc tế, tăng gần 12% so với năm trước (năm 2001 chỉ tăng 9,1%). Một động thái đáng mừng là số khách quốc tế đến với mục đích du lịch đã lên đến gần 1,5 triệu người, tăng 18,8% so với năm 2001 (chỉ tăng 15,8%). Đối với người dân trong nước, du lịch đang dần trở thành một nhu cầu sinh hoạt không thể thiếu đối với đời sống người Việt Nam (có tới 12 triệu lượt khách du lịch nội địa năm 2002). Ngoài ra, nhu cầu của người Việt Nam đi ra nước ngoài nhất là Thái Lan, Trung Quốc, Singapore ngày một tăng mạnh, gấp 4 - 5 lần năm 1999.
Năm 2002 đã có sự thành công của Festival Huế, chương trình du lịch mạo hiểm Raid Gauloises cùng với kết quả mỗi tuần Hạ Long đón đều đặn hàng ngàn lượt khách đến bằng tàu biển. Năm 2002 là năm đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ và thành công của sự nghiệp phát triển du lịch. Sự tăng trưởng của du lịch được xếp là một trong 10 sự kiện nổi bật của đất nước trong năm 2002.
2.1.1 Cơ cấu khách theo phương tiện đi lại
Trong năm 2002, Du lịch nước ta tiếp tục đà tăng trưởng ở mức cao: đạt trên 2,6 triệu lượt người, tăng 11,5% so với năm trước. Trong đó, số khách đi bằng đường hàng không là 1.540.108 lượt người, chiếm 58,3% tổng số khách đến, tăng 17%; bằng đường biển là 309.080 lượt người, chiếm 11,8% tổng số khách đến, tăng 7,9%; bằng đường bộ là 778.800 lượt người, chiếm 29,9% tổng số khách đến, tăng 3,6% so với năm 2001.
Xem bảng dưới đây ta có thể thấy mức tăng của nhu cầu sử dụng các phương tiện vận chuyển:
Bảng 6: Khách chia theo phương tiện đến, năm 2001, 2002
Năm 2001
Năm 2002
2002 so với 2001 (%)
Đi bằng đường hàng không
1.294.465
1.540.108
119,0
Đi bằng đường biển
284.612
309.080
108,6
Đi bằng đường bộ
750.973
778.800
103,7
Bảng 7: Khách chia theo phương tiện đến, quý I, 2003
Quý I, 2003
Quý I, 2003 so với quý I 2002 (%)
Tổng số
712.500
115,5
Đi bằng đường hàng không
445.000
118,9
Đi bằng đường biển
67.500
98,2
Đi bằng đường bộ
190.000
101,1
Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam
Lượng khách đi bằng đường không là chủ yếu, chỉ tính riêng Quý I năm 2003, số khách đi bằng đường hàng không đã lên tới 445.000 lượt so với năm 2002 là 1.540.108 lượt khách. Nhưng đi bằng đường biển và đường bộ mới chỉ đạt 67.500 và 190.000 lượt khách.
2.1.2 Cơ cấu khách theo quốc tịch
Những thị trường du lịch quốc tế hàng đầu của Việt Nam trong từ năm 1993 -1999 là: Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Thái Lan, Nhật, Mỹ, Pháp, Anh. Đến năm 2001 và 2002, Trung Quốc vẫn là nước có số khách du lịch tới Việt Nam dẫn đầu (672.846
lượt khách năm 2001; 724.385 năm 2002, chiếm 27,7%); Tổng số khách của các nước ASEAN đứng thứ 2 (năm 2001 đạt 240.883 lượt khách; năm 2002 đạt 269.448 lượt khách), Mỹ (năm 2001: đạt 230.470 lượt khách; năm 2002 đạt: 259.967 lượt khách); Đài Loan (năm 2001 đạt: 200.061 lượt khách; năm 2002 đạt: 211.072 lượt khách)....
2.1.3 Cơ cấu khách theo mục đích đi lại
Nếu chia theo mục đích chính của chuyến đi thì khách du lịch thuần tuý chiếm tỷ trọng 56% (năm 2001 là 52,8%), trong đó, số người ở nước ngoài về thăm tổ quốc, thân nhân cũng cũng tăng nhanh. Du lịch công vụ chiếm 17% (năm 2001 là 13,6%), hoặc thông qua mục đích thương mại nhằm tìm kiếm thị trường...
Bảng 8: Cơ cấu khách theo mục đích đi lại
Chia theo mục đích chính
Năm 2000
Năm 2001
Năm 2002
- Đi du lịch, nghỉ ngơi
1.138.200
1.225.465
1.460.546
- Đi công vụ
491.646
395.158
445.751
- Thăm thân nhân
399.962
390.229
430.994
- Các mục đích khác
181.572
319.502
290.697
Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam
Doanh thu du lịch
ở Việt Nam, phát triển du lịch được xác định là một hướng quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong những năm qua, nhờ thực hiện đường lối và chính sách đổi mới, ngành du lịch đã đạt được những thành quả về nhiều mặt.
Lượng khách du lịch tăng mạnh, dẫn đến thu nhập từ du lịch được nâng cao. Nếu thu nhập xã hội từ du lịch năm 1990 là 650 tỷ đồng thì năm 1994 là 4.000 tỷ đồng, năm 1995 là 9.000 tỷ, và năm 1996 là 9.460 tỷ, trong đó riêng thu nhập từ du lịch quốc tế đạt 7.100 tỷ, tăng khoảng 35% so với năm trước. Nộp ngân sách từ 284 tỷ năm 1990, lên 600 tỷ năm 1994 và 747 tỷ năm 1996.
Năm 2000, thu nhập xã hội từ du lịch đạt 1,2 tỷ USD vượt chỉ tiêu của Chương trình Hành động Quốc gia về Du lịch đề ra. Năm 2001, mặc dù bị ảnh hưởng nghiêm trọng
bởi sự kiện 11/9 tại Mỹ, nhưng Du lịch Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt 2.330.050 lượt người tăng 9% so với năm 2000. Thu nhập xã hôi từ du lịch đạt 20.500 tỷ đồng (tương đương 1,36 tỷ USD).
Việc tăng nhanh dòng khách du lịch quốc tế đã góp phần thúc đẩy giao lưu văn hoá, làm cho nhân dân thế giới hiểu biết thêm về đất nước và con người Việt Nam, tranh thủ được thiện cảm và sự ủng hộ quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới của đất nước. Du lịch nội địa phát triển không những góp phần nâng cao sức khỏe cho nhân dân, tái sản xuất sức lao động xã hội mà còn tạo điều kiện để nhân dân tiép xúc với cảnh đẹp, với lịch sử văn hoá dân tộc, từ đó thêm yêu đất nước. Con số người Việt Nam đi du lịch nước ngoài tuy còn rất khiêm tốn, nhưng đó là một tín hiệu đáng mừng vì nó nói lên mức sống và nhu cầu giao lưu của nhân dân, cũng như điều kiện cần thiết để góp phần hội nhập quốc tế trong thời “mở cửa”.
2.3 Đào tạo nguồn nhân lực
Lực lượng lao động trực tiếp trong ngành du lịch tăng nhanh. Riêng trong năm 1996, ngành đã thu hút trên 2,6 vạn người lao động vào lam việc, đưa số người làm việc trong ngành du lịch của tất cả các thành phần kinh tế đạt xấp xỉ 60 vạn người. Đó là chưa kể nhiều việc làm gián tiếp mà ngành du lịch đã tạo ra cho xã hội.
Ngành đang tích cực triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cũng như xây dựng năng lực nghiên cứu khoa học cho ngành du lịch theo hướng đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học, cán bộ quản lý, nghiệp vụ, kinh doanh, kỹ thuật, ngoại ngữ bằng nhiều hình thức: học tập tại chỗ, đào tạo trong nước và tranh thủ chọn cử cán bộ, nhân viên, học sinh đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài. Các trường hợp du lịch được củng cố nhằm gắn công tác đào tạo với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trước mắt và lấu dài ở nước ta. Một nét mới trong công tác đào tạo của ngành là chú trọng giáo dục toàn dân về công tác du lịch để phát huy lòng hiếu khách của nhân dân, tạo môi trường cho du lịch phát triển.
Năm 1998 ngành đã đào tạo, bồi dưỡng nghề cho gần 3.000 người, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ và tin học cho hơn 700 cán bộ; tổ chức cho hơn 60 đoàn đi tham quan khảo sát, học tập ở nước ngoài; hợp tác với nước ngoài đào tạo trên 300 cán bộ về quản lý nhà nước, quản trị kinh doanh, nghiệp vụ du lịch và khách sạn; nhiều cán bộ có trình độ đại học và trên đại học đã được các viện nghiên cứu và các trường đại học trong nước đào tạo. Số lượng cán bộ khoa học, cán bộ quản lý trong ngành được đào tạo trên đại học cả các trung tâm đào tạo nghề có uy tín trên thế giới ngày càng tăng.
Đảm bảo cho sự tăng trưởng ổn định của ngành, trong giai đoạn 2002 – 2005, Du lịch Việt Nam kế hoạch đạt 3 - 3,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế, thu nhập xã hội sẽ đạt gấp 2 lần năm 2000; giải quyết việc làm cho 220.000 lao động trực tiếp và 400.000 lao động gián tiếp. Thu nhập xã hội từ du lịch mỗi năm tăng khoảng 2000 - 2.500 tỷ đồng.
2.3 Cơ sở vật chất của ngành
Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành đã có một bước phát triển đáng kể. Trong mấy năm qua, tổng số vốn đầu tư trong nước và nước ngoài vào lĩnh vực khách sạn, du lịch tăng rất nhanh.
Nhiều khách sạn đã được cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới, trong đó có nhiều khách sạn lớn đạt tiêu chuẩn từ 4 đến 5 sao đi vào hoạt động. Trong 222 khách sạn đã được thẩm định phân hạng từ 1 - 5 sao, có 48 khách sạn đạt tiêu chuẩn 3 sao trở lên.
Bảng 9: Số liệu về các cơ sở lưu trú cả nước năm 2002
Cơ sở lưu trú
Số lượng
Số phòng
Tổng
3.267
72.504
Khách sạn
1.940
53.026
Nhà nghỉ
68
7.603
Biệt thự
52
1.310
Làng du lịch
11
357
Căn hộ cho thuê
19
249
Bãi cắm trại
08
83
Xếp hạng các khách sạn tính đến 11/2002
Xếp hạng từ 1- 5 sao cả nước
850
Chiếm 45% tổng số khách sạn toàn Ngành.
Doanh thu cơ sở lưu trú:
Chiếm 65% - 75% doanh thu toàn Ngành.
Đầu tư hạ tầng và cơ sở vật chất - kỹ thuật
Trong năm 2002: Chính phủ đã cấp 380 tỷ đồng đầu tư phát triển hạ tàng du lịch; Như vậy, tổng số vốn đầu tư cho lĩnh vực này trong 2 năm 2001, 2002: 646 tỷ đồng, tập trung cho 21 khu du lịch quốc gia thuộc 37 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung Ương.
Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam
Bảng 10: Số phòng khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế
1992
1993
1994
1995
1996
2000
2010
Số phòng
13.055
16.845
21.051
26.000
31.200
55.760
135.200
Tốc độ tăng (%)
#
29.0
25.0
23.5
20.0
15.6
9.3
Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam
Cũng trong thời gian qua, thực hiện Quyết định 317/TTg của Thủ Tướng Chính phủ, 496 nhà khách, nhà nghỉ với tổng số 12.117 phòng đã chuyển dang kinh doanh khách sạn (đạt 80% tổng số phòng nhà khách, nhà nghỉ cả nước), trong đó có 295 nhà khách, nhà nghỉ đã thành lập doanh nghiệp khách sạn hoặc sáp nhập vào một doanh nghiệp nhà nước có bổ xung kinh doanh nghề khách sạn.
Khách sạn tư nhân mọc lên khá nhiều, tuy phần lớn ở quy mô nhỏ, chỉ có một số quy mô trên dưới 100 phòng đạt tiêu chuẩn 2 đến 3 sao, nhưng cũng đã góp phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho ngành du lịch giải quyết được nhiều khó khăn đối với cơ sở lưu trú cho khách du lịch trong giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển.
Tính đến nay, cả nước có 3.267 khách sạn và các cơ sở lưu trú khác, với 55.500 phòng khách sạn, trong đó có 28.000 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế, có thể đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng khách quốc tế vào Việt Nam trong những năm trước mắt.
Hệ thống nhà hàng, phương tiện vận chuyển đang dần được hoàn thiện. Cả nước hiện đã có trên 3.000 xe ôtô du lịch các loại, 40 tàu và hàng trăm thuyền du lịch. Đã có nhiều đội tàu đường sắt được nâng cấp, rút ngắn thời gian chạy tàu Bắc - Nam để phục vụ khách đi lại thuận tiện. Nhiều tuyến bay được tăng thêm để đáp ứng yêu cầu của khách.
Chất lượng các sản phẩm du lịch từng bước được nâng cao. Số khu du lịch, cơ sở vui chơi, giải trí được cải tạo nâng cấp, xây dựng mới đưa vào khai thác ngày càng nhiều, với các loại hình sản phẩm du lịch phong phú và đa dạng: Du lịch biển và lặn biển, du lịch leo núi, du lịch hang động, du lịch thể thao, hưởng thụ khí hậu, du lịch xanh, du lịch đồng quê, du lịch ôn đới giữa mùa hè nhiệt đới ở vùng núi và cao nguyên... đặc biệt là du lịch văn hoá với những di tích văn hoá, lịch sử, những phong tục, lễ hội mang bản sắc dân tộc độc đáo.
2.4 Công tác Quy hoạch du lịch
Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt nam thời kỳ 1995 - 2010 đã được Chính phủ phê duyệt, và lãnh thổ du lịch Việt Nam được chia thành 3 vùng với những chi tiêu và sản phẩm du lịch đặc trưng:
Vùng du lịch Bấc Bộ, gồm 27 tỉnh và thành phố từ Hà Giang đến Hà Tĩnh, trung tâm của vùng là thủ đô Hà Nội, và tam giác động lực tăng trưởng du lịch là Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long, sản phẩm du lịch đặc trưng là du lịch văn hoá kết hợp với du lịch tham quan và nghiên cứu.
Vùng du lịch Bắc Trung Bộ, gồm 6 tỉnh và thành phố từ Quảng Bình cho đến Quảng Ngãi, trong đó Huế và Đà Nẵng là trung tâm đồng vị, với trục phát triển du lịch Huế - Đà Nẵng - Lao Bảo. Sản phẩm du lịch đặc trưng là du lịch tham quan các di tích lịch
sử cách mạng, di tích lịch sử - văn hoá kết hợp với du lịch biển, hang động, du lịch quá cảnh.
Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ, gồm 28 tỉnh và thành phố, từ Kon Tum đến Minh Hải,với trung tâm là thành phố Hồ Chí Minh, và các tam giác tăng trưởng du lịch là thành phố Hồ Chí Minh - Nha Trang - Đà Lạt và tam giác tăng trưởng kinh tế - du lịch: Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng Tàu. Các sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng này là du lịch tham quan, nghỉ dưỡng biển và núi, du lịch sông nước, du lịch sinh thái đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.
Dự án quy hoạch tổng thể phát triển du lịch ở 32 tỉnh thành phố đã được phê duyệt, trong đó có một số tỉnh đã xây dựng quy hoạch du lịch tới quận, huyện, xã, thị xã. Nhiều dự án quy hoạch chi tiết, dự án đầu tư cũng đang được tích cực triển khai, trong đó đặc biệt có những dự án lớn đối với khu vực có mức vốn hàng trăm triệu USD. Trong 4 năm gần đây, toàn ngành đã nghiệm thu 17 đề tài khoa học, trong đó có 3 đề tài cấp nhà nước, 6 công trình khoa học. Dự án công nghệ tin học trong quản lý du lịch và ứng dụng công nghệ thông tin trong tuyên truyền quảng cáo du lịch đang triển khai. Một số sản phẩm CD-ROM Việt Nam về du lịch đã được thử nghiệm có kết quả.
Những hoạt động trên đã góp phần nâng cao từng bước vị thế của du lịch Việt Nam trong khu vực và trên thế giới và những thành tựu ngành du lịch đạt được trong thời gian qua đã góp phần đáng kể vào công cuộc đổi mới của đất nước.
Những hạn chế trong hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế Việt Nam
3.1 Các vấn đề của ngành
Cạnh tranh du lịch trong khu vực và quốc tế ngày càng gay gắt, đặc biệt sẽ bị đảy lên ở mức độ cao trong điều kiện toàn cầu hoá, khu vực hoá và biến động khó lường của khủng hoảng tài chính, năng lượng, thiên tai và nhất là trong thời gian gần đây là hiềm hoạ của căn bệnh SARS đang lan nhanh ra toàn thế giới, ảnh hưởng xấu tới sự tăng trưởng của du lịch Việt Nam cũng như toàn cầu. Trong khi đó khả năng cạnh tranh của Du lịch Việt Nam còn hạn chế. Cũng rất may là Việt
Nam đã được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thừa nhận thành công trong việc phòng ngừa và kiểm soát SARS. Chúng ta sẽ hy vọng cuộc khủng hoảng này sẽ qua đi nhanh và ngành du lịch Việt Nam lại sớm chứng kiến sự thần kỳ giống như năm 2002.
Du lịch Việt Nam đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển, điểm xuất phát quá thấp so với du lịch ở nhiều nước trong khu vực. Kinh nghiệm quản lý, kinh doanh và trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, lao động ngành còn nhiều bất cập. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn yếu kém, thiếu đồng bộ.
Tài nguyên và môi trường đang có sự suy giảm do khai thác, sử dụng thiếu hợp lý và những tác động của thiên thai ngày càng tăng và diễn ra ở nhiều vùng, nhiều địa phương trong nước.
Vốn đầu tư phát triển du lịch rát thiếu, trong khi đó đầu tư lại dàn trải kém hiệu quả đang là một thách thức không nhỏ đối với sự phát triển ngành du lịch.
Trình độ phát triển kinh tế xã hội của nước ta cũng như mức sống của người dân nhìn chung còn thấp, ảnh hưởng đến quan hệ cung cầu đối với phát triển du lịch.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Chính phủ đã có nhiều chính sách và nỗ lực để phát triển cơ sở hạ tầng, Tuy nhiên, hệ thống cơ sở hạ tầng hiện nay còn yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của các ngành kinh tế, trong đó có du lịch, hạn chế khả năng tiếp cận, phát triển và khai thác các tuyến, điểm du lịch giàu tiềm năng ở các vùng núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
Nhận thức xã hội về du lịch vẫn còn bất cập, thiếu thống nhất trong xây dựng, chỉ đạo, quản lý và thực hiện quy hoạch ngành và lãnh thổ. Bên cạnh đó hệ thống các chính sách, quy định pháp luật liên quan đến phát triển du lịch thiếu đồng bộ so với yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế.
3.2 Thủ tục làm Visa du lịch còn nhiều bất cập
Visa du lịch là yêu cầu đối với hầu hết khách du lịch đến Việt Nam và thủ tục để xin visa thường rát mất thời gian, tốn kém và không cho phép nhiều thay đổi trong lịch
trình đi lại. Bước đầu tiên để xin visa là phải có được một thư cho phép và các khách du lịch thường xin từ một công ty du lịch quốc tế có trụ sở tại Việt Nam hoặc nhờ các đại lý du lịch ở ngay địa phương mình. Mất khoảng 5 ngày để hoàn tất các thủ tục và lệ phí visa là khoảng 50 USD cho thời hạn 01 tháng - Đại Sứ Quán Việt Nam tại nước sở tại của khách du lịch là cơ quan có thẩm quyền cấp visa.
Gần đây mới có thêm một quy định yêu cầu visa đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài và con cái họ nếu họ sinh ra ngoài lãnh thổ Việt Nam và do vậy không mang quốc tịch Việt Nam. Trước đây trẻ em dưới 16 tuổi con em các gia đình người Việt Nam định cư ở nước ngoài không phải xin visa. Tuy nhiên hiện nay tất cả trẻ em ở mọi lứa tuổi và cha mẹ đều phải có visa khi về Việt Nam. Nếu lệ phí cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài là 30 USD thì lệ phí cho visa của trẻ em khoảng 65 USD. Như vậy phí visa cho một gia đình 4 người sẽ lên tới 190 USD.
Một thay đổi trong thời hạn đi du lịch ra nước ngoài chính là trở ngại thứ hai. Nếu một khách du lịch quyết định rằng anh ta muốn thăm một nước láng giềng của Việt Nam và chưa lập kế hoặc từ trước, anh ta sẽ phải dành tới 3 hoặc 4 ngày để hoàn thành thủ tục xin visa và nộp thêm lệ phí để trở lại Việt Nam và quay trở về nước. Trên lý thuyết, các khách du lịch có thể xin visa tại sân bay nhưng trên thực tế không ai làm như vậy bởi các hãng hàng không sẽ không chấp nhận các hành khách lên máy bay nếu không có visa. Tóm lại, thủ tục xin visa du lịch vào Việt Nam chính là một trong những nhân tố gây trở ngại cho việc gia tăng lượng du khách. Có lẽ yêu cầu về visa đã khiến cho ngành du lịch Việt Nam bỏ lỡ mảng khách du lịch bất thường, đặc biệt là khách du lịch từ các nước Đông Nam á - những người có thể bất chợt muốn dừng chân vào Việt Nam một vài ngày bởi để vào Việt Nam luôn cần phải có kế hoạch từ trước và sẽ vấp phải nhiều thủ tục hành chính cộng với chi phí cao hơn các nước Châu á khác.
3.3 Công tác Marketing chưa được triển khai toàn diện
Hoạt động Marketing cho ngành du lịch bao gồm rất nhiều hoạt động từ xúc tiến quảng cáo ở nước ngoài cho tới thu thập thông tin về các thị trường và khách hàng tiềm năng và hiện tại, thúc đẩy từng loại hình và dịch vụ du lịch. Chúng ta chưa đầu tư đầy đủ vào hoạt động marketing giới thiệu về Việt Nam như một điểm đến của du lịch ở nước ngoài và vẫn chưa có được một chiến lược để khai thác tối đa tiềm năng du lịch của Việt Nam. Mặc dù có các chương trình khuyếch chương ở trong nước nhưng các chương trình này không giúp thu hút được được khách du lịch mới đến Việt nam vì chúng hướng vào những khách du lịch đang ở Việt Nam rồi. Hơn nữa, hoạt động xúc tiến quảng cáo ở Việt Nam như các bảng hiệu ở các thành phố hay trục đường cao tốc lại không nêu được những địa chỉ cụ thể trong nước mà chỉ tập trung giới thiệu chung về đất nước. Các công ty đơn lẻ hay một số công ty cùng nhau gố gắng xây dựng hình ảnh Việt Nam trở thành một điểm đến nhưng những nỗ lực của họ vẫn chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế. Thailand và Singapore đã thực hiện những chiến lược marketing đồng bộ trong đó bao gồm cả việc thành lập và hoạt động một số văn phòng du lịch ở nước ngoài - những văn phòng này còn góp phần thúc đẩy sự hợp tác liên chính phủ - trong khi đó chúng ta chưa xây dựng được một chiến lược như vậy trong Chiến lược Tổng thể cho ngành du lịch hay thành lập được một văn phòng ở nước ngoài nào.
3.4 Còn nhiều cản trở trong việc cấp giấy phép hoạt động cho các công ty du lịch
Nhiều công ty du lịch đang hoạt động ở Việt Nam bày tỏ mong muốn giảm thiểu sự khác biệt trong các quy định quản lý công ty du lịch nội địa và du lịch quốc tế về quy định và giấy phép hoạt động. Ví dụ một số công ty tư nhân kinh doanh du lịch nội địa gặp phải khó khăn nêu trên khi họ ký kết hợp đồng với các công ty du lịch quốc tế để cung cấp dịch vụ cho khách đã buộc họ phải hợp tác với các doanh nghiệp nhà nước (được phép hợp tác với các tổ chức du lịch quốc tế).
Vấn đề về tính hợp pháp của hợp đồng cũng rất quan trọng bởi trên lý thuyết các công ty có thể xin cấp phép hoạt động quốc tế, tuy vậy trên thực tế những giấy phép này hiếm khi được cơ quan cáp phép phê duyệt. Có công ty du lịch nội địa đã thâm nhập được vào thị trường Đông Dương nhưng đã phải đợi tám năm để xin được giấy phép hoạt động quốc tế. Để giải quyết tình thế này, nhiều chủ đầu tư nước ngoài đã thành lập nhiều công ty Việt Nam và hoạt động như những công ty du lịch quốc tế. Điều này dẫn tới hậu quả có một khoảng cách rất lớn trong khu vực tư nhân giữa những công ty có giấy phép, giữa các công ty hoạt động du lịch quốc tế hợp lệ và những công ty hoạt động không hợp lệ. Còn gây ra thêm nhiều vấn đề khi các khách du lịch gặp khó khăn.
Ngoài ra một yêu cầu chưa thành văn bản đối với các giấy phép kinh doanh du lịch quốc tế là mỗi năm, mỗi công ty phải chứng tỏ mình đã bán được tour du lịch cho không dưới 2.000 khách trong mỗi chương trình chọn gói. Trong điều kiện các công ty trong nước bị cấm kinh doanh với khách quốc tế, hầu hết các công ty đều thấy không thể thực hiện được yêu cầu này.
3.5 Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển
Hãng hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) hầu như không có các chuyến bay trực tiếp từ các thành phố chính của Châu Âu và chủ yếu chỉ đón thông qua các cửa ngõ ở Châu á là Bangkok và Singapore. Vì thế mỗi khách du lịch phải trả thêm cả tiền vé cho chặng đi và chặng đến các cửa đó và hậu quả là Thailand và Singgapore trở thành những điểm đến kinh tế hơn hoặc hấp dẫn hơn bởi tiết kiệm được thời gian trong điều kiện số ngày nghỉ của họ chỉ có hạn. Mặc dù việc xin được quyền vận chuyển là không dễ dàng, hầu hết các đơn vị tổ chức du lịch đều cho rằng lượng khách du lịch sẽ tăng lên rất nhanh ngay khi có thêm các chuyến bay thẳng. Hơn nữa, sân bay quốc tế Nội Bài mới được nâng cấp cùng với hệ thống quản lý không lưu sẽ càng tạo điều kiện thuận lợi cho gia tăng lượng khách du lịch.
Bảng dưới đây là một so sánh giữa giá vé khứ hồi tới Hà Nội và Bangkok từ một số thành phố trung chuyển chính. Số liệu trong bảng chỉ ra giá vé bay thẳng đến Hà Nội và bangkok và giá tổng cộng nếu khách phải bay nối chuyến từ Bangkok tới Hà nội. Mức chênh lệch lớn nhất là giá vé của khách du lịch Nhật Bản - đây là đối tượng khách hàng Việt Nam cần đưa vào mục tiêu mặc dù trong mấy năm gần đây lượng khách đến từ Nhật Bản vẫn đang tăng. Chẳng hạn giá vé cho khách du lịch Nhật Bản bay tới Hà Nội qua đường Bangkok vẫn rẻ hơn bay thẳng tới Hà Nội. Sự chênh lệch này báo động rằng Việt Nam sẽ tự làm mất nguồn thu của mình sang Thailand đơn giản chỉ vì mức giá vé. Ngoài ra còn có một chút chênh lệch trong giá vé từ Los Angeles với Hàng không Trung Quốc (China Airlines) và Hàng không Châu á (Asiana Airlines) và từ New York với Hàng không Trung Quốc.
Bảng 11: So sánh giá vé đi và đến giữa Việt Nam và Thái Lan
Giá vè từ đIểm đi tới đích
Giá váe từ điểm đI đến Bangkok + vé từ Bangkok đến Hà Nội
Điểm đi
Hãng Hàng Không
Hà Nội
Bangkok
KHVN
Thai Airways
Air France
Tổng chi phí T/Bình
Chênh lệch
Paris
Air France
Thai Air Way
763
Không có
584
637
834
887
844
897
829
882
836
889
73
Không có
London
Air France
Lufthansa
1,372
Không có
Không có
640
Không có
890
Không có
900
Không có
885
Không có
892
Không có
Không có
Tokyo
Janpan Airlines
China Airlines
United Airlines
Vietnam Airlines
Cathay Pacific
846
Không có
Không có
846
862
443
459
445
Không có
Không có
693
709
695
Không có
Không có
703
719
705
Không có
Không có
688
704
690
Không có
Không có
695
711
697
Không có
Không có
151
Không có
Không có
Không có
Không có
Los Angeles
China Airlines
Asiana Airlines
Japan Airlines
870
870
Không có
611
599
611
861
849
861
871
859
871
856
844
856
863
851
863
7
19
Không có
New York
Korean Airlines
China Airlines
Eva Airways
Cathay Pacific
United Airlines
819
1000
820
850
Không có
Không có
725
772
788
798
Không có
975
1,022
1,038
1,048
Không có
985
1,032
1,048
1,058
Không có
970
1,017
1,033
1,043
Không có
977
1,024
1,040
1,050
Không có
23
204
190
Không có
Frankfurt
Lufthansa
730
652
902
912
897
904
174
Kuala Lampua
Vietnam Airlines
Malaysia Airline
Thai Airways
Cathay Pacific
473
473
606
Không có
Không có
Không có
383
454
Không có
Không có
633
704
Không có
Không có
643
714
Không có
Không có
628
699
Không có
Không có
635
706
Không có
Không có
29
Không có
Được tính từ giá vé trung bình của các tuyến đến Bangkok trừ đi giá vé đến Hà Nội.
Các con số đánh dấu thể hiện các tuyến bay qua Bangkok có giá vé rẻ hơn bay thẳng.
Nguồn: Trung tâm dịch vụ Viễn Đông, San Diego CA, USA; Hãng Hàng không Malaysia, Lufthansa, Hàng không Việt Nam.
Các doanh nghiệp du lịch cũng gặp khó khăn để đăng ký vé may bay nội địa nhất là trong mùa cao điểm. Đối với họ việc thiếu những chuyến bay có thể vận chuyển các đoàn khách lớn và thời gian bay không thuận tiện là những vấn đề nổi cộm. Gốc rễ của vấn đề này là tình hình thiếu cạnh tranh. Mặc dù Hãng hàng không Việt Nam và Hàng không Pacìic đang cùng hoạt động ở Việt Nam, Hãng không Pacific vẫn chỉ là một liên doanh của Hàng không Việt Nam.
Hệ thống đường bộ Việt Nam phải được nâng cấp và mở rộng sân bay Huế để đón được các đoàn khách lớn hơn. Hệ thống dịch vụ đường sắt cũng nên được nâng cấp để đáp ứng những tiêu chuẩn quốc tế và xây dựng một cơ chế marketing để đưa loại hình này trở thành một sản phẩm du lịch mới.
3.6 Còn thiếu cán bộ và nhà quản lý có kỹ năng
Nguồn nhân lực là một yếu tố đầu vào quan trọng của ngành du lịch và chi phí lao động có thể chiếm tới 40% tổng chi phí hoạt động của một công ty dù chi phí tiền công ở Việt Nam là tương đối hợp lý. Vì vậy việc có được những lao động có trình độ cũng giống như tạo lập nên tài sản cho doanh nghiệp. Ngoài thực tiễn cần có rất nhiều lao động cho ngành, kỹ năng của lao động cũng rất đa dạng. Hiện đang có ba đơn vị đào tạo cho ngành du lịch cùng hoạt động nhưng các nhà quản lý doanh nghiệp cho rằng vẫn còn thiếu nhân viên với kỹ năng về tài chính, marketing, bán hàng và quản lý. Tuy nhiên hướng dẫn viên du lịch nói được tiếng Anh hoặc Pháp, rất ít người nói được tiếng Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc hay Tây Ban Nha. Các đơn vị đào tạo du lịch cũng có đào tạo ngoại ngữ và các kỹ năng khác nhưng do các giảng viên người Việt Nam thực hiện. Bởi vậy các giảng viên trong nước thiếu chuyên sâu - những kiến thức này chỉ có thể do những người có nhiều kinh nghiệm quốc tế cung cấp và điều này đặc biệt đúng với nội dung giảng dạy về thị trường Nhật Bản.
3.7 Một số vấn đề liên ngành
Quy định về thế chấp khi vay vốn:
Các doanh nghiệp tư nhân không thể vay vốn của các ngân hàng nước ngoài vì họ không được sử dụng đất để vay vốn bởi Chính phủ Việt Nam là chủ cơ sở hữu đất đai và các cá nhân cũng như doanh nghiệp chỉ có quyền sử dụng đất. Quy định phải có thế chấp lại không bị áp dụng cho các doanh nghiệp nhà nước khi họ tìm vốn hoạt động. Các doanh nghiệp đều cho rằng khả năng tiếp cận các nguồn tài chính cũng như lãi suất áp dụng (từ 10 - 11%/năm) không phải là trở ngại cho hoạt động kinh doanh của họ.
Chi phí viến thông cao:
Chi phí viễn thông thường gồm chi phí cho Internet, fax và điện thoại, thường chiếm từ 20 - 30% chi phí hoạt động của mỗi công ty du lịch. Internet là một công cụ rất quan trọng cho việc xúc tiến quảng cáo và liên lạc nhưng tốc độ truy cập Internet chậm cộng với chi phí cao so với các nước Đông Nam á khác, nên được nhận định là đang gây ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp liên quan tới du lịch ở Việt Nam.
Trong 40 năm hình thành và phát triển, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, sự phối hợp của các cấp, các ngành và nỗ lực của toàn ngành, Du lịch Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách về phát triển du lịch với các nước trong khu vực, trở thành ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, góp phần tích cực vào quá trình đổi mới nền kinh tế, hội nhập khu vực và thế giới của đất nước. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được, Du lịch Việt Nam còn có những khó khăn, hạn chế cả về chủ quan lẫn khách quan: hình thức kinh doanh, phục vụ còn chưa phong phú; chất lượng sản phẩm chưa cao; khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế còn yếu; đội ngũ nhân lực thông thạo nghiệp vụ giỏi ngoại ngữ, tay nghề cao chưa nhiều; cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất xã hội chuyên ngành còn lạc hậu và phân tán; công tác quản lý
chưa ngang tầm với nghiệp vụ..., nên phát triển chưa ổn định, hiệu quả chưa tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của Đất nước. Ngoài ra, dưới tác động của sự cạnh tranh gay gắt của các nước đi trước trên lĩnh vực du lịch và những diễn biến phức tạp về căn bệnh Viêm đường Hô hấp Cấp tính SARS (Severe Acute Aspiratory Syndrome) đã có những tác động mạnh đến nền du lịch đang phát triển nhanh không những ở Việt Nam, khu vực mà còn trên thế giới. Mặc dù vậy, với nỗ lực của toàn ngành hy vọng Du lịch Việt Nam sẽ vượt qua được những hạn chế và khó khăn nói trên để hướng tới một triển vọng phát triển đầy hứa hẹn.
Chương III
Chiến Lược Và Giải Pháp Phát Triển Du Lịch ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010.
Tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến động gần đây như bệnh virus SARS, chiến tranh... thách thức đan xen nhau với những thuận lợi và cơ hội phát triển du lịch. Trong 10 năm tới, nước ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá hướng tới mục tiêu đưa đất nước thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển và xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Trên cơ sở đó, kết cấu hạ tầng sẽ phát triển; tiềm lực kinh tế, cơ sở vật chất, kỹ thuật được tăng cường, hiệu quả và sức mạnh cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân được nâng lên; đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân được cải thiện; nguồn lực con người, khoa học và công nghệ được đẩy mạnh; môi trường sinh thái được bảo vệ và cải thiện; vị thế nước ta trong quan hệ quốc tế được củng cố và nâng cao. Tất cả những yếu tố trên là cơ sở vững chắc cho sự phát triển du lịch của đất nước và cũng là đòi hỏi ngày càng cao đối với ngành du lịch. Vì vậy việc phát huy nội lực, tranh thủ nguồn lực bên ngoài để vượt khó khăn, thách thức, tận dụng cơ hội và lợi thế để phát triển du lịch nhanh và bền vững là một hướng chiến lược quan trọng trong itến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, góp phần thực hiện các mục tiêu định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
Các nguồn lực chủ yếu để phát triển du lịch Việt Nam và quan điểm phát triển
Là một quốc gia nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam á, sự phát triển của du lịch Việt Nam không năm ngoài xu thế phát triển chung về du lịch của khu vực. Bên cạnh đó, do lợi thế về vị trí địa lý kinh tế chính trị và tài nguyên cũng như vai trò của Việt Nam trong hợp tác khu vực, trong phát triển hạ tầng và du lịch, khi các dự án liên
quốc gia trong khu vực được thực hiện như dự án phát triển đường bộ, đường sắt xuyên á, dự án phát triển du lịch tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, dự án phát triển du lịch hành lang Đông Tây... Du lịch Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi để tăng cường phát triển trong xu thế hội nhập của khu vực và quốc tế.
1. Các nguồn lực chủ yếu để phát triển du lịch Việt Nam
1.1 Nguồn lực nhân văn
Về di tích lịch sử, đất nước ta đâu đâu cũng có những di tích lịch sử phản ảnh quá trình dựng nước và giữ nước lâu bền của dân tộc. Xuyên suốt quá trình đó là truyền thống, bản ngã Việt Nam: Đoàn kết, quật cường, thông minh, cần cù, sáng tạo, ứng sử tài ba trong mọi tình huống. Đền Hùng nhắc nhở chúng ta hướng về nguồn cội, hướng về đất tổ: Cổ Loa kể về Thục Phán An Dương Vương: Đền Hai Bà Trưng kể về hai người phụ nữ anh hùng “cưỡi voi đánh giặc”, Cố đô Hoa Lư - kinh thành đầu tiên của chế độ phong kiến Việt Nam, Kinh Thành Thăng Long với bao chứng tích mang dấu ấn của các triều dại Lý - Trần - Lê. Kinh đô Huế ngoài giá trị kiến trúc còn là nơi chứng kiến triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, được công nhận là di sản văn hoá thế giới. Điện Biên Phủ, đường mòn Hồ Chí Minh, địa đạo Củ Chi... là những di tích biết nói về thời đại Hồ Chí Minh, về chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
Về hệ thống di tích văn hoá:Cùng với bề dày lịch sử, nước ta cũng có một bề dày văn hoá, một nền văn hoá độc đáo, đặc sắc, phong phú… Từ văn hoá dân gian đến văn hoá Lý - Trần, văn hoá Chàm…Bề dày văn hoá đó được kết tinh ở hệ thống các di tích hiện còn như Văn Miếu, chùa Tây Phương, chùa Trấn Quốc, chùa Yên Tử, Bút Tháp, Tháp Chàm, các phố cổ, lăng cổ, kinh thành cổ...
Về lễ hội:nước ta có nhiều lễ hội đặc sắc độc đáo, hội Chùa Hương, hội Gióng, hội Lim, hội Phủ Dày, hội Chọi Trâu, hội Đền Hùng, hội nhảy Hmông, hội thả chim...
Về phong tục tập quán:nước ta có trên 50 dân tộc sinh sống: Ngoài tính thông nhất được hình thành trong qúa trình lịch sử, mỗi dân tộc có bản sắc riêng của mình, có
những phong tục tập quán mang tính chất văn hoá cao. Phong tục ăn hỏi, ăn uống, thờ cúng, đối xử với nhau của người Việt: phong tục sinh hoạt của các dân tộc ít người: Mường, Tày, Nùng, Dao, Hmông, Bana, Êđê, Sán Dìu...
Về các loại hình nghệ thuật: Với chiều dài lịch sử, với nhiều dân tộc khác nhau, đất nước ta đã sản sinh nhiều loại hình nghệ thuật độc đáo, giàu bản sắc Việt Nam, với các làn điệu dân ca như: Ca trù, chèo, quan họ, hát ví, chòi, then, lượn, tuồng cung đình, cải lương... Với những điệu múa: Xoè, sạp, nón, trống, rối nước... các dòng nghệ thuật tạo hình đặc sắc như tranh Đông Hồ, Sơn mài, chạm khắc, ký hoạ... các loại nhạc cụ dân tộc độc đáo: đàn đá, đàn bầu, sáo trúc, Trưng, Klông bút...
Về văn học: Chúng ta có một nền văn học đặc sắc, từ văn học dân gian: Ca dao, tục ngữ, cổ tích, truyền thuyết, ngụ ngôn... đến văn học viết vơí những tác phẩm có giá trị: Truyện Kiều, văn thơ Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Nguyễn Tuân, Lê Trọng Phụng...
Về ngành nghề truyền thống và các món ăn dân tộc: Nước ta là quê hương của những ngành nghề truyền thống nổi tiếng về dệt lụa, thêu ren, thổ cẩm, gốm sứ, mây tre đan, đồ gỗ, khảm xà cừ... và hàng trăm món ăn dân tộc: ăn Bắc, ăn Huế, ăn Nam Bộ, chả cá Lã Vọng, nem rán, bánh bèo, bún bò giò heo, cơm tám, rượu cần, rượu làng vân, chè thái...
Ngoài ra chúng ta còn có một hệ thống bảo tàng, khu lưu niệm phong phú gồm: Bảo Tàng Lịch sử, Bảo Tàng Quân đội, Bảo tàng Cách mạng, Bảo tàng Dân tộc học, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Việt Bắc, Bảo tàng tổng hợp các tỉnh: Khu lưu niệm Nguyễn Trãi, Ngyuyễn Du, Nguyễn Khuyến, Phan Bội Châu, Trần Phú, Lê Hồng
Phong, Chủ Tịch Hồ Chí Minh... và những môn thê thao mang tính dân tộc: đá cầu, võ dân tộc, chọi gà...
1.2 Nguồn lực thiên nhiên
Việt Nam có những lợi thế đặc biệt về vị trí địa lý kinh tế và chính trị. Nằm ở trung tâm Đông Nam á, lãnh thổ Việt Nam vừa gắn liền với lục địa vừa thông rộng với đại dương, có vị trí giao lưu quốc tế thuận lợi cả về đường biển, đường sông, đường sắt, đường bộ và đường hàng không. Đây là tiền đề rất quan trọng trong việc mở rộng và phát triển du lịch quốc tế.
Việt Nam là đất nước có chế độ chính trị ổn định, có nguồn nhân lực dồi dào, dân tộc Việt Nam thông minh, cần cù, mến khách là những nhân tố quan trọng đảm bảo cho du lịch phát triển. Tài nguyên du lịch Việt Nam phong phú, các đặc điểm đa dạng về cấu trúc địa hình đồng bằng, đồi núi, cao nguyên đã tạo cho lãnh thổ Việt Nam sự đa dạng và phong phú về cảnh quan và các hệ sinh thái biển - đảo, hệ sinh thái hồ, hệ sinh thái rừng, hang động...
Việt Nam là quốc gia có bờ biển dài đứng thứ 27 trong tổng số 156 quốc gia có biển trên thế giới và là nước ven biển lớn ở khu vực Đông Nam á. Đường bờ biển Việt Nam trải dài trên 3.260km qua 13 vĩ độ với 125 bãi biển có các điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghỉ dưỡng tắm biển và vui chơi giải trí, trong số đó có nhiều bãi biển hấp dẫn như Trà Cổ, Sầm Sơn, Cửa Lò, Thuận An, Lăng Cô, Non Nước, Văn Phong-Đại Lãnh, Nha Trang, Phan Thiết, Long Hải, Vũng Tàu, Kiên Giang... Đặc điểm hình thái địa hình vùng ven biển tạo ra nhiều vịnh đẹp có tiềm năng phát triển du lịch lớn như vịnh Hạ Long, Văn Phong, Cam Ranh... Trong đó vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Trong tổng số hơn 2.700 đảo lớn nhỏ ven bờ, nhiều hòn đảo như Cái Bầu, Cát Bà, Tuần Châu, Cù Lao Chàm, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc... với các hệ sinh thái phong phú, cảnh quan đẹp là nơi có điều kiện hình thành các khu, điểm du lịch hấp dẫn.
Là một nước có khoảng 50.000 km2 địa hình vùng núi đá vôi, Việt Nam được xem là nước có tiềm năng du lịch hang động, thác, nghềnh to lớn, trong đó có hơn 200 hang
động đã được phát hiện, điển hình là động Phong Nha với chiều dài gần 8km được đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới.
Nguồn nước khoáng của nước ta phong phú có ý nghĩa rất to lớn đối với phát triển du lịch. Đến nay đã phát hiện được hơn 400 nguồn nước khoáng tự nhiên với nhiệt độ từ 27 - 105 độ C. Thành phần hoá học nước khoáng rất đa dạng, từ bicabonat natri đến clorua natri với độ khoáng hoá cao có giá trị đối với du lịch nghỉ dưỡngchữa bệnh.
Việt Nam có hệ sinh thái động thực vật rừng đa dạng. Tính đến năm1999 trên phạm vi cả nước đã có 107 khu rừng đặc dụng trong đó có 11 vườn quốc gia, 61 khu bảo tồn thiên nhiên và 34 khu rừng văn hoá lịch sử môi trường với tổng diện tích là 2.092.466 ha. Đây là nguồn tài nguyên du lịch sinh thái quý giá, nơi bảo tồn khoảng 12.000 loài thực vật, gần 7.000 loài động vật với nhiều loài đặc hữu và quý hiếm, trong đó có vườn quốc gia Ba Bể với hồ thiên nhiên được đánh giá vào loại lớn trên thế giới đang được đề nghị UNESCO xét đưa vào danh mục di sản thiên nhiên thế giới.
Nước ta có tài nguyên du lịch nhân văn phong phú với lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Trong số khoảng 40.000 di tích có hơn 2000 di tích được nhà nước chính thức xếp hạng. Trong đó quần thể di tích triều Nguyễn ở cổ đô Huế (Thừa Thiên Huế); đô thị cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn (Quảng Nam) đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thê giới.
Ngoài các di tích văn hoá, lịch sử, cách mạng, nhiều nghề thủ công truyền thống với kỹ năng độc đáo, nhiều lễ hội gắn liền với các sinh hoạt văn hoá văn nghệ dân gian đặc sắc của cộng đồng 54 dân tộc cùng với những nét riêng, tinh tế của nghệ thuật ẩm thực được hoà quyện, đan xen trên nền kiến trúc phong cảnh có giá trị triết học phương Đông, đã tạo cho Du lịch Việt Nam có nhiều điều kiện khai thác thế mạnh về du lịch - văn hoá - lịch sử.
Nhìn chung, tài nguyên Việt Nam vừa phân bố tương đối đồng đều trong toàn quốc, vừa tập trung thành từng cụm gần các đô thị lớn, các trục giao thông quan trọng thuận
tiện cho việc tổ chức khai thác, hình thành các tuyến du lịch bổ sung cho nhau giữa các vùng, có giá trị sử dụng cho mục đích du lịch và sức hấp dẫn khách cao.
Bảng 12: Tóm tắt các sản phẩm du lịch ở Việt Nam
Hiện có
Tiềm năng
Chỗ ở và thức ăn:
Các loại khách sạn
Các phương tiện hội họp
Điểm cắm trại
Tàu thuỷ, Nhà thuyền
Nhà hàng, cửa hàng và chợ địa phương
X
X
X
X
X
Các phương tiện đi lại
Máy bay
Tàu hoả
Ô tô cho thuê
Công ty xe buýt
Thuyền
Các cơ quan du lịch
Nhà đIều hành du lịch
X
X
X
X
X
X
X
Các điểm thu hút
Địa danh lịch sử
Địa điểm văn hoá
Công viên quốc gia
Sân Gôn
Lặn có bình khí nén
Lướt ván nước
Hàng thủ công
Công viên động vật
Công viên giải trí
Giải trí (Khiêu vũ, Karaoke,…)
Nơi nghỉ mát ở biển
Nơi nghỉ mát ở vùng cao
Các hoạt động khác: đi bộ, đạp xe
Các lễ hội văn hoá
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nguồn: Tổng cục Du lịch Việt Nam
1.3 Dân cư và lao động
Đây là một nguồn lực để phát triển du lịch, nguồn cung cấp lao động cho ngành du lịch, là thị trường tiêu thụ sản phẩm du lịch. Với nước ta, dân số đông, gần 80 triệu người: tháp dân số trẻ, độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cao (khoảng 40 triệu lao động). lao động nước ta cần cù, thông minh, có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất, học vấn
ngày càng cao, tạo nên những thuận lợi cơ bản để phát triển du lịch. Nguồn thị trường sức lao động nước ta rất đỗi rồi dào. Mặt khác, nhân dân ta nói chung, lao động nước ta nói riêng vốn sinh ra và lớn lên trong một dân tộc có truyền thống lịch sử và bề dày văn hoá: yêu nước, nhân hậu, chịu khó, chịu thương, chung thuỷ, lịch thiệp... Đặc biệt coi trọng thuần phong mỹ tục, đối nhân xử thế thấu tình đạt lý, lấy chữ “tín” làm trọng, coi trọng “nhân - lễ - nghĩa - trí - tín”... Đó là một tiềm năng để phát triển du lịch. Bởi lẽ lao động du lịch là lao động làm thoả mãn nhu cầu thẩm nhận, giao tiếp của con người, c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KHOA LUAN TOT NGHIEP.doc