Đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU

Tài liệu Đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU: LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt trên nhiều phương diện, kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị - xã hội ổn định, cơ sở hạ tầng được cải thiện, đời sống nhân dân được nâng cao, quan hệ quốc tế được mở rộng. Đặc biệt trong mười năm gần đây tăng trưởng GDP của nước ta đạt trung bình 7,5%/năm; trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu nước ta từ 699 triệu USD vào năm 1986 đã tăng hơn 90 lần lên gần 64 tỷ USD vào năm 2008. Đóng góp không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu là mặt hàng TCMN, với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu TCMN đạt trung bình 17,87%/năm trong vòng gần 10 năm (2000-2009). TCMN cũng góp phần giải quyết việc làm cho trên 1,4 triệu lao động, đặc biệt các lao động ở vùng nông thôn, từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay, ngành TCMN là một trong mười ngành xuất khẩu mũi nhọn của nước ta, phấn đấu vào năm 2010, giá trị xuất khẩu của...

doc61 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1025 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đẩy mạnh xuất khẩu thủ công mỹ nghệ của Việt Nam sang thị trường EU, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã có những bước tiến rõ rệt trên nhiều phương diện, kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị - xã hội ổn định, cơ sở hạ tầng được cải thiện, đời sống nhân dân được nâng cao, quan hệ quốc tế được mở rộng. Đặc biệt trong mười năm gần đây tăng trưởng GDP của nước ta đạt trung bình 7,5%/năm; trong đó kim ngạch xuất khẩu tăng rõ rệt. Kim ngạch xuất khẩu nước ta từ 699 triệu USD vào năm 1986 đã tăng hơn 90 lần lên gần 64 tỷ USD vào năm 2008. Đóng góp không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu là mặt hàng TCMN, với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu TCMN đạt trung bình 17,87%/năm trong vòng gần 10 năm (2000-2009). TCMN cũng góp phần giải quyết việc làm cho trên 1,4 triệu lao động, đặc biệt các lao động ở vùng nông thôn, từ đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, CNH – HĐH nông nghiệp, nông thôn. Hiện nay, ngành TCMN là một trong mười ngành xuất khẩu mũi nhọn của nước ta, phấn đấu vào năm 2010, giá trị xuất khẩu của ngành đạt 1,5 tỷ USD. Cho đến nay, mặt hàng TCMN của nước ta đã xuất hiện trên 163 quốc gia trên thế giới, trong đó thị trường EU là thị trường quan trọng chiếm 54% tỷ trọng xuất khẩu của nước ta. Tuy nhiên, cùng với những thành công to lớn, ngành TCMN vẫn còn nhiều hạn chế và chưa tương xứng với tiềm năng của ngành: sản xuất còn manh mún và chưa tập trung, giá thành còn cao, chất lượng và mẫu mã chưa đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trên thế giới… Thị phần của nước ta trên thị trường TCMN quốc tế chiếm một phần rất nhỏ bé. Đối với EU, một thị trường quan trọng của Việt Nam, tuy nhiên chúng ta chỉ chiếm 5,4 % giá trị nhập khẩu TCMN của EU. Xuất phát từ thực tế của ngành TCMN đặt ra yêu cầu từ lý luận đến thực tiễn phải nghiên cứu để đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh giá trị xuất khẩu TCMN Việt Nam sang thị trường EU, góp phần phát triển ngành TCMN nước ta. Theo đó, tôi đã chọn đề tài “Đẩy mạnh xuất khẩu TCMN của Việt Nam sang thị trường EU” 2. Mục đích nghiên cứu Thông qua việc nghiên cứu thị trường EU và phân tích thực trạng sản xuất xuất khẩu TCMN của Việt Nam sang thị trường EU, bài viết đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh xuất khẩu TCMN của Việt Nam sang EU trong thời gian sắp tới. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Tình hình xuất khẩu TCMN Việt Nam sang thị trường EU. Phạm vi nghiên cứu: + Đề tài tập trung xem xét quan hệ thương mại mặt hàng TCMN Việt Nam – EU. + TCMN có sản phẩm rất đa dạng, nhưng đề tài giới hạn nghiên cứu ở một số mặt hàng TCMN đại diện, có kim ngạch xuất khẩu lớn trong những năm gần đây. 4. Phương pháp nghiên cứu Để giải quyết nội dung của đề tài, bài nghiên cứu đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp. Phương pháp thống kê, so sánh. Phương pháp trao đổi, lấy ý kiến. Ngoài ra, bài nghiên cứu cũng sử dụng phương pháp tổng hợp và hệ thống hóa kinh nghiệm của một số nước xuất khẩu TCMN lớn của thế giới. 5. Kết cấu đề tài Bài viết ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục kèm theo, nội dung của đề tài này gồm 2 chương: Chương 1: Thực trạng hoạt động xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vào thị trường EU Chương 2: Định hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường EU trong thời gian tới CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU MẶT HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG EU 1.1. Tình hình sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ tại Việt Nam trong thời gian qua (từ năm 2000 đến nay) 1.1.1. Khái quát về mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam 1.1.1.1. Giới thiệu đôi nét về thủ công mỹ nghệ Việt Nam có lịch sử phát triển lâu dài gắn với các làng nghề trong đó có làng nghề thủ công mỹ nghệ (TCMN). Ban đầu, các sản phẩm TCMN chỉ đơn thuần phục vụ cho nhu cầu sử dụng trong gia đình, sau đó để kiếm thêm thu nhập. Người nông dân thường làm các sản phẩm TCMN trong lúc nông nhàn. Dần dần, các làng sản xuất có hiệu quả hình thành nên làng nghề TCMN, duy trì và phát triển cho đến tận bây giờ như gốm Bát Tràng, gỗ Đồng Kỵ, tranh Đông Hồ hay lụa Vạn Phúc… Mỗi sản phẩm TCMN tuy đến từ các vùng khác nhau nhưng đều toát lên một nét văn hoá đậm chất làng quê Việt Nam. Các hình ảnh làng quê như bờ tre, bến nước, cây đa, cổng làng, lễ hội,những dòng sông quê… đều được đưa vào trong các tác phẩm tạo nên nét văn hoá đặc sắc cho mỗi sản phẩm. Những lao động tạo ra sản phẩm TCMN được gọi là nghệ nhân. Các nguyên liệu của mặt hàng TCMN Việt Nam gần gũi với nông thôn Việt Nam, giản dị chân chất như chính con người Việt, như cây tre, cây mây, đất sét, cói, gỗ… Các nguyên liệu đó tuy rẻ nhưng khi qua bàn tay của các nghệ nhân làng nghề nó trở thành những sản phẩm có giá trị. Sản phẩm chủ yếu của TCMN Việt Nam rất đa dạng bao gồm những sản phẩm như gốm sứ, tranh sơn mài, mây tre đan, gỗ mỹ nghệ, các sản phẩm thêu thùa v.v… Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, ngành TCMN có cơ hội hơn nữa để sản xuất, mở rộng và phát triển. Tuy nhiên, ngành thủ công truyền thống này không thể thiếu được những đôi bàn tay khéo léo, cần cù của những nghệ nhân làng nghề, không thể thiếu được những nét văn hoá truyền thống của dân tộc ta từ ngàn đời nay. Và ngành TCMN truyền thống của Việt Nam sẽ luôn được duy trì, phát triển, song hành cùng cuộc sống hiện đại như một đường uốn nghệ thuật tạo thêm đôi chút thi vị cho cuộc sống. 1.1.1.2. Đặc điểm của mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam Hàng TCMN truyền thống do chính tay những người nghệ nhân các làng nghề tạo ra. Khác với các sản phẩm công nghiệp có khuôn mẫu có sẵn và sai số trong khoảng cho phép, thì các sản phẩm TCMN vừa theo khuôn, vừa có những nét riêng do người thợ thủ công sáng tạo tự do theo cảm hứng và độ khéo léo của mỗi người. Chính vì thế, các sản phẩm TCMN có những đặc thù riêng: a. Các sản phẩm TCMN đều chứa trong nó giá trị văn hóa. Trên các sản phẩm gốm, sứ hay đồ gỗ mỹ nghệ thường được khắc, trạm trổ hình tứ linh như Long, Ly, Quy, Phượng, những con vật linh thiêng được người dân phương Đông trong đó có Việt Nam tôn sùng. Ngoài ra trên các sản phẩm dệt, thêu thùa, thổ cẩm đều có nét văn hoá đặc trưng thể hiện quan niệm của người Việt như trời tròn đất vuông, hay hàm chứa những quan điểm triết học và nhân sinh quan của người phương Đông. Trong mỗi sản phẩm TCMN đều hàm chứa tâm tư, tình cảm, quan niệm và triết lý sống của người dân Việt Nam, bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam. Khi xét đến giá trị của mỗi sản phẩm TCMN người ta luôn xét đến giá trị văn hoá kết tinh trong đó trước khi xét đến giá trị về mặt kĩ thuật và kinh tế. b. Các sản phẩm TCMN mang đậm nét phong cách của mỗi nghệ nhân, đặc trưng của từng địa phương, làng nghề và hoà quyện trong truyền thống dân tộc. Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đều có tính sáng tạo mỗi nghệ nhân. Các làng nghề khác nhau ở từng địa phương khác nhau có những phong tục tập quán riêng. Văn hoá, lịch sử của từng địa phương là môi trường tác động đến người nghệ nhân và sản phẩm do chính họ tạo ra. Mỗi nét trạm trổ, điêu khắc hay hoa văn trên mặt hàng thêu, dệt đều mang đậm chất của mỗi vùng quê. Phát triển qua thời gian, qua giao lưu giữa các vùng, qua chọn lọc tinh tuý tạo nên nét riêng đặc sắc cho các sản phẩm thủ công của từng địa phương, nhưng nằm trong bản sắc truyền thống của dân tộc Việt Nam. c. Sản phẩm TCMN là sản phẩm nghệ thuật kết hợp giữa truyền thống và thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, sự kết hợp này tạo nên những đặc tính: Tính đơn chiếc, riêng hơn là tính đồng loạt. Mang tính bí quyết gia truyền hơn là phổ biến rộng rãi. Tính trí tuệ và tích luỹ lâu đời. Vừa có tính sử dụng, vừa có tính nghệ thuật trong sản phẩm. Sản phẩm TCMN có tính đặc thù riêng nên khi nghiên cứu hoạch định chính sách phát triển ngành hàng cần lưu ý đến những nét đặc trưng đó. Phát huy được truyền thống trong sản phẩm và sáng tạo của nghệ nhân, mặt hàng TCMN của Việt Nam đang từng bước đứng vững ở thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. 1.1.1.3. Một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam Trải qua năm tháng, ngành hàng TCMN phát triển với đa dạng sản phẩm. Các nguyên liệu của mặt hàng này thường rẻ, dễ kiếm và gần gũi với nông thôn Việt Nam, khi qua những đôi bàn tay của người thợ thủ công nó trở thành những sản phẩm có giá trị cao và được đón nhận không chỉ ở thị trường trong nước mà còn ở thị trường quốc tế. Những sản phẩm TCMN rất đa dạng, nhưng với phạm vi của đề tài này, tôi xin được đề cập đến các mặt hàng được xuất khẩu chủ yếu những năm gần đây: Hàng gốm sứ Một trong những mặt hàng TCMN phổ biến trong cuộc sống là gốm sứ. Gốm sứ được sử dụng trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân Việt Nam như bát đĩa, ấm chén, bình lọ hoa hay chum vại, gốm sứ được dùng để làm đồ thờ như bát hương, tượng…, được dùng trong xây dựng như chân sứ, vật cách điện… Ngoài ra, gốm sứ được sử dụng để làm quà lưu niệm. Gốm sứ được sản xuất ở khắp vùng trên cả nước. Từ nam ra bắc đều có những làng gốm nổi tiếng như Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh), làng Cậy (Hải Dương), Móng Cái (Quảng Ninh), Thanh Hoá, Phước Phú (Huế), Thanh Hà (Quảng Nam), Đồng Nai, Thủ Dầu Một… Mỗi làng nghề đều có một nét độc đáo riêng. Gốm sứ có nhiều loại men: men nâu có từ thời Lý, hoa lam có từ đời Trần, men ngọc, men rạn v.v. Ngày nay, các kĩ thuật truyền thống được lan toả đi nhiều nhưng mỗi làng nghề đều giữ được cho mình những bí quyết riêng. Nói đến men ngọc, men rạn ta không thể không nhớ đến làng gốm Bát Tràng, sành nâu ở Thổ Hà, gốm da lươn vẫn được lưu truyền ở Hương Canh, Phù Lãng, gốm Tức Mặc ở Nam Định được mệnh danh là “Thiên tường phủ chế”, ở Hải Dương vẫn giữ được men hoa lam. Để làm ra các sản phẩm gốm sứ ngoài nguyên liệu chính là đất, thì phải kể đến kỹ thuật gốm sứ là bàn xoay và lò nung. Bàn xoay thì có xoay tay va xoay điện. Lò nung xưa kia là lò vồng (nung củi) và lò hộp (nung bằng than) thì ngày nay còn có lò tunel đốt gas. Các sản phẩm bằng gốm không chỉ được ưa chuộng ở Việt Nam và các nước phương Đông mà còn được rất nhiều các nước phương Tây ưa chuộng. Đây cũng là một trong những mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu TCMN. Hàng mây tre đan Cây tre, cây song, cây mây rất quen thuộc với người dân Việt Nam. Từ bao đời nay, những người thợ thủ công đã sử dụng các thân của cây này để tạo ra các sản phẩm TCMN độc đáo. Từ những cây tre, mây, song có thể tạo ra giường, bàn ghế, giỏ hoa… Sản xuất hàng mây tre đan cũng tạo thành các làng nghề nổi tiếng trong cả nước như Phú Vinh, Yên Sở (Hà Tây), Nho Quan (Ninh Bình), Vĩnh Ba (Phú Yên)… Ở Phú Vinh (Hà Tây) có 8000 người làm nghề đan lát. Hàng mây tre đan ở đây có tới hơn 500 mẫu mã khác nhau. Có thể nói mây tre đan đã thu hút và giải quyết khá nhiều việc làm cho người lao động, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân nơi đây. Mặt hàng gỗ mỹ nghệ Không chỉ đối với người dân Việt Nam mà còn với tất cả người dân ở khắp mọi nơi trên thế giới, gỗ và sản phẩm từ gỗ rất thông dụng. Ở Việt Nam, sản phẩm từ gỗ dùng trong cuộc sống hàng ngày như bàn ghế, giường tủ, sập cho đến đồ trang trí như tranh khảm, tượng… đến những sản phẩm dành cho đồ thờ cúng như bàn thờ, ống hương, câu đối, ngai, tượng… Nghê mộc là cái tên thân thuộc mà dân gian hay gọi cho nghề sản xuất các sản phẩm đồ gỗ. Các mặt hàng gỗ rất phong phú, có những sản phẩm giản đơn phục vụ mục đích sử dụng hàng ngày, nhưng cũng có những sản phẩm kết hợp điêu khắc, tạc, trổ cầu kì tạo nên giá trị nghệ thuật cao. Tính nghệ thuật, cầu kì của mỗi sản phẩm lại tuỳ vào đôi tay khéo léo của người thợ mộc. Với những sản phẩm gỗ khảm trai thì giá trị của sản phẩm đó tăng lên gấp bội. Chạm khắc gỗ nổi tiếng của Việt Nam có Đồng Kỵ, Phù Khê (Bắc Ninh), Bích Chu (Vĩnh Phú), Kim Bồng (Quảng Nam), Mỹ Xuyên (Huế)… Trong đó, cơ sở sản xuất gỗ mỹ nghệ lớn nhất nước ta phải kể đến Đồng Kỵ (Bắc Ninh). Ngày nay, nhu cầu về gỗ mỹ nghệ trên thế giới rất lớn, để cạnh tranh được với gỗ mỹ nghệ các nước khác các cơ sở sản xuất cần chú ý đến yếu tố nghệ thuật, tinh tế trong mỗi sản phẩm. d. Hàng thêu ren Thêu ren là một nghề truyền thống ở nước ta. Nguyên liệu và dụng cụ sản xuất thì đơn giản nhưng đòi hỏi người thợ thủ công phải có sự khéo léo, kiên trì và sáng tạo. Ngày nay, đã có máy thêu nhưng chỉ thêu được những sản phẩm chữ, biểu tượng, cờ… Đối với những sản phẩm cầu kì, sáng tạo riêng vẫn cần có đôi bàn tay khéo léo, cần mẫn của người thợ thủ công. Một số vùng có thêu ren nổi tiếng như Lý Nhân (Hà Nam), Minh Lãng (Thái Bình), Văn Lam (Ninh Bình)… và một số vùng dân tộc thiểu số. Ở nước ta, thêu ren xuất hiện sớm, nhưng phạm vi sản xuất còn nhỏ, chưa quy mô và chưa có thị trường nên khó khăn trong việc sản xuất và phát triển mặt hàng này. e. Mặt hàng thổ cẩm Mặt hàng này được sản xuất chủ yếu bởi đồng bào dân tộc thiểu số như dân tộc Mường, Khơ me, Thai, Tày, Dao, Lự… Ở miền Bắc nổi tiếng với làng nghề Nà Phồn, Xâm Khoè (Hoà Bình) của dân tộc Thái, hay làng nghề Mường Bí, Mường Vang, Mường Thành, Mường Đậu (Hoà Bình). Một số dân tộc ở miền Nam đều có nghề dệt gia đình. Hàng thổ cẩm rất đa dạng, có thể làm quần áo, túi xách, ví, hay tranh treo tường… với nhiều kiểu dáng và hoạ tiết độc đáo, đặc trưng cho văn hóa và quan niệm của người dân tộc. Mặt hàng thổ cẩm chủ yếu được bán tại các khu du lịch cho khách nước ngoài. 1.1.2. Tình hình sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ 1.1.2.1. Nguồn nguyên liệu Nguồn nguyên liệu đóng vai trò quan trọng trong sản xuất hàng hóa, nó quyết định sự tồn tại của mỗi ngành hàng. Nguyên liệu của ngành TCMN Việt Nam hiện nay đang đứng trước khó khăn suy giảm về số lượng và có chất lượng không ổn định. Theo đánh giá của Trung tâm nghiên cứu và Hỗ trợ phát triển các làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam (HRPC), các làng nghề Việt Nam sẽ thực sự khủng hoảng về nguyên liệu trong vòng 10 năm tới nếu không có những giải pháp tích cực mang tính tổng thể ngay từ bây giờ. Mặt hàng TCMN sử dụng nguồn nguyên liệu chính được lấy từ thiên nhiên như: đất sét, tre, mây, giang, nứa, lá, đay, gỗ, cói, bông, dừa, vỏ ốc, vỏ trứng... Trước đây, nguồn nguyên liệu được coi là một lợi thế lớn đối với TCMN Việt Nam, vì những nguồn nguyên liệu này thường sẵn có trong tự nhiên và có thể trồng và kiếm được dễ dàng ở nông thôn Việt Nam. Hiện nay, nguồn nguyên liệu này đang bị giảm dần do khai thác bừa bãi và không có kế hoạch bù đắp. * Nguyên liệu họ tre (giang, luồng, nứa...): Vùng nguyên liệu họ tre của Việt Nam phục vụ cho sản xuất hàng TCMN như Hòa Bình (giang, nứa), Cao Bằng (trúc sào), Thanh Hóa (luồng), Yên Bái, Phú Thọ (vầu, bương), Nghệ An (lùng), Huế (lồ ô), Tây Ninh (tầm vông)... vùng nguyên liệu này đang có xu hướng sụt giảm nhanh chóng trong khi nhu cầu sử dụng lại tăng cao đã đẩy giá nguyên liệu tăng lên nhanh chóng. Tại Thanh Hóa, giá luồng đã gia tăng từ 7.000 đồng/cây (18 kg) năm 2005 lên đến 17.000 đồng/cây năm 2008, trong khi đó, tại Tây Ninh giá nguyên liệu tầm vông (loại có đường kính 3.5 cm, dài 7m) cũng đã tăng từ 7.000 đồng/cây (năm 2006) và đến năm 2008 là 15.000 đồng/cây. Diện tích tầm vông đã giảm nhanh chóng do người dân có xu hướng thay thế tầm vông bằng cây cao su đang được giá gần đây. Rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam (Hợp tác xã mành Phú Cát – Phú Thọ), Lào (Công ty Artex Tiến Động – Hà Tây), Cam-Pu-Chia (Công ty Hiệp Tiến – T.P Hồ Chí Minh)… đang phải nhập khẩu nguyên liệu họ tre từ Trung Quốc và một thực tế là giá nhập khẩu nguyên liệu họ tre từ tỉnh Hủa Phan (Lào) về Hà Tây rẻ hơn rất nhiều giá nguyên liệu họ tre được khai thác tại Việt Nam. * Nguyên liệu mây: Thực tế nhiều vùng nguyên liệu mây truyền thống như Vĩnh Phú (nay là Vĩnh Phúc và Phú Thọ), Thái Nguyên, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An… đã gần như cạn kiệt. Giá nguyên liệu mây tăng liên tục hàng năm, từ 4000 đồng/kg sợi (năm 2000) lên tới 9500 đồng/kg hiện nay. Mặc dù nhu cầu tiêu thụ rất lớn nhưng gần như không có vùng nguyên liệu mây lớn nào. Đầu năm 2007, hầu như các làng nghề mây và doanh nghiệp tại Hà Tây đã vỡ hợp đồng do thiếu nguyên liệu, mà tác động trực tiếp chỉ do một đơn đặt hàng lớn của công ty An Cô (Bình Dương) ký với đối tác nước ngoài và sự gom nguyên liệu mây của doanh nghiệp này cho đơn hàng đó. Sau khi đã khai thác với nhiều hình thức khác nhau vùng nguyên liệu mây tại Lào, rất nhiều doanh nghiệp đang nhập khẩu nguyên liệu mây từ Indonesia… * Nguyên liệu gỗ: Ngoài một số làng nghề chạm khắc gỗ như Du Dự, Võ Lăng (Hà Tây), Đồng Giao (Hải Dương)… sử dụng chủ yếu nguyên liệu gỗ rừng trồng, còn đa số các làng nghề làm hàng nội thất như Đồng Kỵ (Bắc Ninh), Vân Hà (Hà Nội)…sử dụng một khối lượng rất lớn gỗ rừng tự nhiên được khai thác chủ yếu từ các nguồn trôi nổi trên thị trường, trong đó phần lớn gỗ được khai thác từ Lào và không có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Trong xu thế tiêu dùng của khách hàng quốc tế yêu cầu chứng chỉ rừng (FSC), thì đây lại là trở ngại lớn nhất cho sự phát triển của các làng gỗ mỹ nghệ trong những năm tới. Rừng tự nhiên Việt Nam có xu hướng tăng về diện tích nhưng chất lượng rừng tăng rất chậm. Các làng nghề gỗ mỹ nghệ luôn chịu sức ép do không có vùng nguyên liệu cung cấp tập trung và ổn định. Hàng năm, các làng nghề cũng chưa có được hạn ngạch khai thác gỗ. Chi phí nguyên liệu tăng nhanh tác động mạnh đến tính cạnh tranh của sản phẩm gỗ Việt Nam trên thị trường quốc tế. *Nguyên liệu cói, lục bình, bẹ chuối, năng tượng, lá buông: Vùng nguyên liệu cói được trồng tập trung ở Ninh Bình, Thanh Hóa, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Long An… Nguyên liệu ở đây được Trung Quốc thu mua. Các địa phương làm nghề thủ công từ cói ở nhiều năm ở tình trạng thiếu nguyên liệu do không cạnh tranh được với các tư thương Trung Quốc, nhưng nếu năm nào tư thương Trung Quốc không mua thì các hộ gia đình trồng cói đứng trước nguy cơ thiếu đói hàng loạt. Tình trạng này không chỉ xảy ra với nguyên liệu cói mà còn xẩy ra với lục bình (bèo tây), bẹ chuối và gần đây là năng tượng. Nguyên liệu lá buông được cung cấp chủ yếu cho các làng nghề ở các tỉnh miền Trung như Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Thuận … Đây là loại nguyên liệu khá độc đáo của Việt Nam tạo ra nhiều sản phẩm thủ công khác nhau từ các loại hàng đan lát (rổ, rá, túi xách…), các loại tấm lót, mành treo… Những năm trước đây nguồn nguyên liệu này được cung cấp từ Khánh Hòa (huyện Khánh Vĩnh), Bình Thuận, Ninh Thuận… nhưng trong 3 năm trở lại đây đã phải nhập khẩu từ CamPuChia mặc dù tiềm năng đất trống để phát triển cây lá buông còn rất lớn. *Nguyên liệu gốm sứ: Nguyên liệu phục vụ sản xuất cho các làng nghề gốm sứ (đất sét, cao lanh, pensfat) được khai thác chủ yếu tại Hải Dương, Quảng Ninh, Phú Thọ… Ngoài việc nguồn nguyên liệu ngày càng trở nên khan hiếm thì việc quản lý chất lượng của nguyên liệu tại các khu vực khai thác là một trong những yếu tố then chốt làm giảm tính cạnh tranh của các làng nghề. Hiện tại ở Việt Nam chưa hình thành các nguồn cung cấp nguồn nguyên liệu được phân loại rõ ràng để sản xuất các mặt hàng có yêu cầu chất lượng khác nhau, chính vì vậy các sản phẩm gốm sứ của Việt Nam chỉ dừng lại ở mức độ giá thành thấp và trung bình *Nguyên liệu sợi (Tơ tằm, bông, lanh): Nguyên liệu sợi của Việt Nam hiện đang ở tình trạng vừa thừa (về số lượng), vừa thiếu (về chất lượng). Hiện các làng nghề dệt khăn tại làng Mẹo (xã Thái Phương, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) là trung tâm dệt khăn thủ công xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam đang phải nhập sợi bông từ Ấn Độ và Băng La Đét với giá tăng hàng năm Nguyên liệu lanh phát triển chủ yếu tại Hà Giang, Yên Bái, Hòa Bình, Lào Cai…(gắn bó mật thiết với cộng đồng người Mông). Sức tiêu dùng của loại nguyên liệu được đánh giá là bền nhất trong các loại sợi tự nhiên này gia tăng rất nhanh trong những năm gần đây và các địa phương hiện không cung cấp đủ nguyên liệu cho nhu cầu tiêu dùng của khách hàng hiện tại. Nhiều đơn hàng lớn, trong đó có cả yêu cầu từ hãng thời trang danh tiếng số 1 thế giới Victoria’s Secret đã đến làm việc thực tế tại Hà Giang tháng 4 năm 2008, đã không thể được thực hiện do thiếu nguyên liệu lanh. Nguyên liệu tơ được sản xuất chủ yếu ở Hà Tây,Thái Bình, Nam Định, Quảng Nam, Lâm Đồng…Nhìn chung trên 90% nguyên liệu tơ của Việt Nam ở phẩm cấp thấp với chi số sợi thường không đồng đều. Đây là nguyên nhân chính gây nên tình trạng các mặt hàng dệt lụa thấp cấp ở các làng nghề dệt lụa như Vạn Phúc, Nha Xá, Duy Xuyên… Nguyên nhân chủ yếu chính gây nên tình trạng sợi tơ phẩm chất cấp là phẩm chất trứng đầu vào, kỹ thuật phân loại kén, công nghệ kéo sợi… Vậy, nguyên liệu là yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng và giá thành sản phẩm. Dưới sự kết hợp khéo léo của người thợ thủ công, những nguyên liệu tốt, đủ tiêu chuẩn sẽ cho ra đời sản phẩm có giá trị rất cao. Tuy nhiên, nguồn nguyên liệu cho mặt hàng TCMN đang giảm sút nghiêm trọng cà về số lượng và chất lượng đòi hỏi phải có quy hoạch tổng thể về khai thác, bảo vệ và bù đắp nguyên liệu sản xuất. 1.1.2.2. Nguồn lao động cung cấp cho ngành thủ công mỹ nghệ Lao động trong sản xuất và xuất khẩu TCMN gồm có những người thợ thủ công: những lao động phổ thông, các nghệ nhân; những họa sĩ thiết kế mẫu... Thực tế, nguồn lao động cung cấp cho ngành TCMN không ổn định cả về số lượng và chất lượng. Đối với lao động thủ công ở Việt Nam hiện nay, chỉ có một số hộ gia đình, hợp tác xã chuyên theo sản xuất mặt hàng TCMN là sản xuất thường xuyên, còn lại phần lớn là lao động tranh thủ lúc nông nhàn không vào mùa vụ với giá nhân công tương đối rẻ. Tưởng như giá nhân công rẻ sẽ tạo ra lợi thế cho mặt hàng TCMN Việt Nam, nhưng thực tế thì ngược lại. Giá nhân công quá rẻ đã không thu hút được lao động, từ đó gây thiếu hụt lao động trầm trọng. Việc sử dụng lao động nông nhàn khiến cho lượng cung lao động không đều, theo thời vụ, ảnh hưởng đến nguồn cung hàng hóa TCMN Việt Nam trên thị trường cũng như những đơn đặt hàng lớn. Ngành TCMN không cần những lao động có chuyên môn cao, trình độ ngoại ngữ giỏi mà chỉ cần những lao động phổ thông thạo nghề, quen việc. Lao động trong ngành TCMN không qua đào tạo trường lớp mà học việc từ các hợp tác xã, kinh nghiệm của thế hệ đi trước và bí quyết gia truyền. Sản phẩm TCMN có đặc tính nghệ thuật nên ngoài đội ngũ lao động thủ công còn có các nghệ nhân, hoạ sĩ thiết kế mẫu sản phẩm. Những người này không những phải có sức sáng tạo mà phải tâm huyết với nghề để sao cho những sản phẩm TCMN mới mẻ, độc đáo, không chỉ đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng mà còn phải giữ được truyền thống dân tộc, mang cái “hồn” của Việt Nam. Ngoài ra lao động sản xuất mặt hàng TCMN còn có những lao động khác trong dịch vụ bán hàng và xuất khẩu hàng TCMN. Những người bán hàng hoặc xuất khẩu có thể là trung gian, các công ty thương mại dịch vụ hoặc cũng chính là làng nghề, hợp tác xã trực tiếp sản xuất. Lấy dẫn chứng như làng gốm Bát Tràng, lao động chủ yếu ở đây là lao động phổ thông, những người nông dân tranh thủ lúc nông nhàn. Ở các lò sản xuất vẫn có những thợ chính, tuy nhiên đến khi có đơn đặt hàng lớn thì vẫn cần huy động thêm người làm. Chủ lò có thể tìm được những lao động tạm thời này tại “chợ người” ở Bát Tràng. Để một mẻ gốm ra lò có rất nhiều công việc không tên cần thuê thợ như: trộn đất, nắm than, phơi, xếp than vào lò, dọn lò, đổ rót sản phẩm, phơi rồi sửa sản phẩm, chuốt, vẽ hoa văn, nhúng men, đưa sản phẩm vào lò, sắp xếp sản phẩm trong lò, đưa sản phẩm ra lò... Trong đó có chuốt và vẽ hoa văn là cần phải khéo tay hơn chút và được tiền công khá hơn. Tuy những người thợ làm công ở đây hầu hết là thất nghiệp hay nông dân kiếm thêm lúc nông nhàn nhưng họ đều là những thợ lành nghề, biết việc và thạo việc. Người chuyên in, người chuyên rót, người chuyên phụ lò, gánh hàng, dọn lò... Những người chưa biết thì theo người biết, đã từng làm để học nghề. Những công việc khó hơn như vẽ, chuốt, nặn... được đào tạo ngắn trong hai, ba tháng bởi các chủ lò với giá từ 2 triệu – 3 triệu / khóa. Nhìn chung, lao động TCMN Việt Nam chủ yếu là lao động thủ công. Những người thợ này truyền nhau học nghề, mà không được đào tạo bài bản. Số lượng cung ứng lao động cũng không được ổn định do tính chất mùa vụ. Hiện nay, các cơ quan Nhà nước đã có chính sách hỗ trợ dạy và đào tạo nghề để bổ sung lao động còn thiếu cho ngành TCMN, từ người thợ thủ công đến những người thiết kế mẫu mã sản phẩm. 1.1.2.3. Trình độ công nghệ sản xuất Tên mặt hàng TCMN đã tự nó cho thấy tính thủ công là yếu tố chính tạo nên giá trị của sản phẩm. Tuy nhiên, để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm vẫn cần có sự hỗ trợ của khoa học công nghệ trong những khâu không nhất thiết phải làm thủ công. Trong ngành sản xuất gỗ có máy đa năng (cưa, đục, bào) làm nâng cao năng suất lao động, còn trong nghề gốm sứ, lo nung bằng gas đã thay thế cho lò nung bằng than và củi, nhào đất bằng tay được thay bằng nhào máy… Trong khâu sơ chế nguyên liệu mây tre đan, cần có những máy hấp sây khô nguyên liệu để tránh nấm, mốc hoặc các hóa chất tránh nấm mốc mà không gây hại cho người sử dụng. Yếu tố khoa học công nghệ còn có vai trò trong việc xử lý chất thải tránh gây ô nhiễm môi trường đối với các làng nghề. Thực tế ở các làng nghề sản xuất TCMN hiện nay, môi trường sống bị ô nhiễm trầm trọng. Đây có thể sẽ là trở ngại lớn đối với xuất khẩu TCMN Việt Nam, trong xu hướng các bạn hàng quốc tế, đặc biệt là EU quy định về tiêu chuẩn ISO 14001 của hệ thống quản lý môi trường. Ở nước ta, khoa học kĩ thuật áp dụng trong sản xuất TCMN còn yếu kém, từ khâu sơ chế nguyên liệu, đến khâu sản xuất sản phẩm và cuối cùng là xử lý nước thải. Điều này không những ảnh hưởng lớn tới chất lượng sản phẩm, năng suất và hiệu quả sản xuất mà còn tác động không ít đến môi trường sống xung quanh. Bên cạnh đó các làng nghề TCMN còn xen kẽ với khu dân cư gây ảnh hưởng tới sức khoẻ của người dân trong vùng như nước thải của các cơ sở sản xuất, bụi than, khí CO2, hiệu ứng nhà kính. Nguyên nhân của tình hình trên là do sự manh mún, nhỏ lẻ trong sản xuất, thiếu hệ thống, doanh nghiệp sản xuất hạn chế về vốn, kĩ thuật và thiếu quy hoạch tổng thể từ chính quyền từ trung ương đến địa phương, việc đầu tư cho nghiên cứu triển khai chưa được đầu tư đúng mức. Ở làng gốm Bát Tràng, kĩ thuật đã được cải tiến tương đối nhiều so với những năm trước. Máy nhào bột thay cho tay, bàn xoay tay đã được thay thế bằng xoay điện với công suất lớn hơn rất nhiều, lò nung củi và than ngày xưa đã được thay thế bằng lò đốt gas... Trong sản xuất gốm sứ, công nghệ khác nhau chủ yếu được phân biệt ở khâu nung sản phẩm. Ba loại lò được sử dụng chủ yếu hiện nay: lò thủ công truyền thống, lò tuynel và lò gas con thoi. Nhiên liệu sử dụng chủ yếu là than, củi, điện, gas. Các doanh nghiệp nhỏ thường sử dụng lò nung truyền thống, các doanh nghiệp quy mô vừa thường sử dụng lò nung con thoi. Đầu tư, năng suất, chi phí sản xuất, chất lượng sản phẩm, độ tiêu hao năng lương, tác động tới môi trường phụ thuộc vào lò nung. Ngày nay do nhu cầu chất lượng sản phẩm ngày càng cao của nhu cầu trong nước và xuất khẩu, các doanh nghiệp đã có xu hướng sử dụng nhiên liệu gas với lò nung con thoi. Nung bằng lò gas cho sản phẩm đồng đều, đạt chất lương cao, tỷ lệ thành phẩm cao. Tuy vậy, ở Bát Tràng hiện nay vẫn còn nhiều cơ sở sản xuất cụ thể là 600 lò than so với 320 lò gas. Sản xuất bằng lò truyền thống đốt than có thể sản xuất với sản phẩm đại trà, chi phí thấp có thể cạnh tranh với hàng Trung Quốc. Một điều đáng chú ý là có nhiều cơ sở sản xuất gốm sứ Việt Nam nhập máy móc của Trung Quốc để sản xuất, mặc dù tiết kiệm được thời gian tuy nhiên các sản phẩm đó có chất lượng không cao, được bày bán tràn ngập thị trường, với giá rẻ, mẫu mã phong phú. Gốm Bát Tràng cũng như các làng gốm khác ở Việt Nam ngoài việc chạy theo số lượng cần chú ý đến giá trị thực sự của mỗi sản phẩm gốm sứ tạo ra. Chính những sản phẩm gốm sứ của các nghệ nhân làm bằng tay, mất thời gian công sức thậm chí cả tâm huyết lại là những sản phẩm mang tính nghệ thuật và có giá trị cao. 1.1.2.4. Hoạt động nghiên cứu phát triển mẫu mã Hiện nay, sức cạnh tranh của mặt hàng TCMN trên thị trường thế giới tương đối kém, ngoài lý do giá thành cao, chất lượng không đồng đều còn do mẫu mã sản phẩm TCMN của nước ta chưa đa dạng, độc đáo. Các mẫu mã của chúng ta thường theo sản phẩm quá truyền thống, không phù hợp với xu hướng tiêu dùng thay đổi của người dân thế giới. Nếu có những sản phẩm mới thì không được độc đáo và đặc sắc, để lại ẩn tượng cho người tiêu dùng. Một điều đáng buồn nữa, các mẫu mã phổ biến của Việt Nam hiện nay hầu hết là dập khuôn và theo mẫu của Trung Quốc. Từ thực tế phát triển mẫu mã cho thấy, Việt Nam rất khó xây dựng thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế. Chúng ta cũng có những người thiết kế, tuy nhiên chưa chuyên nghiệp. Đội ngũ chuyên viên thiết kế còn thiếu cả về số lượng lẫn kinh nghiệm. Gần đây, chúng ta cũng có những bộ thiết kế với mẫu mã có tính đặc sắc, nhưng khi đưa ra thị trường lập tức bị hàng Trung Quốc bắt trước tạo khó khăn cho sản phẩm của Việt Nam, đặc biệt khi giá sản phẩm TCMN Việt Nam cao hơn hẳn mặt hàng Trung Quốc. Không chỉ bị nước ngoài nhái lại mẫu mã, các cơ sở sản xuất của Việt Nam cũng cạnh tranh và dập khuôn mẫu mã của nhau. Ở làng gốm Bát Tràng, nếu ta đi một dọc từ đầu làng đến cuối làng, từ các sản phẩm được bày bán trong gian hàng giới thiệu sản phẩm của công ty xuất khẩu gốm sứ đến chợ làng Bát Tràng có thể thấy kiểu dáng và mẫu mã sản phẩm không khác nhau mấy. Sự phân biệt giá giữa các sản phẩm có kiểu dáng giống nhau dựa vào kiểu men tráng. Bản thân mỗi cơ sở sản xuất và xuất khẩu trong nước đã không tạo được thương hiệu riêng. Một vài chủ xưởng gốm xuất khẩu đã tâm sự, để nhận được nhiều đơn đặt hàng TCMN xuất khẩu và tránh sao chép mẫu mã, họ đã phải có đội ngũ thiết kế riêng, các sản phẩm độc đáo không được trưng bày ra ngoài mà được bày kín đáo trong hầm. Hầm này chỉ dành cho khách nước ngoài, bạn hàng lớn có nhu cầu thực sự viếng thăm. Từ ví dụ thực tế trên cho thấy để hàng TCMN Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường quốc tế thì điều bức thiết là phải triển khai nghiên cứu phát triển mẫu mã độc đáo riêng biệt để không lẫn với các mặt hàng TCMN đến từ nước khác. Việc thiết kế mẫu mã cũng phải dựa trên phân tích và tìm hiểu nhu cầu thị trường. 1.1.2.5. Quy mô sản xuất Những năm qua, các làng nghề truyền thống sản xuất TCMN của Việt Nam có tốc độ phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên phân tán, tự phát và manh mún. Nguyên nhân chính là do chưa có quy hoạch cụ thể trong phát triển làng nghề. Vấn đề khó khăn của làng nghề TCMN hiện nay là tiếp cận nguồn vốn, tìm kiếm thị trường, khả năng sáng tạo mẫu mã và cải tiến công nghệ. Vấn đề tiếp cận vốn dẫn đến quy mô sản xuất của các làng nghề chỉ mang tính thời vụ, chộp giật, không bứt phá tạo thương hiệu riêng cho mình. Việc không tạo dựng được thương hiệu riêng làm cho các doanh nghiệp Việt Nam khó có được những đơn đặt hàng lớn, những đơn đặt hàng thường xuyên. Điều đó tác động ngược trở lại khiến các doanh nghiệp sản xuất không mở rộng quy mô sản xuất, tạo nên vòng luẩn quẩn của TCMN Việt Nam. Việc sản xuất với quy mô nhỏ lẻ cũng do thói quen sản xuất nhỏ lẻ, theo mùa vụ của nông thôn Việt Nam. Ngoài một số hợp tác xã của làng nghề thì các cơ sở sản xuất chủ yếu là hộ gia đình, các xưởng tư nhân mà không có xưởng sản xuất với quy mô lớn. Sản xuất nhỏ lẻ, vốn ít gây khó khăn trong việc đổi mới công nghệ. Mỗi một đơn vị nhỏ sản xuất đổi mới công nghệ, mua dây truyền của nước ngoài, chi phí cao nhưng hiệu quả đem lại chưa tương xứng vì quy mô sản xuất nhỏ. Nhìn chung, muốn mở rộng quy mô sản xuất cần phải có quy hoạch tổng thể, sự kết hợp chặt chẽ giữa các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất với nhau. Chỉ có kết hợp, mở rộng quy mô sản xuất một cách hợp lý thì TCMN Việt Nam mới có thể thu hút vốn đầu tư, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, mẫu mã, từ đó nâng cao thương hiệu của TCMN Việt Nam. 1.2. Thị trường thủ công mỹ nghệ EU và một số lưu ý khi xuất khẩu vào thị trường này 1.2.1. Tình hình phát triển kinh tế EU và quan hệ thương mại Việt Nam – EU. 1.2.1.1. Tổng quan về tình hính phát triển kinh tế của EU Liên minh châu Âu tên tiếng Anh là European Union viết tắt là EU được hình thành từ năm 1952 với tiền thân là cộng đồng than thép bao gồm 6 quốc gia thành viên. Trải qua quá trình phát triển kinh tế, hiện nay EU đã có 27 quốc gia thành viên với diện tích là 4.422.773 km² với dân số hơn 500 triệu người chiếm 7% dân số thế giới, chiếm 30% GDP danh nghĩa (18,4 tỉ đô la Mỹ năm 2008) và khoảng 22% GDP sức mua tương đương của thế giới (15,2 tỉ đô la Mỹ năm 2008). Đây có thể được coi là thị trường tiềm năng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu nước ta. EU tự miêu tả mình là gia đình của các nước châu Âu dân chủ, muốn hợp tác vì hoà bình và phồn vinh. Tổ chức này giám sát việc hợp tác giữa các nước thành viên trong nhiều lĩnh vực, bao gồm thương mại, môi trường, giao thông và lao động. Hiệp ước về Liên minh châu Âu, được ký tại Maastricht năm 1991 đặt ra thời gian biểu để thiết lập liên minh kinh tế và tiền tệ. Nó định ra các tiêu chuẩn kinh tế và ngân sách, để quyết định khi nào các quốc gia có đủ điều kiện tham gia liên minh này. Maastricht cũng nêu các hình phạt cho những nước thành viên không kiểm soát được thâm hụt ngân sách. EU cũng đã có đồng tiền chung Euro, đồng Euro chiếm vị trí thứ hai trên thế giới. EU đóng vai trò ngày càng lớn và có ảnh hưởng ngày càng quan trọng đến tình hình kinh tế và chính trị thế giới. Nguồn:IMF(2009) Năm 2010*: ước tính Hình 1.1: Tốc độ tăng trưởng GDP và chỉ số giá tiêu dùng CPI của EU So với thế giới, EU là khu vực có nền kinh tế phát triển và ổn định, tỉ lệ lạm phát thấp. Tuy nhiên, trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 -2009 vừa qua, EU cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Đây là sự giảm sút tăng trưởng nghiêm trọng nhất sau 5 năm tăng trưởng kinh tế liên tục của châu Âu và cũng là sự suy giảm tăng trưởng kinh tế lần thứ hai sau sự đình trệ kinh tế EU 2001- 2002. Tuy nhiên, vào quý III năm 2009 nền kinh tế của EU đã có dấu hiệu hồi phục trở lại. Hiện nay, kinh tế EU đang trong giai đoạn phục hồi sau cuộc khủng hoảng. 1.2.1.2. Quan hệ thương mại giữa EU và Việt Nam Việt Nam và EU đã chính thức thiết lập mối quan hệ ngoại giao từ tháng 11 năm 1990. Vào ngày 17/7/1995 hai bên đã kí kết Hiệp định khung về hợp tác, thiết lập các nguyên tắc cơ bản nhằm thúc đẩy quan hệ hợp tác kinh tế thương mại giữa hai bên. Chiếm tới 45% tổng kim ngạch nhập khẩu và 46% tổng kim ngạch trên toàn thế giới, EU là khối thương mại lớn hàng đầu thế giới. Theo Sách xanh của EU, năm 2008, EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất, và được đánh giá là thị trường truyền thống và tiềm năng của Việt Nam. Hai bên đã dành cho nhau quy chế tối huệ quốc, và EU đã dành cho Việt Nam cơ chế GSP (ưu đãi thương mại dành cho các nước đang phát triển). Trong 10 năm trở lại đây, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU tăng trung bình hàng năm 15-20%; EU là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, chiếm 17% tổng giao dịch thương mại. Năm 2002, kim ngạch hai chiều tăng gấp 20 lần so với năm 1990; năm 2004 đạt trên 6,2 tỷ euro, tăng 20% so với năm 2003. Xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU tăng mạnh, nhất là vào Anh, Pháp, Đức, Thụy Điển, Hà Lan; trong đó hàng công nghiệp nhẹ, hàng nông sản và thủy sản chiếm tỷ trọng trên 85% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam nhập khẩu từ thị trường EU chủ yếu là máy móc thiết bị, hóa chất, nguyên phụ liệu dệt may, da, sắt thép, thuốc, phân bón. Sáu tháng đầu năm 2005, quan hệ thương mại Việt Nam - EU tiếp tục tiến triển tốt, đặc biệt EU bỏ hạn ngạch đối với hàng dệt may của Việt Nam từ ngày 1/1/2005. Theo số liệu công bố tại Sách xanh của EU, năm 2008, tiêu thụ khoảng 12,2 tỷ USD hàng xuất khẩu của Việt Nam, vượt cả thị trường Mỹ. Quan hệ giữa EU - Việt Nam trên quy mô lớn có lợi cho Việt Nam với mức thặng dư thương mại Việt Nam được hưởng khoảng 5,41 tỷ USD. Trong năm 2009 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam đã tăng 3,48% so với năm 2008, trong đó xuất khẩu tăng 3,34%. Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu chủ yếu sang EU là các mặt hàng sử dụng nhiều lao động như mặt hàng giầy dép, dệt may, thủy sản, đồ gỗ, cà phê. Ngược lại Việt Nam nhập khẩu chủ yếu máy móc, thuốc, đồ nhựa... Việt Nam và EU đã cùng nhau đưa ra các chương trình hành động để hỗ trợ doanh nghiệp hai bên để từ đó thúc đẩy quan hệ thương mại song phương 1.2.2. Quan niệm và thị hiếu tiêu dùng của EU Mặc dù EU là thị trường quan trọng đối với Việt Nam và có quan hệ thương mại lâu năm, tuy nhiên, các việc xâm nhập vào thị trường này vẫn còn nhiều khó khăn với các doanh nghiệp Việt Nam. Một trong lý do chủ yếu đó là doanh nghiệp Việt Nam không nắm bắt kịp nhu cầu và xu hướng tiêu dùng của người dân EU. Trên thực tế, chính người tiêu dùng EU quyết định việc tiêu dùng sản phẩm chứ không phải là nhà nhập khẩu hay người bán hàng. Dân số ở EU đang có xu hướng già đi với 45% số người ở độ tuổi 50 trở lên. Nhóm người này sẵn sang trả giá cao với điều kiện chất lượng tốt. Trong may mặc thì người dân Tây Âu đang chuyển dần từ phong cách cổ điển sang phong cách thoải mái, tự nhiên còn phía Đông Âu thì theo phong cách trang trọng. Xu hướng mua sắm của người dân EU có chu kỳ mua sắm giảm dần. Để thay đổi mốt, mẫu mã, các nhà nhập khẩu thay vì đặt số lượng lớn cho mỗi lô hàng như trước đây chuyển sang đặt với số lượng nhỏ. Điều này phù hợp với điều kiện và quy mô sản xuất của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Tuy nhiên, điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, chất liệu, đồng thời dự báo xu hướng thời trang ở EU. Quy mô gia đình ở EU đang có sự thay đổi. Gia đình chỉ có từ 1- 2 người đang ngày càng tăng. Thêm vào đó, số gia đình có 2 người cùng đi làm nhưng không có con cũng có xu hướng tăng. Những gia đình này có nhu cầu sử dụng sản phẩm có chất lượng tốt, có khả năng mua những sản phẩm đắt tiền. Bản thân EU đã là một liên minh bao gồm 27 quốc gia khác nhau, hơn thế nữa, người dân sinh sống ở EU nhập cư từ nơi khác đến cũng tương đối. Các nhà xuất khẩu cũng cần tìm hiểu thói quen tiêu dùng và nhu cầu của những nhóm khác nhau để tìm ra được mặt hàng xuất khẩu tiềm năng. Liên minh châu Âu (EU) được coi như không có biên giới giữa các quốc gia trong cộng đồng EU. Nhờ có giao thông thuận tiện mà họ đi du lich rất nhiểu. Nhu cầu đối với các sản phẩm ngoại nhập cũng tăng lên. Muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường EU doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cần nắm rõ được nhu cầu và thị hiếu của người dân, từ đó đưa ra những sản phẩm, cách tiếp cận thị trường một cách có hiệu quả. Những quy định của EU với mặt hàng thủ công mỹ nghệ nhập khẩu * Quy tắc xuất xứ của EU: Bất cứ sản phẩm nào khi xuất khẩu sang thị trường EU đều phải có chứng nhận xuất xứ rõ ràng. Hầu hết các nguyên liệu của sản xuất TCMN của Việt Nam lấy từ các nguồn trong nước. * Quy định về sức khoẻ và an toàn: Quy định này yêu cầu các sản phẩm nhập khẩu vào EU phải là những sản phẩm an toàn với môi trường sinh thái và sức khoẻ của người tiêu dùng. Đối với mặt hàng TCMN, để nhập khẩu vào EU thì các sản phẩm TCMN của Việt Nam phải đảm bảo an toàn về vệ sinh, an toàn thực vật, không có những vi sinh vật như mối, mọt hay nấm, mốc… có ảnh hưởng tới người tiêu dùng. Chính vì thế khâu xử lý nguyên liệu đầu vào của ngành TCMN rất quan trọng. Theo Quy định 85/343/EEC thì nước xuất khẩu đưa hàng vào EU phải đền bù thiệt hại cho cá nhân hoặc tập thể khi sản phẩm không an toàn, gây thiệt hại cho người tiêu dùng. * Quy định về bảo vệ môi trường: EU đã đưa ra các quy định về bảo vệ môi trưởng đối với hàng hoá để bảo vệ môi trường sinh thái của EU nói riêng và môi trường sinh thái toàn cầu. Quy định này chỉ cho phép nhập khẩu những mặt hàng có đầu vào sản xuất, quy trình sản xuất, chất thải sản phẩm “thân thiên với môi trường”. Các sản phẩm TCMN của Việt Nam muốn xâm nhập vào thị trường EU thì phải đáp ứng được quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn ISO 14001. Nguyên liệu sản xuất mặt hàng TCMN được lấy từ tự nhiên nên cần đảm bảo về môi trường sinh thái, phát triển bền vững và bảo vệ rừng. Những sản phẩm có nguyên liệu lấy từ rừng phải đảm bảo do con người trồng được chứ không phải do chặt phá rừng. Trong quá trình sản xuất, ngành TCMN cũng cần phải lưu ý đến khâu xử lý chất thải để tránh gây hại tới môi trường sống xung quanh. * Quy định về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm: Các sản phẩm TCMN muốn vào thị trường EU thì phải đáp ứng được tiêu chuẩn của hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000. Đây là tiêu chuẩn mang tính toàn cầu, được thừa nhận trên toàn thế giới. Các doanh nghiệp xuất khẩu không chỉ riêng mặt hàng TCMN sẽ rất có lợi nếu được công nhận đạt tiêu chuẩn ISO 9000. * Quy định về trách nhiệm xã hội: EU đưa ra quy định SA 8000, quy định về điều kiện làm việc, độ tuổi của người lao động và chế độ lao động. Đối với đặc điểm của lao động ngành TCMN chủ yếu là nông thôn, người dân có thể tranh thủ lúc nông nhàn để sản xuất, trẻ em chưa đến độ tuổi lao động nhưng vẫn tham gia vào sản xuất mặt hàng TCMN như đan, nát, thêu thùa... Nếu không chú ý đến quy định SA 8000, quy định này sẽ trở thành rào cản đối với mặt hàng TCMN Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường EU. Một số lưu ý khi xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ vào thị trường EU EU là một thị trường tiềm năng và đầy triển vọng đối với mặt hàng TCMN của nước ta. Từ thị hiếu tiêu dùng của người dân và những quy định đối với hàng nhập khẩu tại EU, các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý một số điều sau khi xuất khẩu vào thị trường EU: * Lưu ý về chất lượng và giá cả sản phẩm: Thị trường EU là một thị trường phát triển và khó tính đòi hỏi tương đối cao về chất lượng sản phẩm, các mặt hàng TCMN không những phải tiện dụng, hình thức đẹp, màu sắc hài hoà, đa dạng, kết hợp tinh xảo các loại vật liệu với nhau. Ngoài ra, theo đúng như tên của mặt hàng là TCMN, sản phẩm phải phản ánh được yếu tố văn hoá, tinh thần của dân tộc, và chủ yếu là được làm bằng đôi tay của người thợ thủ công. Các sản phẩm phải đồng đều bền lâu và không chịu ảnh hưởng của thời tiết. Giá cả của sản phẩm TCMN trên thị trường EU thường cao hơn so với thị trường cộng đồng các quốc gia độc lập, nhưng lại thường thấp hơn giá cả trên thị trường Nhật Bản và Bắc Mỹ. Hiện nay, giá sản phẩm của TCMN Việt Nam đắt hơn so với các sản phẩm cùng loại đến từ Trung Quốc và các nước ASEAN, làm giảm sức cạnh tranh của mặt hàng này trên thị trường. * Lưu ý đến sự canh tranh của các quốc gia khác: Cạnh tranh với TCMN Việt Nam trên thị trường EU có các sản phẩm đến từ các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, ASEAN... Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải chú ý đến tính cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng, mẫu mã, tính độc đáo của sản phẩm. Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất khẩu nên chú ý dịch vụ hỗ trợ sau bán hàng như vận chuyển, bảo hiểm, thông quan hàng hoá và các dịch vụ khác khi hàng đến kho nhà nhập khẩu. Khâu chăm sóc khách hàng sau bán hàng được các nước cạnh tranh quan tâm và thực hiện tương đối chu đáo * Quan tâm đến trách nhiệm xã hội trong sản xuất và bảo vệ môi trường sống: Làng nghề TCMN Việt Nam hiện nay vẫn còn sử dụng lao động trẻ em chưa đến độ tuổi lao động, Điều kiện an toàn trong lao động của làng nghề chưa đảm bảo. Tai nạn lao động thường xuyên xảy ra, tỷ lệ mắc các bệnh kinh niên ở người lao động hay tỉ lệ dị tật của các trẻ em các làng nghề cao hơn các nơi khác. Điều này ảnh hưởng tới xuất khẩu sang thị trường EU, một thị trường đòi hỏi phải đảm bảo quy định SA 8000. Tình hình bảo vệ môi trường của các làng nghề sản xuất hiện nay cũng cần được lưu tâm, môi trường sống ô nhiễm nặng nề, các nguyên liệu như gỗ được khai thác chủ yếu ở rừng tự nhiên, hoặc không rõ xuất xứ vi phạm quy định bảo vệ rừng. Nếu các doanh nghiệp nhập khẩu TCMN của EU sang kiểm tra cơ sở sản xuất các làng nghề hiện nay thì TCMN của Việt Nam khó có thể trực tiếp thâm nhập vào thị trường EU. * Lưu ý khác: Ngoài những lưu ý trên các doanh nghiệp cần phải chú ý đến mùa tiêu thụ của EU, có kế hoạch sản xuất và xuất khẩu sang EU để đáp ứng kịp nhu cầu tiêu thụ vào mùa mua sắm của EU như những dịp lễ tết, Noel hay tết Dương lịch hàng năm. 1.3. Thực trạng xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam vào thị trường EU những năm qua Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng liên tục. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng qua các năm không ổn định do tình hình kinh tế và chính trị thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam chủ yếu là những sản phẩm chứa nhiều yếu tố lao động bao gồm khoáng sản, nguyên liệu, nông sản, giày da, thuỷ hải sản… được xuất sang các thị trường truyền thống và tiềm năng như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Autraylia… Những năm gần đây Việt Nam đang chuyển hướng sang cả thị trường của các nước châu Phi. Một trong mười mặt chủ đạo xuất khẩu đó là mặt hàng TCMN. 1.3.1. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam Mặt hàng TCMN là mặt hàng truyền thống của Việt Nam và được xuất khẩu từ rất sớm. Thời kỳ hoàng kim của TCMN vào giai đoạn trước đổi mới (1970 -1986), tỷ trọng kim ngạch trung bình đạt 40%, có năm lên tới 53,4%. Những năm gần đây, TCMN vẫn được coi là một trong những mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam. Tuy tỷ trọng trong kim ngạch xuất khẩu không cao (trung bình 1.65% kim ngạch xuất khẩu) nhưng lại là mặt hàng có thực thu về khá lớn do nguyên liệu có sẵn ở trong nước, giá nguyên liệu đầu vào thấp, vốn bỏ ra không nhiều, giá trị sản phẩm cao. Theo con số thống kê của Bộ công thương, kim ngạch xuất khẩu TCMN của Việt Nam tăng liên tục và khá nhanh. Trong vòng 10 năm kim ngạch xuất khẩu TCMN tăng gấp 4,25 lần từ năm 2000 (235 triệu USD) tới năm 2009 (khoảng 1,1 tỷ USD). Trong giai đoạn này, tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao là 17,87%/năm. Cao nhất là 2002 với tốc độ tăng trưởng là 40,8%, tuy nhiên so với giá trị tương đối thấp (năm 2001: 235 triệu USD). Đáng chú ý nhất là giai năm 2008 với mức tăng 33,3% đưa giá kim ngạch xuất khẩu TCMN lên gần 1tỷ USD. Năm 2009 theo ước tính, giá trị kim ngạch xuất khẩu TCMN đạt trên 1,1 tỷ USD. Ước tính vào năm 2010, kim ngạch xuất khẩu TCMN đạt 1,5 tỷ USD. Nguồn: Bộ Công thương 2010*:ước tính Hình 1.2: Tổng kim ngạch xuất khẩu TCMN của Việt Nam Mặc dù nền kinh tế thế giới hiện nay đang chịu sự ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nhưng trong năm 2008-2009 giá trị kim ngạch xuất khẩu của TCMN vẫn đạt trên 1 tỷ USD. Trong 4 tháng đầu năm 2009, giá trị kim ngạch của mặt hàng này đạt 58,30 triệu USD, tuy có giảm 19,3% so với cùng kỳ năm 2008 nhưng lại tăng 23,3% so với kế hoạch đã đề ra. Bên cạnh đó, doanh nghiệp TCMN nước ta đang đứng trước khó khăn, thiếu đơn đặt hàng. Theo phản ánh từ phía các doanh nghiệp, số đơn đặt hàng năm nay giảm chỉ bằng 40% so với cùng kỳ năm ngoái. Giá trị các đơn đặt hàng cũng giảm đi đáng kể. Nếu tiếp tục tình trạng này, sẽ có số lượng lớn các doanh nghiệp TCMN đứng trên bờ vực phá sản. Nguyên nhân của tình trạng này không chỉ do cuộc khủng hoảng thế giới hiện nay, mà còn do sản phẩm TCMN của nước ta cạnh tranh kém hơn so với sản phẩm các nước khác trên thế giới. Điều này đòi hỏi ngành TCMN phải đầu tư trang thiết bị máy móc, cải tiến mẫu mã sản phẩm, nâng cao tay nghề thợ thủ công, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, giảm giá thành. Trong 2 tháng đầu năm 2010 các sản phẩm gỗ xuất khẩu đã tăng 29,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Cơ cấu xuất khẩu của mặt hàng TCMN cũng khá đa dạng với nhiều mẫu mã. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu vẫn là những sản phẩm truyền thống như gốm sứ, gỗ mỹ nghệ, thêu, mây tre đan… Mặc dù các sản phẩm có nhiều mẫu mã khác nhau nhưng TCMN Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của các quốc gia trên thế giới. Mẫu mã của mặt hàng thủ công còn chưa có sức sáng tạo, sản phẩm không đồng đều, chưa đạt độ tinh xảo cao. 1.3.2. Thị trường xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam Trước những năm 1990, thị trường xuất khẩu chủ yếu của TCMN nước ta là các nước Đông Âu và Liên Xô. Do những biến động chính trị, thị trường này đã suy giảm đáng kể. Hiện nay, mặt hàng TCMN của nước ta đã bao phủ hầu hết các quốc gia trên thế giới, khoảng 163 quốc gia. Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là các nước Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Nga, các nước trong khu vực ASEAN. Ba thị trường mục tiêu của TCMN Việt Nam là EU, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Hoa Kỳ được coi là một thị trường đầy tiềm năng. Hàng năm, nước ta xuất khẩu sang Mỹ khoảng 70 – 80 triệu USD, chiếm 1,5% thị trường này. Đối với thị trường Nhật Bản, kim ngạch xuất khẩu TCMN sang thị trường này đạt 30 triệu USD/ năm chiếm khoảng 1,9% thị phần nhập khẩu vào Nhật Bản. Đặc biệt, người tiêu dùng Nhật rất thích đồ gỗ. Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam còn mạnh dạn đưa sản phẩm TCMN sang thị trường Nam Phi, đây là thị trường mới nhưng cũng hứa hẹn nhiều tiềm năng đối với Việt Nam trong quan hệ thương mại. Nhìn chung, ba thị trường chủ yếu của TCMN Việt Nam là Mỹ, Nhật Bản và EU, tuy nhiên, chúng ta vẫn chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ bé đối trong kim ngạch nhập khẩu TCMN của ba thị trường này. Bảng 1.1: Kim ngạch xuất khẩu TCMN của Việt Nam sang các thị trường thế giới Đơn vị:(Triệu USD) Nước 2007 2008 2009 Giá trị xuất khẩu Tỷ Lệ (%) Giá trị xuất khẩu Tỷ Lệ (%) Tốc độ tăng trưởng (%) Giá trị xuất khẩu Tỷ Lệ (%) Tốc độ tăng trưởng (%) Nhật bản 142,50 19,00 229,95 21,00 60,00 276,00 24,00 20,00 Mỹ 90,00 12,00 153,30 14,00 70,00 207,00 18,00 35,29 EU 378,11 50,43 384,20 35,10 1,60 371,54 32,30 -0,03 Các nước khác 139,39 18,57 327,55 29,90 1,35 295,46 25,70 -0,09 Tổng 750,00 100,00 1095,00 100,00 1150,00 100,00 Nguồn: Tổng cục thống kê 1.3.3. Thị trường EU về xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ 1.3.3.1. Kim ngạch xuất khẩu Mặt hàng TCMN của Việt Nam hiện nay có mặt trên 163 quốc gia trên thế giới với các thị trường truyền thống như Mỹ, Đài Loan, Nhật Bản… và EU được coi là một thị trường lớn đối với mặt hàng TCMN của Việt Nam. Theo phòng thương mại châu Âu tại Việt Nam, EU có nhu cầu lớn về mặt hàng TCMN. Trong những năm qua, EU nhập khối lượng lớn mặt hàng này với giá trị khoảng 7 tỷ USD/ năm. Việt Nam chỉ chiếm phần nhỏ tại thị trường EU, năm 2005 chiếm 5,4% kim ngạch nhập khẩu TCMN của EU. Việt Nam phấn đấu vào năm 2010 này, đạt 6,4% (giá trị trên 0,6 tỷ USD) kim ngạch nhập khẩu TCMN của EU. Trong những năm qua, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng TCMN sang thị trường EU ngày càng tăng. Nhìn vào biểu đồ hình 2.2… ta thấy từ năm 2001 đến 2009, trong vòng 9 năm kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang EU tăng từ 124,64 triệu USD đến 371,54 triệu USD tức là gấp 3 lần. Giai đoạn năm 2005- 2006 , Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), thương mại giữa Việt Nam với các quốc gia và khu vực trên thế giới nhận được nhiều ưu đãi, và mặt hàng TCMN sang EU cũng không ngoại lệ. Giai đoạn này, kim ngạch xuất khẩu tăng vọt 1,32 lần từ 250,57 triệu USD lên 331,2 triệu USD. Nguồn : Bộ Công thương Hình 1.3: Kim ngạch xuất khẩu TCMN của Việt Nam sang EU Việt Nam và một số nước ASEAN đang đàm phán hiệp định thương mại tự do với EU, nếu hiệp định này được kí kết thì sẽ tạo điều kiện rất nhiều cho hàng hoá nước ta thâm nhập vào EU trong đó có mặt hàng TCMN. Đặc biệt trong năm 2007 giá trị kim ngạch xuất khẩu TCMN sang EU đạt 378,11 triệu USD, chiếm 50% giá trị xuất khẩu của cả nước về TCMN (750 triệu USD). Năm 2008, chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, thị trường EU cũng không nằm ngoài sự suy giảm tiêu dùng của thế giới. Thời điểm này, kim ngạch xuất khẩu TCMN sang EU có tăng nhưng không đáng kể. Ta có thể thấy rõ thị trường EU có vai trò rất quan trọng đối với kim ngạch xuất khẩu Việt Nam, nhưng Việt Nam lại chiếm một thị phần khá nhỏ bé trên thị trường EU. Theo thống kê của Bộ công thương, qua hình 2.3 ta có thể thấy EU là thị trường xuất khẩu chính và tiềm năng của TCMN nước ta. Trung bình các năm, thị trường EU chiếm 43,9% giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Trong năm 2005, có 15 quốc gia được coi là thị trường xuất khẩu quan trọng thì EU có tới 7 nước, chiếm 42% gấp 4 lần giá trị xuất khẩu sang Mỹ hay Nhật Bản. Tuy nhiên, đối với EU thì TCMN Việt Nam đang chiếm một thị phần tương đối nhỏ (5,4%), thể hiện EU là một thị trường tiềm năng đối với TCMN Việt Nam. Trong EU, thị trường mà TCMN nước ta xuất sang nhiều nhất có các nước như Đức, Pháp, Hà Lan, Anh, Bỉ, Italia, Tây Ban Nha, sau đó mới đến các nước khác như Bồ Đào Nha, Phần Lan… Nguồn: Bộ Công thương Hình 1.4: Giá trị XK TCMN sang EU và tổng giá trị XK TCMN Đây là một điều đáng lưu ý đối với xuất khẩu Việt Nam không chỉ riêng mặt hàng TCMN. Trên thị trường EU, Việt Nam phải chia sẻ thị phần cho các nước cạnh tranh như Trung Quốc và các nước ASEAN. Hai đối thủ này có sức cạnh tranh tốt hơn nhiều so với TCMN của Việt Nam. Họ có nguồn nguyên liệu đảm bảo, hàng hoá chất lượng đồng đều, mặt hàng đa dạng, mẫu mã phong phú, giá cả lại tương đối thấp so với mặt hàng TCMN. 1.3.3.2. Cơ cấu xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ sang EU Mặt hàng TCMN nước ta tương đối đa dạng, các mặt hàng xuất chủ lực có giá trị cao như: gỗ mỹ nghệ, gốm sứ, mây tre đa, thêu thùa... * Hàng gốm sứ: Mặt hàng gốm sứ của Việt Nam, đặc biệt là các sản phẩm làm bằng tay rất được ưa chuộng trên thị trường EU. Đây là một thị trường được coi là khó tính nên các sản phẩm gốm sứ tồn tại trên thị trường này đều phải được đảm bảo về chất lượng. Chất lượng của các sản phẩm này không thua kém các sản phẩm đến từ Trung Quốc, Malaysia hay Italia. Các sản phẩm gốm sứ của Việt Nam cũng rất đa dạng về nguyên liệu, chủng loại cũng như hình dáng, cho phép người mua có thể lựa chọn. Người mua có thể lựa chọn loại men, không men hoặc đất đỏ…, hình dáng các kiểu như oval, tròn, chữ nhật, vuông hay các hình thù khác. Các nguyên liệu sản xuất gốm sứ một phần được nhập khẩu, còn đâu phần lớn là nguyên liệu địa phương. Bảng 1.2: Giá trị xuất khẩu các mặt hàng trọng điểm của TCMN Việt Nam Đơn vị: Triệu USD Nguồn: Tổng cục thống kê Mặt hàng 2007 2008 2009 Giá trị XK Tỷ Lệ (%) Giá trị XK Tỷ Lệ (%) Tốc độ tăng trưởng Giá trị XK Tỷ Lệ (%) Tốc độ tăng trưởng Hàng Gốm sứ 109,4 28,9 103,5 27 -0,05 97,8 26,3 -0,05 Hàng mây tre đan 114,36 30,25 87,68 22,8 -0,23 86,78 23,35 -0,01 Hàng sơn mài mỹ nghệ 89,78 23,75 101,75 26,4 0,14 94,27 25,4 -0,07 Thêu 43,7 11,56 48,67 12,7 1,11 35,54 9,56 -0,28 Mặt hàng khác 20,87 5,54 42,6 11,1 1,04 57,15 15,39 0,34 Tổng 378,11 100 384,2 100 0,016 371,54 100 -0,03 Trong năm 2008, giá trị xuất khẩu các mặt hàng gốm sứ của Việt Nam vào thị trường EU đạt 116,5 triệu USD, tăng 1,6% so với năm 2007 và chiếm 60,1% tổng giá trị xuất khẩu của mặt hàng này (193,6 triệu USD). Giá trị xuất khẩu gốm sứ sang EU 6 tháng đầu năm 2009 đạt 40,859 triệu USD, giảm so với cùng kỳ năm 2008 là 34,61%. Tuy 6 tháng cuối năm 2009 đã có xu hướng tăng, nhưng tổng giá trị xuất khẩu gốm sứ năm 2009 chỉ đạt 97,8 triệu USD. Các mặt hàng gốm sứ chủ yếu xuất sang trường EU trong năm 2009 là: đồ chơi bằng gốm sứ, tượng người và các con vật bằng gốm, đồ gia dụng bằng gốm sứ, bình gốm, chậu trồng hoa bằng gốm sứ. * Hàng mây tre đan: Việt Nam là nước xuất khẩu đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu mây tre đan. Mặt hàng này có tính chất nhỏ, đẹp, dễ thay đổi kiểu, bền và rẻ hơn đồ gỗ. Sản phẩm này của Việt Nam phát triển từ xa xưa, tuy nhiên lại chậm đổi mới. Những năm gần đây, nước ta đã có thêm nhiều kiểu dáng theo mẫu nước ngoài. Ngoài ra, các doanh nghiệp sản xuất còn kết hợp mây tre đan với các nguyên liệu khác như gốm, kim loại, gỗ… để tạo những kiểu dáng đặc biệt. Năm 2009, giá trị kim ngạch xuất khẩu mây tre đan có giảm đi so vơi 2008. Vào tháng 5 năm 2009 giá trị xuất khẩu mây tre đan lá thảm và sơn mài xuất đat 13 triệu USD, trong 5 tháng đầu năm 2009 đạt 70 triệu USD giảm 25% so với cùng kì năm ngoái. Thị trường EU cũng năm trong xu thế giảm chung, 6 tháng đầu năm 2009, giá trị xuất khẩu TCMN sang EU đạt 35,302 triệu USD giảm 33,18% so với cùng kỳ năm ngoái. *Hàng gỗ mỹ nghệ: Đất nước ta có truyền thống sản xuất gỗ từ lâu đời nay. Xuất khẩu hàng gỗ mỹ nghệ cũng đã phát triển từ rất lâu. Trong những năm gần đây, hàng gỗ mỹ nghệ Việt Nam xuất khẩu đã duy trì được tốc độ tăng cao. Hàng gỗ mỹ nghệ gồm có tranh gỗ, tượng gỗ, hàng sơn mài… đang chiếm một tỷ trọng rất cao trong giá trị xuất khẩu TCMN. Gỗ xuất khẩu của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU đang được hưởng mức thuế GSP với mức thuế suất 0%, một số mặt hàng chịu mức thuế suất 2,1%. Cũng như các mặt hàng khác, năm 2008 -2009 vừa qua được coi là khó khăn với gỗ mỹ nghệ, 6 tháng năm 2009 giá trị gỗ mỹ nghệ xuất khẩu sang thị trường EU đạt 267,439 giảm 37,09% so với 6 tháng đầu năm 2008. Tuy nhiên, cuối năm 2009, đầu năm 2010 xuất khẩu gỗ và các sản phẩm về gỗ đã có xu hướng tăng lên. 1.3.3.3. Chất lượng, giá cả và mẫu mã sản phẩm mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu sang thị trường EU Ngày nay, khi mức sống và thu nhập của người dân ngày càng tăng thì quyết định tiêu dùng không chỉ dựa vào giá cả mà chất lượng, mẫu mã hàng hoá đóng vai trò rất quan trọng. Trên thị trường thế giới, mặt hàng TCMN của Việt Nam được đón nhận và đánh giá khá cao. Nhìn chung, các sản phẩm TCMN nước ta có thể đáp ứng được yêu cầu cũng như tiêu chuẩn của các thị trường lớn và được coi là khó tính trên thế giới như Mỹ, EU hay Nhật Bản. Các sản phẩm mây tre đan của ta ít bị thay đổi dưới tác động của thời tiết, ít cong vênh. Ngày nay các doanh nghiệp xuất khẩu có hệ thống từ khâu xử lý nguyên liệu, sản xuất, rồi xuất khẩu nên có thể đảm bảo được chất lượng nguyên vật liệu được xử lý kĩ, kiểu dáng đã bắt đầu quan tâm đến thị hiếu người tiêu dùng hơn. Đặc biệt nguyên liệu sản xuất của Việt Nam được đánh giá là đẹp hơn so với các đối thủ như Trung Quốc hay Malaysia. Tuy nhiên, nguyên liệu của nước ta vẫn có trường hợp chưa được xử lý tốt. Đối với đồ gốm sứ thì Trung Quốc có thế mạnh hơn hẳn về chất lượng cũng như men tráng với những thương hiệu lâu đời nổi tiếng trên toàn thế giới như gốm sứ Giang Tây, gốm thời Minh… Các sản phẩm TCMN của nước ta chưa có tính đồng đều về mặt chất lượng. TCMN là mặt hàng có tính nghệ thuật, thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi đòi hỏi mặt hàng này phải thay đổi liên tục về mẫu mã và kiểu dáng. Đặc biệt đối với người tiêu dùng EU, sản phẩm ngoài chất lượng, giá cả hợp lý, thì mẫu mã phải bắt mắt, có tính đặc trưng riêng. Những sản phẩm đại trà trên thị trường EU đang gặp khó khăn trong khâu tiêu thụ. Trên thực tế, các sản phẩm TCMN của nước ta có kiểu dáng và mẫu mã chưa đa dạng. Các sản phẩm của chúng ta đôi khi còn lạc hậu, chưa bắt kịp với sự thay đổi của thị hiếu người tiêu dùng EU. Một điều khó khăn nữa hiện nay đó là tình trạng sao chép mẫu mã và vi phạm bản quyền. Không chỉ các doanh nghiệp Việt Nam sao chép lẫn nhau làm hạn chế sự phát triển mà các doanh nghiệp nước ngoài (ví dụ như Trung Quốc) thường sao chép và sản xuất hàng loạt với giá rẻ làm ảnh hưởng lớn tới thị trường tiêu thụ của Việt Nam. Không những sản phẩm TCMN của Việt Nam có mẫu mã không phong phú, chất lượng không đều và ổn định mà giá cả sản phẩm của nước ta trên thị trường EU còn cao hơn các đối thủ cạnh tranh. Nguyên nhân hạn chế của chất lượng, mẫu mã, giá cả là do doanh nghiệp sản xuất TCMN của Việt Nam còn nhỏ lẻ. Điều này rất khó để tập trung vốn, cải thiện hệ thống từ khâu thu mua nguyên liệu, cải tiến mẫu mã, tăng năng suất, giảm giá thành sản phẩm. Ngoài ra, việc áp dụng kỹ thuật, công nghệ vào trong sản xuất TCMN còn hạn chế. Hiện nay, Hiệp hội TCMN Việt Nam đã hỗ trợ các doanh nghiệp bằng cách cung cấp thông tin các thị trường, mở khoá đào tạo thiết kế, mẫu mã, nhằm thúc đẩy xuất khẩu TCMN ra thị trường thế giới trong đó có thị trường EU. 1.3.3.4. Thương hiệu của mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam trên thị trường EU TCMN Việt Nam xuất hiện trên thị trường EU với thương hiệu gắn liền với tên tuổi truyền thống như gốm Bát Tràng, gỗ Đồng Kỵ... Tuy nhiên, thương hiệu của TCMN của Việt Nam tương đối mờ nhạt, hoặc có thì cũng khó cạnh tranh với những thương hiệu khác đến từ Trung Quốc, các nước Asean... Nguyên nhân chính là do các doanh nghiệp TCMN chưa chú trọng đến việc xây dựng thương hiệu TCMN Việt Nam, mà nguyên nhân sâu xa là do sự sản xuất manh mún, quy mô nhỏ, không có sự hiệp tác giữa các doanh nghiệp. Hàng TCMN Việt Nam thường xuất khẩu qua trung gian, khả năng sáng tạo mẫu mã phù hợp với gu thẩm mĩ của thị trường EU còn kém nên thay vì sản xuất các mặt hàng, mẫu mã mang văn hóa Việt Nam, các doanh nghiệp thường gia công lại các mẫu mã của nước ngoài. Điều này làm cho hàng TCMN Việt Nam giảm sức cạnh tranh từ đó khó có thể xây dựng được thương hiệu mạnh. Những năm gần đây, một số doanh nghiệp sản xuất TCMN Việt Nam chạy theo xu hướng công nghiệp hóa ngành TCMN mà không chú ý đến những nét văn hóa, giá trị lao động thủ công kết tinh trong sản phẩm. Điều này cũng tác động không nhỏ đến thương hiệu của TCMN Việt Nam, đặc biệt với thị trường khó tính như EU. Tóm lại, nếu các doanh nghiệp Việt Nam đã chưa tạo ra thương hiệu riêng cho chính mình, cho TCMN Việt Nam thì thị trường EU tiềm năng mãi chỉ là tiềm năng. 1.4. Kinh nghiệm xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ của một số quốc gia trên thế giới và bài học rút ra cho Việt Nam. Trên thị trường thế giới hiện nay, các mặt hàng TCMN của Trung Quốc và các nước trong khu vực ASEAN đang có lợi thế so sánh hơn mặt hàng TCMN của Việt Nam. Các yếu tố như hoạt động tổ chức tiêu thụ đến dịch vụ hỗ trợ của họ đều tốt hơn Việt Nam. Mặt hàng TCMN của họ có chất lượng tốt và đồng đều, cơ cấu mặt hàng đa dạng, mẫu mã phong phú, độc đáo, số lượng và thời gian giao hàng đảm bảo, có điều kiện lao động và môi trường đảm bảo tiêu chuẩn của EU và quốc tế. Câu hỏi đặt ra là các nước đó có điều kiện tự nhiên để phát triển TCMN tương đồng vởi Việt Nam, tại sao ngành TCMN của họ lại phát triển hơn. Đó chính là kinh nghiệm sản xuất và xuất khẩu chúng ta cần học tập. 1.4.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc Bài học đầu tiên phải nhắc đến đó là chính sách thành lập và phát triển xí nghiệp hương trấn một loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển tại các vùng nông thôn Trung Quốc, hoạt động một cách rất năng động. Đồng thời cũng đưa ra các điều luật để quản lý hoạt động của khu vực kinh tế này. Thứ hai, doanh nghiệp sản xuất TCMN Trung Quốc coi trọng sản phẩm mới, khai thác kỹ thuật mới, từ đó nâng cao năng suất và chất lượng mẫu mã sản phẩm. TCMN Trung Quốc có truyền thống lâu đời. Các sản phẩm của Trung Quốc một mặt đáp ứng nhu cầu sử dụng và thẩm mỹ của người tiêu dùng, một mặt vẫn giữ được những nét truyền thống dân tộc. Trung Quốc là một quốc gia có truyền thống văn hóa lâu đời, mỗi người dân Trung Quốc đều mang trong mình niềm tự hào về truyền thống dân tộc. Điều đó tạo nên tính đặc sắc văn hóa trong mỗi sản phẩm của TCMN Trung Quốc. Trung Quốc giao hàng rất đúng hẹn, đảm bảo về số lượng và chất lượng. Dịch vụ hỗ trợ khách hàng sau bán hàng như bảo hành, tư vấn khách hàng được thực hiện rất tốt. Chính phủ Trung Quốc cũng đưa ra các chính sách hỗ trợ đối với doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất và xuất khẩu TCMN. Các xí nghiệp hương trấn sản xuất TCMN có quan niệm về hàng hóa vững vàng. Theo đó, bản thân mỗi người lao động, mỗi người thợ thủ công đều ý thức hoàn thiện sản phẩm có chất lượng tốt, sáng tạo thay đổi mẫu mã bắt kịp với nhu cầu thế giới, nâng cao năng suất hạ giá thành, từ đó nâng cao sức cạnh tranh và xây dựng thương hiệu đối với sản phẩm TCMN Trung Quốc trên thị trường quốc tế. Kinh nghiệm của các nước ASEAN Các nước trong khu vực ASEAN trong đó có Việt Nam có điều kiện tự nhiên khá giống nhau, nên sản phẩm của các quốc gia này có tính tương đồng, cạnh tranh nhau. Mặt hàng TCMN xuất khẩu của Việt Nam có khả năng cạnh tranh kém trong khu vực vì bản thân chất lượng mặt hàng này của chúng ta so với khu vực còn kém. Để đẩy mạnh xuất khẩu, các nước ASEAN đã có những biện pháp cụ thể và thống nhất từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm: Trước tiên, là khâu sản xuất: Quan tâm đến khâu tích trữ nguyên liệu, đăc biệt là nguyên liệu tự nhiên khan hiếm và cung cấp cho các nghệ nhân ở mức giá vừa phải. Tạo điều kiện cạnh tranh công bằng trong thị trường cung cấp nguyên liệu, phá vỡ thế độc quyền. Chú trọng nâng cấp cơ sở hạ tầng như nhà xưởng, đường sá, phương tiện chuyên chở cũng như phương tiện thông tin liên lạc như điện thoại, Internet… Ưu tiên các doanh nghiệp đầu tư vốn vào sản xuất mặt hàng TCMN như giảm bớt thủ tục trong việc thành lập doanh nghiệp. Bảo lãnh vay vốn với lãi suất thấp để mua nguyên liệu thô, sử dụng đơn hàng để chấp nhận tài sản thế chấp. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà thiết kế giỏi, sáng tạo tiếp xúc với TCMN. Nghiên cứu xu hướng tiêu dùng của mỗi nước, lưu trữ các mẫu thiết kế. Hỗ trợ các nghệ nhân như đào tạo kiến thức hội hoạ, hỗ trợ kĩ thuật, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nước và quốc tế. Trong khâu tiêu thụ và xuất khẩu: Tiếp cận thị trường thông qua việc thành lập và củng cố ban xúc tiến xuất khẩu. Cung cấp thông tin về xu hướng và thị hiếu tiêu dùng của thị trường thế giới cho các doanh nghiệp. Tổ chức các hội chợ triển lãm về TCMN. Đưa ra các báo cáo để giới thiệu các cơ hội cụ thể, phân tích về thị trường giá cả… Đơn giản hoá các thủ tục xuất khẩu đối với hàng TCMN, giảm phí chuyên chở, thuế xuất khẩu… Không ngừng nâng cao chất lượng, mẫu mã, bao bì để đáp ứng nhu cầu của thị trường thế giới. Kết hợp các cơ quan xúc tiến thương mại và cơ quan xúc tiến du lịch. Nâng cao niềm tự hào trong giới trẻ về sản phầm TCMN truyền thống. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam Từ kinh nghiệm từ các quốc gia có ngành sản xuất và xuất khẩu TCMN phát triển như Trung Quốc và các nước ASEAN các doanh nghiệp Việt Nam có thể rút ra bài học kinh nghiệm để thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng TCMN của Việt Nam sang EU như sau: Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng bao gồm đầu tư và xây dựng hệ thống đường sá tại khu vực doanh nghiệp sản xuất TCMN, đặc biệt là vùng nông thôn, nơi có các làng nghề TCMN. Hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà xưởng, nâng cấp hệ thống kĩ thuật, đầu tư cho nghiên cứu công nghệ mới ứng dụng vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động cũng như chất lượng sản phẩm làm từ máy. Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực, mở các lớp đào tạo nghề, dạy nghề… Đầu tư nâng cấp quy trình xử lý nguyên liệu để đạt tiêu chuẩn kĩ thuật của thị trường EU. Đầu tư nghiên cứu thị trường, tìm hiểu thị hiếu người tiên dùng EU, cải thiện mẫu mã, chất lượng sản phẩm. Hình thành hệ thống phân phối, tiêu thụ ở thị trường EU. Khuyến khích đầu tư xuất khẩu, hỗ trợ xuất khẩu mặt hàng TCMN sang thị trường EU. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xây dựng hình ảnh, thương hiệu mặt hàng TCMN trên thị trường EU. Tổ chức các buổi hội chợ, triển lãm trưng bày sản phẩm, tạp chí, giới thiệu thông qua catalogue… 1.5. Đánh giá hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường EU 1.5.1. Thành công của xuất TCMN sang EU Trong những năm qua TCMN là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng nhanh. Đặc biệt xuất khẩu mặt hàng TCMN sang thị trường EU đã đạt những thành tựu đáng ghi nhận: 1.5.1.1. Bước đầu thâm nhập vào được thị trường EU Thị trường EU là một thị trường khó tính và kén chọn. Để thâm nhập vào thị trường EU, các sản phẩm TCMN Việt Nam phải đáp ứng quy định, tiêu chuẩn của EU. Hơn nữa, để có chỗ đứng trên thị trường các sản phẩm TCMN phải có tính sáng tạo và phù hợp thị hiếu của người tiêu dùng EU. Mẫu mã, kiểu dáng đã có tính phong phú đa dạng hơn, tạo ra nhiều sự lựa chọn cho người tiêu dùng. Tuy nhiên, so với các mặt hàng TCMN của các quốc gia khác, chất lượng của nước ta vẫn còn thua kém. Hiệp hội xuất khẩu hàng TCMN Việt Nam (được thành lập năm 2007) đã tổ chức phòng trưng bày thiết kế sản phẩm mới nhất theo thị hiếu của người tiêu dùng, hình thành mạng lưới tư vấn, thiết kế để hỗ trợ doanh nghiệp. 1.5.1.2. Giá trị xuất khẩu thủ công mỹ nghệ tăng nhanh Giá trị kim ngạch xuất khẩu TCMN sang EU trong những năm qua tăng mạnh, tính đến năm 2008, giá trị xuất khẩu tăng gấp 3 lần so với những năm 2000. Thị trường EU là thị trường quan trọng với xuất khẩu TCMN Việt Nam chiếm đến 50% giá trị xuất khẩu TCMN của cả nước. Giá trị xuất khẩu TCMN sang EU tăng mạnh góp phần to lớn vào tăng trường của kim ngạch xuất khẩu TCMN Việt Nam. Ngoài ra, xuất khẩu TCMN tăng mạnh đã tạo công ăn việc làm cho 1,4 triệu lao động, đặc biệt là lao động nông thôn, góp ổn định dời sống cho người dân vùng nông thôn. 1.5.2. Những tồn tại trong xuất khẩu TCMN của Việt Nam sang EU 1.5.2.1. Chất lượng, mẫu mã và giá cả sản phẩm Các doanh nghiệp đã chủ ý đến chất lượng sản xuất nhưng sản phẩm chưa đồng đều trong một lô hàng, giữa lô hàng này và lô hàng khác. Nguyên liệu cũng đã được quan tâm xử lý nhưng chưa thực sự đáp ứng được hoàn toàn nhu cầu của nước nhập khẩu. Chất lượng sản phẩm chưa cạnh tranh được với các đối thủ khác trên thị trường EU. Mẫu mã sản phẩm có đa dạng hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được sự thay đổi, thị hiếu của người dân. Sản phẩm TCMN của Việt Nam không theo xu hướng thời trang mà vẫn giữ mẫu cũ. Chưa đầu tư vào mặt hàng chủ lực của từng thị trường. Các sản phẩm không phân theo nhu cầu, đặc tính của từng thị trường, khu vực cụ thể mà dản trải, giống nhau. Không những thế, sản phẩm ít có tính sáng tạo đặc trưng, cá biệt, tạo nên cái riêng của thương hiệu Việt. Giá cả của mặt hàng TCMN của Việt Nam trên thị trường EU, cũng như trên thế giới cao hơn so với mặt bằng chung. Trung bình, các sản phẩm của Việt Nam cao hơn so với các sản phẩm của Trung Quốc là 15%, với các nước ASEAN tầm 10%. Giá cao do giá thành sản xuất của Việt Nam cao hơn so với các nước khác. 1.5.2.2. Nghiệp vụ ngoại thương Các doanh nghiệp xuất khẩu TCMN chủ yếu là do các làng nghề hoặc các doanh nghiệp thương mại nhỏ, thường không có đội ngũ nhân viên xuất khẩu không chuyên nghiệp, ảnh hưởng đến tiến trình thông quan xuất khẩu hàng hóa, dẫn đến chậm tiến trình giao hàng, gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Ngoài ra, các làng nghề và doanh nghiệp còn có thể gặp các rủi ro trong thanh toán quốc tế... 1.5.2.3. Yếu kém trong hoạt động logistic Chi phí vận chuyển và kho bãi của nước ta hiện nay khá cao so với thế giới. Cơ sở vật chất hạ tầng kém, thời gian vận chuyển lâu, đã làm cho chi phí vận chuyển tăng lên. Để vận chuyển sản phẩm TCMN từ làng nghề quanh Hà Nội xuống cảng Hải Phòng, khoảng 100km chúng ta phải mất thời gian gấp 2 đến 3 lần so với Trung Quốc và các nước ASEAN, thời gian xoay vòng các phương tiện lâu đẩy giá thành vận chuyển tăng, làm tăng giá mặt hàng TCMN, dẫn đến giảm sức cạnh tranh của mặt hàng này so với các nước khác trên thị trường thế giới. 1.5.3. Nguyên nhân Mặt hàng TCMN của Việt Nam đã được xuất khẩu từ lâu so với các mặt hàng khác. Đối với thị trường EU, mặt hàng TCMN của Việt Nam chưa thâm thâm nhập được nhiều. Vậy đâu là lý do khiến cho xuất khẩu TCMN sang thị trường EU chưa phát triển đúng với tiềm năng của nó? Ta có thể chia nguyên nhân ra làm nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan: 1.5.3.1. Nguyên nhân khách quan * EU là một thị trường khá là khó tính: Thị trường EU với các tiêu chuẩn nghiêm ngặt về xuất xứ, vệ sinh an toàn, môi trường, lao động … trong khi Việt Nam ta vẫn có thói quen nông nghiệp, chưa có một hệ thống tiêu chuẩn quy định nào rõ ràng. Hơn nữa, các doanh nghiệp sản xuất TCMN chủ yếu tập trung ở các làng nghề, sử dụng lao động nhàn rỗi (có cả trẻ em), hoặc khai thác nguyên liệu và xử lý rác thải không đúng với tiêu chuẩn của EU. Điều này làm cho sản phẩm TCMN Việt Nam khó đáp ứng được tiêu chuẩn của thị trường EU. * Điều kiện khó khăn của kinh tế Việt Nam: Đội tàu của chúng ta chưa thực sự lớn mạnh, các dịch vụ khác như viễn thông, bảo hiểm, ngân hàng… chưa thực sự tốt. Thêm vào đó, tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đủ mạnh dẫn đến thường xuyên xuất khẩu theo điều kiện giao hàng FOB. Trong khi đó, mặt hàng TCMN cồng kềnh dễ vỡ, khách hàng phải tự tay thuê vận chuyển, bảo hiểm, xây dựng mạng lưới bán lẻ đến người tiêu dùng. Các đối thủ của ta như Trung Quốc hay các nước trong khu vực lại tổ chức rất tốt hệ thống giao hàng và dịch vụ hỗ trợ sau bán hàng rất tốt càng làm giảm sức cạnh tranh của hàng Việt Nam. 1.5.3.2. Nguyên nhân chủ quan * Sản xuất nhỏ lẻ, manh mún: Hầu hết sản phẩm TCMN được sản xuất tại các làng nghề, tự phát ở các vùng nông thôn. Điều này dẫn đến sản xuất không tập trung, không quy hoạch trong kế hoạch bổ sung nguyên liệu sản xuất, đổi mới công nghệ. Việc sản xuất nhỏ lẻ khiến cho giá thành sản xuất TCMN của Việt Nam cao hơn các đối thủ cạnh tranh. Các doanh nghiệp sản xuất TCMN của Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, khó có khả năng đáp ứng được các đơn đặt hàng lớn. Đối với những đơn đặt hàng lớn thường các doanh nghiệp xuất khẩu phải gom hàng hoặc đặt hàng các cơ sở sản xuất khác nhau, trình độ khoa học và tay nghề không đồng đều nên chất lượng sản phẩm không đồng đều. Hơn nữa, sản xuất nhỏ lẻ, không tập trung với kĩ thuật sản xuất lạc ậu gây ảnh hưởng tới môi trường sống, không đảm bảo an toàn lao động, dẫn đến không đáp ứng tiêu chuẩn kĩ thuật của thị trường EU. * Công tác chuẩn bị nguồn nhân lực: Nguồn lao động trong sản xuất TCMN đang thiếu trầm trọng. Giá nhân công rẻ không thu hút được lao động nông nhàn như trước đây. Việc bổ sung lao động trong ngành chưa được chú trọng. Nước ta chưa có một trung tâm đào tạo nghề riêng về TCMN, những người thợ thủ công truyền nghề từ người này sang người khác, đời này sang đời khác. Đội ngũ nghệ nhân có xu hướng giảm, các chuyên viên thiết kế chuyên nghiệp còn thiếu, chính vì vậy các sản phẩm TCMN còn đơn điệu, không đồng đều, độ thẩm mỹ và tinh xảo chưa cao. * Khâu khai thác và xử lý nguồn nguyên liệu: Nhu cầu sản xuất và tiêu thụ ngày một tăng, tuy nhiên nguyên liệu phục vụ sản xuất TCMN ngày một cạn kiệt. Nguyên nhân chính là do khai thác bừa bãi, không quy hoạch, không có kế hoạch trồng, bảo vệ và bổ sung cho nguồn nguyên liệu sản xuất. Điều này khiến chúng ta không đáp ứng kịp thời những đơn đặt hàng lớn, hoặc dễ dàng bị vỡ hợp đồng do thiếu nguyên liệu. Thiếu nguyên liệu cũng là sức ép làm cho giá nguyên liệu tăng cao và tăng nhanh, dẫn đến giá thành sản xuất TCMN của nước ta cao hơn hẳn so với nước khác, làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm. Sản xuất nhỏ lẻ, không quan tâm đến khai thác chế biến nguồn nguyên liệu khiến nguyên liệu có chất lượng kém, ví dụ như nguyên liệu làm gốm sứ có nhiều tạp chất, hoặc mây tre đan không khử hết nấm mốc... làm cho sản phẩm TCMN nước ta kém chất lượng, không có chỗ đứng trên thị trường. * Marketing, quảng bá thương hiệu: Khâu đầu tư nghiên cứu thị trường chưa được coi trọng, chưa đầu tư cho khâu thiết kế mẫu mã, không kịp thời đổi mới, sáng tạo trong sản xuất sản phẩm. Các doanh nghiệp đầu tư quá ít cho khâu Marketing và xây dựng thương hiệu TCMN Việt Nam. Trong khi thói quen người dân EU luôn mua đồ có thương hiệu nổi tiếng. Đây cũng là một nguyên nhân tại sao hàng TCMN Việt Nam chiếm thị phần nhỏ bé trên thị trường EU. Theo nghiên cứu mới đây cho biết, người EU rất thích mặt hàng TCMN của Việt Nam, nếu có những giải pháp tích cực để cải thiện những tồn tại từ khâu sản xuất, tiêu thụ trên sẽ thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu mặt hàng TCMN của Việt Nam trên thị trương EU. TÓM TẮT CHƯƠNG 1: TCMN là một mặt hàng truyền thống sản xuất và phát triển gắn liền với các làng nghề. Các mặt hàng TCMN rất đa dạng, một số mặt hàng xuất khẩu trọng điểm như: gốm sứ, mây tre đan, gỗ mỹ nghệ, thêu ren... Hiện nay, sản xuất TCMN đang đứng trước khó khăn về nguồn nguyên liệu khan hiếm dẫn tới sức ép giá nguyên liệu leo thang qua các năm và thiếu hụt nguồn lao động thủ công. Trong những năm qua, TCMN đã trở thành một trong mười ngành xuất khẩu trọng điểm của nước ta với kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh trung bình 18,87%/năm. Thị trường lớn của TCMN Việt Nam là EU chiếm khoảng 43,9% tổng kim ngạch. Tuy nhiên, Việt Nam chỉ chiếm một phần nhỏ bé khoảng 5,4% thị trường EU. Bên cạnh những thành công về tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu sang EU, TCMN Việt Nam còn có những yếu kém về chất lượng, mẫu mã, giá cả sản phẩm; nghiệp vụ ngoại thương và hoạt động logistic. Nguyên nhân chính của những hạn chế này chính là khó khăn trong vốn đầu tư nhỏ, nguồn nguyên liệu thiếu, không đảm bảo chất lượng và nguồn lao động không đủ cung ứng cho thị trường. Đứng trước thực trạng của sản xuất và xuất khẩu TCMN của Việt Nam sang EU, chương 2 của chuyên đề xin được đi vào phân tích những thuận lợi và khó khăn của ngành, đưa ra dự báo tăng trưởng của ngành trong tương lai gần, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh giá trị xuất khẩu mặt hàng TCMN của Việt Nam sang thị trường EU. ******************* CHƯƠNG 2: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU MẶT HÀNG THỦ CÔNG MỸ NGHỆ VÀO THỊ TRƯỜNG EU TRONG THỜI GIAN TỚI 2.1. Một số khó khăn và thuận lợi của ngành hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam 2.1.1. Thuận lợi 2.1.1.1.Thủ công mỹ nghệ là một ngành truyền thống Ngành TCMN của Việt Nam có truyền thống từ ngàn đời nay, trải qua thời gian, ngành vẫn được duy trì và phát triển tại các làng nghề. Tuy có sự giao lưu văn hóa giữa các làng nghề hay các dân tộc khác, nhưng các làng nghề Việt Nam vẫn giữ được nét đẹp, bí quyết truyền thống riêng của mình. Người tiêu dùng EU rất thích nét riêng của hàng TCMN của Việt Nam, đây có thể coi là thuận lợi của xuất khẩu TCMN Việt Nam sang thị trường EU. Sản xuất TCMN tồn tại trong các làng nghề, chính những cuộc sống nơi làng quê, văn hóa, phong tục tập quán hình thành nên giá trị của các sản phẩm TCMN ngày nay. 2.1.1.3. Quan hệ thương mại với các nước trên thế giới được mở rộng Việt Nam và EU đã kí hiệp định khung vào năm 1995 và đang hướng đến Hiệp định về Hợp tác và Đối tác mới. Sau khi kí hiệp định này, hàng TCMN cũng như các mặt hàng khác xuất khẩu sang EU đều được ưu đãi. Hiện nay, các mặt hàng TCMN của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường EU được hưởng ưu đãi GSP với mức thuế thấp, có mặt hàng chỉ 0 – 5%. Đây là một thuận lợi đối với mặt hàng TCMN Việt Nam so với đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc vẫn áp dụng hạn ngạch và không được hưởng GSP. Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã mở ra cơ hội lớn cho ngành TCMN xuất khẩu. Các sản phẩm của Việt Nam sẽ cạnh tranh trong môi trường công bằng hơn. Việt Nam sẽ phải xây dựng các tiêu chuẩn đáp ứng được các nhu cầu của WTO từ đó đáp ứng được tiêu chuẩn của thị trường EU khó tính. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng là cơ hội cho ngành TCMN Việt Nam tiếp cận nguồn vốn, công nghệ mới từ đó nâng cao năng suất lao động mở rộng sản xuất. 2.1.1.4. Quan tâm, đầu tư của Nhà nước Năm 2007, Hiệp hội xuất khẩu TCMN của Việt Nam đã được thành lập và hỗ trợ lớn cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Hiệp hội nghiên cứu, cung cấp thông tin thị trường cho các doanh nghiệp, tổ chức tập hợp, dự trữ nguồn nguyên liệu, đặc biệt là nguyên liệu quý. Tổ chức các lớp đào tạo, dạy nghề cho thợ thủ công. Hiệp hội đã tổ chức xúc tiến thương mại, hội thảo, hội chợ về hàng TCMN Việt Nam... góp phần đưa tên tuổi TCMN Việt Nam đến với nước bạn. Hiệp hội đã góp phần liên kết các doanh nghiệp TCMN Việt Nam, từ đó đưa ra những kiến nghị, định hướng cho chính các doanh nghiệp góp phần nâng cao thương hiệu TCMN nước ta. Ngoài ra, chính phủ còn đưa ra các chính sách, quy hoạch hỗ trợ xây dựng và phát triển làng nghề truyền thống như đầu tư cơ sở hạ tầng, ưu tiên đầu tư vốn cho các làng nghề sản xuất và xuất khẩu, nhằm phát triển hơn nữa làng nghề TCMN từ đó góp phần xóa đói, giảm nghèo, CNH- HĐH nông thôn Việt Nam. 2.1.2. Khó khăn 2.1.2.1.Vốn đầu tư của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu nhỏ Các doanh nghiệp sản xuất TCMN của Việt Nam chủ yếu là hộ gia đình, hợp tác xã từ các làng nghề truyền thống, rất khó khăn trong việc tập hợp các doanh nghiệp lại để sản xuất có hệ thống từ khâu nguyên liệu đến sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Vốn đầu tư nhỏ dẫn tới quy mô sản xuất không đáp ứng được các hợp đồng lớn. Vốn đầu tư của các chủ doanh nghiệp nhỏ lẻ, manh mún, không đủ tiềm lực để dự trữ nguyên vật liệu, trả lương cao cho công nhân, không đủ khả năng kháng cự khi hợp đồng kinh doanh đổ bể. Tình hình tài chính khó khăn của doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu cũng dẫn đến tình trạng dịch vụ hỗ trợ khi xuất khẩu và sau bán hàng không được tốt, làm giảm sức cạnh tranh của hàng TCMN Việt Nam. Vốn đầu tư nhỏ, sản xuất không tập trung khiến cho các doanh nghiệp không thể đổi mới được công nghệ sản xuất, xử lý nước thải gây ô nhiễm môi trường sống. Điều này gây khó khăn cho mặt hàng TCMN nước ta trước quy định của hệ thống bảo vệ môi trường mà EU thực hiện rất nghiêm ngặt. 2.1.2.2. Nguồn nguyên liệu cạn kiệt dần Nguyên liệu sản xuất hàng TCMN đang khan hiếm dần do tình trạng khai thác bừa bãi và không có quy hoạch. Do cung không đáp ứng đủ cầu, giá nguyên liệu leo thang theo từng năm, dẫn tới giá thành sản xuất cao. Giá của sản phẩm TCMN nước ta cao hơn so với các sản phẩm TCMN cùng loại của các nước khác. Điều này làm giảm sức canh tranh, gây khó khăn trong xuất khẩu sang thị trường EU. Hiện nay, chúng ta đã phải nhập khẩu nguyên liệu từ các nước bạn như Trung Quốc, Lào, Indonesia... Sản xuất nhỏ lẻ, vốn không đủ gây khó khăn cho sản xuất và thực hiện những hợp đồng với bạn hàng. Mặc dù đã có chủ trương và định hướng về quy hoạch tổng thể về trồng, bảo vệ và khai thác nguồn nguyên liệu cung cấp cho ngành TCMN nhưng chưa có một kế hoạch và chương trình cụ thể nào. Khó khăn về chất lượng nguồn nguyên liệu còn tạp chất, không được xử lý đảm bảo an toàn vệ sinh cũng gây khó khăn cho TCMN Việt Nam. Mà nguyên nhân sâu xa lại chính là sản xuất nhỏ lẻ và không có kế hoạch lâu dài trong kinh doanh. 2.1.2.3. Nguồn lao động: Lực lượng lao động cho sản xuất ngành TCMN không ổn định. Không có lực lượng nhân công riêng mà lao động là những người nông nhàn. Mặc dù đặc điểm của ngành cần lao động miệt mài, tỉ mỉ nhưng thù lao lại thấp hơn nên những lao động nông nhàn tìm việc khác có mức thù lao cao hơn. Điều này làm cho ngành TCMN thiếu hụt lao động lại càng thiếu hụt thêm. Thương hiệu của TCMN Việt Nam chưa thực sự có chỗ đứng trên thị trường EU do mẫu mã sản phẩm không được phong phú và phù hợp với thị hiếu của thị trường. Khó khăn của các doanh nghiệp là chưa có đội ngũ thiết kế chuyên nghiệp. Các mẫu mã chủ yếu là ăn theo nước ngoài. Hiện một số làng nghề Việt Nam đang có xu hướng công nghiệp ngành TCMN. Như thế, mặt hàng TCMN không có giá trị và càng không có chỗ đứng tại thị trường EU. Các nghệ nhân làng nghề đang ngày càng già đi, tuy nhiên lớp măng thay thế tại các làng nghề ngày một ít. Trong thời điểm chạy theo xu hướng thị trường hiện nay, có thể sản xuất TCMN vẫn còn, nhưng sẽ không phát triển và lưu giữ được nét truyền thống nếu không có nhưng nghệ nhân. Nhận diện những khó khăn và thuận lợi của sản xuất và xuất khẩu TCMN sang thị trường EU là một điều có ý nghĩa quan trọng, để từ đó đề ra những nhiệm vụ cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp, cơ quan các cấp các ngành có liên quan góp phần đẩy mạnh xuất khẩu TCMN sang thị trường EU. 2.2. Dự báo tăng trưởng của mặt hàng TCMN Những năm gần đây, xuất khẩu TCMN liên tục tăng mạnh, trung bình 20%/năm. Ngành TCMN trong những năm qua đã tạo ra công ăn việc làm cho hơn 1,35 triệu lao động tại các làng quê. Kim ngạch của TCMN không cao như ngành dệt may hay giày dép nhưng có thực thu rất cao chiếm 95 - 97% trong khi các ngành khác chỉ chiếm từ 10- 20%. Trong những năm tới, theo dự báo của hiệp hội TCMN, sản xuất và xuất khẩu ngành TCMN sẽ phát triển và tăng mạnh. 2.2.1. Nhu cầu thị trường 2.2.1.1. Nhu cầu thị trường thế giới: Nhu cầu của thế giới đối với mặt hàng TCMN sẽ tiếp tục tăng cao. Ba thị trường xuất khẩu TCMN chủ yếu của Việt Nam là Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản. Đối với Hoa Kỳ, hàng năm nhập khẩu khoảng 13 tỷ USD hàng TCMN. Trong khi Việt Nam chỉ chiếm 1,5% giá trị nhập khẩu của Hoa Kỳ. Thị trường EU hàng năm nhập khẩu trung bình khoảng 7 tỷ USD/năm, nhưng thị phần của Việt Nam chỉ chiếm khoảng 5%. Còn thị trường Nhật Bản có nhu cầu hàng năm khoảng 2,9 tỷ USD, và thị phần Việt Nam khoàng 1,9 % thị trường này. Ngoài ra, nhu cầu của các thị trường khác trên thế giới cũng rất cao và có xu hướng tăng mạnh. Hàng năm, Canada nhập khẩu từ 750 triệu đô la đến 1 tỷ đô la hàng năm với đa dạng các mặt hàng TCMN nhập khẩu. Đặc biệt Canada rất quan tâm đến tính chất truyền thống của các nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Còn đối với thị trường Nga, 43% tổng nhu cầu gỗ mỹ nghệ của Nga phải nhập khẩu do tốc độ đô thị hóa quá cao. Mặc dù chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu TCMN của Việt Nam giảm nhưng không đáng kể. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan trong tháng 4/2009, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm TCMN đạt được gần 14,07 triệu USD, giảm 13,08% so với tháng 3/2008, và giảm 12,10% so với tháng trước. Tính chung 4 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt trên 58,30 triệu USD, tuy có giảm 19,3% so với cùng kỳ năm trước, nhưng lại tăng 23,3% so với kế hoạch năm đề ra. Theo dự báo của các chuyên gia, kim ngạch xuất khẩu TCMN của Việt Nam phải đạt được 1,5 tỷ USD vào năm 2010. Để đạt được con số này trong hoàn cảnh khó khăn như hiện nay đòi hỏi phải có sự nỗ lực của toàn ngành, sự kết hợp hài hòa giữa các cơ quan chức năng với ngành và các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu TCMN. Bảng 3.1: Những thị trường đạt giá trị kim ngạch lớn (tháng 4/2009): Quốc gia Giá trị xuất khẩu (USD) Tỉ lệ % so với thị trường EU (%) Đức 2.654.351 42.04 Italia 707.760 11.21 Hà Lan 532.641 8.40 Anh 489.056 7.70 Tây Ban Nha 472.925 7.40 Pháp 426.643 6.70 Ba Lan 404.544 6.40 EU 6.300.000 100.00 Nguồn: Bộ Công thương 2.2.1.2. Nhu cầu thị trường EU: Những năm gần đây, nhu cầu tiêu dùng mặt hàng TCMN của người dân EU tăng đáng kể. Đặc biệt, người dân EU rất thích tiêu dùng sản phẩm TCMN của Việt Nam. Những năm gần đây EU trung bình nhập khoảng 7 tỷ USD. Đây là một thị trường quan trọng và tiềm năng với Việt Nam. Ước tính đến năm 2010 Việt Nam xuất khẩu sang EU đạt 600 triệu USD/năm. Trong những thị trường Việt Nam đạt giá trị kim ngạch cao thì phần lớn là các nước EU. Tháng 4/2009 Đức là thị trường đạt kim ngạch xuất khẩu cao nhất hơn cả Hoa Kỳ và Nhật Bản. Nguồn: Tổng cục Hải Quan Hình 2.1: Cơ cấu xuất khẩu sang thị trường EU tháng 4/2009 2.2.2. Cung về mặt hàng TCMN Ngoài Việt Nam sản xuất và xuất khẩu TCMN thì trên thế giới còn có Trung Quốc và các nước trong khu vực ASEAN. Việt Nam hiện nay đang chiếm một thị phần tương đối nhỏ bé về xuất khẩu TCMN trên thị trường thế giới. Nguồn cung về TCMN của thế giới tương đối lớn phải nói đến Trung Quốc với dân số đông và truyền thống lâu đời. Đây là một lợi thế của TCMN Trung Quốc. Hàng năm nước này xuất khẩu một lượng lớn TCMN sang Hoa Kỳ - một nước nhập khẩu hàng TCMN đứng đầu thế giới. Ngoài ra những thị trường nhập khẩu lớn TCMN như EU hay Nhật Bản cũng tràn ngập hàng mang thương hiệu của Trung Quốc. Về mặt hàng gốm sứ của Trung Quốc và Ấn Độ là những nước cạnh tranh với Việt Nam. Các sản phẩm của Trung Quốc rất độc đáo, đạt trình độ kỹ xảo cao và giá thành hợp lý. Hiện nay, Trung Quốc với điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn nhân lực dồi dào, ngành TCMN Trung Quốc đang mở rộng quy mô sản xuất, xuất khẩu đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng của thế giới. Việt Nam hiện nay có trên 1400 làng nghề TCMN, với lượng lao động lên đến 70.000 lao động và hơn 300 chủng loại mặt hàng khác nhau với bốn nhóm chính là: mây, tre, cói, lá, thảm; gốm sứ; thêu, ren, dệt; sản phẩm đá và kim loại quý. Hiện nay, xuất khẩu TCMN được coi là một trong 10 ngành mũi nhọn của nước ta. Ngành TCMN Việt Nam đang có kế hoạch mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như nhu cầu người tiêu dùng trên thế giới, đặc biệt đối với người tiêu dùng EU luôn có xu hướng tiêu dùng thay đổi, ưa thích các sản phẩm có mẫu mã độc đáo. Ngoài ra, Việt Nam đang có kế hoạch quy hoạch các làng nghề truyền thống để sản xuất có hiệu quả. Với nguyên liệu sẵn có trong nước, kết hợp với sự nâng cao chất lượng lao động, đổi mới mẫu mã sản phẩm, trong những năm tới sản lượng của ngành TCMN sẽ gia tăng. 2.3. Định hướng cho ngành thủ công mỹ nghệ Việt Nam Những năm gần đây, TCMN trở thành một trong mười mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Để có sự phát triển bền vững, ngành TCMN Việt Nam cần có một định hướng mang tính chiến lược. Chính phủ Việt Nam đã có những định hướng rõ rệt cho ngành hàng này: Tiếp tục phát triển ngành TCMN là ngành quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phấn đấu đẩy mạnh xuất khẩu, giữ vững vai trò chủ lực của xuất khẩu TCMN trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đi đôi với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo vệ môi trường để đảm bảo phát triển bền vững, hiệu quả. Chú trọng đầu tư xây dựng và hoàn thiện hạ tầng cơ sở ở các làng nghề, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực nhằm cơ bản công nghiệp hóa ngành theo hướng hiện đại vào năm 2020. Xây dựng TCMN thành ngành sản xuất hàng hóa tập trung, thống nhất với quản lý và phát triển theo vùng, phù hợp với cơ cấu kinh tế được quy hoạch cho các vùng, miền. Lựa chọn, áp dụng các công nghệ sản xuất tiên tiến, tăng sức cạnh tranh cao của TCMN Việt Nam đồng thời đáp ứng các yêu cầu về phát triển bền vững, các đòi hỏi yêu cầu hội nhập, phù hợp với khả năng đầu tư và đặc thù của nghề TCMN. Thông qua triển khai các chính sách đổi mới, hỗ trợ phát triển nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là các chính sách về thị trường, về các thành phần kinh tế và về đất đai để phát huy cao nhất tiềm năng và các nguồn lực cho phát triển ngành. Ban hành các chính sách, quyết định nhằm hỗ trợ và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tài trợ, các dự án quốc tế. Xây dựng cơ cấu thị trường và cơ cấu sản phẩm ổn định, vừa có tính cạnh tranh cao, vừa chủ động đối phó với các rào cản thương mại trong quá trình hội nhập. 2.4. Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam vào thị trường EU 2.4.1. Giải pháp về tổ chức chỉ đạo, quản lý Nhà nước, đầu tư, tài chính và tín dụng. Từ thực tế khách quan của quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ của ngành sản xuất TCMN (như đã phân tích ở trang 16 chuyên đề này) dẫn đến một loạt những khó khăn mà ngành TCMN gặp phải trong huy động vốn, đổi mới công nghệ, mẫu mã, xây dựng thương hiệu và đẩy mạnh xuất khẩu TCMN (trang 45) của các doanh nghiệp và làng nghề sản xuất TCMN chúng ta cần có những giải pháp cụ thể trong quy hoạch sản xuất và xuất khẩu TCMN. Thêm vào đó, chúng ta có thể học được bài học từ phía các quốc gia láng giềng có nền sản xuất TCMN tương đối lớn như Trung Quốc, và các nước ASEAN trong quá trình quy hoạch, quản lý và thu hút vốn đầu tư đối với các làng nghề TCMN (trang 34 – 36). Đặc biệt Trung Quốc đã có các chính sách hỗ trợ tài chính hiệu quả đối với các doanh nghiệp sản xuất vừa và nhỏ. Những luật định rõ ràng và chặt chẽ quản lý các doanh nghiệp này từ trên xuống cũng tỏ ra có hiệu quả khi Trung Quốc hiện nay đang chiếm thị phần tương đối lớn tại các thị trường chủ yếu như Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản. Từ bài học của các quốc gia khác và căn cứ vào tình hình thực tế, đặc điểm của làng nghề TCMN cũng như kế hoạch công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và định hướng của chính phủ đến năm 2020 chúng ta cần phải: - Tăng cường sự kết hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước và hiệp hội ngành hàng. Chiến lược phát triển ngành phải dựa trên chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ đó đưa ra kết hoạch sản xuất và xuất khẩu TCMN trung và dài hạn. - Tổ chức quy hoạch tập trung các làng nghề, doanh nghiệp sản xuất TCMN. Với việc sản xuất manh mún, phẩn bố rải rác như hiện nay rất khó để tập trung nguồn lực, công nghệ để sản xuất dây chuyền, giảm thiểu chi phí, nâng cao năng suất và giảm giá thành. - Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc thu thập, tích trữ nguyên vật liệu cần thiết để sản xuất. Tạo điều kiện nhập khẩu đối với nguyên liệu quý cần chú ý nhập khẩu. Tổ chức triển khai tìm nguyên liệu mới thay thế những nguyên liệu truyền thống đang dần cạn kiệt. - Nâng cao vai trò của các thương vụ của Việt Nam tại EU. Thông qua thương vụ, các doanh nghiệp có thể nắm bắt được các thông tin thay đổi về hệ thống luật pháp, quy chế nhập khẩu, thuế quan. Ngoài ra doanh nghiệp còn có thể nắm bắt được thông tin thị trường hay các kênh phân phối qua các thương vụ. - Xây dựng hệ thống, hành lang pháp lý theo tiêu chuẩn quốc tế, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam thích nghi được với thị trường EU cũng như các thị trường khác trên thế giới. - Tạo cơ chế tài chính thông thoáng để khơi thông các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, từ các tổ chức quốc tế thông qua các chương trình tài trợ, từ các ngành và doanh nghiệp trong tái đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của từng vùng. - Về tín dụng, ưu tiên cho vay tín dụng đối với các dự án sản xuất và xuất khẩu TCMN. Có chính sách hợp lý để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân thông qua cơ chế lãi suất linh hoạt, hấp dẫn. Tuy nhiên không vì vậy mà cho vay ưu đãi quá rộng làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, thay vào đó có thể chuyển sang hỗ trợ về nguồn lực như đất đai, cơ sở hạ tầng, công nghệ. 2.4.2. Nhóm giải pháp về thị trường Qua phân tích thực trạng giá trị xuất khẩu của TCMN Việt Nam những năm qua nói chung và xuất khẩu TCMN sang thị trường EU nói riêng (chương 2 – chuyên đề), ta thấy thị phần của TCMN Việt Nam trên thị trường thế giới chiếm phần nhỏ bé. Như đã phân tích ta thấy một thực tế thương hiệu TCMN Việt Nam chưa có chỗ đứng trên thị trường EU cũng như thị trường thế giới. Đặc biệt, đặc điểm của ngành TCMN, thị trường chủ yếu là xuất khẩu. Để phát triển ngành TCMN, việc đưa ra các giải pháp thị trường xuất khẩu đối với chính phủ, hiệp hội ngành hàng cũng như các doanh nghiệp là cần thiết. Đối với mỗi ngành sản xuất nào cũng vậy, thị trường đóng một vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại của mỗi ngành hàng. Ngành hàng TCMN không nằm ngoài quy luật đó. Để có mặt, tồn tại và phát triển trên thị trường mặt hàng TCMN chịu tác động của nhiều yếu tố như nhu cầu về sản phẩm, thị hiếu của thị trường nhắm tới, mẫu mã, chất lượng và giá cả của sản phẩm TCMN. Điều này đòi hỏi phải có những cuộc điều tra về thị trường, xây dựng thương hiệu sản phẩm và những giải pháp về xúc tiến thương mại... Kinh nghiệm của các nước bạn cho thấy họ đã có những giải pháp thị trường một cách cần thiết. Các nước ASEAN đã có những biện pháp những biện pháp như phân tích thị trường, tổ chức các buổi hội chợ triển lãm, đơn giản các thủ tục xuất khẩu... Với nước Trung Quốc, họ đã xây dựng được thương hiệu khá tốt, tạo chỗ đứng trên thị trường với những sản phẩm chất lượng cao, độc đáo cho đến những sản phẩm giá rẻ cạnh tranh được sản xuất hàng loạt chiếm một thị phần rộng lớn. Từ những phân tích trên ta có thể đưa ra một số những giải pháp thị trường đối với ngành TCMN như sau: - Đối với chính phủ: + Chính phủ cần có những chính sách và giải pháp đẩy mạnh xúc tiến thương mại kể cả trực tiếp và gián tiếp. Biện pháp trực tiếp bao gồm việc đàm phán, kí kết các hiệp định, nghị định thương mại của Chính phủ với liên minh châu ÂU (EU) để từ đó tạo ra nhu cầu cho sản phẩm của nước họ, thực hiện các chiến dịch quảng cáo, tham gia hội chợ, triển lãm, giới thiệu sản phẩm, đặt văn phòng đại diện ở các nước EU. Những biện pháp gián tiếp thường nhấn mạnh đến mục tiêu khuyến khích cung cấp hàng hóa cho trao đổi thương mại như hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu triển khai; những hỗ trợ để nâng cao công suất sản xuất, cải tiến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm; những hỗ trợ về công nghệ và phát huy sáng kiến; những khuyến khích về lĩnh vực tài chính…Chính phủ phải tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi mang tính chất quốc tế hoặc quốc gia + Chính phủ cũng cần phải có những chính sách và giải pháp để hoạt động xúc tiến thương mại chuyển sang chủ động tích cực hơn, không chỉ dừng ở việc duy trì, tìm kiếm, mở rộng thị trường, khách hàng mà còn phải quan tâm đến việc nghiên cứu thị trường, phát hiện, xác định lợi thế cạnh tranh của ngành TCMN để sản xuất ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cao hơn. Từng bước chuyên môn hóa hoạt động xúc tiến thương mại. + Hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu TCMN tìm hiểu và nắm rõ được vấn đề pháp lý trên thị trường EU, đồng thời liên tục cập nhật cung cấp thông tin trên thị trường EU cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Hỗ trợ tư vấn, giới thiệu, tìm đối tác xuất khẩu trực tiếp và lâu dài. - Đối với hiệp hội làng nghề: + Cùng khuyến khích xây dựng thương hiệu của TCMN Việt Nam trên thị trường EU. Giúp các doanh nghiệp cập nhật về giá cả, đối tác, cập nhật thông tin về thị trường EU. + Cung cấp thông tin và thị hiếu của người tiêu dùng EU cho doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu TCMN. + Xúc tiến thương mại bằng cách tổ chức các buổi hội thảo, hội chợ triển làm để giói thiệu sản phẩm. - Đối với doanh nghiệp: + Các doanh nghiệp trực tiếp thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại như nghiên cứu thị trường, phát hiện nhu cầu, xây dựng chiến lược sản phẩm, xâm nhập thị trường, củng cố và mở rộng thị phần trên thị trường EU… + Tự doanh nghiệp phải có những biện pháp xây dựng thương hiệu và mở rộng thị trường cho mình. Điều này đặc biệt quan trọng để doanh nghiệp có chỗ đứng trên thị trường EU. + Lựa chọn hình thức xuất khẩu phù hợp nhất với quy mô, năng lực quản lý và tài chính của doanh nghiệp mình + Chú ý đến xây dựng hệ thống giao hàng đến tận tay người tiêu dùng. Đảm bảo giao hàng đúng thời gian, củng cố dịch vụ hỗ trợ sau bán hàng. 2.4.3. Giải pháp về khoa học kĩ thuật công nghệ Thực trạng sản xuất của TCMN Việt Nam ( phần 1.1.2 – chuyên đề) cho thấy khoa học kĩ thuật góp phần hỗ trợ một số khâu trong sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, hạn chế gây hại đến môi trường. Tuy nhiên, khoa học kĩ thuật đã không được đầu tư và áp dụng một cách hợp lý và hiệu quả trong ngành TCMN. Bên cạnh việc đẩy mạnh áp dụng khoa học kĩ thuât vào sản xuất TCMN chúng ta cần phải đầu tư một cách hợp lý, dựa trên tính thủ công của ngành và đặc điểm của làng quê Việt Nam thì mới mong có hiệu quả. Sau đây là một số giải pháp về mặt khoa học kĩ thuật và công nghệ đối với sản xuất TCMN. - Đối với chính phủ: + Trước tiên là khuyến khích những công trình nghiên cứu khoa học có tính hiệu quả cao trong sản xuất các mặt hàng TCMN. Cho phép được định giá những thành tựu công nghệ và bản quyền tác giả. + Sau đó cần hỗ trợ việc xây dựng cơ chế chính sách thúc đẩy các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp và người sản xuất chủ động hợp tác có hiệu quả, gắn nghiên cứu với ứng dụng, gắn nhà khoa học với nhà nông. Tăng cường hiệu quả ứng dụng KHCN vào sản xuất TCMN. + Khuyến khích chủ động mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khoa học công nghệ để tranh thủ những tiến bộ kỹ thuật mới và hiện đại của các nước khác trên thế giới trong sản xuất TCMN. + Cần có chính sách và giải pháp thúc đẩy các chương trình khai thác và xử lý nguyên liệu đầu vào TCMN sạch và đảm bảo an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế. - Đối với hiệp hội ngành hàng: + Liên kết các doanh nghiệp sản xuất để áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất những đơn đặt hàng lớn từ phía EU. + Tổ chức tập trung thu mua nguyên liệu, đặc biệt là nguyên liệu quý để phục vụ sản xuất. Hỗ trợ các doanh nghiệp khai thác tốt các nguồn tài nguyên, tránh khai thác quá mức ảnh hưởng tới môi trường sinh thái. Đồng thời cải tiến khâu xử lý nguyên liệu sạch và đảm bảo sức khỏe con người. - Đối với doanh nghiệp: + Tăng mức đầu tư cho nghiên cứu và triển khai kĩ thuật so với hiện nay; chú trọng nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất kinh doanh. + Tổ chức thu mua và dự trữ nguyên liệu để đáp ứng nhu cầu sản xuất và xuất khẩu. + Ngoài ra doanh nghiệp sản xuất cũng nên chú trọng đến các kỹ thuật sản xuất, giữ gìn và phát huy những kinh nghiệm quý báu của cha ông truyền lại để tạo nên nét độc đáo, nét riêng trong sản phẩm TCMN. 2.4.4. Nhóm giải pháp về nguồn lực: Như đã phân tích ở phần lao động trong ngành TCMN, lao động của ngành chủ yếu là lao động phổ thông nhưng thạo việc. Tuy nhiên còn hạn chế là tính chất mùa vụ của lao dộng vì chủ yếu họ là lao động nông nhàn và chưa có một trường lớp đào tạo nào bổ sung nhân lực cho ngành. Trong các yếu tố sản xuất, yếu tố con người là quan trọng và quyết định đối với ngành sản xuất. Đặc biệt hơn, ngành sản xuất TCMN, yếu tố lao động thủ công, tính khéo léo và sáng tạo của mỗi lao động quyết định trực tiếp đến giá trị của mỗi sản

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc110873.doc
Tài liệu liên quan