Tài liệu Đề tài Đẩy mạnh sự tham gia của cộng đồng địa phương theo hướng phát triển bền vững vủa tuyến du lịch sông Hồng: phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của khoá luận
Du lịch được biết đến là một trong những ngành kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới, góp phần tạo ra việc làm, tăng nguồn thu, cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cấp các di sản văn hoá, khuyến khích phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá và tăng cường hiểu biết lẫn nhau giưã các khu vực, thông qua đó góp phần bảo vệ và gìn giữ hoà bình trên thế giới. Vai trò, vị trí và hiệu quả nhiều mặt của du lịch rất dễ thuyết phục và được nhiều biết đến, được chính phủ nhiều nước chấp nhận.
ở Việt Nam du lịch đang cố gắng phát triển nhanh và bền vững làm cho “Du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”. Việt Nam đang phấn đấu đẻ đẩy mạnh xúc tiến du lịch, đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật để từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu đến năm 2020 đưa Du Lịch Việt Nam vào nhóm nước có ngành du lịch phát triển hàng đầu khu vực.
Cùng với sự phát triển chung của du lịch cả nước, du lịc...
82 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đẩy mạnh sự tham gia của cộng đồng địa phương theo hướng phát triển bền vững vủa tuyến du lịch sông Hồng, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của khoá luận
Du lịch được biết đến là một trong những ngành kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới, góp phần tạo ra việc làm, tăng nguồn thu, cải thiện cơ sở hạ tầng, nâng cấp các di sản văn hoá, khuyến khích phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá và tăng cường hiểu biết lẫn nhau giưã các khu vực, thông qua đó góp phần bảo vệ và gìn giữ hoà bình trên thế giới. Vai trò, vị trí và hiệu quả nhiều mặt của du lịch rất dễ thuyết phục và được nhiều biết đến, được chính phủ nhiều nước chấp nhận.
ở Việt Nam du lịch đang cố gắng phát triển nhanh và bền vững làm cho “Du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”. Việt Nam đang phấn đấu đẻ đẩy mạnh xúc tiến du lịch, đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất kỹ thuật để từng bước đưa nước ta trở thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ của khu vực, phấn đấu đến năm 2020 đưa Du Lịch Việt Nam vào nhóm nước có ngành du lịch phát triển hàng đầu khu vực.
Cùng với sự phát triển chung của du lịch cả nước, du lịch Hà Nội cũng đang có những bước phát triển nhanh chóng nhờ những ưu thế cạnh tranh là trung tâm kinh tế, chính trị, du lịch...của Việt Nam. Rất nhiều những hoạt động du lịch hấp dẫn trong những tour đa dạng được khai thác nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của du khách trong và ngoài nước. Hà Nội đang chuẩn bị lễ kỷ niệm 1000 năm “ Thăng Long -Đông Đô - Hà Nội” và những tiềm năng du lịch sẵn có khác như nhân văn, tự nhiên...đã tạo ra rất nhiều những tour du lịch độc đáo, trong đó phải kể đến chương trình du lịch sông Hồng hiện được khai thác bởi xí nghiệp đầu tư và phát triển du lịch sông Hồng( thuộc Công ty Du lịch và Thương mại tổng hợp Thăng Long) dưới sự giúp đỡ về chuyên môn của một số cơ quan chuyên ngành như Sở Du lịch Hà Nội , Tổng cục du lịch...Tuy mới hoạt động khoảng gần 10 năm nhưng tuyến du lịch sông Hồng cũng góp phần không nhỏ trong việc phát triển du lịch Hà Nội nói riêng và du lịch Việt Nam nói chung.
Tuy nhiên, tiềm năng của tuyến du lịch sông Hồng còn rất phong phú và đa dạng nhưng vẫn chưa được khai thác hiệu quả trong đó quan trọng nhất là yếu tố cộng đồng địa phương. Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào du lịch sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho họ và môi trường mà còn nâng cao chất lượng du lịch. Xuất phát từ hiện trạng thực tế đó, tác giả đã chọn đề tài cho khoá luận nghiên cứu của mình là “Đẩy mạnh sự tham gia của cộng đồng địa phương theo hướng phát triển bền vững vủa tuyến du lịch sông Hồng”
2. Mục đích, giới hạn và nhiệm vụ đề tài:
Mục tiêu của đề tài là đánh giá tiềm năng và thực trạng việc phát triển bền vững tuyến du lịch sông Hồng từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hơn nữa vai trò của yếu tố cộng động địa phương trong hoạt động du lịch.
Mặc dù tuyến du lịch sông Hồng có 8 chương trình du lịch nhưng tác giả chỉ xin chọn chương trình du lịch 1( Hà Nội - Đền Chử Đồng Tử ) – chương trình du lịch phát triển nhất của tuyến làm đối tượng chính của đề tài nghiên cưú. Hy vọng rằng những giải pháp đưa ra trong chương trình 1 sẽ là cơ sở để xem xét áp dụng cho các chương trình du lịch khác của tuyến du lịch sông Hồng nhằm đạt hiệu quả cao nhất cho du lịch sông Hồng nói riêng, du lịch Hà Nội và các vùng phụ cận nói chung.
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
3.1. Đối tượng:
Căn cứ vào điều kiện thực tế, tiềm năng du lịch của tuyến sông Hồng như vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, khả năng phục vụ, tiềm năng du lịch bền vững
3.2. Phương pháp nghiên cứu:
* Tham gia vào những tour thực tế
* Quan sát
* Thu nhập và phân tích thông tin
* Thống kê và tìm kiếm dữ liệu, số liệu
* Phỏng vấn, thăm dò, điều tra xã hội học
4. Một số giải pháp và kiến nghị của khoá luận
4.1. Một số giải pháp
* Tăng cường sự tham gia của người dân địa phương trong hoạt động du lịch như:
+ Quản lý
+ Lưu trú
+ Dịch vụ bán hàng , phục vụ khách hàng
+ Hướng dẫn viên tại điểm
* Cơ sở hạ tầng và sơ sở vật chất kỹ thuật
+Phương tiện vận chuyển
+Bến bãi
+Thắng cảnh
+Vui chơi giải trí
* Đào tạo nhân lực
* Các chính sách, cơ chế
4.2. Một số kiến nghị
* Với xí nghiệp đầu tư và phát triển du lịch sông Hồng
* Với chính quyền địa phương
* Với Tổng cục du lịch
5. Kết cấu khoá luận
5.1. Phần mở đầu
5.2. Phần nội dung
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về du lịch và du lịch bền vững
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng tuyến du lịch sông Hồng
Chương 3: Kiến nghị xây dựng chương trình tour mới và một số giải pháp
Chương 1
Một số vấn đề lý luận
về du lịch và du lịch bền vững
1.1. Khái niệm về du lịch:
1.1.1. Sự hình thành và phát triển của du lịch:
Du lịch bắt nguồn từ mong muốn được sống sót, khát vọng được chinh phục những vùng đất mới và ước muốn được mở rộng hoạt động kinh doanh buôn bán [8,1].
Cùng với sự ra đời của hệ thống đường sá đầu tiên trên thế giới ( ở Trung Quốc năm 1000 TCN, ở La mã năm 753 TCN) và một số phương tiện vận chuyển thô sơ, việc di chuyển của con người đã trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn nhiều so với buổi bình minh của lịch sử loài người. Kể từ đây những hoạt động sơ khai của du lịch bất đầu xuất hiện qua những chuyến thám hiểm của Marco Polo, Christopher Columbus... và trào lưu đi du lịch trong giới trẻ thuộc tầng lớp thượng lưu bắt đầu hình thành. Tuy nhiên du lịch chỉ có thể trở thành một vấn đề thực tế hấp dẫn và phổ biến khi cuộc cách mạng công nghiệp khởi đầu năm 1764 đã cho ra đời hàng loạt phương tiện vận chuyển nhanh hơn, an toàn hơn trước. Sau đó là những cơ sở lưu trú tiện nghi mọc lên ở khắp nơi làm cho du lịch bắt đầu trở lên phổ biến với mọi tầng lớp trong xã hội. Vào những năm 1840, hệ thống đường sắt phát triển ở Anh và Tây Âu. Những năm 1880, tàu thuỷ đóng bằng thép chạy bằng hơi nước ra đời đánh dấu sự bắt đầu thời kỳ hoàng kim của những chuyến du lịch sang trọng.
Vào khoảng đầu thế kỷ 19 một sự kiện quan trọng đã đánh dấu tính chuyên nghiệp của hoạt động du lịch, đưa du lịch trở thành một ngành công nghiệp, một sự kiện kinh tế. Thomas Cook (1808-1892), người mở đại lý lữ hành đầu tiên ở Anh, khởi nghiệp bằng việc tổ chức những chuyến du lịch địa phương (local tour) và du lịch trong ngày (one-day excursion) tới những điểm du lịch hay những sự kiện hấp dẫn đối với người dân địa phương bằng đường sắt, trên các toa xe không mui, trong đó cung cấp một vài dịch vụ giải trí và đồ uống cho khách. Năm 1845, chuyến du lịch trọn gói (package tour) đầu tiên của ông tới Liverpool bao gồm sự kết hợp của các dịch vụ: phương tiện vận chuyển, nơi lưu trú và hoạt động tham quan trong ngày. Ngay sau sự kiện này hàng loạt các công ty du lịch khác ra đời nâng tính cạnh tranh của du lịch, đưa du lịch trở thành một nghành kinh tế có lợi nhuận cao trên phạm vi toàn cầu.
Thuật ngữ “du lịch” trở thành một quyền cơ bản của con người .
1.1.2. Định nghĩa về du lịch:
Kể từ khi ra đời đến nay đã có khá nhiều quan niệm khác nhau về du lịch. Thuật ngữ du lịch được bắt nguồn từ Pháp:”Tour” nghĩa là đi vòng quanh, cuộc dạo chơi, còn “tourtiste” là người đi dạo chơi.
Trong vòng hơn 6 thập kỷ vừa qua, kể từ khi thành lập Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch IUOTC ( International Union official Travel organiration) năm 1925 tại Hà lan, khái niệm du lịch luôn luôn được tranh luận. Đầu tiên, du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chỗ ở của mình trong từng khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. Ngày nay, người ta đã thống nhất rằng về cơ bản tất cả các hoạt động di chuyển của con người ở trong hayngoài nước trừ việc đi cư trú chính trị, tìm việc làm và xâm lược, đều mang ý nghĩa du lịch [10,11,12].
Như vậy du lịch là một khái niệm bao hàm nội dung kép. Một mặt, nó mang ý nghĩa thông thường của từ: việc đi lại của con người với mục đích nghỉ ngơi, giải trí. Mặt khác, du lịch được nhìn nhận dưới một góc độ khác như là hoạt động gắn chặt với những kết quả kinh tế, sản xuất, tiêu thụ do chính nó tạo ra.
Trong điều kiện kinh tế phát triển, du lịch là một hoạt động không thể thiếu được trong cuộc sống bình thường cua mỗi người dân. ở các chuyến du lịch trong hoặc ngoài nước, con người không chỉ dừng lại ở việc nghỉ ngơi, giải trí mà còn nhằm thoả mãn cả những nhu cầu to lớn về mặt tinh thần. Mỗi quốc gia dân tộc đếu có những đặc trưng riêng biệt về tự nhiên, lịch sử, văn hoá, truyền thống... thu hút khách du lịch. Thông qua việc phát triển du lịch quốc tế, sự hiểu biết và mối quan hệ giữa các dân tộc ngày càng được mở rộng. Năm 1979, Đại hội của tổ chức du lịch thế giới (WTO) đã thông qua hiến chương du lịch và chọn ngày 27/9 làm ngày du lịch thế giới với các chủ đề cho từng năm gắn du lịch với việc tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, vì nền hoà bình và tình hữu nghị trên toàn thế giới. Du lịch không còn là hiện tượng lẻ loi, đặc quyền của cá nhân hay nhóm người nào đó. Ngày nay nó mang tính phổ biến và tinh thần cho con người củng cố hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc.
Nội dung thứ hai của khái niệm du lịch là hệ quả của nội dung thứ nhất. Du lịch là một hiện tượng kinh tế xã hội thu hút hàng tỉ người trên thế giới. bản chất kinh tế của nó là ở chỗ là sản xuất và cung cấp hàng hoá phục vụ việc thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của khách.
Trong một số tài liệu công bố gần đây nhất, có người quan niệm du lịch bao hàm 3 mặt nội dung, song thực chất không khác gì 2 nội dung trên, bởi vì nội dung đầu được tách làm đôi. Theo I.I Pirogiơnic (1985), thuật ngữ du lịch chuyển tải 3 nội dung cơ bản:
Cách thức sử dụng thời gian rỗi bên ngoài nơi cư trú thường xuyên.
Dạng chuyển cư đặc biệt.
Ngành kinh tế, một trong những nghành thuộc lĩnh vực phi sản xuất nhằm phục vụ các nhu cầu văn hoá- xã hội của nhân dân.
Du lịch không chỉ bao gồm các dạng hoạt động của dân cư trong thời gian tới mà còn bao trùm lên không gian nơi diễn ra các hoạt động khác nhau, đồng thời cũng là nơi tập trung các xí nghiệp dịch vụ chuyên môn hoá.
Như vậy khái niệm du lịch có thể được xác định như sau:”Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan với sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn hoá (I.I Pirogiơnic, 1985)[10,11].
1.1.3. Chức năng của du lịch:
Du lịch có những chức năng nhất định, có thể xếp các chức năng ấy thành 4 nhóm; xá hội, kinh tế, sinh thái và chính trị.
1.1.3.1. Chức năng xã hội:
Chức năng xã hội thể hiện ở vai trò của nó trong việc giữ gìn phục hồi sức khoẻ và chức tăng cường sức sống cho nhân dân. Trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế các bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con ngưòi.Thông qua hoạt động du lịch, đông đảo quần chúng có điều kiện tiếp xúc với những thành tựu văn hoá phong phú đa dạng và lâu đời của các dân tộc, từ đó tăng thêm lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết quốc tế hình thành những phẩm chất đạo đức tốt đẹp như lòng yêu lao động, tình bạn. Điều đó quyết định sự phát triển cân đối về nhân cách của mỗi cá nhân trong toàn xã hội.
1.1.3.2. Chức năng kinh tế:
Chức năng kinh tế của du lịch liên quan mật thiết với vai trò của con người như là lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội. Một mặt nó góp phần vào việc phục hồi sức khoẻ cũng như khả năng lao động và mặt khác đảm bảo tái sản xuất mở rộng lực lượng lao động với hiệu quả kinh tế rõ rệt.
Chức năng kinh tế của du lịch còn thể hiện ở một khía cạnh khác đó là dịch vụ du lịch, một ngành kinh tế độc đáo ảnh hưởng đến cơ cấu ngành và cơ chế lao động của nhiều ngành kinh tế. Chính vì vậy dịch vụ du lịch là cơ sở quan trọng kích thích sự phát triển kinh tế, là nguồn thu ngoại tệ lớn của nhiều nước.
1.1.3.3. Chức năng sinh thái:
Chức năng sinh thái của du lịch được thể hiện trong việc tạo nên môi trường sống ổn định về mặt sinh thái. Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hoá môi trường thiên nhiên bao quanh bởi vì chính môi trường này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ và các hoạt động của con người. Mặt khác việc đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung khách vào những vùng nhất định lại đòi hỏi phải tối ưu hoá quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch. Đến lượt mình, quá trình này kích thích việc tìm kiếm các hình thức bảo vệ tự nhiên, đảm bảo sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lý. Giữa xã hội và môi trường trong lĩnh vực du lịch có mối quan hệ chặt chẽ. Một mặt xã hội cần đảm bảo sự phát triển tối ưu của du lịch, nhưng mặt khác lại phải bảo vệ môi trường tự nhiên khỏi tác động phá hoại của dòng khách du lịch và của việc xây dựng cơ sở vật chất phục vụ du lịch. Du lịch- bảo vệ môi trường là những hoạt động gần gũi và liên quan đến nhau.
1.1.3.4. Chức năng chính trị;
Chức năng chính trị của du lịch được thể hiện ở vai trò to lớn của nó như một nhân tố củng cố hoà bình, đẩy mạnh các mối giao lưu quốc tế, mở rộng sự hiểu biết giữa các dân tộc. Du lịch quốc tế làm cho con người sống ở các khu vực khác nhau hiểu biết và xích lại gần nhau.
1.1.4. Các loại hình du lịch:
Hoạt động du lịch có tính phong phú và đa dạng về loại hình. Phụ thuộc vào các nhân tố khác nhau, vào đặc điểm vị trí, phương tiện và mục đích có thể chia thành các loại hình riêng biệt.
1.1.4.1. Phân loại dựa theo nhu cầu của khách du lịch:
a. Du lịch chữa bệnh:
Là hình thức đi du lịch để điều trị một căn bệnh nào đó về thể xác hay tinh thần
Mục đích đi du lịch là vì sức khoẻ. Loại du lịch này gắn liền với việc chữa bệnh và nghỉ ngơi tại các trung tâm được xây dựng bên các nguồn nước khoáng có giá trị, giữa khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và khí hậu thích hợp.
b. Du lịch nghỉ ngơi ( giải trí):
Nảy sinh do nhu cầu cần phải nghỉ ngơi để phục hồi thể lực và tinh thần cho con người. Đây là loại hình du lịch có tác dụng giải trí, làm cho cuộc sống thêm đa dạng và bứt con người ra khỏi công việc hàng ngày.
c. Du lịch thể thao:
Đây là loại hình du lịch xuất hiện do lòng say mê thể thao gắn liền với sở thích của khách về một loại hình thể thao nào đó. Du lịch thể thao chia làm hai loại: chủ động và bị động. Du lịch thể thao chủ động bao gồm các chuyến đi du lịch và lưu trú để khách tham gia trực tiếp vào hoạt động thể thao. Du lịch thể thao bị động bao gồm những cuộc hành trình du lịch để xem các cuộc thi đấu thể thao, thế vận hội...
d. Du lịch văn hoá:
Mục đích nâng cao hiểu biết cho cá nhân thông qua việc tìm hiểu những công trình văn hoá, kiến trúc, các phong tục tập quán.
e. Du lịch công vụ:
Du lịch- hội nghị nhằm phục vụ cho những thành viên đi dự hội thảo , hội nghị nên họ có khả năng chi trả cao. Đây là loại hình rất có tiềm năng phát triển.
f. Du lịch tôn giáo:
Nhằm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc biệt của những người theo tôn giáo khác nhau. Đâylà loại hình lâu đời và phổ biến với hai dạng cơ bản: đi thăm nhà thờ, đền chùa vào ngày lễ hội và đi xưng tội.
g. Du lịch thăm hỏi:
Nảy sinh do nhu cầu giao tiếp xã hội, nhằm thăm hỏi bà con họ hàng, bạn bè thân quen...Hình thức du lịch này có ý nghĩa quan trọng đối với những nước có nhiều người sống ở nước ngoài.
1.1.4.2. Phân loại theo phạm vi lãnh thổ:
- Du lịch trong nước ( nội địa):
Được hiểu là chuyến đi của người du lịch từ chỗ này sang chỗ khác nhưng trong phạm vi đất nước mình, chi phí bằng tiền nước mình. Điểm xuất phát và điểm đến đều nằm trong lãnh thổ một nước.
- Du lịch quốc tế:
Được hiểu là chuyến đi từ nước này sang nước khác. Du lịch quốc tế được chia làm hai loại: du lịch chủ động và du lịch bị động. Du lịch chủ động là nước này chủ động đón khách du lịch nước khác đến và tăng thêm thu nhập ngoại tệ. Du lịch bị động là nước này gửi khách đi du lịch sang nước khác và mất một khoản ngoại tệ.
1.1.4.3. Phân loại theo vị trí địa lý của các cơ sở du lịch:
- Du lịch nghỉ biển:
Là những cơ sở du lịch nằm ở vùng ven biển với mục đích khách tắm biển. Trên phạm vi thế giới số khách du lịch lớn nhất là cơ sở khách du lịch đi nghỉ biển.
- Du lịch nghỉ núi:
Là loại hình sẽ phát triển mạnh trong tương lai.
1.1.4.4. Phân loại theo việc sử dụng các phương tiện giao thông:
- Du lịch xe đạp:
Thường được tổ chức từ một đến ba ngày vào cuối tuần đến các điểm du lịch gần. ở Việt Nam loại hình du lịch này đang thu hút khá đông lượng khách, đặc biệt là khách du lịch quốc tế.
- Du lịch ôtô:
Đây là loại hình du lịch rất phổ biến, chiếm tỷ trọng cao nhất trong luồng khách du lịch ở Châu Âu, loại hình này chiếm 80% tổng số khách du lịch.
- Du lịch máy bay:
Là một trong những loại hình tiên tiến nhất, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch ở trong nước, những vùng xa xôi. Đây là loại hình du lịch có giá thành cao nên vẫn chưa thực sự thu hút nhiều khách.
- Du lịch tàu hoả:
Xuất hiện sau những năm 40 của thế kỷ trước. Loại hình này có chi phí giao thông thấp nên nhiều người có khả năng tham gia.
- Du lịch tàu thuỷ:
Là loại hình du lịch xuất hiện đã lâu nhằm đáp ứng nhu cầu của khách về nghỉ ngơi, giải trí, thể thao...
1.1.4.5. Phân loại theo thời gian của cuộc hành trình:
- Du lịch ngắn ngày:
Thường vào cuối tuần, phát triển nhiều nhất ở Mỹ, Đức, Anh, Pháp... Thời gain du lịch có thể kéo dài từ 1 đến 3 ngày.
- Du lịch dài ngày:
Thường vào kỳ nghỉ phép năm hoặc những kỳ nghỉ đông, nghỉ hè. Thòi gian du lịch kéo dài trong vài tuần, thực hiện các chuyến đi thăm những địa điểm lịch sử ở xa, du lịch nghỉ ngơi hay du lịch văn hoá.
1.1.4.6. Phân loại theo lứa tuổi:
- Du lịch thanh niên: tuổi từ 17 đến 35, đi theo tổ chức của đoàn và cá nhân.
- Du lịch thiếu niên: dưới 17 tuổi, thường đi du lịch trong dịp hè hoặc theo chương trình học tập, thăm quan.
- Du lịch gia đình: hình thức đi nghỉ cả gia đình.
1.1.4.7. Phân loại theo hình thức tổ chức:
- Du lịch có tổ chức theo đoàn với sự chuẩn bị chương trình từ trứơc hay thông qua các tổ chức du lịch như đại lý lữ hành, tổ chức công đoàn...
- Du lịch cá nhân: cá nhân tự định ra tuyến hành trình, kế hoạch lưu trú, địa điểm và ăn uống tuỳ nghi.
1.2-Cơ sở lý luận về phát triển bền vững:
1.2.1.Khái niệm:
Khái niệm về du lịch bền vững mới xuất hiện trên cơ sở cải tiến và nâng cấp khái niệm về du lịch mềm của những năm gần đây.
Theo hội đồng du lịch và lữ hành quốc tế (WTTC), 1996 thì “ Du lịch bền vững là việc đáp ứng các nhu cầu hiện tại của du khách và vùng du lịch mà vẫn đảm bảo những khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ du lịch tương lai” [3,63].
Du lịch bền vững đòi hỏi phải quản lý tất cả các dạng tài nguyên theo cách nào đó để chúng ta có thể đáp ứng các nhu câù kinh tế, xã hội và thẩm mỹ trong khi vẫn duy trì được bản sắc văn hoá, các quá trình sinh thái cơ bản , đa dang sinh học và các hệ đảm bảo sự sống [Hens L, 19].
Mục tiêu của du lịch bền vững là:
Phát triển, gia tăng sự đóng góp của du lịch vào kinh tế, môi trưòng.
Cải thiện tính công bằng xã hội trong phát triển.
Cải thiện chất lượng cuộc sống của cộng đồng bản địa.
Đáp ứng cao độ nhu cầu của du khách.
Duy trì chất lượng môi trường.
1.2.2.Các nguyên tắc của du lịch bền vững:
Sử dụng tài nguyên một cách bền vững bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên, xã hội và văn hoá. Việc sử dụng bền vững tài nguyên là nền tảng cơ bản nhất của việc phát triển du lịch lâu dài.
Giảm tiêu thụ quá mức và xả thải nhằm giảm chi phí khôi phục các suy thoái môi trường, đồng thời cũng góp phần nâng cao chất lượng du lịch.
Duy trì tính đa dạng: Duy trì và phát triển tính đa dạng của tự nhiên, xã hội, văn hoá là rất quan trọng đối với du lịch bền vững tạo ra sức bật cho ngành du lịch.
Lồng ghép du lịch vào trong quy hoạch phát triển địa phương và quốc gia.
Hỗ trợ nền kinh tế địa phương : Du lịch phải hỗ trợ các hoạt động kinh tế địa phương, phải tính toán chi phí môi trường vừa để bảo vệ nền kinh tế bản địa cũng như tránh gây hại cho môi trường.
Thu hút sự tham gia của cộng đồng địa phương. Điều này không chỉ đem lại lợi ích cho cộng đồng, cho môi trường mà còn tăng cưòng đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của du khách.
Sự tư vấn của các nhóm quyền lợi và công chúng: Tư vấn giữa công nghiệp du lịch và cộng đồng địa phương, các tổ chức và cơ quan là đảm bảo cho sự hợp tác lâu dài, cũng như giải quyết các xung đột có thể nảy sinh.
Đào tạo cán bộ kinh doanh du lịch nhằm thực thi các sáng kiến và giải pháp du lịch bền vững nhằm cải thiện chất lượng các sản phẩm du lịch.
Marketing du lịch một cách có trách nhiệm: Phải cung cấp cho du khách những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm nhằm nâng cao sự tôn trọng của du khách đến môi trường tự nhiên, xã hội và văn hoá khu du lịch, qua đó góp phần thoả mãn nhu cầu của du khách.
Triển khai các nghiên cứu nhằm hỗ trợ giải quyết các vấn đề, mang lại lợi ích cho khu du lịch, cho nhà kinh doanh du lịch và cho du khách Nguồn IUCN, 1998 [3,65,66].
1.2.3.Quan điểm về phát triển bền vững:
1.2.3.1.Bến vững về môi trường:
a.Khái niệm:
Bền vững môi trường là sử dụng các nguồn tài nguyên tự nhiên nhằm đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm phương haị đến nhu cầu của thế hệ tương lai [3, 40].
b. Những tác động của du lịch đền môi trường:
Tác động tích cực:
Bảo tồn thiên nhiên.
Tăng cường chất lượng môi trường
Đề cao môi trường
Cải thiện hạ tầng cơ sở
Tăng cường hiểu biết về môi trường của cộng đồng địa phương
Tác động tiêu cực:
ảnh hưởng tới nhu cầu và chất lượng nước
Nước thải
Rác thải
Ô nhiễm khí
Ô nhiễm tiếng ồn
Ô nhiễm phong cảnh
Làm nhiễu loạn sinh thái
1.2.3.2. Bền vững về kinh tế:
a. Khái niệm:
Bền vững kinh tế là kinh tế phát triển ổn định giữa các thành phố, các vùng, các cộng đồng và các cá nhân trong một thời gian dài nhằm tạo ra lợi nhuận cho nhiều người [3, 42].
b. Những tác động của du lịch đến kinh tế địa phương:
* Tác động tích cực:
Du lịch tạo thu nhập, ngân sách, giải quyết công ăn việc làm, nguồn thu ngoại tệ... Điều đó giúp cho việc nâng cao mức sống của cộng đồng địa phương, phát triển kinh tế địa phương, kinh tế vùng và quốc gia. Du lịch tạo ra chất xúc tác để phát triển và mở rộng các khu kinh tế khác: xây dựng, dịch vụ, cung cấp thực phẩm, văn hoá nghệ thuật, nghề thủ công sản xuất đồ lưu niệm...
* Tác động tiêu cực:
Suy giảm các nguồn lợi kinh tế tiềm năng của địa phương do sự cạnh tranh của hoạt động du lịch được đầu tư và điều hành của các chủ doanh nghiệp ở các vùng khác. Ngân hàng thế giới tính rằng các nước phát triển thu khoảng 55% doanh thu du lịch từ tổng doanh thu du lịch tại các nước đang phát triển [3, 48]. Nguồn thu ngoại tệ cũng giảm do phải nhập hàng hoá và sử dụng dịch vụ nước ngoài.
Gây rối loạn kinh tế và công ăn việc làm:
Sự nhiễu loạn kinh tế có thể xuất hiện nếu hoạt động du lịch chỉ tập trung vào một hoặc một vài vùng khu riêng biệt của đất nước hoặc vùng không được ghép nối tương xứng với sự phát triển của các vùng khác. Sự bùng phát tăng giá đất đai, hàng hoá, dịch vụ trong khu du lịch có thể làm mất giá đồng tiền, gây sức ép tài chính lên dân cư trong vùng. Cư dân bản địa ở nhiều trung tâm du lịch có thể biến thành thứ lao động rẻ mạt, tạm bợ theo mùa.
1.2.3.3.Bền vững về văn hoá - xã hội:
a. Khái niệm :
Bền vững về văn hoá- xã hội là đáp ứng những nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại giá trị văn hoá, giá trị truyền thống cho thế hệ mai sau [3, 50].
b. Những tác động của du lịch đến văn hoá- xã hội
* Tác động tích cực:
Góp phần bảo tồn các di tích, di sản lịch sử- văn hoá bao gồm:
+ Các di sản kiến trúc
+ Nghệ thuật văn hoá, đồ thủ công, lễ hội trang phục, lối sống truyền thống.
+ Đóng góp kinh phí trực tiếp hoặc gián tiếp cho việc phát triển các bảo tàng, nhà hát, các hoạt động văn hoá truyền thống, kể cả văn hoá ẩm thực.
+ Góp phần khôi phục niềm tự tin và tự hào dân tộc, bảo vệ tính đa dạng văn hoá, đặc biệt với các dân tộc thiểu số.
Tăng cường khả năng giao lưu, trao đổi văn hoá giữa du khách và người dân địa phương, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hoá của cả hai phía cũng như sự hiểu biết, hợp tác trong nhiều lĩnh vực khác.
* Tác động tiêu cực:
Quá tải dân số và mất các tiện nghi môi trường nhất định dành cho người dân địa phương. Khi khách du lịch quá đông người dân địa phương sẽ bị tranh giành tiện nghi giao thông, nhà hàng, chợ búa và xuất hiện cảm giác bực bội vì mất chủ quyền.
Sự xói mòn bản sắc văn hoá, lòng tự tin do sự vượt trội hơn của các đặc trưng văn hoá ngoại lai do du khách mang đến so với văn hoá bản địa. Hiểu lầm và xung đột có thể nảy sinh giữa khách và chủ vì những khác biệt ngôn ngữ, thói quen, tôn giáo và cách ứng xử.
Các tệ nạn xã hội có nguy cơ bùng phát liên quan với sự phát triển du lịch.
1.2.4. Mối quan hệ giữa phát triển du lịch bền vững và cộng đồng dân địa phương:
Du lịch là lĩnh vực kinh doanh mang khách hàng đến sản phẩm, chứ không mang sản phẩm đến khách hàng [7, 25]. Sản phẩm du lịch không chỉ không gian môi trường nơi cộng đồng địa phương sử dụng hoặc sở hữu mà còn là chính cộng đồng địa phương với bản sắc văn hoá của họ. Hoạt động du lịch bền vững chỉ thực sự được thực thi nếu cộng đồng địa phương từ vai trò là “sản phẩm” du lịch hoặc đứng ngoài du lịch được tham gia vào lĩnh vực du lịch dưới dạng:
Tham gia quy hoạch phát triển du lịch.
Tham gia vào việc lập quyết định liên quan đến phát triển của điểm du lịch.
Tham gia hoạt động và quản lý hoạt động du lịch ở những vị trí, ngành nghề phù hợp.
Sự không tham gia hoặc tham gia không đầy đủ của cộng đồng địa phương sẽ khiến chính họ trở thành “ sản phẩm” bị cho hoạt động du lịch hoặc họ sẽ khai thác tài nguyên du lịch theo kiểu của họ không có lợi cho hoạt động du lịch [3, 93, 94]. Có nhiều mức độ tham gia của cộng đồng Pretty (1994) đã phân chia các mức độ này theo bảng sau:
Bảng : phân loại sự tham gia Cộng đồng
tham gia vào các chương trình và dự án phát triển như thế nào.
Phân loại
Đặc điểm của từng loại
1. Tham gia có tính hình thức
Sự tham gia chỉ đơn thuần hình thức, đại diện của “ nhân dân” ngồi vào các ban bệ chính thức song không được bầu lên và không có quyền hành gì.
2. Tham gia thụ động
Người dân tham gia được bảo cho biết cái gì đã được quyết định hoặc cái gì đã xảy ra. Đơn thuần là những thông báo đơn phương từ phía bộ phận quản lý hoặc điều hành dự án mà không nghe xem người dân phản ứng ra sao. Thông tin chỉ được chia sẻ giữa những cán bộ chuyên môn là những người nơi khác.
3. Tham gia do tư vấn
Người dân tham gia do được tư vấn hoặc do trả lời các câu hỏi. Các cán bộ tù nơi khác đến xác định các vấn đề và quá trình thu thập thông tin và do đó kiểm soát việc phân tích thông tin. Một quá trình tư vấn như vậy không chấp nhận bất cứ sự chia sẻ nào trong việc ra quyết định và không có gì bắt buộc các cán bộ chuyên môn phải xét đến quan điểm của người dân
4. Tham gia để được hưởng các khuyến khích vật chất
Người dân tham gia bằng cách đóng góp các nguồn lực, chẳng hạn đóng góp lao động, để được nhận lương thực, tiền mặt hoặc các khuyến khích vật chất khác. Nông dân có thể cung cấp ruộng và lao động, nhưng được thu hút vào việc thí điểm hay quá trình học tập. Điều rất thường thấy là tuy mang tiếng là tham gia, song người dân không có vai trò gì trong việc kéo dài các công nghệ hoặc công tác thực hành khi các khuyến khích kết thúc
5. Tham gia chức năng
Sự tham gia được các cơ quan bên ngoài xem như một phương tiện để đạt được các mục tiêu của dự án, đặc biệt là để giảm chi phí. Người dân có thể tham gia bằng cách lập ra các nhóm để đáp ứng các mục đích đã định trước mang tính tương tác và kéo theo sự chia sẻ. Về sau khi các quyết định chủ yếu đã được đưa ra bởi các cán bộ từ nơi khác đến. Trong trường hợp xấu nhất, người dân địa phương đã được mời đến phục vụ cho những mục đích thứ yếu.
6. Tham gia có tính tương tác
Người dân tham gia vào việc cùng phân tích, triển khai các kế hoạch hành động và thành lập hoặc tăng cường các cơ quan địa phương. Tham gia được xem là một quyền, không chỉ là một phương tiện nhằm đạt những mục tiêu của dự án. Quá trình này bao gồm các phương pháp luận liên ngành nhằm tìm kiếm đa mục tiêu và tận dụng các quá trình học tập hệ thống và có kết cấu. Vì các nhóm thực hiện sự kiểm soát đối với các quyết định địa phương và xác định xem các nguồn lực hiện có đã được sử dụng ra sao cho nên họ có vai trò trong việc duy trì các cơ cấu hoặc các hoạt động thực hành.
7. Tự thân vận động
Người dân tham gia bằng cách đưa ra các sáng kiến một cách độc lập với cá cơ quan bên ngoài nhằm thay đổi các hệ thống. Họ phát triển các mối quan hệ với các cơ quan bên ngoài nhằm có được các nguồn lực và sự cố vấn kỹ thuật mà họ cần, song vẫn duy trì sự kiểm soát đối với cách sử dụng các nguồn lực. Sự tự thân vận động có thể nhân rộng nếu các chính phủ và các tổ chức phi chính phủ tạo ra một khung hỗ trợ.
Nguồn: Lấy theo Pretty (1994), Satterthwaite (1995), Adnan và cộng sự (1992), Hart (1992), (IUCN, 1998) [3,94,95].
1.2.5. Một số mô hình du lịch bền vững:
1.2.5.1.Làng du lịch ở Austria (Hens, 1998) [3,87].
Tiêu chuẩn chọn lựa ( đặc trưng):
Điển hình cho một vùng, có chùa, đền hay nhà thờ.
Độ cao nhà cửa <= 3 tầng.
Kiến trúc nhà kiểu mới hay cổ phải hài hoà, cân bằng.
Tiêu chuẩn sinh thái:
Nông, lâm nghiệp: cảnh quan tự nhiên được duy trì, hạn chế tối đa sử dụng hoá chất nông nghiệp.
Chất lượng không khí và tiếng ồn: cách xa đường ôtô ít nhất 3 km, đặc biệt là đường cao kế.
Giao thông : đường dành cho xe đạp, đi bộ, phương tiện công cộng.
Hàng hoá và chất thải: tiến hành tái chế, phân loại rác, tránh bao bì không cần thiết, bán các sản phẩm địa phương.
Chất lượng và trang bị cơ sở hạ tầng: xây dựng hoà hợp với môi trường, phù hợp với cả người dân địa phương và trẻ em.
Tiêu chuẩn xã hội và du lịch:
Dân số cực đại của làng <= 1.500 người.
Nhà nghỉ <= 25% nhà địa phương.
Số giường nghỉ cực đại bằng số dân địa phương (1: 1)
Tránh xây khách sạn lớn
Cộng đồng địa phương tích cực tham gia vào các quyết định phát triển du lịch
Cơ sở hạ tầng cho khách du lịch có một văn phòng thông tin du lịch, không có hoặc rất ít cơ sở dịch vụ như làm đầu, nướng bánh, tạp phẩm chỉ dành cho du khách, dễ tiếp cận với các tiện nghi môi trường.
1.2.5.2. ECOMOST: Mô hình du lịch bền vững của công đồng Châu Âu (Ecomost: european Community Models of Sustainable Tourism).
Mô hình Ecomost được xây dựng thử nghiệm tại Mallorka, Tây Ban Nha. Đây là một trung tâm du lịch lớn nhất châu Âu. Mallorka phát triển được là nhờ du lịch: 50% thu nhập nhờ du lịch cuối tuần. Để khắc phục tình trạng suy thoái của ngành du lịch ở Mallorka, một chương trình nghiên cứu xây dựng mô hình DLBV đã được tiến hành.
Theo mô hình ECOMOST, phát triển DLBV cần gắn kết ba mục tiêu chủ yếu là:
Bền vững về mặt sinh thái: bảo tồn sinh thái và đa dạng sinh học, phát triển du lịch cần phải tôn trọng khả năng tải của hệ sinh thái.
Bền vững về mặt văn hoá xã hội:bảo tồn được bản sắc xã hội muốn vậy mọi người quyết định phải có sự tham gia của cộng đồng.
Bền vững về mặt kinh tế: đảm bảo hiệu quả kinh tế và quản lý tốt tài nguyên sao cho tài nguyên có thể tiếp tục phục vụ cho các thế hệ tương lai.
Ba yêu cầu chính nhằm duy trì khu du lịch:
Dân số cần được duy trì hợp lý và giữ vững bản sắc văn hoá
Cảnh quan cần duy trì được sự hấp dẫn du khách
Không làm gì gây hại cho sinh thái
Muốn đạt được ba yêu cầu trên cần có một yêu cầu thứ 4:
Có một cơ chế hành chính hiệu quả. Cơ chế này phải nhằm vào thực hiện các nguyên tắc, phát triển bền vững, đảo bảo thực thi một kế hoạch hiệu quả và tổng hợp cho phép sự tham gia của cộng đồng vào hoạch định các chính sách du lịch.
ECOMOST đã chia nhỏ các mục tiêu của DLBV thành các thành tố và sau đó các thành tố được nhận diện và cách đánh giá qua các chỉ thị
Thành tố văn hoá xã hội: Dân số phù hợp, bảo tồn hiệu quả kinh tế và bảo tồn bản sắc văn hoá.
Thành tố du lịch: thoả mãn du khách và các nhà kinh doanh tour du lịch, bảo trì và hiện đại hoá điều kiện ăn ở giải trí.
Thành tố sinh thái: khả năng tải, bảo tồn cảnh quan, sự quan tâm đến môi trường.
Thành tố chính sách: đánh giá được chất lượng du lịch chính sách định hướng sinh thái, quy hoạch vùng, sự tham gia của cộng đồng và các nhóm quyền lực trong quá trình quy hoạch.
ECOMOST xây dựng một kế hoạch hành động cụ thể trong đó chia các hành động dựa vào mức độ ưu tiên và xác định rõ trách nhiệm của các cá nhân và các tổ chức liên quan.
1.2.5.3.Du lịch bền vững có sự tham gia của cộng đồng, tạo thu nhập cho người dân bản địa ở Inđônêxia [1, 53].
Bối cảnh:
Tình trạng phát triển du lịch một cách bừa bãi đã gây ra những tác động tiêu cực cho Inđônêxia từ việc huỷ hoại môi trường, di cư, huỷ hoại các giá trị truyền thống. cho đến lôi kéo phụ nữ và trẻ em vào các hoạt động mãi dâm. Thật không may, những người nông dân bản xứ chính là vật hy sinh vì họ phải nhường đất nông nghiệp của mình cho các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch mà không hề nhận được đền bù xứng đáng.
Ngành kinh doanh khách sạn và du lịch tại hòn đảo thiên đường Bali, điểm du lịch chính của Inđônêxia không phải do dân địa phương mà do các chủ đầu tư lớn từ Jakarta, liên doanh với các tập đoàn đa quốc gia điều hành và sở hữu. Ông thị trưởng Bali thậm chí phải kết luận rằng việc gia tăng doanh thu từ ngành du lịch chẳng mảy may ảnh hưởng đến họ hay nói cách khác đa số những người dân bản địa xứ Bali không hề được hưởng chút lợi lộc gì từ nguồn thu này.
Mô hình cơ cấu du lịch phi lý này đã hướng một số tổ chức phi chính phủ [NGC] của Inđônêxia và các nhà hoạt động vì môi trường vào việc tìm kiếm các giải pháp thay thế. Mục đích của họ là tăng cường sự tham gia của người dân địa phương vào các hoạt động du lịch, trút bỏ gánh nặng mà các cộng đồng bản địa đang phải gánh chịu và đảm bảo việc phát triển du lịch một cách bền vững.
Nghiên cứu, quy hoạch và triển khai:
Nhận thấy rõ tính khả thi của dự án này các nhà hoạch định đã giới thiệu các chuyến du lịch chuyên đề dưới dạng các tour du lịch trọn gói tự chọn cho cả du khách trong nước và nước ngoài. Nội dung chương trình các chuyến đi là sự kết hợp giữa nghiên cứu dự án phát triển với du lịch giải trí mà không bỏ qua mục tiêu và nhiệm chính.
Nhằm giảm đến mức tối đa sự hiểu nhầm và nhận thức sai lệch, sự tham gia của người dân bản xứ là rất quan trọng trong giai đoạn đầu quy hoạch một chương trình du lịch như vậy. Nhân viên làm công tác du lịch phải cố vấn cho cộng đồng bản xứ về việc lên kế hoạch chuyến đi, đặc biệt những khía cạnh đời sống thường ngày và các chuẩn mực xã hội cơ bản có thể giới thiệu cho du khách lập kế hoạch chuyến đi cũng bao gồm việc chuẩn bị và lựa chọn cộng đồng bản địa nào sẽ đến thăm. ở giai đoạn này nhân viên làm công tác du lịch sẽ là cộng tác viên, giữ vai trò quan trọng trong việc thông báo trứơc cho người dân bản xứ mục đích của các cuộc viếng thăm. Nội dung thông báo liên quan đến mục đích của chuyến đi, giới thiệu khái quát về du khách và các thông tin cần thiết khác. Khâu này là tối cần thiết nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình giao lưu, xây dựng quan hệ tin cậy lẫn nhau và đảm bảo các sản vật địa phương có thể đem lại thu nhập cho dân địa phương.
Đánh giá kết quả:
Tác động về kinh tế- xã hội:
Việc sử dụng các sản phẩm địa phương, nhà ở, dịch vụ ăn uống cũng như đồ thủ công rõ ràng có nhiều điểm ưu việt vì nó lại tăng thu nhập thêm cho người bản xứ và củng cố kinh tế cho các tổ chức địa phương. ở mức độ kinh tế vi mô, sự có mặt của khách du lịch khuyến khích sự tăng trưởng dần dần của các hoạt động sản xuất khác và tạo ra công ăn việc làm.
Tác động về văn hoá và tâm lý:
Kinh nghiệm thực tế chứng minh rằng loại hình du lịch có sự tham gia của cộng đồng này có thể dần nâng cao mức độ tham gia của dân địa phương địa phương sẽ khuyến khích lòng tự hào và tính tự lập. Về mặt văn hoá nó sẽ bảo tồn và khôi phục các sản phẩm văn hoá và nghệ thuật truyền thống mà dưới một số góc độ nào đó, đang dần bị mai một.
Tác động về môi trường:
Người ta dễ nhận ra tác động này trong dự án lâm nghiệp xã hội, nâng cao ý thức cộng đồng địa phương trong việc bảo tồn các giá trị tự nhiên.
Kết luận chương 1:
Như vậy có thể thấy rằng du lịch đóng vai trò rất lớn trong sự phát triển kinh tế – xã hội toàn cầu. Sự phát triển không ngừng của du lịch kể từ khi ra đời đến nay đã khẳng định vị trí quan trọng của nó trong xã hội loài người hiện nay. Du lịch- “ngành công nghiệp không khói”- đang nỗ lực hết mình trong việc tạo ra ngày càng nhiều lợi nhuận cho xã hội nhưng vẫn bảo đảm và duy trì tiềm năng phát triển lâu dài.
Chính bởi vậy sự ra đời của Du lịch bền vững với những quan niệm và nguyên tắc riêng đúng đắn của nó chính là chìa khoá thành công cho ngành du lịch phát triển. Du lịch bền vững không chỉ đem lại lợi ích về kinh tế mà còn mang lại những giá trị về văn hoá - xã hội và môi trường. Du lịch bền vững ra đời nhất thiết phải gắn chặt với quyền lợi của cộng đồng dân cư địa phương bởi cộng đồng địa phương chính là nguồn lực dồi dào nhất cho du lịch đồng thời cũng là mục tiêu mà ngành du lịch cần quan tâm.
Sự phát triển du lịch bền vững gắn liền với quan hệ cộng đồng địa phương chính là yếu tố cần xem xét cho việc hoạch định chiến lược du lịch lâu dài cho bất cứ một điểm du lịch nào.
Chương 2
Tiềm năng và thực trạng tuyến du lịch sông Hồng
2.1. Tiềm năng tuyến du lịch sông Hồng:
Điều 10 chương I Pháp lệnh Du lịch do Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá X thông qua ngày 08/02/1999 nêu rõ :” Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, di tích cách mạng giá trị nhân văn, công trình lao động sáng tạo của con người có thể được sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu du lịch, là các yếu tố cơ bản để hình thành các điểm du lịch, khu du lịch nhằm tạo ra sự hấp dẫn du lịch” [16, 8].
Nói đến tài nguyên của tuyến du lịch sông Hồng chúng ta phải tìm hiểu đầy đủ tiềm năng của tuyến mặc dù đây là một loại hình du lịch tương đối mới. Tuy nhiên tài nguyên du lịch của vùng ven sông thì đã được khẳng định từ lâu. Chính những cuộc du ngoạn trên sông của các ông hoàng bà chúa, các thi nhân mặc khách xưa nay còn ghi dấu trong các lễ hội truyền thống, trong những áng thơ văn là sự khẳng định mạnh mẽ nhất cho tiềm năng ấy. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Âu trong cuốn sách “ Sông ngòi Việt Nam” do NXB Đại học Quốc gia in ấn đã khái quát về vai trò của hệ thống sông ngòi Việt Nam như sau:” Hoạt động du lịch trên những dòng sông chắc chắn sẽ phát triển nếu biết kết hợp với các hoạt động văn hoá, các phong cảnh đẹp và các đặc sản địa phương”. Nhiêu dòng thác kỳ diệu nổi tiếng xưa nay như Bản Giốc trên sông Quế Xuân, Yali trên sông Krông Pôcô... ngoài ra là Iamơ, Liên Khương, Camly... trên hệ thống sông Đồng Nai; các hồ chứa như : núi Cốc, suối hai, Hoà Bình, Trị An... cũng sẽ là các trung tâm du lịch lớn nhỏ. Song quan trọng hơn cả vẫn là các sông ngòi trong các vùng núi đá vôi với các hang động, hồ nước ngầm... mà điển hình vẫn là sông Chài từ động Phong Nha, sông Năng với Ba bể, thác Đầu Đẳng và động Puông, suối Yến với lễ hội chùa Hương, suối Lênin với hang Pắc Bó...”. và đặc biệt cố giáo sư Lê Bá Thảo trong cuốn “Thiên nhiên Việt nam” đã dành riêng cho hệ thống sông Hồng những cảm xúc của một nhà địa lý không có gì thích thú hơn là được đi trên một chiếc thuyền độc mộc xuôi các dòng sông Hồng, sông Lô, sông Chảy hay sông Giâm và cảm thấy hết những phút hồi hộp khi phải lôi thuyền qua các ghềnh đá nhọn hoắt để rồi nhẹ nhàng trôi trên những đoạn sông mở rộng có bề mặt nước tương đối bằng phẳng. Lúc đó chúng ta có thể yên tâm nhìn các đồi núi chạy dọc theo thung lũng sông, những túp nhà lẩn khuất dưới chân đồi, những bãi ngô bãi mía, những di tích lịch sử cổ kính”. Để tìm hiểu về nguồn tài nguyên du lịch sông Hồng nên tập trung vào 2 nguồn tài nguyên là: tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn.
2.1.1. Tài nguyên du lịch tự nhiên:
Nói đến tài nguyên du lịch tự nhiên tuyến du lịch sông Hồng chính là việc tìm hiểu, phân tích những giá trị về cảnh quan môi trường của con sông Hồng.
Là một vùng đất cổ, Hà Nội được sông Hồng và các vùng phụ lưu bồi đắp tạo nên, do đó Hà Nội gắn bó với sông Hồng mật thiết như con với mẹ. Xưa kia người ta đã gọi sông Hồng là sông Cái, sông Mẹ. Tên gọi Hà Nội, có ý nghĩa là vúng đất bên trong sông. Đoạn sông Hồng ôm lấy Hà Nội dài gần 100 km chiếm 1/5 chiều dài của sông Hồng trên đất Việt [10, 155].
Sông Hồng bắt nguồn từ dãy Nguỵ Sơn cao 1776m ở gần hồ Đại Lý thuộc huyện Nhị Đô, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam điển hình, vào Việt nam ở Hà khẩu (thị xã Lào Cai- tỉnh Lao Cai) qua 7 tỉnh và đổ ra biển bằng 10 cửa, cửa chính là cửa Ba Lạt (Nam Định). Sông Hồng chảy qua địa phận Hà Nội từ xã Thượng cát (Từ Liêm) tới Vạn Phúc (Thanh trì- Hà Nội).
Thông thường trong các dạng địa hình, địa hình đồng bằng thường được coi là kém hấp dẫn hơn cả với hoạt động du lcịh do tính đơn điệu của nó. Tuy nhiên, sông ngòi lại là một dạng địa hình đặc biệt và có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển du lịch. Sông Hồng là con sông rất thân quen và gần gũi với người dân Việt nam nói chung và người dân Hà Nội nói riêng. Nhưng ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội bên cạnh những thành quả to lớn mà không ai nhận ra cũng có những hậu quả không thể cứu vãn được. Mấy chục năm trước đứng trên đê sông Hồng, quãng đường Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải, Trần Khánh Dư còn thấy bờ bãi ngút mắt, còn được hưởng gió sông Hồng thì đến nay chỉ còn là những khu dân cư nhà cửa san sát nhau. Trong hoàn cảnh ấy, địa hình sông ngòi mới phát huy được hết giá trị của nó. Từ phố ra sông đã là sự thay đổi tích cực lại cộng thêm những đồng bãi ven sông tạo ra cảnh quan du lịch rất có ý nghĩa.
Dòng cháy cát bùn của sông Hồng được đánh giá là phong phú với độ đục bình quân ở Sơn tây là 1010g/m3, ở Lào Cai là 2730g/m3. Trong mùa lũ lượng dòng chảy cát bùn chiếm tới gần 90%. Sông Hồng vì vậy đã trở thành biểu tượng của đất, cùng với sông Mã là biểu tưọng của nắng với “lắm thác ghềnh, nhiều sóng bạc đầu”, sông Đà “chảy giữa các triền núi granit sâu thẳm xanh đen một màu” biểu tượng của cây.
Nguồn nước và nguồn phù sa cũng có đóng góp gián tiếp cho hoạt động du lịch bởi nó mang lại cho sông Hồng nguồn tài nguyên sinh vật phong phú. Sông Hồng có trữ lượng cá lớn, số lượng loài phong phú với nhiều loại cá ngon như: chép, trôi, trắm, anh vũ, ngạnh...
Sông Hồng còn có dòng chảy con phong phú và lượng muối khoáng cao nên thuận lợi cho việc nuôi thuỷ sản: dọc sông Hồng ngoài những thuyền đánh cá ta còn gặp những lồng nuôi cá của cư dân ven sông. Nguồn thuỷ sản khôngchỉ cung cấp những món ăn đặc sản trong nước mà còn tạo tiền đề cho du lịch câu cá, một loại du lịch hấp dẫn. Sông Hồng cũng là môi trường sống của nhiều loài chim, đặc biệt vào đông nhiều loài chim từ phương Bắc bay về phương nam ấm áp hơn để tránh rét. Đối với nhiều khách du lịch hình ảnh những bầy giang, cò, bồ nông đậu đen đặc bãi sông mùa đông, hay những con chim nhỏ kiếm ăn nơi mép nước đầu hạ, những đàn sẻ ríu rít bên sông hẳn là những hình ảnh gần gũi và vui mắt.
Nhưng sông Hồng hẳn sẽ thiếu vắng đi rất nhiều nếu không có những đồng bãi ven sông. Từ bao đời nay, dòng sông và con người đã tạo nên mầu xanh cho đất. Màu xanh ấy giản dị và thân thuộc đến nỗi nhiều khi chúng ta không nhận ra rằng chính nó đã góp phần tạo nên cái sắc, cái hồn cho sông Hồng. đất phù sa màu mỡ ven sông thích hợp với nhiều loại rau quả đặc trưng của đồng bằng Bắc Bộ như: ngô, đỗ, khoai... Ngoài ra ven sông Hồng còn là đất của các loại hoa và cây cảnh như ngưu tất, bạch truật... Sự phong phú và đặc trưng của hệ thực vật mở ra cho sông Hồng tiềm năng để phát triển loại hình du lịch vườn hay khả năng kết hợp để tổ chức du lịch nông thôn, trang trại.
2.1.2. Tài nguyên du lịch nhân văn:
ở vùng ven sông Hồng còn lưu giữ được những giá trị điển hình của nét đặc thù văn hoá Việt Nam là sắc thái sông nước. Sắc thái sông nước được thể hiện ở việc tổ chức đời sống tập thể, đối phó với lũ lụt, trong văn hoá giao tiếp và nghệ thuật ngôn từ, trong nghệ thuật thanh sắc và đặc biệt trong văn hoá ứng xử với môi trường tự nhiên.
Đến với vùng ven sông Hồng thì loại hình du lịch nổi bật nhất là du lịch văn hoá.
Khi đến thăm vùng ven sông, du khách có cơ hội được tham dự vào những lễ hội của vùng được tổ chức hầu hết sau tết Âm lịch. Những lễ hội này chính là cơ hội để du khách hiểu biết hơn về phong tục tập quán, về lối sống, về cách ứng xử của người Việt.
Đồng thời trong hành trình đến vùng ven sông Hồng chúng ta cũng có cơ hội được tham quan các làng nghề truyền thống mà tiêu biểu nhất phải kể đến làng gốm Bát Tràng (Gia Lâm- Hà Nội).
Vùng ven sông Hồng cũng là vùng có rất nhiêù các di tích lịch sử văn hoá mà có thể kể ra đây một số loại hình di tích tiêu biểu.
Di tích lịch sử ghi dấu sự vinh quang trong lao động: đó chính là hệ thống đê điều được coi là “ kiến trúc lớn nhất, phi thường nhất, phản ánh tâm thức người Việt” (Giáo sư Phan Ngọc). Bên cạnh đó là kênh Bắc Hưng Hải- là công trình thuỷ lợi tầm cỡ đầu tiên được xây dựng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa.
Di tích lịch sử ghi dấu chiến công xâm lược:
Tiêu biểu như Đầm Dạ Trạch từng là căn cứ của Triệu Quang Phục trong cuộc kháng chiến chống quân Lương xâm lược thế kỷ VI, hay khu vực dốc Hàng Than, đầu cầu Long Biên xưa là Đông Bộ đầu hay bến Tây Kết ( Khoái Châu- Hưng Yên).
Di tích ghi dấu những kỷ niệm: Bãi Tự Nhiên, đầm Dạ Trạch ghi dấu kỷ niệm về Chử Đồng Tử- Tiên Dung; cầu Long Biên “chứng tích một trăm năm đau thương và hào hùng nhất của lịch sử Việt Nam”
Hệ thống đền, chùa, miếu mạo ven sông
Hệ thống các di tích ven sông Hồng là những tài nguyên có giá trị cho hoạt động du lịch đường sông. Điều đáng lưu ý là hầu hết các di tích này đều chưa được biết đến như những điểm du lich, có nghĩa là nhà tổ chức có thể quy hoạch để ngay từ đầu phát triển theo hướng du lịch bền vững. ở đây du khách không chỉ được thoả mãn nhu cầu tâm linh mà còn được tận hưởng bầu không khí trong lành và ôn lại lịch sử dân tộc.
2.2. Khái quát về tuyến du lịch sông Hồng
Cái tên “du lịch sông Hồng” là khá mới trong các loại hình du lịch Việt nam nói chung và Hà Nội nói riêng. Đây là tuyến du lịch mới được khai thác năm 1995 và chính thức đi vào hoạt động năm 1996. Chương trình” du lịch sông Hồng” hiện nay được coi là” sản phẩm độc quyền” của Xí nghiệp đầu tư và phát triển sông Hồng thuộc Công ty du lịch và thương mại tổng hợp Thăng Long có trụ sở tại 42 Chương Dương- Hoàn Kiếm – Hà Nội.
Tuyến du lịch sông Hồng mới được đưa vào khai thác nhưng đã đạt được một số hiệu quả nhất định tuy nhiên tiềm năng khai thác cuả tuyến vẫn còn rất đa dạng, phong phú. Cùng với sông Hương (Huế), vịnh Hạ Long, đồng bằng sông Cửu Long... Tuyến du lịch sông Hồng chắc chắn còn tạo ra nhiều hiệu quả hơn cho hoạt động du lịch.
2.2.1. Một số chuyến du lịch cụ thể của tuyến du lịch sông Hồng
Với hơn 8 năm hoạt động, chương trình du lịch hiện nay giới thiệu ra thị trường 8 tour du lịch nhằm đáp ứng yêu cầu của khách (nguồn: xí nghiệp đầu tư và phát triển du lịch sông Hồng)
Chương trình 1: Hà Nội- đền Dầm - Đền Đại Lộ (Hà Tây)- Đền Chử Đồng Tử (Hưng Yên) – Bát Tràng-Hà Nội
Chương trình 2: Hà Nội- Đền Mẫu- Đình Chèm- Chùa Bồ Đề- Bát Tràng- Hà Nội
Chương trình 3: Hà Nội-Đền Mẫu- Đền Gióng- Chùa Kiến Sơ- Chùa Bồ Đề- Hà Nội
Chương trình 4: Hà Nội – Chùa Bút Tháp- Chùa Keo- Chùa Dâu- Hà Nội
Chương trình 5: Hà Nội- Chùa Chuông- Đền Thiên Hậu (Phố Hiến)- Hà Nội
Chương trình 6: Hà Nội- Đền Chử Đồng Tử- Đền Lảnh Giang – Hà Nội
Chương trình 7: Hà Nội- Chùa Chuông- Đền Mẫu- Đền Thiên Hậu- Đền Lảnh Giang- Hà Nội
Chương trình 8: chương trình đặc biệt “ Đêm Sông Hồng”
Tuy nhiên trong 8 chương trình du lịch kể trên thì chỉ có chương trình 1 là hoạt động có hiệu quả.
2.2.2. Giơí thiệu đôi nét về những địa điểm trong chương trình tour
Như đã nói ở phần giới hạn đề tài chương trình 1 được chọn nghiên cứu chi tiết và những điểm du lịch đưa ra là những điểm du lịch của chương trình 1
Đền Dầm
Đền Dầm (Rằm) còn có các tên gọi khác nhau do sự thay đổi tên xã (làng,thôn) qua các thời kỳ lịch sử như: Mộc Hoàng, Xâm Miện và cuối cùng là Xâm Dương thuộc xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Đền Dầm là ngôi đền được xây dựng cách đây ngót ngàn năm. Đền nằm ở ven sông Hồng, cách trung tâm Hà Nội 20km về phía đông nam. Hàng năm nhân dân mở hội từ mùng 1 đến mùng 10 tháng 2 âm lịch, nhưng chỉ có các ngày mùng 4, 5, 6, 7 tháng 2 là đông vui vì có rước kiệu Mẫu. Đặc biệt là ngày mùng 5 tháng 2, ngày rước Nước (lễ Cấp Thuỷ) là đông vui nhất. Khách thập phương nô nức về dự lễ hội Mẫu ngắm cảnh tàu thuyền nhộn nhịp trên sông Hồng với đủ màu cờ, sắc áo rợp trời hoà lẫn cảnh múa rồng trên mặt sông trong tiếng trống cái, trống bản, tiếng tù và, tiếng đàn sáo bát âm náo nhiệt trong buổi làm lễ Cấp Thuỷ.
Còn trên bờ thì kiệu Bát Cống, kiệu Võng, cờ, lọng, tán, bát tiên, bát bửu, gươm hầu... cũng được rước xuống tận cuối làng ra bờ sông đón đoàn rước Nước về đền Lễ Mẫu.
Đền Dầm thờ Thuỷ Cung Thánh Mẫu hay còn gọi là Mẫu Thoải, Mẫu Đệ Tam. Đền có từ lâu hiện còn có các sắc phong của các triều đại từ: Đức Long Ngũ Niên (1633) đến Khải Định Cửu Niên (1924).
Theo thần phả trong đền: Mẫu Thoải thờ trong đền là Hoàng Long công chúa ở trên Thiên Đình vì đánh vỡ chén ngọc bị đày xuống Thuỷ cung, vua Thuỷ gả cho Kinh Xuyên có 2 vợ, vợ bé là Thảo Mai. Vì Kinh Xuyên yêu Ngài nên Thảo Mai lập mưu vu cho Ngài phải lòng trai. Nghe lời Thảo Mai, Kinh Xuyên đày Ngài lê núi Kim Quy Ngọc Hồ thuộc Long Viên Trì Quan (tức Bích Câu Hà Khẩu Phường).
Năm 1225, đời Trần Thái Tông có một người tên là Liễu Nghị quê ở Ngọc Tháp, huyện Thanh Miên, tỉnh Hải Dương, là một danh sĩ thi không đỗ, trong một lần đi thuyền chơi mát ở hồ, cạnh núi Kim Quy, thấy có một người đàn bà, Liễu Nghị bèn lên núi, nàng nói là con gái Thuỷ Vương bị Kinh Xuyên đày. Nàng đưa cho Liễu Nghị cây kim thoa và dặn đi về phía Hà Khẩu thấy có cây ngô đồng to thì lấy kim thoa gõ vào đấy. Liễu Nghị làm theo chợt thấy hai con mãng xà hiện ra đưa Liễu Nghị về Thuỷ Cung. Sau khi Liễu Nghị tâu bày, vua Thuỷ sai con trai là Xích Lâm lên đón công chúa Hoàng Long về( đó là ngày 2 tháng 1 âm lịch) rồi phong Liễu Nghị làm Quốc Tế ở Thuỷ Cung, bắt Kinh Xuyên và Thảo Mai đày về Bắc Hải.
Năm đó ở vùng sông Hồng bị bệnh dịch tả chết rất nhiều người trong đó có cả làng Xâm Miện. Đêm các cụ già mơ thấy có một người đàn bà mặc toàn đồ trắng nói rằng: “ Ta là Hoàng Long công chúa, con gái của vua Thuỷ, Ngọc Hoàng sai ta xuống hộ quốc cứu dân, chữa bệnh yên ổn, khi qua khỏi phải lập đền thờ. Quả nhiên dân khỏi bệnh, bèn lập đền thờ gọi là Thuỷ Cung Thánh Mẫu. Bên phải đền là Phủ Trần Triều. Đây là sắc phong của vua Trần khi nghe tin Trần Hưng Đạo đem quân đánh thắng giặc do báo mộng của công chúa Hoàng Long. Bên trái đền là đền thờ thánh Mẫu Thượng Ngàn. Bên cạnh là lầu Cô, kiến trúc kiểu :”Cửu phẩm liên hoa” (8 mái cong, đỉmh có nụ sen) khánh thành năm ất Hợi 1995. Trước cửa đền cạnh phủ Trần Triều có cây đa cổ thụ, tuổi đời 3,4 trăm năm nay, các rễ cây to như cột nhà buông từ cành xuống bám vào đất tạo thế vững trãi cho cây. Trong khuôn viên đền còn có cây thị ngót 200 tuổi năm tuổi, che bóng mát cho hậu cung đền Mẫu, nơi Mẫu ngự. Mùa thị chín hái không xuể.
* Đền Đại Lộ
Đền nằm ở xã Ninh Sở, Thường Tín, Hà Tây. Nó được xây dựng vào cuối thế kỷ 13 cách trung tâm Hà Nội chừng 13 km đi theo đê sông Hồng xuôi hết địa phận Hà Nội họăc đi theo quốc lộ 1 dến ngã ba Ngọc Hồi, Thanh trì, Hà Nội rồi rẽ ra 5 km nữa. Đến Đại Lộ gắn với một Truyền Thuyết. Vào thời nhà Lê, vỡ đê ở cạnh đền, các quan về lo hàn khẩu không được, sau khi vào đền Cầu Đảo bỗng nhiên hiện lên đôi lốt chắn ngang, chặn dòng nước chảy xiết, lúc đó mới hàn khẩu được. Nhà vua mừng rỡ đã ban nhiều báu vật và đặc biệt hàng năm đều có cử các quan về tế lễ mở hội cùng dân làng.
Lễ hội hàng năm mở tù mùng 1 đến mùng 10 tháng 2 âm lịch, ngày chính vào mùng 4, 5 ,6 tháng 2. Trong 3 ngày đó có tổ chức rước lễ theo tục cổ truyền, đặc biệt là ngày mùng 5 có rước cấp thuỷ thu hút một lượng lớn khách du lịch. Ngày thần hoá 12/6 là ngày đại lễ của Đền.
Đền thờ “Tứ vị Thánh Nương” (Hoàng Hậu- vợ vua Tống Đọ Tông, 2 công chúa và một bà vú nuôi) và tướng Trần Hưng Đạo. Kiến trúc của đền đồ sộ nguy nga, được lập từ triều nhà Trần qua các triều Lê, Nguyễn đều được tôn tạo, trùng tu lại. Đền xây theo kiểu chữ đinh, rộng chừng 800m2 bao gồm hàng hiên, Đại Bái, Phương Đền, Giải Võ và 3 lớp hậu cung. Phía ngoài đồ sộ rạng rỡ chói loà. Phía sau trang nghiêm, trầm mặc. Đặc biệt là toà Phương Đền là một khối chồng diêm 8 mái, khắc chạm tinh xảo, chỗ cao nhất chừng 9 m, 4 cột gỗ đường kính khoảng 0,50 m cao chừng 8m, đứng trên trụ xi măng 1m liên kết với nhau, trên Thượng Lương của đền ghi rõ năm trùng tu (Khải Định 1924). Toà Phương Đền cấu trúc theo lối lầu son gác tía, cung đình giống như kinh thành Huế.
Mặt đền quay về phía Đông Nam để đón gió Sông Hồng. Từ sông Hồng vào 200m là miếu Câu Quân. Đền và Miếu Cậu Quận luôn đi cùng nhau. Tương truyền Cậu được Thượng Đế giao cho cai quản cửa sông, cửa đền Mẫu. Từ cổng lớn gọi là “ Mã Môn” rộng cách nhau khoảng 10m, hai cột Hoa Biểu cao chừng 9m, ngang 1m, đỉnh là 1 khối hoa dành dành cách điệu, cụm hoa khéo ghép 4 đuôi chim phượng nhưng lại lộ rõ hình long phượng ngoảnh mặt về 4 bên, đón gió 4 phương. Bên hữu đắp 4 mảnh phù điêu theo tích “Tam tạng lấy kinh”. Bên tả theo tích “Nhị sư lão đệ, tướng quân chuột” . Giữa 2 cột lớn nhỏ là 2 cổng ra vào, làm thành 2 tam quan cân đối. Trên đỉnh cột là đôi kỳ lân cách điệu. Qua cửa mã bên phải có 1 quả chuông lớn do thập phương gần xa công đức cùng với nhân dân địa phương tôn tạo 1995 với trọng lượng là 1,410 kg. Tháp chuông xây theo kiểu chồng diêm 8 mái hài hoà trang nhã.
* Đền Đồng Tử [14,11-12]
Đền nằm ở làng Đa Hoà, xưa thuộc xã Tổng Mễ Sở , huyện Đông An, tỉnh Hưng Yên nay thuộc xã Bình Minh, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng yên. Đền Chử Đồng Tử được Nhà nước xếp hạng vào năm 1962, là một trong những di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng của Việt Nam. Đền được xây dựng do sự đóng góp của nhân dân vơi sự giúp đỡ của Tiến sĩ Chu Mạnh Trinh. Thánh Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân của ngài được thờ ở ngôi đền này. Tới đây du khách có thể tận mắt chiêm ngưỡng “bồng lai tiên cảnh” và dâng hương bái vọng đức thánh thần. Đây chính là di tích lưu trữ một thiên tình sử mang ý nghĩa nhân văn cao đẹp giữa Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung in đậm trong tâm trí của hầu hết nhân dân Việt Nam.
Đền được xây dựng dựa trên lối kiến trúc và điêu khắc thời Nguyễn Tống thế kiến trúc của đền nằm trên
Một khu đất cao, rộng bằng phẳng hình chữ nhật có tổng diện tích là 18.720m2, bao gồm 18 nóc nhà. Con số này ám chỉ tới Hùng Vương thứ 18 và nàng Tiên Dung lúc đó mới 18 tuổi. Đền Chử Đồng Tử được chia làm 2 khu: khu ngoài rồng 7.200m2, không có tường bao quanh, nổi bật là nhà bia cửa trổ
Khu ngoài rộng 7.200m2 , không có tường bao quanh, nổi bật là nhà bia cửa trổ ra bốn hướng, 2 tầng, 8 mái cong, chịu ảnh hưởng của triết lý dịch học dưới bóng đa cổ thụ. Đây là kiến trúc mới được xây dựng sát cạnh nền cũ của ngôi nhà bia đá thực dân phá dỡ. Từ nhà bia đá giữa hai hàng cây gạo- một loại cây bất tử sánh ngang với tuổi đời của đền. Cổng chính có 2 cột vút cao, ngự trên đỉnh là 2 con lân quay mặt vào lối đi, ngày đêm canh giữ ngôi đền.
Con đường lát gạch rộng 8 m, hai bên là nhà chuông và nhà khánh đá. Cả 2 nhà đều có kiến trúc giống nhà bia. Trong đó chuông cao cao 1,5m, đường kính 0,8 m, khánh dài 1,2m, cao 0,8. Chuông và khánh đều được làm vào thời Nguyễn.
Tiếp đến là Ngọ mông gồm có 3 cửa chính là toà nhà 3 gian cao rộng, trên đỉnh nóc đứp lưỡng long chầu Nguyệt, trước cửa có 4 chữ nho “Bồng lai cung quyết”, cánh cửa được làm bằng gỗ lim
Qua sân lớn lát gạch là các nhà Đại Tế, Toà Thiên Hương, cung Đệ Nhị, cung Đệ Tam và cuối cùng là Hậu Cung. Nối liền các cung đối diện nhau qua sân Đậu và sân Chầu. Kiến trúc độc đáo của Đền là ở kiểu dáng nóc của 18 ngôi nhà lớn, nhỏ. Đỉnh của tất cả các nóc đều có hình con thuyền, dược đỡ bởi 2 con vật mặt rồng và mặt sư tử. Nếu đứng từ trên cao xuống sẽ thấy 18 nóc nhà, cái ngang cái dọc, cái cao, cái thấp như 18 con thuyền đang quần tụ. Nét đặc sắc của kiến trúc khu Đền được dồn cho Toà Thiên Hương. Toà có kiến trúc cao, thoáng, trang nghiêm. Toàn bộ phần mái 2 tầng, 8 mái cong gửi gắm triết lý dịch học, ngói vẩy cá, dầu có hình con lân, con rồng, con sư tử. Các bụng xà ngang có hình búp sen bằng gỗ chúc xuống như thể trời ban phước xuống cho chúng sinh. ở trong toà này còn có 2 câu đối viết về Chử Đồng Tử và Tiên Dung “kỳ duyên khoáng thiên cổ, nhân gian phu phụ, thiên thương thần tiên”
Nghệ thuật điêu khắc ở đây nổi bật là cửa võng ở cung Đệ Nhị và các bức Nghi Môn viền xung quanh cửa vào Ngọ môn, toà Thiên Hương và các cung. Các điêu khắc gỗ này đều được chạm lộng hình chim phượng, hoa cúc và hoa quả để biểu thị ước vọng cầu phúc 12 cánh cửa, từ toà Thiên Hương vào cung Đệ Nhị trên chạm lộng hoa lá như Mai, Cúc, Trúc, Thông và Tứ linh, những cỗ ngai vàng, bài vị và những cỗ kiệu được chạm khắc tỉa tót tinh vi.
Lễ hội của Đền diễn ra vào 9- 13/2 âm lịch. Trong những ngày này có cả lễ và hội. Phần hội với nhiều trò chơi dân gian hấp dẫn như thả đèn, chọi gà, kéo co, rước nước…
Phần hội là phần thu hút rất nhiều người tham gia cũng như sự chú ý của du khách. Trong đó có rất nhiều trò chơi dân gian nhưng đáng chú ý hơn cả là lễ rước nước, nó được làm sau phần khai mạc lễ rước nước tức là lấy và mang nước về từ Sông Hồng vào Đền. Theo tục lệ thì nước được dùng trong vệ Thánh ở Đền trong cả năm để lau tượng, nước cũng được lấy giữa dòng sông Hồng. Lễ rước nước hàng năm thu hút hàng trăm người tham gia và được chia thành các Đội như Đội tế năm, đội tế nữ, đội múa sênh, ban nhạc lễ, đội múa rồng. Tất cả các đội này đều mặc trang phục của ngày hội. Đi đầu đám rước là 2 cong rồng lộng lẫy uy nghi được rước đến hơn 10 người múa uốn lượn theo nhịp trống. Múa rồng là nghệ thuật làm sao cho “Rồng bay”. Dẫn đoàn rước kiệu là hai hàng các bà, các cô trong đội tế nữ quan trong những bộ xiêm áo dài đủ màu xanh, đỏ, vàng, trắng. Sau đám rước rồng là ban nhạc lễ, tiếp đến là kiệu thánh có lọng cho 2 bên cùng bát cửu, chấp kích do trai thanh gái lịch trong làng rước. Kiệu choé đựng nước do 8 trinh nữ khiêng. Hàng đoàn người trong trang phục ngày hội nối tiếp nhau theo đám rước tới bờ sông. Bên kia sông trên bãi Tự nhiên, nơi Chử Đồng Tử và Tiên Dung gặp nhau buôi đầu là đám hội của làng Ngư Dội chờ tham gia vào đoàn rước về trình thánh. Đoàn rước đến Bến Tuần thì dừng lại. Tại đây, hai con rồng được đưa xuống hai chiếc thuyền khác để bơi sang bãi Tự nhiên trong tiếng đàn, tiếng trống… Cuộc múc nước được tiến hành, người được giao nhiệm vụ múc nước là người già đức độ, khoẻ mạnh, mặc lễ phục, tay cầm giáo dừa sơn đỏ cúi xuống múc từng gáo đổ vào choé cho đầy. Xong việc thì đoàn rước quay trở về.
Đám rước trở về Đền trong tiếng trống, tiếng chiêng cùng những điệu múa, điệu hát và những trang phục sặc sỡ của ngày lễ hội.
* Làng nghề Bát Tràng [5,8- 9]
Làng gốm Bát Tràng nằm bên tả ngạn sông Hồng, cách Hà Nội 7 km đường thủy, hoặc 12km đường bộ. Đây là một địa danh nổi tiếng về làm gốm. Dân gian ta có câu “Thợ gốm Bát Tràng, thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xá”. Hàng năm, có khoảng hơn 10.000 khách quốc tế đến với Bát Tràng tham quan, mua đồ gốm lưu niệm.
Gốm sứ Bát Tràng nhiều mặt hàng đa dạng và độc đáo: những bộ ấm chén, bát , đĩa… hình chiếc lá, hình tròn, hình bầu dục làm bằng men ngọc rạn, men thuỷ tinh rạn với 3 màu chủ đạo: màu xanh, màu nâu hồng và màu vàng.
Hiện nay cả làng Bát Tràng hầu hết các hộ dân đều sản xuất gốm sứ. Có 2 loại gốm sứ được sản xuất tại Bát Tràng: gốm bình dân cung cấp cho thị trường tiêu dùng và gốm sứ trang trí cung cấp cho xuất khẩu và thị trường cao cấp trong nước.
Người dân Bát Tràng ai cũng biết nghệ nhân Lê Văn Cam- được Hội Mỹ thuật Việt Nam và Hội đồng TW liên minh các Hợp tác xã Việt Nam phong tặng danh hiệu “Đôi bàn tay vàng” năm 1999- người đã tạo ra những sản phẩm gốm sứ phục cổ, theo ông có những sản phẩm ông chỉ làm được 1 lần, không làm được cái thứ hai giống như thế. Nghệ nhân Lên Văn Cam chỉ làm sản phẩm theo từng chiếc chứ không sản xuất đại trà.
Để phát triển làng nghề Bát Tràng và khuyến khích khách du lịch đến với Bát Tràng, nhà nước đã đầu tư cơ sở hạ tầng, xây dựng hệ thống giao thông. Xã có chủ trương xây dựng cụm sản xuất gốm sứ tập trung và bảo tồn khu làng cổ Bát Tràng.
2.3. Thực trạng hoạt động du lịch của tuyến trong những năm qua
2.3.1. Nguồn khách
Khách du lịch tham gia vào chương trình Tour du lịch sông Hồng bao gồm cả khách nộ địa và khách quốc tế. Lượng khách đến chủ yếu là khách nội địa (97%), còn khách quốc tế là (3%)
Khách du lịch nội địa tham gia vào tuyến du lịch sông Hồng chủ yếu đến từ các cơ quan, tập thể, xí nghiệp và khách du lịch đo một số công ty du lịch khác gửi đến như Công ty du lịch Văn Miếu, công ty du lịch Hà Nội… Bên cạnh đó thỉnh thoảng cuãng có khách du lịch mua vé lẻ tham gia vào tour.
Khách du lịch quốc tế tham gia vào chuyến tour rất ít. Chủ yếu khách đến từ các đoàn công tác, các tổ chức đầu tư hợp tác có thời gian đến công tác ở Hà Nội và tranh thủ thời gian một ngày tham gia vào tuyến du lịch này.
2.3.2. Lượng khách
Kể từ khi đi vào hoạt động đến này, lượng khách tham gia vào tuyến du lịch sông Hồng là không ổn định qua các năm. Tuy nhiên lượng khách này có thể tăng đều qua các năm nhưng thực tế hoặt động lại không như mong muốn. Đây là một câu hỏi lớn đặt ra cho tuyến du lịch sông Hồng- một tuyến có rất nhiều tiềm năng để phát triển du lịch.
Tính đến năm 1998, tuyến du lịch sông Hồng đã đón được 26.339 lượt khách nhưng kể từ năm 2000 trở đi lượng khách đến với du lịch sông Hồng giảm nhiều.
Lượng khách năm 2002 của tuyến du lịch sông Hồng là 10.131 khách, năm 2003 là 10.039 khách và tính đến 4 tháng đầu năm 2004 lượng khách đạt được là 2357 khách (dự kiến khách của năm 2004 là khoảng 12.000 khách)
Biểu đồ lượng khách tuyến du lịch sông hồng
Lượng khách
(đv: 1000 người) 12.000 (dự kiến)
10 10.131 10.039
5
2002 2003 2004 Năm
2.3.3. Doanh thu
Doanh thu của tuyến du lịch sông Hồng qua các năm gần đây giữ được ở mức trên 1 tỷ. Tuy rằng lượng khách giảm so với thời gian đầu hoạt động nhưng doanh thu vẫn hơn một lượng đáng kể. Điều này được lý giải bởi sự đầu tư về cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật và các dịch vụ bổ trợ cho tour giúp các nhà điều hành tour có thể tăng giá thành tour hơn so với thời kỳ đầu mà vẫn được sự chấp nhận của khách. Thêm vào đó trong những năm gần đây, xí nghiệp đầu tư và phát triển du lịch sông Hồng mở rộng thêm một số lĩnh vực kinh doanh khác như cho thuê tàu tổ chức thăm quan, sinh nhật và gần đây nhất là mở nhà hàng nổi trên sông Hồng chắc chắn sẽ góp phần tăng doanh thu từ du lịch.
Doanh thu của năm 1998 là 544.031.489 đồng với số lượng khách là 26.339 người nhưng với lượng khách giảm hơn một nửa thì lượng doanh thu của năm 2002 là 1,3 tỷ, năm 2003 là 1,2 tỷ dự kiến này sẽ tăng hơn nhiều nhờ việc mở nhà hàng trên sông Hồng và việc dần hiệu quả hoạt động của tuyến du lịch “Đêm sông Hồng”
BIểu đồ doanh thu của tuyến du lịch sông Hồng.
Doanh thu (triệu đ)
1.600 1.500
1.400 1.300
1.200 1.200
1.000
800
600
400
200
2002 2003 2004 Năm
Những tháng đầu năm 2004 lượng khách đến với tuyến du lịch sông Hồng là ít do việc phải chuyển tàu ở cầu phao Khuyến Lương (Thanh Trì- Hà Nội) ít nhiều gây khó khăn cho khách trong vệc tham gia vào tour. Tuy nhiên chắc chắn xí nghiệp sẽ vẫn đảm bảo được doanh thu của năm với việc mở nhà hàng trên sông và đặc biệt nên khai thác mạnh hơn tuyến du lịch “Đêm sông Hồng”
Bảng lượng khách và doanh thu của 4 tháng đầu năm 2004
Tháng
Số khách (nghìn người)
Doanh thu (triệu đồng)
Tháng 1
2002,5
21
Tháng 2
755
81
Tháng 3
1050
184
Tháng 4
350
44
[Nguồn: “xí nghiệp đầu tư và phát triển du lịch sông Hồng”]
2.3.4. Cơ sở dịch vụ và phương tiện vận chuyển
2.3.4.1. Dịch vụ ăn uống
Trên tàu của tuyến du lịch sông Hồng đều có căng tin phục vụ đồ uống và đồ ăn nhẹ. Theo Quyết định số 5/VTHK do giám đốc xí nghiệp ban hành ngày 28/9/1999 thì số tiền thu được từ dịch vụ này không hạch toán vào giá thành. Mức lãi suất căng tin phục vụ trên tàu là 20%, trong đó bộ phận căng tin hưởng 50%, chi cho người trực tiếp phục vụ và xí nghiệp hưởng 50%. Số tiền này do Công đoàn xí nghiệp quản lý.
Xí nghiệp có phục vụ bữa ăn trưa theo yêu cầu của khách với mức giá 25.000đ/ suất, 30.000đ/ suất, 35.000đ/ suất và 40.000đ/ suất.
Tuy nhiên từ thực tế được tham gia vào một số chuyến tour của du lịch sông Hồng có thể nhận thấy rằng dịch vụ ăn uống ở đây chưa thật sự tốt. Bữa ăn phục vụ cho khách còn chưa đa dạng và chưa mang được những đặc tính của một bữa ăn phục vụ trên vùng sông nước.
2.3.4.2. Dịch vụ vận chuyển
Xí nghiệp Đầu tư và phát triển du lịch sông Hồng cung cấp phục vụ khách du lịch 3 tàu: Tàu Hà Nội3 (chở được 200 hành khách nhưng đã cũ, trang thiết bị nội thất không đạt yêucầu), tàu Thăng Long 333 (chở được 250 khách) và tàu sông Hồng 5 (mới đóng và chở được 40 khách)
Bảng: Đơn giá thuê tàu
Tàu
Trọng tải (khách)
Giá tiền một nửa ngày
(triệu đồng)
Giá tiền cả ngày
(triệu đồng)
Giá tiền một giờ
(nghìn đồng)
Hà Nội 3
200
3,5
7
600
Thăng Long 333
50
1,5
2,5
400
Sông Hồng 5
40
1,5
2,5
400
[Nguồn: “Xí nghiệp Đầu tư và phát triển du lịch sông Hồng”]
2.3.5. Cán bộ nhân viên trong xí nghiệp
Tính đến nay, tổng số cán bộ công nhân viên phục vụ trong tuyến du lịch sông Hồng của xí nghiệp Đầu tư và Phát triển du lịch sông Hồng là 32 người, trong đó bao gồm cả Giám đốc, Phó giám đốc, Kế toán, Hướng dẫn viên, Thuyền trưởng…
Điểm mạnh của xí nghiệp là đội ngũ thuyền trưởng, thuyền phó, máy trưởng và các thuyền viên đều được đào tạo, có nhiều năm kinh nghiệm. Trên thực tế đội ngũ này làm việc hết sức hiệu quả. Bộ phận tài vụ cũng gọn nhẹ, luôn hoàn thành tốt mọi việc
Tuy nhiên đội ngũ nhân viên trực tiếp kinh doanh hoạt động du lịch còn thiếu và yếu. Xí nghiệp không có bộ phận marketing chuyên trách về du lịch mà nhiệm vụ do luôn hướng dẫn viên đảm nhiệm. Đội ngũ hưỡng dẫn viên xí nghiệp chỉ có 3 người tham gia vào tuor.
Do đặc thù tính chất công việc là đi du lịch trên sông nên yêu cầu về hướng dẫn viên ở đây rất cao. Tuy nhiên đội ngũ hướng dẫn viên ở đây chưa thật sự chuyên nghiệp trong tổ chức hoạt động du lịch. Kiến thức mà hướng dẫn viên cung cấp cho khách là chung chung, chưa độc đáo. Kỹ năng quản lý đoàn còn chưa chuyên nghiệp. Thêm vào đó trình độ ngoại ngữ của Hướng dẫn viên ở đay là vấn đề đáng quan tâm. Hầu hết hướng dẫn viên còn yếu về ngoại ngữ. Những kiến thức mà hướng dẫn đưa cho khách là rất sơ lược mà khách có thể đọc được trong bất cứ tài liệu nào viết về Việt Nam.
2.4. Thực trạng về mối quan hệ giữa du lịch và cộng đồng địa phương của tuyến du lịch sông Hồng.
2.4.1.Cộng đồng địa phương đối với du lịch
Trong chương trình 1 của tuyến du lịch sông Hồng du khách sẽ có cơ hội đến thăm làng nghề gốm ở Bát Tràng, làng nghề Mây tre đan ở Ninh Sở- Hà Tây (Đền Dầm- Đền Đại Lộ) và nghề trồng thuốc nam ở Đa Hoà- Khoái Châu- Hưng Yên (Đền Chử Đồng Tử)
Đây hầu hết là những ngôi làng cổ, vẫn mang dáng dấp những ngôi làng Việt cổ xưa. Yếu tố làng cổ cộng với nghề thủ công truyền thống chắc chắn là yếu tố hấp dẫn để phát triển du lịch ở đây.
Tuy nhiên, có một điều thật dáng tiếc là tour du lịch sông Hồng chưa khai thác hết được tiềm năng du lịch này. Với chương trình tour này du khách chỉ có cơ hội 1 giờ đồng hồ để thăm Đền Dầm- Đền Đại Lộ, 40 phút thêm Đền Chử Đồng Tử và khoảng gần 1 giờ đồng hồ nữa để thăm khu Hội chợ của làng gốm Bát Tràng. Chính vì thế có một điều đáng tiếc rằng yếu tố cộng đồng địa phương gần như không được quan tâm hay nói cho chính xác hơn mối quan hệ giữa cộng đồng địa phương và du lịch của tuyến du l ịch sông Hồng là chưa được quan tâm đúng mức.
Trong những chuyến đi thực tế của tuyến, sự giao tiếp của khách du lịch với người dân địa phương chỉ dừng ở mức độ trao đổi mua bán hàng hoá.
Trong quá trình thâm nhập tìm hiểu thực tế được biết cộng đồng dân cư ở đây rất ít khái niệm về việc phát triển du lịch. Qua việc phỏng vấn 120 người dân địa phương tại các điểm du lịch mà chuyến tour đi qua, thì có 40 người dân địa phương nói rằng họ đã trao đổi trò chuyện trực tiếp với khách du lịch (chiếm 33,3%), 60 người khác nói rằng họ có quan hệ trao đổi hàng hoá với khách du lịch (chiếm 50%), còn 20 người khác nói rằng họ chưa bao giờ tiếp xúc với khách du lịch (chiếm 16,7%). Tuy nhiên trong số 40 người dân đã từng tiếp đón, gặp gỡ, chuyện trò với khách du lịch thì có đến 35 người dân là ở làng nghề Bát Tràng- địa điểm phát triển du lịch nhất trong hành trình
33,3%
50%
16,67%
Mối quan hệ người dân địa phương với du khách
Quan hệ mua bán
Trao đổi trò chuyện với khách
Chưa gặp bao giờ
Có một điều đặc biệt là chương trình du lịch sông Hồng xây dựng chương trình tour chung cho cả khách nội địa và hách quốc tế với mức giá chung nên trong 100 người dân được hỏi là có gặp gỡ với khách du lịch thì trong đó có 70 người dân nói rằng chỉ gặp gỡ với khách nội địa (chiếm 70%) và chỉ có 30 người dân đã nói chuyện với khách quốc tế (30%)
ở tất cả các điểm du lịch mà chuyến tour đến thì đều có làng nghề thủ công truyền thống. Đây là một yếu tố thuận lợi cho việc phát triển du lịch. Nó có thể cung cấp cho du khách hàng hoá lưu niệm của địa phương và ngược lại đồng thời cũng mang lại lợi nhuận kinh tế cho người dân địa phương. Tuy nhiên trong hành trình của chuyến du lịch này chỉ có làng gốm Bát Tràng có xây dựng việc bán hàng lưu niệm cho du khách có qui hoạch rõ ràng trong một khu Hội chợ còn tại các điểm khác thì hầu như không có.
Khi tiếp xúc với người dân làng Ninh Sở (Hà Tây) với làng nghề mây tre đan nỏi tiếng tại đền Dầm, đền Đại Lộ thì người dân đều nói rằng sản phẩm của họ hiện nay chỉ dành cho xuất khẩu là chính chứ không phục vụ cho du lịch. Người dân địa phương cho rằng sự không ổn định lượng khách du lịch đến địa phương chính là yếu tố khiến họ không muốn sản xuất hàng phục vụ cho du khách. Trừ khi vào mùa chính hội của đền (dịp sau Tết) một số hộ gia đình sản xuất nhỏ mới sản xuất một số mặt hàng phục vụ cho nhu cầu của khách. ở làng mây tre đan Ninh Sở- Hà Tây mọi người chỉ chú ý sản xuất phục vụ cho xuất khẩu. Người dân tự hào nói rằng hàng ngày có hàng chục công ten nơ đến chở hàng ở đây, nhưng thực tế đáng buồn là khi khách du lịch đến thăm khu vực 2 đền của làng lại không được mua, không được chứng kiến cảnh làm mây tre đan ở đây. Điều này một phần lỗi do các nhà điều hành tổ chức chương trình du lịch nhưng qua đó có thể thấy rằng hầu như có rất ít sự quan hệ qua lại giữa những nhà làm du lịch với người dân địa phương trong việc hoạch định phát triển du lịch
Cũng tương tự như vậy ở khu vực đền Chử Đồng Tử- nổi tiếng vơi nghề thuốc nam gia truyền. Tuy nhiên nghề thuốc nam này chỉ dừng ở mức độ địa phương. Người dân thường xuyên thu hoạch các cây thuốc nam, phơi khô rồi bán buôn cho người trên Hà Nội. Trước khu vực của Đền cũng có bán một số loại thuốc nam nhưng khách du lịch rất ít mua bởi đôi khi họ không tin tưởng lắm vào các loại thuốc này. Khách du lịch muốn tìm đến nhà làm thuốc nam gốc trong làng nhưng do thời gian của chuyến du lịch không cho phép nên họ không thể mua được.
Khi hỏi trực tiếp về mối quan hệ của xí nghiệp đầu tư và phát triển du lịch sông Hồng với cộng đồng địa phương của những điểm đến, hướng dẫn viên của chuyến tour cho biết vào mùa lễ hội của các Đền ở đây khi mà hàng ngày đều có đoàn khách đến thăm các điểm du lịch, xí nghiệp dưới sự chỉ đạo của Tổng cục du lịch cũng trích một phần kinh phí hỗ trợ người dân trong việc dọn dẹp, sửa chữa quang cảnh của làng, hệ thống đường xá và công việc tiếp đón nhưng khi qua mùa lễ hội thì người dân lại không quan tâm lắm đến hoạt động du lịch. Điều này cũng dễ hiểu bởi tính mùa vụ của hoạt động du lịch đường sông khi mùa nước lũ lên thì hầu như không còn đoàn khách nào đến điểm du lịch.
Duy chỉ có làng nghề gốm Bát Tràng là phát triển mạnh về du lịch. Người dân địa phương ở đây ý thức rất rõ về vai trò của du lịch đối với cộng đồng địa phương. Bên cạnh việc sản xuất hàng cho xuất khẩu và phục vụ ngườ tiêu dùng trong nước, chính quyền địa phương rất quan tâm để xây dựng một khu vực Hội chợ riêng phục vụ cho nhu cầu mua- bán trao đổi giữa dân địa phương và khách du lịch. Dự án khu Hội chợ này đang dần dần được hoàn thiện và sẽ chính thức khai trương vào năm 2005. Điều đặc biệt là chính quyền và người dân địa phương ở đây hiểu rất rõ rằng việc phát triển du lịch là cách tốt nhất để “quảng bá hình ảnh địa phương” tới thị trường khách trong và ngoài nước. Được sự quan tâm đầu tư thích đáng làng gốm Bát Tràng đang ngày càng phát triển mạnh mẽ về du lịch, coi du lịch là một ngành kinh tế quan trọng của địa phương . Có thể nói rằng mô hình làng gốm Bát Tràng cũng là điều đáng học tập cho các làng nghề khác trong chuyến du lịch. Tuy nhiên tiềm năng khai thác phục vụ du lịch của làng nghề Bát Tràng vẫn còn rất nhiều mà trong thời gian thăm khoảng gần 1 giờ đồng hồ của chuyến tour là chưa thể đáp ứng được. Đây là điều mà chính quyền địa phương cùng các nhà du lịch nên tìm cách khai thác mạnh mẽ hơn nữa. Trong khuôn khổ của khoá luận tốt nghiệp này tác giả cũng xin mạn phép đưa ra một số định hướng giải pháp cho vấn đề này ở phần chương sau.
Qua quá trình tiếp cận, trao đổi với người dân địa phương về cảm nhận của họ đối với du lịch thì điều đang ngạc nhiên là 100% người dân ở đây đều khẳng định họ muốn du lịch phát triển ở địa phương này. Xin phép được trích lời của một cụ già trông coi đền ở đền Chử Đồng Tử: “Người dân chúng tôi tuy chân lấm tay bùn quanh năm nhưng cũng hiểu thế nào là du lịch. Chúng tối không hiểu du l ịch với ý nghĩa cao xa mà chỉ đơn giản hiểu rằng có du lịch chúng tôi có khả năng mở rộng quan hệ giao tiếp với nhiều người từ khắp nơi trên đất nước, có đều kiện để giới thiêu sản phẩm của địa phương chúng tôi và có điều kiện để cải thiện thu nhập cho người dân”.
Tuy nhiên hoạt động du lịch thực tế tại địa phương lại chưa đáp ứng được hết nhu cầu của người dân địa phương. Đây là vấn đề cần được sự quan tâm thích đáng của chính quyền địa phương, những nhà hoạch định du lịch và cả những hoạt động thiết thực của người dân địa phương
2.4.2. Du khách với cộng đồng địa phương
Khách du lịch tham gia vào tuyến du lịch sông Hồng khá đa dạng và phong phú, từ người giá đến thanh niên thuộc mọi tầng lớp xã hội như bác sĩ, kỹ sư, sinh viên, nông dân… Đặc biệt vào mùa lễ hội lượng khách là rất đông đảo
Để hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này tác giả đã tham gia trực tiếp vào các tuyến du lịch. Trong các tour du lịch tác giả tham gia với 75 khách có thể thấy sự đa dạng của nguồn khách tuyến du lịch sông Hồng. Trong tổng số 75 khách tham gia có tới 70 khách nội địa và chỉ có 5 khách quốc tế đều đến từ Pháp. Cả 5 khách quốc tế này đều chỉ nói được tiếng Pháp mà không nói được tiếng Anh nên hướng dẫn viên của tuyến không cung cấp được thông tin cho khách. Rất may mắn trong chương trình tour có một thành viên trong đoàn là bác sĩ của khoa cấp cứu bệnh viện Bạch Mai có khả năng trao đổi bằng tiếng Pháp đã giúp những vị khách du lịch này hiểu về các địa điểm trong tuyến du lịch. Qua tìm hiểu được biết hầu hết số lượng khách nội địa đến với tuyến du lịch sông Hồng qua chương trình giới thiệu tờ rơi của xí nghiệp, một số là do bạn bè giới thiệu nhưng đặc biệt đối với 5 khách quốc tế thì họ nói rằng họ chỉ đọc trong một cuốn sách rằng ở Việt Nam có một con sông Hồng và vì tò mò họ tìm đến chương trình tour này bởi họ không hề biết tiếng VIệt hoặc tiếng Anh trong khi tờ quảng cáo của xí nghiệp lại chỉ được viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh.
Để hiểu rõ hơn về cảm nhận của khách quốc tế đối với chương trình tour này tác giả đã cố gắng tiếp cận với khách nước ngoài đang làm việc, sinh sống hoặc thăm quan Việt Nam. Trong quá trình tiếp xúc tác giả đã gặp được 25 người khác nói rằng họ đã từng tham gia vào tuyến du lịch sông Hồng. Đa số các vị khách nước ngoài này đều lần đầu tiên tham gia vào tuyến du lịch sông Hồng và chưa có cơ hội tham gia lần thứ hai. Nhìn chung khách du lịch quốc tế khá hài lòng với chương trình của tour. Nhưng câu hỏi đặt ra là khi tham gia vào các chương trình tour này họ có điều kiện tiếp xúc với người dân địa phương không?
Trong 70 khách du lịch nội địa tham gia vào chương trình tour thì 100% đều có cơ hội gặp gỡ với người dân địa phương. Tuy nhiên mức độ tiếp xúc lại khác nhau rất khác nhau. Có 20 khách du lịch nội địa rất quan tâm tìm hiểu về lối sống, phong tục tập quán, lịch sử làng của địa danh mà cuộc hành trình ghé chân. Số ượng du khách này lại chủ yếu là người già, người miền Bắc di cư vào Nam nay có điều kiện trở ra Bắc. Có 20 khách du lịch khác có mức độ tiếp xúc với khách du lịch thấp hơn, chỉ dừng ở mức độ xã giao thăm hỏi. Còn 30 khách du lịch thì hoàn toàn chỉ tiếp xúc với người dân địa phương ở quan hệ mua- bán trao đổi hàng hoá.
Còn trong tổng số tất cả 30 khách du lịch quốc tế mà tác giả có cơ hội tiếp xúc thì chỉ có 3 khách du lịch quốc tế người Pháp có khả năng nói tiếng Việt để tìm hiểu rất cặn kẽ về điểm đến qua việc trao đổi với người dân địa phương. Đặc biệt 3 vị khách này đã tự tìm đến nhà nghệ nhân Lê Văn Cam ở làng gốm Bát Tràng để hiểu thên về quy trình làm gốm cũng như đời sống sinh hoạt của làng cổ Việt Nam. Có 12 vị khách khác cũng có quan hệ xã giao với người dân địa phương. Họ cũng hiểu được chút ít về điểm du lịch qua vệc trao đổi với người dân địa phương dưới sự giúp đỡ của hướng dẫn viên. Còn lại 15 vị khách quốc tế khách chỉ là quan hệ mua- bán trao đổi. Có một điệu đáng quan tâm là tất cả các du khách quốc tế này đều rất mong muốn có sự tìm hiểu cặn kẽ hơn nữa. Họ cho biết rằng họ cảm thẩy rất thú vị với lối sống vùng ven sông của các cư dân, của cách bố trí xây dựng làng xã Việt Cổ (hình xương cá- tiêu biểu làng gốm Bát Tràng) và hoạt động lao động bình thường của người dân địa phương. Tất cả họ đều mong muốn có một hoạt động gần gũi hơn nữa giữa du khách và người dân địa phương
Bảng so sánh về mối quan hệ của khách nội địa và khách quốc tế với cộng đồng địa phương
Mức độ giao tiếp
Loại khách
Giao tiếp
thân mật
Giao tiếp
xã giao
Trao đổi
mua- bán
Khách nội địa
20/70
20/70
30/70
Khách quốc tế
3/30
12/30
15/30
Tổng số
23/100
32/100
45/100
[Kết quả khảo sát thực tế của tác giả]
Như vậy có thể thấy rằng mối quan hệ giữa cộng đồng địa phương với khách du lịch hầu như là rất ít. Thêm vào đó hoạt động giao tiếp lại chủ yếu diễn ra ở làng gốm Bát Tràng. Mặc dù mối quan hệ giao tiếp này có thân mật hay xã giao thì khách du lịch vẫn thực sự chưa có điều kiện hoà nhập với đời sống hằng ngày của cộng đồng dân cư địa phương mà đây lại là hoạt động rất có hiệu quả cho du lịch
Kết luận chương 2
Chương 2 tác giả đã trình bày được khá chi tiết về giá trị tiềm năng của tuyến du lịch sông Hồng và thực trạng hoạt động của tuyến với tiềm năng du lịch phong phú và đa dạng nhưng thực trạng hoạt động của tuyến lại chưa tương xứng với tiềm năng ấy. Đặc biệt tuyến du lịch sông Hồng chưa khai thác được hết sự tham gia của cộng đồng địa phương trong sự phát triển du lịch, một yếu tố rất cần thiết trong việc phát triển du lịch bền vững. Đứng trước thực trạng này tác giả khoá luận xin phép được đưa ra một số định hướng giải pháp nhằm thúc đẩy mạnh hơn nữa nhằm làm tương xứng giữa tiềm năng và thực trạng hoạt động du lịch của tuyến”
Chương 3: Kiến NGhị xây dựng
Chương trình tour mới và một số giải pháp
3.1. Kiến nghị xây dựng chương trình tour mới:
Qua việc khảo sát thực tế chương trình 1 của tuyến du lịch sông Hồng cùng với việc ghi nhận ý kiến đóng góp của người dân địa phương, tác giả nhận thấy rằng chương trình du lịch 1 này còn khá nhiều bất cập, mới chỉ là một chương trình du lịch mang tính chất thăm quan đơn thuần chứ chưa thực sự khai thác hết được những hoạt động khác trong lịch trình tour.
Trước khi đưa ra chương trình du lịch mới cho tuyến du lịch. Xin đưa ra một cách ngắn gọn về chương trình du lịch này:
Chương trình 1: Hà Nội - Đền Dầm- Đền Đại Lộ- Đền Chử Đồng Tử- Bát
Tràng- Hà Nội.
07h30: Tàu đón tại 121 Chương Dương Độ đưa quý khách đến cầu phao Khuyến
Lương.
10h00: Quý khách lên bờ thăm quan đền Dầm- đền Đại Lộ
11h00: Quý khách trở lại tàu tiếp tục xuôi theo dòng sông Hồng.
11h30; Quý khách lên bờ thăm quan đền Chử Đồng Tử (đền thờ Tình yêu)
12h15: Quý khách trở lại tàu, ngược đòng sông Hồng và ăn trưa trên tàu.
14h45: Thăm quan làng gốm Bát Tràng, mua sắm đồ lưu niệm.
15h45: Quý khách lên tàu trở về Hà Nội.
17h30: Kết thúc chương trình tại 121 Chương Dương Độ
Giá vé: 120.000đ/người.
3.1.1. Giới thiệu lịch trình tour mới:
Trước hết phải khẳng định răng tác giả không hoàn toàn muốn thay đổi hành trình, lịch trình của chuyến tour. Kiến nghị xây dựng tour mới này chỉ là sự kế thừa những gì đã có và dựa vào đó nhằm xây dựng thêm một số hoạt động trong tour nhằm khai thác có hiệu qủa mọi tiềm năng của tuyến du lịch sông Hồng với mục đích cuối cùng nhằm thoả mãn nhu cầu của du khách, tăng thu nhập từ du lịch cho người dân địa phương đồng thời lôi kéo sự tham gia của người dân địa phương trong sự phát triển du lịch .
Chương trình du lịch
Hà nội- đền dầm- đền đại lộ- đền chử đồng tử- bát tràng
( 2 ngày 1 dêm)
Lịch trình chi tiết:
Ngày 1:
7h30: Tầu đón khách tại 121 Chương Dương Độ đưa quý khách đến cầu phao Khuyến Lương.
10h00: Thăm đền Dầm- đền Đại Lộ
11h00: Thăm một số hộ gia đình làm mây tre đan trong làng và mua sắm đồ lưu niệm.
12h00: Trở lại tầu xuôi dòng sông Hồng và ăn trưa.
13h00: Thăm quan đền Chử Đồng Tử.
14h00: Thăm kiến trúc làng cổ Bình Minh- Khoái Châu- Hưng Yên.
Thăm một số hộ gia đình làm thuốc nam truyền thống
16h00: Thời gian tự do cho việc mua sắm, chụp ảnh.
17h30: Ăn tối tại nhà người dân địa phương.
19h00: Sinh hoạt tập thể với người dân địa phương (giao lưu văn nghệ, tham gia các trò chơi dân gian).
21h00: Nghỉ qua đêm tại nhà người dân địa phương.
Ngày 2:
7h31: Tập trung tại tàu ngược dòng sông Hồng.
9h00: Thăm quan làng gốm Bát Tràng mới và các cửa hàng, đình chùa.
11h00: Nghỉ ngơi tại Nhà hàng Cửa Vân
11h30: Ăn trưa tại nhà người dân địa phương.
13h00: Thăm quan Hội chợ Bát Tràng
Tham gia trực tiếp làm gốm tại đay.
15h00: Thời gian cho việc mua sắm đồ lưu niệm.
16h00: Lên tầu trở về Hà Nội.
17h30: Kết thúc chương trình tại Hà Nội.
3.1.2. Thị trường du lịch lựa chọn
Việc xây dựng chương trình tour mới trên nhằm muốn thu hút ngày càng nhiều du khách đến tham gia vào tuyến du lịch sông Hồng.
Trước đây thị trường du lịch của tuyến là khá đa dạng, phù hợp với thời gian nghỉ ngơi của mọi người.
Cùng với sự thay đổi về chính sách nghỉ ngơi cho cán bộ công nhân viên với 2 ngày nghỉ thứ 7 và chủ nhật thì sẽ chắc chắn đây sẽ là hoạt động du lịch hấp dẫn cho mọi loại khách. Với chương trình du lịch trên (nếu được áp dụng) chúng ta nên lựa chọn chuyến du lịch khách du lịch nội địa là các cơ quan, đoàn thể, trường học có thời gian nghỉ thứ 7, chủ nhật. Đây là hình thức du lịch phù hợp với các đoàn đi theo nhóm tuy nhiên nếu có cách tổ chức linh hoạt thì việc gộp các vé lẻ cũng tạo nên một chương trình du lịch độc đáo.
Đối với thị trường khách du lịch quốc tế thì việc giới thiệu các chương trình này đến các cơ quan có người nước ngoaì công tác hoặc các nhóm hoạt động xã hội, dự án tại Việt Nam tham gia là rất có khả năng phát triển. Loại hình khách này thường có thời gian lưu trú rất ít và họ chỉ có thể tận dụng những ngày nghỉ cuối tuần để thăm quan và lại vẫn có thể tiếp tục làm việc ngày hôm sau. Tuy nhiên để phát triển chuyến du lịch thì ở cả hai loại thị trường khách du lịch nội địa và khách du lịch quốc tế đều có một đối thủ cạnh tranh rất mạnh là điểm du lịch Vịnh Hạ Long- một di sản thiên nhiên thế giới. Nhưng một điều chắc chắn khẳng định rằng tuyến du lịch sông Hồng nếu dược quan tâm đầu tư đúng mực sẽ thực sự hấp dẫn khách du lịch bởi tính độc đáo trong từng loại hình phục vụ như phương tiện vận chuyển, dịch vụ cung cấp...
3.1.3. Phần tính giá:
Phần tính giá cho tour du lịch mới này cũng được xây dựng nhằm phù hợp với các hoạt động và dịch vụ mà khách du lịch được cung cấp trong chuyến tour.
Số lượng khách dự kiến: 15 người
Số ngày : 2 ngày/1đêm
Địa điểm thăm: đền Dầm- đền đại Lộ- đền Chử Đồng Tử- làng gốm Bát Tràng.
Các thành phần bao gồm trong chuyến tour:
Phương tiện vận chuyển; tầu thuỷ
Ăn trưa + ăn tối + giải khát
Cơ sở lưu trú
Vé thăm quan
Xem chương trình văn nghệ
Hướng dẫn viên
Phí làm đồ gốm tại làng gốm Bát Tràng
Quà lưu niệm
Bảo hiểm
Các thành phần không bao gồm:
Đồ lưu niệm
Đồ uống trên tàu
Các chi phí và dịch vụ cá nhân (chụp ảnh, mua sắm...)
STT
Các thành phần bao gồm
Chi phí cá nhân (đồng)
Chi phí theo nhóm (đồng)
1
Vận chuyển
2.500.000
2
Ăn trưa
50.000
3
Ăn tối
30.000
4
Giải khát
10.000
5
Lưu trú qua đêm
5.000
6
Vé thăm quan
10.000
7
Xem văn nghệ
300.000
8
Hướng dẫn viên
100.000
9
Phí làm đồ gốm
200.000
10
Quà lưu niệm
10.000
11
Bảo hiểm
1.500
12
Tổng
116.000
3.100.000
Chi phí cho toàn nhóm tính trên từng du khách:
3.100.000 : 15 = 206.666đ
Chi phí chung tính trên từng du khách:
206.666 + 116.500 = 323.166đ
Chi phí cho một chuyến tour 1 ngày với 15 người:
323.166 * 15 = 4.847.500đ
Lợi nhuận ( 20%) tính trên từng du khách:
323.166 + 64.633 = 387.799đ
Giá bán thực chất: 389.000đ/khách.
Lợi nhuận thu được toàn chuyến tour với 15 khách:
( 389.000 * 15) – 4.847.500 = 987.500đ
Lượng khách tối thiểu cho một tour:
3.100.000 = 11 khách
389.000 – 116.000
Như vậy với đoàn khách 11 người thì chuyến tour sẽ đảm bảo được chi phí. Từ người khách thứ 12 trong một tour thì chuyến tour sẽ có lợi nhuận.
Giá bán của tour: 389.000đ/ 1 khách.
Tuy nhiên mức giá này cũng sẽ thay đổi linh hoạt phụ thuộc vào mùa du lịch hay không. Mức giá này cũng sẽ thay đổi khi lượng khách là đông hơn 15 người thì mức chi phí chung sẽ thay đổi cho phù hợp.
3.1.4 Quảng cáo, giới thiệu về tour:
Đây là một khâu yếu nhất trong toàn bộ cách quản lý du lịch của chuyến du lịch sông Hồng. Sự yếu kém trong quy trình marketing giới thiệu sản phẩm chính là một phần nguyên nhân gây ra sự suy giảm về lượng dẫn đến sự suy giảm về chất lượng chuyến du lịch. Việc cần làm đầu tiên cho việc phát triển tuyến du lịch sông Hồng là việc xây dựng bộ phận marketing nghiên cứu thị trường.
Việc tiếp thị du lịch của du lịch bền vững cần đảm bảo là quá trình tiếp thị một cách có trách nhiệm [3, 35]. Việc tiếp thị cung cấp cho khách du lịch những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm sẽ nâng cao sự tôn trọng của du khách đối với môi trường thiên nhiên, văn hoá và xã hội của nơi thăm quan đồng thời sẽ tăng thêm sự thoả mãn của khách.
Quá trình tiếp thị của tuyến du lịch sông Hồng sau khi đã có bộ phận nghiên cứu thị trường xác định thị trường mục tiêu, xây dựng giá bán hợp lý phù hợp với tiêu chuẩn dịch vụ thì việc cần thiết phải làm là sao cho việc tiếp thị sản phẩm nhanh nhất, thuận tiện nhất đến mọi đối tượng khách ở mọi nơi.
Chương trình quảng bá này có thể tiến hành như sau:
Phát hành ấn phẩm:
Xí nghiệp đầu tư và phát triển du lịch sông Hồng nên in ấn các ấn phẩm về chương trình tour với nội dung ngắn gọn và dễ nhớ. Điều đặc biệt lưu ý là chương trình du lịch phải được in với các thứ tiếng sau: tiếng việt- tiếng Anh- tiếng Pháp- tiếng Trung và tiếng Nhật.
Những thị trường khách này là rất có điều kiện để phát triển. Đồng thời Xí nghiệp cũng hỗ trợ cho người dân địa phương xây dựng các ấn phẩm riêng về điểm du lịch mà chuyến tour ghé qua bằng các thứ tiếng như trên với nội dung hấp dẫn, lôi cuốn nhưng vẫn phải phản ánh trung thực chất lượng sản phẩm tại địa phương và thể hiện các nguyên tắc hướng dẫn chỉ đạo cho du khách tại các điểm du lịch.
Các ấn phẩm quảng cáo này sẽ được phân phát đến các cơ quan, xí nghiệp, trường học, khu dân cư...
Quảng cáo trên tạp chí sách báo:
Chương trình du lịch sông Hồng mặc dù đã hoạt động gần 10 năm nhưng nhiều người vẫn chưa hề biết về tuyến du lịch, đặc biệt là du khách nước ngoài.
Thỉnh thoảng trên báo Hà nội mới cũng có một số bài viết về chưang trình du lịch này. Tuy nhiên với những bài báo này thì chương trình chỉ đến được bộ phận tầng lớp Người cao tuổi là chủ yếu. Việc quảng báo trên sách báo, tạp chí là rất quan trọng.
Việc trước tiên phải làm là cần xây dựng một hình ảnh mới về biển quảng cáo của bến du lịch sông Hồng tại bến Chương Dương Độ. Biển quảng cáo này chỉ mang tính chất thông báo địa điểm của chương trình du lịch sông Hồng chứ không mang tính chất khơi gợi trí tò mò, lôi cuốn mọi người. Thêm vào đó biển quảng này lại chỉ được viết bằng tiếng Việt. Có thể thay biển quảng caó đơn thuần chữ trắng nền xanh này bằng một biển quảng cáo tự động chiếu sáng với những hình ảnh màu hấp dẫn lạ mắt.
Việc đưa chương trình du lịch sông Hồng cho khách du lịch nội địa có thể tập trung vào một số tờ báo như Du lịch, Phụ nữ... Chỉ có một góc nhỏ trong tờ báo này nên nội dung quảng cáo phải đảm bảo tính cô đọng, xúc tích nhưng vẫn đầy đủ, trung thực. Đặc biệt đối với khách du lịch quốc tế việc đưa sản phẩm đến họ là rất quan trọng. Quảng bá trên Heritage, The guide là cách dễ nhất để tiếp cận với khách quốc tế. Tuy nhiên chi phí cho quảng cáo này là khá cao đòi hỏi nguồn lực vốn khá mạnh của Xí nghiệp. Cũng nên đồng thời tiến hành song song việc đưa các thông tin về chương trình lên địa chỉ của mạng Internet. Các thông tin cung cấp lên mạng nên đi kèm hình ảnh về các chuyến du lịch thực tế các diểm du lịch.
Tham gia hội chợ về du lịch:
Ngày nay khi du lịch đã phát triển thì ngày càng nhiều công ty du lịch khắp cả nước được mở ra. Việc tổ chức Hội chợ Du lịch đã được Tổng cục du lịch quyết định mở hàng năm nhằm giới thiệu các sản phẩm du lịch mới đến thị trường khách du lịch. Việc lựa chọn một gian hàng là rất cần thiết và nhằm tạo ra tính hấp dẫn, độc đáo riêng của chương trình du lịch sông Hồng. Bên cạnh việc trang trí, bài trí gian hàng, Xí nghiệp nên mời các hộ gia đình của làng nghề thủ công Bát tràng, làng mây tre đan Ninh Sở đến tham gia biểu diễn cách làm nghề của địa phương họ. Bên cạnh đó cũng sẽ tổ chức hát quan họ giao duyên với khách du lịch đến gian hàng nhằm thu hút số lượng lớn khách du lịch.
Hằng năm đều có các hội chợ chuyên về du lịch bền vững ví du lịch sinh thái do PATA tổ chức, đây là cơ hội tốt cho sự hội nhập quảng bá giới thiệu sản phẩm du lịch.
Tổ chức các farmtrip:
Farm trip này được tổ chức cho các hãng du lịch, các đại lý du lịch nước ngoài tìm hiểu thực hiện các chương trình du lịch tại Hà Nội. Các chương trình farmtrip này được tổ chức giảm giá hoặc miễn phí dịch vụ.
Tặng quà cho khách sau chuyến đi:
Tuy đây là chương trình áp dụng sau chuyến tour nhưng vẫn nên đưa vào chiến lược marketing.
Sau mỗi chuyến tour nên tặng quà cho khách du lịch. Quà có thể là biểu tượng của xí ngfhiệp in trên mũ, áo phát cho khách. Xí nghiệp cũng nên liên hệ phối hợp với người dân Bát tràng, làng mây tre đan Ninh Sở làm những sản phẩm để tặng cho khách du lịch là khách đoàn như tranh bằng gốm, bàn ghế mây tre đan.
Tặng quà cho khách bằng sản phẩm du lịch mang tính chất độc quyền của điểm đến là cách hợp lý và hữu hiệu nhất để gây ấn tượng tốt với khách du lịch, quảng bá về hình ảnh của công ty.
3.2. Một số hướng nhằm tăng cường sự tham gia của cộng đồng địa phương trong hoạt động du lịch:
Việc tham gia của cộng đồng địa phương vào du lịch sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho họ và môi trường mà còn nâng cao chất lượng du lịch. Sự tham gia của địa phương là rất cần thiết để phát triển bền vững và hợp lý. Sự phát triển đó đáp ứng nhu cầu của dân bản địa và bảo vệ môi trường thiên nhiên và văn hoá của họ. Phát triển du lịch một cách thận trọng có thể mang lại những lợi ích kinh tế, môi trường và văn hoá cho cộng đồng. Ngược lại sự tham gia thực sự của cộng đồng có thể làm phong phú kinh nghiệm và sản phẩm du lịch.
Từ thực tế hoạt động những năm vừa qua có thể thấy rằng hầu như không có sự tham gia của người dân địa phương trong hoạt động du lịch. Nhưng ngược lại khi tiếp xúc với người dân địa phương ở các điểm đến họ đều mong muốn du lịch phát triển ở địa phương mình và họ có cơ hội tham gia vào hoạt động du lịch. Dựa trên chương trình du lịch mới và nhằm tìm kiếm biện pháp lôi cuốn sự tham gia của người dân địa phương vào du lịch tác giả xin đưa ra một số đề xuất giải pháp sau:
3.2.1. Đẩy mạnh vai trò của người dân địa phương trong quản lý, điều hành hoạt động du lịch:
Sự tham gia của địa phương là cần thiết cho ngành du lịch, người dân địa phương, nền văn hoá, môi trường, lối sống và truyền thống của họ là những nhân tố thu hút khách tới một điểm du lịch. Do vậy các nhu cầu và khát vọng của người dân địa phương cần phải ủng hộ hoàn toàn.
Để phát triển du lịch tại điểm đến, cần phải khuyến khích sự tham gia của người dân trong hoạch định kế hoạch du lịch lâu dài. Các thành viên của cộng đồng địa phương là thành viên chính cần tham gia vào việc xác định các giá trị thiên nhiên và văn hoá của quê hương họ. Các nhà hoạch định du lịch chuyên nghiệp nên đưa người dân địa phương vào những vị trí quan trọng thiết yếu như các thành viên chính, hỗ trợ trong quản lý hoạt động du lịch .
Một số công việc có thể tiến hành:
Tổ chức những khoá học ngắn hạn về du lịch và quản lý du lịch tới người dân địa phương giúp họ hiểu thêm về giá trị của việc phát triển du lịch tại địa phương.
Giao quyền quản lý cho người dân địa phương tại khu đền của địa phương mình. Người dân địa phương có nhiệm vụ quản lý đền tu sửa đền theo đúng yêu cầu.
Khuyến khích người dân địa phương dứng ra tổ chức các điểm du lịch chuyên đề về nghề thủ công truyền thống chuyên phục vu du lịch. Đó có thể là một khu hợp tác xã nhỏ chuyên cung cấp sản phẩm cho khách du lịch do người dân tự đứng ra quản lý tính toán chi phí, giá thành phù hợp.
Dựa trên tiềm năng thực lực của địa phương xây dựng các cửa hiệu quán ăn, dịch vụ dưới sự quản lý trực tiếp của người dân địa phương. Quản lý lĩnh vực này người dân địa phương phải có biện pháp đúng đắn, hợp lý tránh tình trạng xung đột giữa người dân địa phương, hạn chế và tiến tới bỏ dần việc chèo kéo khách mua hàng.
Dựa trên hoạt động du lịch, hàng năm chính quyền địa phương có các thống kê về lượng khách, nguồn khách và doanh thu mà du lịch mang lại để từ đó tìm ra điểm mạnh, điểm yếu trong quá trình hoạt động du lịch nhằm tạo ra các biện pháp quản lý tích cực để hệ thống quản lý du lịch của địa phương đạt hiệu quả cao nhất.
3.2.2. Sử dụng lao động là người địa phương vào các dịch vụ du lịch:
Với chương trình tour mới được đề xuất xây dựng ở trên thì việc tham gia của cộng đồng địa phương vào công việc phục vụ khách là khá đa dạng, từ việc tổ chức cơ sở lưu trú, phục vụ ăn uống đến việc tổ chức bán hàng lưu niệm, vui chơi giải trí.
Việc sử dụng lao động địa phương vào các dịch vụ kể trên là rất cần thiết nhằm tạo ra sự giao tiếp giữa người dân địa phương và du khách. Các dịch vụ bao gồm:
Phục vụ cơ sở lưu trú cho khách du lịch, tiếp đón khách:
Trong chương trình tour mới việc phục vụ lưu trú cho khách sẽ diễn ra . ở khu đền Chử Đồng Tử- xã Bình Minh- huyện Khoái Châu- Hưng Yên. Địa điểm nghỉ dêm của du khách không nhất thiết phải xây dựng những khu nhà nghỉ sang trọng hoặc những khách sạn nhỏ mà chỉ cần sử dụng nhà ở của người dân địa phương để cho du khách nghỉ. Việc nghỉ ngơi của khách du lịch tại nhà người dân địa phương tạo mối quan hệ thân thiết giưã kháh du lịch vàcộng đồng dân cư. Sự giản dị trong đời sống sinh hoạt thường ngày của dân cư làng Việt chắc chắn sẽ là yếu tố hấp dẫn khó quên trong lòng du khách về điểm du lịch. Những cảnh sing hoạt thường ngày, những câu chuyện về sự tích ngôi làng việt, về kiến trúc làng Việt qua lời kể của những người già trong làng sẽ là điều mong ước của rất nhiều du khách khi tham gia chuyến du lịch này.
Đồng thời việc lưu trú ở nhà người dân địa phương cũng tạo một nguồn thu nhập cho người dân địa phương. Tuy nhiên để tạo ra lợi ích công bằng trong mỗi chuyến tour khác nhau sẽ nghỉ tại nhà dân khác nhau. Sự thay đổi này sẽ tạo ra việc công bằng trong người dân địa phương.
Phục vụ ăn uống:
Đi liền với việc nghỉ ngơi tại nhà dân là công tác phục vụ ăn uống cho khách. Bởi chuyến du lịch sông Hồng là chuyến du lịch mang đậm bản sắc của cư dân vùng sông nước nên bữa ăn phải đảm bảo được đặc tính này. Việc tổ chức bữa ăn của người dân địa phương phải đảm bảo được yếu tố ngon, lạ độc đáo mang đậm nét văn hoá cư dân vùng ven sông lại vừa đảm bảo được tính vệ sinh.
Bữa ăn gợi ý:
Canh cua nấu chua
Cá đồng kho tương
Chả cá rán ( làm từ cá lăng đánh bắt ở sông)
Tôm rang
Rau xào (tuỳ theo mỗi mùa một loại rau)
Tráng miệng bằng hoa quả vườn nhà
Nước chè xanh hoặc nước vối sau bữa ăn
Để đảm bảo được bữa ăn này không phải là quá khó đồng thời lại mang đậm văn hoá vùng sông nước. Những bữa ăn này đựoc phục vụ bởi các mẹ, các chị nông dân thuần hậu nhưng lại có nét đẹp mặn mà của con gái vùng sông nước.
Tham gia trong quá trình hoạt động hướng dẫn viên tại điểm:
Việc sử dụng hướng dẫn viên tại điểm du lịch là điều rất nên làm bởi không ai có thể hiểu về địa phương mình hơn họ. Ban quản lý du lịch tại địa phương nên tổ chức đào tạo thêm về chuyên ngành du lịch cho các cụ già_ những người lâu năm sinh sống ở quê hương. Họ chính là những người sẽ đưa cho du khách những thông tin đầy đủ nhất, hấp dẫn nhất, độc đáo nhất về điểm du lịch. Đồng thời cũng nên khuyến khích thế hệ trẻ của địa phương học hỏi những kiến thức về quê hương mình từ các thế hệ trước để sẵn sàng phục vụ khách du lịch, Hướng dẫn viên du lịch của chương trình du lịch sông Hồng phải biết tạo mối quan hệ tốt đẹp . Với hướng dẫn viên địa phương để đáp ứng một cách đầy đủ nhất mọi nhu cầu của khách du lịch tạo ra sự thoả mãn một cách tuyệt đối khi tham gia vào chương trình tour du lịch sông Hồng.
Tổ chức giao lưu văn nghệ với du khách:
Hoạt động giao lưu này sẽ diễn ra tại khu vực đền Chử Đồng Tử vào tối ngày đầu tiên trước cửa sân đền. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của chính quyền với hướng dẫn viên các tour vào tối ngày đầu tiên đó sẽ diễn ra các hoạt động sinh hoạt tập thể. Hoạt động sinh hoạt tập thể này vừa là kết thúc vui vẻ cho một ngày lao động mệt nhọc lại vừa là cách để giúp du khách và người dân tham gia vào các hoạt động giao lưu.
Để giúp cho hoạt động giao lưu này thực sự hiệu quả chính quyền địa phương nên tìm cách tham gia khôi phục lại các trò chơi dân gian như đánh đu, hát giao duyên, ném còn... Các hoạt động vui chơi giải trí này sẽ được tổ chức thường xuyên và có sự quản lý hợp lý.
Những trò chơi dân gian đặc biệt là việc giao lưu văn nghệ giữa du khách và cộng đồng địa phương sẽ tạo ra một buổi tối thú vị, tạo ấn tượng khó quên trong lòng cả người dân địa phương và du khách. Cùng với sự kết hợp của quản lý chương trình du lịch sông Hồng, chính quyền dân cư địa phương cũng thỉnh thoảng mời các đoàn chèo đến diễn lại tích “ Chử Đồng Tử- Tiên Dung” phục vụ cho người dân địa phương và du khách, giúp họ hiểu hơn về tình yêu của hao người từ xa xưa.
3.2.3. Tổ chức sản xuất và cung cấp sản phẩm du lịch địa phương cho hoạt động du lịch;
Đối với mỗi du khách khi đến thăm bất kỳ một điểm du lịch nào thì việc được mua các sản phẩm du lịch địa phương là điêù mong muốn của họ. Ngược lại đối với người dân địa phương đây cũng là cách để họ tăng thêm nguồn thu nhập, là cách để họ giới thiệu quảng bá sản phẩm địa phương tới mọi miền đất nước.
Trong chương trình du lịch sông Hồng du khách có điều kiện để tiếp xúc với 3 điểm du lịch nổi tiếng với làng nghề truyền thống là làng trồng thuốc nam Đa Hoà, làng mây tre đan Ninh Sở và đặc biệt là làng gốm Bát Tràng. Trong khuôn khổ của bài khoá luận xin phép được trình bày 2 cách để cộng đồng địa phương giơí thiệu sản phẩm cho khách , đó là; sản xuất cung cấp sản phẩm du lịch cho khách và hướng dẫn khách làm sản phẩm.
Tổ chức sản xuất và cung cấp sản phẩm cho khách:
Người dân địa phương ở làng mây tre đan Ninh Sở đã có nghề truyền thống từ hàng chục năm nay. Sản phẩm của làng từ những vật dụng nhỏ như cái giỏ, cái khay...đến những vật dụng lớn như bộ bàn ghế... đều được làm thủ công bằng mây tre đan.
Đây là một nghề cha truyền con nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sản phẩm mây tre đan của làng chủ yếu dùng cho xuất khẩu sang thị trường Châu Âu, Nhật Bản, Châu Mỹ. Làng nghề mây tre đan Ninh Sở phát triển mạnh đã tạo điều kiện ổn định nền kinh tế địa phương.
Kể từ khi tuyến du lịch sông Hồng qua điểm du lịch này, người dân bắt đầu chú ý tới việc sản xuất phục vụ. Thời gian đầu, khi mà lượng khách ổn định đều qua hàng tháng làng nghề cũng sản xuất phục vụ du lịch. Tuy nhiên trong những năm gần đây khi mà lượng khách không ổn định đều thì người dân làng không còn quan tâm sản xuất cho du lịch nữa mà chỉ quan tâ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 17020.DOC