Tài liệu Đề tài Day học văn học sử theo hướng hình thành và phát triển năng năng lực tự học ở học sinh lớp 10: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỤC LỤC
Phần mở đầu....................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề...............................................................................................5
2.1. Tự học trong nhà trường nói chung............................................................5
2.2. Tự học trong môn Ngữ văn........................................................................7
2.3. Tự học đối với bài học văn học sử............................................................8
3. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................10
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu........................
84 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1513 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Day học văn học sử theo hướng hình thành và phát triển năng năng lực tự học ở học sinh lớp 10, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
MỤC LỤC
Phần mở đầu....................................................................................................3
1. Lí do chọn đề tài............................................................................................3
2. Lịch sử vấn đề...............................................................................................5
2.1. Tự học trong nhà trường nói chung............................................................5
2.2. Tự học trong môn Ngữ văn........................................................................7
2.3. Tự học đối với bài học văn học sử............................................................8
3. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................9
4. Nhiệm vụ nghiên cứu..................................................................................10
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................10
6. Phương pháp nghiên cứu.............................................................................10
7. Bố cục luận văn...........................................................................................11
Phần nội dung................................................................................................12
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hình thành năng lực tự học
cho HS trong giảng dạy văn học sử ở THPT...............................................12
1.1. Cơ sở lí luận..............................................................................................12
1.1.1. Khái niệm tự học...................................................................................12
1.1.2. Khái niệm năng lực tự học............................................................ .......14
1.1.2.1. Đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học.......................................18
1.1.2.2. Điều kiện để tự học có hiệu quả.........................................................22
1.1.3. Tự học đối với các bài học về văn học sử trong SGK...........................26
1.1.3.1. Mục tiêu của bài học văn học sử........................................................26
1.1.3.2. Nội dung của bài học văn học sử........................................................26
1.1.3.3. Hình thức của bài học văn học sử.......................................................26
1.1.3.4. Hình thành năng lực tự học cho HS theo các kiểu bài văn học sử.....26
1.2. Cơ sở thực tiễn..........................................................................................28
1.2.1. Tình hình tự học các bài học về văn học sử của HS THPT...................28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
1.2.1.1. Về tinh thần tự học các bài học văn học sử của HS THPT................28
1.2.1.2. Về hoạt động tự học bài học văn học sử của HS THPT.....................29
1.2.2. Thực trạng về dạy học văn học sử theo hướng hình thành năng lực tự học
cho HS......................................................................................................30
1.2.2.1. Đối với GV.........................................................................................30
1.2.2.2. Đối với HS..........................................................................................31
Chương II: Những biện pháp hình thành và phát triển năng lực tự học qua
các bài học văn học sử............................................................................32
2.1. Biện pháp 1: Hình thành năng lực nhận diện các loại văn bản trong SGK
Ngữ văn 10......................................................................................................33
2.2. Biện pháp 2: Hình thành kĩ năng phát hiện ghi nhớ các nhận định của SGK
về lịch sử văn học...................................................................................37
2.3. Biện pháp 3: Hình thành kĩ năng làm các bài tập nâng cao về văn học sử
trong SGK Ngữ văn 10....................................................................................43
2.4. Biện pháp 4: Đổi mới giờ học văn học sử theo hướng tổ chức HS trình bày
kết quả tự học............................................................................................51
Chương III: Một số thiết kế bài học văn học sử theo hướng dạy cách tự
học...................................................................................................................58
3.1.Thiết kế bài học “Khái quát văn học dân gian Việt Nam”........................58
3.2. Thiết kế bài học “Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ
XIX”................................................................................................................62
3.3. Thiết kế bài học “Nguyễn Du”.................................................................73
Phần Kết luận................................................................................................78
Tài liệu tham khảo.........................................................................................81
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1 - Lý do chọn đề tài
1.1. Thế kỉ XX đã trôi qua, cả nhân loại đang bước vào thế kỉ mới. Một
trong những đặc điểm cơ bản của thế kỉ này là cuộc cách mạng khoa học kĩ
thuật đang phát triển như vũ bão, thời đại của nền “kinh tế tri thức” đã và đang
dẫn đến sự bùng nổ thông tin.
Trước tình hình đó, để hội nhập với xu thế phát triển chung của thế
giới, của thời đại, một yêu cầu hết sức cấp bách đang đặt ra với nền giáo dục
nước ta là: phải liên tục đổi mới, hiện đại hóa nội dung và phương pháp dạy
học. Mục đích cuối cùng là để từng cá nhân, mỗi cá thể, mỗi công dân tự
mình có ý thức tạo được một cuộc cách mạng học tập trong bản thân mỗi con
người.
Nhà trường phải giúp cho từng HS thay đổi triệt để quan niệm và phương
pháp học tập phù hợp với yêu cầu của thời đại - thời đại mà mỗi người phải học
tập suốt đời. Để học tập không ngừng, học tập cả đời, mỗi người phải biết cách
tự học, biết phát huy cao độ tiềm năng của bản thân. Vì vậy, tự học là một vấn
đề cốt lõi thuộc mục tiêu của giáo dục hiện đại.
Tiến hành một cuộc cách mạng học tập trong nhà trường và trong bản
thân mỗi người phải là một chiến lược cấp bách của thế kỉ XXI. Trong cuộc
cách mạng ấy, chiến lược cốt lõi là cuộc cách mạng về phương pháp. Hiện nay,
sự chuyển biến về phương pháp dạy học ở trường phổ thông, phương pháp đào
tạo ở trường sư phạm chưa có sự rõ rệt, phổ biến vẫn là cách dạy thông báo các
kiến thức có sẵn, cách học thụ động.
Mặc dù trong những năm gần đây đã có nhiều sự chuyển biến về phương
pháp, nhiều GV đã tổ chức, hướng dẫn HS hoạt động tự chiếm lĩnh tri thức
mới. Nhưng kết quả đạt được vẫn còn hạn chế.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Trước sự thay đổi, sự tiến bộ của xã hội như vậy thì việc dạy và học một cách
thụ động sẽ không đáp ứng được những yêu cầu của xã hội. Sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, sự thách thức đòi hỏi phải thay đổi về
phương pháp dạy và học. Đây không phải là vấn đề riêng của nước ta mà là vấn
đề đang được quan tâm trên mọi quốc gia trong việc phát triển nguồn lực con
người phục vụ các mục tiêu kinh tế – xã hội.
1.2. Cuộc cách mạng về phương pháp đã và đang diễn ra liên tục và
mang tính toàn cầu. Ở Việt Nam, đổi mới phương pháp trong những năm gần
đây đang trở thành vấn đề được quan tâm đặc biệt trong nhà trường. Phương
pháp dạy – học văn cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó. Làm sao tạo được
bước chuyển mang lại hiệu quả mạnh mẽ, toàn diện trong dạy – học văn
đang là nỗi lo, nỗi trăn trở của các nhà phương pháp. Thực tế việc dạy văn
nói chung, việc dạy văn học sử (VHS) nói riêng vẫn còn nằm trong cách dạy,
cách học cũ không phát huy được năng lực của học sinh. Cách dạy văn hiện
nay vẫn là lối dạy thuyết trình, kết quả đánh giá tùy thuộc vào khả năng tái
hiện lượng kiến thức nhiều hay ít theo lời thầy giảng hoặc theo sách giáo
khoa. Do đó, khả năng độc lập, tìm tòi sáng tạo của HS không có cơ hội phát
triển.
Đối với các bài học VHS, do đặc thù của bài nên nhiều GV chưa có sự
đầu tư đúng mức để HS thực sự quan tâm. Phương pháp tái hiện kiến thức,
thuyết trình vẫn chiếm đa số trong các bài dạy. Vì vậy, dẫn tới tình trạng HS
thờ ơ với bài giảng, thụ động, ngại tư duy. Từ đó, vô hình chung đã làm mất đi
khả năng tự học, tự nghiên cứu của HS. Quá trình dạy – học văn trong nhà
trường nói chung và dạy các bài VHS nói riêng đang đổi mới cơ bản về nội
dung và phương pháp dạy học, để từng bước khắc phục tình trạng HS thụ động
trong lĩnh hội tri thức, khẳng định vai trò HS là trung tâm, của quá trình dạy –
học, HS là bạn đọc sáng tạo. Vậy làm như thế nào để tiếp cận được mục đích
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
giáo dục? Làm thế nào để phát huy năng lực tự học, tự nghiên cứu của người
học? Đó là những vấn đề cụ thể đang cần tìm được lời giải đáp của các nhà sư
phạm chúng ta.
Đối với các bài VHS, làm thế nào để HS không thờ ơ với bài giảng,
hứng thú say mê tìm hiểu? Làm thế nào để HS rèn luyện được những thói
quen tốt trong học tập? Làm thế nào để HS hiểu rõ hơn về nền văn học Việt
Nam?
Vì vậy, đặt vấn đề hình thành thói quen tự học cho HS THPT qua các bài
VHS là một việc làm cần thiết, sát thực, đúng với xu thế đổi mới phương pháp,
phù hợp với chiến lược “phát huy nội lực của người học”, đáp ứng mục tiêu của
giáo dục, như nghị quyết II của Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã ghi:
“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ
một chiều, rèn luyện hình thành nếp tư duy sáng tạo của người học, phát triển
mạnh mẽ phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn
dân...”
Một trong những hướng đổi mới phương pháp dạy học lịch sử văn học
trong nhà trường là hình thành năng lực tự học cho HS qua từng bài học. Đó là
lí do khiến chúng tôi chọn đề tài này để nghiên cứu..
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Tự học trong nhà trường nói chung.
Vấn đề tự học của HS – SV đã được rất nhiều các nhà nghiên cứu quan
tâm ở nhiều góc độ khác nhau.
Ở nước ngoài, trong sách “Học tập hợp lí” (Cộng hòa dân chủ Đức trước
đây) do R.Retzke chủ biên, các tác giả đã đề cập đến vấn đề bồi dưỡng năng lực
tự nghiên cứu cho HS mới vào trường. Năm 1984, NXB Thanh niên giới thiệu
cuốn “Nghiên cứu học tập như thế nào” của Hebơc Smitman (Cộng hoà dân
chủ Đức). Với cuốn sách này, tác giả đã đề cập tới nhiều vấn đề về phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
pháp nghiên cứu và tự học như thế nào cho khoa học và đạt kết quả cao. Cuốn
“Tự học như thế nào” của Rubakin, dịch giả là Nguyễn Đình Côi, xuất bản
1982 đã giúp bạn đọc biết tự học tập, nâng cao kiến thức toàn diện của mình.
Cuốn “Phương pháp dạy và học hiệu quả” – Cark Rogers – một nhà giáo dục
học, nhà tâm lý học người Mĩ do Cao Đình Quát dịch đã giải đáp cho HS câu
hỏi học cái gì và học như thế nào? Câu hỏi dạy cái gì và dạy như thế nào cũng
được giải đáp. Ngoài ra, còn khá nhiều cuốn sách cũng đề cập đến vấn đề tự
học.
Ở nước ta, trong những năm gần đây cũng đã xuất hiện một số bài viết về
tự học. Tác giả Vũ Quốc Anh có bài viết: “Tạo ra năng lực tự học sáng tạo của
HS THPT”. GS. Phan Trọng Luận với bài: “Dạy văn để HS tự học văn”. Tại Hà
Nội năm 1998, một cuộc hội thảo khoa học với tiêu đề “Nghiên cứu tự học – tự
đào tạo” đã được tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều GS
đầu ngành. Trong cuộc hội thảo này, nội dung các bài viết, các bài phát biểu
đều nhấn mạnh tầm quan trọng của tự học và yêu cầu các cấp ngành phải chăm
lo xây dựng phong trào tự học toàn dân. Bộ trưởng Bộ giáo dục - đào tạo
Nguyễn Thị Bình nói: “Năng lực tự học – tự đào tạo đều tiềm ẩn trong mỗi con
người. Nếu biết kết hợp quá trình đào tạo ở trường, lớp với quan tâm tự học –
tự đào tạo thì đó là con đường ngắn nhất để tạo ra “nội lực” cần thiết cho sự
phát triển một con người và cho đất nước”. Tạp chí nghiên cứu Giáo dục số 2
năm 1998 đã đặc biệt quan tâm đăng tải một số bài viết tiêu biểu trong hội thảo:
“Tự học – chìa khoá vàng của giáo dục” của GS. Phan Trọng Luận, “Vì năng
lực tự học sáng tạo của HS” của Nguyễn Nghĩa Dân. Tiếp theo đó, tạp chí
Nghiên cứu giáo dục đã có rất nhiều các bài viết khác như bài của Thạc sĩ Thái
Văn Long (Cà Mau) “Khơi dậy và phát huy năng lực tự học sáng tạo của người
học trong Giáo dục - đào tạo”, hay “Vị trí của tự học, tự đào tạo trong quá trình
dạy học, giáo dục và đào tạo” của GS. Trần Bá Hoành, “Hồ Chí Minh với vấn
đề tự học” của GS. Đặng Quốc Bảo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
Bên cạnh đó, một số cuốn sách cũng được xuất hiện như “Tôi tự học” –
Nguyễn Duy Cần, “Tự học là một nhu cầu của thời đại” – Nguyễn Hiến Lê,
“Luận bàn và kinh nghiệm tự học” – GS. Nguyễn Cảnh Toàn... Những cuốn
sách này chủ yếu đúc kết những kinh nghiệm quý báu trong quá trình tự học
của một số tác giả. Đặc biệt, trung tâm nghiên cứu và phát triển tự học còn cho
ra mắt bạn đọc tạp chí “Tự học”. Tập chí này đã thu hút sự quan tâm chú ý và
sự tham gia luận bàn về vấn đề tự học của nhiều nhà khoa học, giáo sư, nhà
giáo... Các tác giả đã cung cấp lý thuyết dạy tự học như thế nào, bên cạnh đó có
thể hiện thiết kế bài học một số môn. Tuy vậy, các cuốn sách hầu như mới chỉ
dừng lại ở phần lý thuyết chung nhất cho mọi môn học mà chưa đi vào các biện
pháp cụ thể đối với từng môn học.
Cuốn “Học và dạy cách học” do GS. Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên, NXB
ĐHSP, xuất bản 2002 là một trong những cuốn sách đầu tiên ở Việt Nam viết
một cách có hệ thống về việc “học” và “dạy cách học”. Cuốn sách này đã thực
sự là tài liệu bổ ích giúp cho việc đổi mới phương pháp dạy và học ở Việt Nam,
đặc biệt là quá trình dạy tự học.
2.2. Tự học trong môn Ngữ văn.
Ngữ văn là một môn học có những đặc trưng riêng nên đòi hỏi người đọc
phải có sự liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Nên trong việc thay đổi phương
pháp giảng dạy thì giảng dạy môn Ngữ văn cũng là một vấn đề được quan tâm.
Cuốn “Áp dụng dạy và học tích cực trong môn văn học” do nhóm tác giả
GS Trần Bá Hoành, TS Nguyễn Trí, PGS TSKH Cao Đức Tiến, TS Nguyễn
Trọng Hoàn biên soạn do NXBĐHSP Hà Nội xuất bản đã nói đến một trong
những đặc trưng của phương pháp tích cực đó là tự học. Các tác giả cũng nhấn
mạnh đến nội dung dạy và học tập trung vào HS. ở đó, các tác giả không chỉ
quan tâm đến kiến thức, năng lực phát hiện và giải quyết các vấn đề thực tiễn.
Cuốn “Văn học giáo dục thế kỉ XXI” của GS Phan Trọng Luận,
NXBĐHQG Hà Nội, 2002 có một số bài đề cập đến vấn đề đổi mới phương
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
pháp và vấn đề tự học. Với bài “Tự học – chuyện cũ mà mới”, tác giả đã đề cập
đến bí mật và bí quyết của tự học. Hay bài “Dạy cho sinh viên tự học và học
sáng tạo”, tác giả nhấn mạnh đến vấn đề: muốn cho sinh viên tự học và học
sáng tạo thì phải cải tiến lại nội dung bài giảng ở Đại học, nâng cao hơn nữa
chất lượng bài giảng.
Như vậy, đã có rất nhiều những bài viết, những công trình đề cập đến vấn
đề tự học nói chung và tự học môn Ngữ văn nói riêng. Các bài viết đã chỉ ra
được mục tiêu, cách thức, biện pháp để dạy tự học. Tuy nhiên, các bài viết còn
thiên về mặt lí thuyết mà chưa cụ thể hoá đối với từng môn học, phân môn của
nhà trường PT.
Ví dụ: đổi mới môn văn học mới chỉ tiếp cận về quá trình dạy tự học ở
góc độ giáo dục còn cụ thể với từng loại bài học như giảng văn, văn học sử,
tiếng Việt, tập làm văn... thì chưa có bài viết nào đề cập đến một cách sát thực,
vẫn còn thiếu vắng những chuyên luận vừa mang tính lí luận vừa mang tính
thực tiễn, sát thực với từng phân môn cụ thể của nhà trường THPT.
2.3. Tự học đối với bài học văn học sử.
Trong chương trình Ngữ văn ở THPT, các bài học về văn học sử chiếm
giữ một vị trí quan trọng vì nó cung cấp những tri thức khái quát về văn học
cho HS, nhưng lại chưa được quan tâm một cách đúng mức. Các công trình
nghiên cứu về lĩnh vực này còn rất ít ỏi và khiêm tốn. “Mấy vấn đề giảng dạy
văn học sử ở trường PT cấp 3” và “Rèn luyện tư duy qua giảng dạy văn học”
của GS Phan Trọng Luận, hay trong cuốn giáo trình “Phương pháp dạy học
văn” do GS Phan Trọng Luận chủ biên cũng chỉ dành một chương để nói về
văn học sử, hay một phần không nhiều trong cuốn “Dạy văn dạy cái hay cái
đẹp” của Nguyễn Duy Bình. Tuy nhiên, trong một vài năm gần đây, một số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
luận văn Thạc sĩ cũng đã khai thác đề tài tự học, tự nghiên cứu như “Những
hình thức tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS trong giờ học văn học sử ở
trường THTP” của Đào Văn Phán, “Hình thành năng lực nghiên cứu cho HS
THPT qua giờ văn học sử” của Lê Khánh Tùng, “Rèn luyện năng lực tự học
cho HS qua những giờ văn học sử (bài khái quát giai đoạn văn học)” của
Nguyễn Thị Bích Hường, “Hình thành thói quen tự học cho HS THPT qua bài
học văn học sử (tác gia)” của Vũ Thị Sáu.
Mặc dù dã có một số luận văn nghiên cứu về việc rèn luyện tự học
cho HS, nhưng chúng tôi vẫn mạnh dạn chọn đề tài “Day học văn học sử
theo hướng hình thành và phát triển năng năng lực tự học ở học sinh
lớp 10”. Chương trình và SGK Ngữ văn 10 đã có sự thay đổi về nhiều mặt.
Chúng tôi hy vọng có thể đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc
tháo gỡ những khó khăn, lúng túng cho GV trong khi thực thi chương trình
và SGK Ngữ văn mới.
3. Mục đích nghiên cứu.
Luận văn của chúng tôi gồm có hai mục đích:
- Tìm hiểu thực tế giảng dạy các bài văn học sử ở THPT theo chương
trình SGK Ngữ văn 10 được thực thi đại trà trong nhà trường THPT từ năm học
2006 - 2007. Cụ thể là tìm hiểu tiến trình, các phương thức hoạt động của thầy
– trò và hiệu quả trong giờ học văn học sử.
- Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất những biện pháp cụ thể để nhằm hình
thành tự học cho HS khi dạy các bài học về văn học sử.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
4. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để hoàn thành được mục tiêu đề ra, chúng tôi phải hoàn thành những
nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu vấn đề trên bình diện lý thuyết (vị trí, mục đích, yêu cầu
của việc giảng dạy văn học sử, nguyên tắc giảng dạy văn học sử, các phương
pháp giảng dạy văn học sử, chương trình SGK Ngữ văn...)
- Nghiên cứu những tiền đề lí luận cần thiết về tự học, về đổi mới
phương pháp.
- Đánh giá có căn cứ thực trạng dạy –học văn học sử ở trường PT theo
hướng rèn luyện năng lực tự học.
- Đề xuất một số biện pháp để hình thành năng lực tự học cho HS qua bài
học văn học sử.
- Thiết kế bài học văn học sử theo hướng hình thành năng lực tự học.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
5.1. Đối tượng nghiên cứu: phương pháp dạy học các bài học về văn học sử
theo hướng hình thành năng lực tự học cho HS.
5.2. Phạm vi nghiên cứu: các bài học về văn học sử có trong SGK Ngữ văn
10.
6. Phương pháp nghiên cứu.
Nghiên cứu đề tài “Dạy học văn học sử theo hướng hình thành và
phát triển năng lực tự học ở học sinh lớp 10”, chúng tôi sử dụng cả hai nhóm
phương pháp nghiên cứu sau:
6.1. Nhóm nghiên cứu lý thuyết sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Phương pháp thống kê phân loại.
6.2. Nhóm nghiên cứu thực tiễn sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hình thành năng lực tự học
cho học sinh trong giảng dạy văn học sử ở THPT.
Chương II: Những biện pháp hình thành và phát triển năng lực tự học
qua các bài học văn học sử
Chương III: Một số thiết kế bài học văn học sử theo hướng dạy cách tự
học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
PHẦN NỘI DUNG
Chương I
Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc hình thành
năng lực tự học cho học sinh trong giảng dạy
văn học sử ở trung học phổ thông
1.1. Cơ sở lí luận.
1.1.1. Khái niệm tự học.
Trong dân gian ta từ xưa vẫn có câu “Không thầy đố mày làm nên”, vậy
mà, phương pháp dạy học ngày nay lại hướng HS tới việc tự học, tức là học mà
không có thầy. Phải chăng điều đó là mâu thuẫn?
Vậy tự học là gì?
Có tác giả xem hoạt động tự học như là một hình thức tổ chức dạy học.
Có tác giả lại chú ý tới hoạt động tự học như là một phương thức tự đào tạo, tự
nâng cao trình độ học vấn của người học.
Hoạt động tự học có thể diễn ra dưới sự tổ chức điều khiển trực tiếp của
GV như trong các phương pháp dạy học tích cực; hoặc có thể diễn ra dưới sự tổ
chức điều khiển gián tiếp của GV như một hình thức tổ chức dạy học trong mối
quan hệ với các hình thức tổ chức dạy học khác. Hoạt động tự học là phương
thức đào tạo của con người. Vì vậy có rất nhiều định nghĩa về tự học khác
nhau.
Có ý kiến cho rằng “Tự đi tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học” (PGS Lê Khánh
Bằng); lại có ý kiến “Tự học là hình thức hoạt động cá nhân, do bản thân người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
học nỗ lực thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ học tập ở trên lớp hay ngoài lớp;
có thể diễn ra khi còn đang học, khi đã ra trường và trong suốt cả cuộc đời” (TS
Hà Thị Đức).
GS Nguyễn Cảnh Toàn trước hết đã chính xác hoá các khái niệm:
“Học giáp mặt” là học giáp mặt với thầy, thầy trò nhìn mặt nhau và có
thể trao đổi thông tin bằng lời nói trực tiếp (không qua máy móc) bằng chữ viết,
nhìn trực tiếp ngay trên bảng, trên giấy bằng cả ánh mắt, nụ cười, nét mặt, cử
chỉ.
“Học từ xa” là học không giáp mặt với thầy, mọi thông tin giữa thầy và
trò đều không trực tiếp mà là gián tiếp qua sách vở, tài liệu và các phương tiện
kĩ thuật của tin học và viễn thông. “Xa” chỉ có nghĩa là không giáp mặt nhau
còn khoảng cách địa lí giữa thầy và trò có thể là nửa vòng trái đất cũng có thể
chỉ là vài chục mét.
Tự học là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan
sát, so sánh, phân tích tổng hợp...) và có khi cả cơ bắp (khi phải sử dụng công
cụ) cùng các phẩm chất của mình rồi cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan,
thế giới quan (như trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó ngại
khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ý muốn thi đỗ, biết biến khó khăn
thành thuận lợi...) để chiếm lĩnh một lĩnh vực kiến thức nào đó của nhân loại,
biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.
Như vậy, cốt lõi của học là tự học. Hễ có học là có tự học và không ai có
thể học hộ người khác được.
Khi nói học là hàm ý xét đến mối quan hệ với ngoại lực, tức là dạy. Còn
khi nói là tự học, là chỉ riêng nội lực ở người học. Hai người cùng học một thầy
nhưng kết quả tuỳ theo chất lượng tự học ở từng người. Ngoại lực tác động đến
nội lực như thế nào thì đó chính là thước đo chất lượng dạy học. Tác động đó
có thể kìm hãm nếu thầy áp đặt; là kích thích nội lực phát triển nếu thầy gợi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
mở, khuyến khích sáng tạo, mà đỉnh cao là tạo nên được sự cộng hưởng của nội
lực.
Khả năng tự học tiềm ẩn trong mọi người, trừ những người bị khuyết tật
tâm thần. Ai cũng có thể tự học và tự học có kết quả. Khả năng tự học tiềm ẩn
đó là một tài nguyên quý giá của loài người. Học là kế thừa vốn văn hóa, khoa
học của nhân loại. Vốn đó rất bao la, nếu không tổ chức thì chẳng ai kế thừa
nổi. Trước hết phải biết lựa chọn, sắp xếp thành một trình tự hợp lôgíc và hợp
tâm lí người học để xây dựng lên các loại chương trình, viết các SGK. Vậy ai
làm việc đó? Phải nhiều thầy, thậm chí nhiều thế hệ thầy mới làm nổi. Thử
tưởng tượng trong tất cả mọi chương trình và SGK trên hành tinh cháy hết và
cũng biến khỏi trí nhớ của mọi người, rồi loài người văn minh như ngày nay
phải làm lại từ đầu chương trình và SGK cho các bậc học, lớp học từ dưới lên
trên thì mới thầy câu “không thầy đố mày làm nên” đúng trong mọi trường hợp,
cho dù người học là thần đồng.
1.1.2. Khái niệm năng lực tự học
Hoạt động tự học muốn diễn ra thực sự thì có một yêu cầu đặt ra là: cần
phải hình thành được ở người học năng lực tự học. Chỉ khi đã có được năng lực
tự học trong bản thân mình, người học mới tự mình tiến hành việc học tập một
cách tự chủ, độc lập, sáng tạo như đòi hỏi của giáo dục đào tạo ngày nay.
Vậy thế nào là năng lực? “Năng lực là phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con
người khả năng hoàn thành một loạt hoạt động nào đó với chất lượng cao” (Từ
điển tiếng Việt – Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội, Việt Nam, Hà Nội.
1992).
Giáo trình “Tâm lí học đại cương” (NXBĐHQGHN, 1998) chia khả năng
thành ba mức độ khác nhau: năng lực, tài năng, thiên tài. Nếu năng lực là một
mức độ nhất định của khả năng con người, biểu thị khả năng hoàn thành có kết
quả một hoạt động nào đó; tài năng là mức độ năng lực cao hơn, biểu thị sự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
hoàn thành một cách sáng tạo một hoạt động nào đó; thì thiên tài là mức độ cao
nhất của năng lực, biểu thị mức kiệt xuất, hoàn chỉnh nhất của các vĩ nhân trong
lịch sử nhân loại.
Khi phân loại, người ta chia năng lực ra làm hai loại: năng lực chung và
năng lực riêng biệt. Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều lĩnh vực
hoạt động khác nhau, chẳng hạn những thuộc tính về thể lực, về trí tuệ (quan
sát, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng, ngôn ngữ...) là những điều kiện cần thiết để
giúp cho nhiều lĩnh vực hoạt động có hiệu quả.
Còn năng lực riêng biệt (chuyên biệt, chuyên môn) là sự thể hiện độc đáo
các phẩm chất riêng biệt, có tính chuyên môn nhằm đáp ứng yêu cầu của một
lĩnh vực hoạt động chuyên biệt với kết quả cao, chẳng hạn: năng lực toán học,
năng lực thơ văn, năng lực hội hoạ, năng lực âm nhạc, thể dục thể thao...
Hai năng lực này luôn có sự bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Giữa năng lực và
tri thức, kĩ năng, kĩ xảo luôn có sự thống nhất biện chứng (không thể không
đồng nhất chúng với nhau). Một người có năng lực trong một lĩnh vực nào đấy
có nghĩa là có tri thức, kĩ năng kĩ xảo nhất định của lĩnh vực này. Vấn đề phát
hiện, bồi dưỡng năng lực, năng khiếu của mỗi người là một trong những vấn đề
cơ bản của chiến lược giáo dục nhằm nâng cao dân lực, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài.
Năng lực của mỗi người dựa trên cơ sở tư chất, nhưng điều chủ yếu là
năng lực hình thành, phát triển và thể hiện trong hoạt động tích cực của con
người dưới sự tác động của rèn luyện, dạy học và giáo dục. Vậy người có năng
lực tự học là người có khả năng tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng
lực trí tuệ, và có khi cả cơ bắp, cùng các phẩm chất, động cơ, tình cảm, nhân
sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh một lĩnh vực kiến thức nào đó của nhân
loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình qua sách vở, qua bạn bè, qua thầy
giáo.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
Nếu xem nội lực là nhân tố quyết định sự phát triển của bản thân người
học thì năng lực tự học được xem là có ý nghĩa quyết định. Việc học nhất là tự
học được lấy làm trung tâm. Trò là chủ thể – trung tâm tự mình chiếm lĩnh tri
thức, chân lí bằng hành động của chính mình, tự phát triển từ bên trong.
Thầy là tác nhân, người hướng dẫn, người tổ chức, đạo diễn cho trò tự
học. Người thầy giỏi là người biết dạy cho trò tự học. Người học giỏi là người
biết tự học, biết sáng tạo suốt đời. Tự học không có nghĩa là học một mình, đơn
thân mà học trong sự tương tác với các bạn, trong môi trường xã hội, dưới sự
hướng dẫn của thầy và sự hợp tác của các bạn – ngoại lực. Ngược lại, tác động
của thầy và môi trường xã hội sẽ kém hiệu lực nếu không phát huy được năng
lực tự học của người học. Nói cách khác, quá trình tự học, tự nghiên cứu, cá
nhân hóa việc học phải kết hợp với quá trình hợp tác với các bạn trong cộng
đồng lớp học và quá trình dạy học của nhà giáo. Kết hợp quá trình dạy với quá
trình tự học là nhằm làm cho “dạy” và “tự học” cộng hưởng được với nhau tạo
ra chất lượng và hiệu quả cao để đạt mục tiêu đào tạo con người lao động tự
chủ, năng động và sáng tạo, có năng lự tư duy, năng lực giải quyết vấn đề, năng
lực tự học.
Hệ phương pháp dạy học tích cực lấy người học làm trung tâm gọi tắt
theo đúng thực chất của nó là hệ phương pháp dạy tự học đã chỉ rõ: người học,
chủ thể của hoạt động học, tự mình tìm ra kiến thức cùng với cách tìm ra kiến
thức bằng hành động của chính mình. Người học không phải được đặt trước
những kiến thức có sẵn trong SGK hay bài giảng được chuẩn bị sẵn của thầy
mà tự đặt mình trước các tình huống, vấn đề thực tế, cụ thể và sinh động của
cuộc sống, từ đó thấy có nhu cầu hay hứng thú phát hiện và giải quyết những
vật cản, mâu thuẫn trong nhận thức của mình để tự mình tiến xa “cái chưa
biết”, “ cái cần khám phá”, “cái mới”. Tự đặt mình vài tình huống học, người
học quan sát, suy nghĩ, tự nghiên cứu tra cứu, tự làm thí nghiệm, đặt giả thiết,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
đặt vấn đề... để tự mình tìm ra kiến thức, chân lí cùng với cách xử lí tình huống,
cách giải quyết vấn đề. Tri thức và phương pháp, người học đã tự lực khám phá
ra không rập theo một khuôn mẫu có sẵn, đều là tri thức và phương pháp mới.
Do đó, hoạt động tự lực, tự tìm ra cái chưa biết mang tính sáng tạo đối với
người học. Muốn phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học thì
cần phải rèn luyện phương pháp học tập cho HS, coi đây không chỉ là một
phương tiện nâng cao hiệu quả dạy học mà là một mục tiêu quan trọng của dạy
học.
Tự học là con đường thử thách rèn luyện và hình thành ý chí cao đẹp của
mỗi con người trên con đường lập nghiệp. Con người luôn luôn phải tự học để
nâng cao học vấn. Vì tự học chính là một biểu hiện rõ nét của chí lớn, lập
nghiệp để hoà nhập với cộng đồng của mỗi con người.
Tự học là con đường tạo ra tri thức vững chắc, lâu bền cho mỗi con
người trên hành trình đi tìm kiến thức. Kiến thức do tự học đem lại bao giờ
cũng vững chắc, lâu bền, thiết thực và đầy sáng tạo. Tự học đã và đang trở
thành chiếc chìa khoá mở cánh cửa thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Bất cứ
một nền giáo dục hiện đại tiên tiến nào cũng đề cao năng lực cá nhân, coi trọng
vấn đề tự học, tự mình giáo dục, tự mình phát triển, tự mình điều khiển. Tự học
là con đường tự khẳng định, là con đường sống, con đường thành đạt của mỗi
con người muốn bước vào lĩnh vực trí tuệ của thời đại mới.
Tự học, tự vươn lên, tự phát triển trí tuệ và nhân cách trong cuộc sống và
hoạt động xã hội của mỗi công dân chính là tích luỹ kho báu chất xám trí tuệ
cho sự nghiệp chung của đất nước ta trong vận hội mới ngày nay.
Hình thành năng lực tự học cho HS THPT có nghĩa là hình thành năng
lực nhận thức tích cực, sáng tạo, chủ động cho HS. Là hình thành cho họ khả
năng phát huy tới mức cao nhất tính tự lực trong học tập và thể hiện được cá
tính sáng tạo riêng của mình, thực hiện tốt nhất những mục đích, nhiệm vụ mà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
môn học đề ra. Nói cách khác, hình thành năng lực tự học cho HS cũng chính là
hình thành tri thức và kĩ năng cho họ. Cho nên, vai trò của các biện pháp nhằm
hình thành năng lực tự học là vô cùng quan trọng.
Để hoạt động tự học đạt kết quả như mong muốn, người học cần phải
nắm được đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học. Vậy đặc điểm và bản
chất của hoạt động tự học là gì?
1.1.2.1. Đặc điểm và bản chất của hoạt động tự học.
Dưới các góc độ khác nhau, thì có nhiều các quan niệm khác nhau về tự
học. Có quan niệm cho rằng: học tập là một biến đổi vững chắc trong hành vi
hoặc trong năng lực ứng xử theo một cách nào đó. Sự biến đổi đó là kết quả của
thực hành hoặc của hình thức thể nghiệm khác; Lại có quan niệm cho rằng: học
tập là quá trình lĩnh hội kiến thức mới hoặc kĩ năng mới. Sự học tập được xác
định dưới những hành động mà HS cần phải thực hiện được, cách học là một
chuỗi hành động thử và sai. Song thực tế, học tập là hoạt động có mục đích và
luôn được thúc đẩy bởi một hệ thống những động cơ nhất định; Còn tác giả
Nguyễn Ngọc Quang đứng trên quan điểm nghiên cứu cấu trúc hệ thống của
quá trình dạy học và mối quan hệ giữa các thành tố cấu trúc đó, đặc biệt là mối
quan hệ thống nhất biện chứng giữa dạy và học, giữa thày và trò, lại quan niệm:
Học tập là quá trình tự điều khiển tối ưu sự chiếm lĩnh khái niệm khoa học,
bằng cách đó mà hình thành cấu trúc tâm lí mới, phát triển nhân cách toàn diện
[37]. Theo tác giả này, học tập là quá trình bao gồm cả hoạt động tự học và
hướng dẫn tự học; Tác giả Lê Khánh Bằng cho rằng: “Học – về bản chất là quá
trình tiếp thu và xử lí thông tin bằng các hành động trí tuệ và chân tay... từ đó
mà có được tri thức, kĩ năng, thái độ mới” [3]. Như vậy, theo các tác giả thì học
tập là quá trình bao gồm quá trình tiếp thu và xử lí thông tin, mục đích của việc
học tập là nhằm biến đổi nhân cách của người học.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
Từ những quan điểm trên, chúng ta có thể đi tới khái niệm về học tập: Đó
là quá trình người học tự giác, tích cực, độc lập tiếp thu và xử lí thông tin từ
môi trường xung quanh bằng các thao tác trí tuệ và chân tay nhằm hình thành
cấu trúc tâm lí mới để biến đổi nhân cách của mình theo hướng ngày càng hoàn
thiện và dù trong tình huống nào thì bản thân sự học cũng đã chứa đựng sự tự
học.
Trong cuộc sống, mỗi cá nhân có thể học theo cách khác nhau. Người ta
có thể kể đến cách học ngẫu nhiên trong cuộc sống sinh hoạt và lao động. Cha
ông ta đã có câu: “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”. Cách học này, giúp
người học nắm được tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, kinh nghiệm... thông qua nhiều
hoạt động, và ở mọi lúc mọi nơi trong cuộc sống. Tuy vậy, cách học này cũng
có những nhược điểm: nó chỉ cho phép người học lĩnh hội một cách vụn vặt, tự
do, không hệ thống các tri thức có liên quan trực tiếp đến nhu cầu hứng thú,
nhiệm vụ trước mắt.
Khác với cách học ngẫu nhiên là cách học có chủ định. Đây là cách học
có mục đích và đối tượng. Nó được điều khiển một cách có ý thức nhằm tiếp
nhận tri thức, kĩ năng kĩ xảo và hình thành cả các cách thứ chiếm lĩnh chúng.
Mục đích của hoạt động học là chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội lịch sử thông qua
sự tái tạo của cá nhân người học và vận dụng tri thức đó để cải tạo thực tiễn và
cải tạo chính bản thân mình.
Như trên đã nói, trong bất kì tình huống nào thì trong bản thân sự học
cũng chứa đựng sự tự học. Tự học là học với sự tự giác và tích cực ở mức độ
cao. Đã có rất nhiều quan niệm xoay quanh vấn đề này. Tác giả Trịnh Quang
Từ cho rằng: “Tự học là quá trình nỗ lực chiếm lĩnh tri thức của bản thân người
học bằng hành động của chính mình, hướng tới những mục đích nhất định”
[35]. Còn GS. Nguyễn Cảnh Toàn quan niệm: “Tự học là tự mình động não,
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp...)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
và có khi cả cơ bắp, cùng các phẩm chất của mình kết hợp với cả động cơ, tình
cảm, cả nhân sinh quan, thế giới quan (như tính trung thực, khách quan, chí tiến
thủ, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì nhẫn nại, say mê khoa học...) để chiếm
lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đấy” [31]. Theo tác giả này, tự học diễn ra ngoài
giờ lên lớp, không có sự giáp mặt giữa thầy và trò.
Sở dĩ quan niệm về tự học của các tác giả trên khác nhau bởi vì họ đứng
trên những góc độ nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, họ đều quan niệm tự học
là học với sự độc lập, tích cực, tự giác ở mức độ cao. Đó là một quá trình mà
trong đó chủ thể người học tự biến đổi mình, tự làm phong phú vốn tri thức của
mình bằng các thao tác trí tuệ hoặc chân tay, nhờ cả ý chí, nghị lực và sự say
mê học hỏi của cá nhân. Tự học có thể diễn ra ở bất cứ thời gian và địa điểm
nào (có thể trên lớp hoặc ngoài giờ lên lớp). Khi có hệ thống SGK thì việc học
có thể diễn ra theo ba cách:
- Có SGK rồi người học tự đọc lấy mà hiểu, mà thấm thía các kiến thức
trong sách, qua lao động để hiểu mà tự rút ra kinh nghiệm về tư duy. Đó là tự
học ở mức độ cao. Ngoại lực ở đây tác động thông qua SGK. Tác giả SGK, nếu
là thầy giỏi thì có thể giúp nhiều không những cho việc tiếp thu kiến thức mà
còn cả cho việc rèn luyện tư duy và tính cách. Dù sao chỉ với SGK thì tác động
của ngoại lực cũng bị hạn chế và nội lực phải cố gắng nhiều.
- Có SGK và có thêm những ông thầy ở xa hướng dẫn tự học, bằng tài
liệu hay bằng các phương tiện viễn thông khác. Hướng dẫn tự học chủ yếu là
hướng dẫn tư duy giúp người học tự chiếm lĩnh kiến thức, hướng dẫn người học
tự phê bình về tính cách trong quá trình tự chiếm lĩnh kiến thức. Đó là tự học có
hướng dẫn.
- Có sách và có thầy hướng dẫn trực tiếp một số tiết trong ngày, trong
tuần. Bằng những hình thức thông tin trực tiếp không qua máy móc hoặc ít
nhiều có sự hỗ trợ của máy móc đặt ngay trên lớp .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
Khách quan mà xét thì thuận lợi đối với người học tăng dần lên từ cách
một đến cách ba. Theo cách một thì người học gặp nhiều khó khăn. Nhưng điều
đó thật đáng quý vì nó buộc người học phải phát huy nội lực cao và do đó nội
lực phát triển mạnh. ở cách thứ ba, xét bề ngoài thì hình như có nhiều thuận lợi
nhất. Nhưng thuận lợi đó có thể biến thành khó khăn nếu thầy không cảnh giác
với việc làm thay trò (ở những công việc mà trò tự lực làm được, và trò không
cảnh giác với việc ỷ lại vào thầy).
Dạy giỏi là biết kích thích tự học đúng theo các quy luật của tâm lí, tư
duy, khiến cho năng lực tự học phát triển mạnh, nhờ vậy mà kiến thức cũng dày
lên nhanh một cách vững chắc, sâu sắc.
Tóm lại, tự học là một quá trình, trong đó, dưới vai trò chủ đạo của GV,
người học tự mình chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo thông qua các hoạt động
trí tuệ (quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán...) và cả hoạt động
thực hành (khi phải sử dụng các thiết bị học tập). Tự học gắn liền với động cơ,
tình cảm và ý chí... của người học để vượt qua mọi trở ngại trong học tập nhằm
tích lũy kiến thức cho bản thân người học từ kho tàng tri thức của nhân loại,
biến những kinh nghiệm này thành kinh nghiệm và vốn sống của bản thân
người học. Tự học có thể diễn ra dưới sự chỉ đạo trực tiếp của GV. Tự học có
thể diễn ra dưới ba hình thức khác nhau: tiếp nhận thông tin từ môi trường bên
ngoài, xử lí thông tin dựa vào vốn kinh nghiệm hiểu biết của mình, tự kiểm tra,
đánh giá kết quả tự học của mình.
Qua những phân tích trên, chúng ta thấy tự học có vai trò vô cùng quan
trọng. Nó là một nhân tố tham gia vào quá trình hình thành và phát triển nhân
cách con người. Nhờ tự học mà con người khắc phục được mâu thuẫn giữa sự
vô hạn của học vấn với giới hạn của tuổi học đường, giữa khát vọng về sự hiểu
biết với hoàn cảnh vốn có của bản thân, tạo cho con người khả năng vươn tới
đỉnh cao tri thức ngay cả trong những hoàn cảnh khó khăn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Tác giả Nguyễn Đức Thâm đã viết: “Muốn học được nhiều thì chủ yếu là
tự học, thầy dạy không thể dạy tất cả những điều cần thiết đối với trò. Vì mỗi
HS có một tri thức riêng, có một trình độ tư duy riêng. Chỉ có tự học mới học
được tất cả những điều cần học” [36]
Vì thế, tự học là con đường thử thách, rèn luyện và hình thành ý chí cao
đẹp của mỗi con người trên con đường lập nghiệp. Bởi quá trình tự học đòi hỏi
chủ thể tự học phải vượt qua mọi khó khăn thử thách, phải sử dụng ý chí của
mình để vượt qua những vật cản nhằm đạt được mục tiêu học tập đề ra.
Ngày nay, trước sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, sự
tăng trưởng với tốc độ nhanh và với khối lượng lớn của các lĩnh vực khoa học
thì việc học liên tục, học suốt đời lại càng trở nên quan trọng và cần thiết đối
với tất cả mọi người. Một trong những con đường hữu ích nhất để làm được
điều đó là tự học. Tự học là kim chỉ nam giúp con người có khả năng thích ứng
với xã hội mới trong tương lai.
Tuy nhiên, trong thực tế, không phải người nào tự học cũng có kết quả
như mong muốn. Muốn đạt được điều đó thì phải có những điều kiện nhất định.
Vậy những điều kiện đó là gì?
1.1.2.2. Điều kiện để tự học có hiệu quả
1.1.2.2.1. Điều kiện về thời gian
Đây là một nhân tố quan trọng góp phần tạo nên kết quả tự học. Muốn tự
học cần phải có thời gian để tiến hành hoạt động học tập và đòi hỏi chủ thể tự
học phải có kế hoạch sắp xếp thời gian một cách linh hoạt, sáng tạo. Thời gian
tự học cho từng môn phải phù hợp và tương xứng với thời lượng thông tin của
môn học đó, đồng thời phải cân đối giữa thời gian nghe giảng trên lớp với thời
gian tự học ở nhà. Điều cơ bản nhất là người học phải biết nâng cao hiệu suất
của thời gian học tập và đảm bảo luân phiên hợp lí giữa thời gian học tập với
thời gian nghỉ ngơi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
1.1.2.2.2. Điều kiện về tâm lí
Yếu tố tâm lí là yếu tố bên trong làm ảnh hưởng đến kết quả tự học của
HS. Đó là nhu cầu, động cơ và thái độ học tập tích cực của HS. Để tự học đạt
kết quả cao đòi hỏi chủ thể tự học phải có động cơ và thái độ học tập đúng đắn,
phải có nhu cầu và hứng thú học tập thực sự, phải có sự say mê khoa học, phải
nhận thức rõ mục đích của hoạt động học tập và ý thức một cách đầy đủ về việc
học của mình. Bên cạnh đó, người học không ngừng hoàn thiện các chức năng
tâm lí, nhận thức để tiến hành hoạt động học tập một cách có hiệu quả dưới sự
hướng dẫn, điều khiển của thầy như các quá trình cảm giác, tri giác, ghi nhớ, tư
duy... đặc biệt là quá trình ghi nhớ và tư duy. Bởi lẽ, trong quá trình tự học HS
phải có khả năng tái hiện một cách chính xác, khoa học nội dung tài liệu tự
nghiên cứu. Đồng thời, phải có khả năng phân tích, so sánh, khái quát hóa hệ
thống nội dung tri thức trong tài liệu đã nghiên cứu thành một dàn ý hay một đề
cương tóm tắt.
Để hoàn thành nội dung học tập đòi hỏi chủ thể tự học phải có ý chí vượt
khó để vượt qua những khó khăn, trở ngại trong quá trình tự học nhằm đạt các
mục tiêu học tập đã đề ra.
Trong các yếu tố tâm lí trên có một yếu tố đóng vai trò hết sức quan
trọng đó là động cơ học tập. Bởi vì, động cơ học tập của HS được thể hiện rõ ở
đối tượng của hoạt động học. Động cơ học tập tạo sự say mê học tập, sự khát
khao mở rộng tri thức, hiểu biết và ý chí quyết tâm vượt khó để giải quyết các
nhiệm vụ học tập. Trong thực tế, động cơ học tập của HS luôn gắn liền với nhu
cầu nhận thức, nhu cầu chiếm lĩnh đối tượng học tập. Vì nhu cầu là nơi khơi
nguồn tính tích cực, độc lập tự giác của HS. Do vậy, muốn hình thành năng lực
tự học cho HS trong quá trình dạy học, người GV cần quan tâm đến việc hình
thành động cơ học tập cho HS.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
Bên cạnh việc hình thành động cơ học tập đúng, người HS cũng cần hình
thành cho mình hệ thống kĩ năng tự học như: kĩ năng sắp xếp thời gian, kĩ năng
đọc sách, kĩ năng nghe và ghi chép bài trên lớp, kĩ năng nghiên cứu khoa học,
kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập. Đồng thời cũng cần hoàn thiện các chức
năng nhận thức, đặc biệt là chức năng ghi nhớ và các thao tác tư duy như: phân
tích, tổng hợp, khái quát hóa, hệ thống hóa, trừu tượng hóa...
1.1.2.2.3. Điều kiện về cơ sở vật chất
Điều kiện vật chất tối thiểu cần đáp ứng là SGK, các cuốn tài liệu tham
khảo và các tài liệu hướng dẫn tự học.
Hoạt động tự học của HS có mối quan hệ thống nhất biện chứng với
hoạt động của GV. Vì vậy, phương tiện phục vụ cho hoạt động dạy học cũng
cần phải đổi mới theo hướng tích cực hóa hoạt động tự học của HS: phim ảnh,
đèn chiếu, băng hình, máy vi tính và các phương tiện nghe nhìn khác.
Địa điểm tự học cũng cần phải đảm bảo các điều kiện cần thiết về vệ sinh
học đường để hoạt động tự học có hiệu quả. Các điều kiện về cơ sở vật chất cần
thiết cho sinh hoạt hàng ngày nhằm phục vụ hoạt động tự học cũng cần được
đảm bảo.
Tự học của HS là một mặt hoạt động trong quá trình dạy học. Nó không
tách rời hoạt động dạy của GV. Vì vậy, tự học chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi
nó diễn ra trong mối quan hệ thống nhất, biện chứng với hoạt động dạy của
thầy.
Trong quá trình dạy – học luôn diễn ra trong mối quan hệ thống nhất biện
chứng giữa người dạy, người học và nội dung tri thức mà người học cần chiếm
lĩnh. Trong mối quan hệ bộ ba của tam giác sư phạm thì người dạy luôn đóng
vai trò chủ đạo (tổ chức, chỉ đạo, điều khiển, hướng dẫn...), còn người học, với
tư cách là đối tượng chịu sự tác động, sự điều khiển của người dạy lại là chủ thể
của hoạt động nhận thức, họ tích cực, tự giác, tự tổ chức, tự điều khiển hoạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
động nhận thức của mình nhằm hoàn thành nhiệm vụ và mục tiêu dạy học đề
ra.
Trong quá trình chiếm lĩnh tri thức, HS còn phải nắm cả thao tác để
chiếm lĩnh khái niệm. Vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của
người học, đòi hỏi người dạy ngoài chức năng tổ chức, hướng dẫn, truyền đạt...
còn cần phải dạy cách thao tác với đối tượng, cách chiếm lĩnh nó (nói cách
khác là hướng dẫn cách học, phương pháp học) cho người học. Trong quá trình
đó, người dạy và người học là hai người bạn đồng hành cùng chung một mục
đích là giúp người học chiếm lĩnh tri thức và hình thành được phương pháp
thao tác với nó. Vì vậy, mà tác giả Phan Trọng Ngọ viết: “Dạy học là sự hợp
tác giữa người dạy và người học. Hoạt động dạy và hoạt động học là hoạt động
hợp tác giữa người dạy và người học. Chỉ có như vậy dạy học mới đạt hiệu quả
tối ưu với sự phát triển của trẻ em” [21]; hay “Giáo dục phổ thông phải bồi
dưỡng phương pháp và năng lực tự học cho HS” [40, 34]
Trong xu thế phát triển của xã hội hiện đại, với sự phát triển như vũ bão
của khối lượng tri thức và thông tin khoa học, sự hiện đại hóa của các phương
tiện kĩ thuật dạy học đã đặt ra yêu cầu soạn thảo nội dung dạy học, trong đó
không chỉ bao gồm các sự kiện mà chủ yếu là các nguyên tắc, các phương pháp
xử lí các thông tin và các sự kiện. Điều đó có nghĩa là hoạt động dạy học trong
nhà trường cần phải hướng tới dạy cách học, giúp HS tự nghiên cứu, tự khám
phá để giải quyết các vấn đề do nhiệm vụ dạy học đặt ra. Tự học dưới sự hướng
dẫn trực tiếp của GV là một phương pháp dạy học nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho việc học tập của HS, phát huy tính tích cực, độc lập, tự giác, sáng tạo cho
HS trong quá trình nhận thức. Trong quá trình hướng dẫn tự học, người thầy sẽ
giúp người học nhận thức rõ họ phải học cái gì và học như thế nào? học để làm
gì?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
26
Muốn vậy, trong quá trình dạy học, người thầy cần phải giúp HS trên cơ
sở xác định mục tiêu học tập mà xác định nội dung hoạt động học tập, hình
thành các hành động học tập, các kĩ năng tự kiểm tra, tự đánh giá cho bản thân.
1.1.3. Tự học đối với các bài học về văn học sử trong SGK.
1.1.3.1. Mục tiêu của bài học văn học sử
Các bài học văn học sử nhằm cung cấp những tri thức khoa học về lịch
sử văn học cho HS để họ có cái nhìn khái quát về cả một nền văn học, về từng
bộ phận văn học, từng thời kì và từng tác gia văn học.
1.1.3.2. Nội dung của bài học văn học sử
Các bài học văn học sử là những nhận định, những đánh giá của các nhà
nghiên cứu văn học về lịch sử văn học dân tộc trong cái nhìn bao quát của cả
một nền văn học, từng bộ phận, từng thời kì văn học và từng tác gia văn học.
1.1.3.3. Hình thức của bài học văn học sử
Các văn bản văn học sử trong SGK là những văn bản nghị luận gồm có
nhiều phần. Mỗi phần trình bày một vấn đề bằng hệ thống luận điểm và các
luận chứng, luận cứ để làm rõ từng luận điểm.
1.1.3.4. Hình thành năng lực tự học cho HS theo các kiểu bài văn học sử.
Kiểu bài văn học sử có tính tổng quan.
Bài “Tổng quan văn học Việt Nam” là kiểu bài học văn học sử mang tính
khái quát, mang tính lí thuyết cao, nhiều luận điểm trừu tượng nên có thể khó
hiểu, khó tiếp thu đối với HS. GV cần chủ động vận dụng các kiến thức văn học
sử cụ thể, nhất là các kiến thức mà HS đã biết, đã học từ các lớp dưới để minh
họa cho các luận điểm khái quát trong bài, tạo sự sinh động hấp dẫn cho bài
giảng.
Xét về chức năng bài học, bài Tổng quan không trình bày các giai đoạn,
các thời kì lịch sử văn học (tránh trùng lặp với ba bài khái quát về ba thời kì của
văn học viết trong sách Ngữ văn các lớp 10, 11, 12).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27
Nhiệm vụ của bài Tổng quan là nêu lên một bức tranh văn học chung:
văn học Việt Nam có hai bộ phận là văn học dân gian và văn học viết. Trong
văn học viết, có hai loại kiểu văn học khác nhau: văn học trung đại và văn học
hiện đại.
Để tránh trùng lặp nội dung với ba bài khái quát về ba thời kì của văn
học viết và bài khái quát về văn học dân gian, bài Tổng quan chỉ trình bày sự
thể hiện con người Việt Nam qua văn học. Đây là cách hệ thống hóa có ưu
điểm vì suy cho cùng văn học là nhân học. Đời sống lao động và tư tưởng, tình
cảm của con người có thể quy về bốn mối quan hệ. Mô tả con người Việt Nam
trong bốn quan hệ cơ bản thực chất là hệ thống hóa những nội dung lớn của văn
học Việt Nam và một số hình tượng nghệ thuật quan trọng.
Một đặc điểm khác là bài này có nhắc đến nhiều hiện tượng văn học (ví dụ văn
học yêu nước, Cách mạng, Thơ mới, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn...).
Kiểu bài khái quát về bộ phận của nền văn học
Khi dạy bài “Khái quát văn học dân gian Việt Nam”, GV giúp HS hiểu
và nhớ được những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian, hiểu được những
giá trị to lớn của văn học dân gian. Vì đay sẽ là cơ sở để HS có thái độ trân
trọng đối với di sản văn hóa tinh thần của dân tộc, từ đó học tập tốt hơn phần
văn học dân gian trong chương trình. Đồng thời, HS cũng phải nắm được khái
niệm về các thể loại. Mục tiêu đặt ra là HS có thể nhớ và kể tên các thể loại,
biết sơ bộ phân biệt thể loại này với thể loại khác trong hệ thống.
Vì bài này là bài khái quát được viết một cách cô đọng. Trong mỗi mục
và tiểu mục là những nhận xét, nhận định về các vấn đề khác nhau nên GV cần
cung cấp cho HS những dẫn chứng cụ thể, sinh động.
Kiểu bài văn học sử về thời kì văn học.
Bài “Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX” là bài
học văn học sử có tính khái quát, tổng hợp, vừa cung cấp những khái niệm,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
28
phạm trù văn học, vừa cung cấp những dẫn chứng về thể loại, tác giả, tác phẩm
tiêu biểu.
Kiến thức trong bài văn học sử mang tính tổng hợp, tính tích hợp. Những
kiến thức mang tính tổng hợp như kiến thức về lịch sử, về tư tưởng, văn hóa có
ảnh hưởng qua lại tới văn học. Đây là những kiến thức mang tính tổng hợp cần
thiết để lí giải các hiện tượng, các quy luật văn học. Sự kết hợp hữu cơ giữa văn
học sử với lí luận văn học và làm văn tạo nên tính tích hợp của bài học văn học
sử.
Kiểu bài văn học sử về tác giả văn học
Mục tiêu tìm hiểu cuộc đời một tác giả văn học là để góp phần giải thích
những đặc điểm sáng tác của nhà văn ấy. Do đó, bài học thường cố gắng liên hệ
trong chừng mực có thể giữa những sự kiện của tiểu sử tác giả với đặc điểm
sáng tác của ông chứ không kể một cách “vô tình” các sự kiện tiểu sử.
Nói đến đặc điểm sáng tác của tác giả nhằm mục đích để HS hiểu được sự
thống nhất giữa các sáng tác.
Khi giảng về tác giả, cần phân tích một số dẫn chứng thơ văn tiêu biểu để
làm sáng tỏ những nhận định của văn học sử, tránh cung cấp kiến thức văn học
sử bằng những nhận định, những khái niệm đơn thuần. HS lóp 10 là phải nắm
được những điều cơ bản về cuộc đời và sự nghiệp thơ văn của hai tác gia lớn:
Nguyễn Trãi và Nguyễn Du.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tình hình tự học các bài học về văn học sử của HS THPT
1.2.1.1. Về tinh thần tự học các bài học văn học sử của HS THPT
Phần lớn HS THPT chưa nhận thức được một cách đầy đủ, sâu sắc về vai
trò, mục đích, tầm quan trọng của môn Ngữ văn trong nhà trường. Thậm chí, có
HS còn nhận thức hoàn toàn sai lệch về bộ môn này. Nhiều HS cho rằng học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
29
văn là phù phiếm, không gắn liền với cuộc sống, không phục vụ cho cuộc sống,
học văn chẳng để làm gì.
Cho nên, đa số HS không có hứng thú, say mê, không có thái độ đúng
đắn với môn học này. Vì thế, HS học môn này phần lớn mang tính chất bắt
buộc, đối phó. Đó cũng chính là một trong những khó khăn đối với giáo viên
Ngữ văn.
Từ nhận thức trên, phần lớn HS không hoặc chưa nhận thức đúng đắn về
ý nghĩa của hoạt động tự học đối với các bài học văn học sử. Phần lớn HS cho
rằng tự học chỉ là để ghi nhớ, tái hiện, tiếp thu tri thức đã học, và để phục vụ
cho bài kiểm tra, bài thi của mình đạt kết quả cao. Chỉ có rất ít HS hiểu rằng tự
học là để biến đổi nhân cách, dần hoàn thiện năng lực sống, để làm phong phú
thêm hiểu biết của mình, để vận dụng tri thức vào những tình huống khác nhau,
trong khi đó có thể nói đây là những nhận thức vô cùng đúng đắn và quan
trọng.
1.2.1.2. Về hoạt động tự học bài học văn học sử của HS THPT
Chính vì HS chưa nhận thức đầy đủ và đúng đắn về vấn đề tự học cho
nên đã dẫn đến việc HS tự học chưa hợp lí, chưa khoa học. Hoạt động tự học
còn chưa đa dạng, còn nặng về hình thức ghi nhớ và tái hiện. Còn một số hình
thức khác như: nghiên cứu bài mới trước khi nghe giảng, lập đề cương nghiên
cứu, trao đổi... thì chưa được HS chú ý và thực hiện. Nếu có thực hiện thì cũng
ở mức độ rất hạn chế và không thường xuyên.
Với việc tự chuẩn bị nội dung bài mới ở HS còn rất kém. Rất ít HS chuẩn
bị bài mới một cách tự giác, nghiêm túc, cẩn thận và tỉ mỉ. Đa số các em chuẩn
bị bài mới một cách bắt buộc và đối phó.
1.2.2. Thực trạng của dạy học văn học sử theo hướng hình thành năng lực tự
học cho HS
1.2.2.1. Đối với GV
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
30
Thứ nhất, đối với việc soạn giáo án. Ta thấy từ trước đến nay, thực chất
GV chỉ soạn một đề cương nội dung bài văn học sử theo cách lược hóa văn bản
SGK. Đó là việc thiết kế giáo án với nội dung ứng với những hoạt động của
thầy mà không tính đến hoạt động của trò, nếu có chỉ là lấy lệ. Nhiều giáo viên
chưa nhận thức được giáo án là “phương pháp dạy học chứ không phải là nội
dung tri thức thuần túy” [37, 93]. “Nội dung trong giáo án là sự tích hợp là sự
nhất thể hóa, là sự hòa tuyến tri thức bổ ích cho HS, là cách thực hiện quá trình
tìm kiếm kiến thức mới” [37, 95].
Với thiết kế giáo án như vậy, phương pháp của GV là thông tin – tiếp
thụ, thầy thuyết minh, trò nghe và ghi chép. Đó là lối dạy truyền thống, đơn
phương, một chiều. GV là trung tâm của quá trình dạy, GV là chủ thể còn HS là
khách thể thụ động. Trong các giờ học văn học sử, GV hoạt động liên tục với
gần như toàn bộ thời gian trong giờ học bằng phương pháp thuyết trình. GV
hầu hết trung thành với kiến thức SGK, không liên hệ, mở rộng tầm hiểu biết
cho HS mà ở kiểu bài văn học sử, khả năng này là một thế mạnh. GV cố gắng
chuyển khối lượng kiến thức trong SGK đến HS một cách vất vả trong một
lượng thời gian đã định sẵn. Trong suốt giờ học, GV độc thoại liên tục, còn HS
thụ động nghe, ghi hép thu nhận kiến thức SGK qua lời GV theo phương thức
nhồi nhét, áp đặt.
Phương thức thầy đọc – trò chép, thầy giảng – trò nghe trong những giờ
học bài văn học sử vẫn diễn ra thường xuyên, khiến HS lười học hoặc mất hẳn
cảm hứng khi học loại bài học này. GV thì luôn lo thiếu hụt thời gian để chuyển
tải kiến thức khái quát vừa nhiều vừa rộng. GV chọn phương pháp thuyết trình
diễn giảng. Chính việc này có ảnh hưởng xấu tới hiệu quả học tập của HS. Cách
dạy theo kiểu thông báo – phát tin này làm cho HS mất dần khả năng tự thân
vận động để tìm hiểu, nghiên cứu bài giảng, không chịu khó tự học, tự khám
phá để mở rộng tầm hiểu biết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
31
Trong loại bài học này, GV cũng sử dụng phương pháp đặt câu hỏi
nhưng còn nghèo nàn, rải rác và phần lớn là câu hỏi tái hiện kiến thức, các câu
hỏi không thể hiện quan hệ liên kết, xuyên suốt giữa các phần của nội dung bài.
Có những câu hỏi đặt ra, HS chưa kịp trả lời, GV đã vội diễn giảng vì sợ thâm
hụt thời gian, không gợi ý để HS trả lời. Điều đó tạo cho HS thói quen chờ “ăn
sẵn” không được rèn luyện những khả năng khác ngoài khả năng nghe, ghi
chép, tái hiện.
Loại bài học văn học sử chứa đựng kiến thức tổng hợp, rộng và sâu nên
GV cần phải biết cách định hướng, định lượng kiến thức trong hệ thống câu hỏi
phát vấn HS. Qua đó, các em phải tự động não suy nghĩ tìm hiểu khám phá kiến
thức trong SGK, tự đọc sách, tự tra cứu tài liệu, tự học. Cũng thông qua hệ
thống câu hỏi, HS có khả năng đàm thoại, trao đổi với các thành viên trong lớp,
với GV bằng vốn tri thức các em đã thu lượm được.
1.2.2.2. Đối với HS
Chính vì cách dạy của GV như vậy nên HS không phát huy được năng
lực chủ quan của bản thân mình. HS là khách thể thụ động, hoàn toàn phụ thuộc
vào hoạt động của GV. HS chưa có thói quen đọc nên khả năng phát hiện, nắm
bắt luận điểm và dàn ý hóa văn bản của HS thực sự còn yếu. HS có thể khái
quát được một vài luận điểm cơ bản nhưng diễn đạt còn bộc lộ nhiều yếu kém.
Nhiều trường hợp nhầm lẫn đưa luận điểm lớn thành ý nhỏ và ý nhỏ lại
trở thành luận điểm lớn. Bên cạnh đó, khả năng lập dàn ý của HS còn yếu.
Nhiều em không biết cách sắp xếp thành hệ thống chặt chẽ.
Chương II
Những biện pháp hình thành và phát triển
năng lực tự học qua các bài học văn học sử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
32
“Biện pháp là cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể” (Từ điển
tiếng Việt, tr.78). Vậy cần có những cách làm, cách giải quyết nào cho vấn đề
hình thành và phát triển năng lực tự học cho HS lớp 10 qua các bài dạy văn
học sử?
HS lớp 10 là lớp HS vừa bước từ bậc THCS vào bậc THPT. Có thể, ở
cấp THCS, thầy cô giáo đã làm hình thành ở HS lứa tuổi 14, 15 năng lực tự
học. Song, điều chắc chắn là năng lực ở từng HS chưa đồng đều. Bởi vậy các
thầy cô giáo ở bậc THPT lại vẫn phải tiếp tục chú trọng củng cố những gì các
em đã có được ở cấp dưới, tiếp tục hình thành năng lực tự học, làm phát triển
năng lực đó lên một tầm cao hơn ở HS vừa chân ướt chân ráo bước vào bậc
THPT.
“Lời nói đầu” của SGK Ngữ văn 10 – tập 1 (bộ chuẩn) có viết: “Một
điểm quan trọng là SGK nhằm giúp HS tự học. Tự học là chiến lược của xã hội
học tập ngày nay. Phần “Hướng dẫn học bài” sau mỗi văn bản là những gợi ý
dẫn dắt anh (chị) tự mình chiếm lĩnh tác phẩm văn chương hay một bài học cụ
thể... Mục “Kết quả cần đạt” ở đầu bài và phần “Ghi nhớ” ở cuối bài là những
tiêu chí để anh chị định hướng trong quá trình học tập cũng như tự đánh giá.
Phần “Luyện tập” giúp người học vận dụng kiến thức để thông hiểu lí luận và
hình thành kĩ năng thực hành...”. Đó là một thuận lợi rất lớn cho việc hình
thành năng lực tự học cho HS lớp 10 trong môn Ngữ văn.
Riêng các bài học về văn học sử trong SGK Ngữ văn ở bậc THPT cũng
được biên soạn theo hướng trên nên càng tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình
thành năng lực tự học về văn học sử cho HS.
Những văn bản về văn học sử trong SGK Ngữ văn lại có nét đặc thù: đó
là những văn bản nghị luận mà nội dung kiến thức được trình bày rõ ràng, khúc
chiết. Nhưng đó lại là những kiến thức khái quát, có phần trừu tượng nên không
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
33
phải dễ dàng nắm bắt khi HS tự học. Điều đó đòi hỏi người dạy phải có những
biện pháp cụ thể mới giúp HS vừa nắm được kiến thức lại vừa có được năng
lực tự học.
Dựa vào những cơ sở lí luận và thực tiễn đã được trình bày ở chương I,
luận văn đề xuất một số biện pháp sau đây để hình thành và phát triển năng lực
tự học về lịch sử văn học ở lớp 10.
2.1. Biện pháp 1: Hình thành năng lực nhận diện các loại văn bản trong
SGK Ngữ văn 10.
2.1.1. Năng lực tự học Ngữ văn ở HS trước hết biểu hiện ở năng lực tự
mình đọc SGK và phân loại các loại văn bản thuộc về văn học ở trong đó. Điều
này, bề ngoài tưởng chừng đơn giản, nhưng bên trong là nhằm hình thành năng
lực suy nghĩ để nhận biết các loại văn bản. Đây cũng là hoạt động vận dụng lí
thuyết về văn bản được học ngay từ đầu lớp 10 vào thực tiễn (tích hợp). Hoạt
động tự đọc SGK để nhận biết các loại văn bản là hoạt động thường xuyên, ở
nhà, ở trường, trong giờ học, ngoài giờ học.
2.1.2. Để cho hoạt động này của HS có định hướng thầy giáo có thể đặt
ra trước HS những câu hỏi, những lời gợi dẫn để HS tự tìm câu trả lời.
Gợi dẫn 1: Trong SGK Ngữ văn, về phần văn học, có những loại văn bản
nào? Hãy xếp một số văn bản cụ thể vào từng loại?
Để trả lời được câu hỏi trên, HS phải tự mình đọc kĩ SGK Ngữ văn, dùng
kiến thức vừa được trang bị trong hai bài học về lí thuyết “Văn bản” (ở tuần 1
và tuần 3) để phân biệt từng loại văn bản.
Trong SGK Ngữ văn, về phần văn học có hai loại văn bản: văn bản văn
học và văn bản khoa học.
* Văn bản văn học (văn bản nghệ thuật, văn bản văn chương):
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
34
- Theo nghĩa rộng là tất cả các văn bản sử dụng ngôn từ một cách nghệ
thuật: thơ, truyện, kí, kịch và hịch, cáo, chiếu, biểu, sử, kí... của thời trung đại,
các tác phẩm nghị luận thời hiện đại.
- Theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm các sáng tác văn học có hình tượng nghệ
thuật được xây dựng bằng hư cấu: thơ, truyện, kí, kịch (ca dao, thơ, phú; các tác
phẩm truyện dân gian; truyện ngắn; tiểu thuyết...)
* Văn bản khoa học: trong SGK Ngữ văn ở bậc THPT, văn bản khoa học
là những bài viết nhằm đem đến cho HS những tri thức khoa học về văn học.
Văn bản khoa học gồm 2 loại:
- Những bài viết về lịch sử văn học: Tổng quan nền văn học Việt Nam,
Khái quát văn học dân gian Việt Nam, Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X
đến hết thế kỉ XIX, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du...
- Những bài viết về lí luận văn học: văn bản, văn bản văn học, đặc điểm
của văn bản nói và văn bản viết...
Gợi dẫn 2: Trong SGK Ngữ văn 10 (bộ chuẩn và bộ nâng cao) những
văn bản viết về lịch sử văn học, xét về nội dung có mấy loại? Cấu trúc của từng
loại?
* Có 4 loại:
- Bài khái quát cả một nền văn học: “Tổng quan văn học Việt Nam” (bộ
chuẩn), “Tổng quan nền văn học Việt Nam qua các thời kì lịch sử” (bộ nâng
cao).
- Bài khái quát về một bộ phận văn học: “Khái quát văn học dân gian
Việt Nam” (bộ chuẩn và bộ nâng cao).
- Bài khái quát về một thời kì văn học: “Khái quát văn học Việt Nam từ
thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX” (bộ chuẩn và bộ nâng cao).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
35
- Bài khái quát về một tác gia văn học: “Nguyễn Trãi” (bộ nâng cao),
phần một “Tác giả” của bài “Bình Ngô đại cáo” (bộ chuẩn); “Nguyễn Du” (bộ
nâng cao), phần một “Tác giả” của bài “Truyện Kiều” (bộ chuẩn).
* Cấu trúc của từng loại văn bản đó như sau:
- Bài “Tổng quan văn học Việt Nam” (bộ chuẩn) gồm các phần sau:
I – Các bộ phận hợp thành của văn học Việt Nam
1. Văn học dân gian.
2. Văn học viết.
II – Quá trình phát triển của văn học viết Việt Nam
1. Văn học trung đại (văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX).
2. Văn học hiện đại (văn học từ đầu thế kỉ XX đến hết thế kỉ XX).
III – Con người Việt Nam qua văn học
1. Con người Việt Nam trong quan hệ với thế giới tự nhiên.
2. Con người Việt Nam trong quan hệ quốc gia dân tộc.
3. Con người Việt Nam trong quan hệ xã hội.
4. Con người Việt Nam và ý thức về bản thân.
- Bài “Tổng quan văn học Việt Nam qua các thời kì lịch sử” (bộ nâng
cao) có cấu trúc như sau:
I – Các bộ phận, thành phần của văn học Việt Nam
1. Văn học dân gian.
2. Văn học viết (văn học chữ Hán, văn học chữ Nôm).
II – Các thời kì phát triển của nền văn học.
1. Thời kì từ thế kỉ thứ X đến hết thế kỉ XIX.
2. Thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năn 1945.
3. Thời kì từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX.
III – Một số nét đặc sắc truyền thống của văn học Việt Nam
1. Lịch sử văn học dân tộc là lịch sử tâm hồn của dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
36
2. Về thể loại, thơ ca có truyền thống lâu đời.
3. Văn học Việt Nam tiếp thu mọi luồng văn hóa Đông Tây kim cổ.
4. Nền văn học Việt Nam có một sức sống dẻo dai, mãnh liệt.
- Bài “Khái quát văn học dân gian Việt Nam” có cấu trúc khác nhau ở
hai bộ sách:
Sách “Ngữ văn 10” (bộ chuẩn) gồm có các mục:
I - Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian.
II - Hệ thống thể loại của văn học dân gian.
III – Những giá trị cơ bản của văn học dân gian Việt Nam.
Sách “Ngữ văn 10” (bộ nâng cao) gồm các mục:
I – Văn học dân gian trong tiến trình văn học dân tộc.
II – Một số đặc trưng cơ bản của văn học dân gian Việt Nam.
III – Những thể loại chính của văn học dân gian Việt Nam.
- Bài “Khái quát văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX”
Sách “Ngữ văn 10” (bộ chuẩn) gồm các mục sau:
I – Các thành phần của văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX.
II – Các giai đoạn phát triển của văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX.
III – Những đặc điểm lớn về nội dung của văn học từ thế kỉ X đến hết thế
kỉ XIX
IV – Những đặc điểm lớn về nghệ thuật của văn học từ thế kỉ X đến hết
thế kỉ XIX.
Sách “Ngữ văn 10” (bộ nâng cao) gồm các mục sau:
I – Các giai đoạn phát triển của văn học trung đại Việt Nam.
II – Một số đặc điểm cơ bản của văn học trung đại Việt Nam.
- Bài “Nguyễn Trãi” và “Nguyễn Du”:
Sách “Ngữ văn 10” (bộ chuẩn) gồm các mục:
I – Cuộc đời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
37
II – Sự nghiệp thơ văn
III – Kết luận
Sách “Ngữ văn 10” (bộ nâng cao) gồm các mục:
I – Cuộc đời
II – Sự nghiệp văn học
III – Kết luận
Như vậy, HS đã nắm được hình thù, diện mạo của các loại văn bản có
trong SGK Ngữ văn, đặc biệt là có được cái nhìn tổng quát về các loại văn bản
thuộc về văn học sử. Song cái quan trọng không phải là có được kiến thức khái
quát đó, mà là qua hoạt động tự tìm hiểu, phân loại văn bản trong SGK Ngữ
văn, HS có được phương pháp đọc SGK, kĩ năng tự học văn học sử từ một cái
nhìn tổng quát ở từng bài trước khi tìm hiểu kĩ lưỡng từng phần của nội dung
bài học.
Đây là bước đi đầu tiên trong việc hình thành năng lực tự học cho HS
qua các văn bản về văn học sử.
2.2. Biện pháp 2: Hình thành kĩ năng phát hiện và ghi nhớ các nhận định
của SGK về lịch sử văn học.
2.2.1. Sau khi đã nhận rõ hình thù, diện mạo các loại văn bản trong SGK
và hướng sự chú ý vào các loại văn bản văn học sử từ một cái nhìn tổng quát,
người tự học sẽ đi sâu thêm một bước nữa vào nội dung và hình thức của văn
bản để:
- Phát hiện ra những nhận định khái quát của SGK.
- Sắp xếp những nhận định ấy thành một hệ thống luận điểm.
- Lặng lẽ ngồi nhập vào “bộ nhớ” hệ thống luận điểm đó.
2.2.2. Hoạt động này đòi hỏi sự nỗ lực về trí tuệ của người tự học. Cách
thức thực hiện là đọc kĩ SGK, gạch chân những nhận định, chép lại ra vở, sắp
xếp thành một hệ thống luận điểm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
38
Chẳng hạn, ở bài “Tổng quan văn học Việt Nam” trong “Ngữ văn 10”
(bộ chuẩn) đã có những nhận định tổng quát sau đây:
2.2.2.1. “I – Các bộ phận hợp thành của văn học Việt Nam”
- Luận điểm 1: “Văn học Việt Nam bao gồm các sáng tác ngôn từ với hai
bộ phận có quan hệ mật thiết với nhau: văn học dân gian và văn học viết”.
- Luận điểm 2: “Văn học dân gian là các sáng tác tập thể và truyền miệng
của nhân dân lao động”.
- Luận điểm 3: “Văn học viết là sáng tác của trí thức, được ghi lại bằng
chữ viết, tác phẩm văn học viết mang đậm dấu ấn tác giả”
Ở SGK Ngữ văn 10 (bộ nâng cao) được trình bày như sau:
- Luận điểm 1: “Nhìn một cách tổng quát, nền văn học nước ta gồm hai
bộ phận phát triển song song và luôn có ảnh hưởng qua lại sâu sắc: văn học dân
gian và văn học viết ”.
- Luận điểm 2: “Văn học dân gian nằm trong tổng thể văn hóa dân gian
ra đời từ xa xưa và tiếp tục phát triển cho đến ngày nay. Bộ phận văn học này...
do người bình dân sáng tác và phổ biến theo lối truyền miệng”.
- Luận điểm 3: “Văn học viết do tầng lớp trí thức sáng tạo nên, chính
thức ra đời từ khoảng thế kỉ thứ X như một bước nhảy vọt của tiến trình lịch sử
văn học dân tộc”
Tóm lại:
- Văn học Việt Nam gồm hai bộ phận hợp thành: văn học dân gian và
văn học viết.
- Văn học viết có hai thành phần: văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm.
2.2.2.2. “II – Quá trình phát triển của văn học Việt Nam”
SGK Ngữ văn 10 (bộ chuẩn) có các nhận định tổng quát sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
39
- Luận điểm 1: “Quá trình phát triển của văn học Việt Nam gắn chặt với
lịch sử chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước. Nhìn tổng quát, văn học viết
Việt Nam trải qua ba thời kì lớn:
+ Văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX.
+ Văn học từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945.
+ Văn học từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX”
- Luận điểm 2: “Văn học trung đại Việt Nam được viết bằng chữ Hán và
chữ Nôm” (văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX được gọi là văn học trung
đại).
- Luận điểm 3: “Văn học hiện đại Việt Nam (từ đầu thế kỉ XX đến hết
thế kỉ XX) đã có mầm mống ở cuối thế kỉ XIX. Trải qua một giai đoạn giao
thời ngắn từ đầu thế kỉ XX đến những năm 30, văn học Việt Nam đã bước vào
quỹ đạo của văn học hiện đại... là nền văn học tiếng Việt chủ yếu được viết
bằng chữ quốc ngữ”.
SGK Ngữ văn 10 (bộ nâng cao) cũng phân định các thời kì phát triển của
văn học viết Việt Nam giống như ở SGK Ngữ văn 10 (bộ cơ bản). Song có lưu
ý một số điểm sau:
- Luận điểm 1: “Lịch sử văn học gắn chặt với lịch sử xã hội, lịch sử chính
trị của đất nước. Tuy nhiên không nên đồng nhất lịch sử văn học với lịch sử
chính trị, xã hội”.
SGK giải thích: “Chỗ phân biệt ở đây là đối tượng khác nhau của mỗi bộ
môn lịch sử: đối tượng của lịch sử chính trị, xã hội là những sự kiện chính trị,
xã hội; còn đối tượng của lịch sử văn học là các sự kiện văn học, tức là những
nhà văn, những áng văn, những trào lưu, trường phái văn học và bao trùm lớn
cả là lí tưởng thẩm mĩ chi phối hệ thống thi pháp chung của cả một thời kì văn
học” (thi pháp của một thời kì văn học là tập hợp những yếu tố hình thức nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40
thuật tương đối bền vững của văn học một thời đại, phản ánh tư tưởng mĩ học
của thời đại ấy như thể loại, phương thức biểu hiện ngôn từ...).
Ở chỗ này, SGK Ngữ văn 10 (bộ nâng cao) chưa giải thích đầy đủ để HS
có thể hiểu được bằng tự học. Thầy cô giáo cần giải thích thêm: do đối tượng
khác nhau giữa lịch sử văn học và lịch sử chính trị, xã hội nên có những mốc
của lịch sử chính trị, xã hội không phải là mốc của lịch sử văn học – mốc 1858,
thực dân Pháp xâm lược nước ta là một mốc lịch sử chính trị, xã hội chứ không
phải là mốc của lịch sử văn học, bởi vì sau các mốc đó, ông cha ta vẫn sáng tác
văn học theo thi pháp của văn học trung đại. Còn mốc lịch sử, chính trị, xã hội
Cách mạng tháng Tám 1945, cũng là mốc lịch sử văn học vì nó mở đầu cho
một nền văn học mới.
- Luận điểm 2: “Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, nền văn học Việt Nam
phát triển dưới các triều đại phong kiến. Nó bao gồm hai bộ phận phát triển
song song: văn học dân gian và văn học viết; bộ phận văn học viết gồm hai
thành phần: văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm”.
- Luận điểm 3: “Thời kì đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945,
tuy chỉ diễn ra gần nửa thế kỉ, nhưng có nhiều chuyển biến lớn, phản ánh những
đổi thay sâu sắc trên đất nước ta về mặt xã hội và ý thức”.
- Luận điểm 4: “Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX,
nền văn học mới trên đất nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, trở nên
thống nhất về tư tưởng và hướng hẳn về đại chúng nhân dân”.
Có thể tóm lược lại để ghi nhớ như sau: văn học Việt Nam phát triển qua
ba thời kì lớn:
- Thời kì từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX (văn học trung đại)
- Thời kì từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945 (văn học giao
thời đến hiện đại).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
41
- Thời kì từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến hết thế kỉ XX (nền văn học
mới Việt Nam).
2.2.2.3. “III – Con người Việt Nam qua văn học”
Đây là phần thứ ba của bài “Tổng quan văn học Việt Nam” ở SGK Ngữ
văn 10 (bộ chuẩn). Còn ở SGK Ngữ văn 10 (bộ nâng cao) thì phần thứ ba này
có đề mục là: “Một số nét đặc sắc truyền thống của văn học Việt Nam”.
Những nhận định khái quát ở mục “Con người Việt Nam qua văn học” như sau:
- Luận điểm tổng quát: “Văn học Việt Nam thể hiện tư tưởng tình cảm,
quan niệm chính trị, văn hoá, đạo đức, thẩm mĩ của con người Việt Nam trong
nhiều mối quan hệ đa dạng”
- Luận điểm về con người Việt Nam trong quan hệ với thế giới tự nhiên:
“Tình yêu thiên nhiên là một nội dung quan trọng của văn học Việt Nam”. Các
luận cứ:
+ Văn học dân gian đã kể lại quá trình ông cha ta nhận thức, cải tạo,
chinh phục thế giới tự nhiên.
+ Thơ ca trung đại có hình tượng thiên nhiên gắn với lí tưởng đạo đức
thẩm mĩ.
+ Trong văn học hiện đại, hình tượng thiên nhiên thể hiện tình yêu quê
hương, đất nước, yêu cuộc sống, tình yêu lứa đôi.
- Luận điểm về con người Việt Nam trong quan hệ quốc gia, dân tộc:
“Có một dòng văn học yêu nước phong phú và mang giá trị nhân văn sâu
sắc xuyên suốt lịch sử văn học Việt Nam”. Các luận cứ:
+ Tinh thần yêu nước trong văn học dân gian thể hiện nổi bật qua tình
yêu làng xóm, quê cha đất tổ...
+ Chủ nghĩa yêu nước trong văn học trung đại thể hiện chủ yếu qua ý
thức sâu sắc về quốc gia, dân tộc...
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
42
+ Chủ nghĩa yêu nước trong văn học Cách mạng gắn liền với sự nghiệp
đấu tranh giai cấp và lí tưởng xã hội chủ nghĩa.
- Luận điểm về con người Việt Nam trong quan hệ xã hội: “Nhiều tác
phẩm văn học thể hiện ước mơ về một xã hội công bằng tốt đẹp”. Các luận cứ:
+ Văn học dân gian có hình ảnh ông tiên, ông Bụt toàn năng...
+ Văn học trung đại và hiện đại tố cáo, phê phán các thế lực chuyên
quyền và bày tỏ lòng cảm thông với những người bị áp bức.
+ Văn học sau 1975 đã và đang phản ánh công cuộc xây dựng cuộc sống
mới...
- Luận điểm về con người Việt Nam và ý thức bản thân: “Văn học Việt
Nam đã ghi lại quá trình tìm kiếm, lựa chọn các giá trị để hình thành đạo lí làm
người của dân tộc Việt Nam”. Các luận cứ:
+ Trong những hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, con người Việt Nam thường
đề cao ý thức cộng đồng hơn ý thức cá nhân.
+ Trong những hoàn cảnh khác, con người cá nhân lại được đề cao.
+ Đạo lí làm người của dân tộc Việt Nam: nhân ái, thuỷ chung, tình
nghĩa, vị tha, đức hy sinh...
2.2.2.4. Một số nét đặc sắc truyền thống của văn học Việt Nam:
Đây là phần thứ ba của bài “Tổng quan nền văn học Việt Nam qua các
thời kì lịch sử” của SGK Ngữ văn 10 (bộ nâng cao). SGK trình bày 4 nét đặc
sắc của văn học Việt Nam với 4 luận điểm sau đây:
- Luận điểm 1: “Lịch sử văn học dân tộc xét đến cùng là lịch sử tâm hồn
của dân tộc ấy. Nền văn học Việt Nam là lịch sử của tâm hồn Việt Nam”.
+ Trước hết, đó là lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc.
+ Ở người Việt Nam, lòng yêu nước gắn liền với lòng nhân ái.
+ Người Việt Nam gắn bó tha thiết với thiên nhiên.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
43
+ Người Việt Nam luôn yêu đời, vui sống, luôn tin tưởng ở lẽ tất thắng
của điều thiện, của chính nghĩa.
- Luận điểm 2: “Về mặt thể loại, ở nước ta, thơ có truyền thống lâu đời,
văn xuôi tiếng Việt ra đời muộn hơn, nhưng tốc độ phát triển và trưởng thành
hết sức nhanh chóng”
- Luận điểm 3:”Người Việt Nam sẵn sàng tiếp thu mọi luồng văn hoá
Đông Tây kim cổ”.
- Luận điểm 4: “Nền văn học Việt Nam có một sức sống dẻo dai mãnh
liệt”.
2.2.3. Trên đây là cách thức hình thành năng lực tự phát hiện và ghi nhớ
những nhận định về văn học sử trong một bài cụ thể, cũng là cách thức tự học
để chính mình tự trang bị kiến thức văn học sử cho mình. Với các bài học khác,
HS cũng có thể tự học theo cách thức như vậy.
2.3. Biện pháp 3: Hình thành kĩ năng làm các bài tập nâng cao về văn học
sử trong SGK Ngữ văn 10.
Trong SGK Ngữ văn 10 (bộ nâng cao), sau mỗi văn bản văn học sử đều
có một bài tập nâng cao. Thầy cô giáo hướng dẫn HS cách làm, để HS tự tìm
kiếm tư liệu, tự suy nghĩ, tự giải quyết vấn đề được nêu ra ở bài tập. Biện pháp
này sẽ góp phần rất tích cực vào việc hình thành và phát triển năng lực tự học
cho thế hệ trẻ.
2.3.1. Bài tập nâng cao trong SGK Ngữ văn 10 (bộ nâng cao) gồm có:
- Bài 1: Văn học dân gian có tác động quan trọng đối với văn học viết.
Để chứng minh phần nào cho tác động ấy, anh (chị) hãy tìm và phân tích ba
trường hợp trong “Truyện Kiều” mà Nguyễn Du đã vận dụng thành ngữ một
cách tài tình. (tập 1 – trang 14).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
44
- Bài 2: Tại sao trong tiến trình văn học Việt Nam, bộ phận văn học dân
gian ra đời sớm hơn bộ phận văn học viết và sau đó vẫn tiếp tục tồn tại, phát
triển cho tới ngày nay? (tập 1 – trang 27).
- Bài 3: Trình bày mối quan hệ giữa lịch sử xã hội với lịch sử văn học
trung đại Việt Nam? (tập 1 – trang 151).
- Bài 4: Qua các bài đã học về “Truyện Kiều” và tác giả Nguyễn Du,
hãy nêu những đặc điểm về chủ nghĩa nhân đạo của nhà thơ? (tập 2 – trang
159).
2.3.2. Hướng dẫn HS làm bài tập 1:
* Yêu cầu của bài tập:
- Tìm ba câu thành ngữ trong “Truyện Kiều”
- Phân tích rõ sự tài tình của Nguyễn Du trong việc sử dụng thành ngữ.
- Từ đó thấy được văn học dân gian có tác động quan trọng đến văn học viết.
* Để đạt được ba yêu cầu trên, HS cần phải:
- Tìm kiếm tư liệu để hiểu rõ khái niệm thành ngữ.
- Đọc “Truyện Kiều” để tìm ra những câu thơ có sử dụng thành ngữ.
- Phân tích rõ tài tình của Nguyễn Du khi sử dụng thành ngữ.
* Kết quả cần đạt được:
- Khái niệm thành ngữ: “Thành ngữ là một cụm từ trơn tru, quen thuộc,
được dùng trong câu nói thông thường cũng như được dùng trong tục ngữ, ca
dao, dân ca. Thí dụ: “áo rách, quần manh”, “Ăn trắng, mặc trơn”, “Ăn trên,
ngồi trốc”, “Dốt đặc cán mai”, “Cá bể, chim ngàn”, “Bụng đói, cật rét”...”
[44,39]
“Thành ngữ là những đơn vị có sẵn mang chức năng định danh, dùng để
gọi tên sự vật hoặc để chỉ tính chất, hành động. Thí dụ: “Hai sương một nắng”,
“Cơm hàng cháo chợ”, “Cày sâu cuốc bẫm”...” [16, 47]
- Nguyễn Du sử dụng thành ngữ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
45
Trong cuốn “Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII – hết thế kỉ XIX”,
nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Lộc viết: “Nguyễn Du sử dụng rất nhiều tục
ngữ và thành ngữ... kết cấu của tục ngữ, thành ngữ “chặt chẽ như nắm đấm”,
điều đó quy định cách sử dụng nó trong tác phẩm, thường là dùng liền một
khối. Trong “Truyện Kiều” có trường hợp Nguyễn Du cũng dùng như vậy mà
câu thơ văn vẫn uyển chuyển:
Ra tuồng mèo mả gà đồng
Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào
Bề ngoài thơn thớt nói cười
Mà trong nham hiểm giết người không dao.
Ở đây tai vách mạch rừng
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.
Nhưng nhiều trường hợp, nhà thơ thường tách tục ngữ, thành ngữ ra từng
bộ phận và xen vào những yếu tố phụ, hoặc để nhấn mạnh nghĩa của thành ngữ,
tục ngữ, hoặc để cho nó phù hợp với vần điệu của câu thơ:
Nàng rằng non nước ra khơi
Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm
(Thành ngữ được sử dụng ở đây là “trong ấm, ngoài êm”)
Một nhà sum họp trúc mai
Càng sâu nghĩa bể, càng dài tình sông
(Thành ngữ được sử dụng là “tình sông, nghĩa bể”)
Vẻ vui bởi tại lòng này
Hay là khổ tận đến ngày cam lai
(Thành ngữ được sử dụng là “Khổ tận cam lai”)
Nghĩ là bưng kín miệng bình
Nào ai có khảo mà mình lại xưng
(Thành ngữ được sử dụng là “Ai khảo mà xưng”)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
46
Những là e ấp dùng dằng
Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi
(Thành ngữ được sử dụng ở đây là “Rút dây động rừng”)
[26, 430]
*Ví dụ trên cho ta thấy rõ tác động quan trọng của văn học dân gian đến
văn học viết.
2.3.3. Hướng dẫn HS làm bài tập 2:
*Yêu cầu của bài tập: giải thích vì sao trong tiến trình văn học Việt Nam,
bộ phận văn học dân gian ra đời sớm hơn bộ phận văn học viết và sau đó vẫn
tiếp tục tồn tại, phát triển cho đến ngày nay.
Như vậy, yêu cầu của bài tập này là đòi hỏi HS phải động não suy nghĩ
để lí giải vấn đề. Phải suy nghĩ từ đặc trưng của văn học dân gian đến nhu cầu
biểu hiện và nhu cầu thưởng thức của tầng lớp bình dân.
* Kết quả cần đạt là sự lí giải đúng đắn về hai khía cạnh lớn của vấn đề
được nêu ra:
- Tại sao trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, bộ phận văn học dân
gian có trước bộ phận văn học viết?
- Tại sao sau đó, khi đã có văn học viết, văn học dân gian vẫn tồn tại và
phát triển song song với văn học viết?
Văn học dân gian là những sáng tác của quần chúng lao động, ra đời từ
rất xưa. Lúc bấy giờ chưa hề có chữ viết, người bình dân muốn giãi bày tâm
trạng, tình cảm, tư tưởng của mình nên họ sáng tác ra thần thoại, truyền thuyết,
ca dao, tục ngữ... Tất cả đều được lưu truyền bằng miệng.
Đến khi xã hội phân hóa thành giai cấp, mặc dù chữ viết đã ra đời, người
bình dân lại càng có nhu cầu bày tỏ nỗi niềm hoặc chống lại cái xấu, cái ác nên
văn học dân gian vẫn tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay. Đó chính là nguyên
nhân xã hội khiến cho văn học dân gian ra đời rất sớm so với văn học viết và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
47
đến khi văn học viết có rồi, văn học dân gian vẫn tồn tại và phát triển. Đó chính
là nhu cầu biểu hiện ý thức cộng đồng, nhu cầu sáng tạo tập thể của quần chúng
nhân dân lao động.
Trong cuộc sống hàng ngày đầy những khó khăn nhọc nhằn nhưng người
lao động vẫn vui sống, họ có nhu cầu sáng tác và thưởng thức văn học bằng
phương thức truyền miệng vì truyền miệng thì lan truyền dễ dàng phổ biến và
rộng rãi hơn là văn học viết. Đây chính là nguyên nhân văn hóa – nghệ thuật
của hiện tượng văn học dân gian ra đời sớm hơn văn học viết và khi có văn học
viết vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển mãi mãi.
Ở những thời kì xã hội có giai cấp và chưa có chữ viết thì nhu cầu sáng
tác văn học dân gian của người bình dân là tất yếu. Đến thời kì xã hội có chữ
viết rồi, thậm chí cả ngày nay, xã hội đã phát triển ở trình độ văn minh, hiện đại
thì quần chúng nhân dân vẫn có nhu cầu sáng tác văn thơ bằng truyền miệng.
Họ thường sáng tác văn thơ truyền miệng để phê phán, chế giễu những hiện
tượng tiêu cực trong xã hội hiện đại. Bởi thế, văn học dân gian sẽ không ngừng
tồn tại.
2.3.4. Hướng dẫn HS làm bài tập 3:
* Yêu cầu của bài tập này là làm rõ mối quan hệ giữa lịch sử xã hội với
lịch sử văn học trung đại Việt Nam.
Chỉ có thể làm sáng tỏ vấn đề đó khi nắm được những nét dặc thù của
lịch sử xã hội Việt Nam trong 10 thế kỉ dưới chế độ phong kiến và những nét
đặc thù của văn học ra đời và phát triển trong xã hội ấy. Đồng thời cũng phải
thấy được sự tác động qua lại giữa xã hội với văn học và văn học với xã hội.
* Kết quả cần đạt được là lí giải rõ hai khía cạnh trên:
- Văn học viết Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX được gọi là văn
học trung đại. Văn học trung đại Việt Nam ra đời cùng với sự ra đời của quốc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
48
gia Đại Việt (thế kỉ X) và phát triển trong suốt mười thế kỉ dưới chế độ phong
kiến.
Dựa vào bản thân sự phát triển và thành tựu của chính văn học trung đại
Việt Nam, người ta chia làm 4 giai đoạn:
+ Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV
+ Từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII
+ Từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX
+ Nửa cuối thế kỉ XIX
Ở mỗi giai đoạn đó có mối quan hệ chặt chẽ giữa lịch sử xã hội với lịch
sử văn học.
- Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV
+ Về lịch sử xã hội: sau chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch
Đằng, nhà nước phong kiến Việt Nam được thành lập với các triều đại Ngô,
Đinh, Lê, Lý, Trần. Sau một nghìn năm Bắc thuộc, ông cha ta giành lại được
độc lập, xây dựng quốc gia thống nhất và chống giặc ngoại xâm (quân Tống,
quân Mông – Nguyên).
+ Về văn học: đây là giai đoạn đặt nền móng cho văn học Việt Nam. Về
văn tự, ông cha ta đã sử dụng chữ Hán cổ (văn ngôn) đọc theo âm Hán – Việt.
Về thể loại, tiếp thu các thể loại văn học của Trung Hoa để biểu đạt tinh thần
của người Việt (hịch, cáo, chiếu, biểu, văn bia, tựa, sử, kí...)
Các sự kiện lịch sử trọng đại ở giai đoạn này đều được văn học ghi lại chân thật
và sinh động: “Thiên đô chiếu” của Lí Công Uẩn, “Hịch tướng sĩ” của Trần
Quốc Tuấn... Các áng văn này đã có tác động mạnh đến xã hội. Ông cha ta
dùng các thể văn xuôi bằng chữ Hán để viết về lịch sử và văn hóa Việt Nam...
“Việt điện U Linh” của Lí tế Xuyên, “Lĩnh Nam chích quái lục” của Trần Thế
Pháp, “Đại Việt sử kí” của Lê Văn Hưu... Ông cha cũng tiếp thu các thể thơ,
phú của Trung Hoa để biểu hiện tâm tư, tình cảm của người Việt: “Thuật hoài”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
49
của Phạm Ngũ Lão, “Cảm hoài” của Đặng Dung, “Quốc tộ” của Pháp Thuận,
“Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán Siêu...
- Văn học Việt Nam từ thế kỉ XV đến hết thế kỉ XVII
+ Về lịch sử xã hội: sau chiến thắng giặc Minh, triều Lê đã thiết lập và
đưa chế dộ phong kiến Việt Nam đến đỉnh cao cực thịnh (nửa cuối thế kỉ XV).
Sau 100 năm tồn tại (1427 - 1527) nhà Lê suy thoái. Nội chiến Lê – Mạc xảy
ra, rồi nội chiến Đàng Trong - Đàng Ngoài...
+ Về văn học: văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm đều phát triển, có
nhiều thành tựu: “Bình Ngô đại cáo”, “Quân trung từ mệnh tập” của Nguyễn
Trãi, “Hồng Đức quốc âm thi tập” của Lê Thánh Tông, “Truyền kì mạn lục”
của Nguyễn Dữ, “Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi, “Bạch Vân quốc ngữ thi
tập” của Nguyễn Bỉnh Khiêm...
Nội dung văn thơ giai đoạn này thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa lịch sử
xã hội và lịch sử văn học: từ nội dung yêu nước mang âm hưởng ngợi ca (ở thời
kì xã hội thịnh trị) chuyển đến nội dung phản ánh, phê phán hiện thực xã hội
phong kiến (ở thời kì xã hội suy thoái về đạo đức).
- Ở hai giai đoạn sau, mối quan hệ giữa lịch sử xã hội với lịch sử văn học
càng thể hiện rõ ràng hơn...
2.3.5. Hướng dẫn HS làm bài tập 4:
* Bài tập 4 yêu cầu nêu rõ đặc điểm về chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn
Du qua “Truyện Kiều” (các bài đã học).
Như vậy, HS phải tự học phần “Tri thức đọc – hiểu” về “chủ nghĩa nhân
đạo” để nắm chắc khái niệm đó và tự đọc lại bài tác giả Nguyễn Du, các bài về
“Truyện Kiều” thì mới có thể giải quyết được vấn đề nêu ra trong bài tập 4.
* Với bài tập này, sau khi tự học, HS chỉ cần nói lại được những kiến
thức cơ bản sau đây (từ SGK Ngữ văn 10):
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
50
- Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng lấy con người làm gốc, tôn trọng, đề
cao giá trị con người, giải phóng cá tính và bảo vệ quyền lợi con người.
Trong văn học, thuật ngữ “chủ nghĩa nhân đạo” dùng để chỉ nội dung đề
cao con người, bênh vực con người, giải phóng cá tính con người.
- Chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du gồm các nội dung:
+ Nguyễn Du luôn thông cảm, thương xót sâu sắc đối với mọi kiếp người
bất hạnh, thống khổ, oan trái trong xã hội (“Văn tế thập loại chúng sinh”, “Độc
Tiểu Thanh kí”...). Đặc biệt ông thông cảm, thương xót những người phụ nữ bất
hạnh như Thúy Kiều, Tiểu Thanh:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
(Truyện Kiều)
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
(Độc Tiểu Thanh kí)
+ Ông khẳng định quyền sống, quyền được hưởng hạnh phúc, quyền báo
ân trả oán của con người. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du ca ngợi các mối tình
Kim – Kiều, Kiều – Thúc Sinh, Kiều – Từ Hải, ca ngợi việc Kiều báo ân, báo
oán...
+ Ông lên án mạnh mẽ các hiện tượng bất công, các thế lực đen tối chà
đạp lên quyền sống của con người. “Truyện Kiều” đã tố cáo mọi thế lực đen tối
trong xã hội phong kiến: từ bọn sai nha, quan xử kiện, bọn chủ chứa lầu xanh...
cho đến “quan tổng đốc trọng thần”... Bọn chúng hiện lên trong Truyện Kiều là
một lũ ích kỉ, tham lam, tàn nhẫn, coi rẻ sinh mạng và phẩm giá con người.
2.4. Biện pháp 4: Đổi mới giờ học văn học sử theo hướng tổ chức HS trình
bày kết quả tự học
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
51
2.4.1. Để có năng lực tự học, HS phải có thói quen tự học, nghĩa là tự
học mọi nơi, mọi lúc (ở nhà, ở trường, trong lớp, ngoài lớp...) và có kĩ năng tự
học phù hợp với từng loại bài. Nhà trường có thể hình thành ở thế hệ trẻ thói
quen và kĩ năng tự học ở từng giờ học. Với những giờ học về văn học sử, nếu
đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tổ chức, dẫn dắt HS tự học và trình
bày kết quả tự học từ SGK thì có thể hình thành dần ở HS các kĩ năng tự học về
văn học sử.
2.4.2. Trong SGK Ngữ văn ở THPT có 4 loại bài về văn học sử:
- Loại bài khái quát cả một nền văn học.
- Loại bài khái quát về một bộ phận văn học
- Loại bài khái quát về một thời kì văn học
- Loại bài khái quát về một tác gia văn học.
Tất cả 4 loại bài đó đều được trình bày bằng văn bản thuộc kiểu thuyết
minh. Người ta trình bày kiến thức theo từng mục lớn, mục nhỏ, rõ ràng, mạch
lạc. Kiến thức cơ bản ở từng bài bao gồm những nhận định, đánh giá được lí
giải rõ ràng. Vì thế, HS tự học không khó khăn lắm, nếu họ tập trung tư tưởng
và có khát vọng hiểu biết, có khát vọng tự nâng cao tầm hiểu biết của chính
mình.
Tuy vậy, không phải mọi văn bản đều có chung một cách trình bày, mọi
phần trong văn bản đều có chung một cách lập luận. Có văn bản đòi hỏi người
đọc phải nỗ lực trí tuệ mới nắm bắt được hệ thống luận điểm trong đó. Bởi vậy,
quá trình tự học của HS cần có sự dẫn dắt, khơi gợi của thầy.
2.4.3. Sự khơi gợi, dẫn dắt của thầy để HS tự học và trình bày kết quả tự
học có thể diễn ra trong giờ học theo hai hình thức sau đây:
- Nếu HS đã có chuẩn bị bài ở nhà (từng cá nhân hay từng nhóm) thì
ngay từ đầu giờ học, thầy có thể mời HS trình bày kết quả tự học theo từng mục
trong văn bản ở SGK. Một em trình bày, cả lớp đều nghe, có trao đổi, bổ sung,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
52
tranh luận. Đây là loại giờ học được tổ chức dưới hình thức “xêmina” – hội
thảo.
- Nếu HS chưa có sự chuẩn bị kĩ lưỡng trước giờ học, thầy sẽ giành thời
gian đầu cho HS âm thầm, lặng lẽ đọc văn bản trong SGK. Sau đó, căn cứ vào
các đề mục trong SGK, thầy nêu ra từng câu hỏi để HS trả lời và trao đổi ngay
trên lớp.
Sau đây là một ví dụ cụ thể về loại giờ học này:
Bài học về tác gia Nguyễn Trãi
Bài viết về Nguyễn Trãi trong SGK “Ngữ văn 10” (bộ chuẩn và bộ nâng
cao) đều có hai phần: phần đầu là nói về “Cuộc đời”, phần sau nói về “Sự
nghiệp văn học”. HS mỗi người đọc thầm văn bản theo từng phần trong SGK,
tự thu lượm kiến thức và trình bày trước lớp những kiến thức có được từ SGK,
dưới sự điều khiển của thầy cô giáo.
1 – Cuộc đời Nguyễn Trãi
GV: Sau khi tự học phần viết về cuộc đời Nguyễn Trãi trong SGK, anh (chị)
thu nhận được những tri thức nào về cuộc đời của Nguyễn Trãi? (năm sinh,
năm mất, quê hương, gia đình, thời đại, những sự kiện quan trọng, con người...)
1.1. GV: Năm sinh, năm mất, quê hương, gia đình?
HS: - Nguyễn Trãi sinh năm 1380, mất năm 1442, thọ 62 tuổi.
- Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình quý tộc thời nhà Trần. Mẹ là
Trần Thị Thái, con gái quan tư đồ Trần Nguyên Đán (thừa tướng triều Trần), bố
là Nguyễn Phi Khanh, vốn học trò nghèo, nhưng học giỏi, thi đỗ thái học sinh
(tiến sĩ).
- Quê quán: Chí Linh, Hải Dương. Sau dời về Nhị Khê, huyện Thường
Tín, Hà Tây
1.2. GV: Nguyễn Trãi sống trong một thời đại đầy biến động dữ dội. Đó
là những biến động nào?
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
53
HS: - Triều đại phong kiến nhà Trần suy vi. Hồ Quý Li lên thay lập ra
nhà Hồ.
- Quân Minh (Trung Quốc) sang xâm lược. Nhà Hồ thất bại. Giặc Minh
bắt cha con Hồ Quý Li và các triều thần sang Trung Quốc, trong đó có Nguyễn
Phi Khanh (cha của Nguyễn Trãi).
- Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn – Nguyễn Trãi tham gia và được Lê Lợi tin
dùng. Cuộc khởi nghĩa thắng lợi, đánh thắng giặc Minh, Lê Lợi lên ngôi vua,
lập ra triều Hậu Lê. Nguyễn Trãi vẫn làm quan trong triều đình nhà Lê, nhưng
không được tin dùng nữa vì Lê Lợi nghi ngờ Trần Nguyên Hãn (cháu nội Trần
Nguyên Đán mưu phản).
1.3. GV: Những sự kiện quan trọng nào xảy ra trong cuộc đời Nguyễn
Trãi?
HS: - Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh, cùng cha làm quan
trong triều nhà Hồ.
- Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta. Cha của Nguyễn Trãi là
Nguyễn Phi Khanh bị giặc bắt sang Trung Quốc. Muốn giữ đạo hiếu, Nguyễn
Trãi đã cùng em trai theo cha sang Trung Quốc. Nhưng đến ải Nam Quan, theo
lời cha dặn, Nguyễn Trãi quay về tìm cách trả “nợ nước, thù nhà”.
- Sau khi thoát khỏi sự giam lỏng của giặc Minh, Nguyễn Trãi từ Đông
Quan (Hà Nội ngày nay) tìm vào Lam Sơn (Thanh Hóa) tham gia khởi nghĩa,
giúp Lê Lợi đánh thắng giặc Minh, giành lại độc lập cho dân tộc (1428).
- Lê Lợi lên ngôi vua, lập ra triều Hậu Lê. Nguyễn Trãi tiếp tục giúp Lê
Lợi xây dựng đất nước.
Nhưng sau đó, nội bộ triều đình nhà Lê lục đục. 1429, Lê Lợi nghi ngờ
Trần Nguyên Hãn làm phản, Nguyễn Trãi không được tin dùng (1429 - 1439).
Năm 1439, Nguyễn Trãi cáo quan về ở ẩn tại Côn Sơn (Chí Linh – Hải Dương).
Nhưng năm sau (1440), Lê Thái Tông lại vời ông ra giúp nước.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
54
- Không ngờ tai họa thảm khốc đã ập xuống đời ông. Năm 1442, vua Lê Thái
Tông trên đường kinh lí trở về, rẽ qua Lệ Chi Viên (trại vải ở Gia Lương, Bắc
Ninh) và chết đột ngột ở đó. Lấy cớ, Nguyễn Thị Lộ ở bên cạnh nhà vua, bọn
gian thần vu cho Nguyễn Trãi âm mưu giết vua và khép ông vào án “tru di tam
tộc” (bị giết cả ba họ). Đây là một vụ án oan lớn nhất trong lịch sử Việt Nam.
- Mãi đến 22 năm sau (1464), vua Lê Thánh Tông mới minh oan cho
Nguyễn Trãi.
1.4. Kết luận: Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa lớn.
Năm 1980, tổ chức Giáo dục - Khoa học – Văn hóa của Liên hợp quốc
(UNESCO) đã công nhận Nguyễn Trãi là danh nhân văn hóa thế giới.
2. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Trãi
2.1. GV: Hãy kể tên những tác phẩm của Nguyễn Trãi?
HS: Nguyễn Trãi là một tài năng lỗi lạc hiếm có. Ông để lại cho dân tộc
ta một di sản văn chương to lớn.
- Những tác phẩm được viết băng chữ Hán gồm có:
+ Quân trung từ mệnh tập
+ Bình Ngô đại cáo
+ Ức Trai thi tập
+ Chí Linh sơn phú
+ Băng Hồ di sự lục
+ Lam Sơn thực lục
+ Văn bia Vĩnh Lăng
+ Văn loại
- Những tác phẩm viết bằng chữ Nôm:
+ Quốc âm thi tập (254 bài)
+ Dư địa chí (bộ sách địa lí cổ nhất Việt Nam)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
55
2.2. GV: Nguyễn Trãi được coi là nhà văn chính luận kiệt xuất. Hãy làm
sáng tỏ điều đó?
HS: Trong di sản văn chương mà Nguyễn Trãi để lại cho dân tộc ta có
hai áng văn chính luận đặc sắc:
- “Quân trung từ mệnh tập”: đây là tập thư từ được viết bằng chữ Hán
do Nguyễn Trãi viết ra để thay mặt Lê Lợi gửi cho các tướng giặc và những
giấy tờ giao thiệp với triều nhà Minh (Trung Quốc).
Đây là một cống hiến to lớn của Nguyễn Trãi cho văn hóa nước nhà, bởi
tập văn chính luận này phản ánh đầy đủ chiến lược “công tâm” (đánh vào lòng
người) của nghĩa quân Lam Sơn, bởi văn chính luận của Nguyễn Trãi sắc bén,
giàu nhân nghĩa và đầy tính chiến đấu.
Nhà sử học Phan Huy Chú đã đánh giá về sức tác động của nó rằng: “Có
sức mạnh của mười vạn quân”.
- “Bình Ngô đại cáo” là áng “thiên cổ hùng văn”trong lịch sử văn học
dân tộc. Bài cáo này đã tổng kết một cách đầy đủ và xúc động về cuộc kháng
chiến anh dũng chống quân Minh của dân tộc ta và cũng là một bản tuyên ngôn
về lòng nhân nghĩa, lòng yêu hòa bình của dân tộc Việt Nam...
2.3. GV: Nguyễn Trãi còn là một nhà thơ tài ba. Anh (chị) đã biết được
những bài thơ nào của Nguyễn Trãi và biết được những gì về tâm hồn Nguyễn
Trãi qua thơ ông?
HS: - Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà văn chính luận kiệt xuất mà còn
là một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Ông vừa làm thơ bằng chữ Hán (ức Trai thi tập)
vừa làm thơ bằng chữ Nôm (Quốc âm thi tập).
Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi vừa trữ tình, đằm thắm vừa trí tuệ sâu sắc.
Thơ Nôm của ông thấm đẫm trải nghiệm về cuộc đời, ngôn ngữ lại điêu luyện
trong sáng.
- Nguyễn Trãi đã phơi trải tiếng lòng của mình qua thơ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
56
Trước hết, đó là tấm lòng yêu nước, thương dân của ông:
Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng
(Thuật hứng – bài 2)
Dành còn để trợ dân này.
(Tùng)
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
(Cảnh ngày hè)
Nguyễn Trãi cũng dành nhiều tình cảm cho thiên nhiên đất nước:
Nước biếc non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu
(Bảo kính cảnh giới – bài 26)
Cây rợp tán che am mát
Hồ thành nguyệt hiện bóng tròn
Rùa nằm hạc ẩn nên bầy bạn
U ấp cùng ta làm cái con
(Ngôn chí – bài 20)
Thơ Nguyễn Trãi thể hiện những trải nghiệm cuộc đời của ông nên có
những triết lí thế sự rất sâu sắc:
Phượng những tiếc cao diều hãy liệng
Hoa thường hay héo cỏ thường tươi
(Tự thuật – bài 9)
Nên thợ nên thầy vì có học
No ăn no mặc bởi hay làm
(Bảo kính cảnh giới – bài 26)
Áo mặc miễn là cho cật ấm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
57
Cơm ăn chẳng lọ kém mùi ngon
(Dạy con trai)
2.4. Kết luận: Thơ văn Nguyễn Trãi là đỉnh cao chói lọi của nền văn học
dân tộc ta. Ông là người có nhiều cống hiến to lớn cho văn học dân tộc. Đúng
như vua Lê Thánh Tông đã nói: “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”
Trên đây là một số biện pháp hình thành năng lực tự học cho HS THPT
qua các bài học văn học sử ở lớp 10. Chắc chắn còn rất nhiều những biện pháp
nữa có thể vận dụng để hình thành năng lực tự học. Với những biện pháp này,
chúng tôi hy vọng sẽ có tác dụng phát huy tính độc lập, chủ động tích cực, tự
giác và sáng tạo của HS trong học tập. Đồng thời khơi dậy niềm ham mê, sự
hứng thú của các em khi khám phá, lĩnh hội tri thức cũng như vận dụng chúng
trong những trường hợp cụ thể, trong những tình huống khác nhau.
Chương III
Một số thiết kế bài học văn học sử
theo hướng dạy cách tự học
3.1. Thiết kế bài học “Khái quát văn học dân gian Việt Nam”
3.1.1. HS tự học và trình bày về cấu trúc văn bản
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
58
GV: Bài “Khái quát văn học dân gian” có cấu trúc như thế nào?
HS: Bài này có cấu trúc như sau:
I - Đặc trưng cơ bản của văn học dân gian.
II - Hệ thống thể loại của văn học dân gian.
III – Những giá trị cơ bản của văn học dân gian Việt Nam.
3.1.2. HS trình bày hiểu biết về những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian
Việt Nam
GV:Em hãy nêu những đặc trưng cơ bản của văn học dân gian Việt
Nam?
HS: Văn học dân gian Việt Nam có những đặc trưng cơ bản sau:
- Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ truyền miệng
(tính truyền miệng)
+ Văn học dân gian là những tác phẩm nghệ thuật ngôn từ bởi vì chất
liệu để làm nên tác phẩm văn học dân gian là ngôn từ, những ngôn từ có hình
ảnh, có cảm xúc, tạo nên nội dung, ý nghĩa và thế giới nghệ thuật của tác phẩm
văn học dân gian.
+ Văn học dân gian có tính truyền miệng bởi vì những sáng tác dân gian
được người ta ghi nhớ và truyền miệng cho nhau (chứ không phải bằng chữ
viết). Nó được truyền miệng trong không gian, theo thời gian.
Quá trình truyền miệng thường được thực hiện qua diễn xướng dân gian
(nói, kể, hát, diễn tác phẩm văn học dân gian).
- Văn học dân gian là sản phẩm của quá trình sáng tác tập thể (tính tập
thể)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc229.pdf