Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam

Tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam: LỜI NÓI ĐẦU Những nước đang phát triển như Việt Nam thường gặp phải cái vòng luẩn quẩn đó là : năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập thấp, thu nhập thấp thì tích luỹ thấp, tích luỹ thấp đầu tư mới thấp, sản xuất không có hiệu quả và năng suất lao động lại thấp. Vì vậy, để phát triển bền vững phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn đó. Để làm điều này, một mặt cần giải phóng sức sản xuất, khai thác tốt tiềm lực nội sinh của nền kinh tế quốc dân, đồng thời khai thác có hiệu quả những nguồn lực từ bên ngoài để phát triển lực lượng sản xuất. Thực tế chứng minh rằng nội lực và ngoại lực luôn có mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau trong quá trình phát triển. Nghĩa là nếu khai thác nội lực có hiệu quả thì sẽ tạo điều kiện thu hút và sử dụng tốt hơn nguồn lực từ bên ngoài và ngược lại. Trong thời đại ngày nay, khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra ở khắp nơi, trong mọi lĩnh vực, việc thu hút ngoại lực của các nước đang phát triển hướng vào thu hút đầu tư, công nghệ tiên tiến thích hợp và phương t...

doc38 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1056 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Những nước đang phát triển như Việt Nam thường gặp phải cái vòng luẩn quẩn đó là : năng suất lao động thấp dẫn đến thu nhập thấp, thu nhập thấp thì tích luỹ thấp, tích luỹ thấp đầu tư mới thấp, sản xuất không có hiệu quả và năng suất lao động lại thấp. Vì vậy, để phát triển bền vững phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn đó. Để làm điều này, một mặt cần giải phóng sức sản xuất, khai thác tốt tiềm lực nội sinh của nền kinh tế quốc dân, đồng thời khai thác có hiệu quả những nguồn lực từ bên ngoài để phát triển lực lượng sản xuất. Thực tế chứng minh rằng nội lực và ngoại lực luôn có mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ lẫn nhau trong quá trình phát triển. Nghĩa là nếu khai thác nội lực có hiệu quả thì sẽ tạo điều kiện thu hút và sử dụng tốt hơn nguồn lực từ bên ngoài và ngược lại. Trong thời đại ngày nay, khi quá trình toàn cầu hoá diễn ra ở khắp nơi, trong mọi lĩnh vực, việc thu hút ngoại lực của các nước đang phát triển hướng vào thu hút đầu tư, công nghệ tiên tiến thích hợp và phương thức quản lý hiện đài ngày càng gia tăng. Nhưng để huy động nội lực và khai thác ngoại lực có hiệu quả cao, cần những điều kiện nhất định. Sự ra đời và phát triển của các khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất ( KCX) đã chứng minh rằng đây là những địa bàn có lợi thế trong việc tạo ra điều kiện , thể chế và môi trường thuận lợi cho quá trình thu hút, sử dụng vốn, công nghệ, trình độ cao từ bên ngoài. Tuy nhiên trong quá trình hình thành và phát triển KCN, KCX Việt Nam vẫn còn những tồn tại cản trở KCN, KCX phát huy hết vai trò và tác dụng của nó. Chính vì vậy em chọn đề tài : “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với sự phát triển khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam” nhằm xem xét tình hình thu hút đầu tư nước ngoài tác động đến sự hình thành và phát triển của KCN, KCX đồng thời đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX. Em xin chân thành Th.S Nguyễn Ái Liên và các thầy cô trong bộ môn Kinh tế đầu tư đã giúp đỡ và hướng dẫn em hoàn thành Đề án môn học này. MỤC LỤC Lời nói đầu 1 Phần I: Những lí luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài, khu công nghiệp, khu chế xuất 3 I. Lí luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3 1. Khái niệm 3 2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 4 3. Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài 6 4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài 7 II. Lí luận chung về khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX) 9 1. Khái niệm 9 1.1 Khái niệm về KCN 9 1.2 Khái niệm về KCX 9 2. Đặc điểm của KCN, KCX 10 2.1. Về tính chất hoạt động 10 2.2 Về cơ sở hạ tầng 11 2.3 Về quản lý 11 3. Điều kiện thành lập KCN, KCX 11 4. Vai trò của KCN, KCX 12 5. Phân biệt KCN, KCX 13 Phần II : Thực trạng đầu tư vào KCN, KCX ở Việt Nam 14 I. Tính tất yếu khách quan hình thành KCN, KCX 14 II. Quá trình hình thành và phát triển KCN, KCX Việt Nam 15 1. Về số lượng KCN, KCX 15 2. Về phân bố KCN, KCX 19 III. Tình hình thu hút FDI vào KCN, KCX 21 IV. Những tồn tại khó khăn trong thu hút FDI vào KCN, KCX 25 V. Một số bài học kinh nghiểm trong thu hút FDI vào phát triển KCN, KCX 26 Phần III: Những giải pháp nâng cao hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX 28 I. Định hướng phát triển KCN, KCX Việt Nam đến năm 2010 28 1. Định hướng phát triển KCN, KCX 28 2. Mục tiêu phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN, KCX đến năm 2010 28 3. Phương hướng phát triển và thu hút FDI vào các KCN, KCX 29 II. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX. 30 Kết luận 36 Tài liệu tham khảo 37 `PHẦN I LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI, KHU CÔNG NGHIỆP, KHU CHẾ XUẤT I. Lí luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài 1. Khái niệm Đầu tư trực tiếp nước ngoài là loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và điều hành hoạt động sử dụng vốn. Sự ra đời và phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài là kết quả tất yếu của quá trình quốc tế hoá và phân công lao động quốc tế. Có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư trực tiếp nước ngoài - Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam : “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kì tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư”. - Theo hiệp hội Luật quốc tế (năm 1966) : “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn từ nước của người đầu tư sang nước của người sử dụng nhưng không phải để mua hàng hoá tiêu dùng của nước này mà dùng để chi phí cho các hoạt động có tính chất kinh tế xã hội”. Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn quốc tế dưới hình thức vốn sản xuất thông qua việc nhà đầu tư ở một nước đưa vốn vào một nước khác để đầu tư, đồng thời trực tiếp tham gia quản lý, điều hành, tổ chức sản xuất, tận dụng ưu thế về vốn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm quản lý …nhằm tối đa hoá lợi ích của mình. Nguyên nhân cơ bản của sự di chuyển vốn đầu tư dưới hình thức này là do có sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận xuất phát từ lợi thế so sánh khác nhau giữa các quốc gia . Điều kiện thuận lợi cho di chuyển vốn đầu tư là xu thế tự do hoá thương mại, đầu tư và tài chính ngày càng tăng trên thế giới hiện nay. Đầu tư trực tiếp nước ngoài biểu hiện sự gặp nhau giữa “cung và cầu”, đó là giữa lợi ích của nhà đầu tư và nhu cầu của nhà nước tiếp nhận đầu tư ở trong nước không còn mang lại nhiều lợi nhuận, các nhà đầu có sự chuyển hướng đưa đầu tư ra nước ngoài, nơi các yếu tố chi phí của sản xuất rẻ hơn, cho phép thu lợi nhuận cao hơn đạt được những mục tiêu quan trọng về mở rộng quy mô, chiếm lĩnh thị phần, tăng sức mạnh so với các đối thủ cạnh tranh … Thông qua thu hút FDI, các quốc gia nhận đầu tư có điều kiện bổ sung vốn đầu tư phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và hiệu quả của nền kinh tế. Vì vậy, ngày nay không chỉ các nước nghèo, thiếu vốn đầu tư, công nghệ lạc hậu, mà cả những nước công nghiệp phát triển cũng có nhu cầu thu hút FDI. 2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài Thứ nhất, FDI không để lại gánh nặng nợ cho chính phủ nước tiếp nhận đầu tư như hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác như vay thương mại, phát triển ra nước ngoài …Bởi vì, chính các nhà đầu tư nước ngoài tự bỏ vốn ra kinh doanh, trực tiếp điều hành sản xuất kinh doanh, làm ăn lâu dài ở các nước sở tại, hoàn toàn tự chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư (theo quy tắc “ lời ăn, lỗ chịu”). Nước tiếp nhận FDI ít phải chịu những điều kiện ràng buộc kèm theo của người cung ứng vốn như tiếp nhận ODA, kể cả những điều kiện về chính trị, có ảnh hưởng đến công việc nội bộ, chủ quyền của đất nước đi vay. Các khoản vay ODA tuy có mức lãi suất ưu đãi, những chi phí thực tế nhiều khi rất cao, ẩn náu trong việc nhà tài trợ chỉ định nhà tư vấn, thiết bị, thuê chuyên gia tư vấn,…,cho nên lãi suất thực trả nhiều khi không thua kém lãi suất vay thương mại. Mặt khác, ODA dễ tạo ra tâm lý sử dụng lãng phí, thiếu chú trọng hiệu quả; hậu quả là để lại gánh nặng lâu dài về sau cho quốc gia đi vay . Trên thực tế có nhiều nước không thể trả được gánh nặng nợ ODA khi tăng trưởng và hiệu quả kinh tế không tương ứng với số vốn vay. Còn vay thương mại thì lãi suất thường cao, thời hạn vay không dài bằng ODA, chính phủ và các doanh nghiệp của nước đi vay thường không chịu đựng nổi, khó có khả năng trả nợ, chưa kể đến trường hợp đồng nội tệ bị mất giá trong quá trình vay nợ (rủi ro thay đổi tỷ giá). Gánh nặng nợ chính phủ càng lớn hơn. Thực hiện liên doanh với nước ngoài, việc bỏ vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước có thể giảm rủi ro về tài chính, trong tình huống xấu nhất khi gặp rủi ro về tài chính thì các đối tác nước ngoài cũng sẽ là người cùng chia sẻ rủi ro với các công ty nước sở tại. Do vậy, FDI là hình thức thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài tương đối ít rủi ro cho nước tiếp nhận đầu tư. Đây là điều nhiều nước đang phát triển và chậm phát triển rất quan tâm, vì khả năng trả nợ của họ, nhất là phải trả nợ bằng ngoại tệ mạnh , thường là yếu kém. Thứ hai, do đặc điểm và bản chất của FDI, nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn ra khỏi nước sở tại như đầu tư gián tiếp. Kinh nghiệm rút ra từ cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực năm 1998 đã cho thấy, những nước chịu tác động nặng nề của khủng hoảng là những nước nhận nhiều vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (khi lâm sự thì xuất hiện phản xạ có tính “bầy đàn” : một số nhà đầu tư lớn rút vốn kéo theo sự rút vốn ồ ạt của những nhà đầu tư khác bằng cách “ bán tống bán tháo” cổ phiếu mình đang nắm giữ, làm sụt giá chứng khoán, làm đổ vỡ thị trường chứng khoán); ngược lại những nước thu hút nhiều FDI (hạn chế, kiểm soát chặt chẽ các dòng vốn đầu tư gián tiếp) thường chịu tác động của khủng hoảng ít hơn, nhẹ hơn. Kinh nghiệm của một số nước lâm vào khủng hoảng tài chính - tiền tệ như Mehico (năm 1984) và Acgentina (năm 2001) cũng đã cho thấy nhận định tương tự. Chính vì vậy, sau cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ, các nước đang phát triển được khuyến cáo nên thay đổi chính sách theo hướng thận trọng hơn với đầu tư gián tiếp, chú trọng hơn đến việc thu hút, sử dụng FDI. Đối với FDI nhà đầu tư thường tính chuyện làm ăn lâu dài, không mang thích đầu cơ như đầu tư gián tiếp. Trong trường hợp không muốn làm ăn tiếp, nhà đầu tư cũng không thể rút vốn dễ dàng, nhanh chóng như đầu tư gián tiếp, vì vốn đầu tư của họ nằm trực tiếp trong nhà xưởng, thiết bị trên đất nước tiếp nhận đầu tư, phải chuyển đổi thành tiền bằng cách bán lại hoặc thanh lý nhà máy mới thu hồi vốn và chuyển về nước được. Thứ ba, FDI không đơn thuần chỉ là vốn, mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ thuật, phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra những sản phẩm mới, mở ra thị trường mới … cho nước tiếp nhận đầu tư. Đây là điểm hấp đẫn quan trọng của FDI, bởi vì hầu hết các nước đang phát triển có trình độ khoa học và công nghệ thấp, trong khi phần lớn những kỹ thuật mới được phát minh trên thế giới vẫn xuất phát chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển, do đó để rút ngắn khoảng cách và đuổi kịp các nước công nghiệp phát triển, các nước này rất cần nhanh chóng tiếp cận với kỹ thuật mới. Tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của mình, mỗi nước có cách đi riêng của mình để nâng cao trình độ công nghiệp của mình, nhưng thông qua FDI là cách tiếp nhận nhanh, trực tiếp và thuận lợi. Có nhiều phương thức chuyển giao công nghệ khác nhau như: nhập khẩu thiết bị, kỹ thuật nước ngoài, mua hoặc hợp đồng sử dụng bản quyền, sáng chế, tự thiết kế và sản xuất theo bản thiết kế tổng thể do bên nước ngoài cung cấp…Thực tế cho thấy, FDI là một kênh quan trọng đối với việc chuyển giao công nghệ cho nước đang phát triển. Điều này có ý nghĩa rất lớn đối với các nước vừa thiếu vốn, vừa có trình độ phát triển thấp, công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém, đội ngũ cán bộ chưa được đào tạo đầy đủ. Đồng thời, FDI có tác dụng rõ nét hơn các hình thức đầu tư nước ngoài khác, trong việc chấn hưng, làm thay đổi bộ mặt nền kinh tế nước tiếp nhận nhờ gia tăng sự hiện diện của các nhà đầu tư nước ngoài, kéo theo các dịch vụ cho họ (vận tải, khách sạn, vui chơi giải trí nhà hàng ăn uống …). Đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động mạnh đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận, thúc đẩy quá trình này trên nhiều phương diện: chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vốn đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu lao động … Tuy nhiên không chỉ có các nước chậm phát triển mới quan tâm đến yếu tố chuyển giao công nghệ của FDI, mà cả các nước công nghiệp phát triển cũng đang tìm cách tận dụng ưu điểm này của FDI nhằm hợp lý hoá sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh để nâng cao sức cạnh tranh, năng suất và hiệu quả tổng thể của nền kinh tế. Những ngành có khả năng canh tranh cao thì mở rộng đầu tư nước ngoài, những ngành trong nước kém phát triển thì để cho doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư, thậm chí thôn tính hoặc xoá bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém phát triển trong nước. Đây cũng là quá trình phân công lao động quốc tế, chuyên môn hoá và hợp lý hoá sự phân bổ các nguồn nhân lực thông qua FDI. Thứ tư, thông qua tiếp nhận FDI nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thuân lợi để gắn kết nền kinh tế trong nước với hệ thống sản xuất, phân phối, trao đổi quốc tế, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước này. Chủ thể chủ yếu của hoạt động FDI trên thế giới hiện nay là các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia với mạng lưới chân rết toàn cầu; thông qua tiếp nhận đầu tư của các công ty, các tập đoàn này, nước sở tại có điều kiện thuận lợi để tiếp cận và thâm nhập thị trường quốc tế, mở rộng thị trường xuất khẩu, làm quen với tập quán thương mại quốc tế, thích nghi nhanh hơn với những thay đổi trên thị trường … Đó là vai trò làm cầu nối và thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế rất quan trọng của FDI, một nhân tố đẩy nhanh quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới . Thứ năm, FDI có một lợi thế nữa đối với ODA là có thể duy trì sử dụng lâu dài, từ khi một nền kinh tế còn ở mức phát triển thấp cho đến khi đạt được trình độ phát triển rất cao.Vốn ODA thường được dành chủ yếu cho những nước kém phát triển (có thu nhập bình quân đầu người dưới một mức nhất định) sẽ giảm đi và chấm dứt cho đến khi nước tiếp nhận thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước công nghiệp tức là bị giới hạn trong một thời kì nhất định. FDI không phải chịu giới hạn này. Nó có thể đựơc sử dụng lâu dài trong suốt quá trình phát triển của mỗi nền kinh tế, tuỳ theo chính sách của nước tiếp nhận . Với những ưu thế quan trọng như trên, ngày càng có nhiều nước coi trọng FDI hoặc ưu tiên, khuyến khích tiếp nhận FDI hơn các hình thức đầu tư nước ngoài khác trong chiến lược phát triển của mình. Trong thực tế, một số nước đã áp dụng mô hình phát triển sau đây: giai đoạn đầu sử dụng ODA của các nước lớn để tạo “cú hích” hoặc vay nợ để có vốn đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu; sau đó chuyển sang thu hút FDI để đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất, sức cạnh tranh và khi đã có vị thế nhất định, có công nghệ tiên tiến thì các doanh nghiệp trong nước vươn ra đầu tư ở nước ngoài, thu lợi nhuận chuyển về nước. 3. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài - Căn cứ vào tính pháp lý của đầu tư trực tiếp nước ngoài + Hợp đồng hợp tác kinh doanh: “là văn bản kí kết giữa hai hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, trong đó qui định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập pháp nhân mới” (Nghị định 27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2003 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2000/ NĐ-CP ngày 31/7/2000). + Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài: “là doanh nghiệp thuộc sở hữu của Nhà đầu tư nước ngoài do Nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh” (Nghị định 27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2003 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2000/ NĐ-CP ngày 31/7/2000). + Doanh nghiệp liên doanh: “là doanh nghiệp được thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng hợp tác liên doanh kí kết giữa hai hay nhiều bên để tiến hành đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.Trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp liên doanh có thể là doanh nghiệp được thành lập giữa doanh nghiệp liên doanh đã thành lập ở Việt Nam”( Nghị định số 24/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000). + BOT: “là văn bản kí kết giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam và nhà đầu tư nước ngoài để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ tầng trong một thời hạn nhất định; hết thời hạn, nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao không bồi hoàn công trình đó cho nhà nước Việt Nam” (Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam sửa đổi ngày 9/6/2000). - Căn cứ vào tính chất của đầu tư trực tiếp nước ngoài + Đầu tư tập trung trong khu công nghiệp – khu chế xuất + Đầu tư phân tán - Xét theo mục đích đầu tư + Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo chiều ngang (Horizontal FDI): là việc một công ty tiến hành đầu tư vào chính ngành sản xuất mà họ đang có lợi thế cạnh tranh một loại sản phẩm nào đó. Với lợi thế này họ muốn tìm kiếm lợi nhuận cao hơn ở nước ngoài nên đã mở rộng và thôn tính thị trường nước ngoài. Hình thức này thường dẫn đến cạnh tranh độc quyền mà Mỹ, Nhật Bản đang dẫn đầu việc đầu tư này ở các nước phát triển . + Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo kiểu chiều dọc (Vertical FDI): khác với hình thức đầu tư theo chiều ngang, hình thức đầu tư theo chiều dọc với mục đính khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên và các yếu tố đầu tư rẻ như lao động, đất đai của các nước nhận đầu tư. Do các nhà đầu tư thường chú ý khai thác các lợi thế cạnh tranh của các yếu tố đầu vào giữa các khâu trong quá trình sản xuất ra một loại sản phẩm trong phân công lao động quốc tế nên các sản phẩm thường hoàn thiện qua lắp ráp ở các nước đầu tư. Sau đó các sản phẩm này lại được nhập khẩu về nước đầu tư hay xuất khẩu sang nước khác. Đây là hình thức khá phổ biến của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các nước đang phát triển . 4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng đối với các nước phát triển giúp tạo ra cú huých phá vỡ cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đang tích cực góp phần vào sự phát triển của đất nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu cơ bản trong thu hút FDI của nước chủ nhà là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu này được thực hiện thông qua các tác động của FDI đến các yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng: bổ sung nguồn vốn trong nước và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế; tiếp nhận chuyển giao công nghệ hiện đại, kĩ xảo chuyên môn và phát triển khả năng công nghệ nội địa; phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm; thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới; tạo liên kết giữa các ngành công nghiệp. - Chuyển giao và phát triển công nghệ. FDI được coi là nguồn quan trọng để phát triển khả năng công nghệ của nước chủ nhà. Vai trò này được thể hiện qua hai khía cạnh chính là chuyển giao công nghệ sẵn có từ bên ngoài vào và phát triển khả năng công nghệ của các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng của nước chủ nhà. Đây là những mục tiêu quan trọng được nước tiếp nhận đầu tư mong đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài. - Phát triển nguồn nhân lực và tạo việc làm. Nguồn nhân lực có ảnh hưởng trực tiếp tới các hoạt động sản xuất, các vấn đề xã hội và mức độ tiêu dùng của dân cư. Việc cải thiện chất lượng cuộc sống thông qua đầu tư vào các lĩnh vực: sức khoẻ, dinh dưỡng, giáo dục, đào tạo nghề nghiệp và kĩ năng quản lý sẽ tăng hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động và các yếu tố sản xuất khác, nhờ đó thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra, tạo việc làm không chỉ tăng thu nhập cho người lao động mà còn góp phần tích cực giải quyết các vấn đề xã hội. FDI ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội tạo ra công ăn việc làm trong những tổ chức khác khi nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá dịch vụ từ các nhà sản xuất trong nước, hoặc thuê họ thông qua các hợp đồng gia công chế biến. Thực tiễn ở một số nước họ thấy FDI đã đóng góp tích cực tạo ra việc làm trong các ngành sử dụng nhiều lao động như ngành may mặc, điện tử, chế biến. Mặt khác thông qua khoản trợ giúp tài chính hoặc mở các lớp dạy nghề, FDI đã đóng góp quan trọng với phát triển giáo dục nước tiếp nhận đầu tư trong các lĩnh vực giáo dục đại cương, dạy nghề, nâng cao năng lực quản lý. - Thúc đẩy xuất nhập khẩu và tiếp cận với thị trường thế giới. Xuất nhập khẩu có mối quan hệ nhân quả với tăng trưởng kinh tế. Mối quan hệ này được thể hiện ở các khía cạnh : Xuất nhập khẩu cho phép khai thác lợi thế so sánh, hiệu quả kinh tế theo quy mô, thực hiện chuyên môn hoá sản xuất, nhập khẩu bổ sung các hàng hoá, dịch vụ khan hiếm cho sản xuất và tiêu dùng. Xuất nhập khẩu còn tạo ra các tác động ngoại ứng như thúc đẩy trao đổi thông tin, dịch vụ, tăng cường kiến thức marketing cho các doanh nghiệp nội địa và lôi kéo họ vào mạng lưới phân phối toàn cầu. Tất cả các yếu tố này sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng. Thông qua FDI, các nước đang phát triển có thể tiếp cận với thị trường thế giới bởi vì hầu hết các hoạt động FDI đều do các công ty xuyên quốc gia thực hiện, mà các công ty này có lợi thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở thanh thế và uy tín của họ. - Liên kết các ngành công nghiệp. Liên kết giữa các ngành công nghiệp được biểu hiện chủ yếu qua tỷ trọng giá trị hàng hoá (tư liệu sản xuất, nguyên liệu đầu vào), dịch vụ trao đổi trực tiếp từ các công ty nội địa trong tổng giá trị trao đổi của các công ty nước ngoài ở nước tiếp nhận đầu tư. Việc hình thành các liên kết này là cơ sở quan trọng để chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và thúc đẩy xuất nhập khẩu. Cụ thể: qua các hoạt động cung ứng nguyên vật liệu, dịch vụ cho các công ty nước ngoài sản xuất hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp nội địa phát triển năng lực sản xuất của mình (mở rộng sản xuất, bắt chước quy trình sản xuất và mẫu mã hàng hoá). Sau một thời gian nhất định các doanh nghiệp có thể tự xuất nhập khẩu được. II. Lí luận chung về khu công nghiệp (KCN) và khu chế xuất (KCX) 1. Khái niệm 1.1. Khái niệm KCN Xuất phát từ các quốc gia ở ven bờ Địa Trung Hải vào đầu thế kỉ 19, quan niệm về KCN lan sang châu Á dưới hình thức hải cảng tự do. Cùng với sự phát triển của hoạt động thương mại và đầu tư, KCN dần dần xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như : khu mậu dịch tự do, kho quá cảng, đặc khu kinh tế.. Theo nghĩa rộng KCN bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ nước sở tại cho phép chuyên môn hoá sản xuất công nghiệp, nó là khu biệt lập có chế độ mậu dịch và thuế quan riêng, không phụ thuộc vào chế độ mậu dịch và thuế quan phổ thông của nước đó. Theo quan niệm này KCN bao gồm các cảng tự do, các khu vực mậu dịch tự do, các khu vực phi thuế quan, các khu vực công nghiệp tự do, các khu vực ngoại thương. Theo các nước tư bản phát triển: KCN được hiểu là một khu vực đất đai có ranh giới xác định của họ sở hữu để xây dựng kết cấu hạ tầng sau đó xây dựng các xí nghiệp để bán. Theo Thái Lan: một KCN tương tự như một thành phố công nghiệp. Bên cạnh việc cung cấp đầy đủ các tiện nghi đa dạng, nhà máy xử lý chất thải, hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn hảo, KCN còn có ngân sách thương mại, bệnh viện, tổ hợp dịch vụ mua bán, bưu điện, trường học, và khu dành cho công nhân. KCN là một cộng đồng hoàn chỉnh. Theo Qui chế KCN và KCX, Khu công nghệ cao ban hành kèm nghị định 36 CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ: “Khu công nghiệp là khu tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập. Trong khu công nghiệp có thể có doanh nghiệp chế xuất”. 1.2. Khái niệm KCX Theo tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO): KCX là khu vực tương đối nhỏ phân cách về mặt địa lý trong một quốc gia nhằm mục tiêu thu hút đầu tư vào các ngành công nghiệp hướng về xuất khẩu bằng cách cung cấp cho các ngành công nghiệp này những điều kiện về đầu tư và mậu dịch thuận lợi đặc biệt so với phần lãnh thổ còn lại của nước chủ nhà. Trong đó, đặc biệt là KCX cho nhập khẩu hàng hoá dùng cho sản xuất để xuất khẩu miễn thuế. Theo quan điểm của hiệp hội KCX thế giới (WEPZA) : KCX không chỉ bao gồm khu vực công nghiệp chuyên sản xuất hàng hoá xuất khẩu mà còn bao gồm cả những khu vực được Chính phủ cho phép như khu cảng tự do, khu tự do thuế quan, khu mậu dịch tự do… Theo Qui chế KCN và KCX, Khu công nghệ cao ban hành kèm nghị định 36 - CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ: Khu chế xuất là khu công nghiệp tập trung các doanh nghiệp chế xuất chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống được Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. 2. Đặc điểm của KCN Cho đến nay KCN đã được phát triển mạnh mẽ ở các quốc gia, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Mặc dù, có sự khác nhau về qui mô, đặc điểm và phương thức xây dựng cơ sở hạ tầng, nhưng nói chung các KCN có các đặc điểm sau đây 2.1. Về tính chất hoạt động - Tập trung các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp và các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ mà không có dân cư. - Trong KCN bao gồm các loại hình doanh nghiệp sau: + Doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế. + Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. + Các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. (Điều 6 – Quy chế KCN,KCX, khu công nghệ cao ban hành kèm nghị định 36-CP ngày 24/441997 của Chính phủ. - Các lĩnh vực được phép đầu tư trong KCN +Xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng. + Sản xuất, gia công, lắp ráp các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu thụ tại thị trường trong nước; phát triển và kinh doanh bằng sáng chế, bí quyết kĩ thuật, qui trình công nghệ. + Nghiên cứu - triển khai khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và để tạo ra sản phẩm mới. + Dịch vụ hỗ trợ sản xuất công nghiệp. ( Điều 7 – Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao ban hành kèm nghị định 36- CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ) - Thời gian hoạt động của KCN không quá 50 năm và không vượt quá thời gian hoạt động của Công ty phát triển hạ tầng KCN, được tính từ ngày doanh nghiệp được cấp có thẩm quyền ra quyết định chấp thuận đầu tư vào KCN. Trường hợp đặc biệt, thời hạn hoạt động của doanh nghiệp KCN có thể vượt quá thời hạn hoạt động của Công ty phát triển hạ tầng KCN, nhưng phải được UBND cấp tỉnh và cơ quan ra quyết định chấp thuận đầu tư hoặc cấp giấy phép đầu tư. (Điều 9 – Quy chế KCN, KCX, khu công nghệ cao ban hành kèm nghị định 36-CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ) - Doanh nghiệp KCN có khả năng hợp tác với nhau rất thuận lợi. Về cơ sở hạ tầng kĩ thuật Cơ sở hạ tầng kĩ thuật như đường xá, điện nước, điện thoại, hệ thống cấp thoát nước… do công ty phát triển hạ tầng KCN xây dựng. Công ty phát triển hạ tầng KCN là doanh nghiệp Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế (không áp dụng cho trường hợp doanh nghiệp Việt Nam tham gia là doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam). Về quản lý Mỗi KCN đều thành lập một ban quản lý KCN cấp tỉnh để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với các KCN. Bên cạnh đó, KCN còn chịu sự quản lý của nhiều cơ quan như: Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ công nghiệp, Bộ xây dựng, ban quản lý KCN Việt Nam… Ngoài ra , KCX còn có một số đặc điểm khác sau: - Doanh nghiệp KCX được tự do và không hạn chế số lượng nguyên vật liệu nhập khẩu. Sản phẩm của KCX chỉ dùng để bán ở thị trường nước ngoài, trừ trường hợp đối tác nước ngoài từ chối mới được bán ở thị trường nội địa. - Các doanh nghiệp KCX được miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp trong giai đoạn đầu hoạt động. - Các doanh nghiệp KCX được hưởng chế độ hải quan ưu đãi trong thủ tục giấy phép xuất nhập khẩu. Các doanh nhgiệp trong KCX được tự do chuyển lợi nhuận về nước, được toàn quyền quyết định nhân sự từ kiểm soát, quản lý đến điều hành sản xuất trong doanh nghiệp. 3. Điều kiện thành lập KCN Hiện nay hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều có nhu cầu hình thành và phát triển KCN với các qui mô và hình thức khác nhau. Để các KCN thực sự hoạt động có hiệu quả, tránh dàn trải, lãng phí, Bộ kế hoạch và đầu tư đã đưa ra các điều kiện để thành lập KCN,KCX. 3.1. Điều kiện quan trọng nhất khi xem xét thành lập các KCN là xác định nhu cầu thành lập KCN và phải có kế hoạch vận động các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào KCN Thực tế có nhiều KCN đã được thành lập với cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đồng bộ, hiện đại nhưng gặp khó khăn trong thu hút vốn đầu tư cho nên không đạt được mục tiêu, hiệu quả. Nguyên nhân là do trong quá trình xây dựng không xác định đúng nhu cầu hình thành KCN và không có kế hoạch thu hút vốn đầu tư vào KCN. Do vậy, khi xem xét thành lập KCN phải cân nhắc kĩ nhu cầu và có biện pháp kêu gọi vốn trong nước cũng như nước ngoài. 3.2. Sự phù hợp của KCN đó với qui hoạch phát triển hệ thống KCN trong phạm vi cả nước, kế hoạch phát triển ngành kinh tế kĩ thuật cũng như qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Xây dựng KCN phù hợp với qui hoạch KCN giúp cho sự phát triển được cân đối, hài hoà giữa các vùng, dựa trên lợi thế từng vùng. Xem xét xây dựng KCN cần xác định mặt hàng, sản phẩm của KCN có phù hợp định hướng phát triển ngành kinh tế kĩ thuật hay không? 3.3. Các dự án thành lập KCN còn thể hiện đầy đủ yêu cầu và có giải pháp khả thi trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng, trước hết là hạ tầng kĩ thuật như giao thông, cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc, xử lí chất thải. Xây dựng KCN cần xem xét khả năng cung ứng từ bên ngoài, nhu cầu đầu tư, khả năng thực hiện. Việc hình thành KCN cũng thu hút một lượng lớn lao động trong các KCN và lao động bên ngoài KCN cho nên cần phải có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực, có kế hoạch cải thiện và nâng cao đời sống người lao động. 4.Vai trò của KCN, KCX Tăng cường khả năng thu hút đầu tư, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng KCN, KCX là nơi có kết cấu hạ tầng thuận lợi, nhận được nhiều sự ưu đãi từ phía nhà nước. Do vậy, nó có khả năng lớn trong thu hút vốn đầu tư đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Các doanh nghiệp KCN, KCX là các doanh nghiệp có tiềm lực về vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý. Hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thường đạt hiệu quả khá tốt, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế. Mặt khác, sản phẩm của KCN, KCX chủ yếu để xuất khẩu sẽ giúp tăng thu ngoại tệ, ổn định cán cân thanh toán. 4.2. Tạo điều kiện tiếp cận với kĩ thuật, công nghệ hiện đại, học hỏi phương thức quản lý mới, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động. Các KCN, KCX được thành lập thu hút lượng lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ đem theo là những kĩ thuật – công nghệ hiện đại, đồng thời là những phương pháp quản lý mới tiên tiến nhằm sử dụng lao động, thời gian lao động, máy móc, nguyên nhiên liệu một cách hợp lý, hiệu quả. Do vậy, nó góp phần thay đổi ý thức, thói quen, tác phong làm việc của người lao động nâng cao năng suất. Mặt khác, các doanh nghiệp chế xuất cũng rất quan tâm đến việc bồi dưỡng, đào tạo các công nhân kĩ thuật phù hợp với năng lực sản xuất mới. Nhờ đó trình độ tay nghề người lao động được nâng cao. Rõ ràng, với việc thành lập KCN, KCX chúng ta có cơ hội tiếp cận nhiều hơn với nhiều thành tựu khoa học - công nghệ, khoa học quản lý mà không phải bỏ ra nhiều chi phí. Góp phần tạo thêm việc làm cho người lao động Các nước đang phát triển có nguồn nhân lực khá dồi dào. Việc thành lập các KCN, KCX sẽ thu hút một số lượng lớn lao động lớn, giải quyết được một phần tình trạng thất nghiệp và làm thay đổi bộ mặt địa phương nơi hình thành KCN, KCX. 4.4. Tiết kiệm nguồn lực phát triển cơ sở hạ tầng, sử dụng đất có hiệu quả hơn Trong KCN, KCX cơ sở hạ tầng do công ty phát triển hạ tầng KCN, KCX xây dựng theo một qui hoạch có tính dài hạn. Các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng được quản lý thống nhất nên tránh tình trạng đầu tư chồng chéo, lãng phí. Nhờ đó việc hình thành KCN, KCX giúp tiết kiệm các nguồn lực và sử dụng đất có hiệu quả hơn. 4.5. Tạo ra mối liên kết giữa các ngành nghề Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp KCN đòi hỏi nguồn cung cấp nguyên nhiên liệu và dịch vụ đầu vào thường xuyên. Chính điều này tạo ra mối liên hệ giữa các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác. 4.6. Quản lý chất thải và giảm ô nhiễm môi trường Việc hình thành và phát triển KCN, KCX góp phần tích cực vào việc kiểm soát chất thải công nghiệp và bảo vệ môi trường. Các KCN, KCX thường được qui hoạch chi tiết để tập trung các nhà máy,xí nghiệp nằm rải rác, do vậy, sẽ quản lý được tập trung nguồn rác thải công nghiệp, giảm mức độ ô nhiễm khu dân cư. 5. Phân biệt KCN và KCX KCX là nơi tập trung các doanh nghiệp sản xuất để xuất khẩu, còn KCN là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp. KCN có thể bao gồm KCX. Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong KCN sẽ được đặc biệt ưu đãi như sản xuất ở trong KCX độc lập. KCN không chỉ cho phép các công ty có vốn đầu tư nước ngoài mà còn cho phép các công ty 100% vốn nước ngoài hoạt động trong khi đó KCX chỉ cho phép các công ty có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động. KCN vừa gắn với mục tiêu xuất khẩu vừa thực hiện nâng cao khả năng sản xuất của thị trường nội địa, mang những chức năng hiệu quả hơn KCX. PHẦN II THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀO CÁC KCN, KCX VIỆT NAM I. Tính tất yếu khách quan hình thành KCN, KCX Một trong những nhân tố quyết định sự vươn lên mau chóng, vượt bậc của những nước có xuất phát điểm thấp đó là chiến lược công nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu thông qua biện pháp thu hút FDI và chuyển giao công nghệ. Hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ có hiệu quả nhất là thiết lập các KCN, KCX, đặc khu kinh tế… Đối với những nền kinh tế có trình độ phát triển thấp như ở nước ta hiện nay, việc tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh cao là điều không đơn giản. Vì vậy, chúng ta cần phải có những điều kiện và nhân tố cần thiết trước hết là vốn, kĩ thuật, công nghệ tiên tiến, đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân lành nghề có trình độ cao để sản xuất hàng hoá với giá cả và chất lượng có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. KCN, KCX được coi là một công cụ quan trọng trong thu hút vốn và kĩ thuật, là cửa ngõ khai thông ra thị trường thế giới. Việt Nam trong xu thế chung của thế giới và trước những yêu cầu đặt ra cần phải xây dựng và phát triển KCN, KCX bởi vì: - Trong việc thu hút FDI, đầu tư của các nước phát triển, các công ty đa quốc gia, các tập đoàn tư bản lớn là quan trọng nhất. Trong cuộc cạnh tranh bành trướng thị trường các công ty xuyên quốc gia có xu hướng di chuyển một bộ phận năng lực sản xuất công nghiệp, thường là các ngành có hàm lượng lao động cao, không đòi hỏi trình độ kĩ thật tinh vi đến những nơi có nguồn nguyên liệu, nhân công rẻ, cước phí vận chuyển không quá lớn và có nhiều ưu đãi. KCN, KCX là môi trường thuận lợi giúp các công ty xuyên quốc gia đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu. - Sự yếu kém về hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của đất nước đã hạn chế khả năng tăng trưởng kinh tế và hợp tác quốc tế của cả nước và các vùng. Mặc dù, chúng ta đang nỗ lực xây dựng kết cấu hạ tầng nhưng với khả năng và nguồn vốn hạn hẹp, nên trong một thời gian ngắn không thể khắc phục nhược điểm này trên qui mô toàn quốc mà cần thiết phải có các biện pháp đặc biệt với từng khu vực, từng vùng trước hết là các địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội có nhiều khả năng phát triển công nghiệp, nhằm khuyến khích các nhà đầu tư chuyển vốn, phương tiện kĩ thuật. KCN, KCX là địa bàn nhỏ hẹp có thể tập trung mọi điều kiện cần thiết để tạo cơ sở hạ tầng đạt trình độ quốc tế và chi phí thấp, đáp ứng đòi hỏi của nhà đầu tư nước ngoài. - Luật đầu tư nước ngoài là cơ sở pháp lý tạo ra môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy vậy, những qui đinh về quản lý và thủ tục hành chính đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn phức tạp, rườm rà, hạn chế tính năng động, linh hoạt. KCN, KCX cho phép áp dụng qui chế riêng, thủ tục thông thoáng, đơn giản. II. Quá trình hình thành và phát triển KCN, KCX Việt Nam Quá trình hình thành và phát triển KCN, KCX ở Việt Nam tuy có hơi muộn so với các nước trong khu vực và trên thế giới song do vậy mà chúng ta có nhiều lợi thế do học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác. Trên cơ sở thực tế Việt Nam và kinh nghiệm xây dựng KCN, KCX của các nước, chúng ta vừa có cơ hội vừa phải đối mặt với nhiều thách thức. 1. Về số lượng các KCN, KCX STT Tỉnh STT KCN,KCX Diện Tích(ha) 1 Hà Nội 1 KCN Nội Bài 100 2 KCN Sài Đồng B 73 3 KCN Bắc Thăng Long 198 4 KCN Đài T ư 40 5 KCN Daewoo-Hanel 197 6 KCN Nam Thăng Long 30 2 Hải Phòng 7 KCN Nomura 153 8 KCN Đình Vũ 164 9 KCX H ải Phòng 96 150 3 Quảng Ninh 10 KCN Cái Lân 78 4 Bắc Ninh 11 KCN Tiên Sơn 135 12 KCN Quế Võ 312 5 Bắc Giang 13 KCN Đinh Trám 98 6 Phú Thọ 14 KCN Thuỵ Vân 70 7 Vĩnh Phúc 15 KCN Kim Hoa 50 16 KCN Quang Minh 344 8 Hà Tây 17 KCN Bắc Phú Cát 327 9 Thái Nguyên 18 KCN Sông Công 69 10 Thái Bình 19 KCN Phúc Khánh 120 11 Hải Dương 20 KCN Đại An 74 21 KCN Nam Sách 64 22 KCN Phúc Điền 67 12 Hưng Yên 23 KCN Phố Nối B 95 24 KCN Phố Nối A 390 13 Nam Định 25 KCN Hoà Xá 327 14 Hà Nam 26 KCN Đồng Văn 110 15 Ninh Bình 27 KCN Ninh Phúc 125 16 Thanh Hoá 28 KCN Lệ Môn 88 17 Nghệ An 29 KCN Bắc Vinh 60 30 KCN Nam Cấm 79 18 Hà Tĩnh 31 KCN Vũng Án 116 19 Quảng Trị 32 KCN Nam Đông Hà 99 20 Huế 33 KCN Phú Bài 185 21 Đà Nẵng 34 KCN Đà Nẵng 63 35 KCN Liên Chiểu 374 36 KCN Hoà Khánh 423 37 KCN Hoà Cầm 125 22 Quảng Nam 38 KCN Điện Nam- Điện Ngọc 145 23 Quảng Ngãi 39 KCN Tịnh Phong 142 40 KCN Quảng Phú 100 24 Bình Định 41 KCN Phú Tài 328 42 KCN Long Mỹ 100 25 Phú Yên 43 KCN Hoà Hiệp 102 26 Đắk Nông 44 KCN Tâm Thắng 181 27 Khánh Hoà 45 KCN Suối Dầu 78 28 Lâm Đồng 46 KCN Lộc Sơn 93 29 Bình Phước 47 KCN Chơn Thành 115 30 Bình Thuận 48 KCN Phan Thiết 70 31 Tây Ninh 49 KCN Trảm Bàng 197 50 KCX Linh Trung III 204 32 Đồng Nai 51 KCN Amata 362 52 KCN Nhơn Trạch I 430 53 KCN Nhơn Trạch II 350 54 KCN Nhơn Trạch III 368 55 KCN Gò Dầu 186 56 KCN Loteco 100 57 KCN Biên Hoà I 335 58 KCN Biên Hoà II 365 59 KCN Sông Mây 227 60 KCN Hố Nai 230 61 KCN Dệt May Nhơn Trạch 184 62 KCN An Phước 130 63 KCN Tam Phước 323 64 KCN Long Thành 510 65 KCN Nhơn Trạch V 302 33 Bình Dương 66 KCN VN-Singapore 292 67 KCN Bình Dương 17 68 KCN Sóng Thần I 180 69 KCN Sóng Thần II 319 70 KCN Đồng An 132 71 KCN Tân Đông Hiệp A 47 72 KCN Tân Đông Hiệp B 164 73 KCN Việt Hương 46 74 KCN Mỹ Phước 377 75 KCN Việt Hương II 110 76 KCN Dệt May Bình An 26 34 TP Hồ Chí Minh 77 KCX Tân Thuận 300 78 KCX Linh Trung I 60 79 KCX Linh Trung II 62 80 KCN Bình Chiểu 27 81 KCN Tân Tạo 444 82 KCN Vĩnh Lộc 202 83 KCN Hiệp Phước 332 84 KCN Tân Bình 186 85 KCN Tân Thới Hiệp 215 86 KCN Lê Minh Xuân 100 87 KCN Tây Bắc Củ Chi 220 88 KCN Cát Lái II 117 89 KCN Tân Phú Trung 200 90 KCN Cát Lái IV 112 91 KCN Phong Phú 148 35 Đồng Tháp 92 KCN Sa Đéc 69 36 Long An 93 KCN Đức Hoà I 70 94 KCN Th. Đạo-Bến Lức 114 95 KCN Xuyên Á 306 96 KCN Tân Kim 117 97 KCN Tân Đ ức 273 37 Tiền Giang 98 KCN Mỹ Tho 79 99 KCN Tân Hương 138 38 Bà Rịa Vũng Tàu 100 KCN Mỹ Xuân A 270 101 KCN Mỹ Xuân A2 313 102 KCN Đông Xuyên 161 103 KCN Mỹ Xu ân B1 226 104 KCN Phú Mỹ I 954 105 KCN Cái Mép 670 106 KCN Phú Mỹ II 300 39 Vĩnh Long 107 KCN Hoà Phú 137 40 Cần Thơ 108 KCN Cần Thơ 300 109 KCN Hưng Phú I 350 41 Sóc Trăng 110 KCN An Nghiệp 100 42 Cà Mau 111 KCN Khánh An 180 43 Gia Lai 112 KCN Trà Đa 109.3 Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư Như vậy, tính đến cuối năm 2004, cả nước ta đã có 112 KCN, KCX với tổng diện tích tự nhiên 21.829 ha, trong đó 64 khu đã đi vào hoạt động với tổng diện tích tự nhiên là 14.012 ha và 44 khu ( tổng diện tích tự nhiên 7818 ha) đang trong giai đoạn giải phóng mặt bằng và xây dựng kết cấu hạ tầng. Đến hết tháng 12/2004 đã có 43 tỉnh, thành phố trực thuộc TW trong cả nước phát triển KCN, KCX. Các tỉnh có nhiều KCN, KCX nhất là Đồng Nai (15 khu với diện tích tự nhiên là 4402 ha), thành phố Hồ Chí Minh ( 15 khu với diện tích tự nhiên là 2725 ha), Bình Dương ( 11 khu với diện tích tự nhiên là 1710 ha ) Ngoài các KCN, KCX đang trong quá trình giải phóng mặt bằng, hầu hết các KCN, KCX khác khẩn trương hoàn thiện các công trình hạ tầng, triển khai xây dựng trạm xử lý chất thải tập trung. Ở những địa phương tập trung nhiều KCN, KCX (Đồng Nai, Bình Dương…) đang triển khai xây dựng nhà chung cư cho lao động và giải quyết nhiều công trình phục vụ nhu cầu xã hội văn hoá cho người lao động. BẢNG SỐ LƯỢNG KCN, KCX THÀNH LẬP QUA CÁC NĂM Năm cấp phép Số lượng KCN, KCX được thành lập 1991 1 1992 1 1993 0 1994 5 1995 5 1996 13 1997 21 1998 15 1999 2 2000 1 2001 3 2002 10 2003 21 2004 14 Tổng 112 Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư Các khu công nghiệp chủ yếu được thành lập nhiều vào năm 1996,1997,1998 sau đó chúng chững lại và tiếp tục tăng vào các năm 2003, 2004. Trong giai đoạn đầu số lượng KCN, KCX còn ít vì chúng còn đang trong quá trình thử nghiệm, tìm kiếm một mô hình xây dựng phù hợp. Giai đoạn khủng hoảng tài chính tiền tệ các nhà đầu tư ít đầu tư hơn cho việc xây dựng các KCN, KCX. Nhìn chung các KCN, KCX còn nhiều diện tích trống, tỷ lệ lấp đầy còn thấp, chủ yếu mới chỉ lấp đầy khoảng < 50% diện tích đất. Do vậy cần phải có kế hoạch thu hút vốn đầu tư lấp đầy diện tích hơn là tiếp tục xây dựng các KCN, KCX mới. Theo số liệu đến hết năm 2004 các nhà đầu tư cho thuê lại khoảng 44% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê. Nếu tính các KCN, KCX đang vận hành không tính đến các KCN, KCX tập trung năm 2003 đang trong quá trình xây dựng cơ bản thì tỷ lệ lấp đầy KCN, KCX trong cả nước đạt 62% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê lại. 2. Về phân bố các KCN, KCX Nhìn chung các KCN, KCX còn tập trung chủ yếu ở các vùng kinh tế trọng điểm, trong khi đó ở các vùng nông thôn còn ít. Vì vậy, trong tương lai chúng ta phải có kế hoạch phát triển các KCN, KCX ở nông thôn để đảm bảo phát triển cân đối vùng, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Miền Nam hiện nay có 65, miền Bắc có 27, miền Trung có 20 KCN và KCX. So với các KCN, KCX thành công trong cả nước, tỷ lệ thành công của các KCN, KCX miền Nam có tỷ lệ thành công là 64%, miền Bắc là 14% và miền Nam là 13%. Miền Nam đi đầu trong cả nước trong phát triển KCN, KCX đã và đang phát triển nhanh trong việc việc góp phần tăng trưởng GDP của cả nước. Điển hình là KCX Tân Thuận thành công nhất trong khu vực châu Á- Thái Bình Dương. Các KCN phía Bắc hình thành và phân bố rộng trên các khắp các tỉnh, tuy nhiên việc triển khai phát triển cơ sở hạ tầng còn khó khăn do chậm giải phóng mặt bằng. Trong khi đó các KCN, KCX ở miền Trung lại phân bố rải rác, xa các trung tâm, các đầu mối thông tin nên rất hạn chế trong thu hút đầu tư nước ngoài. Miền Nam là khu vực có tốc độ xây dựng KCN, KCX rất nhanh, khoảng 60% số KCN, KCX trog cả nước. Như vậy, miền Bắc và miền Nam có ưu thế trong việc liên kết, phối hợp giữa các KCN, KCX còn miền Trung thì gặp nhiều khó khăn do các KCN, KCX phân bố rải rác. KCN, KCX Ở CÁC MIỀN (THÁNG 12/2004) Miền Số lượng KCN, KCX Tỷ trọng (%) Miền Bắc 27 24,11 Miền Trung 20 20 Miền Nam 65 55,89 112 Nguồn Bộ kế hoạch và đầu tư Biểu đồ số lượng KCN, KCX trên các vùng Biểu đồ tỷ trọng các KCN, KCX trên các Các KCN, KCX Việt Nam tuy phân bố chưa đồng đều nhưng được qui hoạch ở vị trí rất thuận lợi: Khu vực thuận lợi về nước, giao thông ( KCN Đình Vũ – Đồ Sơn – Hải Phòng, KCN Dung Quất…), khu vực thuận lợi về giao thông đường bộ, hang không, gần các thành phố lớn ( KCN Nomura - Hải Phòng, Sài Đồng A, B, Bắc Thăng Long – Hà Nội…), khu vực thuận lợi về giao thông, nước, dễ giải toả…. III. Tình hình thu hút FDI vào các KCN, KCX CÁC NƯỚC, VÙNG LÃNH THỔ XÂY DỰNG KCN, KCX TẠI VIỆT NAM (THÁNG 12/2003) Chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Diện tích (ha ) Việt Nam 15735 Đài Loan - Việt Nam 917 Nhật Bản - Việt Nam 451 Thái Lan - Việt Nam 362 Trung Quôc - Việt Nam 325,26 Singapore - Việt Nam 292 Hàn Quốc - Việt Nam 197 Malaysia - Việt Nam 163 Hồng Kông - Việt Nam 150 Mỹ, Bỉ, Thái Lan 164 Đài Loan (100%) 40 Có thể thấy rằng Việt Nam còn là nhà đầu tư chủ yếu trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho KCN, KCX. Các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng KCN, KCX phần nhiều là các nước trong khu vực châu Á. Mục tiêu khi xây dựng các KCN, KCX đó là thu hút FDI từ các tập đoàn tư bản lớn, các công ty xuyên quốc gia đến từ Mỹ, EU. Nhìn chung mục tiêu này vẫn chưa đạt được. CÁC HÌNH THỨC ĐẦU TƯ XÂY DỰNG KCN, KCX Ở VIỆT NAM (THÁNG 12/2003) Chủ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Tỷ lệ (% ) Việt Nam 86,94 Liên doanh 12,68 100% vốn nước ngoài 0,39 Biểu đồ tỷ trọng các hình thức đ ầu tư xây dựng hạ tầng KCN, KCX Hình thức đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu vẫn là 100% vốn trong nước, hình thức đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng với 100% vốn nước ngoài còn rất hạn chế chỉ đạt có 0,39%. Thực tế cho thấy việc các nhà đầu tư nước ngoài tự tiến hành đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ tốt hơn về mặt chất lượng và tạo uy tín để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài khác tham gia sản xuất kinh doanh trong KCN, trong khi đó tỷ lệ liên doanh và 100% vốn nước ngoài mới chỉ đạt khoảng 15%, một con số còn ít ỏi. TÌNH HÌNH THU HÚT ĐẦU TƯ VÀO KCN, KCX PHÂN THEO MIỀN (T12/2003) Miền Diện tích Đầu tư trực tiếp nước ngoài Dự án Tổng vốn đầu tư Miền Bắc 3491 123 1149 Miền Trung 2572 63 628 Miền Nam 12733 1190 9275 18796.26 1385 11106 Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư Biểu đồ tình hình thu hút vốn đầu tư vào các KCN, KCX Vốn đầu tư nước ngoài chủ yếu vào miền Nam, miền Bắc và miền Trung còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Miền Nam chiếm 80% tổng số dự án và 84% tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX. Như vậy miền Nam là vùng rất có ưu thế trong việc thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX. Miền Bắc và miền Trung cần phải có nhiều chính sách ưu đãi hơn nữa để có thể thu hút vốn phát triển đảm bảo sự cân đối giữa các vùng, miền trong cả nước. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN KẾ HOẠCH NĂM 2004 CỦA CÁC KCN, KCX Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2003 Năm 2004 So với năm 2003 (%) Số lượng KCN, KCX 21 14 67 Doanh thu Tr. USD 9685 11678 121 Xuất khẩu Tr. USD 3939 4804 122 Nhập khẩu Tr. USD 4375 6986 160 Nộp ngân sách Tr. USD 473 492 104 FDI - Tình hình cấp mới + Số dự án + Tổng vốn đầu tư đăng kí -Tình hình tăng vốn + Số dự án + Tổng vốn tăng - Tổng vốn tăng thêm 252 914 323 676 1589 278 1326 373 994 2320 110 145 115 147 146 Nguồn : Bộ Kế hoạch và Đầu tư Như vậy, trong năm 2004 cả nước đã thu hút được 1495 dự án có vốn đầu tư nước ngoài, với tổng số vốn đăng kí là 11.6 tỷ USD chưa kể 969 triệu USD đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KCN, KCX. Năm 2004 tình hình hoạt động của các KCN, KCX đạt kết quả tốt và tăng hơn so với năm 2003. Trong năm 2004 số dự án mới cấp phép tăng 10%, số dự án mở rộng qui mô tăng 15% với qui mô vốn tăng tương ứng là 45% và 48%. Các KCN, KCX ở các địa phương : Đồng Nai, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất chiếm 75% tổng số dự án và số vốn đầu tư nước ngoài mới so với cả nước. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cấp mới và tăng vốn bổ sung tăng gần 50% so với năm 2003. Các địa phương gia tăng vốn nhanh nhất vẫn là các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt có nhiều dự án thực hiện vốn đầu tư lớn nhất trong năm 2004 là : công ty TNHH sợi Tainan (Đài Loan) tăng 95 triệu USD, công ty TNHH Canon (Nhật Bản) tăng 100 triệu USD, công ty Ching Luh (Đài Loan) tăng 52 triệu USD. Ta có thể xem xét thêm kết quả thu hút FDI và tình hình hoạt động của các dự án FDI từ năm 1991 đến năm 2002 1991-1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tổng FDI 741,7 734,59 722,9 485,7 577,1 608,5 460,3 415,1 Nộp ngân sách 0 8 18,9 26,9 47,6 104,2 128 26,2 Tổng doanh thu 346 448,7 1141,7 1451,2 1858,8 2910,4 3021,7 562,8 Tổng xuất khẩu 109,9 324,7 643,3 897,6 1057,8 1610,6 1535,5 355,6 Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư Qua đây ta có thể thấy rằng tổng FDI thu hút vào KCN, KCX ngày càng có xu hướng gia tăng. Năm 1996 là năm chúng ta đạt được tỷ lệ thu hút FDI nói chung và vào KCN, KCX cao nhất trong cả giai đoạn chiếm 17%. Tính đến cuối tháng 3/ 2005, cả nước ta đã có khoảng 6300 dự án FDI được cấp giấy phép đầu tư với tổng số vốn đầu tư hơn 60 tỷ USD. Trong đó, khoảng 5300 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng kí gần 50 tỷ USD, vốn thực hiện đạt trên 26 tỷ USD. Số dự án có vốn đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX đạt gần 1800 dự án chiếm trên 30% tổng số dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký vào các KCN, KCX trên 15 tỷ chiếm khoảng 33% tổng vốn đầu tư đăng kí. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tập trung chủ yếu ở các KCN, KCX thuộc thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía nam xấp xỉ 1400 dự án với tổng vốn đầu tư đăng kí 12,5 tỷ USD chiếm trên 75% số dự án và xấp xỉ 80% vốn đầu tư đăng kí. Các lĩnh vực thu hút được nhiều lao động có tỷ lệ xuất khẩu cao như công nghiệp nhẹ (dệt may), công nghiệp thực phẩm và công nghiệp nặng (lắp ráp các sản phẩm điện, điện tử) thu hút được nhiều sự quan tâm của các nhà đầu tư. IV. Những tồn tại khó khăn trong đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX 1. Do đánh giá vai trò của KCN, KCX và cơ chế quản lý “một cửa, tại chỗ” chưa nhất quán, nên còn hiện tượng cào bằng giữa chính sách bên ngoài và bên trong KCN, KCX, không chú trọng đến những nét đặc thù của KCN, KCX. Từ đó, thể hiện sự không nhất quán về cơ chế tổ chức. Trong đó hệ thống tổ chức chỉ đạo từ trên xuống chưa rõ ràng nên làm cho việc điều hành thiếu tập trung thống nhất, mỗi địa phương một kiểu. Có lúc lại chưa coi KCN, KCX là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc gia thậm chí coi KCN, KCX như nước ngoài để tận dụng thế mạnh của nó đóng góp vào nền kinh tế quốc gia trong hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy, có lúc đặt ra chính sách thuế chưa hợp lý làm cho một số nhà đầu tư nản lòng chuyển sang đầu tư ở nước khác, ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư. 2. Hạn chế của cơ chế “một cửa, tại chỗ” là một số bộ quản lý chuyên ngành chưa uỷ quyền cho ban quản lý. Cũng còn nhiều ý kiến khác nhau về sự phân cấp quản ký KCN, KCX đã làm cho quá trình thực hiện cơ chế “một cửa, tại chỗ” không ổn định. Mặt khác, cũng cần khắc phục một số mặt yếu kém về năng lực điều hành của một số ít các bộ như còn nặng tư tưởng quản lý hành chính đơn thuần, chưa dựa trên tinh thần coi khó khăn của nhà đầu tư dù là nhà đầu tư nước ngoài như chính khó khăn của mình, chưa thấm nhuần quan điểm phục vụ tốt nhà đầu tư. 3. Trong qui hoạch KCN, KCX có các phân khu chức năng nhưng quá trình thu hút đầu tư có nơi không thực hiện theo qui định mà chạy theo chỉ tiêu lấp đầy từ đó gây ra hậu quả về môi trường phải khắc phục rất phức tạp. 4. Các KCN, KCX với chức năng chỉ gia công chế tác xuất khẩu đã phát triển đến giai đoạn đòi hỏi nâng cao chất lượng sản xuất kinh doanh, dịch vụ nhằm tạo năng lực phát triển mới cho nó để hoà nhập với xu thế chung của thế giới. Sự chuyển hướng chiến lược này thể hiện quá chậm, nếu không sớm khắc phục sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển KCN, KCX. 5. Do nhiều đầu mối can thiệp vào việc hình thành và quản lý các doanh nghiệp trong KCN, KCX dẫn đến tình trạng thiếu tập trung thống nhất, gây bất lợi cho công tác quản lý nhà nước. Cơ chế “một cửa, tại chỗ” ở đây chưa rõ ràng. Vì vậy, công tác báo cáo thống kê nắm tình hình hoạt động của các KCN, KCX còn nhiều khó khăn, làm trở ngại trong điều hành quản lý. 6. Việc giải toả đền bù giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài tường rào chưa kịp đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển của KCN, KCX làm ảnh hưởng đến môi trường thu hút đầu tư. Có nhiều hợp đồng thuê đất đã kí nhiều cả năm trời mà chưa có đất giao nên một số nhà đầu tư bỏ đi nơi khác. 7. Việc xây dựng các công trình dịch vụ phục vụ cho KCN, KCX như trạm xử lý chất thải, trạm y tế, phương tiện phòng cháy chữa cháy, nhà ở cho công nhân, ký túc xá chuyên gia…có nơi làm còn chậm, nhất là ở các KCN, KCX chưa đạt yêu cầu theo qui định của Nghị định 36/ CP về KCN, KCX. 8. Sự phối hợp giữa các phòng với nhau, giữa ban quản lý với các cơ quan chức năng từng lúc, từng nơi làm chưa đồng bộ, làm hạn chế trong việc điều hành. Mặt khác, với khối lượng công việc ngày càng lớn nhưng tổ chức bộ máy và biên chế còn hạn hẹp, năng lực cán bộ có mặt bất cập trước xu thế mới, nếu không kịp chấn chỉnh sẽ không đáp ứng được yêu cầu của tình hình sắp tới khi qui mô ngày càng mở rộng, công việc ngày càng nặng nề. 9. Việc phát triển KCN, KCX chuyên môn hoá sản xuất ổn định một số mặt hàng quá ít do đó không hình thành được KCN, KCX mũi nhọn, làm động lực phát triển các mặt hàng có tính cạnh tranh cao trên thị trường khu vực và thế giới. Trong khi đó KCN, KCX sản xuất đa ngành nghề đang làm cho mối liên kết ngành chẳng những không phát huy được mà thậm chí có những KCN, KCX song song tồn tại cả những ngành công nghiệp đối lập nhau về phương thức sản xuất, vệ sinh an toàn, xử lý chất thải… 10. Ngành nghề đầu tư chủ yếu mới chỉ là các dự án công nghiệp chế biến nông lâm sản, dệt da, may mặc… ít dự án kĩ thuật cao. Nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu đến từ các nước NICs, ít các nhà đầu tư từ Mỹ, EU. Địa bàn đầu tư tập trung ở các địa bàn thuận lợi về đầu tư như các thành phố lớn, gần cảng biển, sân bay quốc tế… Chưa hình thành hệ thống KCN, KCX gắn với địa bàn nông nghiệp nông thôn. V. Một số bài học kinh nghiệm trong thu hút FDI vào phát triển KCN, KCX Mô hình KCN, KCX không có tiền lệ trong lịch sử phát triển nền kinh tế Việt Nam. Vì thế muốn xây dựng mô hình KCN, KCX ở Việt Nam đòi hỏi phải nghiên cứu kinh nghiệm của các nước đi trước. Quá trình phát triển KCN, KCX là quá trình luôn tìm tòi sáng tạo từ tình hình thực tiễn đề xuất những cơ chế chính sách phù hợp với hoàn cảnh đặc biệt của nó, nhất là trong giai đoạn ban đầu có thể lấy KCN, KCX để thể nghiệm mô hình mới về quản lý nền kinh tế thị trường của đất nước. Có thể xem xét kinh nghiệm của Thái Lan, Malayxia và Trung Quốc trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX. Ngoài việc cải thiện các chính sách liên quan đến hoạt động của các công ty có vốn nước ngoài đã đầu tư để tạo nên hình ảnh tốt làm an tâm những xí nghiệp dự định đầu tư, kinh nghiệm của các nước trong khu vực gồm Thái Lan, Malayxia, Trung Quốc là luôn có những biện pháp tiếp thị tích cực hơn. Các nhà lãnh đạo cấp cao của Trung Quốc và Thái Lan là thường xuyên tiếp xúc và đưa ra yêu cầu cụ thể với những công ty đa quốc gia lớn mà họ muốn đầu tư, đến xây dựng các cụm điểm công nghiệp. Họ quảng bá điểm khác biệt trong các KCN, KCX của nước mình, phát huy giá trị gia tăng để thu hút đầu tư. Kết quả hiện nay là ngoại ô Bangkok có một quần thể sản xuất xe hơi và bộ phận xe hơi thứ ba ở châu Á. Còn Maylayxia trở thành một trong những trung tâm sản xuất đồ gia dụng nhiều nhất thế giới. Trong thập niên 90 thế kỷ 20, có hiện tượng các xí nghiệp Nhật chuyển các cơ sở sản xuất từ Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore sang Indonexia, Philipines và nhất là Trung Quốc. Không chỉ ở cấp trung ương mà các địa phương của Trung Quốc cũng đã tích cực trong việc thu hút FDI. Giá thuê đất rẻ không phải là yếu tố quyết định trong thu hút đầu tư. Theo các chuyên gia Thái Lan, chìa khoá cho sự thành công của các KCN, KCX là vị trí, dịch vụ cơ sở hạ tầng và năng lực quản lý. Xây dựng KCN, KCX trong vùng nghèo rẻ hơn trong khu vực phát triển, có chí phí lao động, đất đai, vật liệu thấp hơn. Nhưng ngược lại, chi phí hạ tầng cơ sở và chi phí chuyển cao hơn do đó các nhà đầu tư thường hướng đến các khu vực phát triển. Cuối cùng điều kiện thu hút đầu tư nền tảng nhất mà Trung Quốc và Thái Lan áp dụng là chính sách thu hút đầu tư vào KCN, KCX. Thái Lan đã cố gắng giảm thiểu chi phí đầu vào như nguyên liệu, nhiên liệu, cước viễn thông quốc tế, giá thuê đất và chi phí lưu thông hàng hoá, nới lỏng chính sách thuế thu nhập của người nước ngoài…Còn Trung Quốc cũng từ bỏ quan điểm “nới lỏng đầu vào, quản lý chặt đầu ra” như một số nước khác, điều mà nhà đầu tư nước ngoài gọi là “tiền hậu bất nhất”. Bài học kinh nghiệm trong thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN, KCX là “cho trước, lấy sau”. Ngoài ra, tại Trung Quốc, sự phát triển và phân bố các KCN, KCX theo nguyên tắc lấp đầy và phát triển có hiệu quả các KCN, KCX đã có, khi nào các KCN, KCX có tỷ lệ lấp đầy 60 – 70% diện tích thì mới cho phép triển khai các KCN, KCX tiếp theo. Thời gian gần đây, Trung Quốc cắt giảm tới 500 KCN, KCX nhằm hạn chế việc sử dụng quá mức và lãng phí quỹ đất canh tác. Trên đây là kinh nghiệm của những nước thành công trong quá trình xây dựng và phát triển KCN, KCX. Điều kiện của các nước này có nhiều điểm tương đồng với chúng ta. Vì vậy trên cơ sở đó chúng ta có thể học hỏi và tìm ra hướng đi riêng cho mình. PHẦN III NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO KCN, KCX I. Định hướng phát triển KCN, KCX Việt Nam đến năm 2010 1. Định hướng phát triển KCN, KCX Đối với mỗi vùng, miền trong cả nước, Đảng và nhà nước đều có những chủ trương, định hướng phát triển KCN, KCX riêng nhưng có thể tổng kết lại như sau. - Hoàn chỉnh và nâng cấp các KCN, KCX mở mang công nghiệp ở các tỉnh, không tập trung quá mức vào các đô thị lớn. - Phát triển có hiệu quả các KCN, KCX xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở. - Phát triển nhanh các loại hình dịch vụ, trước hết là thương mại, phát triển mạng lưới bưu chính viễn thông, cấp điện, cấp nước, xây dựng các trung tâm cụm xã, các đô thị trung tâm gắn với các KCN. - Đẩy mạnh thu hút FDI. Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới điện tử, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và các ngành Việt Nam có lợi thế gắn với công nghiệp hoá, tạo việc làm. Tập trung FDI vào các KCN, nghiên cứu đề án xây dựng khu kinh tế mở. 2. Mục tiêu phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN, KCX đến 2010 - Phát triển hệ thống KCN, KCX đảm bảo hình thành hệ thống KCN, KCX là một trong những giải pháp quan trọng phát triển công nghiệp toàn quốc gia. Hình thành hệ thống các KCN vừa và nhỏ tạo điều kiện phát triển khu vực nông thôn, làm thay đổi bộ mặt kinh tế nông thôn. - Nâng cao tỷ lệ lấp đầy các KCN, KCX tập trung đã được thành lập và đang đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Phấn đấu đến hết năm 2010 về cơ bản lấp đầy diện tích các KCN, KCX đã được thành lập, thành lập mới và mở rộng một cách có chọn lọc các KCN, KCX tập trung trên các vùng lãnh thổ, các địa phương với tổng diện tích tăng thêm khoảng 25000 ha, đó là: Vùng Tổng số KCN Trong đó Tổng diện tích (ha) Thành lập mới Mở rộng Trung du miền núi phía Bắc 16 15 1 2.058 Đồng bằng sông Hồng 31 25 6 6.084 Duyên hải Trung bộ 30 22 8 4.834 Tây Nguyên 3 3 0 354 Đông Nam Bộ 23 18 5 4.381 Đồng bằng sông Cửu Long 25 18 7 5.102 Cả nước 128 101 27 22.813 Nguồn : Bộ kế hoạch và đầu tư - Đưa tỷ lệ đóng góp của các KCN, KCX vào tổng giá trị sản xuất công nghiệp từ mức 26% hiện nay lên khoảng 35% vào năm 2010. Tăng tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghiệp từ 19% giá trị xuất khẩu quốc gia hiện nay lên 35% vào năm 2010. Mục tiêu cụ thể - Tiếp tục đầu tư đồng bộ, thành lập mới một cách có chọn lọc khoảng 25.000 ha đất KCN, KCX, phấn đấu đạt tỷ lệ lấp đầy trên toàn quốc khoảng trên 60%. - Tiếp tục đổi mới thể chế, chính sách khuyến khích đầu tư vào KCN, KCX, phấn đấu thu hút thêm khoảng 4.000 dự án ( bao gồm các dự án trong nước và nước ngoài), ký đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh trong KCN, KCX, phấn đấu đạt tốc độ giải ngân, thực hiện khoảng 2 tỷ USD/ năm ( cả vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài). - Sau thời kỳ 2010, quản lý tốt và có qui hoạch sử dụng hợp lý dự trữ diện tích đất công nghiệp, hoàn thiện về cơ bản mạng lưới KCN, KCX trên toàn lãnh thổ, quản lý, chuyển đổi cơ cấu đầu tư phát triển các KCN, KCX được thành lập trước đầy theo hướng đồng bộ hoá, hình thành những “công viên công nghiệp” nhằm đổi mới, nâng cao hiệu quả của các KCN, KCX. - Xây dựng khu xử lý chất thải rắn công nghiệp tập trung qui mô lớn ở những khu vực bố trí tập trung các KCN, KCX như tại các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và vùng kinh tế trọng điểm miền Trung… hoàn chỉnh các công trình kết cấu hạ tầng trong các KCN, KCX hiện đang hoạt động, đặc biệt là các công trình xử lý nước thải. 3.Phương hướng nhằm phát triển và thu hút FDI vào các KCN, KCX - Đa dạng hoá các loại hình KCN, KCX, không chỉ quan tâm đến các KCN, KCX qui mô lớn và tương đối lớn ở đô thị và ven đô mà còn phải chú trọng đến KCN có qui mô nhỏ ở nông thôn để thúc đẩy CNH - HĐH nông nghiệp và nông thôn, thu hẹp khoảng cách phát triển vùng. Chú trọng thu hút đầu tư vào các KCN, KCX đã được hình thành, nâng cao sức hấp dẫn và hiệu quả đầu tư vào KCN, KCX. - Đẩy nhanh tốc độ lấp đầy KCN, KCX bằng đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài và vốn đầu tư trong nước. - Nâng cao chất lượng KCN, KCX hiện có hơn là mở ồ ạt các KCN, KCX. II.Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, KCX Sự hấp dẫn của môi trường đầu tư để thu hút đấu tư vào KCN có thể được tổng hợp trong bảng sau: STT Chỉ Tiêu Cũ Mới 1 Lao động Rẻ, không có tay nghề Có trình độ và chất lượng 2 Thuế Thuế thấp,dịch vụ thấp Thuế vừa phải, dịch vụ cao 3 Ưu thế Chi phí sản xuất thấp, đất rẻ Giá trị tăng, lao động chuyên môn hoá và năng động 4 Tiện nghi Nhà ở và giao thông Thêm các dịch vụ giải trí, trông tin 5 Trường học Có trường học Trường học chất lượng cao 6 Điện nước Giá rẻ Độ tin cậy cao 7 Thông tin Mặc định Tiếp cận với công nghệ cao 8 Kinh doanh Phòng thương mại tích cực Đối tác và hợp tác 9 Quản lý nhà nước Quảnlý nhà nước ở mức tối thiểu Linh hoạt, tương thích với kinh doanh và đời sống Căn cứ vào các tiêu thức trên, đồng thời căn cứ vào những khó khăn trong thu hút FDI và những bài học kinh nghiệm thành công trong việc xây dựng và phát triển KCN, KCX ta có thể đưa ra một số các giải pháp phù hợp để tăng hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN. 1. Nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện qui hoạch phát triển KCN, KCX - Quy hoạch phát triển trên KCN, KCX có liên quan trực tiếp đến quy hoạch tổng thể của vùng, qui hoạch phát triển các ngành công nghiệp và sử dụng đất đai. Do vậy, quy hoạch KCN, KCX cần phải làm trước nhiều năm và hàng năm có rà soát, điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện. Kinh nghiệm của các nước cùng cho thấy một trong các nguyên nhân tạo ra thành công hay thất bại của các KCN, KCX là việc chọn địa điểm xây dựng, lựa chọn ngành, sản phẩm của KCN, KCX. Do vậy trong quá trình qui hoạch cần phải quan tâm đến. - Khả năng thu hút đầu tư lấp đầy KCN, KCX trước mắt tập trung thu hút các nhà đầu tư đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. - Chú trọng khuyến khích các thành phần kinh tế bao gồm cả đầu tư nước ngoài tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội trong và ngoài hàng rào KCN, KCX. - Đa dạng hoá các loại KCN, KCX để đáp ứng nhiều nhu cầu khác nhau của nhà đầu tư. Ngoài các KCN, KCX đa nghề, nên hình thành các KCN, KCX chuyên ngành. Các KCN, KCX được xây dựng hài hoà trong khu liên hiệp công nghiệp-dịch vụ-đô thị sẽ tạo ra nhiều cơ hội thu hút vốn đầu tư. - Quy hoạch cơ cấu đầu tư theo ngành nghề có lợi thế, phù hợp với yêu cầu của thị trường. 2. Xây dựng đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng KCN, KCX có chất lượng. Đây là một yêu cầu quan trọng hàng đầu để hấp dẫn các nhà đầu tư. Để có thể xây dựng được cơ sở hạ tầng đạt yêu cầu, chất lượng đáp ứng được nhu cầu của nhà đầu tư, chúng ta nên có những chính sách khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng bằng cách có những chính sách ưu đãi hơn khi họ đồng thời đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN, KCX mà họ đã tiến hành đầu tư xây dựng. 3. Đào tạo nguồn nhân lực, năng cao trình độ tay nghề và chuyên môn cho người lao động. Một nghịch lý hiện nay của các KCN, KCX là thiếu lao động kĩ thuật, có tay nghề, trong khi số lao động dư thừa chưa được đào tạo lại gia tăng. Yêu cầu về trình độ lao động trong KCN, KCX thể hiện nhiều mặt, ngoài trình độ tay nghề, chuyên môn còn phải có tác phong trong làm việc, có kĩ thuật…mới đáp ứng được các yêu cầu của công nghệ quản lý, sản xuất hiện đại. Mặt khác, hiện nay khi lao động rẻ và dồi dào không còn chiếm được ưu thế trong thu hút FDI như trước. Do vậy cần có giải pháp để đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực nâng cao tay nghề cho người lao động phù hợp với yêu cầu về nguồn nhân lực trong từng địa phương, giai đoạn. - Đối với các địa phương, ngay từ giai đoạn đầu khi lập dự án xây dựng KCN, KCX cần có sự phối hợp giữa các ban, ngành liên quan với các chủ đầu tư hạ tầng để nắm cơ cấu ngành nghề trong KCN, KCX từ đó dự báo nhu cầu lao động của các doanh nghiệp trong KCN, KCX để chủ động đào tạo lao động cho các doanh nghiệp. - Thành lập các cơ sở đào tạo nghề tại những nợi dự kiến phát triển KCN, KCX để trực tiếp đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp. Có chính sách khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao động địa phương. - Hình thành các quĩ đào tạo nghề chung nhằm giảm bớt chi phí đào tạo nghề cho các doanh nghiệp. 4. Cải cách thủ tục hành chính, thực hiện nguyên tắc quản lý “một cửa, tại chỗ “. - Nội dung + Ban quản lý được chính phủ cấp con dấu quốc huy. Với con dấu này ban quản lý được Bộ kế hoạch và Đầu tư uỷ quyền cấp giấy phép đầu tư dự án từ 40 triệu USD trở lại đối với KCX và 10 triệu USD trở lại đối với KCN. Đồng thời được các bộ: Thương mại, Tài chính, Lao động-Thương binh và Xã hội… uỷ quyền quản lý sau giấy phép. + Để quản lý có hiệu quả cơ chế một nửa, Ban quản lý phải quản lý theo quy trình hoạt động ở những khâu quản lý then chốt. Bản quy trình quản lý phải được công khai để nhà đầu tư biết chấp hành và thực hiện. + Để đảm bảo thực hiện cơ chế một nửa, bộ máy phải phù hợp và đội ngũ cán bộ quản lý phải đảm bảo năng lực đáp ứng yêu cầu công việc được phân công trên tinh thần chủ động sáng tạo. + Với cơ chế “ một cửa, tại chỗ”, Ban quản lý được quyền xin ý kiến trực tiếp Chính phủ và các cán bộ về những vấn đề chuyên môn mà nhà đầu tư đặt ra vượt ngoài quyền hạn của mình để giải quyết kịp thời nhu cầu nhà đầu tư (theo Quyết định 100/CP của Chính phủ) + Khi nhà đầu tư có nhu cầu, chỉ cần đến Ban quản lý làm đầu mối phối hợp để giải quyết các thủ tục một cách nhanh chóng thuận tiện. - Tác dụng + Đơn giản tối đa các thủ tục hành chính điển hình là thủ tục cấp phép đầu tư. Nếu nhà đầu tư làm đầy đủ các thủ tục thì được giải quyết trong vòng từ 3-5 ngày, có giấy phép chỉ trong vòng một ngày là cấp phép. Thủ tục về xây dựng được giải quyết trong vòng 15 ngày. + Tiết kiệm được rất lớn về thời gian, tiền bạc và giảm thiểu phiền hà cho nhà đầu tư. + Xoá được cơ chế hành chính quan liêu bao cấp, tạo điều kiện ban quản lý tiếp cận với nền kinh tế thị trường và phương thức quản lý hiện đại tiên tiến. + Rèn luyện tính năng động sáng tạo cho đội ngũ cán bộ. + Phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp từ trung ương đến địa phương. Có thể minh hoạ cơ chế “ một cửa, tại chỗ “ bằng sơ đồ sau: Hành Chính Tài Chính Hải Quan Xuất Nhập Khẩu Lao Động Xây Dựng Môi Trường An Ninh Các bộ và cơ quan quản lý nhà nước Ban quản lý KCN, KCX Doanh nghiệp KCN, KCX Dịch Vụ Ban quản lý có thẩm quyền giải quyết, làm đầu mối qiải quyết các vấn đề có liên quan đến hoạt động của KCN, KCX. Khi doanh nghiệp KCN, KCX có yêu cầu giải quyết một vấn đề có liên quan hoạt động sản xuất kinh doanh doanh nghiệp chỉ cần làm việc trực tiếp với ban quản lý KCN, KCX. Để giải quyết công việc, ban quản lý sẽ làm việc với các bộ, ngành có liên quan. Nếu các vấn đề thuộc phạm vi trách nhiệm của mình, ban quản lý toàn quyền quyết định. Ngược lại, vượt quá quyền hạn của ban quản lý thì ban quản lý phải phối hợp với các bộ và cơ quan quản lý nhà nước giải quyết. Rõ ràng, cơ chế “một cửa, tại chỗ” tạo cho nhà đầu tư những điều kiện nhanh chóng, thuận lợi để tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh. Do vậy, chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế này. 5. Hoàn thiện các văn bản pháp luật về KCN, KCX, thể chế và phương thức điều hành đối với KCN, KCX Các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam thường e ngại sự thay đổi của các văn bản pháp luật thường xuyên, việc áp dụng luật còn mâu thuẫn, trái ngược. Do vậy, để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX phải hoàn thiện các văn bản về KCN, KCX. - Khẩn trương rà soát các văn bản pháp luật, xoá bỏ và sửa đổi những qui định hạn chế cạnh tranh, phân biệt đối xử, không còn phù hợp với kinh tế thị trường và cam kết quốc tế, trước hết về ngành nghề kinh doanh, vay vốn, đất đai. - Thực hiện chương trình xây dựng pháp luật trên cơ sở nhu cầu đã được đánh giá, xây dựng khuôn khổ pháp luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, xây dựng khung pháp luật thống nhất đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trên cơ sở thống nhất Luật khuyến khích đầu tư trong nước với Luật đầu tư nước ngoài và xây dựng pháp lệnh KCN. - Tăng cường cung cấp thông tin, thực hiện chế độ công khai, minh bạch công bố đầy đủ, kịp thời các văn bản pháp luật có liên quan đến KCN, KCX. - Thể chế hoá việc đối thoạigiữa doanh nghiệp trong KCN, KCX với ban quản lý, các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương. - Kiện toàn đội ngũ cán bộ ban quản lý KCN, KCX. Yêu cầu có đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học…Nhờ đó, mới có thể áp dụng, thực hiện quản lý có hiệu quả trên cơ sở thực hiện đúng các văn bản pháp luật. 6. Xây dựng các chính sách thu hút đầu tư ngắn hạn mang tính chiến thuật cao - Phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu trong thu hút FDI. Cần tập trung thu hút có trọng điểm vào một số quốc gia khu vực châu Á có mức di chuyển tư bản cao, đã đầu tư và hoạt động có hiệu quả tại Việt Nam. Chú trọng thu hút vốn đầu tư từ các tập đoàn kinh tế châu Âu và Bắc Mỹ. Điều mấu chốt là sử dụng số liệu thống kê cụ thể trong phân tích và lựa chọn quốc gia cần thu hút. - Đẩy mạnh công tác Marketing đầu tư thiết lập trung tâm xúc tiến đầu tư với tính chuyên môn hoá cao. Công tác xúc tiến thu hút FDI cần phải mang tính thực tiễn cao, tức xúc tiến phải nhấn mạnh nguyên tắc “ tìm kiếm nhà đầu tư thay vì đợi các nhà đầu tư tìm đến”, tránh xúc tiến đầu tư chung chung. Cụ thể : + Nghiên cứu, phân tích các nhà đầu tư có qui mô lớn, các tập đoàn, các Công ty xuyên quốc gia đã hoạt động kinh doanh có hiệu quả tại các KCN, KCX Việt Nam. Trên cơ sở đó, sử dụng hình thức xúc tiến thích hợp (thư mời, điện thoại, email, gặp trực tiếp, gián tiếp, qua trung gian…), kết hợp hội thảo trực tiếp với các nhà đầu tư đó nhằm thu hút vốn đầu tư từ họ (khuyến khích họ mở rộng qui mô đầu tư tại Việt Nam). Tránh tình trạng hội thảo chung chung như đã thực hiện trong thời gian qua. + Sử dụng các kênh trung gian trong xúc tiến FDI từ các quốc gia trong thị trường mục tiêu đã chọn.Thông qua các tổ chức trung gian như: các đại sứ quán, các trung tâm xúc tiến thương mại quốc tế, các hiệp hội, các công ty tư vấn xúc tiến đầu tư quốc tế… để tiếp cận với các nhà đầu tư lớn, các công ty xuyên quốc gia tại các thị trường mục tiêu đã lựa chọn. Đối với các quốc gia tiềm năng, cách trở về mặt địa lý nhưng có qui mô di chuyển vốn ra nước ngoài lớn, đã đầu tư nhiều tại châu Á, cần áp dụng các hình thức xúc tiến gián tiếp (qua email, môi giới đầu tư…) để marketing hiệu quả. 7. Chú trọng thu hút các dự án FDI vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng Cần có chính sách ưu đãi đặc biệt đối với các dự án đầu tư xây dựng KCN, KCX (chính sách giao đất, hỗ trợ đào tạo, thuế…) Kinh nghiệm cho thấy việc xây dựng các KCN, KCX nên để các nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn làm, bởi phía nước ngoài có trách nhiệm và quan hệ để mời gọi đầu tư. Bên cạnh đó, có thể thực hiện nguyên tắc “ mượn gà đẻ trứng” bằng biện pháp huy động vốn ứng trước của các chủ đầu tư nước ngoài sẽ sử dụng hoặc hưởng lợi trực tiếp từ công trình đó, các nhà đầu tư này sẽ thuê công trình với điều kiện hết sức ưu đãi. Tìm nguồn ODA phối hợp với các nguồn khác (ngân sách, phát hành trái phiếu…) để đẩy nhanh xây dựng, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng. Đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng đối với các dự án đầu tư, giao đất đủ, kịp thời cho các nhà đầu tư nước ngoài, tạo mọi điều kiện thuận lợi để dự án sớm đi vào hoạt động. 8. Chú trọng mạnh mẽ thu hút FDI từ các Việt kiều, các doanh nghiệp Việt kiều Cần có chính sách phù hợp tạo cơ chế cho phép người nước ngoài được mua nhà ở định cư lâu dài (theo thời gian hoạt động của dự án), đặc biệt đối với Việt kiều. 9. Khuyến khích các loại hình dịch vụ hợp pháp phát triển Các loại hình dịch vụ này sẽ đáp ứng các yêu cầu khác nhau, đa dạng của nhà đầu tư nước ngoài. Chú trọng khuyến khích các dự án FDI có hàm lượng khoa học công nghệ cao, hiện đại, phục vụ xuất khẩu, bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh thu hút FDI vào ngành du lịch nhằm phát huy triệt để tiềm năng vốn có. Khuyến khích và tạo thuận lợi về mặt thủ tục cho các dự án có qui mô vốn lớn, công nghệ hiện đại được thực hiện chính sách khấu hao nhanh, từ đó tăng tốc độ tái đầu tư của các dự án. Tạo cơ chế giúp các nhà đầu tư nước ngoài có thể dễ dàng tiếp cận được với các tổ chức tín dụng trên địa bàn trong việc vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh cũng như chuyển đổi ngoại tệ trong quan hệ giao dịch xuất nhập khẩu. 10. Cải thiện môi trường kinh doanh, giảm chi phí - Khuyến khích cạnh tranh, kiểm soát độc quyền kinh doanh kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN, KCX như: mở rộng cạnh tranh trong xây dựng và cung cấp các dịch vụ hạ tầng trong và ngoài KCN, KCX, mở rộng đấu thầu quyền cung cấp các dịch vụ, áp dụng chế độ quản lý phù hợp với nền kinh tế thị trường, tạo nguồn thu nhập để tự trang trải chi phí và tích luỹ để đầu tư. - Giảm thuế và các chi phí, bao gồm: loại bỏ những chi phí bất hợp lệ đối với doanh nghiệp trong KCN, KCX ở tất cả các khâu vận tải, bốc dỡ, hải quan, thuế… xoá bỏ chế độ phụ thu đối với sản phẩm xuất khẩu và nhập khẩu. Giảm thuế xuất khẩu đối với những mặt hàng không hạn chế nhập khẩu, giảm mức thu đối với những loại phí và lệ phí quá cao so với các nước trong khu vực. Xem xét lại mức đóng góp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế… Đẩy nhanh tiến độ điều chỉnh giá, phí hàng hoá, dịch vụ. KẾT LUẬN Mặc dù Việt Nam xây dựng KCN, KCX muộn hơn các nước trong khu vựcvà trên thế giới nhưng không vì vậy mà nó mất đi tính thời sự. Hơn mười năm xây dựng và phát triển KCN, KCX chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong thu hút vốn đầu tư, du nhập công nghệ mới, giải quyết việc làm, thúc đẩy xuất khẩu, đổi mới cơ chế quản lý. Trên cơ sở đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lực lượng lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Sức lớn mạnh và ảnh hưởng của KCN, KCX là thực tế đáng mừng song cũng còn tồn tại nhiều bất cập trong quá trình xây dựng và hoạt động của các KCN, KCX. Trong đề tài này, em đã tiến hành nghiên cứu, xem xét những thành công cũng như những hạn chế và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển KCN, KCX. Đề tài nghiên cứu của em còn có nhiều thiếu sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để em có thể bổ sung, hoàn thiện đề tài của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình “Kinh tế đầu tư” nhà xuất bản thống kê năm 2004. 2. Giáo trình “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam thực trạng và giải pháp” nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 2005. 3. Tài liệu “Đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ”. 4. Kỷ yếu khu công nghiệp, khu chế xuất Việt Nam 2002. 5. Tạp chí “ Thông tin khu công nghiệp Việt Nam” tháng 3,5,8,9 /2005. 6. Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao ban hành kèm NĐ 36-CP ngày 24/4/1997 của Chính phủ. 7. Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi 9/6/2000. 8. Nghị định 27/2003/NĐ-CP ngày 19/3/2003 sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2000/ NĐ-CP ngày 31/7/2000). 9. Nghị định 164/2003/NĐ-CP ngày 22/12/2003. 10. Nghị định 152/2004/NĐ-CP ngày 6/8/2004. 11. www.mpi.gov.vn. 12. www.hepza.gov.vn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc69464.DOC
Tài liệu liên quan