Tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua. Thực trạng và giải pháp: LỜI MỞ ĐẦU
Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người, nông nghiệp luôn luôn giữ một vai trò quan trọng, là ngành sản xuất lương thực, thực phẩm cho xã hội, nhiều nguyên liệu cho công nghiệp, nhiều hàng cho xuất khẩu (khi ngoại thương phát triển). Bước vào thế kỷ XXI, với những thách thức về an ninh lương thực, dân số, môi trường sinh thái,… nông nghiệp được dự báo là vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng ấy. Trong thế kỷ XX, nông nghiệp thế giới đã có những bước tiến vượt bậc, phát triển từ giai đoạn sản xuất nông nghiệp truyền thống sang giai đoạn hiện đại hoá nông nghiệp, nhờ vậy kinh tế nông thôn và đời sống của người dân nông thôn cũng có nhiều chuyển biến. Đặc biệt, trong vài thập kỷ trở lại đây, với sự tiến triển nhanh chóng của những xu thế lớn trên thế giới, như cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế thị trường hiện đại, kinh tế tri thức,… nhận thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã có những sự thay đổi.
Ở Việt Nam chún...
46 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua. Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Nhìn lại lịch sử phát triển của xã hội loài người, nông nghiệp luôn luôn giữ một vai trò quan trọng, là ngành sản xuất lương thực, thực phẩm cho xã hội, nhiều nguyên liệu cho công nghiệp, nhiều hàng cho xuất khẩu (khi ngoại thương phát triển). Bước vào thế kỷ XXI, với những thách thức về an ninh lương thực, dân số, môi trường sinh thái,… nông nghiệp được dự báo là vẫn tiếp tục giữ vai trò quan trọng ấy. Trong thế kỷ XX, nông nghiệp thế giới đã có những bước tiến vượt bậc, phát triển từ giai đoạn sản xuất nông nghiệp truyền thống sang giai đoạn hiện đại hoá nông nghiệp, nhờ vậy kinh tế nông thôn và đời sống của người dân nông thôn cũng có nhiều chuyển biến. Đặc biệt, trong vài thập kỷ trở lại đây, với sự tiến triển nhanh chóng của những xu thế lớn trên thế giới, như cách mạng khoa học và công nghệ, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế, kinh tế thị trường hiện đại, kinh tế tri thức,… nhận thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân đã có những sự thay đổi.
Ở Việt Nam chúng ta, một đất nước còn nặng về nông nghiệp, những thành tựu của 20 năm đổi mới vừa qua, đặc biệt là công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,… đã góp phần làm thay đổi nhận thức về nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Nghị quyết 5 của Trung ương khoá IX đã đặt giải pháp về công tác quy hoạch ở vị trí đầu tiên trong hệ thống giải pháp nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong thời kỳ 2001- 2010. Nghị quyết khẳng định: “Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn phải đặt trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế- xã hội cả nước, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ và thị trường;… Chú trọng làm tốt quy hoạch những vùng sản xuất hàng hoá tập trung(cây con, sản phẩm, ngành nghề…); quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; quy hoạch phát triển khu dân cư, xây dựng làng, xã, thị trấn; gắn kết chặt chẽ với an ninh - quốc phòng, phòng chống, hạn chế, giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc".
Trong thời gian qua, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực nông lâm nghiệp còn hết sức hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng cũng như thế mạnh của Việt Nam và ngày càng có xu hướng giảm sút. Mặt khác, so với hoạt động FDI trong các lĩnh vực khác, hiệu quả thực hiện các dự án trong lĩnh vực này còn rất hạn chế. Do vậy, em xin được chọn đề tài: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua. Thực trạng và giải pháp làm đề án môn học cho mình.
Ngoài lời mở đầu & kết luận nội dung bài đề án môn học gồm 3 phần:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung
Chương II: Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam trong thời gian qua
Chương III: Một số giải pháp nhằm thu hút và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam
Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, thời gian chuẩn bị không nhiều nên bài đề án môn học không tránh khỏi thiếu sót, kính mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến để em có thể học hỏi, rút kinh nghiệm, cũng như trau dồi kiến thức cho bản thân. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô giáo Hoàng Thị Hoài Hương đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thiện đề án môn học của mình trong thời gian qua.
CHƯƠNG I – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I. Lý luận chung về hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI )
1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Theo quỹ tiền tệ quốc tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài là số vốn đầu tư được thực hiện nhằm thu lợi lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư. Ngoài mục đích lợi nhuận, nhà đầu tư mong muốn tìm được chỗ đứng trong quản lý doanh nghiệp.
Về thực chất, khái niệm này đã khẳng định tính lâu dài trong hoạt động đầu tư và động cơ của các nhà đầu tư là tìm kiếm lợi nhuận và kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp và mở rộng thị trường.
Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế, đầu tư trực tiếp nước ngoài phản ánh những lợi ích khách quan lâu dài mà một thực thế kinh tế tại một nước (nhà đầu tư ) đạt được thông qua một cơ sở kinh tế tại một nền kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư (doanh nghiệp đầu tư trực tiếp). Lợi ích lâu dài bao gồm sự tồn tại của một mối quan hệ giữa nhà đầu tư và doanh nghiệp đầu tư cũng như nhà đầu tư giành được ảnh hưởng quan trọng và có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó. Đầu tư trực tiếp bao hàm sự giao dịch ngay từ đầu và tất cả những giao dịch vốn tiếp sau giữa hai thực thể và các doanh nghiệp liên kết một cách chặt chẽ.
Như vậy, động cơ chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài là phần vốn được sử dụng ở nước ngoài gắn liền với việc tạo ra ảnh hưởng trực tiếp hoặc phục vụ việc kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiếp nhận phần vốn đó.
Luật đầu tư 2005 mà Quốc hội khóa XI của Việt Nam đã thông qua khái niệm về “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài”. FDI là một hình thức đầu tư do nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở Việt Nam hoặc nhà đầu tư Việt Nam bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Tóm lại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một khoản đầu tư đòi hỏi một mối quan tâm lâu dài và phản ánh lợi ích dài hạn và quyền kiểm soát của một chủ thể cư trú ở một nền kinh tế( được gọi là chủ đầu tư trực tiếp nước ngoài hoặc doanh nghiệp mẹ) trong một doanh nghiệp cư trú ở một nền kinh tế khác nền kinh tế của chủ đầu tư nước ngoài( được gọi là doanh nghiệp FDI hay doanh nghiệp chi nhánh hay chi nhánh nước ngoài).
2. Phân loại
2.1. Phân loại theo tỷ lệ sở hữu vốn
2.1.1. Vốn hỗn hợp ( vốn trong nước và nước ngoài )
2.1.1.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh
Hợp đồng hợp tác kinh doanh rất đa dạng, thường được áp dụng phổ biến trong các lĩnh vực thăm dò, khai thác dầu khí, công nghiệp gia công và dịch vụ. Các bên tham gia hợp đồng vẫn là những pháp nhân riêng, thời hạn hợp đồng thường ngắn. Do vậy loại hình này thích hợp với các nhà đầu tư nước ngoài có ít tiềm lực về vốn.
2.1.1.2. Doanh nghiệp liên doanh (công ty liên doanh)
Là hình thức tổ chức kinh doanh quốc tế do hai bên hoặc các bên nước ngoài cùng hợp tác với nước chủ nhà trên cơ sở góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty TNHH, có tư cách pháp nhân theo luật pháp của nước nhận đầu tư.
Doanh nghiệp liên doanh là loại hình thường được nước chủ nhà ưa chuộng vì hầu hết các doanh nghiệp liên doanh khi đầu tư, kinh doanh ở nước chủ nhà, họ thường phải mang theo các thiết bị khoa học kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý hiện đại.
Tuy nhiên loại hình đầu tư này thường được nước chủ nhà áp dụng chủ yếu đối với đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng để đạt được kết quả mong muốn thì việc áp dụng hình thức này đòi hỏi nước chủ nhà phải có khả năng góp vốn, các nhà quản lý doanh nghiệp phải có đủ trình độ và năng lực quản lý, tiếp thu và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, hiện đại của nước ngoài.
2.1.1.3. Doanh nghiệp cổ phần FDI ( hay công ty cổ phần)
Là doanh nghiệp có các cổ đông nước ngoài và trong nước (cổ đông có thể là các cá nhân hoặc tổ chức) nhưng cổ đông nắm quyền chi phối có quốc tịch nước ngoài, đây là hình thức doanh nghiệp hiện đại. Tuy đều là doanh nghiệp có vốn hỗn hợp song doanh nghiệp cổ phần FDI có cơ cấu tổ chức và cách thức hoạt động rất khác so với doanh nghiệp liên doanh.
2.1.2. Doanh nghiệp 100% vốn FDI
Là doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà và họ tự quản lý, chịu trách nhiệm hoàn toàn về các kết quả sản xuất kinh doanh. Đây là hình thức đầu tư được các nhà đầu tư nước ngoài ưa chuộng bởi ngoài việc phải tuân thủ những quy định có tính pháp luật của nước chủ nhà thì bên phía nước ngoài toàn quyền trong việc điều hành và quản lý doanh nghiệp của mình, không mất nhiều thời gian tìm tiếng nói chung với những người cùng tham gia điều hành như hình thức liên doanh.
Một số dạng đặc biệt của hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài là :
- Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao ( building – operate - transfer) BOT.
- Hợp đồng xây dựng – chuyển giao – kinh doanh ( building – transfer – operate) BTO.
- Hợp đồng xây dựng – chuyển giao ( building – transfer) BT.
2.2. Phân loại theo mục tiêu
FDI phụ thuộc vào mục tiêu của chủ đầu tư mà có thể chia ra làm đầu tư theo chiều rộng ( chiều ngang – HI) và đầu tư theo chiều sâu ( chiều dọc – VI).
2.2.1. Đầu tư theo chiều rộng ( HI)
Là hình thức chủ đầu tư có lợi thế cạnh tranh trong việc sản xuất một sản phẩm nào đó (công nghệ, kỹ năng quản lý...) và chuyển việc sản xuất sản phẩm này ra nước ngoài.
2.2.2. Đầu tư theo chiều sâu ( VI )
Là hình thức mà chủ đầu tư chú ý đến việc khai thác nguồn nguyên liệu tự nhiên dồi dào và lao động rẻ ở nước ngoài để sản xuất các sản phẩm có thể nhập lại về nước mình hay xuất khẩu sang nước khác.
2.3. Phân loại theo phương thức thực hiện
FDI có thể thực hiện theo 2 hướng là đầu tư mới ( greenfield ) hoặc sáp nhập và mua lại ( M&A – Merger and Acquisition ).
2.3.1. Đầu tư mới
Là việc chủ đầu tư thực hiện đầu tư ở bằng cách xây dựng các doanh nghiệp mới ở nước ngoài, đây là hướng đi truyền thống và thường được chủ đầu tư của các nước phát triển áp dụng ở nước đang phát triển.
2.3.2. Sáp nhập hoặc mua lại
Sáp nhập hoặc mua lại các công ty của nước khác thường được tiến hành giữa các nước phát triển, các NICs và rất phổ biến trong những năm gần đây.
Các nước đang phát triển chủ yếu lựa chọn phương thức đầu tư mới do ở các nước này năng lực sản xuất còn thiếu và yếu. Đầu tư mới sẽ giúp hình thành nên hàng loạt cơ sở sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong những lĩnh vực mới mà nhà nước nhận đầu tư chưa từng có.
3. Vai trò của đầu tư nước ngoài
3.1. Vai trò đối với nước đi đầu tư
Dựa trên lý thuyết xuất khẩu tư bản của Lênin thì FDI là yếu tố sống còn của CNTB, do đó mục đích tiến hành đầu tư ra nước ngoài nhằm :
- Mục đích kinh tế : tìm kiếm lợi nhuận.
Kéo dài chu trình sống của công nghệ đã cũ, khi trong nước không còn điều kiện phát triển thì họ có thể mang đi đầu tư ở những nước có trình độ công nghệ thấp hơn kéo dài chu trình sống cho sản phẩm và công nghệ, nhờ vậy mà tạo thêm được lợi nhuận.
Tạo ra nguồn cung cấp nguyên vật liệu mới.
- Trong trường hợp các nước phát triển đầu tư sang nhau thì một mục đích rất rõ rệt là hợp tác và liên kết cùng với nhau để cùng phát triển, hạn chế bớt sự cạnh tranh không cần thiết.
3.2. Vai trò đối với nước chủ nhà
3.2.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Vốn đầu tư là yếu tố quyết định đối với sự tăng trưởng kinh tế của mọi quốc gia. Dạng đơn giản nhất của mô hình Harrod – Domar. Ý nghĩa của mô hình này là để đạt được mức tăng trưởng mong muốn, cần có một tỷ lệ đầu tư trên GDP xác định. Nếu thiếu đầu tư thì không thể đạt được tốc độ tăng trưởng dự định. Đầu tư có thể được tích tụ bằng cách tiết kiệm trong nước, song cũng có thể thu nhận từ nước ngoài.
3.2.2. Tạo cơ hội mở rộng thị trường
Các chính sách giảm thuế xuất nhập khẩu, bãi bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan, chính sách tỷ giá hối đoái tự do đã làm cho hoạt động thương mại ở các nước tham gia vào toàn cầu hoá có điều kiện tăng số lượng và các chủng loại sản phẩm xuất khẩu. Điều này khiến cho mỗi nước phải khai thác tối đa lợi thế so sánh của nước mình để tận dụng cơ hội cho xuất khẩu, đồng thời tăng cường quan hệ song phương và đa phương với các nước khác.
Trong quá trình hội nhập, điều dễ nhận thấy nhất là thị trường vốn liên kết chặt chẽ với nhau hơn, nhiều nước đang phát triển hội nhập nhanh hơn, mạnh hơn với thị trường tài chính toàn cầu.
Việc các nước đang phát triển loại bỏ được kiểm soát dòng vốn qua biên giới, đặc biệt là các dòng vốn chảy vào và dỡ bỏ dần những hạn chế trong thanh toán và giao dịch thông qua tài khoản đã đẩy nhanh hơn tốc độ liên kết kinh tế quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư nước ngoài. Điều đó cũng có nghĩa là các nước có cơ hội để phát triển và mở rộng thị trường để tiêu thụ sản phẩm, có điều kiện thu hút vốn đầu tư từ các nhà đầu tư nước ngoài, các nguồn viện trợ phát triển của các nước và các định chế tài chính quốc tế như ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng phát triển châu Á , có điều kiện tiếp nhận công nghệ tiên tiến thông qua các dự án đầu tư. Thông qua FDI, các công ty trong nước có điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu và nhập khẩu, tăng quy mô sản xuất cũng như khả năng tiếp cận đến mạng lưới tiếp thị quốc tế.
Tuy nhiên, mức độ khai thác các tiềm năng này phụ thuộc rất nhiều vào chính sách thu hút FDI của nước tiếp nhận đầu tư. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có thể là một động lực mạnh mẽ cho phát triển và tăng trưởng ở các nước đang phát triển, nhưng nó cũng có thể gây rối loạn cho quá trình phát triển nếu không được quản lý cẩn trọng. Các nguy cơ tiềm ẩn đối với đầu tư nước ngoài có thể là yêu cầu bảo vệ thị trường nội địa (qua đó làm méo mó thị trường); mất khả năng kiểm soát đối với các ngành thuộc sở hữu nước ngoài; chịu ảnh hưởng lớn hơn trước những cú sốc từ bên ngoài.
3.2.3. Góp phần nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ
Thông qua các doanh nghiệp có vốn FDI, những công nghệ tiên tiến, hiện đại trong các lĩnh vực như viễn thông, khai thác dầu khí, hoá chất, sẽ được du nhập vào đất nước, tạo sự phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn. Các doanh nghiệp có có vốn đầu tư nước ngoài có trình độ công nghệ cao hơn sẽ có tác dụng thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước đổi mới công nghệ và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế.
3.2.4. Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Ngày nay sự giàu có và khả năng cạnh tranh của một quốc gia không còn đơn thuần phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có mà phần lớn phụ thuộc vào chất lượng của nguồn nhân lực. Do vậy, một trong những cách tốt nhất để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế bởi ở đó người lao động có điều kiện nâng cao trình độ, tay nghề và kỹ năng sản xuất. Hơn nữa môi trường cạnh tranh để tìm kiếm việc làm trong điều kiện hội nhập kinh tế thế giới, người lao động buộc phải tìm tòi, học hỏi và thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, ngoại ngữ, ý thức kỷ luật... để đáp ứng nhu cầu tuyển dụng của các công ty, xí nghiệp trong và ngoài nước.
Một trong những biện pháp có thể nói là hữu hiệu nhất đối với các quốc gia trong việc giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là việc tăng cường thu hút nguồn vốn FDI. Đối với các quốc gia đang phát triển, lực lượng lao động dồi dào nhưng trình độ lại không cao nên thời kỳ đầu thực hiện CNH, những nước này thường đưa ra những chính sách khuyến khích FDI vào các lĩnh vực, ngành nghề sử dụng nhiều lao động như: công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng để tận dụng lao động địa phương. Hơn nữa, nhiều nhà đầu tư khu vực châu Á cũng có xu hướng đầu tư vào những ngành này để khai thác lợi thế so sánh với mục đích tìm kiếm thị trường mới với giá lao động rẻ, lợi nhuận cao.
3.2.5. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Hiện nay nhìn chung ở các nước đang phát triển, những lĩnh vực dịch vụ thu hút nhiều đầu tư nước ngoài gồm có du lịch, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, thương mại và viễn thông. Điều này đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với quá trình thực hiện CNH, HĐH của các nước, nghĩa là tỷ trọng lao động và GDP của khu vực công nghiệp và dịch vụ tăng lên và khu vực nông nghiệp giảm xuống.
3.2.6. Học tập kinh nghiệm quản lý hiện đại
Kinh nghiệm quản lý hiện đại được tích luỹ thông qua quá trình chuyển giao công nghệ vì các nước nhận đầu tư không chỉ nhập khẩu công nghệ đơn thuần mà họ phải học hỏi để nắm vững kỹ năng vận hành, sửa chữa, thực hiện tốt các khâu để đạt hiệu quả cao hoặc thông qua triển khai dự án. Các nhà đầu tư nước ngoài không chỉ chuyển giao máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu mà còn chuyển giao cả những tri thức khoa học, bí quyết quản lý, kỹ năng tiếp cận thị trường... Điều này bắt buộc các doanh nghiệp trong nước phải nâng cao trình độ và kinh nghiệm của mình trong công tác quản lý.
II. Lý luận chung về FDI vào lĩnh vực nông nghiệp
1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp Việt Nam
Nông nghiệp là một lĩnh vực rất phong phú. Nông dân sống ở khu vực nông nghiệp gắn liền với nông thôn, sản xuất gắn liền với thiên nhiên, với môi trường và gặp nhiều rủi ro, đặc biệt là đối với nước chưa phát triển, khoa học kỹ thuật còn lạc hậu. Đại bộ phận, xét một cách tổng thể, các nước đang phát triển và kém phát triển có trên 80% dân số và 70% lao động xã hội tập trung ở nông thôn với sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, kỹ thuật canh tác lạc hậu, trình độ lao động thấp. Người nông ở đây, họ vừa là những người sản xuất vừa là những người tiêu thụ sản phẩm của chính công ty họ làm ra. Bởi vì, tính phối hợp liên ngành (cung ứng vật tư, chế biến, tiêu thụ sản phẩm) còn ở mức độ thấp, đóng góp từ khu vực nông nghiệp vào thu nhập quốc dân chưa cao và bất ổn định.
Bên cạnh đó, nông nghiệp Việt Nam còn có đặc điểm nổi bật khác do những điều kiện tự nhiên và lịch sử đặc biệt.
Nước ta nằm ở khu vực nhiệt đới, đất nước trải dài theo hướng Bắc – Nam, phần lớn địa hình là đồi núi, ba mặt tiếp giáp với biển…chính vì vậy có thảm thực vật phong phú, đa dạng, có tiềm năng sinh khối lớn, nhiều loại vật có giá trị kinh tế cho phép phát triển một nền nông nghiệp đa dạng và có thể đi vào chuyên canh nhiều loại cây con. Hiện nay, nông nghiệp nước ta sản xuất lương thực chủ yếu là cây lúa nước nhưng phân tán, việc áp dụng các kỹ thuật cơ giới hóa, hiện đại hóa vào sản xuất nông nghiệp thiếu kinh nghiệm và còn nhiều bất cập.
- Nước ta đất chật, dân số không ngừng tăng lên khả năng mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp hạn chế.
- Việc chuyển nền nông nghiệp nước ra sang sản xuất hàng hóa gặp nhiều khó khăn về vốn, kỹ thuật, trình độ lao động, khả năng quản lý…
Đây là những đặc điểm nổi bật cần phải khắc phục nhanh chóng tạo tiền đề cho nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nước ta theo hướng bền vững.
2. Vai trò, vị trí của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
Nông nghiệp giữ một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Bởi vì các nước này đa số người dân sống dựa vào nghề nông. Để phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi cho nhân dân, Chính phủ cần có chính sách tác động vào khu vực nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất cây trồng và tạo ra nhiều việc làm ở nông thôn.
Trừ một số ít nước dựa vào nguồn tài nguyên phong phú để xuất khẩu đổi lấy lương thực, còn hầu hết ở các nước đang phát triển phải sản xuất lương thực cho nhu cầu tiêu dùng của dân số nông thôn cũng như thành thị. Nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế. Để đáp ứng nhu cầu lâu dài của phát triển kinh tế việc tăng dân số ở khu vực thành thị sẽ không đủ khả năng đáp ứng. Cùng với việc tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, sự dị chuyển dân số ở nông thôn lên thành thị sẽ là nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu nông nghiệp hóa đất nước. Bên cạnh đó, nông nghiệp còn là ngành cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến.
Bên cạnh đó, phát triển nông nghiệp là một điều kiện tiên quyết cho sự thành công của công nghiệp hóa, hình thành và phát triển thị trường trong nước, giải quyết việc làm ở nông thôn trong thời gian đầu, hạn chế áp lực làm chậm quá trình công nghiệp hóa…
3. Tính khách quan đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp Việt Nam
Đất nước ta có nhiều thuận lợi trong việc phát triển lĩnh vực nông lâm nghiệp – nông thôn (điều kiện tự nhiên, khí hậu, con người…)
Xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp đi lên, phần lớn dân số sống ở nông thôn và sinh sống bằng nghề nông nghiệp (80% dân số sống bằng nghề nông).
Đầu tư trong nông nghiệp hiện nay còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của ngành. Vì thế, lĩnh vực nông nghiệp còn có nhiều tiềm năng chưa được khai thác đầy đủ. Đây là mảnh đất màu mỡ cho các nhà đầu tư có ý định đầu tư.
4. Vai trò FDI đối với phát triển nông nghiệpViệt Nam
Mặc dù nguồn vốn đầu tư còn hạn chế song các dự án FDI đã góp phần không nhỏ trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát triển sản xuất hàng hoá quy mô lớn, nâng cao giá trị xuất khẩu cho nông sản Việt Nam, trên cơ sở phát huy các lợi thế so sánh và áp dụng các công nghệ mới, công nghệ cao, có khả năng cạnh tranh khi tham gia hội nhập. Với 758 dự án đã và đang triển khai, lĩnh vực FDI trong nông nghiệp đem lại doanh thu hàng năm khoảng 312 triệu USD, xuất khẩu trên 100 triệu USD/năm và tăng mạnh trong thời gian gần đây.
Những đóng góp tích cực:
- Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài tương đối phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của ngành, nguồn vốn được thu hút khá đồng đều vào các lĩnh vực trồng trọt, chế biến nông, lâm sản, sản xuất mía đường, sản xuất thức ăn chăn nuôi, chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng rừng và sản xuất nguyên liệu giấy;
- Các dự án FDI đã góp phần tạo thêm năng lực sản xuất mới, công nghệ sản xuất tiên tiến, nâng cao tính cạnh tranh của hàng nông lâm sản. Các chương trình mía đường, trồng và chế biến rau quả, chương trình trồng rừng, chuyển giao công nghệ mới, tạo ra các loại giống cây trồng, giống vật nuôi và các sản phẩm chế biến đạt tiêu chuẩn quốc tế;
- Tạo việc làm cho hàng vạn lao động công nghiệp (đến nay có khoảng 75.000 lao động công nghiệp đang làm việc tại các doanh nghiệp FDI của ngành), sản xuất nguyên liệu và các dịch vụ lao động cho công nghiệp chế biến, v.v... Đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật ngày càng trưởng thành, công nhân được nâng cao trình độ, tay nghề;
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
I. Chính sách thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp
Mục tiêu của chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam là thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, khai thác có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, tạo việc làm cho người lao động và mở rộng xuất khẩu. Hoạt động thu hút FDI liên quan chặt chẽ đến quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, rõ ràng, thông thoáng, bình đẳng và có khả năng cạnh tranh với các nước khác trong khu vực và nông nghiệp dường như cũng không là phải ngoại lệ.
Thời gian qua, chính sách thu hút FDI đã được điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện dần từng bước một cách có hệ thống, và nông nghiệp cũng đang là một trong các lĩnh vực mà nhà nước quan tâm, chú trọng tới. Sau đây là một số chính sách đối với việc thu hút FDI vào kinh tế Việt Nam nói chung và lĩnh vực nông nghiệp nói riêng.
* NĐ108 /2006/NĐ-CP: Ngành Nông Lâm Ngư nghiệp thuộc danh mục đặc biệt ưu đãi và ưu đãi đầu tư.
* Nghị định Nghị định số 61/2010/NĐ-CP và việc cụ thể hóa các quy định trên tại Thông tư số 84/2011/TT:
Các nội dung khuyến khích được quy định tại Thông tư số 84/2011/TT gồm:
- Ưu đãi về đất đai, trong đó hướng dẫn cụ thể về: Miễn giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước; Hỗ trợ tiền thuê đất, thuê mặt nước của hộ gia đình, cá nhân; Miễn giảm tiền sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất.
- Hỗ trợ đầu tư, trong đó hướng dẫn về: Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực; Hỗ trợ phát triển thị trường và dịch vụ tư vấn; Hỗ trợ áp dụng khoa học công nghệ; Hỗ trợ cước phí vận tải.
* Các cam kết trong WTO
- Xóa bỏ yêu cầu bắt buộc phát triển nguồn nguyên liệu trong nước đối với dự án sản xuất mía đường, dầu thực vật, sữa, gỗ;
- Cam kết về thuế quan và các biện pháp phi quan thuế khác trong lĩnh vực nông, lâm ngư nghiệp.
- Cam kết lộ trình mở cửa dịch vụ phân phối: Các nhà đầu tư được đầu tư, lập cơ sở bán lẻ, được phân phối các mặt hàng nông sản. Năm 2011, doanh nghiệp nước ngoài được quyền xuất khẩu gạo trực tiếp.
* Cam kết trong:
Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ (TIFA), Cam kết trong Khu vực mậu dịch tự do, đầu tư song phương, đa phương khác ASEAN (AFTA, AIA), ASEAN – Trung Quốc, ASEAN- Hàn Quốc, ASEAN- Nhật Bản, ASEAN Úc –New Zealand, ASEAN-Ấn Độ. Việt Nam - Nhật Bản (EPA) về cắt giảm thuế quan.
* Điều 36. Ưu đãi về sử dụng đất ( Luật đầu tư 2005)
1. Thời hạn sử dụng đất của dự án đầu tư không quá năm mươi năm; đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế -xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn mà cần thời hạn dài hơn thì thời hạn giao đất, thuê đất không quá bảy mươi năm.
Khi hết thời hạn sử dụng đất, nếu nhà đầu tư chấp hành đúng pháp luật về đất đai và có nhu cầu tiếp tục sử dụng đất thì sẽ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét gia hạn sử dụng đất phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt.
2. Nhà đầu tư đầu tư trong lĩnh vực ưu đãi đầu tư, địa bàn ưu đãi đầu tư được miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, thuế sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai và pháp luật về thuế.
* Ưu đãi về sử dụng đất đai (Nghị định 142)
- Tuỳ từng dự án, được miễn tiền thuê đất từ 3 – 15 năm.
- Dự án lĩnh vực đặc biệt khuyến khích tại địa bàn kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn: Miễn tiền thuê đất.
* Ưu đãi tín dụng (NĐ 151, NĐ 106, NĐ 41)
- Mức vốn cho vay tối đa 70% tổng vốn đầu tư của dự án do Ngân hàng Phát triển Việt Nam quyết định.
- Thời hạn cho vay dựa trên khả năng thu hồi vốn và trả nợ tối đa là 12 năm; dự án đặc thù cho vay tối đa là 15 năm...
- Lãi suất cho vay xác định tại thời điểm ký hợp đồng tín dụng lần đầu và không thay đổi cho cả thời hạn vay.
* Ưu đãi về thuế suất, thuế thu nhập doanh nghiệp (NĐ 124)
• Miễn thuế: Với một số dịch vụ sản xuất
• Ưu đãi 10%: Doanh nghiệp mới tại địa bàn kinh tế đặc biệt khó khăn, thời hạn 15 năm
• Ưu đãi 20%:
– Doanh nghiệp mới tại địa bàn kinh tế khó khăn, thời hạn 10 năm.
– Hợp tác xã NN, suốt thời gian hoạt động.
• Miễn 4 năm đầu, Giảm 50% thuế một số năm tiếp theo:
Doanh nghiệp mới lĩnh vực XH hóa tại địa bàn kinh tế khó khăn.
* Miễn thuế GTGT (NĐ 87)
• Nông sản chưa chế biến hoặc sơ chế
• Sản phẩm là giống.
• Sản phẩm là dịch vụ phục vụ NN.
• Sản phẩm muối.
II. Thực trạng đầu tư FDI vào lĩnh vực nông nghiệp trong thời gian qua
1. Tỉ trọng đầu tư FDI vào lĩnh vực nông nghiệp
So với các ngành khác, tỉ trọng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông, lâm nghiệp còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng và tầm quan trọng của ngành trong nền kinh tế quốc dân.
Trong giai đoạn 1990- 2010 tổng số dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam được cấp phép là 12.575 dự án với tổng vốn dăng ký 194.429,5 triệu USD. Trong đó, số dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp là 738 dự án, chiếm 5,9% tổng số dự án đăng ký, với vốn đăng ký là 4.379,1 triệu USD, chiếm 2,3% tổng số vốn đăng ký. Bình quân mỗi năm ngành NN&PTNT thu hút gần 50 dự án tương ứng khoảng 200 triệu USD. Nhìn chung, các dự án FDI trong nông nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, chủ yếu gắn với nguồn nguyên liệu địa phương.
Riêng năm 2010, có 1.208 dự án được cáp phép đầu tư với tổng vốn đăng ký là 23.107,7 triệu USD. Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm 45,5% về số dự án và 22,4% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ- thương mại, chiếm 52,1% về số dự án và 77% về số vốn đầu tư đăng ký; lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, chiếm 2,4% về số dự án và 0,6% về vốn đầu tư đăng ký, không có dự án quy mô lớn.
Bảng 1: FDI được cấp giấy phép trong năm 2010 phân theo nghành kinh tế.
Lĩnh vực
Số dự án
Tỷ lệ (%)
Vốn đăng ký (triệu USD)
Tỷ lệ (%)
Tổng
1208
100
23107,3
100
Nông-lâm nghiệp, thủy sản
29
2,4
134,5
0,6
Công nghiệp - xây dựng
550
45,5
5175,7
22,4
Dịch vụ - Thương mại
629
52,1
17797,1
77
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ kế hoạch và đầu tư, 2010
Năm 2010, các doanh nghiệp FDI trong ngành đang sử dụng khoảng 75.000 lao động công nghiệp và hàng vạn lao động nông nghiệp, nộp ngân sách trên 17 triệu USD, tạo ra kim ngạch xuất khẩu xấp xỉ 500 triệu USD. Tỉ lệ vốn đưa vào thực hiện bình quân khoảng 50% tổng số vốn đăng ký.
2. Phân bố FDI theo địa phương
Hầu hết các dự án FDI vào nông nghiệp tập trung vào những tỉnh có lợi thế về vùng nguyên liệu, có điều kiện thuận lợi về thổ nhưỡng, khí hậu, cơ chế chính sách ưu đãi về đầu tư như: Bình Dương, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh, Lâm Đồng Thanh Hóa, Nghệ An, một số tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên. Trong đó, Bình Dương là tỉnh đứng đầu, tiếp theo là Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh, Tây Ninh và Lâm Đồng.
Bảng 2: FDI vào nghành nông nghiệp phân theo địa phương.
TT
Địa phương
Số dự án
Vốn đăng ký (USD)
Vốn thực hiện (USD)
Tỷ lệ vốn điều lệ (%)
1
Bình Dương
265
1109622258
450439627
20.31
2
Đồng Nai
103
1058744864
468793875
21.14
3
TPHCM
85
268579865
101309892
4.57
4
Tây Ninh
25
222527500
149407680
6.74
5
Lâm Đồng
77
172100716
105429882
4.75
6
Long An
19
150201700
56433936
2.54
7
Vũng Tàu
24
108443720
48023720
2.17
8
Nghệ An
6
105838640
50638000
2.28
9
Thanh Hóa
9
87079000
33290000
1.50
10
Ninh Bình
5
63329672
26322529
1.19
11
Các tỉnh khác
348
1336397754
727966035
32.82
Tổng số
952
4682865689
2218055176
100.000
Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài – Bộ Kế hoạch và Đầu tư
3. Phân bổ FDI theo cơ cấu vùng, miền
Cơ cấu vốn FDI còn có một số bất hợp lý. Trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp mặc dù đã có những chính sách ưu đãi nhất định, nhưng FDI còn quá thấp và tỷ trọng vốn FDI đăng ký liên tục giảm. Hầu hết các dự án FDI vào nông nghiệp tập trung vào những tỉnh có lợi thế về vùng nguyên liệu, có điều kiện thuận lợi về thổ nhưỡng, khí hậu như miền Đông Nam Bộ (54%), trong khi có tác động rất hạn chế đến khu vực miền núi phía Bắc (4%), đồng bằng sông Hồng (5%), Bắc Trung Bộ (5%), Tây Nguyên (4%) và đồng bằng sông Cửu Long (13%).
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, một số ưu đãi của Chính phủ đã được quy định trong nghị định của Chính phủ như miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu 5 năm cho sản xuất đối với các dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và các dự án đầu tư vào các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nhưng thiếu hướng dẫn nên chưa được áp dụng.
Hình 1: Phân bố FDI theo các vùng kinh tế.
4- Cơ cấu đầu tư FDI trong lĩnh vực Nông-Lâm-Ngư
Dành ưu đãi cho các dự án đầu tư vào lĩnh vực Nông Lâm ngư nghiệp đã được chú trọng ngày từ khi có luật đầu tư nước ngoài 1987. Tuy nhiên đến nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân rủi ro đầu tư cao trong lĩnh vực này, nên kết quả thu hút FDI vào lĩnh vực Nông – Lâm ngư chưa được như mong muốn.
Đến hết 2010, lĩnh vực Nông- Lâm- Ngư nghiệp có 933 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 4,4 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 2,02 tỷ USD; chiếm 10,8% về số dự án ; 5,37% tổng vốn đăng ký và 6,9% vốn thực hiện, (giảm từ 7,4% so với năm 2009). Trong đó, các dự án về chế biến nông sản, thực phẩm chiếm tỷ trọng lớn nhất 53,71% tổng vốn đăng ký của ngành, trong đó, các dự án hoạt động có hiệu quả bao gồm chế biến mía đường, gạo, xay xát bột mì, sắn, rau. Tiếp theo là các dự án trồng rừng và chế biến lâm sản, chiếm 24,67% tổng vốn đăng ký của ngành. Tới lĩnh vực chăn nuôi và chế biến thức ăn gia súc chiếm 12,7%. Cuối cùng là lĩnh vực trồng trọt, chỉ chiếm gần 9% tổng số dự án. Có 130 dự án thuỷ sản với vốn đăng ký là 450 triệu USD.
Cho đến nay, đã có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào ngành nông-lâm-ngư nghiệp nước ta, trong đó, các nước châu Á ( Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Hồng Kông,..) chiếm 60% tổng vốn đăng ký vào ngành nông nghiệp (riêng Đài Loan là 28%). Các nước thuộc EU đầu tư vào Việt Nam đáng kể nhất gồm có Pháp (8%), quần đảo British Virgin Islands (11%). Một số nước có ngành nông nghiệp phát triển mạnh( Hoa Kỳ, Canada, Australia) vẫn chưa thực sự đầu tư vào ngành nông nghiệp nước ta.
Các dự án FDI trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp tập trung chủ yếu ở phía Nam. Vùng Đông Nam Bộ chiếm 54% tổng vốn đăng ký của ngành, đồng bằng sông Cửu Long 13%, duyên hải Nam Trung Bộ 15%. Miền Bắc và khu vực miền Trung, lượng vốn đầu tư còn rất thấp, ngay như vùng đồng bằng sông Hồng lượng vốn đăng ký cũng chỉ đạt 5% so với tổng vốn đăng ký của cả nước.
Bảng 3: Cơ cấu vốn FDI đến năm 2010 trong nông – lâm – ngư
Nông, lâm nghiệp
Số dự án
Vốn đăng ký (USD)
Vốn thực hiện (USD)
Nông-Lâm nghiệp
803
4,014,833,499
1,856,710,521
Thủy sản
130
450,187,779
169,822,132
Tổng số
933
4,465,021,278
2,026,532,653
Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
5. Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư và nguồn gốc đầu tư
Hiện nay có hơn 50 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án FDI còn hiệu lực trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam, trong đó các nhà đầu tư đến từ Đài Loan, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan chiếm hơn 60% tổng vốn đăng ký, riêng Đài Loan là 25%.
Bảng 4: FDI theo hình thức đầu tư đến năm 2010
STT
Hình thức đầu tư
Số dự án
Vốn đăng ký
1
100% vốn nước ngoài
722
2.310.202.009
2
Liên doanh
206
1.786.008.511
3
Hợp đồng hợp tác kinh doanh
2
161.052.371
4
BOT
1
55.274.451
5
Công ty cổ phần
2
152.483.936
Tổng số
933
4.465.021.278
Nguồn: Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp được thực hiện chủ yếu dưới 2 hình thức là hình thành doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong đó, hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài vẫn chiếm vị trí cao khoảng 77,4% số dự án và 51, 74% vốn đăng ký, kế đó là hình thức liên doanh 22,1% số dự án và 40% vốn đăng ký. Các nhà đầu tư đến từ Đài Loan, Pháp, Thái Lan, Hàn Quốc, Xin-ga-po, Mỹ thường thực hiện đầu tư theo hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Trong khi đó, các nhà đầu tư đến từ Pháp, Hồng Kông, Ma-lay-xi-a chủ yếu lựa chọn hình thức doanh nghiệp liên doanh.
6. Các chính sách thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam
6.1 Chính sách đất đai
Mục tiêu của chính sách này là tạo điều kiện thuận lợi và hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, bảo đảm cho các nhà đầu tư yên tâm và tin tưởng đầu tư lâu dài ở Việt Nam
Đặc điểm đặc thù ở Vịêt Nam đó là: đất đai là tài sản quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân. Các nhà đầu tư nước ngoài không có quyền sở hữu về đất đai.
Các loại văn bản pháp lý liên quan đến đất đai gắn với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là Luật đất đai, Luật đầu tư tại Vịêt Nam.
Mức tiền thuê đất được xác định tuỳ thuộc vào:
+ Mức quy định khởi điểm của từng vùng.
+ Địa điểm của khu đất.
+ Kết cấu hạ tầng của khu đất.
+ Hệ số ngành nghề.
Theo quyết định số 1477 – TC/TCĐN ngày 31-12-1994 của bộ tài chính ban hành bản quy định về quyền cho thuê mặt đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức đầu tư nước ngoài.
- Khung giá cho thuê đất được quy định từ 0,375 USD/m2/năm đến 1,7 USD/m2/năm tuỳ theo nhóm đô thị,
- Riêng đất nông nghiệp sử dụng đối với vùng không phải là đô thị giá thuê được qui định cụ thể như sau:
+ Những vùng đá, đồi trọc, đất xấu khó sử dụng từ 30-50 USD/ha/năm
+ Các vùng đất khác từ 150 – 170 USD/ha/năm .
- Đối với mặt sông hồ, vịnh, mặt biển giá thuê có 2 mức:
+ Mặt nước sông, hồ, vịnh từ 75-525 USD/ha/năm.
+ Mặt biển từ 150- 600 USD/km2/năm. Trong trường hợp sử dụng không cố định thì áp dụng mức giá từ 1500 USD đến 7500 USD. Mức giá thuê đất, mặt nước, mặt biển nêu trên là mức giá áp dụng cho thực trạng diện tích đất cho thuê không bao gồm chi phí đền bù, giải toả.
Mặc dù trong các văn bản nói trên đã cố gắng phân loại để xác định mức giá tiền thuê khác nhau cho phù hợp với điều kiện địa điểm, loại đất, hạ tầng cơ sở nhưng vẫn không tránh khỏi những bất hợp lý. Trong thực tế khi góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài thuờng có những vướng mắc sau:
+ Do Việt Nam chưa có quy định về tính giá trị nên trong một số trường hợp phần góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng lại có quá lớn so với giá trị của khu đất làm cho việc đàm phán kéo dài vì bên nước ngoài khó chấp nhận.
+ Trong một số trường hợp, khi đàm phán với nước ngoài, các đối tác Việt Nam đã đưa ra mức giá cho thuê thấp để được bên nước ngoài chấp nhận. Nhưng khi thẩm định dự án, họ lại được yêu cầu phải đàm phán để tăng giá thuê đất thì gặp khó khăn, mất nhiều thời gian và cũng khó thuyết phục bên nước ngoài.
+ Một số dự án nhầm lẫn giữa việc góp vốn bằng giá trị nhà xưởng với việc góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Một số dự án chỉ tính tiền thuê đất của diện tích xây dựng nhưng không tính các diện tích khác như đường nội bộ, diện tích trồng cây xanh…Đây là cách hiểu sai chế độ qui định.
Để tiếp tục tăng mức hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài, chính sách sử dụng đất cho các dự án đầu tư nước ngoài đã được cải thiện. Luật đầu tư tại Việt Nam hiện đã sửa đổi chính sách đất đai theo hướng khuyến khích và rõ ràng hơn: Giá tiền thuê đất; mặt khác, mặt biến đổi với từng dự án được giữ ổn định tối thiểu là 5 năm, khi điều chỉnh tăng thì mức tăng không vượt quá 15% của mức qui định lần trước. Trong trường hợp doanh nghiêp có vốn đầu tư nước ngoài, các bên hợp doanh đã trả tiền thuê đất cho cả đời dự án, nếu giá tiền thuê có tăng trong thời hạn đó thì tiền thuê đã trả không bị điều chỉnh lại.
Do Việt Nam còn thiếu qui hoạch chi tiết để phục vụ cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho việc tạo ra các địa điểm ổn định thu hút vốn đầu tư nước ngoài có ý nghĩa quan trọng.
Tuy nhiên chính sách đất đai áp dụng đối với lĩnh vực đầu tư nước ngoài, nhất là tại khu vực nông nghiệp vẫn còn những vướng mắc nhất định:
+ Giá thuê đất của Việt Nam cao hơn so với nhiều nước trong khu vực. Nếu tính cả chi phí đền bù, giải tỏa thì giá đất bị đẩy lên quá cao. Đây là yếu tố làm giảm sức cạnh tranh để thu hút vốn đầu tư. Thời điểm tính giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn vào các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa hợp lý.
+ Việc giao đất, nhất là các dự án có đền bù và giải toả kéo dài trong nhiều trường hợp việc giải toả này kéo dài trong một số năm thậm chí có dự án kéo dài tới 5 năm. Thủ tục thuê đất, cấp đất, giá đền bù, giải phóng mặt bằng còn phức tạp gây mất cơ hội và thời gian của các nhà đầu tư. Hiệu lực pháp luật của các qui định về đất đai còn thấp. Luật đất đai mặc dù đã sửa đổi song thiếu những văn bản hướng dẫn chi tiết.
+ Thiếu qui hoạch chi tiết cho việc thu hút FDI. Một số địa phương tự ý sử lý vấn đề đất đai áp dụng đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
6.2. Chính sách lao động
Chính sách lao động có mục tiêu giải quyết việc làm, nâng cao tay nghề, kỹ năng cho người lao động, nâng cao trình độ quản lý và cải thiện thu nhập cho người lao động.
Số lao động của Việt Nam làm việc trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài phần lớn là lao động trẻ, có khả năng thích ứng nhanh với yêu cầu công nghệ sản xuất tiên tiến nhưng hạn chế lớn về thể lực, kinh nghiệm và tay nghề dù phần lớn lao động lao động trong lĩnh vực nông nghiệp xuất thân từ nông thôn. Đồng thời tính kỷ luật của người lao động chưa cao. Sự hiểu biết về pháp luật của người lao động còn hạn chế.
+ Phần đông thiếu sự hiểu biết về các qui định của pháp luật lao động, chưa nắm vững các chính sách, quyền lợi và nghĩa vụ của mình để tiến hành ký hợp đồng còn mang tính hình thức, bị thiệt thòi, bị áp đặt dẫn đến mâu thuẫn phát sinh tranh chấp.
+ Một số người lao động đòi hỏi vượt quá qui định pháp luật và do sự hạn chế về ngoại ngữ nên có những bất đồng do không hiểu nhau dẫn đến mâu thuẫn.
Tuy nhiên chính sách lao động còn những hạn chế. Mặc dù đã giải quyết được công ăn việc làm cho một lực lượng lao động nhất định, song mục tiêu nâng cao tay nghề cho công nhân, nâng cao trình độ quản lý cho đội ngũ cán bộ còn nhiều hạn chế.
6.3. Chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm
Trước năm 1996, chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam vẫn chủ yếu là thay thế nhập khẩu. Do đó, chính sách về thị trường chủ yếu là thị trường trong nước. Theo Luật đầu tư tại Việt Nam, Nhà nước Việt Nam khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào:
- Thực hiện các chương trình kinh tế lớn, sản xuất hàng xuất khẩu và hàng thay thế hàng nhập khẩu.
- Sử dụng kỹ thuật cao, công nghệ hiện đại, đầu tư theo chiều sâu, khai thác và tận dụng các khả năng và nâng cao công suất của các cơ sở kinh tế hiện có.
- Sử dụng nhiều lao động, nguyên vật liệu và tài nguyên thiên nhiên sẵn có ở Việt Nam.
- Xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng.
- Dịch vụ thu tiền nước ngoài như dịch vụ du lịch, sửa chữa tàu, dịch vụ sân bay, cảng khẩu khác.
Luật sửa đổi, bổ xung gần đây đã khuyến khích đầu tư với mục tiêu ưu tiên hàng đầu là hàng xuất khẩu. Vì vậy, việc tiêu thụ sản phẩm ở các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã có định hướng xuất khẩu. Năm 2010, xuất khẩu của khu vực nông thôn chiếm 7/10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Thành tựu này có được cũng có một phần đóng góp không nhỏ của FDI trong lĩnh vực mở rộng thị trường cho sản xuất nông nghiệp.
Tuy nhiên, việc thúc đẩy xuất khẩu chỉ mới dừng lại ở tình trạng sản phẩm thô lượng được qua chế biến không nhiều, do đó mà giá cả bên Việt Nam, tình hình lợi nhuận thu được từ xuất khẩu theo ý kiến chủ quan của em thì chưa đạt hiệu quả cao. Đây là yếu tố gây thua thiệt cho bên Việt Nam – một vấn đề đang đặt ra gay gắt hiện nay.
Ngoài ra, việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá do sản xuất nông nghiệp tạo ra vẫn còn kém, nhiều loại sản xuất ra nhưng lại không biết bán cho ai, trong khi sản phẩm của nông nghiệp lại có tính chất bảo quản không được lâu. Đó chính là vấn đề mà hiện nay Nhà nước và các nhà FDI muốn đầu tư vào nông nghiệp quan tâm và đang tìm hướng giải quyết.
6.4. Chính sách công nghệ
Mục tiêu của chính sách công nghệ là thu hút công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại của nước ngoài để phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước, đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề, thực hiện nội địa hoá công nghệ để tăng năng lực nội sinh của nền kinh tế nói chung. Điều này được khẳng định trong Luật Đầu tư tại Việt Nam là thu hút công nghệ hiện đại để đầu tư theo chiều sâu vào các cơ sở kinh tế hiện có hoặc thu hút công nghệ cao để sản xuất hàng xuất khẩu.
Qua xem xét trên thực tế thì nhiều dự án phát huy tác dụng tốt trong chuyển giao công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực chăn nuôi, lâm nghiệp.
Tuy nhiên, công nghệ tiên tiến nhập vào chưa nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu cần thiết cả về số lượng, lẫn qui mô,chưa cân đối với các ngành kinh tế, nhất là ở một số ngành then chốt có tác dụng tạo môi trường cho nông nghiệp đi lên như: công nghiệp chế biến. Nhìn chung trong các liên doanh với nước ngoài hàm lượng công nghệ thể hiện trong giá trị gia tăng của sản phẩm chế biến còn thấp, mức độ hiện đại và tinh vi của chính bản thân công nghệ còn thấp. Trừ một số ít dây chuyền công nghệ nhập vào tương đối hiện đại, còn lại phần lớn ở trình độ thấp so với các nước trong khu vực, thậm chí có cả công nghệ lạc hậu, thiết bị cũ kỹ, gây ô nhiễm môi trường sau đó phải xử lý…
III. Những thành tựu và hạn chế của FDI vào lĩnh vực nông nghiệp trong những năm qua
1. Những thành tựu
- Một là, các dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp đã góp phần bổ sung nguồn vốn cho đầu tư phát triển trong lĩnh vực này, tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
- Hai là, hoạt động của các dự án FDI trong lĩnh vực này đã bước đầu thực hiện chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, góp phần đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu và tiếp thu một số công nghệ mới.
- Ba là, FDI trong lĩnh vực nông nghiệp đã góp phần góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo thêm nhiều việc làm mới, nâng cao thu nhập trực tiếp và gián tiếp cho dân cư các địa phương, góp phần xóa đói giảm nghèo cải thiện đời sống kinh tế -xã hội của nhiều vùng nông thôn.
FDI trong nông nghiệp đã có tác động nhất định đến các cân đối lớn của nền kinh tế như cân đối ngân sách, cân đối xuất nhập nhẩu, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán quốc tế thông qua việc chuyển vốn vào Việt Nam và mở rộng nguồn thu ngoại tệ gián tiếp qua khách quốc tế, tiền thuê đất, tiền mua nguyên, vật liệu... tại Việt Nam. Nguồn thu NSNN từ khu vực FDI, cùng với đóng góp của khu vực này vào bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đã tạo điều kiện để thực hiện các chính sách an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo…
2. Những hạn chế
2.1. Hạn chế
Khủng hoảng kinh tế thế giới đã làm thay đổi lưu lượng và cấu trúc dòng vốn FDI toàn cầu. Theo Báo cáo Đầu tư Thế giới 2009 của Liên hiệp quốc, dòng FDI sẽ giảm từ 1.700 tỷ USD trong năm 2008 xuống còn 1.200 tỷ USD trong năm 2009, sau đó có thể tăng lên 1.400 tỷ USD trong năm 2010 và 1.800 tỷ USD trong năm 2011.
Về cơ cấu, do dòng vốn FDI đổ vào các nước phát triển giảm mạnh trong năm 2008, tỷ trọng FDI vào các nước đang phát triển đã chiếm tới 43% tổng lượng FDI toàn cầu. Trong sự thay đổi này, một xu thế quan trọng đối với các nước đang phát triển là dòng FDI chảy vào khu vực nông - lâm - ngư nghiệp (gọi chung là khu vực nông nghiệp) trong mấy năm trở lại đây đang tăng lên.
Nếu như trong những năm 1990, lượng vốn FDI trong nông nghiệp của toàn thế giới chưa tới 1 tỷ USD/năm, thì trong giai đoạn 2008 -2010, con số này đã lên tới 3 tỷ USD/năm. Không những thế, các tập đoàn đa quốc gia ngày nay không chỉ tham gia vào các hoạt động ở hạ nguồn (như chế biến và siêu thị), mà còn mở rộng lên thượng nguồn, tham gia cả hoạt động sản xuất và ký hợp đồng tiêu thụ với nông dân, làm cho quy mô của FDI trong khu vực nông nghiệp ngày càng lớn.
Trong khi FDI vào khu vực nông nghiệp của cả thế giới đang ngày một tăng, thì ở Việt Nam lại đang xảy ra điều ngược lại. Nếu như lượng giải ngân FDI trung bình trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp của Việt Nam trong 20 năm, từ 1990 đến 2010 là khoảng 100 triệu USD/năm, thì con số này giảm xuống còn 62 triệu trong giai đoạn 2005-2007 và chỉ còn 51 triệu trong giai đoạn 2008 - 2010. Tỷ trọng của FDI trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp cũng giảm một cách tương ứng.
Bảng 5: Cơ cấu vốn FDI vào Việt Nam năm 2010.
Số dự án
Vốn đăng ký (triệu USD)
Tổng số
1208
23107,3
Nông nghiệp và lâm nghiệp
28
128,5
Thủy sản
1
6,0
Công nghiệp khai thác mỏ
6
397,0
Công nghiệp chế biến
388
3942,8
Sản xuất và phân phối điện, khí đốt và nước
32
183,9
Xây dựng
124
652,0
Thương nghiệp, sủa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng cá nhân và gia đình
152
261,1
Khách sạn và nhà hàng
45
9156,8
Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc
131
299,8
Tài chính tín dụng
2
100,0
Các hoạt động liên quan đến kinh doanh tài sản và dịch vụ tu vấn
254
7808,4
Giáo dục và đào tạo
12
30,4
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội
11
15.0
Hoạt động văn hóa và thể thao
13
107.4
Hoạt động phục vụ cá nhân và cộng đồng
9
18.2
Năm 2002, lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chiếm khoảng 8% trong tổng cơ cấu đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam. Tuy nhiên đến năm 2010, lĩnh vực này chỉ còn 0,6%. Trong khi đó, các lĩnh vực dịch vụ, bất động sản lại chiếm đến 77%; công nghiệp, xây dựng chiếm 22,4%.
Năm 2010, vốn đăng ký FDI vào nước ta tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và xây dựng với 1179 dự án, tổng số vốn đăng ký 22972,8 tỷ USD. Khối doanh nghiệp FDI đã đóng góp vào ngân sách Nhà nước 1,982 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm 2009 tạo ra 200.000 việc làm mới. Tuy nhiên, trong cơ cấu vốn FDI, lĩnh vực nông nghiệp chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ và ngày càng có xu hướng giảm, nhất là trong 3 năm gần đây. Trong khi đó FDI trong nông nghiệp chỉ chiếm 2,4% tổng số dự án FDI của cả nước với 29 dự án. Vốn đầu tư cho lĩnh vực này cũng rất thấp và dàn trải, chiếm khoảng 0,6% tổng vốn đầu tư FDI. Đây là một trong những điểm yếu của chúng ta trong việc thu hút vốn FDI, mặc dù Nhà nước luôn khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nhưng do hạn chế trong các giải pháp xúc tiến thương mại, chưa quan tâm đầy đủ trong việc giao đất, giải phóng mặt bằng cũng như quản lý hợp đồng đầu tư với nông dân... nên các nhà đầu tư nước ngoài rất thờ ơ.
Bên cạnh đó, còn có sự phân bố không đồng đều trong nông nghiệp. Các dự án FDI chỉ tập trung vào một số ngành như: chăn nuôi, chế biến thức ăn chăn nuôi, trồng rừng, chế biến gỗ và lâm sản, thủy sản. Trong đó, đầu tư vào trồng rừng và chế biến gỗ chiếm khoảng 78% tổng vốn FDI vào nông nghiệp. Cả nước có 453 dự án FDI đầu tư vào trồng rừng và chế biến gỗ đã được cấp phép với tổng số vốn đăng ký khoảng 1,7 tỷ USD, trong có 421 dự án đang có hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký khoảng 1,38 tỷ USD, nhưng vốn thực hiện chỉ đạt 359 triệu USD.
Và Thống kê của Cục Đầu tư Nước ngoài cho thấy, trong tổng số vốn đăng ký đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam năm 2010 khoảng hơn 11,5 tỷ USD thì đầu tư vào nhóm nông, lâm, thủy sản chỉ có 1,2%, với 20 dự án. Qua đó cũng có thể thấy vai trò của FDI trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam đang tiếp tục suy giảm.
Điều đáng lo ngại không chỉ ở chỗ dòng FDI vào nông - lâm - ngư nghiệp ở Việt Nam đi ngược lại thế giới, và do vậy khó tận dụng được cơ hội thị trường và lợi thế của Việt Nam, mà còn là sự không tương thích giữa tầm quan trọng của khu vực nông nghiệp trong nền kinh tế nước ta.
Trong khi nông - lâm - ngư nghiệp chiếm tới hơn 50% lực lượng lao động, đóng góp khoảng 20% cho GDP và chiếm tới 7/10 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của đất nước và khoảng 23% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước thì tỷ trọng đầu tư cho khu vực này lại giảm gần một nửa, từ 13,8% vào năm 2008 xuống chỉ còn 7,1% vào năm 2010, chủ yếu do sự suy giảm của đầu tư nhà nước.
Đối tác nước ngoài trong lĩnh vực này còn thiếu tính đa dạng. Vốn FDI trong lĩnh vực nông nghiệp được thực hiện chủ yếu dưới 2 hình thức là hình thành doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Mặt khác, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp là rất ít so với các lĩnh vực khác. Trong khi FDI vào nghành công nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất với 45% tổng đầu tư FDI vào Việt Nam với 17.855 triệu USD năm 2007 với 1445 dự án, hay bất động sản là 26%, xây dựng 6%... thì ngành nông nghiêp chỉ thu hút 282.47 triệu USD chiếm 2% tổng vốn đầu tư FDI vào nước ta năm 2007 và chỉ còn 0.6% năm 2010. Rõ ràng 2% (năm 2007) và 0.6% (năm 2010) là một con số quá nhỏ chưa phát huy đầy đủ tiềm năng với một đất nước có tới gần 2/3 lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, và với một nền nông nghiệp lâu đời đang đóng góp hơn 20% GDP cho quốc gia hằng năm.
2.2. Những trở ngại dẫn đến hạn chế động lực FDI vào nông nghiệp
Hoạt động nông nghiệp nói chung và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực này gặp nhiều rủi ro. Các điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, địa hình, cơ sở hạ tầng vùng triển khai các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp, đều không thuận lợi so với các điều kiện chung của cả nước, mà ngược lại có phần khó khăn hơn, vì phần lớn các dự án tập trung ở những vùng đất mới khai phá, nằm ở các vùng miền núi, trung du, các công trình thủy lợi chưa hoàn chỉnh. Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn chủ yếu dựa vào sản phẩm nguyên liệu thô, thời gian đầu tư và thu hồi vốn dài, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết và thiên tai, đặc biệt là giá nguyên liệu thô trên thị trường thế giới luôn biến động bất lợi. Trong khi đó các nông sản có chất lượng tiêu dùng cao, nhãn hiệu nổi tiếng và hàm lượng giá trị gia tăng cao chưa được tạo dựng.
2.2.1. Hoạt động kinh doanh nông nghiệp chứa đựng nhiều rủi ro
Địa bàn diễn ra kinh doanh nông nghiệp thường rộng lớn, cơ sở hạ tầng kém phát triển, tác động bất thường của điều kiện thời tiết, khí hậu khó lường. Sản phẩm nông sản mang tính thời vụ cao, dễ hư hỏng, dễ bị ảnh hưởng xấu của của dịch bệnh và sự suy thoái về chất lượng. Các doanh nghiệp FDI nông nghiệp thường tốn kém nhiều vốn vào đào tạo chuyên môn cho lao động và đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, kỹ thuật của sản xuất nông nghiệp như thủy lợi nội đồng, đường liên thôn bản, hệ thống dẫn nước trong sản xuất nông nghiệp và các công trình phúc lợi cho công nhân tại các cơ sở chế biến nông sản, làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh. Trong khi các doanh nghiệp FDI trong công nghiệp, thương mại không phải chịu những khoản đầu tư này. Tình trạng ô nhiễm môi trường trong sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản đang đòi hỏi các nhà đầu tư phải tăng thêm vốn đầu tư vào xử lý chất thải và chống ô nhiễm, làm tăng thêm chi phí sản xuất. Các dự án trồng rừng và cây công nghiệp gặp nhiều khó khăn về quỹ đất giành cho họ không đủ về quy mô và mức độ tập trung để sản xuất theo yêu cầu hàng hóa lớn. Tình trạng tranh chấp về đất đai trong sản xuất nguyên liệu giữa các loại cây trồng diễn ra ngày càng phổ biến đang làm nản lòng các nhà đầu tư FDI không tự bảo vệ được vùng nguyên liệu. Những địa phương có nhiều diện tích đất trồng rừng như các tỉnh Tây Bắc thì địa hình chia cắt, giao thông khó khăn, khó tìm mặt bằng để đầu tư nhà máy chế biến và các hạng mục hạ tầng khác nên không hấp dẫn nhà đầu tư…Các dự án đầu tư FDI vào nuôi trồng thủy sản đang phải đối mặt với những thách thức về môi trường nước không bảo đảm bền vững cho hoạt động kinh doanh.
2.2.2. Sản xuất nông nghiệp Việt Nam quy mô nhỏ, phân tán, thiếu tính liên kết, phối hợp và không chuyên nghiệp, chưa tạo ra sức thu hút đầu tư của các doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp FDI
Nông nghiệp Việt Nam chủ yếu là sản xuất nhỏ với số lượng nông dân rất đông đảo cùng sản xuất nông nghiệp với quy mô nhỏ, manh mún và chưa quen với phương thức sản xuất hàng hóa, đa số nghèo và tâm lý phức tạp. Các vùng sản xuất chưa được chuyên môn hóa với kết cấu hạ tầng đồng bộ; cơ cấu sản xuất chưa ổn định, thiếu tầm nhìn dài hạn. Các chủ thể sản xuất nông nghiệp chủ yếu là các hộ gia đình với phương thức sản xuất truyền thống, kỹ thuật giản đơn, chưa được đào tạo về chuyên môn quản lý, kỹ thuật. Họ tự quyết định đầu tư mua sắm vật tư sản xuất như giống cây, con, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, trả công lao động, cải tạo đồng ruộng, xây dựng chuồng trại chăn nuôi…trong điều kiện thiếu các dịch vụ cung ứng chuyên nghiệp đã tạo ra chất lượng các đầu vào thấp, làm cho sản xuất của nông dân không thể nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Phương thức sản xuất như vậy đã không hấp dẫn các nhà đầu tư FDI trong làm ăn với nông dân ta. Tính chất mùa vụ của sản xuất nông nghiệp vốn là khách quan, ảnh hưởng không thuận đến động lực đầu tư. Trong điều kiện sản xuất nhỏ, phân tán và thiếu gắn kết giữa các hộ nông dân thì ảnh hưởng không thuận này lại càng tăng lên. Thêm vào đó hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng chưa phát triển đủ mạnh và toàn tâm phục vụ nông nghiệp, chưa tạo đủ vốn tín dụng cho người sản xuất nông nghiệp đã làm tăng gánh nặng về vốn tiền mặt ngắn hạn lên các doanh nghiệp nói chung và nhà đầu tư FDI nói riêng trong việc thu mua sản phẩm của nông dân, dẫn đến làm suy giảm động lực của họ trong đầu tư vào nông nghiệp. Sản xuất nông nghiệp chưa hình thành được các chuỗi giá trị bền vững từ cung ứng đầu vào, canh tác trên đồng ruộng, thu hoạch, đến bảo quản, chế biến và tiêu thụ, tình trạng chia cắt, tranh chấp đã tạo ra thị trường nông sản nguyên liệu không lành mạnh, mang tính phổ biến làm nản lòng các doanh nghiệp và nhà đầu tư FDI.
2.2.3. Nhà nước chưa có chiến lược, định hướng rõ ràng, phù hợp để thu hút FDI vào nông nghiệp
Cơ chế, chính sách về quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu nông sản cho các dự án FDI đã cấp phép không được thực thi trong thực tế. Các dự án mía đường gặp nhiều khó khăn trong việc đầu tư, phát triển và duy trì các vùng mía mà nhà nước đã quy hoạch cho họ. Các dự án chế biến gỗ, sữa, dầu thực vật không thể thực hiện đúng quy định sử dụng nguyên liệu trong nước với các lý do khác nhau. Số lượng và chất lượng nguyên liệu ở Việt Nam không phù hợp với dây chuyền công nghệ của nhà đầu tư, việc phát triển vùng nguyên liệu khó khăn do điều kiện hạ tầng kém, thời tiết phức tạp… Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến 2020 đã được Thủ tướng phê duyệt tháng 1-2006, nhưng các vùng thủy sản vẫn chưa được hình thành trong cả nước đã gây trở ngại cho thu hút FDI vào lĩnh vực này. Nhiều vùng sản xuất nguyên liệu nông sản chưa có quy hoạch, hoặc đã có nhưng không được thực thi nghiêm túc để tạo vùng sản xuất tập trung có uy tín, có thương hiệu với hệ thống kết cấu hạ tầng được đầu tư đồng bộ và đầy đủ theo yêu cầu của sản xuất hàng hóa lớn cho toàn vùng. Mặt khác, do chưa có quy hoạch, hoặc quy hoạch lỏng lẻo, thiếu chế tài hữu hiệu quản lý các vùng sản xuất tập trung nên đã tạo ra sự phát triển tự do, cạnh tranh tùy tiện và cả độc quyền vô nguyên tắc đã làm cho thị trường nguyên liệu nông sản trong vùng trở nên hỗn loạn, lúc tăng, lúc giảm và tình trạng này lại được một bộ phận các nhà quản lý cả ở trung ương và địa phương xem là “đúng theo quy luật của cơ chế thị trường” đã dẫn đến kết cục là không tạo được vùng nguyên liệu phát triển ổn định, có sự kiểm soát của nhà nước về nguồn gốc, chất lượng nông sản. Vùng nguyên liệu nông sản không hấp dẫn FDI. Các danh mục dự án quốc gia gọi vốn do Chính phủ ban hành thường ít chú trọng những thông tin cụ thể về lĩnh vực nông nghiệp. Thông tin về từng dự án trong danh mục dự án quốc gia gọi vấn còn rất sơ lược, thiếu chuẩn xác, chưa chỉ rõ các vùng đầu tư ở đâu và điều kiện thế nào, và đặc biệt mang nặng mong muốn chủ quan của cơ quan chủ quản và các doanh nghiệp Việt Nam, chưa tính đến động lực và lợi ích thực tế của nhà đầu tư FDI nên không thu hút được quan tâm của nhà đầu tư FDI.
2.2.4. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đối với các nhà đầu tư FDI trong nông nghiệp thiếu rõ ràng và minh bạch
Các quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục đầu tư và tổ chức hoạt động của các dự án FDI trong nông nghiệp chưa tính hết những đặc thù như: chứa đựng nhiều rủi ro trong kinh doanh; khả năng tiên lượng về thị trường khó khăn; các mối quan hệ giữa các tác nhân trong triển khai dự án phức tạp hơn so với dự án FDI trong công nghiệp, xây dựng và thương mại… Các quy định của luật pháp về đầu tư FDI hiện nay ít phù hợp với ngành nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan địa phương trong thẩm định, cấp phép dự án chưa nghiêm túc và rõ ràng, làm nhà đầu tư mất nhiều thời gian, chi phí giao dịch, nhất là các dự án nhạy cảm về môi trường sinh thái… Các quy định về chính sách ưu đãi và hỗ trợ đầu tư FDI trong nông nghiệp còn chung chung, chưa cụ thể, rõ ràng, thiếu chỉ rõ các điều kiện và tiêu chí áp dụng, vì vậy chỉ nằm trên giấy, không vận hành vào thực tiễn. Các biểu hiện cụ thể như:
- Chính sách đất đai, mặt nước chưa thật sự tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai các dự án FDI trong nông nghiệp. Hầu hết các dự án FDI trong lĩnh vực này cần vùng nguyên liệu tập trung, đều gặp phải sự trắc trở, thậm chí là bế tắc trong tiếp cận đất đai . Nhiều dự án trồng rừng, trồng mía công nghiệp gặp khó khăn do chỉ được giao một phần nhỏ diện tích đất trồng rừng so với quy định tại giấy phép đầu tư. Các dự án trồng và chế biến rau quả gặp cản trở trong thuê đất và quan hệ với nông dân về đất đai. Các dự án thủy sản gặp khó khăn trong giao mặt nước cho nuôi trồng thủy sản ở các vùng biển do trở ngại về môi trường sinh thái trong điều kiện năng lực quản lý của Việt Nam còn hạn chế.
- Chính sách tín dụng chưa hỗ trợ cho các dự án FDI; các hoạt động tín dụng tại chỗ chưa hậu thuẫn cho triển khai các dự án FDI, cho rằng chủ đầu tư không cần nguồn tín dụng này…
2.2.5. Tổ chức sản xuất, thu mua, chế biến và tiêu thụ nông sản ở Việt Nam còn nhiều vấn đề mâu thuẫn, phức tạp khó xử lý
Tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu về nguyên liệu cho chế biến nông sản diễn ra phổ biến, liên tục và ngày càng nan giải. Tình trạng nông dân không gắn hoạt động sản xuất nông sản nguyên liệu của họ với hoạt động thu mua, chế biến của các doanh nghiệp đang đẩy tới tình trạng tranh chấp trong mua – bán nguyên liệu vừa đẩy giá nguyên liệu lúc lên cao, lúc xuống thấp diễn ra phổ biến gây bất lợi cho cả người nông dân sản xuất, các doanh nghiệp chế biến, tiêu thụ và cả lĩnh vực nông nghiệp nói chung. Phần lớn nông sản (tới 90%) được tiêu thụ ở dạng tươi sống và chế biến thô, giá trị gia tăng thấp và không có thương hiệu, nguồn gốc Việt Nam.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THU HÚT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN FDI TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
I. Định hướng phát triển nông nghiệp
1. Mục tiêu
Thu hút và sử dụng có hiệu quả ĐTNN là giải pháp quan trọng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Định hướng thu hút ĐTNN trong ngành NN và phát triển nông thôn.
Bảo đảm phù hợp với qui hoạch và cơ cấu kinh tế ngành, vùng, lãnh thổ, qui hoạch vùng nguyên liệu.
Tiết kiệm và nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Sử dụng có hiệu quả nguyên liệu địa phương và tạo thêm công ăn việc làm cho nông dân.
Có tính khả thi cao, nhất là về địa điểm thực hiện thị trường tiêu thụ sản phẩm nguồn cung cấp nguyên liệu.
Kết hợp các dự án có quy mô tương đối lớn, có tác động quan trọng đến nền kinh tế với
nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng với các dự án có quy mô vừa ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn để đảm bảo cơ cấu kinh tế vùng, ngành.
Các ngành hàng/sản phẩm cần thu hút FDI :
- Ngành trồng trọt và chế biến nông sản.
- Ngành chăn nuôi và chế biến các sản phẩm chăn nuôi.
- Ngành trồng rừng - chế biến gỗ.
2. Kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2007- 2011 và kế hoạch thu hút sử dụng FDI đến năm 2011 và những năm tiếp theo
2.1. Về sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp
Phấn đấu đạt chỉ tiêu tăng giá trị sản xuất nông nghiệp hàng năm 4 - 4,5%. Hoàn chỉnh quy hoạch các vùng sản xuất hàng hóa tập trung gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ, đặc biệt là thị trường xuất khẩu. Phát triển mạnh các loại sản phẩm có lợi thế, có tiềm năng và có thị trường tiêu thụ. Tiếp tục chuyển một phần diện tích trồng lúa và các cây trồng có năng suất thấp, thị trường khó khăn sang nuôi trồng thủy sản với các cây trồng khác nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao hơn.
Quy hoạch xây dựng các vùng rừng nguyên liệu gắn với các cơ sở chế biến bột giấy, giấy, ván nhân tạo, gỗ gia dụng... áp dụng phương thức quản lý rừng bền vững tạo lâm phần ổn định lâu dài. Đẩy nhanh tiến độ trồng rừng kinh tế hiệu quả cao. Tiếp tục triển khai việc tăng cường các biện pháp bảo vệ rừng hiện có.
Đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH - HĐH) ngành muối, nhân rộng mô hình sản xuất muối sạch, tạo ra năng suất, chất lượng cao, tiến tới không nhập khẩu muối nguyên liệu công nghiệp.
Có kế hoạch về các biện pháp phòng, chống thiên tai như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng...
2.2. Về phát triển công nghiệp nông thôn
Tập trung phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản vào những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, có thế mạnh cạnh tranh quốc tế như: gạo, cà phê, cao su, chè, hạt điều, và một số loại rau quả, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng không thấp hơn 12%/năm.
Đối với chế biến lâm sản, tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ ở các cơ sở hiện có, khuyến khích xây dựng mới một số máy chế biến lâm sản có giá trị tăng cao. Tạo điều kiện với hỗ trợ các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và phát triển cơ sở chế biến lâm đặc sản, nhựa thông, cánh kiến, quế hồi. Có chính sách hỗ trợ tích cực để phát triển các làng nghề, khuyến khích các hộ gia đình, tư nhân hợp tác xã, doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư phát triển đa dạng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp và tham gia dịch vụ chế biến, dịch vụ tiêu thụ sản phẩm sau thu hoạch... Thực hiện xã hội hóa dịch vụ ở nông thôn, thu hút sự tham gia của mọi thành phần kinh tế.
2.3. Về phát triển nông thôn
Tiếp tục triển khai thực hiện các biện pháp đặc biệt hỗ trợ cho các vùng nông thôn còn nhiều khó khăn, thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, các chương trình 135, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; lồng ghép các chương trình trên từng địa bàn để đạt hiệu quả cao hơn. Tiếp tục huy động các nguồn vốn để đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn; ưu tięn các công trình có hiệu quả thiết thực phục vụ sản xuất và đời sống của nông dân....
2.4. Về khoa học công nghệ và đào tạo
Xây dựng hệ thống nghiên cứu khoa học công nghệ nông nghiệp mạnh và đồng bộ đủ khả năng tiếp thu, làm chủ khoa học công nghệ hiện đại, tạo ra ngày càng nhiều các tiến bộ kỹ thuật có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Đồng thời, đổi mới cơ chế quản lý khoa học, gắn khoa học với sản xuất. Trong 5 năm tới việc nghiên cứu khoa học nông nghiệp cần tập trung vào chọn tạo các giống cây, con có năng suất, chất lượng cao phù hợp với các vùng; các biện pháp thâm canh cây trồng, nuôi dưỡng gia súc, công nghệ sau thu hoạch, những vấn đề kinh tế, quản lý trong cơ chế thị trường. Tăng cường hệ thống khuyến nông, lấy đây làm động lực để đẩy mạnh việc ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ mới. Mỗi Viện, Trường phải xây dựng điểm trình diễn công nghệ mới, công nghệ cao. Với các trường hướng vào nội dung phát triển nguồn nhân lực cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Đa dạng hóa đối tượng đào tạo, ưu tiên đào tạo nghề cho lao động nông thôn; nghiệp vụ quản lý cho cán bộ HTX, chủ trang trại, chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Tăng cường công tác thú y, bảo vệ thực vật, hệ thống quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp; kiểm soát chặt chẽ việc sản xuất, kinh doanh và sử dụng hóa chất, thuốc trừ sâu, thuốc thú y và phân bón.
2.5. Tăng cường công tác thị trường tiêu thụ nông sản trên cơ sở hội nhập kinh tế quốc tế
Chú trọng mở rộng thị trường nội địa, nhất là thị trường nông thôn, miền núi, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa các vùng trong cả nước. Tổ chức các hội chợ, triển lãm, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm, chắp nối bạn hàng và đối tác kinh doanh, thúc đẩy lưu thông hàng hóa trong nước. Tạo điều kiện thuận lợi với khuyến khích thương mại tư nhân cùng HTX tạo thành mạng lưới đại lý tiêu thụ chủ yếu và là đối tác cơ bản ký kết hợp đồng với doanh nghiệp trong việc tiêu thụ nông sản, cung ứng vật tư nông nghiệp và hàng hóa tiêu dùng trên địa bàn nông thôn. Tập trung triển khai các cam kết với ASEAN trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là an ninh lương thực, xúc tiến thương mại, thú y, bảo vệ thực vật, lâm nghiệp, thực hiện các cam kết với WTO về nông nghiệp, kiểm dịch động thực vật, thú y với các nước nhập khẩu nông sản của Việt Nam. Hỗ trợ với hướng dẫn các doanh nghiệp mở rộng thị trường xuất khẩu nông lâm sản, tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng với quản lý chất lượng nông sản hàng hóa, hướng dẫn các doanh nghiệp đăng ký với bảo vệ thương hiệu hàng hóa. Tăng cường công tác thông tin và dự báo thị trường để đáp ứng yêu cầu định hướng đầu tư với phát triển sản xuất của các doanh nghiệp, nông dân.
2.6. Định hướng đầu tư xây dựng cơ bản với quản lý đầu tư
Trong 5 năm tới, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách với các nguồn khác vẫn còn nhiều khó khăn. Vì vậy, kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm 2007 - 2011 phải được tiếp tục điều chỉnh theo hướng đầu tư có trọng tâm, trọng điểm. Hướng đầu tư vẫn tiếp tục ưu tiên cho các chương trình, dự án chọn tạo, nhân giống cây tồng, vật nuôi, giống cây lâm nghiệp; nâng cấp các cơ sở nghiên cứu khoa học, các trường đào tạo, Chương trình 135, Chương trình nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn, Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng. Bố trí đủ vốn đối ứng cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, hỗ trợ xuất khẩu, hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thương mại, těm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng cường công tác thông tin thị trường. Về thủy lợi, ưu tiên bố trí vốn đầu tư để tu bổ các hệ thống đê, các công trình có thể sớm hoàn thành và đi vào sử dụng sẽ có hiệu quả cao. Tiếp tục chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng nguồn vốn Nhà nước, bảo đảm kỷ cương trong công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch; làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá đầu tư trong phạm vi Ngành ở tất cả các cấp, các đơn vị, kịp thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm quy định về quản lý đầu tư.
II. Giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam
1. Thứ nhất: hỗ trợ, ưu đãi các dự án FDI trong nông nghiệp
Các dự án FDI trong nông nghiệp mặc dù được xem thuộc diện khuyến khích và đặc biệt khuyến khích đầu tư và Nhà nước đã áp dụng biện pháp ưu đãi đầu tư với các hình thức: miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu, tiền thuê đất và các hình thức ưu đãi khác. Trong những năm tới cần tiếp tục những hình thức ưu đãi và hỗ trợ này, tuy nhiên để thực hiện những cam kết WTO của Việt Nam về chính sách hỗ trợ nông nghiệp thì việc xem xét để chỉnh sửa các quy định về ưu đãi và hỗ trợ các nhà đầu tư FDI trong nông nghiệp cho phù hợp với cam kết là cần thiết. Cụ thể là:
- Tiếp tục duy trì và mở rộng các ưu đãi, hỗ trợ hiện hành đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nhưng cần loại bỏ các tiêu chí về khuyến khích xuất khẩu và ưu tiên sử dụng nguyên liệu trong nước;
- Tăng cường các biện pháp hỗ trợ thuộc hộp xanh lá cây. Bao gồm: các biện pháp cho nông dân vay vốn ưu đãi để đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu nông sản phục vụ công nghiệp chế biến; hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản; áp dụng hạn ngạch thuế quan thay thế cho biện pháp cấm và áp dụng hạn ngạch về khối lượng nhập khẩu đối với một số mặt hàng như đường, sữa đồng thời đánh thuế nhập khẩu theo mùa; áp dụng thuế suất thuế nhập khẩu cao đối nhập khẩu nguyên thô phục vụ chế biến như đường thô(3), sữa bột…
- Tiếp tục áp dụng biện pháp ưu đãi thuế thu nhập đối với các dự án đầu tư ứng dụng công nghệ sinh học trong sản xuất các loại giống mới, dự án phát triển kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Có chính sách trợ cấp cho nông dân và các doanh nghiệp nông nghiệp khi bị tổn thất vì thiên tai, bị rủi ro về biến động giá thị trường nông sản. Trong điều kiện hạn chế về tài chính, cần tiếp tục nghiên cứu giải pháp hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp nhằm tăng năng lực phòng chống thiên tai, hạn chế rủi ro dịch bệnh, biến động giá nông sản… Chú trọng biện pháp lập và sử dụng quỹ bảo hiểm nông nghiệp cho các trường hợp này.
2. Thứ hai: hỗ trợ vốn tín dụng cho dự án FDI
Hiện nay nguồn vốn tín dụng cho sản xuất nông nghiệp chủ yếu từ các nguồn Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng người nghèo, các chương trình, dự án mục tiêu quốc gia và nguồn của một số ngân hàng cổ phần hoạt động ở nông thôn, điển hình là ngân hàng Liênvietbank…nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu của nông dân và doanh nghiệp. Do vậy, cần phát triển mở rộng phần cung của thị trường vốn tín dụng tại các vùng nông nghiệp nói chung và vùng có các dự án FDI nói riêng theo những hướng sau:
- Xem xét để xóa bỏ sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận nguồn tín dụng của các ngân hàng có nguồn vốn nhà nước. Theo đó, các dự án FDI trong nông nghiệp cũng là đối tượng được hưởng cả 3 chế độ tín dụng từ Ngân hàng phát triển gồm: vay ưu đãi, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư và bảo lãnh tín dụng. Đồng thời, cần tạo điều kiện về thủ tục để các doanh nghiệp FDI được tiếp cận thuận lợi nguồn tín dụng ưu đãi này;
- Hướng dẫn kênh hỗ trợ vốn tín dụng ngân hàng cho các dự án FDI trong lĩnh vực nông nghiệp từ Ngân hàng phát triển để tạo nguồn vốn bổ sung cho các doanh nghiệp FDI đang triển khai một số dự án đầu tư tạo giống, sản xuất sản phẩm xuất khẩu…
- Áp dụng cơ chế bảo lãnh, thế chấp để doanh nghiệp FDI có dự án đầu tư vào lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư được tiếp cận thuận lợi;
- Xem xét phân bổ một phần vốn ODA vào đầu tư hạ tầng nơi triển khai các dự án FDI về mía đường, cây công nghiệp dài ngày, trồng rừng…
3. Thứ ba: về đất đai, mặt nước tạo thuận lợi cho dự án FDI
Cần mạnh dạn thực hiện các chính sách sau:
- Chính quyền địa phương chủ động quy hoạch vùng nguyên liệu nông sản cho nhà đầu tư gắn với các hình thức chuyển giao quyền sử dụng đất từ nông dân sang nhà đầu tư trên cơ sở thỏa thuận giữa nhà đầu tư với doanh nghiệp theo quy định của Luật đất đai hiện hành về các hình thức cho thuê hoặc góp vốn bằng đất để cùng kinh doanh nông nghiệp;
- Ngân sách hoặc các nguồn vay ODA của Việt Nam thực hiện đầu tư giải phóng mặt bằng tại các vùng dự án triển khai;
- Mở rộng và đảm bảo quyền lợi của người nông dân trong việc chuyển giao quyền sử dụng đất cho nhà đầu tư, đi đôi với đảm bảo khả năng sử dụng đất ổn định theo quy hoạch của nhà đầu tư. Đơn giản hóa thủ tục trong việc xác nhận hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận chuyển giao quyền sử dụng từ nông dân sang nhà đầu tư, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư có tài sản hợp pháp về đất để thế chấp khi cần vay vốn tại các tổ chức tín dụng để đầu tư theo nhu cầu của dự án;
- Từng địa phương tiến hành quy hoạch lại việc sử dụng các loại đất của các dự án FDI trong nông nghiệp và xác định kế hoạch sử dụng đất lâu dài cho từng dự án FDI trong nông nghiệp trên địa bàn và chính thức hóa vào hồ sơ rà soát quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương.
4. Thứ tư: hỗ trợ nhà đầu tư FDI phát triển vùng nguyên liệu
Việc xây dựng vùng nguyên liệu ổn định, có chất lượng cao và nằm trong sự kiểm soát của nhà nước là yêu cầu rất bức xúc của các vùng nguyên liệu đã quy hoạch cho từng dự án FDI trong nông nghiệp hiện nay. Vì vậy, cần khuyến khích các nhà đầu tư cùng với Chính phủ Việt Nam đầu tư phát triển các vùng nguyên liệu trong nước để đáp ứng đúng yêu cầu kinh doanh của nhà đầu tư và đảm bảo lợi ích của nông dân đã chuyển giao quyền sử dụng đất cho nhà đầu tư FDI. Chính sách cùng đầu tư phát triển vùng nguyên liệu nông sản nên theo định hướng sau:
- Ngân sách nhà nước hỗ trợ vốn dưới hình thức cho nhà đầu tư FDI vay để xây dựng các hạng kết cấu hạ tầng cứng và mềm cần thiết và sử dụng lâu dài vùng nguyên liệu;
- Ngân sách nhà nước và các tổ chức dụng triển khai các hình thức tín dụng ưu đãi cho nông dân và doanh nghiệp để đầu tư trực tiếp vào cây trồng để tạo vùng nguyên liệu đáp ứng yêu cầu kinh doanh có hiệu quả.
- Chính quyền tỉnh và các huyện có vùng nguyên liệu của dự án FDI có trách nhiệm bảo vệ và duy trì các vùng nguyên liệu đã quy hoạch cho dự án FDI để đảm bảo cung cấp đầy đủ nguyên liệu tập trung cho nhà đầu tư;
- Xác định quyền và trách nhiệm cho nhà đầu tư trong việc đưa ra các biện pháp bảo vệ vùng nguyên liệu của họ. Nhà nước nghiên cứu đưa ra các quy định phù hợp về cả quyền và trách nhiệm của nhà đầu tư với vùng nguyên liệu, đủ đảm bảo giúp nhà đầu tư duy trì và phát triển các vùng nguyên liệu, đồng thời có chính sách hỗ trợ nhà đầu tư xây dựng hạ tầng của vùng nguyên liệu theo quy hoạch. Đồng thời nhà nước cùng nhà đầu tư chăm lo xây dựng các cơ sở văn hóa giáo dục, cơ sở hạ tầng của nông thôn của các cộng đồng dân cư vùng nguyên liệu nhằm gắn lợi ích của họ với vùng nguyên liệu.
5. Thứ năm: phát triển nguồn nhân lực
Để khắc phục những yếu kém và nâng cao tính hấp dẫn của nguồn nhân lực trong các dự án FDI trong nông nghiệp, Nhà nước cần có chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhiều mặt cho lực lượng lao động làm việc cho các dự án này. Chính quyền tỉnh hỗ trợ các nhà đầu tư tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn đội ngũ lao động trực tiếp và lao động gián tiếp cả về kiến thức ngoại ngữ, chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp. Phát triển hệ thống đào tạo nghề ở nông thôn, hệ thống khuyến nông, chuyển giao kỹ thuật, kiến thức kinh tế và kiến thức về thị trường cho người lao động tại chỗ, trong đó có lao động làm việc cho FDI. Phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể địa phương trong việc hỗ trợ các nhà đầu tư FDI tiếp cận người dân, gia đình những người làm việc cho FDI để tạo sự hiểu biết, chia sẻ và hiểu biết lẫn nhau, qua đó phát triển nguồn nhân lực địa phương nói chung và nguồn nhân lực làm việc cho FDI.
KẾT LUẬN
Hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang trở thành một bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế thế giới và là nhân tố quan trọng hàng đầu có nhiều nước, nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế của mỗi quốc gia để phát triển. Nhu cầu đầu tư ngày càng cao trở nên bức thiết trong điều kiện của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, của cuộc cách mạng khoa học. Công nghệ và phân công lao động quốc tế ngày càng tăng. Đối với các nước đang phát triển, đầu tư của nước ngoài là một trong những nhân tố chủ yếu cho sự tăng trưởng kinh tế và một trong những chỉ số cơ bản đánh giá khả năng phát triển.
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước ta luôn coi trọng thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm đại được những mục tiêu đề ra, đặc biệt là mục tiêu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển.
Để đạt được mục tiêu nói trên phải thực hiện tổng hợp các biện pháp trong đó việc đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài có tầm quan trọng hàng đầu, và đây cũng là vấn đề mới mẻ đối với nước ta, nó vừa được triển khai trong bối cảnh cạnh tranh công khai quyết liệt trên thị trường đầu tư giữa các nước trên thế giới và khu vực.
Những chính sách và biện pháp huy động vốn đầu tư nước ngoài, quan trọng là vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cần được quan tâm hơn nữa. Đặc biệt là đầu tư vào nghành nông nghiệp được coi là nền tảng của kinh tế Việt Nam. Nhà nước cần phải đưa ra những chính sách phù hơp với điều kiện hiện tại của đất nước nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư FDI vào Việt Nam nói chung, và tăng cường khả năng thu hút FDI vào lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Có như vậy mới góp phần thực hiện thành công các mục tiêu kinh tế xã hội mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra.
Trong quá trình làm bài đã giúp em học hỏi được nhiều điều bổ ích và hiểu rõ hơn về những hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng. Mặc dù em đã cố gắng trong việc sưu tầm và tìm tài liệu nhưng lượng kiến thức và thời gian còn hạn hẹp, nên bài viết còn nhiều hạn chế và không tránh khỏi sai sót. Một lần nữa em mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô để bài đề án môn học của em được hoàn thiện hơn.
Quy Nhơn, ngày 30/12/2011
Sinh viên thực hiện
Phan Thị Minh Hiền
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH.
[1]. ThS Lê bảo, 2002, Kinh tế đầu tư (tập I, II), Đà Nẵng.
[2]. PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt, 2008, Lập dự án đầu tư, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội.
[3]. Một số trang báo điện tử khác.
Trang web của bộ kế hoạch đầu tư: mpi.gov.vn/
Bộ NN và PTNT: www.agroviet.gov.vn/
Tổng cục thống kê : www. gso.gov.vn/
[4]. Các webside như: báo lao động, Google.com.vn, Tailieu.com.vn …
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 26.doc