Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa

Tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa: Lời mở đầu Cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO (vào ngày 7-11-2006), Quốc hội Hoa kỳ thông qua Quy chế bình thường vĩnh viễn (PNTR. Việt Nam việc tổ chức thành công các hoạt động trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao APEC tại Hà Nội( tháng 11-2006) Thì Việt Nam càng khẳng định hơn nữa vị thế của mình trong cộng đồng quốc tế, ngày càng hội nhập sâu hơn vào thị trường khu vực và thế giới. Từ đó làm gia tăng sự đầu tư của các tập đoàn kinh tế, các quốc gia lớn mạnh trên thế giới, làm gia tăng dòng vốn FDI vào Việt Nam. Nhưng việc hiểu được hết vai trò của FDI lại gặp không ít khó khăn, nhất là việc sự dụng nguồn vốn FDI, việc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào nền kinh tế Việt Nam còn gặp nhiều trở ngại. Làm cho những tác dụng to lớn của FDI cũng giảm thiểu, nhất là tác dụng tạo việc làm cho nền kinh tế. Với ý nghĩa nghiên cứu, phân tích một cách sâu sắc tỷ mỉ về FDI và việc tạo việc làm thông qua FDI trong tiến trình toàn cầu hóa, từ đó đưa ra m...

doc32 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1331 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO (vào ngày 7-11-2006), Quốc hội Hoa kỳ thông qua Quy chế bình thường vĩnh viễn (PNTR. Việt Nam việc tổ chức thành công các hoạt động trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao APEC tại Hà Nội( tháng 11-2006) Thì Việt Nam càng khẳng định hơn nữa vị thế của mình trong cộng đồng quốc tế, ngày càng hội nhập sâu hơn vào thị trường khu vực và thế giới. Từ đó làm gia tăng sự đầu tư của các tập đoàn kinh tế, các quốc gia lớn mạnh trên thế giới, làm gia tăng dòng vốn FDI vào Việt Nam. Nhưng việc hiểu được hết vai trò của FDI lại gặp không ít khó khăn, nhất là việc sự dụng nguồn vốn FDI, việc tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào nền kinh tế Việt Nam còn gặp nhiều trở ngại. Làm cho những tác dụng to lớn của FDI cũng giảm thiểu, nhất là tác dụng tạo việc làm cho nền kinh tế. Với ý nghĩa nghiên cứu, phân tích một cách sâu sắc tỷ mỉ về FDI và việc tạo việc làm thông qua FDI trong tiến trình toàn cầu hóa, từ đó đưa ra một số giải pháp để thu hút FDI và tăng việc làm trong khu vực FDI. Em lựa chọn đề tài: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa”. Trong quá trình ngiên cứu, em sử dụng một phương pháp như phương pháp duy vật biện chừng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp liên hệ, so sánh, thống kê, phân tích và một số phương pháp khác. Kết cấu của đề án gồm 3 phần: Phần một : Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hóa. Phần hai : Thực trạng về đầu tư trực tiếp nước ngoài với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa. Phần ba : Những giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Viêt Nam. Phần một : Cơ sở lý luận về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hóa. 1.1- Toàn cầu hóa, bản chất và tác dụng của nó. 1.1.1- Quan niệm về toàn cầu hóa Thuật ngữ toàn cầu hóa được sử dụng phổ biến từ khoảng cuối thập niên 1980 trở lại đây để diễn đạt một nhận thức mới của loài người về một hiện tượng, một quá trình quan trọng trong quan hệ quốc tế hiện đại. Đây là hiện tượng trong đó các quan hệ xã hội được mở rộng trên toàn thế giới, đã loại trừ dần tình trạng khép kín, biệt lập giữa các quốc gia và đưa đến sự chuyển hoá lẫn nhau trong môi trường quốc tế mà ở đó mỗi nước đều có những vị trí nhất định trong quá trình hình thành, xác lập những quan hệ và ứng xử cộng đồng, những tiêu chí và luật lệ, cơ chế và trật tự cộng đồng. Sự mở rộng quan hệ này được tăng cường tới mức nhiều sự kiện xảy ra tại nơi này nhất thiết tác động đến những sự kiện xảy ra ở nơi khác. Đây là một xu thế khách quan và là một thách thức đối với nhiều nước, nhất là các nước kém phát triển. Toàn cầu hóa tác động trên nhiều mặt của đời sống thế giới: chính trị, kinh tế, thông tin, văn hoá, thể thao, trong đó kinh tế vẫn đóng vai trò chủ yếu. Vậy đòi hỏi mỗi quốc gia và toàn nhân loại phải kiên định và chủ động khai thác hết được tiềm năng mà Toàn cầu hóa mở ra, đồng thời kiểm soát và chế ngự được những tác động tiêu cực của nó đối với các nước kém phát triển, đang phát triển và nhân dân lao động toàn thế giới. 1.1.2- Bản chất và đặc điểm của toàn cầu hóa Bản chất của quá trình toàn cầu hóa Toàn cầu hóa là một xu thế tất yếu khách quan không cưỡng lại được của thời đại. Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, của kinh tế và thị trường thế giới được thúc đẩy bởi những bước tiến như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ mà tất yếu sẽ dẫn đến sự giao lưu, trao đổi và quốc tế hóa trên mọi lĩnh vực đời sống con người và đời sống các quốc gia trong công đồng thế giới. Toàn cầu hóa là một quá trình xã hội hóa ngày càng sâu sắc sự phát triển của lực lượng sản xuất và của quan hệ sản xuất cùng với những mối quan hệ biện chứng giữa chính hai yếu tố này ở quy mô toàn cầu. Động lực của "toàn cầu hóa" là sự phát triển của lực lượng sản xuất, mà lực lượng sản xuất thì không ngừng lớn mạnh. Ðây là quy luật chung nhất cho mọi thời đại, mọi chế độ xã hội Toàn cầu hóa là quá trình giao lưu và quốc tế hóa trên mọi lĩnh vực của đời sống con người và đời sống các quốc gia trong công động thế giới, trong đó toàn cầu hóa kinh tế ngày càng trở thành yếu tố quyết định trong toàn bộ quá trình giao lưu quốc tế. Toàn cầu hóa kinh tế làm cho các nước có quan hệ kinh tế với nhau và phụ thuộc vào nhau chặt chẽ hơn. Động lực thúc đẩy Toàn cầu hóa phát triển là sự tiến bộ khoa học - kĩ thuật và sự mở rộng cơ chế thị trường. Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật của xã hội loài người cả về chiều rộng và chiều sâu làm cho việc quốc tế hoá kinh tế có bước phát triển mới quan trọng. b. Đặc điểm của toàn cầu hóa kinh tế: Toàn cầu hóa diễn ra trong sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích giữa các quốc gia với nhau và lợi ích chung toàn thế giới Sự phát triển của cách mạng khoa học và công nghệ, đặc biệt là sự bùng nổ của cách mạng tin học đã hình thành nền kinh tế tri thức. Sự phát triển của kinh tế thị trường hiện đại thúc đẩy tự do hóa kinh tế và sự thâm nhập kinh tế giữa các nước. Vai trò quan trọng của Nhà nước và sự điều phối của các tổ chức kinh tế thế giới trong tiến trình toàn cầu hóa. 1.1.3- Tác dụng của toàn cầu hóa kinh tế. Đối với các nước đang phát triển Toàn cầu hóa tạo ra những cơ hội mà các nước đang phát triển có thể tận dụng để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống. Những tác động tích cực là: Toàn cầu hóa kinh tế tạo điều kiện cho các nước huy động được những nguồn lực từ bên ngoài cho việc phát triển kinh tế quốc gia: vốn, khoa học-kỹ thuật công nghệ-tri thức,…từ đó việc sử dụng nguồn lực trong nước có hiệu quả hơn. Mở ra khả năng cho các quốc gia phát triển chậm nhanh chóng tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế, hình thành cơ cấu kinh tế- xã có hiệu quả hơn , đẩy nhanh và rút ngắn tiến trình hiện đại hóa. Tạo điều kiện cho các nước hôi nhập vào các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực. Giúp cho các nước đang phát triển nhanh chóng tiếp nhận được thông tin, tri thức mới, góp phần nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực. Chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động tiếp cận dần các chuẩn mực lao động quốc tế. Làm nảy sinh dòng di chuyển lao động trong nước và quốc tế, như những cơ hội việc làm được tạo ra bởi dòng FDI, lao động di chuyển đến các khu công nghiệp-khu chế xuất hay xuất khẩu lao động ,… Bên cạnh mặt tích cực thì Toàn cầu hóa cũng gây ra những tác động tiêu cưc đến các nước đang phát triển, đó là: Khoảng cách giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển ngày càng lớn :những chênh lệch về năng lực, vốn , công nghệ,.. sự cách xa về trình độ phát triển, năng lực sản xuất, …làm các nước đang phát triển khó bắt kịp với các nước phát triển Toàn cầu hóa tạo ra một sự cạch tranh gay gắt trên phạm vi toàn thế giới: công ty có năng suất kém hơn bị phá sản, quốc gia phát triển kém hơn bị tụt hậu…mà thường thì phần thua thiệt là các nước đang phát triển. Các nước đang phát triển trang trủ nguồn lực bên ngoài song chính vì thế mà phụ thuộc nhiều hơn vào hệ thống phân công lao động quốc tế, phụ thuộc vào các cường quốc kinh tế… Đối với vấn đề tạo việc làm Toàn cầu hóa kinh tế tác động đến vấn đề tạo việc làm thông qua các nhân tố: di chuyển vốn, tự do hóa thương mại, di chuyển lao động mang tính chất toàn cầu, cụ thể: Di chuyển vốn kèm theo di chuyển công nghệ, kiến thức kinh doanh và quản lý làm tăng số lượng lao động và nâng cao chất lượng lao động, vốn FDI tạo ra nhiều việc làm mới( cả việc làm trực tiếp và gián tiếp). Tự do hóa thương mại làm đa dạng chủng loại hàng hóa, thúc đẩy mở rộng phân công và hiệp tác lao động giữa các nước, làm cạnh tranh về giá cả, chất lượng hàng hóa, sản xuất, quản lý, … dẫn đến tạo việc làm mới và cũng dẫn đến thất nghiệp nhiều do DN bị phá sản. Cuối cùng, việc di chuyển lao động tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao động, mặt khác tăng sức ép về việc làm và thất nghiệp. Ngoài ra, các nhân tố gián tiếp khác của toàn cầu hóa kinh tế cũng tác động đến vấn đề tạo việc làm : sự phát triển của nền kinh tế tri thức, vận tải quốc tế,… 1.2- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) 1.2.1- Khái niệm, bản chất và đặc điểm của FDI a. Một số khái niệm cơ bản Đầu tư là một hoạt động quan trọng quyết định trực tiếp tới sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là chìa khóa của sự tăng trưởng và là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cở sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Đầu tư nói chung là những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Do đó, mục tiêu của đầu tư là tạo ra được kết quả cao hơn so vơi những hy sinh về nguồn lực ở hiện tai. Đầu tư của một quốc gia gồm có đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài Đầu tư nước ngoài ( hay còn gọi là đầu tư quốc tế) là phương thức đầu tư vốn, tài sản ở nước ngoài để tiến hành sản xuất, kinh doanh hay dịch vụ với mục đích tìm lợi nhuận hoặc vì những mục tiêu chính trị, xã hôi nhất định. Cũng với tiến trình toàn cầu hóa, đầu tư nước ngoài có vai trò ngày càng to lớn đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài( nguồn đầu tư của tư nhân nước ngoài) chiếm vị trí quan trọng nhất. b. Khái niệm về Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI = Foreign Direct Investment) Hiện nay, khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và các quốc gia đưa ra. Hiểu một cách chung nhất, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) chính là hoạt động đầu tư của tư nhân nước ngoài để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh và dich vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Quan điểm về FDI của Việt Nam theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ sung năm 2000: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”, trong đó nhà đầu tư nước ngoài được hiểu là tổ chức kinh tế, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Hay theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, FDI là hình thức đầu tư dài hạn của cá nhân hay công ty nước này vào nước khác bằng cách thiết lập cơ sở sản xuất, kinh doanh và họ trực tiếp nắm quyền quản lý các cơ sở sản xuất kinh doanh đó. Qua các định nghĩa về FDI, có thể rút ra định nghĩa về FDI như sau: “ Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự di chuyển vốn, tài sản, công nghệ hoặc bất kỳ tài sản nào từ nước tiếp nhận đầu tư để thành lập hoặc kiểm soát doanh nghiệp nhằm mục đích kinh doanh có lãi”. c. Bản chất của FDI Qua nhiều lịch sử hình thành và nghiên cứu cho thấy của đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các thời kỳ có thể nhận thấy bản chất của FDI là nhằm mục đích tối đa hóa mục đích đầu tư hay tìm kiếm lợi nhuận ở các nước tiếp nhận đầu tư thông qua di chuyển vốn( bằng tiền và tài sản, công nghệ và trình độ quản lý của nhà đầu tư nước ngoài) từ nước đi đầu tư đến nước tiếp nhận đầu tư. d. Đặc điểm của FDI FDI có một số đặc điểm sau: Thứ nhất, FDI là một dự án mang tính chất lâu dài. Thứ hai, FDI là một dự án có sự tham gia quản lý của các nhà đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu tư có quyền tham gia hoạt động quản lý trong các doanh nghiệp FDI, tùy thuộc vào tỷ lệ vốn đóng góp mà nhà đầu tư có quyền tham gia và quyền tham gia quản lý nhiều hay ít. Thứ ba, đi kèm với dự án FDI là 3 yếu tố: hoạt động thương mại, chuyển giao công nghệ, di cư lao động quốc tế, trong đó di cư lao động quốc tế góp phần vào việc chuyển giao kỹ năng quản lý doanh nghiệp FDI. Thứ tư, FDI là hình thức kéo dài “ chu kỳ tuổi thọ sản xuất”, “ chu kỳ tuổi thọ kỹ thuật” và “ nội bộ hóa di chuyển kỹ thuật”. Trong nền kinh tế hiện đại chính phương thức đầu tư trực tiếp nước ngoài là một điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của mình. FDI sẽ giúp cho các doanh nghiệp thay đổi được dây chuyền công nghệ lạc hậu ở nước mình nhưng dễ được chấp nhận ở nước có trình đọ phát triển thấp hơn và góp phần kéo dài chu kỳ sản xuất. Thứ năm, FDI là sự gặp nhau về nhu cầu của một bên là nhà đầu tư và một bên là nước tiếp nhận đầu tư. Thứ sáu, FDI gắn liền với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và tiến trình toàn cầu hóa kinh tế. Chính sách về FDI của mỗi quốc gia tiếp nhận đầu tư thẻ hiên chính sách mở cửa và quan điểm hội nhập quốc tế về đầu tư. 1.2.2- Tác dụng của FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của một quốc gia, tác động trực tiếp đến mọi mặt của đời sống, kinh tế- xã hội và chính trị của nước tiếp nhận đầu tư.Trước hết, FDI bổ sung một nguồn vốn quan trọng cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, đóng góp vào GDP, vào Ngân sách Nhà nước và kim ngạch xuất khẩu. Đối với các nước nghèo và đang phát triển, vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với phát triển kinh tế,FDI là biện pháp hữu hiệu để tăng vốn cho đầu tư, huy động các nguồn lực để phát triển kinh tế để tạo ra tăng trưởng kinh tế dẫn đến tăng thu nhập. Từ đó, kích thích sản xuất trong nước, tạo thêm nhiều việc làm và tăng thu nhập cho người lao động, từ đó kích thích tiêu dùng. FDI góp phần nâng cao chất lượng lao động, phát triển nguồn nhân lực. FDI không chỉ tạo ra số lao động trực tiếp và gián tiếp mà đã làm thay đổi cơ bản, nâng cao năng lực, kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp thông qua:trực tiếp đào tạo lao động và gián tiếp nâng cao trình độ lao động. FDI tạo ra một bộ phận lực lượng lao động có trình độ cao ngang tầm với khu vực và quốc tế, với các tiêu chuẩn lao động quốc tế, giúp tạo ra đòn bẩy nâng cao trình độ, năng suất lao động và điều kiện lao động trong toàn bộ nền kinh tế. FDI tác động đến phát triển công nghệ, tri thức, nâng cao kỹ năng và trình độ quản lý của một quốc gia. Việc chuyển giao công nghệ thông qua FDI đã làm cho “khoảng cách công nghệ” giữa nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Mặt khác, FDI tạo ra những năng lực mới cho nền kinh tế, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngoài ra, FDI tác động đến văn hóa, xã hội, mỹ quan, môi trường,.. của nước tiếp nhận đầu tư cả về mặt tích cực và tiêu cực. 1.3- Việc làm và tạo việc làm cho người lao động. 1.3.1- Một số khái niệm Việc làm: Nhìn chung, trong các lý thuyết về việc làm, các học giả đều thống nhất cho rằng mọi hoạt động được coi là việc làm khi đáp ứng đủ 2 tiêu chuẩn sau đây: Thứ nhất, hoạt động đó phải đem lại thu nhập cho người lao động hoặc tạo điều kiện cho người lao động tham gia để tạo thu nhập hoặc giảm chi phí gia đình. Thứ hai, đó là các hoạt động không bị luật pháp ngăn cấm. Bộ Luật lao động Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tại Điều 13 quy định: “ Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm” Theo Giáo trình Kinh tế lao động của khoa Kinh tế Lao động- Trường Đai học kinh tế quốc dân, thì khái niệm việc làm được hiểu : “ Việc làm là trạng thái phù hợp về số lượng và chất lượng giữa tư liệu sản xuất với sức lao động để tạo ra hang hóa theo yêu cầu của thị trình”. Như vậy theo khái niệm này có thể hiểu việc làm là một phạm trù để chỉ trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất hoặc những phương tiện để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Hay theo Tổ chức Lao động quốc tế ( ILO): “Việc làm là hoạt động được trả công bằng tiền và bằng hiện vật”. Thất ngiệp là một hiện tượng kinh tế-xã hội phổ biến ở các nước đang phát triển cũng như các nước công nghiệp tiên tiến. Theo đúng nghĩa của từ thất nghiệp là mất việc làm hay sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất. Thất nghiệp luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi quốc gia, nó không chỉ làm lãng phí “ tài sản” quý nhất là nguồn lực con người mà còn gây ra những hậu quả tâm lý- xã hội xấu đi kèm những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự không lường. Phạm trù việc làm và thất nghiệp luôn gắn liền với phạm trù con người, do vậy hình thành nên khái niệm người có việc làm, người thiếu việc làm, người thất nghiệp. Tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 13 của Tổ chức Lao động quốc tế ( ILO) các nhà thống kê về Lao động đưa ra các khái niệm như sau: Người có việc làm là người làm một việc gì đó được trả công, lợi nhuận bằng tiền hoặc hiện vật hoặc tham gia vào các hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình không nhận được tiền công hay hiện vật. Người thiếu việc làm là người có số giờ làm việc trong tuần lễ điều tra dưới mức quy định chuẩn và họ có nhu cầu làm them. Còn theo tài liệu điều tra lao động- việc làm hang năm của Bộ Lao động , Thương binh và Xã hội thì khái niệm người thất ngiệp như sau: Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên thuộc nhóm dân số hoạt động kinh tế mà trong tuần lễ điều tra không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc và sẵn sang làm việc nhưng không tìm được việc làm, được xác định dựa trên yếu tố: Có hoạt động đi tìm việc làm trong 4 tuần qua; hoặc không có hoạt động đi tìm việc làm trong 4 tuần qua vì các lý do không biết tìm ở đâu hoặc tìm mãi không được. Hoặc trong tuần lễ trước điều tra có tổng số giờ việc làm dưới 8 tiếng, muốn làm thêm nhưng không tìm được việc. Tạo việc làm: Xét về bản chất thì việc làm là trạng thái phù hợp giữa hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất bao gồm cả về mặt số lượng và chất lượng. Nhưng đây mới chỉ là điều liện cần thiết để có việc làm vì trạng thái phù hợp này còn cần nhiều yếu tố khác. Do vậy, tạo việc làm là một quá trình trong đó việc tạo ra chỗ làm việc và thu hút người lao động vào làm việc mới chỉ là khâu đầu tiên của quá trình đó, Chính vì vậy, tạo việc làm là quá trình: Một là, tạo ra số lượng và chất lượng tư liệu sản xuất. Việc tạo ra tư liệu sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố, cụ thể như:vốn đầu tư, và tiến bộ khoa học kỹ thuật áp dụng trong sản xuất và khả năng quản lý, sử dụng đối với tư liệu sản xuất đó Hai là, tạo ra số lượng và chất lượng sức lao động. Số lượng sức lao động phụ thuộc vào quy mô dân số, các quy định về độ tuổi lao động và sự di chuyển lao động. Chất lượng lao động thì phụ thuộc vào sự phát triển của giáo dục, đào tạo và sự phát triển y tế, thể thao, chăm sóc sức khỏe cộng đồng.. Ba là, sự hình thành môi trường cho sư kết hợp các yếu tố tư liệu sản xuất và sức lao động. Môt trường cho sự kết hợp này bao gồm hệ thống các chính sách phát triển kinh tế- xã hội, chính sách khuyến khích và thu hút người lao động, chính sách bảo hộ sản xuất, chính sách thất nghiệp, chính sách khuyến khích và thu hút đầu tư,… Bốn là, thực hiện các giải pháp để duy trì việc làm ổn định và có hiệu quả cao. Các giải pháp này có thể kể đến các nhóm giải phát về quản lý và điều hành, về thị trường đầu vào và thị trường đầu ra, các giái pháp duy trì và nâng cao chất lượng của sức lao động, kinh nghiêm quản trị kinh doanh của người sử dụng lao động… Mặt khác việc làm chỉ có thể tạo ra khi cả người sử dụng lao động và người lao động gặp gỡ trao đổi nhất trí về sử dụng sức lao động. Do đó, cơ chế tạo việc làm phải được xem xét ở cả phía người sử dụng lao động và người lao động đồng thời không thể thiếu vai trò của Nhà nước, cụ thể: Về phía người sử dụng lao động Người sử dụng lao động có vai trò tạo chỗ làm việc và duy trì chỗ làm việc. Để tạo chỗ làm việc phải có vốn, nắm bắt được công nghệ, có kiến thức và kinh nghiệm trong tổ chức quản lý và phải có được thị trường. Mặt khác, muốn tạo việc làm người sử dụng lao động phải đến thị trường lao động để thuê lao động, chỉ khi người sử dụng lao động thuê được sức lao động cho chỗ làm việc của họ thì việc làm mới được hình thành. Về phía người lao động Người lao động muốn có việc làm phải có sức khỏe, kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo phù hợp với công việc đòi hỏi. Do vậy, người lao động phải đầu tư cho chính bản thân họ, thể hiện ở sự đầu tư nâng cao sức khỏe, đầu tư vào giáo dục và đào tạo, chuyên môn nghề nghiệp. mặt khác, người lao động phải chủ động kiếm việc làm và nắm bắt các cơ hội về việc làm. Về phía Nhà nước Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo việc làm, thể hiện trong việc tạo ra môi trường thuận lợi cho việc làm hình thành và phát triển, tạo ra môi trường thuận lợi cho người sử dụng lao động và người lao động phát huy được khả năng của họ, đưa ra các chính sách kiên quan đến người sử dụng lao động và người lao động, cụ thể như các chính sách về khuyến khích đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, chính sách bảo hộ sản xuất trong nước,….và các chính sách về giáo dục- đào tạo, chính sách về sức khỏe- y tế- xã hội. Nhà nước đảm bảo phân bổ các nguồn lực hợp lý, tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh tạo việc làm. Nhà nước có vai trò trong hệ thống hướng nghiệp, các trung tâm giao dịch, giới thiệu việc làm…,tạo ra cơ sở pháp lý để cho thị trường lao động phát triển,… 1.3.2- Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động Sự cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động được thể hiện bởi các lý do sau: Một là, trong tiến trình toàn cầu hóa, hôi nhập kinh tế quốc tế, cùng với việc dịch chuyển cơ cấu lao động sẽ kéo theo sự dich chuyển cơ cấu lao động; sự phân công lao động trong nước cũng như quốc tế. Kết quả là một số nghề cũ mất đi, một số nghề mới ra đời, có các dòng người di chuyển từ nơi có thu nhập thấp đến nơi có thu nhập cao, di chuyển từ nông thôn ra thành thị, từ nước này sang nước khác kiếm việc làm, gây nên sức ép về việc làm và tăng thất nghiệp. Mặt khác nước ta có quy mô dân số tương dối lớn, tỷ lệ tăng dân số cao và cơ cấu dân số thuộc loại dân số trẻ. Hàng năm, có khoảng từ 1.4-1.5 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động, cùng với số lao động thất nghiệp của các năm trước sẽ trở thành gánh nặng cho các gia đình và xã hội, ảnh hưởng đến trât tự. Do đó, cần thiết phải tạo việc làm cho số lao động bị thất nghiệp và giảm sức ép về việc làm. Hai là tạo việc làm đầy đủ cho người lao động còn có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với người lao động, ở chỗ cho họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó có quyền cơ bản nhất là được làm việc, nhằm nuôi sống bản thân và gia định và góp phần xây dựng đất nước. Ba là, tạo việc làm cho người lao động tạo điều kiện tăng thu nhập, nâng cao đời sống, từ đó tăng vị thế cho người lao động trong và ngoài xã hội. Bốn là, với ý nghĩa con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội, con người với lao động của mình tạo ra của cải vật chất, tinh thần chủ yếu cho xã hội, quyết định sự phát triển kinh tế- xã hội của một quốc gia. Song chỉ khi con người được làm việc, tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, thì nền kinh tế, xã hội ngày càng văn minh và phát triển. Do đó, cần thiết phải tạo việc làm cho người lao động. 1.4- Tác động của FDI với vấn đề tạo việc làm cho người lao động trong tiến trình toàn cầu hóa. 1.4.1-Về mặt số lượng: FDI tạo ra việc làm trực tiếp trong chính khu vực FDI. Việc làm trực tiếp là việc làm được trực tiếp tạo ra trong hệ thống của doanh nghiệp FDI ,đó là các việc làm do doanh nghiệp tuyển dụng và trả lương., được tạo ra bởi chính nguồn vốn FDI, được tính theo bảng lương của doanh nghiệp FDI. Cùng với sự xuất hiện và lớn mạnh của khu vực FDI một số khu vực sản xuất và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ cho khu vực có FDI cũng phát triển theo và tạo ra số việc làm đáng kể. Đa số các doanh nghiệp FDI có mạng lưới tiêu thụ rộng khắp sử dụng lao động bán hàng, quảng cáo, tiếp thị,…Khu vực FDI sử dụng các nguồn lực khác trong nước ít nhiều nhờ đó tạo ra việc làm gián tiếp cho những đơn vị cung cấp. Các dự án FDI cũng tạo ra hàng vạn chỗ làm việc cho ngành xây dựng trong nước thông qua nhu cầu xây dựng nhà xưởng, văn phòng, cơ sở hạ tầng,… Do vậy khi đánh giá tác động của FDI trong tạo việc làm còn phải xác định số lượng việc làm gián tiếp do FDI tạo ra. Số lượng việc làm gián tiếp được xác định là việc làm tạo ra trong các hoạt động của các ngành, các tổ chức, doanh nghiệp khác ngoài khu vực FDI nhưng lại phục vụ cho hoạt động của khu vực FDI. Nhận thấy, phần lớn các doanh nghiệp FDI còn tạo ra việc làm gián tiếp với số lượng lớn hơn nhiều so với số lượng việc làm trực tiếp mà nó tạo ra. Số lượng việc làm trục tiếp và gián tiếp phụ thuộc vào vốn đầu tư, vào điều kiện của từng quốc gia, từng khu vực và từng loại hoạt động được tiến hành. - Tạo ra lao động trực tiếp trong chính khu vực có FDI. 1.4.2- Về mặt chất lượng: Khi nghiên cứu tạo việc làm thông qua FDI các nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc xác định số lượng và các cơ hội việc làm tạo ra một cách một cách trực tiếp hay gián tiếp mà còn phân tích chất lượng của việc làm thông qua các chỉ tiêu Vốn/ lao động ( hay vốn/chỗ làm việc), trình độ lao động, điều kiện lao động, tiền lương và thu nhập của lao động, năng suất lao động, tính ổn định của lao động,… Nhìn chung, việc làm được tạo ra từ nguồn FDI có chất lượng cao hơn việc làm từ các nguồn trong nước. Vốn đầu tư/ lao động là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng việc làm theo đầu vào. Vốn và công nghệ thường có quan hệ thuận nên với với những điều kiện khác không đổi tỷ lệ vốn/lao động càng cao phản ánh trình độ công nghệ càng cao. Chỉ tiêu vốn/ lao động trong khu vực có FDI cao hơn nhiều so với yêu cầu về vốn để tạo ra một chỗ làm việc ở khu vực trong nước. Do đó, công nghệ sử dụng nguồn vốn FDI nói chung là cao hơn ở khu vực trong nước. Điều kiện lao động ở các doanh nghiệp có FDI tốt hơn so với các doanh nghiệp có vốn trong nước cùng ngành, cùng lĩnh vực, thể hiện ở điều kiện nhà xưởng, công cụ lao động, môi trường lao động,… Việc làm trong khu vực có FDI đòi hỏi lao động có trình độ tương đối cao so với khu vực trong nước. Lao động trong khu vực FDI được tuyển chọn cẩn thận và phải đáp ứng các yêu cầu cao về chuyên môn kỹ thuật và nhất là kỷ luật, tác phong làm việc,… Năng suất lao động cao hơn là một kết quả tất yếu của khu vực có FDI. Với trình độ công nghệ cao hơn, trình độ quản lý và trình độ tổ chức cao hơn, năng suất lao động ở đây cao hơn khu vực khác. Tiền lương và thu nhập ở khu vực FDI cao hơn so với các khu vực trong nước. Từ mức tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định cho đến mức tiền lương bình quân ở khu vực này cũng cao hơn. Mặt khác, do yêu cầu kỹ thuật và công nghệ cao hơn mà chi phí tiền lương cũng cao hơn so với khu vực trong nước. Phần hai : Thực trạng về đầu tư trực tiếp nước ngoài với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Việt Nam trong tiến trình toàn cầu hóa. 2.1- Ảnh hưởng của tiến trình toàn cầu hóa đối với Việt Nam. Toàn cầu hóa là một hiện thực mới ở Việt Nam, nước ta mới chỉ thực sự làm quen với toàn cầu hóa trong vòng 20 năm trở lại đây. Hiện nay, làn sóng toàn cầu hóa xảy ra với tốc độ cao hơn, cường độ mạnh hơn, và phạm vi rộng lớn hơn rất nhiều so với trước đây. Vì vậy, Việt Nam phải có có ý thức chủ động hòa mình vào làn sóng ấy. Cần phải nhận thấy, xu thế toàn cầu hóa hiện nay mang lại nhiều cơ hội và nhiều thách thức cho Việt nam .Từ việc toàn cầu hóa là nhân tố thúc đẩy cơ cấu lại và hiện đại hóa kinh tế, phát triển nguồn nhân lực, tăng năng suất lao động và cải thiện thu nhập cho người dân làm tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế-xã hội, mở ra con đường phát triển lâu dai bền vững cho nước ta..Đến những tác động tiêu cực như: đói nghèo, bất bình đẳng, sự tụt hâu, thấp kém của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Do đó, Việt Nam cần phải tỉnh táo, chủ động hội nhập và đối phó có hiệu quả với những thách thức và biết phát huy những cơ hội do toàn cầu hóa tạo ra. 2.2- Tình hình thu hút và thực hiện FDI ở Việt Nam Trong nhiều năm trở lại đây, cùng với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh và đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam. Với quy mô, cơ cấu, tổng vốn đầu tư, vốn thực hiện và thành quả mà FDI tạo ra, có thể nhận thấy FDI đã đóng góp một phần đáng kể vào GDP, Ngân sách Nhà nước , đã tạo việc làm, tăng thu nhập và nâng cao đời sống, năng lực sản xuất cho nền kinh tế- xã hội Việt Nam. Năm 2006, đầu tư trực tiếp nước ngoài là điểm sáng nổi bật nhất trong bức tranh toàn cảnh kinh tế Việt Nam. Tổng vốn FDI đăng ký mới và đầu tư bổ sung đạt trên 10,2 tỷ USD,mức cao nhất kể từ năm 1988 đến nay( trước đây cao nhất là 8,6 tỷ USD năm 1995). trong đó có khoảng 800 dự án được cấp mới, với tổng vốn đăng ký trên 7,6 tỉ USDvà 490 lượt dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất với số vốn tăng thêm khoảng 2,42 tỉ USD. Vốn bình quân 1 dự án 8,4 triệu USD tăng 1,2 triệu USD năm 2005, chứng tỏ số lượng dự án có quy mô lớn đã tăng. Ước tính vốn thực hiện trong năm 2006 đạt khoảng 4,1 tỉ USD, tăng 24,2% so với năm 2005. Địa phương thu hút nhiều dự án và vốn đầu tư là Bà Rịa- Vũng Tàu, thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương. xuất hiện của một số dự án mới có quy mô lớn từ các tập đoàn xuyên quốc gia Nhật Bản, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, như dự án của Công ty thép Posco có vốn đầu tư 1,126 tỉ USD, dự án của Tập đoàn Intel với tổng vốn đầu tư 1 tỉ USD, dự án của Tập đoàn Tycoons với tổng vốn đầu tư 556 triệu USD, dự án Tây Hồ Tây vốn đầu tư 314,1 triệu USD, dự án Winvest Investment với vốn đầu tư 300 triệu USD... Nhiều dự án được cấp phép đã tích cực triển khai thực hiện như các nhà máy của Công ty Hoya Glass Disle, Canon, Matsushita, Brothers Industries, Honda… Ước tính vốn thực hiện trong năm 2006 đạt khoảng 4,1 tỉ USD, tăng 24,2% so với năm 2005. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục khả quan. Doanh thu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong năm 2006 đạt 29,4 tỉ USD, tăng 31,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, giá trị xuất khẩu (trừ dầu thô) đạt 14,6 tỉ USD, tăng 31,2% so với cùng kỳ. Nếu tính cả dầu thô thì giá trị xuất khẩu năm 2006 đạt 22,6 tỉ USD, chiếm 57% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,5%, cao hơn mức tăng sản xuất công nghiệp bình quân của cả nước (18,5%). Nhập khẩu của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong năm 2006 đạt 16,35 tỉ USD, tăng 19,3% so với năm 2005. Trong năm 2006, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài nộp ngân sách nhà nước đạt 1,26 tỉ USD, tăng 17,3% so với cùng kỳ. 2.3- Thực trạng về lao động, việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam trong những năm qua. 2.3.1- Nguồn lao động: Về số lượng Theo điều tra lao động việc làm (của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) ngày 1/7/2995 lực lượng lao động cả nước là 44385 nghìn người trong đó nữ chiếm 48,7%, bình quân hàng năm tăng 844 ngìn người với tốc độ tương ứng là 1,7%/năm, nhóm lực lượng lao động trẻ từ 15-34 là 20582,1 nghìn người chiếm 46,38%, nhóm cao tuổi trên 55 tuổi là 3637,3 nghìn người chiếm 8,18%. Có thể nhận thấy lực lượng lao động nước ta khá dồi dào, mức tăng lao động cao. Lao động trẻ chiếm tỷ lệ lớn, đây là lực lượng chính tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế nước ta. Về chất lượng Nguồn lao động nước ta tuy dồi dào về số lượng nhưng lại thấp về chất lượng. Trình độ học vấn của lao động Việt Nam, kể cả lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn được chuyên gia quốc tế đánh giá vào loại khá so với nhiều nước trên thế giới, nếu như năm 2004 mới chỉ có 47% nguồn lao động có trình độ phổ thông cơ sở và phổ thông trung học, thì đến đầu năm 2006 con số này là 58%. Tuy nhiên, trình độ chuyên môn thì quá thấp, năm 2005 lao động qua đào tạo chiếm 24,8%, trong đó 19% qua đào tạo nghề, lao động tuy đã qua đào tạo, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu sử dụng doanh nghiệp thường phải đào tạo lại. Tay nghề, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ thấp và kỹ năng làm việc còn thấp, mang nặng thói quen và tập quán sản xuất nhỏ, kỷ luật lao động lỏng lẻo, thiếu trách nhiệm đối với công việc; quan hệ hợp tác yếu và hầu hết không biết ngoại ngữ. Mặt khác, thể lực và tình hình sức khoẻ nói chung của lao động Việt Nam yếu so với nhiều nước về cân nặng, chiều cao và sức bền. Đã làm cho lao động Việt Nam không còn ưu thế, khi thị trường lao động cần công nhân có kỹ thuật, tay nghề cao có xu hướng tăng lên để cung cấp cho các doanh nghiệp, mà chúng ta chưa có Từ đó, ảnh hưởng đến sự tham gia của lao động Việt Nam trong hợp tác và phân công lao động quốc tế. Đây chính là thách thức lớn khi nước ta đứng trước xu thế hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. 2.3.2- Việc làm và tình hình tạo việc làm Giai đoạn từ 2001 đến năm 2005, trung bình mỗi năm cả nước tạo việc làm cho hơn 1,5 triệu lao động, trong đó lao động là thanh niên chiếm khoảng 70%. Thông qua các chương trình kinh tế - xã hội đã giải quyết việc làm cho khoảng 3 - 4 triệu thanh niên; qua Quỹ quốc gia giải quyết việc làm là 1,7 triệu người . Năm 2005, đã có trên 70.000 lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài, đưa tổng số lao động Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài lên trên 400.000 người, thu nhập 1,5 tỷ USD. Riêng năm 2006, cả nước đã tạo việc làm cho 1,572 triệu người; xuất khẩu lao động và chuyên gia 78.855 người. Tuy nhiên chất lượng lao động còn thấp kém, chưa đáp ứng được các yếu cầu của doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nước ngoài. Trình độ chuyên môn nghề nghiệp thấp, vẫn dựa theo các truyền thống và thông lệ làm việc lạc hậu, lại khó thích nghi với tác phong công nghiệp, kém về tinh thần trách nhiệm và kỷ kuật lao động. Do đó, làm cản trở các doanh nghiệp thu hút, tuyển lao động vào làm việc. Theo Bộ LĐ-TB-XH, thời gian qua việc quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, đầu tư các công trình trọng điểm chưa gắn với các giải pháp về đào tạo, sử dụng lao động, chuyển đổi nghề, tái tạo việc làm, tạo việc làm ổn định cho người lao động trong vùng. Ngoài ra, cơ cấu ngành nghề đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của thị trường, thiếu lao động kỹ thuật cao, chất lượng lao động thấp. Đây là những điểm yếu mà lao động Việt Nam cần khắc phục. 2.3.3- Thất nghiệp ở Việt Nam. Theo điều tra lao động- việc làm, năm 2005 tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam là 2,1%, trong đó thất nghiệp thành thị là 5,31% và thất nghiệp nông thôn là 1,1%. Trong những năm qua tỷ lệ thất nghiệp có giảm liên tục và tỷ lệ thấp nghiệp là không cao, tuy nhiên tỷ lệ thiếu việc làm lại rất lớn , ngay ở khu vực nông thôn tỷ lệ sử dụng thời gian lao động mới đạt khoảng 80%; nếu quy từ số thiếu việc làm ra thì tỷ lệ thất nghiệp sẽ lên đến hai con số và đó là tỷ lệ cao. Mặt khác 88,9% những người thất nghiệp là thất nghiệp dài hạn, trong đó 80% là do không có nghề. Trong khi tỷ lệ thất nghiệp chung là 2,1% thì tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên nhóm tuổi (15-24) là 4,6% ( ở thành thị là 13,4% ,chiếm trên 70% số người thất nghiệp). Từ đó gây nên những hậu quả kinh tế- tâm lý- xã hội nặng nề, gây ra những tệ nạn xã hội , làm gia tăng tội phạm,tội ác,… Một số chỉ tiêu cơ bản của thị trường lao động Việt Nam giai đoạn 1996-2005: 1996 1997 1998 1999 2002 2001 2002 2003 2004 2005 Tốc độ tăng GDP (%) 9,34 8,15 5,8 4,8 6,75 6,8 7,04 7,26 7,7 8,4 Lực lượng lao động (triệu người) 36,1 36,7 37,8 39,0 39,3 40,1 41,0 41,0 42,1 44,4 Tỷ lệ lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật(%) 11,0 12,7 13,4 14,1 15,4 16,8 18,7 21,2 22,6 24,8 Tỷ lệ lao động làm công ăn lương trong tổng số có việc làm(%) 16,8 18,5 21,2 18,2 18,4 20,7 20,4 21,9 25,6 25,6 Tỷ lệ thất nghiệp chung (%) 1,9 2,9 2,3 2,3 2,3 2,8 2,1 2,3 2,1 2,1 Tỷ lệ thất nghiệp thành thị (%) 5,7 5,8 6,6 6,5 6,3 5,4 5,8 5,6 5,4 5,3 Tỷ lệ thiếu việc làm 10,2 17,3 13,1 10,9 8,6 14,4 13,7 11,8 9,2 - (Nguồn: Tạp chí Lao động và xã hội – số 300, từ ngày 1-15/12/2006) 2.4- Vấn đề tạo việc làm thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI tại Việt Nam hiện nay. 2.4.1 Về mặt số lượng: Cùng với sự gia tăng dòng vốn FDI, sự xuất hiện ngày càng nhiều các doanh nghiệp, công ty, các dự án có quy mô lớn của các tập đoàn xuyên quốc gia thì số lượng lao động được tuyển vào làm việc trong khu vực này cũng tăng lên lien tục. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và Đầu tư, đến cuối năm 2005, khu vực FDI đang thu hút khoảng 880 nghìn lao động trực tiếp và hơn 2 triệu lao động gián tiếp. Nếu giai đoạn 1996-2000, trung bình mỗi năm các doanh nghiệp có vốn FDI thu hút được hơn 40 nghìn lao động, thì giai đoạn 2001-2005 đã tăng lên hơn 100 nghìn người ( chiếm 7-8% tổng số việc làm mới được tạo ra của cả nước). Tính đến thời điểm đầu năm 2005, tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp và xây dựng khu vực FDI chiếm 82,4%, nông-lâm nghiệp và thủy sản là 10,2% và các ngành dịch vụ là 7.4%. Điều này phản ánh xu thế công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở nước ta. Mặt khác có sự dịch chuyển cơ cấu lao động theo hình thức FDI, tỷ lệ lao động trong các doanh nghiệp lien doanh giảm mạnh thay vào đó là sự gia tăng trong các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Bên cạnh lao động trực tiếp các doanh nghiệp FDI đã tạo ra việc làm cho một lực lượng đông đảo lao động gián tiếp, lên khoảng hơn 2 triệu người thông qua vệ tinh cung cấp các sản phẩm và dịc vụ. mặt khác, xu hướng liên kết giữa doanh nghiệp có vốn FDI và các vệ tinh được dự báo sẽ tiếp tục phát triển và mở rộng trong tương lai và là nguồn tạo việc làm quan trọng cho xã hội. (Nguồn số liệu từ: Cục đầu tư nước ngoài- Bộ Kế hoạch và Đầu tư) 2.4.2 Về mặt chất lượng: Có thể khẳng định chất lượng lao động trong các doanh nghiệp FDI cao hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác. Một tỷ lệ lớn người lao động trong khu vực này đã được đào tạo và đào tạo lại để nâng cao kỹ năng quản lý, trình độ chyên môn,nghiệp vụm tay nghề cũng như thay đổi tác phong làm việc nhằm thích ứng với điều kiện và cơ chế làm việc mới. Nhờ đó, người lao động có thể nắm bắt và làm chủ được các công nghệ hiện đại, từng bước thay thế các chuyên gia nước ngoài, thậm chí có thể cải tiến và thích nghi với các công nghệ mới,… Điều kiện lao động tại các doanh nghiệp có FDI cũng tốt hơn đáng kể so với các đơn vị khác cùng ngành. Khu vực FDI có điều kiện nhà xưởng, trang bị bảo hộ lao động tốt hơn, mội trường lao động cũng sạch sẽ hơn. Khu vực FDI chú trọng hơn vào việc đào tạo cho người lao động. Tỷ lệ vốn/lao động của khu vực FDI cao hơn hẳn so với các khu vực khác trong nước. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc , nâng cao tay nghề phát huy tính sang tạo, tự chủ. FDI đã góp phần cải thiện thu nhập của một số lượng lao động và tăng cường sức mua của người dân. Theo kết quả điều tra về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam do Tổng cục Thống kê tiến hành năm 2003, mức thu nhập bình quân của một lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI đạt 1,774 triệu đồng/ tháng, cao hơn đáng kể so với doanh nghiệp Nhà nước ( 1,495 triệu đông) và các doanh nghiệp tư nhân (1,046 triệu đồng). Tổng thu nhập của tất cả lao động làm việc trong khu vực FDI ước tính đạt hơn 1 tỷ USD/ năm. 2.5- Những hạn chế tạo việc làm thông qua FDI ở Việt Nam FDI là một trong những giải pháp quan trọng của nước ta trong quá trình phát triển kinh tế- xã hội , tạo việc làm, giảm thiểu thất nghiệp, tăng thu nhập, nâng cao dời sống cho người dân,.. của nước ta. Nhưng hiện nay, việc thu hút nguồn vốn FDI, thu hút các nhà đầu tư vào Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, thách thưc. Vấn đề nầy xuất phát bởi những hạn chế sau: Môi trường đầu tư, cơ sở vật chất hạ tầng còn thấp kém và lạc hậu. Hệ thống pháp luật còn bất cập, phức tạp và chồng chéo, hệ thống chính sách chưa động bộ và hiệu quả. Hệ thống ngân hàng hoạt động kém hiệu quả. Sức mua hạn chế của thị trường trong nước gây sự e ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp là yếu tố gây cản trở và làm chuyển hướng đầu tư sang các nước khác. Thiếu giải pháp khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp, công nghiệp chế biến nông sản và khu vực nông nghiệp,… Điều kiện ăn, ở, đi lại của người lao động làm việc xa nhà nhất là trong các khu công nghiệp và khu chế xuất gây em ngại cho lao động đến làm ở đây,… 2.6- Triển vọng thu hút FDI và tạo việc làm thông qua FDI năm 2007 của nước ta. Về tình hình thu hút FDI năm 2007: Dự báo tình hình FDI năm 2007 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư : Vốn thực hiện đạt 4,2 - 4,5 tỉ USD, tăng 24% so với năm 2006; Vốn cấp mới đạt 6,8 tỉ USD, (tăng 5% so với năm 2006) trong đó vốn đầu tư cấp mới đạt khoảng 5 tỉ USD, số còn lại là vốn tăng thêm. Cơ cấu ngành: công nghiệp - xây dựng khoảng 60%, nông - lâm -ngư nghiệp 6% và dịch vụ 34%; Doanh thu xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) đạt 17 tỉ USD (tăng 23% so với năm 2006), nhập khẩu 19 tỉ USD (tăng 16,5 % so với năm 2006). Về vấn đề tạo việc làm: Dự báo của Vụ Lao động - Việc làm, từ nay đến 2010, mỗi năm sẽ có khoảng 1,4 - 1,5 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Bên cạnh đó số lượng lao động thiếu việc làm và thất nhiệp là còn lớn. Do đó, chỉ tiêu mà Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề ra cho năm 2007 là tạo việc làm cho 1,6 triệu lao động trong đó tạo việc làm trong nước là 1,52 triệu lao động, xuất khẩu lao động là 80.000 người. Giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị dưới 5%. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ tuyển dụng thêm 24 vạn lao động trực tiếp, đưa tổng số lao động trong khu vực đầu tư nước ngoài lũy kế đến cuối năm 2007 lên 1,4 triệu người. Phần ba : Những giải pháp thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với vấn đề tạo việc làm cho người lao động Viêt Nam. 3.1- Những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam Bước vào kỷ nguyên mới, nước ta đang đứng trước nhiều cơ hội mới ở các trong nước và quốc tê rất thuận lợi cho việc thu hút mạnh mẽ nguồn vốn FDI. Các cơ hội đó là: Thứ nhất, tình hình kinh tế chính trị ổn định với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong suốt 15 năm qua đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam. Cùng với việc Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Quốc hội Hoa kỳ thông qua Quy chế bình thường vĩnh viễn(PNTR) dành cho Việt Nam. Hứa hẹn sẽ thu hút nhiều nhà đầu tư mà quan trọng là các nhà đầu tư Nhập Bản, Hoa kỳ, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore… Thứ hai, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào thị trường khu vực và thế giới. Từ việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO(vào ngày 7-11-2006), việc tổ chức thành công các hoạt động trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao APEC tại Hà Nội( tháng 11-2006) khẳng định hơn nữa vị thế của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế, làm gia tăng mối quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Thứ ba, môi trường đầu tư kinh doanh của nước ta ngày càng được cải thiện với hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường và thực hiện công khai, minh bạch các thiết chế quản lý, ban hành và áp dụng các đạo luật quan trọng mới( Luật đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu,…),hệ thống kết cấu hạ tầng tiếp tục được cải thiện… Thứ tư, trên thế giới, dòng vốn FDI có xu hướng đổ vào các nước đang phát triển, nhất là các nước có nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng cao, có môi trường đầu tư thuận lợi. Thứ năm, giá nguyên liệu thô trên thế giới gia tăng mạnh trong thời gian qua đã kích thích nguồn vốn FDI vào các nền kinh tế đang phát triển nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh những cơ hội thì vẫn còn tồn tại những thách thức đối với thu hút FDI vào nước ta, đó là: Luật pháp chính sách của nước ta còn nhiều bất cập, hạn chế, công tác tuyên truyền phổ biến luật pháp cần được tăng cường. Hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng tuy đã được nâng cấp, nhưng không đáp ứng kịp mức tăng trưởng cao và nhìn chung còn yếu kém so với các nước trong khu vực. Thủ tục hành chính còn thiếu minh bạch và phức tạp, cơ chế phối hợp còn chưa chặt chẽ. Nạn tham nhũng đang gây ra những tác động tiêu cực tới môi trường đầu tư. Nguồn nhân lực còn chưa đáp ứng được nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài, thiếu nhân lực trình độ cao. Với tỷ lệ qua đào tạo mới chiếm hơn 24%(năm 2005), nên rất khó đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và trình độ cao trong các doanh nghiệp FDI, lao động trong nước chưa thay thế được các chuyên gia nước ngoài, khó thích nghi với tác phong công nghiệp, kém về tinh thần trách nhiệm và kỷ luật lao động… Sức cạnh tranh quốc gia còn yếu. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng như cạnh tranh về sản phẩm hàng hóa Việt Nam còn thấp trong khi nước ta dần hội nhập hoàn toàn vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Cạnh tranh thu hút FDI giữa các nước tiếp tục diễn ra gay gắt, trong đó có Trung Quốc và Ấn Độ nơi có môi trường đầu tư được đánh giá là hấp dẫn hang đầu thế giới. Nền kinh tế thế giới tiếp tục chịu nhiều tác động bất lợi đối với tăng trưởng kinh tế như giá nguyên, nhiên liệu biến động mạnh( nhất là giá dầu thô), thiên tai xảy ra trên diện rộng và diễn biến phức tạp và nguy cơ bùng phát dich cúm gia cầm vẫn gây lo ngại đối với các nhà đầu tư. 3.2- Những giải pháp cơ bản nhằm tăng cường thu hút FDI vào Việt Nam Với triển vọng lớn trong hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam, mở ra giai đoạn phát triển mới với sự hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam cần thực hiện đồng bộ hệ thống các giải pháp sau: Thứ nhất cần hoàn thiện hệ thống luật pháp và chính sách, cụ thể khẩn trương hoàn chỉnh để ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các luật mới có liên quan đến hoạt động đầu tư, kinh doanh. Bên cạnh đó, sẽ tiến hành rà soát để sửa đổi, bổ sung các chính sách thuế, chính sách ưu đãi đầu tư và các chính sách khác nhằm tạo môi trường minh bạch, thông thoáng và dỡ bỏ mọi cản trở đối với hoạt động đầu tư. Rà soát và có chương trình triển khai đầy đủ theo đúng tiến độ các cam kết hội nhập liên quan đến mở cửa thị trường. Chính phủ ban hành Chỉ thị về thu hút vốn FDI trong bối cảnh, hoàn cảnh mới; theo đó, sẽ phân công cụ thể công việc cho các bộ, ngành và địa phương nhằm tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh phù hợp với vị thế mới của đất nước, tạo thuận lợi cho một “làn sóng đầu tư mới”. Thứ hai, tiếp tục minh bạch hóa quy trình, thủ tục hành chính đối với đầu tư nước ngoài. Thực hiện tốt cơ chế liên thông đối với đầu tư. Tăng cường thực hiện cơ chế “một cửa” trong việc giải quyết thủ tục đầu tư. Rà soát các vướng mắc về thủ tục hành chính ở tất cả các lĩnh vực, các cấp nhằm đẩy nhanh tiến độ cấp phép đầu tư mới và điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư; các thủ tục liên quan tới triển khai dự án đầu tư như thủ tục về đất đai, xuất nhập khẩu, cấp dấu, xử lý tranh chấp... Xử lý dứt điểm các vướng mắc trong quá trình cấp, điều chỉnh giấy chứng nhận đầu tư và các vấn đề vướng mắc trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp.     Thứ ba, tiếp tục tập trung sức nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng, trước mắt giải quyết tốt nhu cầu năng lượng cho các nhà đầu tư theo hướng bảo đảm trong mọi trường hợp không để xảy ra tình trạng thiếu điện đối với cơ sở sản xuất. Có cơ chế khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển các công trình cơ sở hạ tầng, trong đó có các nhà máy điện độc lập, các công trình giao thông cảng biển...    Thứ tư, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các quy hoạch còn thiếu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác định, xây dựng dự án. Thực hiện thống nhất các quy định mới của Luật Đầu tư trong công tác quy hoạch, đảm bảo việc xây dựng các quy hoạch ngành, lĩnh vực, sản phẩm phải phù hợp với các cam kết quốc tế. Thứ năm, về xúc tiến đầu tư nước ngoài, cần phải công bố Danh mục dự án quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006-2010 và tiếp tục cập nhật các tài liệu đầu tư để làm cơ sở tiến hành vận động đầu tư. Tăng cường vận động XTĐT tại địa bàn trọng điểm, tập trung vào các đối tác lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia để kêu gọi đầu tư vào các dự án trọng điểm. Chủ động tiếp cận hỗ trợ các nhà đầu tư tiềm năng có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. Thúc đẩy quá trình chuẩn bị để sớm đặt thêm các văn phòng đại diện XTĐT tại một số địa bàn trọng điểm ở nước ngoài. Bên cạnh đó, Chính phủ sẽ tổ chức các cuộc đối thoại thường xuyên với doanh nghiệp trong và ngoài nước để lắng nghe ý kiến đóng góp của họ, qua đó, khắc phục các tồn tại, đẩy mạnh hơn nữa cải cách và chống tham nhũng. Thứ sáu, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một giải pháp chiến lược của nước ta. Cần phải đổi mới tư duy về phát triển nguồn nhân lực, chú trọng công tác giáo dục- đào tạo. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo đặc biệt chú trọng công tác đào tào lại lao động; nâng cao sức khỏe, năng suất chất lượng làm việc, đảm bảo sử dụng có hiệu quả nguồn lao động đã qua đào tạo;có chính sách khuyến khích lao động học tập nâng cao trình độ, tay nghề; tăng cường áp dụng khoa học công nghệ hiện đại vào cải thiện môi trường lao động, đảm bảo vệ sinh- an toàn lao động; … Ngoài ra, cần có những biện pháp thu hút FDI tạo việc làm cho người lao động trong Nông nghiệp và khu vực nông thôn., các vùng, miền có tiềm lực, nguồn lực dồi dạo nhưng chưa được chú trọng. Để đạt được mục tiêu đề ra, còn rất nhiều việc phải làm. Tuy nhiên, với kinh nghiệm có được qua 20 năm đổi mới, kết quả đạt được của 5 tháng đầu năm 2007 cũng như những yếu tố thuận lợi mới đang xuất hiện, có thể dự báo mục tiêu thu hút 12 tỷ USD vốn FDI năm 2007 sẽ trở thành hiện thực, góp phần thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh, bền vững. 3.3- Các giải pháp thu hút lao động làm việc trong khu vực FDI Việc thu hút nguồn vốn FDI, các doanh nghiệp có vốn FDI đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật…Để thu hút cũng như tạo được nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp từ nguồn vốn FDI, cần phải thực hiện được các giải pháp sau: Một là, tiếp tục cải tiến và đổi mới giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng được các yêu cầu về việc làm trong các doanh nghiệp FDI, cụ thể là: Mở rộng đào tạo đại học và trên đại học; nhanh chóng đổi mới phương pháp giáo dục để tạo ra một đội ngũ lao động có chuyên môn, kỹ thuật đáp ứng nhu cầu về lao động của nền kinh tế nói chung và của khu vực doanh nghiệp FDI nói riêng; tăng cường giảng viên, cơ sở vật chất- kỹ thuật, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng với các giáo sư, giảng viên; dành ưu tiên cho một số lĩnh vực mang tính mũi nhọn hư công nghệ cao, điện, điện tử, cơkhis, dầu khí, quản trị kinh doanh, quản lý Nhà nước ,… Khẳng định rõ vai trò và vị trí quan trọng của hướng nghiệp và dạy nghề; thực hiện phân luồng để đảm bảo cho bộ phận lớn học sinh chuyển vào trung học chuyên nghiệp và dạy nghệ ngay sau khi học xong phổ thong trung học; đa dạng hóa các hình thức và mở rộng quy mô dạy nghề, hình thành mạng lưới dạy nghề rộng khắp; nâng cao chat lượng dạy nghề đáp ứng nhu cầu thay đổi nghề dể người lao động thích ứng với công nghệ mới và thị trường lao động/ Tạo điều kiện và có chính sách hỗ trợ để các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào hoạt động hợp tác giáo dục, đào tạo nhằm trang bị kiến thức, trình độ khoa học kỹ thuật cho lao động Việt Nam. Hai là, tiếp tuc hoàn thiện cơ chế thị trường, đổi mới các công cụ quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường lao động phát triển. Ban hành động bộ, kịp thời các văn bản pháp quy cho sự phát triển thi trường lao động trong điều kiện hội nhập, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng khả năng cơ hội tìm việc làm. Có cơ chế khuyến khích và ưu đãi đặc biệt đối với những doanh nghiệp FDI thu hút lao động và phát triển kinh tế- xã hội miền núi, vũng sâu, vùng xa, những vùng có nhiều tiềm năng,có lực lượng lao động dôi dào nhưng còn thấp về chất lượng. Ba là, cải thiện các quy định pháp lý và xây dựng các tiêu chuẩn lao động phù hợp với thông lệ quốc tế, tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật, có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động trong các doanh nghiệp FDI. Mặt khác, cần phải tạo động lực và kích thích tính tích cực lao động nhằm nâng cao tính sáng tạo, năng suất và hiệu quả lao động. Bên cạnh động lực vật chất, cần quan tâm đến việc tạo động lực về tinh thần như long yêu nước, tự hào dân tộc, sự say mê và lương tâm nghề nghiệp, niềm tin, quyền tự do, dân chủ, tính công bằng xã hội,… Bốn là hoàn thiện hệ thống thông tin và giao dịch trên thị trường lao động, tạo điều kiện phát triển các giao dịch trực tiếp giữa người lao động và nhà đầu tư. Đẩy mạnh hoạt động dịch vụ tư vấn, cung ứng, giới thiệu việc lam, cụ thể như: phát triển hệ thống các trung tâm giới thiệu việc làm; tổ chức nhiều hội chợ việc làm, các sàn giao dịch việc làm ở các tỉnh, thành nhất là các tỉnh, thành thu hút nhiều nguồn vốn FDI,… Bên cạnh đó, xây dựng và thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm. Cùng đó, đẩy mạnh xuất khẩu lao động và phát triển dạy nghề gắn với chiến lược kinh tế - xã hội khu vực và của từng địa phương, lồng ghép chương trình dạy nghề với các chương trình việc làm, chương trình giảm nghèo và các chương trình khác… Kết luận Việt Nam là một quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên và lực lượng lao động dồi dào, song các yếu tố về vốn, về trình độ, tay nghệ của lực lượng lao động còn rất nhiều hạn chế và yếu kém, khoa học công nghệ đã tụt hậu khá xa so với các nước phát triển. Do đó, trong tiến tình toàn cầu hóa hiện nay, để tiến lại gần hơn với nền kinh tế tri thức, hòa mình vào dòng chảy của thời đại cần phải có những chiến lược kinh tế dài hạn, những chính sách, giải pháp cụ thể, rõ ràng. Một trong những giải pháp hữu hiệu để tăng vốn đầu tư, tăng năng lực sản xuất, tiếp thu công nghệ hiện đại và nâng cao trình độ quản lý, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, mở rộng quan hệ giao lưu, hợp tác kinh tế quốc tế,… Đó chính là nguồn vốn FDI. Không những thế FDI còn tạo việc làm, giảm thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân người lao động, gia đình họ và cho xã hội . Việt Nam cần có nhiều biện pháp thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, tang nguồn vốn FDI , từ đó kết hợp với sức mạnh nội lực nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế vững mạnh, tạo thế và lực cho việc chủ động hội nhập kinh tế quôca tế, phấn đấu đến năm 2020 việc làm cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Danh mục tài liệu tham khảo: Anh Minh, “ 7 tháng đầu năm thu hút thêm gần 7,5 tỷ USD vốn FDI”, tạp chí Kinh tế Việt Nam, số 32 ra ngày 07-08-2007. PGS.TSKH Đỗ Đức Bình- PGS.TS Nguyễn Thường Lạng, sách “ Những vấn đề kinh tế- xã hội nảy sinh trong đầu tư trực tiếp nước ngoài- Kinh nghiệm Trung Quốc và thực tiễn Việt Nam”, NXB Lý luận Chính trị, 2006 PGS.TS Tổng cục Thống kê Nguyễn Sinh Cúc, “ Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2006 và triển vọng năm 2007”, Tạp chí Cộng sản, số 771, tháng 1- 2007. PGS.TS Nguyễn Bích Đạt (chủ biên) “Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam”, NXB Chính trị Quốc gia, 2006 Ngô Văn Giang, “ Lao động Việt Nam trong các doanh nghiệp FDI”, tạp chí Lao động và xã hội, số 282, từ ngày 1/3- 15/3/2006. Linh Hà, “ Dòng vốn FDI tăng ngoạn mục- Sẵn sàng đón nhận làn sóng thứ hai”, Thời báo kinh tế Việt Nam, số báo năm 2006- 2007. Giáo trình Kinh tế đầu tư, Chủ biên TS. Nguyễn Bạch Nguyệt- TS.Từ Quang Phương, NXB Thống kê, 2004, trang 16-17. Giáo trình Kinh tế phát triển, Chủ biên GS.TS Vũ Thị Ngọc Phùng, NXB Lao động-Xã hội, 2005. trang 246->249. Giáo trình Kinh tế Lao động ( dùng cho SV không chuyên ngành KTLĐ), TS. Mai Quốc Chánh- TS. Trần Xuân Cầu, NXB Lao động- Xã hội, 2000. Giáo trình Kinh tế Lao động, PGS.TS Phạm Đức Thành- PTS. Mai Quốc Chánh( chủ biên), NXB Giáo dục, 1998. TS. Phan Hữu Thắng, “ Đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong bối cảnh hội nhập”, tạp chí Kinh tế và Dự báo, Số 1/ 2007. Ths. Nguyễn Thị Bích Thúy, “ Một đôi nét về lao động và sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài”, Bản tin thị trường lao động. TS. Nguyễn Bá Ngọc, “ Thất nghiệp ở Việt Nam: hiện tượng và bản chất”, tạp chí Lao động và xã hội, số 300, từ ngày 1-15/12/2006. TS.Nguyễn Bá Ngọc- TS Trần Văn Hoan, sách Toàn cầu hóa: Cơ hội và thách thức đối với lao động Việt Nam; NXB Lao động- xã hội, 2002. Các trang Web: vi.wikipedia.org; www.mof.gov.vn; www.chungta.com; www.mpi.gov.vn; www.mofa.gov.vn; vnexpress.net; www.tapchicongsan.org.vn ; thongtindubao.gov.vn ; www.molisa.gov.vn; www.laodong.com.vn; www.aptech-news.com; www.nld.com.vn; ….. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc69510.DOC
Tài liệu liên quan