Tài liệu Đề tài Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong Công ty Xuất nhập khẩu lương thực thực phẩm Hà Nội: MỤC LỤC
Lời mở đầu 4
PHẦN I. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG CÔNG TY 6
I. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG CÔNG TY 6
1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty 6
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 6
1.2. Giới thiệu về công ty 7
2. Các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty 8
2.1. Lĩnh vực hoạt động 8
2.2. Năng lực sản xuất 8
3. Khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường xuất nhập khẩu 8
3.1. Tình hình xuất khẩu 9
3.2. Đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty 10
3.2.1. Tình hình chung 10
3.2.2. Một số thuận lợi 10
3.2.3. Những mặt hạn chế 12
II. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CÁC NĂM GẦN ĐÂY (TỪ NĂM 2002-2006) 15
1. Hoạt động đầu tư cho cơ sở vật chất 16
2. Hoạt động đầu tư cho nguồn nhân lực 17
3. Hoạt động đầu tư cho hàng hoa dự trữ 20
4. Hoạt động đầu tư vào nghiên cứu thị trường 22
5. Hoạt động đầu tư vào dịch vụ và sản phẩm 24
III. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ KHẢ NĂNG C...
59 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1212 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong Công ty Xuất nhập khẩu lương thực thực phẩm Hà Nội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Lời mở đầu 4
PHẦN I. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG CÔNG TY 6
I. GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG CÔNG TY 6
1.Quá trình hình thành và phát triển của công ty 6
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 6
1.2. Giới thiệu về công ty 7
2. Các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty 8
2.1. Lĩnh vực hoạt động 8
2.2. Năng lực sản xuất 8
3. Khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường xuất nhập khẩu 8
3.1. Tình hình xuất khẩu 9
3.2. Đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty 10
3.2.1. Tình hình chung 10
3.2.2. Một số thuận lợi 10
3.2.3. Những mặt hạn chế 12
II. TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CÁC NĂM GẦN ĐÂY (TỪ NĂM 2002-2006) 15
1. Hoạt động đầu tư cho cơ sở vật chất 16
2. Hoạt động đầu tư cho nguồn nhân lực 17
3. Hoạt động đầu tư cho hàng hoa dự trữ 20
4. Hoạt động đầu tư vào nghiên cứu thị trường 22
5. Hoạt động đầu tư vào dịch vụ và sản phẩm 24
III. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY 28
1.Đánh giá chung 28
2. Thuận lợi và khó khăn của công ty 32
2.1. Một số thuận lợi của công ty 32
2.2. Những mặt hạn chế của công ty 33
PHẦN II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU LƯƠNG THỰC THỰC PHẨM HÀ NỘI 35
I.CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TY NHỮNG NĂM TIẾP THEO 35
1. Phương hướng hoạt động của công ty trong thời gian tới 35
2. Mục tiêu chủ yếu của công ty trong thời gian tới 36
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẦU TƯ NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH TRONG CÔNG TY 37
1. giải pháp chung 37
1.1. Tiếp tục tổ chức và hoàn thiện tốt việc lập kế hoạch 37
1.2. giải pháp về quản lý 38
1.3. Giải pháp triệt để các nguyên tắc hạch toán kinh doanh 39
1.4. Giải pháp đối với việc quản lý bảo dưỡng tài sản cố định 40
2. Tiếp tục đầu tư vào nguồn nhân lực 40
3. Đầu tư nâng cao hiệu quả Marketing nhằm phát triển thị trường 41
4. Đầu tư đa dạng hoá sản phẩm xuất nhập khẩu 43
5. Một số giải pháp về nguồn vốn 44
5.1. Về huy động vốn 44
5.2. Về sử dụng vốn 46
6. Đầu tư vào hàng tồn kho và quản lý hàng nhập kho 48
7. Một số giải pháp khác 49
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 51
1. Về phía công ty 51
2. Về phía Nhà nước 52
KẾT LUẬN 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO 58
Lời nói đầu
Trong điều kiện hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực, vấn đề nâng cao khả năng cạnh tranh có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam và sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Trong xu thế hội nhập và mở cửa của nước ta,.nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam đã là thách thức lớn nhất đối với quá trình hội nhập của nước ta. Mỗi chủ thể kinh tế phải tự vận hành, tự quyết định tất cả mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, từ hoạt động thăm dò thị trường, quyết định đầu tư máy móc thiết bị, dây truyền công nghệ, đầu tư cho lực lượng lao động, đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Trong toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, doanh nghiệp phải làm gì và làm như thế nào để có thể phát huy được lợi thế cạnh tranh của mình, tận dụng có hiệu quả các cơ hội, giảm thiểu những thách thức do cạnh tranh mang lại chính là vấn đề đặt ra để các doanh nghiệp tìm ra hướng đi đúng trên con đường phát triển của doanh nghiệp mình, khẳng định vị trí của mình trên thị trường.
Trong xu thế chung đó, Công ty Xuất nhập khẩu LTTP thuộc Tổng Công ty LTMB là một doanh nghiệp Nhà nước mới tách ra thành công ty cổ phần hóa, đã hoà nhịp cùng với sự phát triển của đất nước khi mà xu thế hội nhập đã trở thành tất yếu. Nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng lương thực phẩm ngay càng tăng lên, cùng với nhu cầu xuất khẩu một số mặt hàng có thế mạnh của nước ta sang nước ngoài để cạnh tranh và thu lợi nhuận, Công ty đã đáp ứng dịch vụ vận chuyển, các dịch vụ có liên quan đến vấn đề xuất nhập khẩu (XNK). Cùng với sự ra đời của nhiều Công ty xuất nhập khẩu trong nước, Công ty đã mở rộng mô hình hoạt động của mình và nghiên cứu mở rộng thị trường cạnh tranh, mở rộng thị trường xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới với quy mô lớn. Trong thời gian thực tập tại Công ty XNK LTTP tôi đã tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động đầu tư và khả năng cạnh tranh của Công ty, vì vậy tôi đã lựa chọn chuyên đề với đề tài: “Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong Công ty Xuất nhập khẩu LTTP HN”. Nội dung của đề tài bao gồm 2 phần:
Phần 1. Tình hình đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong công ty
Phần 2: Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong công ty XNK LTTP Hà Nội.
Đề tài tập chung vào nghiên cứu về tình hình đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty và đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh. Tôi xin cảm ơn thầy giáo Từ Quang Phương đã chỉ bảo và hướng dẫn tôi hoàn thiện chuyên đề này. Tôi xin cảm ơn tập thể cán bộ Công ty Xuất nhập khẩu LTTP HN đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập tại Công ty. Vì thời gian và trình độ hiểu biết có hạn nên đề tài không tránh khỏi những thiếu xót và khuyết điểm, mong thầy cô giáo đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn thiện và có tính thiết thực hơn.
Phần 1. Tình hình đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong công ty.
I. Giới thiệu tổng quan về công ty và năng lực cạnh tranh trong công ty
1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty
1.1. lich sử hình thành và phát triển
Tiền thân của Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Lương thực – Thực phẩm Hà Nội là một doanh nghiệp thành viên của Tổng Công ty Lương thực Miền Bắc được cổ phần hóa và đi vào hoạt động theo mô hình công ty cổ phần từ ngày 01 tháng 04 năm 2005.
Hoạt động của Công ty chuyên về sản xuất kinh doanh, chế biến hàng lương thực, nông sản, các lĩnh vực dịch vụ phục vụ đời sóng nhân dân thủ đô.
Với chiến lược mở rộng và không ngừng phát triển, Công ty CP XNK Lương thực – Thực phẩm Hà Nội sẵn sàng hợp tác, liên doanh, liên kết với các đơn vị, cá nhân trong nước và ngoài nước.
Mục tiêu của Công ty là đem lại sự thịnh vượng, an khang cho khách hàng của mình. Cung cấp cho quý khách hàng những sản phẩm, dịch vụ, giải pháp tốt nhất; với một khát khao mang lại niềm vui, lợi ích và sự hài lòng của khách hàng. Niềm vui và sự hài lòng của công ty đó là khi khách hàng có niềm vui và sự hài lòng mang lại cho quý khách hàng.
Phương châm hoạt động; Phương thức kinh doanh linh hoạt trên tinh thần hợp tác và quan tâm đến quyền lợi của người tiêu dùng, các đối tác kinh doanh. Công ty là doanh nghiệp dẫn đầu trong việc cung cấp nhu cầu lương thực trên địa bàn thủ đô Hà Nội và các tỉnh lân cận.
1.2.Giới thiệu về Công ty
Tên tổ chức: CÔNG TY CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU LƯƠNG THỰC THỰC PHẨM HÀ NỘI
Tên viết tắt: VIHAFOODCO
Trụ sở chính: 84 Quán Thánh – Ba Đình – Hà Nội
Điện thoại: 84 – 4 7150371 / 7150321
Fax: 84 – 4 7150328
Email: luongthuchanoi@vnn.vn
Website: www.namdo.com.vn
Vốn điều lệ hiện tại: 50 tỷ VND
Giấy CNĐKKD: : Số 0103003628 do Sở Kế hoạch đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 06/02/2005, thay đổi lần 3 ngày 16/11/2006.
Nganh nghề kinh doanh chủ yếu của Công ty : các mặt hàng gạo Thương hiệu Nam Đô và các loại gạo chất lượng cao, các mặt hàng gạo theo tiêu chuẩn xuất khẩu Việt Nam, dịch vụ du lịch và các hoạt động hỗ trợ du lịch, các mặt hàng lương thực – thực phẩm, phân phối sản phẩm, các dịch vụ cho thuê văn phòng…..
Chứng nhận chất lượng
Công bố tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, hàng hóa cho các sản phẩm gạo Tám Xoan Hải Hậu, Thai’s King, Bắc Thơm, Tám Điện Biên, Nếp cái Hoa vàng, Thạch Sanh, Cô Tấm.
Bằng khen
Các giấy khen của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Tổng Công ty Lương thực Miền Bắc...
- Cúp vàng doanh nghiệp tiêu biểu năm 2003 tại Hội chợ Doanh nghiệp Việt Nam hướng tới ngàn năm Thăng Long (do Hội tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam tổ chức).
- Bằng khen của Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội cho doanh nghiệp tiêu biểu góp phần vào sự thành công của Hội chợ Thương mại quốc tế Hà Nội EXPO 2005.
- Huy chương vàng Hội chợ Thương mại Quốc tế Việt Nam EXPO 2006 cho các sản phẩm Tám Xoan, Tám Điện Biên, Thai’s King.
2. Các lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty
2.1. Lĩnh vực hoạt động
- Kinh doanh lương thực, nông lâm sản; các sản phẩm chế biến từ lương thực.
- Kinh doanh, chế biến các mặt hàng gạo chất lượng cao.
- Đầu tư và kinh doanh bất động sản. Thuê và cho thuê văn phòng, kho bãi....
- Dịch vụ du lịch, dịch vụ khách sạn, nhà hàng ăn uống.
2.2. Năng lực sản xuất
- Nhà máy Chế biến Gạo theo tiêu chuẩn xuất khẩu tại Châu Đốc, An Giang với năng lực chế biến khoảng 60.000 - 75.000tấn/năm.
- Chi nhánh Kinh doanh Lương thực – Thực phẩm và Chi nhánh Kinh doanh Gạo Chất lượng cao với khả năng cung cấp khoảng 5.000- 7.000 tấn/năm các loại gạo chất lượng cao
3. khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường XNK
Ngay từ khi mới thành lập Công ty XNK Lương Thực Phẩm Hà Nội đã đảm nhiệm hai chức năng: thương mại và dịch vụ, tuy nhiên trong suốt quá trình phát triển của Công ty, hoạt động XNK vẫn là hoạt động chính chiếm 92% tổng doanh thu. Các hoạt động kinh doanh khác của Công ty chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong toàn bộ hoạt động của Công ty và cũng chưa phải là mặt mạnh để Công ty có thể cạnh tranh nhờ các hoạt động này. Do vậy, để đánh giá khả năng cạnh tranh của Công ty XNK lt với các đối thủ khác thì ta chỉ tập trung vào nghiên cứu khả năng cạnh tranh của Công ty trong lĩnh vực XNK.
3.1. Tình hình xuất nhập khẩu
Thế mạnh trong hoạt động XNK của Công ty là lĩnh vực xuất khẩu. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Công ty là lương thực thưc phẩm ,các mặt hàng gạo Thương hiệu Nam Đô và các loại gạo chất lượng cao, các mặt hàng gạo theo tiêu chuẩn xuất khẩu,nông lâm sản. . .
Năm 2003, kim ngạch xuất khẩu đạt 3.811.770 USD tăng 165,7% so với năm 2002, năm 2004 doanh thu xuất khẩu đạt 8.067.707 USD tăng hơn 47% so với năm 2003, năm 2005 doanh thu xuất khẩu đạt 4.630.207 USD bằng 61,3% năm 2004 và năm 2006 doanh thu xuất khẩu đạt 18.495.549 USD tăng 214,3% so với năm 2005. Tuy nhiên, Công ty vẫn bị động trong việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu, nghĩa là khi khách hàng yêu cầu thì Công ty đáp ứng, không có một kế hoạch cụ thể chủ động tìm nguồn hàng và nơi tiêu thụ cho từng lĩnh vực hàng hoá. Việc phát triển xuất khẩu những mặt hàng ngoài ngành (bao gồm những mặt hàng thuộc lĩnh vực tiêu dùng dân dụng . . .) đã giúp Công ty bù đắp sự giảm sút thị phần của các mặt hàng trong chủ lực. Đó là một định hướng rất có ý nghĩa trong chiến lược đẩy mạnh hoạt động XNK của Công ty.
So với hoạt động xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu cũng như sản xuất và dịch vụ của Công ty có quy mô nhỏ hơn nhiều. Hoạt động nhập khẩu của Công ty chiếm một tỷ trọng nhỏ trong hoạt động XNK của Công ty. Công ty chủ yếu nhập khẩu hàng tiêu dùng (trái cây, mây sơ chế, chỉ sơ dừa...), hàng nông, lâm, thuỷ sản.
3.2. Đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty
3.2.1. Tình hình chung
Ngay từ khi mới thành lập Công ty XNK lương thực thực phẩm Hà Nội đã đảm nhiệm hai chức năng: thương mại và dịch vụ. Tuy nhiên, trong suốt quá trình phát triển của Công ty, hoạt động XNK vẫn là hoạt động chính chiếm 92% tổng doanh thu. Thế mạnh trong hoạt động XNK của Công ty là lĩnh vực xuất khẩu.
Hiện nay, tổng số vốn điều lệ trong đăng ký kinh doanh của Công ty đã được bổ sung thêm hơn 10 tỷ VNĐ, tổng số vốn kinh doanh của Công ty đã lên tới 50 tỷ.
Với số vốn hiện nay của Công ty không thể đáp ứng tất cả các thương vụ kinh doanh XNK, do vậy ngoài nguồn vốn tự có và nguồn vay từ ngân hàng, hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước thì Công ty cần có các chính sách sử dụng vốn hợp lý bằng cách ưu tiên vốn cho các mặt hàng kinh doanh có lãi suất cao, tăng vòng quay vốn lưu động kết hợp với việc khai thác nguồn vốn bên ngoài như: khai thác nguồn vốn từ liên doanh liên kết; huy động nguồn vốn từ công nhân viên trong Công ty và sử dụng các phương thức thanh toán hợp lý.
Đặc biệt, Công ty đã tranh thủ tối đa sự giúp đỡ, bảo lãnh của Tổng Công ty trong việc vay vốn để xây dựng các hệ thống bồn chứa, kho nổi, mua sắm phương tiện vận tải nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công việc nhập khẩu
3.2.2. Một số thuận lợi
Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế thế giới không mấy sáng sủa, tăng trưởng GDP chỉ đạt khoảng 1,6% trong khi đó nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 7%, cùng với một hệ thống chính trị xã hội luôn luôn ổn định và chắc chắn sẽ tạo ra những thuận lợi nhất định khi Công ty XNK Lương Thực Phẩm Hà Nội tham gia cạnh tranh trên thị trường.
Trong tiến trình hội nhập vào khối ASEAN, và gia nhập tổ chức thương mại WTO khi mà thời điểm bãi bỏ hàng rào thuế quan đã đến, hàng hoá của các nước trong khu vực được đưa vào thị trường nước ta dễ dàng hơn. Vốn là một đơn vị chuyên kinh doanh thương mại, Công ty sẽ có cơ hội thuận lợi để thực hiện công việc kinh doanh của mình, bởi hàng rào thuế quan được bãi bỏ, thủ tục xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với các nước trong khối ASEAN sẽ được tiến hành đơn giản hơn . . .
Bên cạnh đó, hiệp định thương mại Việt - Mỹ đang có hiệu lực đối với cả hai bên. Đây là cơ hội cho chúng ta tiếp cận tìm hiểu và tiến hành các hoạt động kinh doanh buôn bán với các đối tác Mỹ - nguồn cung cấp có chất lượng tốt đáp ứng nhu cầu đa dạng và đòi hỏi ngày càng cao của khách hàng trong nước.
Năm 2005, Tổng Công ty Lương Thực Phẩm Miền Bắc đã vượt qua khó khăn, thách thức của cơ chế thị trường và trên đường hội nhập thị trường thế giới, với tổng doanh thu năm 2005 tăng lên 652.698 triệu VNĐ (tăng 152% so với năm 2004), lợi nhuận gộp tăng lên 16.117 triệu (tăng 161%), lợi nhuận thuần tăng lên 2.952 triệu (tăng 516% so với năm 2004). Với những kết quả này thì Công ty XNK Lương Thực Phẩm Hà Nội có doanh thu cao nhất và sẽ có cơ hội nhận được nguồn vốn đầu tư từ Tổng Công ty để nâng cao sức cạnh tranh.
Với nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực XNK, Công ty đã tạo được uy tín với bạn hàng bằng chính sự nỗ lực, sự cố gắng của bản thân Công ty, Công ty cũng duy trì tốt và phát huy được vai trò của mình trong việc cung cấp hàng thực phẩm, dịch vụ phục vụ cho nhu cầu trong nước và phục vụ cho xuất khẩu ra các nước.
Công ty luôn duy trì các bạn hàng ở một số nước truyền thống có kim ngạch nhập khẩu cao như: Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Mỹ, Philippines… Nguyên nhân do từ năm 1994 Nhà nước cấm xuất khẩu sắt vụn. Phát triển thị trường xuất khẩu là một giải pháp để nâng cao kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên, việc chiếm lĩnh thị phần xuất khẩu khó hơn nhập khẩu nhiều. Mặt hàng xuất khẩu phải có tính cạnh tranh về giá, chất lượng . . . Năm 1998, bổ sung thêm 2 thị trường Hồng Kông và Philippines. Từ năm 2000 trở lại đây, cơ cấu thị trường xuất khẩu của đơn vị ngày càng đa dạng và có xu hướng dịch chuyển về khu vực Đông Âu. Cũng giống như thị trường nhập khẩu, các nước Châu Á vẫn là thị trường nhập khẩu lớn nhất.
Về phía công ty thì đội ngũ cán bộ có nghiệp vụ vững vàng, năng động trong công việc và luôn đặt lợi ích của Công ty lên hàng đầu và luôn được bồi dưỡng, đào tạo về các nghiệp vụ XNK để đáp ứng với nhu cầu, đòi hỏi ngày càng cao trong công cuộc cạnh tranh để giành giật thị trường.
3.2.3. Những mặt hạn chế
Bên cạnh những thuận lợi mà Công ty có được, Công ty sẽ phải đương đầu với những khó khăn lớn. Khi hàng rào thuế quan được bãi bỏ, hàng hoá tràn ngập vào thị trường nội địa với giá cả hợp lý, chất lượng tốt sẽ cạnh tranh với hàng hoá trong nước dẫn đến hàng hoá của từng cơ sở trong nước khó có thể cạnh tranh với hàng ngoại nhập, ảnh hưởng đến sản xuất trong nước, các dịch vụ về XNK cũng xuất hiện ở nhiều Công ty mới và do đó sự cạnh tranh là tất yếu. Khi đó, là một đơn vị kinh doanh XNK cung ứng nhu cầu lương thực sẽ không tránh khỏi những cản trở trong mở rộng kinh doanh.
Ngành nông nghiệp nước ta còn kém phát triển, nên đã gây ra nhiều khó khăn, bất lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung khi tham gia ký kết các hợp đồng thương mại quốc tế mà Công ty không là một ngoại lệ. Trong các hợp đồng mua bán của mình, Công ty luôn phải lựa chọn các điều mà các chặng vận tải chính là do phía đối tác đảm nhận làm cho giá cả các mặt hàng nhập khẩu của Công ty luôn ở mức cao, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh của Công ty mà cụ thể là ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của Công ty so với các đối thủ khác.
Các chính sách của Nhà nước chưa được kiện toàn như thủ tục hành chính (đặc biệt là hải quan), quy định về thuế nhập khẩu, chính sách hỗ trợ về vốn, nghiệp vụ. Mặt khác, Nhà nước luôn khuyến khích sản xuất trong nước làm ảnh hưởng tới hoạt động nhập khẩu và hạn chế khả năng cạnh tranh của Công ty.
Nhà nước chưa chú trọng đầu tư giúp các doanh nghiệp trong việc đào tạo một đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm và am hiểu về kinh doanh thương mại quốc tế cũng như tạo điều kiện cho Công ty thu thập các thông tin về thị trường, đối tác. Do vậy, Công ty còn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm đối tác cả trong nước và ngoài nước do thiếu sự hiểu biết cũng như thiếu các điều kiện về vật chất.
Công ty XNK Lương Thực Phẩm Hà Nội là một đơn vị trực thuộc Tổng Công ty Lương Thực Việt Nam với mục tiêu chính là kinh doanh XNK cung cấp nhu cầu lương thực, hàng tiêu dùng. . . cho các đơn vị trong nước. Kinh doanh các loại lương thực, vật tư nông nghiệp và cung cấp dich vụ văn phong…. dịch vụ vận chuyển giao nhận hàng hoá và khai thác kho bãi, chế biến nông sản thực phẩm . Nhập khẩu trực tiếp, kinh doanh và cung ứng hàng tiêu dùng . . . Mặc dù sản lượng cũng như doanh thu không lớn nhưng đã góp phần giải quyết cho số lao động dôi dư tại cơ sở. Tuy nhiên, do công nghệ sản xuất có hàm lượng kỹ thuật chưa cao cùng với đội ngũ lao động vốn được chuyển từ kinh doanh sang, mặc dù đã được đào tạo song trình độ kỹ thuật, tay nghề cũng như khả năng làm việc lành nghề bị hạn chế. Do vậy, năng suất lao động còn thấp, sản phẩm có sức cạnh tranh chưa cao so với các sản phẩm cùng loại khác trên thị trường, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị.
Trong nhiều năm trở lại đây, do hoạt động sản xuất và kinh doanh XNK của Công ty luôn ổn định và tăng trưởng cho nên tình hình tài chính của đơn vị tương đối ổn định. Nguồn vốn của Công ty không những được đảm bảo mà ngày càng được bổ sung. Tuy nhiên, lượng bổ sung này không đáng kể, do đó hiện tại và tương lai gần, Công ty sẽ gặp nhiều khó khăn trong thương trương quốc tế.
Công ty chưa có đội ngũ chuyên về lĩnh vực Marketing của Công ty mà hiện nay đều do phòng Thương mại - Dịch vụ đảm nhiệm việc nghiên cứu thị trường, gặp gỡ các bạn hàng . . . làm cho hiệu quả hoạt động của phòng Thương mại - Dịch vụ bị hạn chế, nhiều cơ hội lớn bị bỏ qua và do đó việc mở rộng thị trường diễn ra chậm chạp, chủng loại các mặt hàng mới trong lượng hàng hoá nhập khẩu hàng năm là rất ít, đặc biệt là quan hệ của Công ty với các nước có thị trường phát triển như Nhật và Đông Âu chưa được mở rộng. Trong đó Công ty cũng bỏ qua thị trường trong khu vực giàu tiềm năng là Đài Loan, SNG
II. Tình hình đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của công ty các năm gần đây (từ năm 2002 đến năm 2006)
Trong thời gian qua, Công ty đã có nhiều hoạt động đầu tư thiết thực cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Tình hình phân bổ vốn đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và lĩnh vực nghiên cứu phát triển của Công ty được thể hiện qua bảng cơ cấu đầu tư sau:
Bảng phân bổ vốn đầu tư
Đơn vị: triệu VNĐ.
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng vốn đầu tư
5.650
6.761
9.361
15.406
22.613
Trong đó:
Đầu tư cho CSVCKT
1.359
1.405
1.936
2.572
3.795
Đầu tư cho nguồn nhân lực
505
689
1.143
2.156
3.506
Đầu tư vào hàng dự trữ
876
938
1.726
2.431
3.653
Đầu tư nghiên cứu thị trường
857
1.142
1.574
3.273
5.534
Đầu tư vào dịch vụ và sản phẩm
2.053
2.587
2.982
4.974
6.125
nguồn: phòng tài chính công ty XNK lương thực thực phẩm Hà Nội
Qua bảng trên đây, ta có thể phân tích kỹ thực trạng các hoạt động đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong Công ty trong thời gian qua.
Hoạt động đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật
Nhà cửa và vật kiến trúc là những yếu tố không thể thiếu được đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào. Vai trò của nó rất lớn trong việc sản xuất kinh doanh của đơn vị, góp phần nâng cao năng suất hoạt động cho công ty, do đó là yếu tố không thể thiếu được trong việc tạo ra lợi nhuận của Công ty. Vì lý do đó, thời gian qua Công ty đã không ngừng đầu tư xây dựng cơ bản để không ngừng nâng cao năng lực sản xuất của đơn vị.
Hoạt động đầu tư của Công ty cho cơ sở vật chất kỹ thuật phần lớn tập trung xây dựng và cải tạo các kho bãi bởi Công ty luôn nhận thức được rằng kho bãi luôn đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Công ty. Đây là những nơi chứa hàng hoá khi hàng về, và chứa hàng hóa dự trữ để phục vụ cho xuất khẩu từ đó giảm được chi phí đáng kể khi phải đi thuê kho bãi từ đó hạ giá thành sản phẩm giúp doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó, với một hệ thống kho bãi rộng lớn được bố trí tại các cảng lớn thuộc trung tâm kinh tế quan trọng như: Hải Phòng, Đà Nẵng, TP.Hồ Chí Minh, An Giang, ngoài việc dự trữ hàng hoá thì những lúc hàng chưa về Công ty có thể cho thuê từ đó cũng thu được một phần lợi nhuận không nhỏ góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh. Và điều này sẽ tạo điều kiện cho việc nâng cao khả năng đầu tư cho các năm sau đó.
Do nhu cầu sản xuất kinh doanh hiện đại, đồng thời để đáp ứng được yêu cầu mở rộng kinh doanh trong tương lai, phù hợp với sự phát triển đổi mới của đất nước, sự phát triển của doanh nghiệp thì một trong những biện pháp nhằm nâng cao năng suất lao động là đầu tư vào máy móc thiết bị, nâng cao trình độ công nghệ,để tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt. Đặc biệt là đối với nước ta, trong giai đoạn hội nhập như hiện nay, công nghệ của nước ta còn rất lạc hậu so với các nước phát triển. Để hội nhập được thì điều đầu tiên mang tính quan trọng là đầu tư vào máy móc thiết bị để từng bước nâng cao năng lực công nghệ, tăng năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Công ty đã từng bước đầu tư nhằm hiện đại hoá các trang thiết bị của mình nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh tuy nhiên mức độ đầu tư còn khá mỏng, chiếm một tỷ lệ thấp so với đầu tư xây dựng cơ bản trong tổng mức đầu tư của Công ty. Các Công ty bây giờ không chỉ cạnh tranh với nhau dựa vào lợi thế sẵn có của mình mà còn bằng việc nhanh nhạy trong nắm bắt và xử lý thông tin trên thị trường, do đó trong thời gian tới chắc chắn Công ty sẽ phải chú trọng hơn cho việc đầu tư máy móc thiết bị, không chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động mà còn để nắm bắt và xử lý kịp thời những thông tin trên thị trường cạnh tranh.
Hoạt động đầu tư cho nguồn nhân lực
Lao động là yếu tố quan trọng bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh có hiệu quả, là yếu tố đầu vào cho mỗi quá trình sản xuất kinh doanh. Trước đây trong thời kỳ bao cấp, Công ty có 75 người, phân bố trong ba xí nghiệp và 4 phòng ban nghiệp vụ. Về trình độ chỉ có 17 người tốt nghiệp Đại học. Nhưng những năm gần đây, Công ty XNK Lương Thực Phẩm Hà Nội đã có một đội ngũ lao động mạnh cả về chất lượng và số lượng. Tổng số cán bộ công nhân viên đến năm 2005 lên tới 183 người. Trong đó, trên Đại học có 6 người và 89 người có trình độ đại học, cao đẳng. Để làm chủ khoa học kỹ thuật trong kinh doanh, ban lãnh đạo đã chú trọng chỉ đạo tốt công tác nhân sự, đào tạo, xây dựng quy chế đào tạo lao động. Trong hơn hai năm qua, Công ty đã tuyển dụng thêm được trên 30 kỹ sư, cử nhân thuộc các ngành kinh doanh, tin học . . .
Sau đây là cơ cấu lao động của Công ty XNK Lương Thực Phẩm HN:
Bảng 4: Cơ cấu lao động của Công ty XNK Lương Thực Phẩm Hà Nội.
Năm
Chỉ
Tiêu
2001
2002
2003
2004
Số LĐ
TL(%)
Số LĐ
TL(%)
Số LĐ
TL(%)
Số LĐ
TL(%)
Tổng số lao động
134
146
166
183
Trong đó:
Nam
83
61,94
102
69,86
121
72,89
129
70,49
Nữ
51
38,06
44
30,14
45
27,11
54
29,51
Trình độ
Trên đại học
1
0,75
1
0,68
2
1,2
3
1,64
Đại học, cao đẳng
41
30,6
58
39,73
75
45,18
89
48,63
Trung cấp
53
39,55
37
25,34
36
21,69
36
19,67
Công nhân kỹ thuật
39
29,1
50
34,25
53
31,93
55
30,06
Hình thức lao động
Lao động trực tiếp
34
22,84
39
23,56
51
46,75
65
30,98
Lao động gián tiếp
100
77,16
107
56,44
115
73,25
118
69,02
Nguồn: Phòng tổng hợp.
Như vậy, qua biểu trên ta thấy số lượng lao động tăng qua các năm do yêu cầu của kinh doanh. Cơ cấu lao động của Công ty có hợp lý hơn, lực lượng lao động gián tiếp có tỷ lệ tương đối lớn vì tính chất đặc thù trong ngành nghề kinh doanh, lao động nam chiếm đa số trong tổng số lao động của Công ty. Đây là một thuận lợi về phân công công việc của công tác quản trị nhân lực vì với đặc thù công việc hay phải đi công tác xa, các tỉnh biên giới và các cảng biển trong cả nước. Tuy nhiên, nhìn vào bảng biểu ta thấy tỷ lệ người lao động có trình độ Đại học và trên Đại học tuy cao nhưng trong thực tế thì chưa phù hợp với tốc độ phát triển như ngày nay, đây cũng là cơ sở để Công ty có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực trong toàn bộ máy của Công ty.
Để có thể phòng ngừa hạn chế các tranh chấp trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng XNK thì cần phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như trình độ pháp lý của đội ngũ cán bộ làm công tác XNK, đặc biệt của những người trực tiếp tham gia đàm phán ký kết và thực hiện các hợp đồng XNK hàng hoá. Thực tế cho thấy không ít trường hợp Công ty XNK Lương Thực Phẩm Hà Nội tham gia đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu với thương nhân người nước ngoài mà người trực tiếp đàm phán ký kết thì lại vừa yếu về chuyên môn nghiệp vụ vừa yếu về trình độ pháp lý. Nhiều hợp đồng nhập khẩu sau khi ký kết vừa không chặt chẽ về mặt kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương vừa quá sở hở về pháp lý. Đối với những hợp đồng như thế tranh chấp xảy ra là điều khó tránh khỏi. Vì thế, việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ pháp lý của các cán bộ trong Công ty trước tiên nhằm khắc phục các tranh chấp phát sinh gây thiệt hại cho Công ty xuất phát từ sự yếu kém về trình độ kinh doanh.
Muốn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ pháp lý thì phải học tập ở trường lớp và học tập trong thực tiễn. Do vậy, Công ty cần quan tâm đến việc đào tạo cán bộ, có kế hoạch cho cán bộ tham gia các lớp học về nghiệp vụ XNK, về pháp luật kinh doanh XNK thông qua các lớp ngắn hạn, tại chức, chuyên đề, hội thảo, các khoá học nâng cao. Học hỏi để nâng cao trình độ qua thực tiễn cũng hết sức quan trọng, cho nên những cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ, trình độ pháp lý và kinh nghiệm cần hướng dẫn các cán bộ mới vào nghề, các cán bộ còn chưa chuyên sâu. Cắt giảm bộ máy cồng kềnh kém hiệu quả, giảm thiểu chi phí quản lý, trẻ hoá đội ngũ cán bộ thông qua tuyển dụng và đào tạo cán bộ trẻ có trình độ và năng lực.
Năm 2002, Công ty đầu tư 505 triệu VNĐ cho công tác nguồn nhân lực và năm 2003 là 689 triệu VNĐ, tăng 136,44% so với năm 2002. Năm 2004, nguồn nhân lực của Công ty tăng nhanh nên tổng đầu tư cũng tăng lên 1.143 triệu VNĐ, tăng 165,89% so với năm 2003. Đến năm 2005, đầu tư 2.156 triệu VNĐ cho việc đào tạo nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ trẻ và nghiệp vụ thị trường mới cho đội ngũ cán bộ cũ có năng lực, tổng đầu tư tăng 188,63% so với năm 2004. Năm 2006, tổng đầu tư đạt 3.506 triệu VNĐ, tăng 162,62% so với năm 2005 do nhu cầu đào tạo thêm về hội nhập kinh tế quốc tế và các luật, văn bản mới có liên quan đến XNK, nâng cao trình độ ngoại ngữ, nghiệp vụ ngoại thương cho cán bộ kinh doanh XNK thông qua các khoá đào tạo ngắn và dài hạn ở các trung tâm đào tạo ngoại thương.
Hoạt động đầu tư cho hàng hóa dự trữ
Với một doanh nghiệp có chức năng xuất nhập khẩu, tạm nhập và tái xuất như Công ty XNK Lương Thực Phẩm Hà Nội thì việc bảo quản hàng hoá trong kho là điều kiện quan trọng có tác dụng trực tiếp đến hoạt động xuất bán. Việc mất mát, suy giảm chất lượng sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Vì vậy, việc bảo quản hàng hoá trong kho là việc cần thiết của Công ty đặc biệt là hàng hoá xuất khẩu mà chua xuất được sang nước đối tác.
Qua mỗi đợt hàng, Công ty đều tiến hành kiểm tra xác định lượng đặt hàng tai thời điểm đáp ứng nhu cầu của khách hàng bao nhiêu là tối ưu, để từ đó xác định được số lượng sản phẩm cần nhập khẩu, xuất khẩu, tránh tình trạng XNK quá nhiều gây ứ đọng nguồn vốn.
Đầu tư cho công tác dự trữ năm 2002 là 876 triệu VNĐ, năm 2003 là 938 triệu VNĐ tăng 7% so với năm trước, năm 2004 đầu tư cho hàng dự trữ là 1726 triệu VNĐ tăng 84% so với năm 2003, năm 2005 lượng vốn đầu tư cho hàng dự trữ là 2431 triệu VNĐ so với năm 2004 tăng 40,8%, đến năm 2006 thì lượng đầu tư này là 3653 triệu VNĐ tăng 50% so với năm 2005. Mặc dù lượng vốn đầu tư cho hàng dự trữ hàng năm tăng nhưng tốc độ tăng năm sau so với năm trước là tăng không đều, từ số liệu trên cho thấy công ty vẫn chưa tập trung chú trọng cho việc đầu tư vào hàng dự trữ.
Hàng năm sản phẩm tồn kho tương đối lớn, tuy nhiên hoạt động đầu tư đã có tác dụng điều hoà luồng luân chuyển sản phẩm qua hoạt động XNK. Trong thời điểm trên thị trường có những biến động trong mức bán ra, mức bán ra thấp thì Công ty sản xuất nhiều hơn mức bán ra và chuyển hàng dôi ra thành hàng tồn kho. Khi mức bán ra cao, Công ty sản xuất ít hơn mức bán ra và bù đắp phần hàng hoá thiếu hụt bằng hàng tồn kho.
Việc dự trữ hàng tồn kho còn giúp cho Công ty hoạt động hiệu quả hơn như việc Công ty có đủ các sản phẩm mẫu để có thể tiếp thị sản phẩm, khi có những đơn đặt hàng lớn thì Công ty có thể bổ sung nguồn hàng, cung cấp kịp thời và đúng yêu cầu chất lượng, mẫu mã. Như vậy, đầu tư vào hàng dự trữ đã tạo điều kiện cho Công ty tiến hành sản xuất kinh doanh và các hoạt động XNK một cách thuận lợi.
Hoạt động đầu tư vào nghiên cứu thị trường
Khi còn hoạt động trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, Công ty XNK Lương Thực Phẩm Hà Nội giống như một tổng kho lương thực của tông công ty Lương Thực thực Phẩm làm nhiệm vụ tiếp nhận cấp phát lương thực theo chỉ đạo cấp trên. Vì vậy, hàng hoá của Công ty thời gian này đều có kế hoạch cụ thể và hầu như được bao tiêu toàn bộ. Nhờ đó mà đơn vị hoạt động thuận lợi, có đối tượng khách hành lớn, ổn định và không phải cạnh tranh.
Từ đầu những năm 1990, trong nước dần dần xoá bỏ bao cấp chuyển sang nền kinh tế mở cửa. Hoạt động trong điều kiện thị trường hoàn toàn mới, Công ty không còn là nhà cung ứng độc quyền nữa. Vì thực tế, khắp các địa phương, các ngành và các cấp ngày càng xuất hiện nhiều các Công ty XNK với đủ loại quy mô và đủ loại ngành hàng. Các khách hàng trước đây của Công ty nay đã tìm đến của các đơn vị khác trong cùng khu vực, không còn là khách hàng chủ yếu và thường xuyên nữa.
Để giải quyết những khó khăn trên, Công ty đã thực hiện công tác nghiên cứu thị trường trong nước cũng như thị trường nước ngoài một cách cụ thể để từ đó có những phương án kinh doanh sao cho phù hợp với khả năng hiện tại của Công ty. Đối với khách hàng nội địa của Công ty, Công ty thường áp dụng phương pháp nghiên cứu thị trường bằng cách khảo sát trực tiếp. Bởi vì khoảng cách giữa khách hàng nội địa của Công ty mở rộng không tập trung ở một hoặc một vài đơn vị ngành nghề mà mở rộng quan hệ với nhiều Công ty khác như: Công ty Hỗ trợ và phát triển công nghệ, Công ty XNK thanh niên thành phố Hồ Chí Minh, Công ty Thương mại Đà Nẵng . Đây là một ưu thế tạo đà cho Công ty phát triển trên thị trường quốc tế.
Đối với việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, Công ty thường áp dụng hai phương pháp: nghiên cứu tại bàn và khảo sát thực tế. Việc nghiên cứu tại bàn, Công ty thường thông qua nguồn thông tin chủ yếu là các tài liệu trữ từ những lần xuất nhập khẩu trước đó và các tài liệu có được từ hồ sơ chào hàng của nhà cung cấp truyền thống hoặc các nhà trung gian môi giới. Ngoài ra, đối với việc nhập khẩu các hàng hoá có tính chất phức tạp và đòi hỏi tiêu chuẩn kỹ thuật cao và có giá trị lớn thì Công ty thường áp dụng phương pháp nghiên cứu thị trường dưới hình thức khảo sát trực tiếp, bằng cách cử một vài càn bộ có nghiệp vụ chuyên ngành để đi sang thị trường của các nhà cung cấp.
Tất cả các thông tin có được từ bước nghiên cứu thị trường được đơn vị tổng hợp lại, sơ bộ lựa chọn thị trường nhập khẩu và lập phương án kinh doanh.
Đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường năm 2002 là 857 triệu VNĐ, năm 2003 là 1.142 triệu VNĐ, tăng 133,26% so với năm 2002. Năm 2004, đầu tư 1.574 triệu VNĐ, đến năm 2005 tổng đầu tư cho công tác nghiên cứu thị trường là 3.273 triệu VNĐ, tăng 207,94% so với năm 2004 do Công ty tập trung vào nghiên cứu thị trường nước ngoài, tăng thị phần từ thị trường bên ngoài nhằm tăng doanh thu cho Công ty. Năm 2006, Công ty tập trung vào nghiên cứu thị trường trong nước với tổng số vốn đầu tư là 5.534 triệu VNĐ, tăng 169,08% so với năm 2005, đây là điều kiện thuận lợi cho Công ty vì thị trường trong nước là một thị trường tiềm năng.
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu của Công ty chưa được đặt lên hàng đầu và chưa phát huy tốt, Công ty chủ yếu bị động trong việc ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng hóa nên Công ty cần có một bộ phận chuyên về Marketing có trình độ, có đầu óc, khi việc nghiên cứu thị trường có khoa học thì Công ty có nhiều cơ hội để lựa chọn các nguồn hàng tốt nhất và mở rộng cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của mình từ đó mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho Công ty.
Hoạt động đầu tư vào dịch vụ và sản phẩm
Tạo ra những hàng hoá, dịch vụ có chất lượng cao, thoả mãn yêu cầu của khách hàng là doanh nghiệp chọn cách phát triển theo chiều sâu và là phương án tiết kiệm nhất
Sản phẩm có chất lượng cao sẽ giúp cho người mua thoả mãn nhu cầu một cách có hiệu quả nhất, qua đó giúp doanh nghiệp nâng cao uy tín và lợi thế cạnh tranh về chất lượng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể mở rộng thị trường, đặc biệt là thị trường xuất khẩu.
Mặt khác, nếu một sản phẩm không đạt chất lượng có thể gây phiền phức, thậm chí gây nguy hiểm cho người sử dụng, gây mất lòng tin với khách hàng, ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Hoạt động đầu tư cho dịch vụ bao gồm các hoạt động đầu tư nghiệp vụ bảo đảm cho quá trình kinh doanh xuất, nhập khẩu hàng hoá đạt hiệu quả cao, bao gồm: Tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu các phương tiện, thiết bị, vật tư nông nghiệp; dịch vụ vận chuyển giao nhận hàng hoá và khai thác kho bãi, dịch vụ hàng hải và cung ứng tàu biển; Nhập khẩu trực tiếp, kinh doanh và cung ứng hàng hoá . . .
Hàng hoá và dịch vụ xuất nhập khẩu là vô cùng phong phú, nó được hình thành và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Đối với Công ty, nhiều mặt hàng và loại hình dịch vụ còn rất mới mẻ, nhưng sau khi ra đời đã nhanh chóng phát huy tác dụng, bởi nó phù hợp với yêu cầu và xu hướng phát triển tất yếu của một nền kinh tế mở. Vấn đề ở đây là Công ty cần phải lựa chọn các mặt hàng và các loại hình dịch vụ phù hợp với những đặc điểm kinh doanh của Công ty, để đảm bảo đầu tư vừa an toàn vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao trong kinh doanh.
Đẩy mạnh kinh doanh xuất, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ là biện pháp rất quan trọng để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Công ty XNK lương thực thực phẩm Hà Nội trực tiếp thực hiện công tác kinh doanh với các đối tác. Qua việc nghiên cứu thị trường, Công ty tập hợp nhu cầu khách hàng: Dựa trên kết quả của việc nghiên cứu thị trường, nghiên cứu giá cả, phân tích sự biến động của thị trường giá cả. Phòng Thương mại - Dịch vụ sau khi xem xét lại các đơn chào hàng của đơn vị đặt hàng, tiến hành nhận định nhu cầu về quy cách, chủng loại hàng hoá, thời gian nhận hàng để lập biểu đơn hàng. Theo quy định của Công ty, đơn hàng phải chứa đựng những nội dung chủ yếu sau:
Tên hàng.
Quy cách, phẩm chất.
Mẫu mã chủng loại.
Điều kiện giao hàng.
Phương thức thanh toán.
Điều kiện chào giá.
Bao bì đóng gói.
Các đơn chào hàng được kiểm tra lại và được trình lên giám đốc hoặc phó Giám đốc Công ty xem xét, phê duyệt. Khi trình duyệt đơn hàng, phòng Thương mại - Dịch vụ phải gửi kèm theo báo cáo phân tích lựa chọn những nhà cung cấp để gửi đơn hàng. Đơn hàng phải được gửi ít nhất tới ba nhà cung cấp.
Năm 2002, Công ty đầu tư 1.053 triệu VNĐ cho chất lượng sản phẩm (các loại vật tư hàng hoá, lương thực, vật tư nông nghiệp và chất đốt trong nước, nông sản thực phẩm và vật liệu xây dựng dân dụng) và dịch vụ khách hàng (các dịch vụ vận chuyển giao nhận hàng hoá và khai thác kho bãi, dịch vụ cho thuê văn phòng), và năm 2003, dựa trên nhu cầu của khách hàng về sản phẩm, Công ty đã đầu tư 1.587 triệu VNĐ, tăng 150,71% so với năm 2002. Năm 2004, tổng đầu tư là 1.982 triệu VNĐ, tăng 124,89% so với năm 2003. Đến năm 2005, nhu cầu về sản phẩm tăng (hàng tiêu dùng, hàng nông - lâm - thuỷ sản. sinh. Chế biến nông sản thực phẩm và sản xuất vật liệu xây dựng dân dụng . . .) cùng với tăng chất lượng dịch vụ cho khách hàng như: Tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu các phương tiện, hàng hoá, vật tư nông nghiệp; Đại lý tàu biển và môi giới hàng hải, dịch vụ vận chuyển giao nhận hàng hoá và khai thác kho bãi, dịch vụ hàng hải; Nhập khẩu trực tiếp, kinh doanh và cung ứng hàng hoá, . . . nên Công ty đã đầu tư 3.974 triệu VNĐ cho công tác này, tăng 200,5% so với năm 2004. Năm 2006, tổng đầu tư là 4.125 triệu VNĐ, tăng 103,8% so với năm 2005, tăng không đáng kể này là do hạn chế về sản phẩm, bị động trong khâu phát triển mặt hàng, không nâng cao chất lượng dịch vụ khi nhu cầu ngày một cao của khách hàng.
Công ty còn đầu tư vào một số lĩnh vực và sản phẩm như:
+ Kinh doanh XNK: hàng tiêu dùng.
+ XNK hàng nông, lâm, thuỷ sản.
+ Tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu: phương tiện, thiết bị, vật tư nông nghiệp.
+ Kinh doanh các loại, lương thực, vật tư nông nghiệp.
+ Môi giới hàng hải, dịch vụ vận chuyển giao nhận hàng hoá và khai thác kho bãi, dịch vụ hàng hải và cung ứng tàu biển.
+ Chế biến nông sản thực phẩm và sản xuất vật liệu xây dựng dân dụng.
+ Nhập khẩu trực tiếp, kinh doanh và cung ứng thực phẩm.
Những lĩnh vực và sản phẩm kinh doanh này tuy trước đây không được phát triển đồng đều và chỉ là những lĩnh vực mới tham khảo thị trường, nhưng sau một thời gian hoạt động có hiệu quả đồng thời công tác thị trường cho thấy những lĩnh vực này là lĩnh vực và sản phẩm tiềm năng thì Công ty đã tập trung đầu tư một cách hợp lý và có hiệu quả.
Như vậy, hoạt động đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty trong thời gian qua đã có bước tiến bộ, đặc biệt là hoạt động đầu tư cho cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn nhân lực và nghiên cứu thị trường, các hoạt động này đã có một mức đầu tư hợp lý và cần tiếp tục phát huy trong thời gian tới. Mức độ đầu tư vào các hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh của Công ty đã từng bước hợp lý. Tuy nhiên, đầu tư cho dịch vụ và sản phẩm cần được quan tâm và có mức đầu tư tích cực hơn do hoạt động kinh doanh của Công ty chủ yếu là thương mại và dịch vụ. Do vậy, đây sẽ là một thế mạnh để Công ty có thể cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường.
III. Đánh giá kết quả hoạt động đầu tư, khả năng cạnh tranh của Công ty
1. Đánh giá chung
Trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không, điều đó phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có tạo ra được lợi nhuận hay không. Qua đó, ta thấy lợi nhuận có vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, lợi nhuận còn có vai trò quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân, lợi ích của mỗi doanh nghiệp bao giờ cũng gắn với lợi ích của Nhà nước, của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đối với Công ty XNK lương thực thực phẩm Hà Nội , lợi nhuận có vai trò quan trọng tác động đến việc mở rộng thị trường và tạo sự cạnh tranh với các đối thủ khác trong và ngoài nước. Bên cạnh đó nó giúp cho doanh nghiệp thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước.
Bảng 5: Kết quả hoạt động kinh doanh XNK (2002 - 2006) của Công ty.
(Đơn vị: Triệu VNĐ.)
STT
Các chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
1
Tổng doanh thu
51.158
136.704
197.592
427.169
652.698
2
Nhập khẩu
3.074
3.648
2.313
17.435
43.957
3
Xuất khẩu
48.084
133.056
195.279
409.334
608.741
4
Nộp ngân sách
251
563
720
54.126
109.213
5
Lợi nhuận gộp
1.462
3.586
4.856
9.975
16.117
6
Chi phí bán hàng - ql
2.415
3.418
4.699
9.403
13.165
7
Ln trước thuế
-953
+168
+157
+572
+2.952
8
Tỉ trọng giữa LN & Đầu Tư
2,9%
2,6%
2,5%
2,3%
2,5%
Nguồn: Phòng Thương mại - Dịch vụ.
Quá trình phát triển tổng kim ngạch XNK của Công ty có thể được chia ra làm 3 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1 (từ 1998 - 2002): Đây là giai đoạn cực kỳ khó khăn cho các doanh nghiệp XNK nói chung và Công ty XNK lương thực thực phẩm Hà Nội nói riêng, vì nước ta vừa chuyển đổi nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế vận hành theo nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ nên trong năm 2002 Công ty đã bị lỗ 953.000 triệu đồng.
+ Giai đoạn 2 (từ 2003 - 2005): Thông qua việc bổ sung các thị phần XNK cũ đã mất của Công ty bằng những mặt hàng mới như: hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp ngoài nghành, hàng nông - lâm - thuỷ sản . . ., hoạt động XNK đã thoát khỏi sự suy thoái. Tổng kim nghạch XNK tăng dẫn tới tăng doanh thu, năm 2002 tổng doanh thu XNK là 51.158 triệu VNĐ thì năm 2003 đã tăng lên 136.704 triệu VNĐ (tăng 267,2%), năm 2004 đã tăng lên 197.592 triệu VNĐ (tăng 145% so với năm 2001). Hoạt động xuất khẩu đóng vai trò lớn trong việc tăng tổng doanh thu, so với xuất khẩu thì hoạt động nhập khẩu của Công ty chiếm tỷ trọng quá nhỏ, chỉ chiếm sấp xỉ 1,7 % tổng doanh thu XNK.
+ Giai đoạn 3 (từ 2005 - 2006): Đây là giai đoạn phát triển đáng ghi nhận của Công ty. Năm 2005, Công ty được Tổng Công ty lương thực thực phẩm Miền Bắc giao nhiệm vụ cung ứng một lượng lương thực thực phẩm lớn cho miền bắc cho nên lợi nhuận thuần của năm là 572 triệu VNĐ.
Sang năm 2006, Công ty đã đầu tư xây dựng hệ thống kho nổi, bồn chứa để thực hiện tốt công tác nhập khẩu và dự trữ hàng tồn kho, xuất khẩu hàng nông sản và thuỷ sản, hàng may mặc . . ., vì vậy tổng doanh thu năm 2006 tăng lên 652.698 triệu VNĐ (tăng 152% so với năm 2003), lợi nhuận gộp tăng lên 16.117 triệu (tăng 161%), lợi nhuận thuần tăng lên 2.952 triệu (tăng 516% so với năm 2003).
Qua bảng trên, ta có thể phân tích một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh doanh xã hội của hoạt động đầu tư của Công ty trong thời gian qua:
* Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư:
Wipv
RRi = ———
Ivo
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ lợi nhuận thuần thu được tính trên một đơn vị vốn đầu tư.
Bảng tính tỷ suất sinh lời vốn đầu tư tại Công ty
Năm
Chỉ tiêu
2002
2003
2004
2005
2006
Lợi nhuận (tr.VNĐ)
1.462
3.586
4.856
9.975
16.117
Vốn đầu tư (tr.VNĐ)
5.250
6.361
8.961
15.006
22.213
Tỷ suất sinh lời
0.278
0.564
0.542
0.665
0.726
Qua bảng, ta thấy tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư của Công ty khá cao, trung bình trong thời kỳ 2002-2006 mỗi đồng vốn đầu tư bỏ ra đem lại lợi nhuận là 0.5 đồng, trong đó tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư năm 2002 là thấp nhất (0.278), điều đó cho thấy năm 2002 Công ty sử dụng vốn kém hiệu quả nhất. Năm 2003, lượng vốn đầu tư cao hơn năm 2002 do Công ty làm ăn hiệu quả (do tác động của các điều kiện khách quan và chủ quan), lợi nhuận đạt được là 3.586 tr.VNĐ nên tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư cao hơn rất nhiều so với năm 2002. Năm 2004, 2005, 2006, tỷ suất sinh lời lại trở lên ổn định hơn, tuy nhiên cũng đã vượt mức của năm 2000 rất nhiều.
* Hiệu quả sử dụng lao động:
Hiệu quả sử dụng lao động của Công ty được thể hiện qua chỉ tiêu mức sinh lời bình quân 1 lao động, được thể hiện qua bảng sau:
Bảng tính hiệu quả sử dụng lao động của Công ty
Năm
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
Lợi nhuận (tr.VNĐ)
3.586
4.856
9.975
16.117
Số lao động (người)
134
146
166
183
Mức sinh lời bình quân 1 lao động (tr.VNĐ/người)
26,761
33,260
60,090
88,071
Qua bảng, ta thấy mức sinh lời bình quân 1 lao động tăng lên liên tục và nhanh (chỉ trừ năm 2004, do một số yếu tố tác động làm cho doanh tăng chậm đến mức sinh lời bình quân 1 lao động cũng tăng chậm). Điều đó phản ánh bộ máy quản lý của Công ty hoạt động rất hiệu quả, số lao động có xu hướng giảm tăng qua các năm nhưng lợi nhuận của Công ty cũng tăng theo qua các năm do đội ngũ cán bộ ngày càng có trình độ cao. Có được điều đó là do Công ty luôn có sự cải tổ trong cơ cấu lao động theo hướng có hiệu quả, mọi người được làm việc theo đúng chuyên môn và sở trường của mình dẫn đến hiệu quả làm việc của họ rất cao. Trong thời gian tới, Công ty nên phát huy ưu thế này để nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường không chỉ trong nước mà còn ở cả thị trường quốc tế.
2. Thuận lợi và khó khăn của công ty
2.1. Một số thuận lợi của Công ty
Cùng với sự phát triển lớn mạnh của Tổng Công ty lương thực thực phẩm Miền Bắc trong những năm qua, hoạt động đầu tư của Công ty ngày càng được chú trọng, và đã đem lại hiệu quả trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Trên cơ sở bám sát tình hình thị trường, mở rộng cơ sở, phát huy lợi thế so sánh về tiềm năng kho bãi, về đội ngũ cán bộ, về uy tín và các mối quan hệ bạn hàng trong lĩnh vực kinh doanh XNK nên mặc dù gặp nhiều trở ngại về vốn, về tỷ giá ngoại tệ nhưng việc kinh doanh về XNK hàng lương thực, hàng tiêu dùng hiện nay đã có những bước tiến bộ đáng kể. Bên cạnh các mặt hàng truyền thống như gạo . . ., Công ty còn đẩy mạnh kinh doanh nhiều mặt hàng khác với số lượng lớn như: kinh doanh XNK hàng tiêu dùng, hàng nông, lâm, thuỷ sản; kinh doanh các loại vật tư hàng hoá, lương thực, vật tư nông nghiệp và chất đốt trong nước; chế biến nông sản thực phẩm và sản xuất vật liệu dân dụng; nhập khẩu trực tiếp, kinh doanh và cung ứng nhiên liệu cho các đơn vị trong và ngoài Tổng Công ty. Trên cơ sở nắm bắt được nhu cầu của phía nước ngoài, Công ty cũng đã có những tích cực trong việc xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh sang nước bạn và hoạt động xuất khẩu đã mang lại lợi nhuận đáng kể cho Công ty.
Nhờ việc đầu tư kịp thời vào hệ thống kho bãi và máy móc thiết bị nên trong những năm qua Công ty đã đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh của mình. Dịch vụ tạm nhập, tái xuất, chuyển khẩu: phương tiện, thiết bị, vật tư nông nghiệp, hàng hoá XNK: trong những năm qua nhằm phát huy năng lực của đội ngũ cán bộ và cơ sở vật chất hiện có thì ngoài việc tiếp nhận và vận chuyển hàng trăm tấn hàng phục vụ cho hoạt động kinh doanh chung.Công ty đã đồng ý để Xí nghiệp triển khai hoạt động khai thác thuê hải quan, tiếp nhận vận chuyển hàng hoá nhập khẩu cho một số đơn vị kinh doanh khác với khối lượng hàng hoá hàng trăm nghìn tấn, nhờ đó đã làm tăng doanh thu mỗi năm của toàn bộ Xí nghiệp góp phần giải quyết việc làm và tăng nguồn thu cho Công ty.
Qua những thành tựu mà Công ty đã đạt được dựa trên những thuận lợi của mình, có thể thấy việc đầu tư của Công ty là hoàn toàn hợp lý, thể hiện hướng đi đúng đắn của Công ty, phù hợp với xu thế phát triển chung, đáp ứng nhu cầu phát triển đi lên, công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.
2.2. Những mặt hạn chế của công ty
Hoạt động nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước của Công ty, đầu tư chưa được thích đáng làm cho thị trường nhập khẩu của Công ty dù rất rộng nhưng kim ngạch tập trung vào một số thị trường nhất định, do đó khi có sự bất ổn kinh tế xảy ra ở các thị trường này sẽ rất khó khăn cho Công ty trong việc thực hiện các kế hoạch kinh doanh của mình. Còn thị trường trong nước, việc tìm hiểu nhu cầu nhập khẩu của các doanh nghiệp trong nước rất yếu kém, thường là các doanh nghiệp tự tìm đến để ký kết các hợp đồng nhập khẩu uỷ thác hay hợp đồng tiêu thụ lô hàng hoá . . . với Công ty. Do vậy chưa tận dụng được các lợi thế về nhân lực cũng như về vốn của Công ty.
Đầu tư, xem xét thị trường vận tải chưa thoả đáng, do vậy Công ty thường thực hiện các hợp đồng theo các điều kiện mà trên các chặng vận tải chính là do các đối tác đảm nhiệm, điều đó làm cho giá hàng nhập khẩu tăng, giá xuất khẩu thì giảm hạn chế đến khả năng cạnh tranh của đơn vị.
Đầu tư xây dựng cơ bản và máy móc thiết bị diễn ra hết sức chậm chạp, với khối lượng nguồn vốn đầu tư khá mỏng mà tập trung chủ yếu là xây dựng các kho, ít chú ý tới việc nghiên cứu và cải tiến công nghệ nên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cạnh tranh ngày càng gay gắt trong giai đoạn hiện nay.
Khả năng tiếp nhận thông tin phản hồi trên thị trường còn kém, quá trình quản lý hàng dự trữ có nhiều thiếu sót, tính kỷ luật và tinh thần trách nhiệm của lực lượng kỹ thuật chưa đáp ứng được với nhu cầu mở rộng kinh doanh của Công ty, trình độ của cán bộ Công ty còn hạn chế, chưa có tầm nhìn xa, chỉ bó hẹp trong trách nhiệm được giao.
Ngoài những mặt thuận lợi mà Công ty có được, để có thể cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường thì Công ty cần phải có một số giải pháp tích cực nhằm khắc phục những hạn chế của Công ty, nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty ở thị trường trong nước và trên thị trường thế giới.
Phần 2: Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong công ty XNK LTTP Hà Nội.
I. Chiến lược phát triển của công ty những năm tiếp theo
1. Phương hướng hoạt động của Công ty trong thời gian tới
Từ thực tế của hoạt động kinh doanh XNK trong thời gian vừa qua và nắm bắt xu thế của nền kinh tế đất nước và khu vực, một xu thế mở, tự do hoá mậu dịch và cạnh tranh gay gắt cùng những dự toán về tình hình kinh doanh trong thời gian tới, Công ty XNK vật tư đường biển đã đặt cho mình một hướng đi mới trong tương lai.
Hướng phát triển của Công ty trong thời gian tới là mở rộng hơn nữa lĩnh vực kinh doanh, mặt hàng kinh doanh XNK, đặc biệt là tiếp tục thúc đẩy mạnh công tác xuất khẩu và kinh doanh cung ứng hàng thực phẩm, trọng tâm là công tác cung ứng tiêu thụ sản phẩm gạo ở thị trường trong nước, và xuất khẩu ra nước ngoài. Tiếp tục công tác nghiên cứu thị trường nhằm tìm kiếm những thị trường mới, cơ hội và thách thức mới bên ngoài, dựa vào những thành quả đã đạt được trong những năm qua tiếp tục khai thác thêm những nguồn lợi có thể đạt được trong công tác giao nhận hàng hoá, đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ với các bước trong quá trình nhập khẩu của Công ty từ đó giảm bớt những rủi ro và tranh chấp đối với bạn hàng từ đó giảm thiểu những chi phí không đáng có trong quá trình nhập khẩu.
Bên cạnh đó, Công ty đặt ra những mục tiêu cao hơn trong công tác XNK trong thời gian tới như sau:
Các chỉ tiêu cho năm 2007:
Giá trị kim ngạch XNK : 82.670.000 USD
Trong đó:
Xuất khẩu : 28.440.000 USD
Nhập khẩu : 54.230.000 USD
- Doanh số bán ra : 700.000 triệu đồng
- Lãi gộp : 19.000 triệu đồng
- Nộp ngân sách : 145.000 triệu đồng
trong đó :
Thuế VAT : 79.000 triệu đồng
Thuế XNK : 66.000 triệu đồng
2. Mục tiêu chủ yếu của Công ty trong thời gian tới:
Chấn chỉnh lại công tác quản lý để tập trung đẩy mạnh hơn nữa công tác quản lý, công tác kinh doanh XNK, công tác thị trường, nhằm phục vụ cho các nhu cầu của các đơn vị trong ngành. Triệt để khai thác các nguồn hàng kinh doanh nội địa nhằm tìm đầu vào cho các đơn đặt hàng ở nước ngoài. Chấn chỉnh và phát triển các dịch vụ cho thuê văn phòng, kho bãi nhằm thu thêm lợi nhuận từ công tác dịch vụ của công ty. Mặt khác, Công ty có thể tận dụng lợi ích sẵn có của mình về dịch vụ để bao tiêu trọn gói cho những lô hàng xuất khẩu sang các nước láng giềng hay các nước trong khu vực mà Công ty có lợi thế về điều kiện địa lý, để có thể có được lợi nhuận cao hơn trong hoạt động XNK.
Mục tiêu tăng kim ngạch XNK năm 2007 đến 82.670.000 USD, tăng 15% so với kim ngạch XNK năm 2006. Ngoài các mặt hàng XNK, Công ty sẽ tập trung đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu thị trường để tìm kiếm thêm nguồn hàng và nơi tiêu thụ để mởi rộng hơn nữa ngành hàng kinh doanh nhằm tăng doanh thu cho Công ty và tăng lợi ích cho xã hội.
Công ty xây dựng kế hoạch thực hiện doanh số bán ra trong năm là 700.000 triệu đồng, tăng 120% so với doanh số bán ra Công ty ước thực hiện năm 2006, lãi gộp Công ty phấn đấu thực hiện là 19.000 triệu đồng, lãi gộp chiếm tỷ trọng 2,7% so với doanh số bán ra và nộp ngân sách là 145.000 triệu đồng.
Qua đây, cũng có thể thấy được quyết tâm của toàn Công ty trong thời gian tới là tìm cách gia tăng lợi nhuận, đem lại hiệu quả kinh tế trong hoạt động kinh doanh XNK, tăng khả năng đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh đã đem lại 92% tổng doanh thu của toàn Công ty.
II. Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong công ty
Giải pháp chung
Tiếp tục tổ chức và hoàn thiện tốt việc lập kế hoạch
Một trong những nguyên nhân dẫn đến doanh thu của công ty tăng lên đáng đáng kể là do cơ cấu đầu tư hợp lý. Công ty đã thực hiện tốt việc lập kế hoạch sử dụng vốn, kế hoạch về thị trường cũng nhu kế hoạch sản xuất kinh doanh trong những năm qua. Song việc triển khai kế hoạch còn bị coi nhẹ,bản kế hoạch vẫn chỉ là một công trình nghiên cứu, đặc biệt là công ty chưa có kế hoạch phát triển trong dài hạn, chỉ dừng lại ở kế hoạch năm. Bên cạnh đó đội ngũ cán bộ kế hoạch còn quá mỏng so với nhu cầu phát triển của công ty hiện nay. Để khắc phục tình trạng đó công ty cần;
Cần xây dựng kế hoạch phát triển trung và dài hạn cho công ty, từ đó có kế hoạch cụ thể cho phù hợp với từng năm. Vì mục tiêu phát triển lâu dài.
Hoàn thiện kế hoạch sản xuất kinh doanh cho từng năm, đi sát với điều kiện thực tế của công ty, từ đó có những kế hoạch khác về huy động nguồn vốn, phân bổ nguồn vốn...
Cần có kế hoạch cụ thể về đầu tư xây dựng cơ bản và máy móc thiết bị, tránh tình trạng thiếu gì thì mua, nó chỉ phản ánh được nhu cầu trước mắt mà thôi. Nhất là trong điều kiện công ty hoạt động trong nhiều lĩnh vực hiện nay và khả năng tài chính là có hạn.
Cần có kế hoạch chiến lược thị trường cụ thể, cũng nhu sản phẩm chủ uếy của công ty ở thị trường đó để có kế hoạch đầu tư phù hợp.
Giải pháp về quản lý
Tiếp tục hoàn thiện bộ máy quản lý của công ty, hiện nay bộ máy quản lý của công ty đã có sự điều chinh phù hợp hơn so với trước năm 2005, nhưng nó vẫn tồn tại một số hạn chế, vấn còn sự chồng chéo trong quản lý, quy định nhiệm vụ chưa rõ ràng giữa các phòng ban, còn thiếu các phòng ban chức năng khác, do vậy sự gắn kết công việc giữa các phòng ban chưa hiệu quả. Do vậy cần có những quy định cụ thể nhiệm vụ và chức năng của các phòng ban gắn với trách nhiệm và quyền lợi cụ thể. Bổ sung các phòng ban chức năng cần thiết khác.
Tiếp tục duy trì tiêu chuẩn quản lý chất lượng ISO9001:2000 đang thực hiện, từng bước áp dụng cho toàn bộ các khâu trong quản lý hoạt động xuất nhập khẩu.
Quản lý chất lượng là hệ thống các hoạt động, các biện pháp, phương pháp và quy định hành chính, kinh tế, kỹ thuật, tổ chức... dựa trên những thành tựu khoa học, kỹ thuật nhằm sử dụng tối ưu các tiềm năng trong doanh nghiệp để đảm bảo duy trì và không ngừng nâng cao chất lượng ( sản xuất, tiêu thụ và tiêu dùng) nhằm thỏa mãn nhu cầu của xã hội với chi phí thấp nhất.
Còn quản lý chất lượng toàn diện là cách tổ chức quản lý của một tổ chức tập trung vào chất lượng thông qua việc động viên để thu hút mọi thành viên tham gia tích cực vào quản lý chất lượng ở mọi cấp, mọi khâu trong hoạt động kinh doanh nhằm đạt được kết quả cao nhất.
Quản lý chất lượng toàn diện lấy con người làm trung tâm. con người là nhân tố cơ bản, có ý nghĩa quyết định đến việc tạo ra và nâng cao chất lượng sản phẩm. Mọi thành viên trong doanh nghiệp từ giám đốc, các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật đến người lao động đều có vai trò và trách nhiệm về chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, ý thức tự giác, lòng nhiệt tình và khả năng trang bị kiến thức, phương tiện quản lý chất lượng. Do đó, có thể coi quản lý chất lượng toàn diện là việc biến quản lý chất lượng thành quá trình tự quản của mọi thành viên trong doanh nghiệp. Vì vậy, để thực hiện được quản lý chất lượng toàn diện cần làm cho mọi thành viên ý thức được trách nhiệm của mình, được trang bị đầy đủ về kiến thức quản lý và gắn quyền lợi với chất lượng do mình làm ra. Ngoài ra, quản lý chất lượng toàn diện còn chú trọng tới vai trò của tổ nhóm chất lượng, coi đó là biện pháp không thể thiếu được nếu muốn quản lý chất lượng thu được kết quả tốt.
Quản lý chất lượng toàn diện tập trung vào quản lý mọi yếu tố, mọi khâu trong quá trình sản xuất thay vì quản lý sản phẩm. Quản lý chất lượng toàn diện phát triển tính linh hoạt và không ngừng nâng cao chất lượng của toàn bộ hệ thống, tiêu thụ và tiêu dùng sản phẩm.
Giải pháp triệt để các nguyên tắc hoạch toán kinh doanh
Nguyên tắc này nhằm tạo uy tín của công ty, cũng nhu thuận lợi cho việc huy động vốn, buộc các doanh nghiệp phải phát huy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Công ty thực hiện hoạch toán kinh doanh độc lập nên công ty luôn tạo động lực khuyến khích người lao động từ đó nâng cao năng suất lao động và phát huy sáng kiến của các cán bộ công nhân viên trong công ty từ đó tiết khiệm được chi phí.
Lấy thu bù chi có lãi, thực hiện giám sát bằng tiềm, chịu trách nhiệm bằng vật chất và được khuyến khích bằng lợi ích vật chất, đảm bảo tính tự chủ của các đơn vị thành viên.
Giải pháp đối với việc quản lý bảo dương tài sản cố định
Đối với các doanh nghiệp đầu tư cơ bản luôn là vấn đề được tính đến trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Một cơ sở kinh doanh bao giờ cũng cần có cơ sở hạ tâng riêng. Trong nhưng năm gần đây mặc dù đã có sự đầu tư, nhưng với nhu cầu phát triển của công ty hiện nay việc đầu tư là rất cần thiết. Trước mắt là giải quyết vấn đề về kho bãi, các cơ sở chế biến, nhằm nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước, và tiếp tục hoàn thiện cơ sở vật chất văn phòng nhằm phục vụ cho công tác quản ly và cho thuê
tiếp tục Đầu tư vào nguồn nhân lực
Vấn đề quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực là một điều kiện hết sức quan trọng để doanh nghiệp có thể đứng vững trong cạnh tranh, tồn tại và tiếp tục phát triển.
Để có thể phòng ngừa hạn chế các tranh chấp cần phải nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như trình độ pháp lý của đội ngũ cán bộ làm công tác XNK, đặc biệt của những người trực tiếp tham gia đàm phán ký kết và thực hiện các hợp đồng XNK hàng hoá. Thực tế cho thấy, không ít trường hợp Công ty XNK vật tư đường biển tham gia đàm phán ký kết hợp đồng nhập khẩu với thương nhân người nước ngoài mà người trực tiếp đàm phán ký kết thì lại vừa yếu về chuyên môn nghiệp vụ vừa yếu về trình độ pháp lý. Nhiều hợp đồng nhập khẩu sau khi ký kết vừa không chặt chẽ về mặt kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương vừa quá sở hở về pháp lý. Đối với những hợp đồng như thế tranh chấp xảy ra là điều khó tránh khỏi. Vì thế, việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ pháp lý của các cán bộ trong Công ty trước tiên nhằm khắc phục các tranh chấp phát sinh gây thiệt hại cho Công ty xuất phát từ sự yếu kém về trình độ kinh doanh.
Những người trực tiếp tham gia đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu cần phải có trình độ hiểu biết đáng kể về thương phẩm học, nghiệp vụ kinh doanh ngoại thương, pháp luật về kinh doanh XNK và ngoại ngữ. Cao hơn nữa, Công ty cần có một chuyên gia pháp lý để hỗ trợ cho mình trong việc đàm phán ký kết hợp đồng, trực tiếp theo dõi việc khiếu kiện và giải quyết tranh chấp phát sinh trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Muốn nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và trình độ pháp lý thì phải học tập ở trường lớp và học tập trong thực tiễn. Do vậy, Công ty cần quan tâm đến việc đào tạo cán bộ, có kế hoạch cho cán bộ tham gia các lớp học về nghiệp vụ XNK, về pháp luật kinh doanh XNK thông qua các lớp ngắn hạn, tại chức, chuyên đề, hội thảo, các khoá học nâng cao. Học hỏi để nâng cao trình độ qua thực tiễn cũng hết sức quan trọng, cho nên những cán bộ có chuyên môn nghiệp vụ, trình độ pháp lý và kinh nghiệm cần hướng dẫn các cán bộ mới vào nghề, các cán bộ còn chưa chuyên sâu.
Đầu tư nâng cao hiệu quả MARKETING nhằm phát triển thị trường.
Trong thời gian qua, việc nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu của Công ty chưa được đặt lên hàng đầu và chưa phát huy tốt, Công ty chủ yếu bị động trong việc ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng hóa nên Công ty cần có một bộ phận chuyên về Marketing có trình độ, có đầu óc, khi việc nghiên cứu thị trường có khoa học thì Công ty có nhiều cơ hội để lựa chọn các nguồn hàng tốt nhất và mở rộng cơ cấu mặt hàng nhập khẩu của mình từ đó mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho Công ty.
Trong hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong hoạt động XNK Công ty nên kiểm tra khả năng tài chính của khách hàng trước khi ký kết hợp đồng nhằm tránh những sai sót đáng tiếc xảy ra, cần duy trì một số vốn ngoại tệ để tránh thua lỗ do biến động tỷ giá và tăng khả năng thanh toán.
Việc quản lý một cách khoa học hoạt động XNK có thể giảm tối thiểu 5% chi phí thông qua việc lựa chọn hàng hoá "thích hợp" với mục tiêu, tính toán hợp lý thời điểm mua hàng, yêu cầu giảm giá vận chuyển hàng hoá có số lượng lớn ...
Công ty cần tiếp tục duy trì và phát triển hoạt động nghiên cứu các yếu tố của thị trường như: khách hàng, đối thủ cạnh tranh, các nhà cung cấp hàng hoá thay thế, các ảnh hưởng của những nhân tố thuộc môi trường kinh tế quốc gia . . . để có những thay đổi chiến lược kịp thời.
Hàng hoá cần đảm bảo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật - chất lượng trên cơ sở các nguồn lực sẵn có, xây dựng mạng lưới cung ứng hàng phân phối, đội ngũ tiếp thị để chủ động tìm nguồn hàng, khách hàng tiêu thụ sản phẩm và sử dụng dịch vụ, cải thiện các dịch vụ hỗ trợ bán hàng như kho bãi, bốc xếp, bảo hiểm . . .
Nếu như việc nghiên cứu thị trường trong nước giúp Công ty trong việc tìm kiếm đầu vào thì việc nghiên cứu thị trường nước ngoài sẽ giúp Công ty tìm kiếm đầu ra có hiệu quả nhất. Do đó, việc đầu tư vào nghiên cứu thị trường nước ngoài cũng giữ một vai trò quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường. Tuy nhiên, để thực hiện đầu tư có hiệu quả thì Công ty phải chú ý một số điểm sau:
+ Phải xác định được đâu là thị trường trọng điểm để từ đó có kế hoạch đầu tư hợp lý đối với từng loại thị trường.
+ Đối với các thị trường quan trọng, Công ty cần đầu tư thiết lập hệ thống văn phòng đại diện để có thể thu thập các thông tin về những biến động trên thị trường đó.
+ Không ngừng đầu tư nghiên cứu, tìm hiểu các thị trường, các mặt hàng mới mà doanh nghiệp định chuyển hướng hoặc mở rộng sản xuất kinh doanh.
Đầu tư đa dạng hóa sản phẩm XNK.
Công ty cần mạnh dạn đầu tư nghiên cứu thị trường xuất khẩu kết hợp sản xuất các mặt hàng truyền thống nhằm tăng lượng sản phẩm kinh doanh trong nước và tăng khả năng cạnh tranh về sản phẩm xuất khẩu trên thị trường. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu mặt hàng mới phải tuân thủ các bước như thăm dò thị trường, lên tiêu chuẩn, sản xuất kinh doanh thử, định giá, tránh tình trạng đầu tư nghiên cứu thời gian dài, chi phí lớn, thị trường không có nhu cầu, vừa hao tốn tiền của, vừa lãng phí thời gian.
Đa dạng hoá sản phẩm là một biện pháp mà bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải nghĩ tới khi tìm cách tăng khả năng cạnh tranh của mình. Công ty cần nghiên cứu thị trường, khách hàng cạnh tranh để đưa ra một loại sản phẩm phù hợp. Do vậy, việc nghiên cứu sản phẩm mới cũng như việc đa dạng hoá sản phẩm là một điều kiện cần thiết để Công ty có thể mở rộng thị trường.
Ở nước ta hiện nay, điều kiện tiêu dùng hàng sản xuất trong nước cũng đang được nâng cao với các sản phẩm có chất lượng tốt và giá cả cạnh tranh. Công ty cần nắm bắt được những yêu cầu của thị trường, nhanh chóng đưa ra sản phẩm phù hợp với thị hiếu của thị trường mà vẫn đảm bảo về chất lượng và giá cả cạnh tranh. Tuy nhiên, việc đa dạng hoá phải kết hợp với chuyên môn hoá khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, cần xác định cho mình một cơ cấu sản phẩm tối ưu, trong phương án nhập đầu vào phải lựa chọn sản phẩm riêng của mình để tạo thế độc quyền, với những loại sản phẩm mà lượng tiêu thụ ít thì Công ty vẫn phải tiếp tục duy trì nhập để phục vụ nhu cầu thị trường, nhằm giữ chân khách hàng đặc biệt là khách hàng truyền thống, song vẫn cần xem xét quy mô, cơ cấu của nó một cách hợp lý.
Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm là một trong những biện pháp hữu hiệu để mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của Công ty trước các đối thủ cạnh tranh, song để có thể đa dạng hoá một cách hiệu quả thì Công ty cần phải tăng cường các phương tiện kỹ thuật, các hoạt động thu thập, xử lý thông tin thị trường, mở rộng quan hệ hợp tác với các đối thủ trong kinh doanh.
Một số giải pháp về nguồn vốn
5.1 về huy động vốn
Tăng cường nguồn vốn đầu tư là một việc không thể không làm trong thời điểm hiện nay của lương thực thực phẩm Hà Nội . Công ty không chỉ dựa vào lượng vốn cấp phát từ ngân sách hay nguồn tự bổ sung của chính mình mà cần tìm nhiều nguồn vốn như đi vay ngân hàng, vay từ trong nội bộ, sử dụng các quỹ chưa sử dụng để tăng lượng vốn đầu tư.
- Đối với nguồn vốn ngân sách có số lượng hạn chế nhưng không phải trả chi phí vay nên để đầu tư các hạng mục dài hạn.
- Đối với nguòn vốn tự có là các khoản lợi nhuận để lại cần chú ý để tái đầu tư quay vòng vốn nhanh cho hoạt động của chu kỳ kinh doanh sau
- Với các nguồn vốn đi vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng thì phải nghiên cứu rõ ràng, chính xác tính khả thi và khả năng thu hồi vốn để đảm bảo điều kiện được vay; và thực hiện đầu tư cẩn trọng để bảo toàn vốn và có chi phí trả lãi vay.
- Công ty cũng không ngừng có nhiều biện pháp để huy động vốn nội bộ thông qua các chế độ đãi ngộ và sự đảm bảo kinh doanh có lãi
Tất cả các hoạt động huy động vốn này đều phải hoàn trả và phải chịu chi phí mà cá hoạt động đầu tư đều có rủi ro nên Công ty phải tính toán thậtt kỹ chi phi và kết quả của mỗi hoạt động đầu tư như thế nào cho hợp lý.
Công ty cần có nhiều biện pháp để huy động được càng nhiều thì càng hữu ích cho thời điểm hiện nay của Công ty. Công ty cần huy động vốn từ nhiều nguồn, dưới nhiều hình thức và nhiều biện pháp thanh toán khác nhau để san sẻ rủi ro
Bất kỳ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển thì không chỉ chờ vào nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước mà doanh nghiệp phải luôn tự mình tìm cách bổ xung nguồn vốn kinh doanh. Đối với Công ty XNK lương thực thực phẩm Hà Nội , nguồn vốn tự bổ xung của đơn vị được lấy từ lợi nhuận hàng năm và quỹ phát triển sản xuất của đơn vị. Với số vốn hiện nay của Công ty không thể đáp ứng tất cả các thương vụ kinh doanh XNK, do vậy cần có các chính sách sử dụng vốn hợp lý bằng cách ưu tiên vốn cho các mặt hàng kinh doanh có lãi suất cao, tăng vòng quay vốn lưu động kết hợp với việc khai thác nguồn vốn bên ngoài như:
+ Khai thác nguồn vốn từ liên doanh liên kết.
+ Huy động nguồn vốn từ công nhân viên trong Công ty và sử dụng các phương thức thanh toán hợp lý.
Đặc biệt, Công ty cần tranh thủ tối đa sự giúp đỡ, bảo lãnh của Tổng Công ty trong việc vay vốn để xây dựng các hệ thống bồn chứa, kho nổi, mua sắm phương tiện vận tải nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công việc nhập khẩu xăng dầu . . .
Do cơ cấu của Công ty còn nhỏ nên việc huy động vốn bằng phát hành trái phiếu và phát hành cổ phiếu là khó khăn. Giải pháp tốt nhất là Công ty có thể đi vay vốn từ các ngân hàng thương mại, có thể vay dài hạn và ngắn hạn. Tuy nhiên, trước khi có quyết định đi vay vốn thì Công ty nên tính toán, so sánh và cân nhắc giữa lãi suất tiền vay với tỷ suất lợi nhuận hoạt động kinh doanh có thể mang lại hiệu quả cho hoạt động vay vốn. Ngoài ra, Công ty có thể huy động vốn bằng cách khuyến khích công nhân viên trong Công ty gửi tiết kiệm tại Công ty. Huy động theo cách này không chỉ mang lại nguồn vốn đáng kể cho Công ty mà còn gắn chặt lợi ích của công nhân viên với lợi ích của Công ty, điều đó sẽ khuyến khích họ làm việc một cách tích cực hơn
5.2. về sử dụng vốn
Nguồn lực về vốn luôn là một nhân tố quyết định, tác động đến cạnh tranh. Khả năng cạnh tranh không chỉ thể hiện qua số lượng vốn có được mà còn là khả năng sử dụng hiệu quả nguồn vốn của các doanh nghiệp.
Hiệu quả sử dụng vốn ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của doanh nghiệp:
+ Hiệu quả cao khi sử dụng nguồn vốn sẽ làm cho nhu cầu về nguồn vốn của doanh nghiệp giảm tương đối, do đó sẽ cần ít vốn hơn cho những nhu cầu kinh doanh nhất định, từ đó chi phí cho sử dụng vốn sẽ giảm đi, tăng lợi thế cạnh tranh về chi phí. Ngoài ra, giảm nhu cầu về vốn rất cần thiết trong điều kiện thiếu vốn của doanh nghiệp.
+ Hiệu quả sử dụng các nguồn vốn tác động trực tiếp đến khả năng huy động vốn cho sản xuất kinh doanh vì nó liên quan đến chi phí cơ hội khi sử dụng vốn.
+ Sức cạnh tranh phụ thuộc vào lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, lợi thế đó thể hiện ở những khía cạnh khác nhau, trong đó có lợi thế về chi phí và lợi thế về tính khác biệt của sản phẩm. Hiệu quả sử dụng vốn liên quan đến khả năng đầu tư cho đổi mới công nghệ, từ đó tạo ra cho doanh nghiệp khả năng nâng cao chất lượng sản phẩm, khác biệt hoá sản phẩm và giảm chi phí, tạo lợi thế cạnh tranh.
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của Công ty:
Thứ nhất, để xác định tính hiệu quả trong việc huy động vốn, cần xây dựng phương án kinh doanh và dự án đầu tư một cách sát thực, tính toán hiệu quả sử dụng vốn trong điều kiện mới, luôn luôn biến động của thị trường.
Thứ hai, cần xem xét lại quy mô và cơ cấu vốn trong điều kiện thị trường nhất định của Công ty, mạnh dạn thanh lý hoặc chuyển nhượng những thiết bị không sử dụng được để giải phóng vốn, tăng nhanh vòng quay của vốn, đồng thời lựa chọn cơ cấu vốn một cách hợp lý, tránh tình trạng mất cân đối trong cơ cấu vốn.
Thứ ba, Công ty cần lựa chọn đúng phương hướng đầu tư tuỳ theo giai đoạn trong chu kỳ sống của sản phẩm. Khi sản phẩm đã đến thời kỳ bão hoà thì cần có các nghiên cứu đổi mới sản phẩm, nhưng khi sản phẩm ở giai đoạn tăng trưởng thì không nên đầu tư theo hướng đó, mà cần chú ý đổi mới, cải tiến quy trình công nghệ để giảm chi phí, tạo lợi nhuận cao hơn, tăng lợi thế cạnh tranh.
Thứ tư, Công ty có thể tăng đáng kể lượng vốn lưu động cần thiết, nghĩa là tăng nhanh vòng quay vốn lưu động, từ đó tăng tỷ suất lợi nhuận, bằng cách áp dụng phương pháp “vừa đúng thời điểm” trong việc dự trữ hàng hoá. Để làm được điều đó, Công ty cần lựa chọn những nhà cung ứng ở gần, có khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu sản phẩm và các loại vật tư khác ngay khi cần đến. Nếu áp dụng phương pháp này, Công ty còn có cơ hội giảm bớt nhu cầu kho tàng, giảm nhu cầu vốn cố định và vốn đầu tư ngay cả khi có nhu cầu mở rộng kinh doanh.
Qua đây, có thể thấy được nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ tạo điều kiện cho Công ty tăng cường sức mạnh tài chính, nâng cao sức cạnh tranh.
Đầu tư vào hàng tồn kho và quả lý hàng nhập kho
Để tiến hành hoạt động kinh doanh thì buộc các doanh nghiệp phải luôn có hàng dự trữ để có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường bất cứ lúc nào, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp. Để đảm bảo chất lượng hàng hoá nhập kho cần phải có phiếu kiểm tra chất lượng chi tiết nội địa hoá. Phiếu này do kỹ thuật lập, ký tên cho mỗi lô hàng nhập kho, phiếu này phải viết riêng thì tính pháp luật mới cao, tinh thần trách nhiệm mới có được. Báo cáo xuất hàng và lập chi tiết nội địa hoá được gửi hàng ngày về Công ty, ngoài ra khi thực hiện xuất nhập hàng phải có giấy tờ đầy đủ theo quy định. Trước khi hàng hoá vào kho đều phải được kiểm nhập, kiểm nghiệm và nếu thấy có sai khác, hao hụt hay mất mát . . . đều phải tiến hành lập biên bản với sự chứng kiến của các bên có liên quan để tiện cho việc giải quyết sau này.
Khi có hàng sản xuất kinh doanh nhập kho để chuẩn bị xuất khẩu hoặc hàng nhập khẩu nhập kho để chuẩn bị tái xuất, kinh doanh ở thị trường trong nước thì cần kiểm tra số lượng, chất lượng hàng hoá và tuỳ theo nhu cầu, kế hoạch để xác định lượng cần thiết, tránh trường hợp để hàng sản xuất ra bị tồn kho quá nhiều hoặc hàng nhập khẩu về chưa tiêu thụ hết lại nhập khẩu thêm, đồng thời đảm bảo được chất lượng của hàng hoá khi đưa ra tiêu thụ trên thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Có giải quyết được vấn đề trên thì bộ máy hoạt động sản xuất kinh doanh mới tiến hành một cách bình thường, tránh thất thoát nguồn vốn, gây lãng phí, làm giảm sụt hiệu quả kinh doanh của Công ty.
Một số giải pháp khác
* Công tác quản lý nhân sự:
+ Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các phòng ban, chi nhánh trong Công ty, có sự phân công trách nhiệm và quyền lợi một cách hợp lý tránh sự chồng chéo quyền lực giữa các phòng ban.
+ Cắt giảm bộ máy cồng kềnh kém hiệu quả, giảm thiểu chi phí quản lý, trẻ hoá đội ngũ cán bộ thông qua tuyển dụng và đào tạo cán bộ trẻ có trình độ và năng lực.
+ Nâng cao trình độ ngoại ngữ, nghiệp vụ ngoại thương cho cán bộ kinh doanh XNK thông qua các khoá đào tạo ngắn và dài hạn ở các trung tâm đào tạo ngoại thương.
* Một số giải pháp về vĩ mô và vi mô nhằm nâng cao hiệu quả kết hợp đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp:
+ Hoàn thiện và đổi mới cơ chế quản lý quá trình đầu tư:
Hoàn thiện chiến lược và quy hoạch đầu tư phù hợp với chiến lược về tổ chức và sắp xếp lại doanh nghiệp.
Hoàn thiện quản lý Nhà nước về đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu cho các doanh nghiệp.
Hoàn thiện cơ chế quản lý dự án đầu tư trong doanh nghiệp.
+ Hoàn thiện và đổi mới cơ chế quản lý, huy động và sử dụng nguồn vốn đầu tư trong doanh nghiệp:
Huy động tối đa mọi nguồn vốn cho đầu tư trong doanh nghiệp, triệt để thực hành tiết kiệm trong chi phí cố định và trong tiêu dùng. Không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư để làm tăng tổng sản phẩm, kích thích phát triển đầu tư. Thực hiện bảo toàn và phát triển vốn đầu tư.
+ Đổi mới cơ chế đầu tư theo hướng tăng cường đầu tư chiều sâu đ ể n âng cao chất lượng hàng hoá và quy trình công nghệ nhằm tăng năng suất, chất lượng, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và xuất khẩu.
+ Kết hợp hài hoà đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp:
Để đạt được mục tiêu đề ra, doanh nghiệp cần nghiên cứu chiến lược, mục tiêu rõ ràng, cụ thể để có một cơ cấu đầu tư chiều rộng và chiều sâu hợp lý để thích ứng được với sự biến động của thị trường. Trước hết, doanh nghiệp nên lập các chiến lược đầu tư (ngắn hạn, trung hạn và dài hạn) rõ ràng, cụ thể để đảm bảo tính nhất quán của đầu tư ở hiện tại và trong tương lai tương ứng với mục tiêu của doanh nghiệp, đồng thời giúp cho doanh nghiệp linh hoạt hơn và thích ứng với những biến động của thị trường. Trong môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, đòi hỏi doanh nghiệp phải hết sức nhạy bén với sự thay đổi và xu hướng của thị trường để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, xác định được thời điểm nào thì đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu, hay kết hợp cả hai hình thức đầu tư.
Mặt khác, xác định chính xác chu kỳ sống của sản phẩm cũng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp xác định được phù hợp với nguồn lực của doanh nghiệp và nhu cầu của thị trường. Doanh nghiệp cần cân nhắc khi tiến hành đầu tư, để đảm bảo sự đồng bộ giữa các yếu tố sản xuất phát huy ưu điểm của hai hình thức đầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
III. Một số kiến nghị
1 Về phía Công ty:
Công ty XNK lương thực thực phẩm Hà Nội phải giữ vai trò cố vấn một cách có hiệu quả cho các dự án đầu tư mới hay mở rộng đầu tư của các cơ sở trong Công ty. Công ty phải nắm vững nhu cầu thị trường để có kế hoạch chủ động trong phát triển lâu dài, nhằm tăng hiệu quả và tiết kiệm chi phí cho đầu tư của Công ty.
Tổng Công ty lương thực thực phẩm Miền Bắn phải đóng vai trò là đầu mối tiếp thị, cung cấp thông tin và tạo cơ hội liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất trong nước và doanh nghiệp nhập khẩu. Sự liên kết này nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước chủ động được nguồn nguyên liệu, nhiên liệu, còn các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ có nguồn tiêu thụ ổn định. Đồng thời, Tổng Công ty lương thực thực phẩm Miền Băc cần phải tạo mọi điều kiện cho Công ty có thể huy động được nguồn vốn đầu tư một cách có hiệu quả nhất.
Một hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cùng với một công nghệ thông tin tiên tiến phù hợp với quy mô kinh doanh của Công ty chắc chắn sẽ làm tăng sức cạnh tranh của Công ty. Một hệ thống cơ sở vững chắc hiện đại sẽ nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng sức cạnh tranh tương đối so với sản phẩm khác, ảnh hưởng rất lớn tới hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty, tạo điều kiện đưa sản phẩm của Công ty xâm nhập vào thị trường, chiếm lĩnh thị trường và khách hàng.
Thực hiện công tác hoạch định nguồn nhân lực như một kế hoạch kinh doanh dài hạn của Công ty. Cải thiện quá trình tuyển dụng nhân viên, bố trí người lao động đúng người đúng việc, áp dụng đồng bộ các phương pháp quản lý để người lao động hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chú trọng công tác đào tạo người lao động, nâng cao chất lượng chuyên môn để người lao động kịp thời nắm bắt, áp dụng trong công việc. Triển khai công tác đánh giá thành tích công việc xuống từng người lao động bên cạnh việc xây dựng chế độ báo cáo chặt chẽ, kịp thời.
Làm tốt công tác khen thưởng là một động lực cho người lao động làm việc. Công ty cần có những quy định về thưởng phạt đối với người lao động nhằm khuyến khích họ làm việc. Có thể thưởng theo thành tích, thưởng theo phần công việc xuất sắc về thời gian, chất lượng công việc, tăng năng suất, hoa hồng bán hàng kết hợp lương với thưởng. Các khoản đầu tư khen thưởng được lấy từ các khoản khen thưởng phúc lợi, hàng năm Công ty trích lợi nhuận để lại cho quỹ lương này. Việc đầu tư cho khen thưởng khuyến khích người lao động làm việc tốt hơn, từ đó nâng cao chất lượng đội ngũ lao động và tinh thần trách nhiệm trong công việc.
Ngoài lương thưởng, người lao động muốn được hưởng thêm những sự quan tâm khác, đó chính là lợi ích của người lao động như: chế độ BHXH cho người lao động, trợ cấp ốm đau, thai sản . . . Các lợi ích này có tác dụng động viên, khích lệ, giữ nhân viên cho tổ chức, tăng cường kỹ thuật lao động. Quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động ảnh hưởng khá nhiều đến chất lượng làm việc, quan hệ không tốt sẽ dẫn đến tình trạng như: đình công, di chuyển lao động ra khỏi Công ty. Bởi vậy, đầu tư phải cải thiện được điều kiện làm việc và quan hệ lao động thì mới có hiệu quả.
2. Về phía Nhà nước:
Trong kinh doanh, vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Để thực hiện công tác đầu tư có hiệu quả nhằm nâng cao sức cạnh tranh thì ngoài nỗ lực của Công ty, Nhà nước cần phải có cơ chế và một số biện pháp hỗ trợ cần thiết, hoàn thiện và ban hành mới các văn bản hợp đồng XNK.
Để có môi trường pháp lý đầy đủ và đồng bộ, Nhà nước Việt Nam cần sớm hoàn thiện và ban hành những văn bản pháp lý cần thiết trực tiếp, luôn quan tâm đến việc giao dịch và ký kết các hợp đồng XNK cũng như việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng này.
Ngày 10/5/1998, Quốc hội khoá IX nước CHXHCNVN kỳ họp thứ XI đã thông qua Luật thương mại. Luật thương mại Việt Nam đã chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/1999.
Tuy nhiên, để luật thương mại thực sự đi vào cuộc sống nghĩa là tạo cơ sở pháp lý cho các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình đàm phán và ký kết hợp đồng thì chính phủ sớm ban hành và hoàn thiện một hệ thống đồng bộ các văn bản dưới luật hướng dẫn việc thực hiện Luật thương mại, thiếu hệ thống các văn bản đó thì Luật thương mại chưa phát huy được vai trò của nó.
Sau khi có nghị định 57 NĐ/CP ngày 31/7/1999 thì vấn đề về thẩm quyền ký kết hợp đồng XNK đã được giải quyết, nhưng còn nhiều vấn đề liên quan đến hợp đồng XNK (hợp đồng mua bán với thương nhân nước ngoài), điều kiện để huy động khi chỉnh hợp đồng không quy định gì, các trường hợp miễn tránh nhiệm khác ngoài các sự kiện được coi là bất khả kháng, cơ quan có thẩm quyền xác nhận các sự kiện được coi là bất khả kháng . . . vẫn chưa được giải quyết.
Tuy nhiên, Luật thương mại Việt Nam dù có đầy đủ đồng bộ đến đâu cũng chưa chắc đã có thể áp dụng cho hợp đồng XNK, vì điều đó còn tuỳ thuộc vào sự thoả thuận lựa chọn giữa các bên khi đàm phán ký kết hợp đồng. Nếu thương nhân nước ngoài không tin tưởng vào Luật Việt Nam thì họ sẽ từ chối áp dụng luật của ta mà tìm đến các nguồn luật khác mà họ tin cậy hơn, được biết đến nhiều hơn. Một trong những nguồn luật đó là Công ước Viên - 1980 về mua bán quốc tế hàng hoá. Để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Công ty XNK vật tư đường biển nói riêng áp dụng điều ước quốc tế quan trọng này, các cơ quan chức năng có liên quan như Bộ Thương mại, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao . . . cần tập trung nghiên cứu và đề nghị Nhà nước ta gia nhập Công ước Viên - 1980 trong thời gian sớm nhất. Hiện nay, do nước ta chưa gia nhập Công ước này nên các nhà kinh doanh XNK còn gặp những khó khăn nhất định trong việc lựa chọn nguồn luật áp dụng cho các hợp đồng mua bán với thương nhân nước ngoài. Bởi lẽ, việc áp dụng Luật Việt Nam cho loại hợp đồng này không phải lúc nào cũng gặp không ít khó khăn trong việc tìm hiểu nội dung của các quy phạm pháp luật liên quan, còn nếu chỉ trông chờ vào việc áp dụng các tập quán thương mại quốc tế Incoterm 2001 thì cũng không thể giải quyết hết được mọi vấn đề có thể phát sinh từ hợp đồng, vì Incoterm 2001 chỉ có thể giải quyết được một số vấn đề như phân chia nghĩa vụ làm thủ tục hải quan, phân chia chi phí, thời điểm di chuyển, rủi ro của hàng hoá, nghĩa vụ mua bảo hiểm cho hàng hoá và nghĩa vụ thuê tàu. Các nghĩa vụ khác không được đề cập đến trong Incoterm 2001. Vì thế, việc áp dụng các điều ước quốc tế như Công ước Viên - 1980 sẽ có nhiều thuận tiện hơn. Đến nay, đã có 53 nước trên thế giới phê chuẩn Công ước này. Việc áp dụng Công ước này cho phép các nhà kinh doanh XNK của ta vừa có thể hạn chế được những tranh chấp, bất đồng có thể phát sinh, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong việc giải quyết các tranh chấp khi đã phát sinh từ các hợp đồng XNK hàng hoá.
Dựa trên quan điểm chung hiện nay là kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước, để tạo điều kiện cho Công ty phát huy hết khả năng của mình trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Nhà nước cần thực hiện một số việc như sau:
+ Giảm bớt các thủ tục rườm rà, không cần thiết tạo điều kiện cho Công ty vay vốn dễ dàng hơn, nới rộng thời gian hoàn trả vốn để Công ty an tâm đầu tư.
+ Dành ưu tiên cho vay chỉ định của Nhà nước theo lãi suất ưu đãi để Công ty có điều kiện hơn trong việc đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị để phục vụ cho sản xuất kinh doanh.
+ Việc nhập khẩu các sản phẩm đầu vào của Công ty là những mặt hàng quan trọng, phục vụ đắc lực cho nhu cầu của người dân. Do vậy, nên có chính sách ưu tiên hơn nữa trong việc nhập khẩu mặt hàng này. Vì mặt hàng này thường sử dụng lớn, hay xảy ra rủi ro trong khâu vận chuyển và đòi hỏi phải có cán bộ am hiểu thị trường cũng như mặt hàng. Bên cạnh đó, việc nhập khẩu máy móc và đánh giá chất lượng cũng như sự phù hợp công nghệ đối với nước ta cần phải có đội ngũ cán bộ chuyên gia giỏi. Nhà nước nên có chính sách đào tạo, nâng cao trình độ chuyên gia, tạo môi trường thuận lợi cho họ để thông qua đó tạo nên đội ngũ chuyên gia có trình độ khoa học kỹ thuật cao, đó là đội ngũ cán bộ đắc lực giúp ta đánh giá được tình trạng máy móc thiết bị, vật tư và chất lượng hàng hoá XNK, từ đó tăng cường hiệu quả nhập khẩu phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã hội.
+ Nhà nước nên đơn giản hoá các mức thuế XNK và mở rộng khoảng cách giữa các mức thuế. Tránh tình trạng có quá nhiều mức thuế rườm rà như hiện nay, các mức thuế được áp dụng cần nhằm bảo hộ chung chung. Luật thuế XNK nên có các quy định về mức thuế suất khác nhau bao gồm mức thuế suất phổ thông, mức thuế ưu đãi và mức thuế ưu đãi đặc biệt nhằm khuyến khích đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty trên thị trường. Nhà nước cần tăng cường công tác quản lý đối với các thị trường nhập khẩu, kiên quyết chống mọi hành vi buôn lậu, buôn bán hàng giả gây thua thiệt cho người tiêu dùng và cho chính bản thân Công ty.
Kết Luận
Nền kinh tế thị trường buộc các doanh nghiệp phải tính toán hiệu quả kinh tế. Doanh nghiệp nào năng động, sáng tạo sẽ có được hiệu quả như mong muốn và sẽ có chỗ đứng trên thương trường, còn doanh nghiệp nào làm ăn kém hiệu quả, trì trệ . . . sẽ có một tất yếu là phá sản hoặc bị thôn tính sát nhập. Là một doanh nghiệp XNK đầu ngành với uy tín và kinh nghiệm kinh doanh trong lĩnh vực XNK cộng với sự nhạy bén trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, Công ty XNK lương thực thực phẩm Hà Nội đã khẳng định được chỗ đứng của mình trên thương trường đồng thời ngày càng thu được nhiều thành công trong lĩnh vực XNK nói riêng và trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh của toàn Công ty nói chung.
Đầu tư phát triển là yếu tố quan trọng quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đầu tư phát triển đúng hướng và có hiệu quả sẽ tạo ra năng lực mới làm chuyển đổi cơ cấu các thành phần kinh tế, các vùng và lãnh thổ theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá (CNH-HĐH) đất nước. Với ý nghĩa và tầm quan trọng này, các doanh nghiệp cần tập trung ưu tiên đầu tư phát triển trong doanh nghiệp mình nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tăng nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật . . . Có thể nói, mỗi doanh nghiệp bước vào nền kinh tế thị trường và hội nhập với nền kinh tế thị trường đều cảm nhận ngay được áp lực ngày càng lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do đó, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì tất yếu phải tiến hành đầu tư.
Với xu hướng CNH-HĐH đất nước, trong thời gian qua, Công ty Xuất nhập khẩu lương thực thực phẩm Hà Nội đã cố gắng đẩy mạnh hoạt động đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy kết quả đạt được còn khiêm tốn nhưng đã góp phần đẩy mạnh sự phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động, góp phần thoả mãn nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, so với yêu cầu đòi hỏi lớn trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển kinh tế thì Công ty cần phải cố gắng khắc phục những bất hợp lý còn tồn tại để đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường trong nước và nước ngoài.
Tài liệu tham khảo:
1. Sách “Một số vấn đề về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường” - NXB giáo dục, 1999.
2. Giáo trình Kinh tế Đầu tư - Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội.
Website
Website
Website
Website
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DT9.docx