Đề tài Đầu tư nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở công ty vật liệu xây dựng và xuất nhập khẩu Hồng Hà

Tài liệu Đề tài Đầu tư nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở công ty vật liệu xây dựng và xuất nhập khẩu Hồng Hà: Mục lục Lời mở đầu. Doanh nghiệp nhà nước là tế bào kinh tế của một quốc gia, hoạt động kinh doanh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong khuôn khổ quy định của nhà nước thông qua hệ thống pháp luật được quy định. Nhiệm vụ chính của doanh nghiệp là thực hiện có hiệu quả các mục đích kinh tế, xã hội và không ngừng phát triển theo quy luật phát triển kinh tế có định hướng của chế độ chính trị xã hội của nhà nước, trên cơ sở vật chất nguồn vốn của nhà nước. Dưới thời bao cấp doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế mệnh lệnh sản xuất kinh doanh theo kế hoạch tập trung. Việc sử dụng nguồn vốn và năng lực thiết bị đều được nhà nước bao cấp. Chuyển sang kinh tế thị trường nhiền thành phần kinh tế phát triển. Sự cạnh tranh gay gắt đã tác động ngược trở lại đối với các doanh nghiệp nhà nước làm không ít doanh nghiệp lúng túng gặp nhiều khó khăn.Sự bao cấp của nhà nước không còn, việc chuyển đổi cơ chế bao cấp sang kinh doanh và tự phát triển cạnh tranh đã làm cho không ít do...

doc91 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1031 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đầu tư nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở công ty vật liệu xây dựng và xuất nhập khẩu Hồng Hà, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Lời mở đầu. Doanh nghiệp nhà nước là tế bào kinh tế của một quốc gia, hoạt động kinh doanh bình đẳng với các thành phần kinh tế khác trong khuôn khổ quy định của nhà nước thông qua hệ thống pháp luật được quy định. Nhiệm vụ chính của doanh nghiệp là thực hiện có hiệu quả các mục đích kinh tế, xã hội và không ngừng phát triển theo quy luật phát triển kinh tế có định hướng của chế độ chính trị xã hội của nhà nước, trên cơ sở vật chất nguồn vốn của nhà nước. Dưới thời bao cấp doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế mệnh lệnh sản xuất kinh doanh theo kế hoạch tập trung. Việc sử dụng nguồn vốn và năng lực thiết bị đều được nhà nước bao cấp. Chuyển sang kinh tế thị trường nhiền thành phần kinh tế phát triển. Sự cạnh tranh gay gắt đã tác động ngược trở lại đối với các doanh nghiệp nhà nước làm không ít doanh nghiệp lúng túng gặp nhiều khó khăn.Sự bao cấp của nhà nước không còn, việc chuyển đổi cơ chế bao cấp sang kinh doanh và tự phát triển cạnh tranh đã làm cho không ít doanh nghiệp nhà nước phải tự nhìn nhận lại mình, lịch sử và thực trạng là những vấn đề bức xúc cần sớm giải quyết đối với các doanh nghiệp nhà nứơc. Trong quá trình thực tập ở công ty VLXD & XNK Hồng Hà nhận thức được tầm quan trọng của đầu tư trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh để nhanh chóng thoát ra được những khó khăn và sớm đi vào ổn định hoà nhập, em đã quyết định chọn đề tài : “Đầu tư nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở công ty VLXD & XNK Hồng Hà” làm luận văn tốt nghiệp. chương I: Những vấn đề lý luận chung. I. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp 1. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển. Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để thu được kết quả đó.Như vậy, mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hi sinh về nguồn lực mà người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực phải hi sinh là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Kết quả thu được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. Loại đầu tư đem lại các kết quả không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được thụ hưởng không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của người chủ đầu tư mà cả của nền kinh tế chính là đầu tư phát triển. Còn các loại đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng tài sản chính của người đầu tư, tác động gián tiếp đến làm tăng tài sản của nền kinh tế thông qua sự đóng góp tài chính, tích luỹ của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu thông phân phối các sản phẩm do các kết quả của đầu tư phát triển tạo ra, đó là đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Đầu tư phát triển: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để xây dựng, sửa chữa nhà xưởng và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt trên nền bệ, cũng như bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với các hoạt động của các hoạt động tài sản này nhằm duy trì năng lực cho nền kinh tế xã hội. Đầu tư tài chính: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua các loại chứng chỉ có lãi suất định trước hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài chính ( đầu tư tài chính) không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức và cá nhân đầu tư. Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được luân chuyển một cách dễ dàng. Do vậy đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, mà nó chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho nhà đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán và người mua. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại là ba loại đầu tư luôn tồn tại và có quan hệ tương hỗ với nhau. Đầu tư phát triển tạo tiền đề để tăng tích luỹ, phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Ngược lại đầu tư tài chính và đầu tư thương mại lại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển. 2. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp. Đối với cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đầu tư phát triển chính là quá trình tạo dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho sản xuất kinh doanh như xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu ky của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại: sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất- kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kì tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp còn cần đến các yếu tố về con người( về lực lượng lao động) như về số lượng và chất lượng lao động sẽ quyết định đến năng suất lao động. Đầu tư cho phát triển thị trường cũng là hình thức đầu tư quan trọng trong sự nghiệp phát triển của mỗi doanh nghiệp hiện nay như về sản phẩm mới, đầu tư nghiên cứu thị trường, đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm. 3. Nội dung đầu tư trong doanh nghiệp. 3.1. Đầu tư vào tài sản cố định. Tài sản cố định: Là tư liệu lao động, là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất song không phải các tư liệu lao động đều là TSCĐ. Thông thường một TSCĐ phải thoả mãn đồng thời ba điều kiện: +Tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với tư cách là tư liệu lao động. + Có thời hạn sử dụng dài thường là từ 1 năm trở lên. + Có giá trị lớn đạt đến một mức độ nhất định, tiêu chuẩn này phụ thuộc vào quy định của mỗi quốc gia trong từng thời kì nhất định, ở Việt Nam giá trị TSCĐ > 5 triệu đồng. Vậy TSCĐ là những tư liệu lao động có gía trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài và tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh TSCĐ bị hao mòn dần và giá trị của nó chuyển từng phần vào chi phí sản xuất kinh doanh và giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu cho đến lúc hỏng. TSCĐ trong doanh nghiệp có nhiều loại, có loại có hình thái vật chất cụ thể như nhà cửa, máy móc thiết bị nhưng có loại không có hình thái vật chất cụ thể mà thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư chi trả, mỗi loại đều có yêu cầu quản lý khác nhau, có vai trò khác nhau. Vai trò của TSCĐ và tốc độ tăng TSCĐ trong sự nghiệp phát triển kinh tế quyết định yêu cầu và nhiệm vụ ngày càng cao của công tác quản lý và sử dụng TSCĐ. Đầu tư xây dựng, mua sắm( đầu tư tăng tài sản cố định) của doanh nghiệp được xem là đầu tư dài hạn và việc đầu tư này có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Có thể phân biệt nội dung của đầu tư vào TSCĐ theo 2 góc độ. Đầu tư vào TSCĐ qua mua sắm trực tiếp. Đó chính là việc doanh nghiệp bỏ vốn mua lại các cơ sở sản xuất đã có sẵn để tiếp tục sử dụng và phát huy hiệu quả của nó. Hình thức này chủ yếu được sử dụng ở các nước phát triển thông qua sáp nhập và thôn tính. Với hình thức này thì doanh nghiệp sẽ chỉ phải bỏ ra một khoản vốn vừa phải( ít hơn so với đầu tư mới) như vậy doanh nghiệp có thể tiết kiệm được một khoản chi phí và dành nó cho các hoạt động khác. Đầu tư xây dựng cơ bản. Đây là việc rất quan trọng hay nói cách khác, để tiến hành được các hoạt động sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp bắt buộc phải bỏ một lượng vốn để đầu tư xây dựng cơ bản, không chỉ doanh nghiệp mà bất kỳ tổ chức nào muốn tồn tại và hoạt động phải đầu tư xây dựng cơ bản, lượng vốn này chiếm tỷ lệ khá lớn. Để đánh giá hết nội dung của đầu tư xây dựng cơ bản ta xét trên 2 góc độ: + Đầu tư xây dựng hệ thống nhà xưởng, công trình. Đối với một doanh nghiệp mà nói thì đây là yếu tố căn bản ban đầu có thể tiến hành sản xuất kinh doanh . Trước hết ta xét doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực công nghiệp: Để tiến hành sản xuất ra sản phẩm thì phải có nơi, địa điểm( nhà xưởng) để chứa các dụng cụ hành hoá, máy móc thiết bị, để giao dịch. Đối với doanh nghiệp xây dựng thì đây vừa là công việc vừa là sản phẩm của họ và họ sẽ chuyển giao bán lại cho người khác… Vậy tóm lại, đầu tư cho việc xây dựng nhà xưởng, trụ sở, cơ quan…là đầu tư bắt buộc ban đầu, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng phải bỏ một khoản vốn để tiến hành xây dựng cơ sở vật chất ban đầu. Hơn nữa khi mở rộng sản xuất kinh doanh thì đầu tư thêm vào xây dựng cơ bản là điều hiển nhiên. + Đầu tư vào máy móc thiết bị. Có nhà xưởng rồi, muốn sản xuất ra các sản phẩm phải mua sắm máy móc thiết bị, hay nói một cách khác doanh nghiệp muốn mở rộng thêm sản xuất cũng cần mua thêm máy móc thiết bị, sau một thời gian sử dụng máy móc thiết bị cũ bị hỏng, khấu hao hết, máy móc bị hao mòn hữu hình thì đều phải tiến hành bỏ chi phí để sửa chữa mua sắm mới. Tất cả những nội dung đó đều được hiểu là đầu tư vào máy móc thiết bị. Như vậy ở bất cứ giai đoạn nào doanh nghiệp cũng cần hình thành một khoản quỹ để chi dùng cho việc sửa chữa, mua sắm, thay đổi máy móc thiết bị. Khoản quỹ này có thể là quỹ khấu hao hoặc quỹ dự phòng. Các doanh nghiệp kinh doanh trên lĩnh vực khác nhau thì sử dụng các loại máy móc thiết bị khác nhau, nhưng dù hoạt động trên bất kỳ lĩnh vực sản xuất nào thì đầu tư vào máy móc thiết bị là điều kiện cơ bản của sản xuất. 3.2. Đầu tư vào tài sản lưu động. TSLĐ : Là hình thái hiện vật của những đối tượng lao động chỉ tham gia vào chu kỳ sản xuất, đến chu kỳ sản xuất sau lại phải dùng đối tượng lao động khác. Giá trị của chúng được chuyển dịch toàn bộ một lần vào giá trị của sản phẩm. TSLĐ bao gồm: + TSLĐ sản xuất: Là những TSLĐ dùng trong quá trình sản xuất như những vật tư dự trữ cho qúa trình sản xuất( nguyên, nhiên vật liệu, công cụ, dụng cụ…) những vật tư đang trong quá trình sản xuất( sản phẩm dở dang, bán thành phẩm…). + Tài sản lưu thông: Là những TSLĐ dùng trong quá trình lưu thông như những vật tư dự trữ cho quá trình lưu thông( thành phẩm, hàng gửi bán…), những vật tư đang trong quá trình lưu thông( tiền mặt, tiền gửi ngân hàng…). + TSLĐ tài chính: Là các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn( trong một năm hay một chu kỳ sản xuất kinh doanh) như: đầu tư ngắn hạn, liên doanh ngắn hạn, đầu tư chứng khoán ngắn hạn. Trong quá trình sản xuất- kinh doanh, các loại TSLĐ trên luôn vận động, thay thế, chuyển hoá lẫn nhau nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất- kinh doanh được tiến hành liên tục. 3.3 Đầu tư vào nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực được hiểu là nguồn lực con người, là một trong những yếu tố quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế xã hội. Nguồn nhân lực được hiểu trên hai khía cạnh. Một là: Nguồn nhân lực là toàn bộ sức lao động và khả năng hoạt động của lực lượng lao động xã hội. Hai là: Nguồn nhân lực là sức lao động, trình độ, ý thức của từng cá nhân và mối quan hệ qua lại giữa các cá nhân. Mặt thứ hai nói lên chất lượng của nguồn nhân lực và ngày càng được chú trọng quan tâm hơn. Nguồn nhân lực có vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh và sự phát triển của doanh nghiệp . Nếu thiếu nguồn nhân lực hoặc nguồn nhân lực không đáp ứng được yêu cầu thì hoạt động của doanh nghiệp sẽ bị ngừng trệ, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển. Nguồn nhân lực đang là vấn đề rất được quan tâm tại các doanh nghiệp . Trước tiên, đầu tư phát triển nguồn nhân lực là đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: đào tạo nâng cao tay nghề và tinh giảm đội ngũ lao động. Hình thức đào tạo rất phong phú, nhưng chủ yếu là hình thức đào tạo ngắn hạn để kịp thời phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Đồng thời hình thức đào tạo dài hạn( hơn 12 tháng) đang ngày càng tăng, doanh nghiệp ngày càng quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực một cách toàn diện. 3.4. Đầu tư phát triển Maketing. Một công ty sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao mà không thể phân phối hay đưa chúng ra thị trường để bán và thu lợi nhuận thì không thể tồn tại được. Bởi vậy, Maketing(MKT) là một trong những yếu tố quan trọng đối với doanh nghiệp . MKT có thể định nghĩa là một hệ thống các hình thức kinh doanh để hoạch định, định giá chiêu mại và phân phối hàng hoá hay dịch vụ nhằm thu lợi nhuận từ thị trường, thị trường này bao gồm cả khách hàng công nghiệp, hộ tiêu dùng hiện tại và trong tương lai. Trong sự nghiệp kinh doanh của mọi doanh nghiệp trên thị trường thì MKT là vấn đề đặc biệt được chú trọng. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam thì nó càng quan trọng hơn, bởi Việt Nam là thành viên của khu vực kinh tế phát triển năng động nhất thế giới( khu vực đông nam á) hơn nữa trong tương lai không xa ASEAN sẽ từng bước tiến tới thành thị trường thống nhất, hàng hóa của các quốc gia trong khối sẽ lưu thông buôn bán trên thị trường Việt Nam.Chính vì thế, việc đẩy nhanh các hoạt động MKT trong giai đoạn hiện nay đang là vấn đề cấp bách đối với các doanh nghiệp Việt Nam, vì hàng hoá của chúng ta sẽ bị cạnh tranh gay gắt ngay trên thị trường nhà, các doanh nghiệp trong nước sẽ không còn được bảo vệ bằng hàng rào thuế quan như trước. 4. Vai trò đầu tư trong doanh nghiệp . Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại, mở rộng tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp . Để tạo dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm lắp đặt máy móc thiết bị trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất – kỹ thuật vừa được tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại, sau một thời gian hoạt động, cơ sở vật chất – kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay thế mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học – kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp cũng tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm tăng năng lực cạnh tranh và là cơ sở để hạ giá thành, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh do đầu tư mang lại là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các cơ sở sản xuất ,kinh doanh định vị trên cơ sở tất cả nguồn lực mà cơ sở đã sử dụng(đã đầu tư) so với các kỳ khác hoặc so với định mức chung. Các kết quả do hoạt động đầu tư mang lại cho mỗi cơ sở doanh nghiệp là rất đa dạng và là điều tất yếu của quá trình thực hiên đầu tư .Các kết quả đó có thể là lợi nhuận ,là mức tăng năng suất lao động,là số sản phẩm được bán ra, là sự mở rộng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường sản phẩm của mình nhưng qui tụ lại là lợi nhuận.Muốn vậy ngay từ đầu khi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì doanh nghiệp phải có kế hoạch đầu tư hợp lý và có hiệu quả. Trong thời kỳ dài thì doanh nghiệp phải có chiến lược đầu tư trong dài hạn và đáp ứng đúng nhu cầu đầu tư của các năm .Viêc xác định đúng nhu cầu đầu tư sẽ tránh đươc tình trạng lãng phí ,đầu tư sai từ đó hiệu quả đầu tư được nâng cao .các nguồn lực bỏ ra sẽ phát huy hết hiệu quả của mình ,hiệu quả của một đơn vị nguồn vốn sẽ tăng cao,giảm được chi phí ở mức thấp nhất, thời gian thu hồi vốn là thấp nhất mà doanh nghiệp có thể thực hiện. II. Hiệu quả sản xuất kinh doanh . 1. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bản chất của hiệu quả sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của hiệu quả kinh doanh. chính việc khan hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp phải chú trọng các điều kiện nội tai, phát huy năng lực, hiệu lực của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí. Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay là phải đạt kết quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hôi. Chi phí cơ hội là giá trị của việc lựa chọn tốt nhất đã bị bỏ qua hay là giá trị của sự hi sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện hoạt động kinh doanh này. Chi phí cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán và phải loại ra khỏi lợi nhuận kế toán để thấy được lợi ích kinh tế thực. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương án kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả hơn. 2. Vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Trong quá trình kinh doanh, các doanh nghiệp phải luôn gắn mình với thị trường, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay đặt các doanh nghiệp trong sự cạnh tranh gay gắt lẫn nhau. Do đó để tồn tại được trong cơ chế thị trường cạnh tranh hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp phải hoạt động một cách có hiệu quả hơn. Để thấy được vai trò của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đối với các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường trước hết ta phải nghiên cứu cơ chế thị trường và hoạt động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi hàng hoá. Nó tồn tại một cách khách quan không phụ thuộc vào một ý kiến chủ quan nào. Bởi vì thị trường ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Ngoài ra thị trường còn có một vai trò quan trọng trong việc điều tiết và lưu thông hàng hoá. Thông qua đó các doanh nghiệp có thể nhận biết được sự phân phối các nguồn lực thông qua hệ thống giá cả trên thị trường. Trên thị trường luôn tồn tại các quy luật vận động của hàng hoá, giá cả, tiền tệ….như các quy luật giá trị, quy luật thặng dư, quy luật giá cả, quy luật cạnh tranh…..các quy luật này tạo thành hệ thống nhất và hệ thống này chính là cơ chế thị trường. Như vậy cơ chế thị trường được hình thành bởi sự tác động tổng hợp trong sản xuất và trong lưu thông hàng hoá trên trị trường.Thông qua các quan hệ mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường nó tác động đến việc điều tiết sản xuất, tiêu dùng, đầu tư và từ đó làm thay đổi cơ cấu sản phẩm, cơ cấu ngành. Nói cách khác cơ chế thị trường điều tiết quá trình phân phối lại các nguồn lực trong sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội một cách tối ưu nhất. Tóm lại, với sự vận động đa dạng, phức tạp của cơ chế thị trường dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của các doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Tuy nhiên để tạo ra được sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp đòi hỏi các doanh nghiệp phải xác định cho mình một phương thức hoạt động riêng, xây dựng các chiến lược, các phương án kinh doanh một cách phù hợp và có hiệu quả. Cụ thể là doanh nghiệp phải xác định cho mình một cơ chế hoạt động trên cả hai thị trường đầu vào và đầu ra để tạo được một kết quả cao nhất và kết quả này không ngừng phát triển nâng cao cả về mặt chất và mặt lượng. Như vậy trong cơ chế thị trường, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh có một vai trò vô cùng quan trọng, nó được thể hiện thông qua: Thứ nhất: Nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở cơ bản để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường, mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại này, đồng thời mục tiêu của doanh nghiệp là luôn tồn tại và phát triển một cách vững chắc. Do đó việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay. Do yêu cầu của sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập của doanh nghiệp phải không ngừng tăng lên. Nhưng trong điều kiện nguồn vốn và các yếu tố kỹ thuật cũng như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả kinh doanh. Như vậy, hiệu qủa kinh doanh là điều kiện hết sức quan trọng trong việcđảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Một cách nhìn khác sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự tạo ra hàng hoá, của cải vật chất và dịch vụ phục vụ cho nhu cầu của xã hội đồng thời tạo ra sự tích luỹ cho xã hội. Để thực hiện được như vậy thì mỗi doanh nghiệp đều phải vươn lên để đảm bảo thu nhập đủ bù đắp chi phí bỏ ra và có lãi trong quá trình hoạt động kinh doanh. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu tái sản xuất trong nền kinh tế. Và như vậy chúng ta buộc phải nâng cao hiệu quả kinh doanh một cách liên tục trong mọi khâu của quá trình hoạt động kinh doanh như là một yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên, sự tồn tại mới chỉ là yêu cầu mang tính chất giản đơn còn sự phát triển và mở rộng của doanh nghiệp mới là yêu cầu quan trọng. Bởi vì sự tồn tại của doanh nghiệp luôn luôn phải đi kèm với sự phát triển mở rộng của doanh nghiệp, đòi hỏi phải có sự tích luỹ đảm bảo cho quá trình tái sản xuất mở rộng theo đúng quy luật phát triển. Như vậy để phát triển và mở rộng doanh nghiêp, mục tiêu lúc này không còn là đủ bù đắp chi phí bỏ ra để phát triển quá trình tái sản xuất giản đơn mà phải đảm bảo có tích luỹ đáp ứng nhu cầu tái sản xuất mở rộng, phù hợp với quy luật khách quan và một lần nữa nâng cao hiệu quả kinh doanh được nhấn mạnh. Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy sự cạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Trong khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không còn là cạnh tranh về mặt hàng mà cạnh tranh cả về chất lượng, giá cả và các yếu tố khác. Trong khi mục tiêu chung của các doanh nghiệp đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm các doanh nghiệp mạnh lên nhưng ngược lại cũng có thể làm các doanh nghiệp không tồn tại được trên thị trường. Để đạt được mục tiêu là tồn tại và phát triển mở rộng thì các doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh trên thị trường. Do đó doanh nghiệp phải có hàng hoá dịch vụ chất lượng tốt, gía cả hợp lý. Mặt khác, hiệu quả kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá thành tăng khối lượng hàng hoá bán, chất lượng không ngừng được cải thiện nâng cao…. Thứ ba, việc nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là nhân tố cơ bản tạo ra sự thắng lợi cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động trên thị trường. Muốn tạo ra sự thắng lợi trong cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng tồn tại, phát triển của mỗi doanh nghiệp. 3. Các nhân tố tác động đến việc nâng cao HQ SXKD trong DN Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp là yêu cầu quan trọng và là mục tiêu hàng đầu trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh là việc nâng cao hiệu quả của tất cả các hoạt động trong quá trình kinh doanh. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu sự tác động của rất nhiều nhân tố ảnh hưởng khác nhau. Để đạt được hiệu quả nâng cao đòi hỏi phải có các quyết định chiến lựơc và quyết sách đúng trong quá trình lựa chọn các cơ hội hấp dẫn cũng như tổ chức, quản lý và điều khiển hoạt động kinh doanh cần phải nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống các yếu tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh có thể được chia làm hai nhóm đó là nhóm các nhân tố ảnh hưởng bên ngoài doanh nghiệp ( nhân tố khách quan) và nhóm các nhân tố ảnh hưởng bên trong doanh nghiệp ( nhân tố chủ quan) . 3.1.Nhóm các nhân tố khách quan. 3.1.1 Các nhân tố ảnh hưởng thuộc môi trường kinh doanh. Các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh là các yếu tố khách quan mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được. Nhân tố môi trường kinh doanh bao gồm nhiều nhân tố như là: đối thủ cạnh tranh, thị trường, cơ cấu ngành,t ập quán dân cư và mức độ thu nhập bình quân dân cư,mối quan hệ và uy tín của doanh nghiệp trên thị trường,nhân tố thời tiết khí hậu mùa vụ, nhân tố tài nguyên thiên nhiên, yếu tố vị trí địa lý. 3.1.2. Môi trường chính trị- pháp luật: Các yếu tố thuộc môi trường chính trị-pháp luật chi phối mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự ổn định chính trị được xác định là một trong những tiền đề quan trọng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.Sự thay đổi của môi trường chính trị có thể ảnh hưởng có lợi cho một nhóm doanh nghiệp này nhưng lại kìm hãm sự phát triển nhóm doanh nghiệp khác hoặc ngược lại. Hệ thống pháp luật hoàn thiện, không thiên vị là một trong những tiền đề ngoài kinh tế của doanh nghiệp. Môi trường này nó tác động trực tiếp đến hiêụ quả kinh doanh cuả doanh nghiệp. Bởi vì môi trường pháp luật ảnh hưởng đến mặt hàng sản xuất, ngành nghề, phương thức kinh doanh… của doanh nghiệp. 3.2. Các nhân tố chủ quan: Các nhân tố chủ quan trong doanh nghiệp chính là thể hiện tiềm lực của một doanh nghiệp. Cơ hội, chiến lược kinh doanh và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp luôn phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tố phản ánh tiềm lực của một doanh nghiệp cụ thể. Tiềm lực của một doanh nghiệp không phải là bất biến có thể phát triển mạnh lên hay yếu đi, có thể thay đổi toàn bộ hay bộ phận. Chính vì vậy trong quá trình kinh doanh các doanh nghiệp luôn phải chú ý tới các nhân tố này nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp hơn nữa. 3.2.1. Nhân tố vốn: Đây là một nhân tố tổng hợp phản ánh sức mạnh của doanh nghiệp thông qua khối lượng (nguồn) vốn mà doanh nghiệp có thể huy động vào kinh doanh, khả năng phân phối, đầu tư có hiệu quả các nguồn vốn, khả năng quản lý có hiệu quả các nguồn vốn kinh doanh. Yếu tố vốn là yếu tố chủ chốt quyết định đến qui mô của doanh nghiệp và qui mô có cơ hội có thể khai thác. Nó phản ánh sự phát triển của doanh nghiệp là sự đánh giá về hiệu quả kinh doanh cua doanh nghiệp trong kinh doanh . 3.2.2. Nhân tố con người: Trong kinh doanh con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công .Chính con người với năng lực thực sự của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng các nguồn lực khai thác mà họ đã có và sẽ có : vốn, tài sản, kỹ thuật, công nghệ…một cách có hiệu quả để khai thác . Nhân tố con người được đặt ở vị trí hàng đầu trên cả vốn và tài sản ,quyết định sức mạnh của một doanh nghiệp, quyết định sự thành công của việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. 3.2.3 Nhân tố trình độ kỹ thuật công nghệ. Trình độ kỹ thuật ,công nghệ tiên tiến cho phép doanh nghiệp chủ động nâng cao chất lượng hàng hoá ,năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm . Các yếu tố này tác động hầu hết đến các mặt về sản phẩm như : giá cả sản phẩm, sức cạnh tranh của sản phẩm…Nhờ vậy doanh nghiệp có thể tăng khả năng cạnh tranh của mình ,tăng vòng quay của vốn lưu động, tăng lợi nhuận đảm bảo cho quá trình tái sản xuất mở rộng của doanh nghiệp. Ngược lại với trình độ công nghệ thấp thì không những giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mà còn giảm lợi nhuận,kìm hãm sự phát triển. Nói tóm lại,nhân tố trình độ kỹ thuật công nghệ cho phép doanh nghiệp nâng cao năng suất chất lượng và hạ giá thành sản phẩm nhờ đó mà tăng khả năng cạnh tranh,tăng vòng quay của vốn ,tăng lợi nhuận từ đó tăng hiệu quả kinh doanh. 3.2.4. Nhân tố tổ chức quản lý: Nhân tố này là sự biểu hiện của trình độ tổ chức sản xuất, nó đảm bảo cho tính tối ưu trong tổ chức dây chuyền sản xuất, cho phép doanh nghiệp khai thác tới mức tối đa các yếu tố công nghệ sản xuất. Ngoài ra nó còn thể hiện sự phù hợp về cơ cấu bộ máy kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể là, nó biểu hiện trình độ phối hợp của các bộ phận trong doanh nghiệp trên cơ sở tương hỗ lẫn nhau dẫn đến việc sử dụng các nguồn lực đầu vào tối ưu nhất. Nhân tố này cho phép doanh nghiệp sử dụng hợp lý và tiết kiệm các yếu tố vật chất trong quá trình sản xuất kinh doanh ,giúp lãnh đạo doanh nghiệp đề ra những quyết định về chỉ đạo sản xuất kinh doanh chính xác và kịp thời ,tạo ra những động lực to lớn để kích thích sản xuất phát triển ,nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. 3.2.5. Nhân tố về vận dụng các đòn bẩy kinh tế: Nhân tố này cho phép doanh nghiệp khai thác tới mức tối đa tiềm năng về lao động,tạo điều kiện cho mọi người ,mọi khâu và bộ phận phát huy đầy đủ quyền chủ động sáng tạo trong sản xuất và kinh doanh. III. Hiệu quả đầu tư trong doanh nghiệp. 1. Khái niệm và phân loại hiệu quả của hoạt động đầu tư. Hiệu quả đầu tư là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so sánh giữa các kết quả kinh tế – xã hội đạt được của hoạt động đầu tư với các chi phí phải bỏ ra để có các kết quả đó trong một thời kỳ nhất định. Để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý và nghiên cứu kinh tế, các nhà kinh tế đã phân loại hiệu quả đầu tư theo các tiêu thức sau đây: - Theo lĩnh vực hoạt động của xã hội có hiệu quả kinh tế, hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả xã hội, hiệu quả quốc phòng. - Theo phạm vi tác dụng của hiệu quả, có hiệu quả đầu tư của từng dự án, từng doanh nghiệp, từng ngành, địa phương và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. - Theo phạm vi lợi ích có hiệu quả tài chínhvà hiệu quả kinh té xã hội. Hiệu quả tài chính hay được gọi là hiệu quả hạch toán kinh tế là hiệu quả kinh tế được xem xét trong phạm vi một doanh nghiệp. Hiệu quả kinh tế xã hội của hoạt động đầu tư là hiệu quả tổng hợp được xem xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. - Theo mức độ phát sinh trực tiếp hay gián tiếp có hiệu quả trực tiếp và hiệu quả gián tiếp. - Theo cách tính toán, có hiệu quả tuyệt đối và tương đối. Hiệu quả tuyệt đối được tính bằng hiệu số giữa kết quả và chi phí,hiệu quả tương đối được tính bằng tỷ số giữa kết quả và chi phí. 2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư. 2.1. Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư. Hiệu quả tài chính ( Etc) của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở số vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kỳ khác, các cơ sở khác hoặc so với định mức chung. Chúng ta có thể biểu diễn khái niệm này thông qua công thức sau đây: Etc = Etc được coi là có hiệu quả khi Etc > Etc0 Etc0 : Chỉ tiêu hiệu quả tài chính định mức, hoặc của các kỳ khác mà cơ sở đã đạt được chọn làm cơ sở so sánh, hoặc của đơn vị khác đã đạt tiêu chuẩn hiệu quả. Do đó, để phản ánh hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư người ta phải sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh của hiệu quả và được sử dụng trong những điều kiện nhất định. Trong đó, chỉ tiêu biểu hiện bằng tiền được sử dụng rộng rãi. Tuy nhiên, tiền có giá trị thay đổi theo thời gian nên khi sử dụng các chỉ tiêu tính bằng tiền, phải bảo đảm tính so sánh về mặt giá trị theo thời gian với việc sử dụng tỉ suất “ r ” được xác định tùy thuộc vào các nguồn vốn huy động. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư như sau: Đối với dự án đầu tư. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của dự án gồm có: Chỉ tiêu lợi nhuận thuần, thu nhập thuần của dự án. Đây là các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tuyệt đối của dự án đầu tư. Chỉ tiêu lợi nhuận thuần tính cho từng năm của đời dự án, phản ánh hiệu quả hoạt động trong từng năm của đời dự án. Chỉ tiêu thu nhập thuần phản ánh hiệu quả hoạt động của toàn bộ công cuộc đầu tư ( quy mô lãi của cả đời dự án). Các chỉ tiêu này có thể tính chuyển về mặt bằng thời gian hiện tại hoặc tương lai. Chỉ tiêu tỉ suất sinh lời của vốn đầu tư (còn gọi là hệ số thu hồi vốn đầu tư) Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thu được từng năm trên một đơn vị vốn đầu tư và mức thu nhập thuần tính cho một đơn vị vốn đầu tư ( .) Trong đó : Ivo : vốn đầu tư tại thời điểm hiện tại ( Dự án bắt đầu hoạt động). Wipv : lợi nhuận thuần năm i tính chuyển về thời điểm hiện tại. NPV: thu nhập thuần tính chuyển về thời điểm hiện tại. Chỉ tiêu tỉ suất sinh lời vốn tự có ( Chỉ tiêu này phản ánh mức lợi nhuận thuần từng năm tính trên một đơn vị vốn tự có bình quân của năm đó. Trong đó: : tỉ suất sinh lời vốn tự có năm i. : vốn tự có bình quân năm i. Wi: Lợi nhuận thuần năm i. Nếu tính cho cả đời dự án (npv E) chỉ tiêu này phản ánh mức thu nhập thuần của cả đời dự án tính cho 1 đơn vị vốn tự có bình quân năm của cả đời dự án. Chỉ tiêu tỉ số lợi ích – chi phí kí hiệu (B/C). Chỉ tiêu này phản ánh tỉ số giữa lợi ích thu được với chi phí phải bỏ ra, dự án có hiệu quả khi B/C >= 1, dự án không có hiệu quả khi B/C <1. Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư kí hiệu T. Chỉ tiêu này cho biết thời gian mà dự án cần hoạt động để thu hồi vốn đầu tư đã bỏ ra từ lợi nhuận và khấu hao thu được hàng năm. Dự án có hiệu quả khi T<=tuổi thọ của dự án hoặc T <= T định mức. Thời gian thu hồi vốn càng ngắn thì hiệu quả của dự án càng cao. Chỉ tiêu hệ số hoàn vốn nội bộ (IRR) Hệ số hoàn vốn nội bộ là mức lãi suất nếu dùng nó làm tỷ suất chiết khấu để tính chuyển các khoản thu chi của dự án về mặt bằng thời gian hiện tại thì tổng thu cân bằng với tổng chi. Dự án có hiệu quả khi IRR >= r giới hạn. Dự án không có hiệu quả khi IRR < r giới hạn. Tỷ suất giới hạn được xác định căn cứ vào các nguồn vốn huy động của dự án. Chẳng hạn dự án đầu tư vay vốn đầu tư, tỷ suất giới hạn là mức lãi suất vay; nếu sử dụng vốn tự có để đầu tư, tỷ suất giới hạn là mức chi phí cơ hội của vốn; nếu huy động vốn từ nhiều nguồn, tỷ suất giới hạn là mức lãi suất bình quân từ các nguồn huy động…. Chỉ tiêu điểm hoà vốn. Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó doanh thu vừa đủ để trang trải các khoản chi phí phải bỏ ra. Điểm hoà vốn được biểu hiện bằng chỉ tiêu hiện vât( sản lượng tại điểm hoà vốn) và chỉ tiêu giá trị ( doanh thu tại điểm hoà vốn). Nếu sản lượng hoặc doanh thu của cả đời dự án lớn hơn sản lượng hoặc doanh thu hoà vốn thì dự án có lãi( có hiệu quả) và ngược lại, nếu nhỏ hơn dự án bị lỗ ( không có hiệu quả). Điểm hoà vốn càng nhỏ càng tốt, mức độ an toàn của dự án càng cao, thời gian thu hồi vốn càng ngắn. Đối với doanh nghiệp : Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của đầu tư được tính như sau: - Tỷ suất sinh lời vốn đầu tư: Chỉ tiêu này phản ánh: Mức lợi nhuận thu được từng năm trên 1 đơn vị vốn đầu tư Mức thu nhập thuần thu được tính cho 1 đơn vị vốn đầu tư. Ivo: Vốn đầu tư tại thời điểm hiện tại Wipv: Lợi nhuận thuần năm i tính chuyển về thời điểm hiện tại : Lợi nhuận thuần bình quân năm của kì nghiên cứu tính theo mặt bằng hiện tại của các dự án hoạt động trong kì. Hiệu quả tài chính của tài sản cố định, doanh thu, lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn đầu tư bỏ ra trong kỳ sẽ có bao nhiêu đồng giá trị tài sản cố định. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn đầu tư trong kỳ bỏ ra sẽ thu về được bao nhiêu đồng doanh thu tăng thêm. Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn đầu tư trong kỳ bỏ ra sẽ có bao nhiêu đồng lợi nhuận tăng thêm. 2.2. Hiệu quả sử dụng vốn. Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau: Số vòng quay của toàn bộ vốn kinh doanh và số ngày của một vòng quay. + Số vòng quay của toàn bộ vốn kinh doanh (n). n = n : Càng lớn thì hiệu quả sử dụng vốn càng cao. + Số ngày của một vòng quay (s). S = Chỉ tiêu này cho thấy số ngày công cần thiết để doanh nghiệp có thể thu được toàn bộ vốn kinh doanh. S càng nhỏ càng tốt. - Hiệu quả sử dụng vốn lưu động. + Doanh lợi vốn lưu động. DVLĐ = DVLĐ : Doanh lợi vốn lưu động. VLD : Vốn lưu động bình quân của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn lưu động doanh nghiệp tạo ra mấy đồng lợi nhuận. Hiệu quả sử dụng vốn cố định. Hiệu quả sử dụng vốn cố định cho ta biết khả năng khai thác và sử dụng các loại tài sản cố định của doanh nghiệp . DVCD = DVCD : Doanh lợi vốn cố định. TSCĐ : giá trị tài sản cố định bình quân trong kỳ của doanh nghiệp . Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn cố định tạo ra được mấy đồng lợi nhuận. DVCĐ càng cao chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng tài sản càng có hiệu quả. 2.3. Hiệu quả sử dụng lao động. Lao động là yếu tố đầu vào cơ bản của sản xuất, hiệu quả sử dụng lao động góp phần nâng cao hiệu quả chung của toàn doanh nghiệp . Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng lao động bao gồm: + Sức sinh lời bình quân của lao động. pbq = pbq : Lợi nhuận bình quân một lao động. L : Số lao động bình quân trong kỳ. + Năng suất lao động. W = W : Năng suất đơn vị lao động. Q : Sản lượng sản xuất ra. L : Số lao động bình quân trong kỳ hoặc tổng thời gian lao động. 2. 4. Nhóm các chỉ tiêu xét về mặt hiệu quả kinh tế xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có hoạt động đầu tư phải được xem xét từ hai góc độ, người đầu tư và nền kinh tế. Trên góc độ người đầu tư là các doanh nghiệp, mục đích cụ thể có nhiều, nhưng quy tụ lại là lợi nhuận. Khả năng sinh lợi của dự án là thước đo chủ yếu quyết định sự chấp nhận một việc làm mạo hiểm của nhà đầu tư. Khả năng sinh lợi càng cao thì càng hấp dẫn các nhà đầu tư. Tuy nhiên không phải mọi hoạt động đầu tư có khả năng sinh lời đều tạo ra những ảnh hưởng tốt đẹp đối với nền kinh tế và xã hội. Do đó, trên góc độ quản lý vĩ mô phải xem xét mặt kinh tế xã hội của đầu tư, xem xét những lợi ích kinh tế xã hội do thực hiện đầu tư đem lại. Điều này giữ vai trò quyết định để được các cấp có thẩm quyền chấp nhận cho phép đầu tư, các định chế tài chính quốc tế, các cơ quan viện trợ song phương và đa phương tài trợ cho hoạt động đầu tư. Lợi ích kinh tế xã hội của đầu tư là chênh lệch giữa các lợi ích mà nền kinh tế xã hội thu được so với các đóng góp mà nền kinh tế và xã hội đã phải bỏ ra khi thực hiện đầu tư. Những lợi ích mà xã hội thu được chính là sự đáp ứng của đầu tư đối với việc thực hiện các mục tiêu chung của xã hội, của nền kinh tế. Những sự đáp ứng này có thể được xem xét mang tính chất định tính như đáp ứng các mục tiêu phát triển kinh tế, phục vụ các chủ trương chính sách của Nhà nước, góp phần chống ô nhiễm môi trường…hoặc đo lường bằng các tính toán định lượng như mức tăng thu cho ngân sách, mức gia tăng số người có việc làm, mức tăng thu ngoại tệ. Chi phí mà xã hội phải gánh chịu khi một công cuộc đầu tư được thực hiện bao gồm toàn bộ các tài nguyên thiên nhiên, của cải vật chất, sức lao động mà xã hội danh cho đầu tư thay vì sử dụng vào các công việc khác trong tương lai không xa. Nhóm chỉ tiêu xét về mặt hiệu quả kinh tế – xã hội bao gồm các chỉ tiêu sau: 2. 4.1. Tăng thu ngân sách. Mọi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có nhiệm vụ nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức là các loại thuế như thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt…Nhà nước sẽ sử dụng những khoản thu này để cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và lĩnh vực phi sản xuất, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân. 2. 4.2. Chỉ tiêu số lao động có việc làm do thực hiện dự án và số lao động có việc làm tính trên một giá trị đơn vị vốn đầu tư. Số lao động có việc làm. ở đây bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp cho dự án và số lao động có việc làm ở các dự án liên đới ( số lao động có việc làm gián tiếp). Các dự án liên đới là các dự án khác được thực hiện do sự đòi hỏi của dự án đang được xem xét. Trình tự xác định số lao động( trực tiếp và gián tiếp) có việc làm do thực hiện dự án như sau: + Xác định số lao động cần thiết cho dự án đang xem xét tại năm hoạt động bình thường của đời dự án. + Xác định số lao động cần thiết cho việc tăng thêm ở các dự án liên đới cả về đầu vào và đầu ra. Đây chính là số lao động có việc làm gián tiếp nhờ thực hiện dự án đang xem xét. + Tổng hợp số lao động trực tiếp và gián tiếp có việc làm trên đây chính là tổng lao động có việc làm nhờ thực hiện dự án. Trong khi tạo việc làm cho một số lao động, thì sự hoạt động của dự án mới cũng có thể làm cho một số lao động của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ khác bị mất việc do các cơ sở này không cạnh tranh nổi với sản phẩm của dự án mới, phải thu hẹp sản xuất. Trong số các lao động làm việc trong dự án, có thể có một số là người nước ngoài. Do đó, số lao động của đất nước có việc làm nhờ thực hiện dự án sẽ chỉ bao gồm số lao động trực tiếp và gián tiếp phục vụ cho dự án, trừ đi số lao động bị mất việc ở các cơ sở có liên quan và số người nước ngoài làm việc cho dự án. Số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư. Để tính chỉ tiêu số lao động có việc làm trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư, cũng tương tự như đối với lao động, ta phải tính số vốn đầu tư trực tiếp của dự án đang xem xét và vốn đầu tư của các dự án liên đới( vốn đầu tư đầy đủ). Tiếp đó tính các chỉ tiêu sau đây: + Số lao động có việc làm trực tiếp tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư trực tiếp ( Id ). Trong đó: Ld : Số lao động có việc làm trực tiếp của dự án. Ivd : Số vốn đầu tư trực tiếp của dự án. + Toàn bộ số lao động có việc làm tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư đầy đủ ( IT ). Trong đó: LT : toàn bộ số lao động có việc làm trực tiếp và gián tiếp. IvT : Số vốn đầu tư đầy đủ của dự án đang xem xét và các dự án liên đới. LT = Ld + Lind IvT = Ivd + Ivind Lind : Số lao động có viêc làm gián tiếp. Ivind : Số vốn đâu tư gián tiếp Nước ta cũng giống như các nước đang phát triển, hầu hết là các nước nghèo tình trạng kém về kỹ thuật sản xuất và nạn thất nghiệp còn phổ biến. Để tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo lạc hậu đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm tòi đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, tạo công ăn việc làm cho người lao động. 2. 4.3. Nâng cao đời sống người lao động. Ngoài việc tạo công ăn việc làm cho người lao động đòi hỏi các doanh nghiệp làm ăn phải có hiệu quả để góp phần nâng cao mức sống của người lao động. Xét trên phương diện kinh tế, việc nâng cao mức sống của người dân được thể hiện qua chỉ tiêu như gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư xã hội, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội….. 2. 4.4. Tái phân phối lợi tức xã hội. Sự phát triển không đồng đều về mặt kinh tế xã hội giữa các vùng, các lãnh thổ trong một nước yêu cầu phải có sự phân phối lợi tức xã hội nhằm giảm sự chênh lệch về mặt kinh tế giữa các vùng. Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện nay, hiệu quả kinh tế xã hội còn thể hiện qua các chỉ tiêu : Bảo vệ nguồn lợi môi trường, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế…. Chương II: Thực trạng đầu tư nâng cao hiệu quả SXKD của công ty I. Tổng quan về công VLXD & XNK Hồng Hà. 1. Quá trình hình thành phát triển và nhiệm vụ của công ty. Công ty VLXD & XNK Hồng Hà được thành lập theo quyết định số : 416/TCCQ ngày 8/5/1974 của UBHC Thành Phố Hà Nội và được thành lập theo quyết định số : 36/2000/ QĐ-UB ngày 18/4/2000 của UBND Thành Phố Hà Nội. Tiền thân là một Công ty cung ứng vật liệu xây dựng Hà Nội. Với chức năng nhiệm vụ của đơn vị được xác định là: - Sản xuất kinh doanh VLXD. làm đại lý mua bán , ký gửi vật tư thiết bị xây dựng và trang thiết bị nội ngoại thất. - Khai thác kinh doanh cát xây dựng và cung ứng dịch vụ vận tải đường bộ, đường thuỷ, dịch vụ bốc xếp. -Xây dựng các công trình vừa và nhỏ về dân dụng, công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi và công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị. Công trình san lấp mặt bằng. - Kinh doanh xuất nhập khẩu vật tư máy móc thiết bị chuyên ngành xây dựng. - Kinh doanh dịch vụ về nhà ở, thể thao, vui chơi giải trí, kho tàng bến bãi. - Tổ chức điểm thông quan hàng hoá, xuất nhập khẩu các sản phẩm chế biến từ : gỗ, mây, tre, len,sợi,đồ da, may mặc, tóc giả, mi mắt nhân tạo và hàng thủ công mỹ nghệ khác. - Sản xuất kinh doanh nước giải khát, nước tinh khiết và nước khoáng. - Kinh doanh vật tư thiết bị chuyên ngành, lâm nghiệp và các mặt hàng điện lạnh, điện tử và tin học. -Thực hiện dịch vụ đào tạo nghề, sản xuất tóc giả, mi mắt nhân tạo, may. - Khai thác, chế biến và kinh doanh khoáng sản, hoá chất để làm vật liệu xây dựng và chuyển giao công nghệ sản xuất vật liệu xây dựng. - Liên doanh liên kết với các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước để mở rộng và phát triển sản xuất kinh doanh. - Tư vấn đầu tư các dự án sản xuất VLXD. Chế tạo và chuyển giao công nghệ các máy móc, thiết bị sản xuất vật liệu xây dựng. - Tư vấn đầu tư các dự án xây dựng, tư vấn khảo sát thiết kế địa chất và thiết kế công trình xây dựng. Công ty bao gồm 7 đơn vị xí nghiệp trực thuộc là: - XN VLXD và vận tải Phúc Xá. - XNXD công trình. - XN khai thác bến cảng và dịch vụ Bạch Đằng. - XN VLXD và dịch vụ kho bãi Phương Liệt. - XNSX và kinh doanh hàng xuất nhập khẩu. - XN dệt may và dịch vụ tổng hợp. - XN XD giao thông thuỷ lợi và sản xuất VLXD. 2. Mô hình tổ chức của công ty và nhiệm vụ cụ thể. 2.1. Mô hình tổ chức của công ty. Xớ nghiệp VLXD và DV kho bói Phương Liệt Xớ nghiệp XD cụng trỡnh giao thụng thuỷ lợi và SXVL Phũng TCHC HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ CTHĐQT KIấM GIÁM ĐỐC CễNG TY. CÁC PHể GIÁM ĐỐC Ban quản lý dự ỏn Xớ nghiệp XD cụng trỡnh Xớ nghiệp VLXD và vận tải Phỳc xỏ Xớ nghiệp khai thỏc bến cảng và dịch vụ Bạch Đằng. Xớ nghiệp dệt may xuất khẩu và dịch vụ tổng hợp. Xớ nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng XNK. Chi nhỏnh cụng ty tại Chi nhỏnh cụng ty tại Chi nhỏnh cụng ty tại Chi nhỏnh cụng ty tại Chi nhỏnh cụng ty tại BAN KIỂM SOÁT Phũng KTTK-TC Phũng KHKD 2.2. Nhiệm vụ cụ thể. Hội đồng quản trị: Thực hiện chức năng quản lý hoạt động của công ty, chịu trách nhiệm về sự phát triển của công ty theo nhiệm vụ của Nhà nước giao. Giám đốc: Giám đốc do thủ trưởng cơ quan quyết định thành lập, công ty bổ nhiệm ,miễn nhiệm ,khen thưởng và kỷ luật theo đề nghị của Hội đồng quản trị. Giám đốc là đại diện pháp nhân của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước người bổ nhiệm mình và trước phát luật về điều hành hoạt động tại công ty. Giám đốc là người điều hành cao nhất tại công ty. Phòng tổ chức hành chính - Lập các dự án liên quan đến tổ chức sản xuất kinh doanh, bộ máy quản lý của công ty và các đơn vị thành viên phù hợp với tình hình thực tế. - Tham mưu cho giám đốc và Đảng uỷ công ty về công tác cán bộ cũng như những giải pháp lớn liên quan tới con người để thực hiện trong phạm vi công ty. - Xây dựng các quy chế quản lý chung của công ty. Quy chế phân cấp quản lý cho các xí nghiệp thành viên trong công ty và các lĩnh vực cần thiết liên quan tới quản lý và điều hành của công ty. Phòng kế toán thống kê- tài chính: - Xây dựng các quy chế hạch toán kế toán thống kê theo quy định của Nhà nước của công ty. Thực hiện hướng dẫn sử dụng các loại chứng từ ghi chép ban đầu của công tác kế toán. - Tổ chức công tác hạch toán kế toán thống kê tổng hợp, tập trung vào thống nhất từ các xí nghiệp thành viên tới công ty theo chế độ hiện hành. - Thực hiện công tác quyết toán vốn và quyết toán thuế hàng năm trên tất cả các lĩnh vực, phân tích hoạt động kinh tế định kì. Bảo đảm phân phối và sử dụng các quỹ xí nghiệp đúng đắn, công khai dân chủ, công bằng theo chế độ quy định.  Bảo quản và lưu giữ các chứng từ kinh tế phát sinh về công tác hạch toán thống kê trong toàn công ty. Phòng kế hoạch kinh doanh: - Xây dựng và thực hiện mục tiêu phương hướng phát triển dài hạn kế hoạch ngắn hạn, kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm theo phương hướng phát triển của ngành xây dựng. - Giúp giám đốc giao chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh dịch vụ hàng năm cho các xí nghiệp trực thuộc công ty. - Tổ chức tiếp thị các loại sản phẩm của công ty sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm quảng cáo giới thiệu sản phẩm, tham gia hội chợ triển lãm các sản phẩm dịch vụ của công ty. - Tổ chức quản lý xe, máy móc thiết bị kĩ thuật trong công ty. Ban quản lý dự án: - Giúp giám đốc công ty xây dựng và tổ chức triển khai các dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. - Nghiên cứu áp dụng các đề tài tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm vào các dự án đổi mới công nghệ kỹ thuật sản xuất của công ty và các đơn vị. - Khai thác các nguồn dự án khác để công ty tham gia đấu thầu và triển khai thực hiện các dự án. Xí nghiệp khai thác bến cảng và dịch vụ vận tải Bạch Đằng. Đơn vị đóng trên địa bàn 664 Đường Bạch Đằng chức năng nhiệm vụ của đơn vị là: + Dịch vụ vận tải đường thuỷ. + Dịch vụ kho bãi. + Dịch vụ bốc xếp. + Đại lý mua bán ký gửi VLXD và thiết bị xây dựng nội ngoại thất. + Tổ chức bến giao thông tĩnh. + Khai thác kinh doanh điểm thông quan hàng hoá. Xí nghiệp xây dựng công trình: - Đơn vị có trụ sở tại 33 Phố Tân ấp quận Ba Đình Hà Nội. Đơn vị có diện tích mặt bằng nhà xưởng, bãi xe bằng 10.000m2. Xí nghiệp có chức năng nhiệm vụ: + Xây dựng các công trình vừa và nhỏ và dân dụng, công nghiệp, giao thông, thuỷ lợi và các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị. Công trình san lấp mặt bằng. + Kinh doanh dịch vụ về nhà ở. + Tổ chức bến giao thông tĩnh và dịch vụ về nhà kho. + Đại lý mua bán, ký gửi vật liệu xây dựng trang thiết bị nội ngoại thất. Để đảm bảo ổn định và có khả năng đáp ứng việc xây dựng và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao. Công ty có kế hoạch đầu tư toàn diện về năng lực. + Thiết bị thi công, lực lượng cán bộ kỹ thuật, thiết kế chuyên ngành và cán bộ giám sát thi công phải thành thạo và giỏi trong công việc. Đồng thời tăng cường đội ngũ công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, và công tác quản lý tốt nhằm đáp ứng khả năng tham gia đấu thầu và thắng thầu trong xây dựng cơ bản. Đặc biệt chuẩn bị cho công tác đảm đương những công trình lớn và nhà cao tầng. Xí nghiệp vật liệu xây dựng và dịch vụ kho bãi Phương Liệt. - Trụ sở xí nghiệp đóng tại 105 đường Trường Chinh xí nghiệp có diện tích mặt bằng nhà xưởng bến bãi rộng 15 000m2. Nhiệm vụ của xí nghiệp là: + Sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng, sản xuất đá xẻ tấm lớn. + Đại lý mua bán ký gửi vật liệu xây dựng, trang thiết bị nội ngoại thất dịch vụ kho bãi cửa hàng. Sản xuất và gia công cơ khí. + Tổ chức dịch vụ thể thao vui chơi giải trí. Xí nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu. Trụ sở 105 đường Trường Chinh, xí nghiệp có diện tích mặt bằng nhà xưởng 7000m2. Nhiệm vụ của xí nghiệp là:  Sản xuất gia công kinh doanh các mặt hàng xuất nhập khẩu.  Thực hiện nhiệm vụ dịch vụ đào tạo nghề, cung ứng xuất khẩu lao động. Xí nghiệp xây dựng và vận tải Phúc Xá. Trụ sở của xí nghiệp đóng tại 33 phố Tân ấp, đơn vị có mặt bằng nhà xưởng 16000m2. Xí nghiệp có nhiệm vụ : + Sản xuất vật liệu xây dựng . + Sản xuất kinh doanh cát lọc nước, khai thác kinh doanh đá, cát, sỏi xây dựng. + Dịch vụ vận tải đường bộ. + San lấp mặt bằng công trình hạ tầng kỹ thuật công trình giao thông và mặt bằng hạ tầng xây dựng. + Dịch vụ mua bán, ký gửi vật tư thiết bị xây dựng, trang thiết bị nội ngoại thất. Xí nghiệp may đan xuất khẩu. Xí nghiệp có trụ sở tại 105 Trường Chinh diện tích mặt bằng nhà xưởng 5200m2 nhiệm vụ xí nghiệp là: - Sản xuất hàng may mặc. - Gia công đan dệt len phục vụ cho xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. II. Khái quát chung về tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. Nguồn vốn của doanh nghiệp được tiến hành từ nhiều nguồn khác nhau. Trước hết là nguồn vốn của bản thân chủ sở hữu( vốn ngân sách cấp và nguồn vốn bổ sung trong quá trình sản xuất kinh doanh, sau đó được hình thành từ các nguồn vay nợ….). Công ty VLXD& XNK Hồng Hà là một doanh nghiệp nhà nước nên hàng năm cũng được ngân sách cấp vốn dưới dạng cho vay với lãi suất ưu đãi, ngoài ra công ty còn có nguồn vốn tự bổ sung, vốn vay từ các ngân hàng, tổ chức tài chính. Nguồn vốn vay của công ty chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng vốn kinh doanh, điều này có thể thấy qua biểu sau: Bảng 1 : Cơ cấu vốn của công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Đơn vị tính: Triệu đồng. Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Tổng doanh thu 41.357 50.338 57.887 Lợi nhuận 5.252 7.039 9.120 Nguồn vốn 1. Vốn chủ sở hữu 15.654 17.424 20.114 - Vốn ngân sách cấp 9228.5 10354,5 11990,3 - Vốn tự bổ sung 6425,5 7069,5 8123,7 2. Vốn vay 7.624 8.388 9.639 Tổng vốn kinh doanh 23.278 25.812 29.753 Tỷ lệ % vốn CSH/vốn KD 67,25 67,50 67,60 Nguồn: Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Qua biểu trên ta thấy nguồn vốn kinh doanh không ngừng tăng qua các năm. Trong đó nguồn vốn vay chiếm một tỷ lệ khá lớn trong tổng vốn kinh doanh là 32,75% vào năm 2002, năm 2003 là 32,50%, năm 2004 là 32,40%. Đặc điểm này có ảnh hưởng đến khả năng đảm bảo tài chính của doanh nghiệp, tỷ trọng này càng cao càng khó khăn cho công ty trong quá trình kinh doanh của mình. Do vốn vay chiếm tỷ lệ khá cao như vậy cho nên chi phí vốn cao, ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Qua bảng trên cũng nhận thấy tổng vốn kinh doanh của công ty không ngừng tăng qua các năm.Năm 2004 cao nhất, có tổng số vốn là 29.753 triệu đồng, tăng 3941 triệu đồng so với năm 2003. Công ty không ngừng bổ sung nguồn vốn của mình qua nhiều kênh khác nhau: vốn vay ngân hàng, vốn tự bổ sung…Tiến tới công ty còn tiến hành cổ phần hoá toàn bộ doanh nghiệp, đó là một kênh huy động vốn hết sức hữu hiệu để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh trong nhiều lĩnh vực hơn nữa và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cho mình. Trong những năm gần đây công ty đã đạt được nhiều thành công đáng khích lệ. Công ty đã không ngừng đổi mới một cách toàn diện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả về số lượng lẫn chất lượng, cả về quy mô tổ chức đến công nghệ khoa học kỹ thuật. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm qua được thể hiện thông qua biểu dưới đây: Bảng 2: Bảng kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh: Chỉ tiêu Đơn vị tính 2002 2003 2004 So sánh 2003/2002 2004/2003 1. Tổng doanh thu Triệu đồng 41.357 50.338 57.887 21,72 14,99 2. Tổng chi phí Triệu đồng 35.145 42.124 45.425 19,86 7,84 3. Doanh thu thuần Triệu đồng 6.212 8.214 10.462 32,23 27,37 4.Nộp ngân sách Triệu đồng 960 1.175 1.342 22,39 14,21 5.Lợi nhuận Triệu đồng 5.252 7039 9.120 34,03 29,59 6.Lao động Người 584 602 669 3,08 11,13 7. Thu nhập bình quân Đồng 900.000 1.050.000 1.150.000 16,67 9.52 8.Tỷ suất LN/DT. % 12,69 13.98 15,75 Nguồn: Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Mặc dù hoạt động kinh doanh trong điều kiện hết sức khó khăn, eo hẹp về tài chính, thị trường biến động, cạnh tranh gay gắt nhưng công ty đã năng động trong việc thực hiện đường lối, chính sách đúng đắn nên đã đạt được những thành quả nhất định. Qua biểu trên ta thấy trong 3 năm 2002-2004 công ty đã phấn đấu thực hiện được các chỉ tiêu sản xuất kinh doanh như sau: - Về doanh thu: Doanh thu của công ty tăng đáng kể qua các năm. Năm 2003 tăng so với năm 2002 là 21,72%, năm 2004 tăng so với năm 2003 là 14,99%.Những chỉ tiêu trên cho thấy sản phẩm mà công ty sản xuất ra không chỉ tăng về lượng mà còn tăng cả về mức tiêu thụ. - Về chi phí và lợi nhuận: Trong năm 2003 công ty đã nỗ lực trong việc sản xuất kinh doanh để mức thu lợi nhuận đạt 34,09% . Nhưng trong năm 2004 do ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau làm cho mức lợi nhuận năm 2004 chỉ tăng 29,59%. - Thu nhập bình quân đầu người lao động trong công ty được cải thiện qua các năm. Năm 2003/2002 tăng 16,67% , năm 2004/2003 tăng 9,52%. Có được kết quả này là do công ty đã không ngừng quan tâm tới lợi ích của cán bộ công nhân viên trong công ty và đã áp dụng đòn bẫy kinh tế khuyến khích người lao động làm việc tích cực hết mình. - Mặc dù các chỉ tiêu của năm 2004 đều tăng hơn so với năm 2003, nhưng xét về mặt định tính thì ta thấy tốc độ tăng năm 2004 chậm hơn so với năm 2003. Chứng tỏ năm 2004 hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty có phần giảm hơn so với năm 2003. Vì vậy công ty cần phải cố gắng nỗ lực hơn nữa để đạt được mức tăng trưởng ổn định qua các năm. - Hoạt động sản xuất chủ yếu của công ty là kinh doanh dịch vụ, sản xuất, xây lắp công nghiệp. Nên việc nâng cao chất lượng dịch vụ, mở rộng sản xuất tăng doanh thu là một nhân tố tích cực để nâng cao hiệu quả kinh doanh giúp cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển trên thị trường. Qua biểu đồ nhận thấy đường doanh thu luôn ở phía trên đường chi phí, điều này chứng tỏ doanh nghiệp đã chi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh hết sức hợp lý để tăng doanh thu nhằm tăng lợi nhuận cho công ty. Công ty đang trong giai đoạn hoàn thiện công nghệ, do vậy việc tổ chức sản xuất cần có thời gian và đầu tư thêm máy móc thiết bị. Từ đó việc nâng cao tốc độ sản xuất kinh doanh là nhiệm vụ hàng đầu của công ty. III. Tình hình đầu tư nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty VLXD & XNK Hồng Hà trong những năm gần đây. 1. Các dự án đầu tư giai đoạn 2002 – 2004. Đất nước đang trên đà phát triển, cơ chế thị trường đang từng bước đi đến sự hoàn thiện của nó. Doanh nghiệp muốn đứng vững, tồn tại và phát triển hơn thì doanh nghiệp đó phải năng động, biết khai thác và tìm hiểu nhu cầu thị trường để có kế hoạch, phương án đầu tư đúng hướng, đổi mới công nghệ sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng đúng nhu cầu thị trường ở hiện tại và trong tương lai.Vì thế trong những năm qua công ty đã đầu tư vào một số dự án trọng điểm như sau: Bảng 3 : Danh mục các dự án và nguồn vốn đầu tư. Tên dự án Vốn thực hiện (tỷ đồng) Nguồn vốn Năm 2002: Đầu tư dây chuyền sản xuất cho XN dệt may Đầu tư MMTB cho XN VLXD và vận tải phúc xá Đầu tư máy xây dựng cho XN XD công trình Tổng vốn đầu tư 13,547 2,5 7,548 23,595 Vốn tự có Vốn tự có Vốn vay NH Năm 2003: Đầu tư MMTB cho XN khai thác bến cảng và dịch vụ Bạch Đằng Đầu tư thành lập XN XD giao thông thuỷ lợi và sản xuất VLXD Đầu tư dây chuyền SX cho XN SX và KD hàng xuất nhập khẩu Tổng vốn đầu tư 4,099 6,25 14,254 24,603 Vốn NSNN Vốn vay NH Vốn NSNN Năm 2004: Đầu tư XD nhà máy SX gạch lát Granite-Terazzo Đầu tư thành lập liên doanh chế biến lâm sản với công ty Xai Som Boun của Lào Đầu tư máy XD cho ĐXNX giao thông thuỷ lợi và SXVL xây dựng. Đầu tư dây chuyền sản xuất VLXD cho xí nghiệp VLXD và vận tải phúc xá. Tổng vốn đầu tư 13,16 3,45 9,847 10,25 36,707 Vốn tự có Vốn tự có Vốn vay NH Vốn vay NH Năm 2002: + Đầu tư mới dây chuyền sản xuất đồng bộ cho xí nghiệp may đan xuất khẩu.Công ty đã đầu tư các hệ máy tiên tiến, sản xuất và thêu ren bằng vi tính hiện đại lập trình sẵn theo mẫu mã. Tổng vốn đầu tư là 13,547 tỷ đồng. + Dự án đầu tư mua thêm máy móc thiết bị cho xí nghiệp VLXD và vận tải Phúc Xá. Xí nghiệp này đã rất thành công trong việc sản xuất vật liệu gạch gốm phục cổ và các sản phẩm mới. Nhằm mở rộng sản xuất đưa sản phẩm của xí nghiệp xuất khẩu ra nước ngoài công ty đã đầu tư 2,5 tỷ đồng để mua thêm máy móc thiết bị. + Đầu tư mua 3 máy xây dựng phục vụ cho xí nghiệp xây dựng công trình và sản xuất vật liệu xây dựng với tổng vốn đầu tư 7,548 tỷ đồng. - Năm 2003 : + Dự án đầu tư máy móc thiết bị cho xí nghiệp khai thác bến cảng và dịch vụ Bạch Đằng.Công ty đã bỏ vốn đầu tư 4 máy ép thuỷ lực, hệ thống băng tải, cẩu, cần trục…. Tổng vốn đầu tư là 4,099 tỷ đồng. + Đầu tư thành lập xí nghiệp xây dựng giao thông thuỷ lợi và sản xuất vật liệu xây dựng.Việc cho ra đời xí nghiệp này đã đáp ứng yêu cầu của công ty trong việc mở rộng hoạt động xây dựng ra nhiều lĩnh vực khác theo yêu cầu của thị trường. + Đầu tư 2 dây chuyền sản xuất cho xí nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất nhập khẩu với tổng số vốn đầu tư là 14,254 tỷ đồng. Tổng vốn đầu tư là 6,25 tỷ đồng. Năm 2004: + Đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất gạch lát Granite – Terazzo.Sản phẩm chủ đạo của công ty là các loại vật liệu xây dựng như : gạch gốm cổ, tráng men xẻ và chế tạo đá granite, đã xẻ vôi….Trong những năm qua, do nắm bắt đúng nhu cầu thị trường, đầu tư đúng hướng, quy mô đầu tư hợp lý, kết hợp với các biện pháp tiếp thị, dịch vụ bán hàng ngày càng mở rộng, trong những năm qua công ty đã đảm bảo sản xuất kinh doanh có hiệu quả với mức tăng trưởng 10 – 15% uy tín và thị phần ngày càng được mở rộng. Gạch Granite- Terazzo là một loại vật liệu không nung bao gồm các sản phẩm dưới dạng gạch lát, tấm tường cỡ lớn, các loại cột tròn, lục lăng…Hiện nay trên thế giới được sản xuất rất nhiều, để sử dụng trong các công trình công cộng, quảng trường…ở Việt Nam công nghiệp sản xuất gạch Terazzo vẫn là một ngành non trẻ. Phần lớn gạch Terazzo sử dụng vụn đá cẩm thạch do vậy gạch không đủ độ cứng nhanh bị mài mòn, công ty đã nghiên cứu thay thế bằng vụn đá granite nên sản phẩm đạt độ cứng, độ mài mòn, độ bóng. Gạch Terazzo hiện còn phải nhập khẩu từ nước ngoài trong khi nhu cầu thị trường khá lớn. Tổng vốn đầu tư của dự án là 13,16 tỷ đồng. + Trong năm 2004 công ty cũng mạnh dạn mở rộng quan hệ kinh tế với các đối tác ở nước ngoài nhằm tạo thêm việc làm và nguồn thu nhập cho công ty. Công ty đã thành lập một liên doanh chế biến lâm sản với công ty Xai Som Boun của Lào. Với số vốn đầu tư 200.000USD nhằm sản xuất gỗ, đồ mộc, đũa tre và các nhiệm vụ khác về sản xuất vật liệu xây dựng, thi công xây dựng ….tại Lào. Hiện nay hợp đồng liên doanh đã được kí kết phần nhà xưởng công ty đã chế tạo sẵn tại Việt Nam, hiện đã đưa sang Lào và lắp dựng xong, máy móc thiết bị đã được mua tại Việt Nam và chở sang lắp đặt xong tại Lào. Công ty cũng đã làm việc với các đối tác tiêu thụ sản phẩm sắp tới liên doanh sẽ sản xuất và xuất khẩu được những lô hàng đầu tiên.Việc thành lập liên doanh chế biến lâm sản tại Lào là rất thuận lợi vì nhiều cánh rừng nguyên sinh nằm ngay cạnh đường quốc lộ, việc vận chuyển để tiêu thụ qua các cảng biển ở miền Trung Việt Nam rất thuận tiện, cự ly gần, đi theo các con đường mới được cải tạo, nâng cấp. Việc thành lập liên doanh chế biến hàng lâm sản tại Lào hứa hẹn đem lại hiệu quả kinh tế cao cho cả hai đơn vị tham gia liên doanh. + Đầu tư thêm 2 máy xây dựng cho xí nghiệp xây dựng giao thông thuỷ lợi và sản xuất vật liệ xây dựng, tổng số vốn là 9,847 tỷ đồng. + Đầu tư 2 dây chuyền sản xuất vật liệu xây dựng cho xí nghiệp vật liệu xây dựng và vận tải phúc xá với tổng vốn đầu tư 10,25 tỷ đồng. + Đầu tư mua phương tiện vận tải cho xí nghiệp khai thác bến cảng và dịch vụ Bạch Đằng. 2. Vốn đầu tư giai đoạn 2002 – 2004. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có vốn. Vốn đầu tư đóng vai trò quan trọng trong mỗi công cuộc đầu tư. Nó là nguồn lực đầu tiên cho mỗi quá trình đầu tư, là ”mồi lửa” đầu tiên châm ngòi cho các nhân tố: lao động, đất đai, công nghệ…phát huy tác dụng.Bởi vậy doanh nghiệp cần phải tập trung các biện pháp tài chính cần thiết cho việc huy động hình thành các nguồn vốn nhằm đảm bảo cho quá trình kinh doanh được tiến hành liên tục và có hiệu quả. Vốn đầu tư trong giai đoạn 2002 – 2004 chủ yếu đầu tư vào tài sản cố định, tài sản lưu động….được thể hiện trong bảng sau: Bảng 4 : Vốn đầu tư giai đoạn 2002-2004. Chỉ tiêu Đơn vị 2001 2002 2003 2004 Vốn đầu tư Tỷ đồng 26,349 30,845 37,51 47,575 Vốn đầu tư tăng thêm Tỷ đồng 4,496 6,665 10,065 Tốc độ tăng % 17,06 21,61 26,83 Nguồn : Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Qua bảng trên ta nhận thấy, vốn đầu tư của công ty trong 3 năm trở lại đây tăng khá cao. + Năm 2002: tổng vốn đầu tư là 30,845 tỷ đồng, tăng 17,06% (4,496 tỷ đồng) so với năm 2001. Trong năm này, đầu tư vào tài sản cố định cũng khá cao, công ty có một số dự án quan trọng như: Đầu tư máy xây dựng cho xí nghiệp xây dựng công trình, đầu tư dây chuyền sản xuất cho xí nghiệp dệt may…Xí nghiệp dệt may có những dây chuyền thiết bị sản xuất mới tiên tiến hiện đại vì thế nâng cao được năng suất, chất lượng sản phẩm….Điều này kéo theo đầu tư vào tài sản lưu động cũng tăng lên bởi công ty sẽ phải tăng vốn đầu tư cho nguyên vật liệu sản xuất đầu vào…. + Năm 2003: tổng vốn đầu tư đã là 37,51 tỷ đồng, tăng 21,61% (6,665 tỷ đồng) so với năm 2002. + Năm 2004: tốc độ tăng vốn đầu tư là lớn nhất, tăng 26,83% (17,883 tỷ đồng) so với năm 2003. Bởi trong năm này công ty có 4 dự án đầu tư lớn : Đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất gạch lát Granite-Terazzo,đầu tư thành lập liên doanh chế biến lâm sản với công ty Xai Som Boun của Lào, đầu tư thêm máy xây dựng cho xí nghiệp xây dựng giao thông thuỷ lợi và sản xuất vật liệu xây dựng, đầu tư dây chuyền sản xuất vật liệu xây dựng cho xí nghiệp vật liệu xây dựng và vận tải phúc xá. Đây là những dự án rất quan trọng của công ty nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Khi các dự án này đi vào hoạt động làm cho nhu cầu về nguyên vật liệu sản xuất đầu vào cũng tăng cao nghĩa là vốn đầu tư cho tài sản lưu động cũng tăng cao. Bên cạnh đó kéo theo nhu cầu vốn đầu tư cho công tác Marketing để tìm kiểm, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm trên thị trường cũng lớn. Nguồn lao động cũng phải được chú ý đầu tư nâng cao chất lượng đội ngũ lao động nhằm vận hành tốt các dây chuyền máy móc thiết bị hiện đại. 3. Các nội dung đầu tư của công ty. Bảng5 : Phân bổ vốn đầu tư theo nội dung đầu tư Đơn vị: tỉ đồng Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Đầu tư vào TSLĐ 4,512 5,807 7,9 Đầu tư vào TSCĐ 25,47 30,752 38,748 Đầu tư vào Marketing 0,542 0,359 0,299 Đầu tư cho NNL 0,321 0,592 0,632 Tổng vốn đầu tư 30,845 37,51 47,575 Nguồn : công ty VLXD &XNK Hồng Hà. Trong 3 năm qua, công ty đã rất chú trọng vào các lĩnh vực đầu tư khác nhau: TSLĐ, TSCĐ, NNL…nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình, Nguồn vốn đầu tư vào TSCĐ chiếm tỉ lệ lớn nhất. Công ty đang tập trung đàu tư cả chiều rộng và chiều sâu nhằm tăng công suất máy móc thiết bị và nâng cao chất lượng sản phẩm. Các nội dung đầu tư cụ thể như sau: 3.1. Đầu tư vào tài sản cố định 3.1.1. Đầu tư vào nhà xưởng. Việc thiết kế, xây dựng mỗi nhà máy là dựa trên yêu cầu công nghệ dây chuyền sản xuất, các điều kiện về địa chất thuỷ văn, vị trí và kích thước của mỗi lô đất đặt nhà máy, trên nguyên tắc tận dụng tối đa và hợp lý diện tích, có điều kiện mở rộng sản xuất khi cần. Thiết kế tổng thể và thiết kế nhà máy được thực hiện qua hợp đồng với đơn vị thiết kế chuyên nghiệp kết hợp với tham khảo ý kiến và trợ giúp kỹ thuật của đối tác cung cấp thiết bị chính. Công ty VLXD & XNK Hồng Hà đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh từ năm 1974, trong những năm gần đây( 2000 – 2004) công ty chủ yếu sử dụng nhà xưởng đã được xây dựng từ trước đó để sản xuất, nên việc đầu tư vào lĩnh vực này là không đáng kể trong giai đoạn này. Tuy nhiên, bên cạnh việc chuẩn bị những hợp đồng lớn cho các năm tới, công ty vẫn tiếp tục thực hiện các mục tiêu đã đề ra, tiếp tục khai thác có hiệu quả lợi thế đất đai của công ty, cải tạo và xây dựng mới các khu nhà để cho thuê, tại XNXD và dịch vụ kho bãi Phương Liệt đã xây dựng hơn 8.500m2 nhà xưởng. - Xí nghiệp khai thác bến cảng và dịch vụ vận tải Bạch Đằng: + Cải tạo và xây dựng 120m2 tại Bốt Vuông. + Đầu tư mở rộng bãi chứa VLXD tại Đức Giang là 300m2. San lấp mặt bằng xây dựng nhà xưởng 26.500m2. - Xí nghiệp xây dựng mới 400m2 nhà xưởng đã đưa vào khai thác tại Phúc Xá. Riêng doanh thu về cho thuê kho bãi của công ty trong năm 2003 đạt được 8,8 tỷ đồng là một khoản thu rất lớn có hiệu quả kinh tế cao đáp ứng một phần nhu cầu về vốn của công ty. Năm 2004 căn cứ vào tình hình thực tế cuả thị trường trong nước và trên thế giới về việc tiêu thụ gạch lát Granite, công ty đã đầu tư xây dựng nhà xưởng sản xuất gạch Granite- Terazzo với tổng vốn xây dựng nhà xưởng là 1,6 tỷ đồng. Đến nay nhà máy này đã đi vào hoạt động sản xuất và thu được lợi nhuận cho công ty. 3.1.2 Đầu tư vào máy móc thiết bị. Công nghệ máy móc thiết bị là một trong những yếu tố vật chất quan trọng cho quá trình sản xuất kinh doanh của công ty.Do công ty sản xuất và kinh doanh nhiều mặt hàng khác nhau như: Sản xuất và kinh doanh vật liệu xây dưng; sản xuất và kinh doanh nước giải khát, nước tinh khiết và nước khoáng; ….nên máy móc thiết bị của công ty cũng đa dạng về chủng loại. Đầu tư vào công nghệ máy móc thiết bị của công ty không ngừng tăng qua các năm, cụ thể như sau: Bảng 6: Vốn đầu tư vào máy móc thiết bị của công ty trong giai đoạn 2001- 2004. Năm 2001 2002 2003 2004 Loại Đv Tỷ đ % Tỷ đ % Tỷ đ % Tỷ đ % 1. Dây chuyền sản xuất 11,879 60 13,547 57,8 14,254 53,2 23,858 64,9 2. Phương tiện vận tải. 1,426 7,2 2,345 10 2,872 10,7 3,012 8,2 3. Máy xây dựng 6,549 32,8 7,548 32,2 9,647 36,1 9,847 26,9 5. Tổng 19,854 100 23,44 100 26,773 100 36,717 100 6. Tốc độ tăng 18,06 14,22 37,14 Nguồn: Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Từ bảng trên nhận thấy thiết bị trong dây chuyền sản xuất chiếm tỷ lệ vốn đầu tư lớn nhất, chiếm khoảng 60% tổng vốn đầu tư vào máy móc thiết bị, tương đương 23,858 tỷ đồng tính vào năm 2004. Mặc dù số vốn này không phải là lớn lắm nhưng những thiết bị này đa phần nhập từ nước ngoài về, nên công ty phải yêu cầu bên đối tác đảm bảo: Thời hạn và tiến độ cho thiết kế, chế tạo, lắp ráp vận hành thiết bị. Cung cấp tài liệu kĩ thuật, thông số kĩ thuật cơ bản liên quan đến thiết kế nhà xưởng, hệ thống điều khiển, tài liệu về lắp ráp tài liệu về thiết bị cơ học hay mô tả quy trình sản xuất. Vốn đầu tư vào dây chuyền sản xuất tăng mạnh nhất vào năm 2004 ( 36,717 tỷ đồng),đó là do công ty đầu tư vào dây chuyền sản xuất đá Granite- Terazzo trị giá 9,060 tỷ đồng. Đây là dây chuyền nhập khẩu từ Trung Quốc về, việc lắp ráp thiết bị được thực hiện bởi đơn vị chuyên trách có trách nhiệm, có năng lực kỹ thuật và năng lực thiết bị lắp ráp được lựa chọn thông qua đấu thầu. Kế hoạch lắp ráp, phương án và trình tự lắp, căn chỉnh các thiết bị được thoả thuận bởi đại diện chủ đầu tư, đại diện chuyên gia và đơn vị lắp máy quản lý tiến độ lắp máy. Hiện nay dây chuyền này đã đi vào hoạt động sản xuất với công suất 40.000m2 một năm đem lại doanh thu hơn 8 tỷ đồng cho công ty. Sản phẩm chủ yếu là: Gạch lát Granite- Terazzo có kích thước lớn, tấm tường kích thước lớn 8000mm x 4000mm x 100mm; Sản xuất các cột tròn, lục lăng, có đường kính lớn F 600mm - F 1200 mm. Phương tiện vận tải và máy xây dựng chủ yếu là để phục vụ cho các công trình xây dựng của công ty.Vốn đầu tư vào đây nhỏ hơn đầu tư vào dây chuyền sản xuất rất nhiều. Của phương tiện vận tải chỉ chiếm 8,2% tương đương 3.012 tỷ đồng, của máy xây dựng là 26,9% tương đương 9,847 tỷ đồng. Năm 2003, công ty đã đầu tư 4 máy ép thuỷ lực; hệ thống băng tải, cẩu; Cần trục…trị giá 2,099tỷ đồng. Tuy số vốn đầu tư không lớn lắm, nhưng nó cũng thể hiện sự nỗ lực của ban giám đốc công ty cùng toàn thể công nhân viên trong việc cố gắng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Trong năm 2003 để phát huy cao độ năng lực của công ty trong lĩnh vực thi công xây dựng, công ty đã thành lập thêm xí nghiệp xây dựng giao thông, thuỷ lợi và sản xuất vật liệu xây dựng. Việc cho ra đời xí nghiệp này đã đáp ứng yêu cầu của công ty trong việc mở rộng hoạt động xây dựng ra nhiều lĩnh vực khác theo yêu cầu của thị trường. Quá trình đầu tư trong những năm này chủ yếu đầu tư để nâng cấp máy móc thiết bị và mua thêm một số thiết bị mới trang bị cho một số nhà máy sản xuất, phục vụ cho các công trình xây dựng…nên tốc độ tăng nguồn vốn đầu tư này không tăng nhanh như những năm trước đó.Công ty đã giải ngân vốn để tạo ra một bộ mặt mới cho công ty nhằm tăng doanh thu, tăng thu nhập của người lao động. Trong đó các thiết bị nhập khẩu đồng bộ chiếm 75% và thiết bị chế tạo trong nước và nhập lẻ chiếm 25%. Các thiết bị mới cả về chất lượng và thế hệ, được chế tạo theo đơn đặt hàng với công nghệ tiên tiến, độ bền cao, phù hợp với điều kiện vận hành và khí hậu tại Việt Nam. Nhìn chung công ty cũng đã có sự quan tâm đặc biệt đến việc đầu tư vào máy móc thiết bị nhằm mở rộng sản xuất tạo ra sản phẩm mới làm đa dạng hoá sản phẩm của công ty trên thị trường. Tuy nhiên, phần lớn máy móc thiết bị là nhập khẩu, mà ít quan tâm đến đầu tư cải tạo, nâng cấp máy đang dùng cho năng suất cao cũng như đầu tư để tự chế tạo máy móc. 3.2. Đầu tư vào tài sản lưu động. Tài sản lưu động bao gồm: TSLĐ sản xuất, TSLĐ lưu thông, TSLĐ tài chính. Công ty VLXD & XNK Hồng Hà chỉ đầu tư vào TSLĐ sản xuất như những vật tư dự trữ cho quá trình sản xuất ( nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ …) của công ty. Nguyên vật liệu là một yếu tố quan trọng tạo nên sản phẩm. Đối với mỗi doanh nghiệp nguồn nguyên vật liệu là một vũ khí cạnh tranh tích cực nếu việc thu mua thuận tiện nhanh gọn. Giá cả và chất lượng của của nguyên vật liệu ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả và chất lượng sản phẩm của công ty, nó quyết định việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. Nguyên vật liệu của công ty bao gồm rất nhiều loại như:vụn đá cẩm thạch( Marble), cát, xi măng, bột màu, chất kết dính, đá granite….để sản xuất đá Granite-Terazzo; vải, len, ….của xí nghiệp dệt may xuất khẩu. Hiện nay phần lớn nguyên vật liệu hết sức dồi dào, có sẵn trong nước, giá thành hạ và rất thuận tiện về giao thông. Công ty đã hợp tác với các công ty cung cấp nguyên vật liệu trong nước như các công ty: Xi măng: Công ty xi măng Hoàng Thạch. Đá granite: Thanh Hoá, Nghệ An, Hoà Bình, Lào Cai…. Bột màu: Công ty hoá chất Đức Giang. Chất kết dính, phụ gia do công ty tự sản xuất. Các công ty này tuy đã đáp ứng được yêu cầu về mặt số lượng, chất lượng, nhưng còn một số điểm tồn tại như đôi khi còn chậm chạp,giá thành cao. Bảng 7: Vốn đầu tư cho TSLĐ qua các năm Đơn vị tính: triệu đồng. Stt Loại NVL 2002 2003 2004 2003/2002 2004/2003 1 Xi Măng 1,127 1,34 1,987 18,89% 48,28% 2 Đá Granite 1,953 2,314 2,672 18,48% 15,47% 3 Bột màu 1,432 2,153 3,241 50,39% 50,53% 4 Tổng 4,512 5,807 7,9 28,7% 36,04% Nguồn: Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Từ biểu trên ta thấy các mặt hàng mua vào đều tăng qua các năm, tổng vốn đầu tư vào nguyên vật liệu cũng không ngừng tăng lên. Năm 2004 là 7,9 tỷ đồng cao nhất so với các năm, điều đó chứng tỏ hoạt động kinh doanh của công ty luôn luôn phát triển mở rộng. Công ty luôn ý thức được tầm quan trọng của hoạt động bảo đảm yếu tố đầu vào cho sản xuất và tìm các nguồn hàng, các bạn hàng cung cấp thường xuyên, ổn định. Công ty chủ yếu sử dụng nguồn nguyên vật liệu sẵn có trong nước đã giảm được chi phí sản xuất, giảm lượng vật tư dự trữ và tránh hao hụt tự nhiên đồng thời tập trung được vốn lưu động cho kinh doanh đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của công ty. 3.3. Đầu tư vào nguồn nhân lực. Nhân tố con người là yếu tố quyết định trong hoạt động sản xuất kinh doanh, do đó công ty đã xác định: Lao động là yếu tố hàng đầu của quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu như đảm bảo số lượng, chất lượng lao động sẽ mang lại hiệu quả cao vì yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động, hệ số sử dụng lao động, hiệu quả máy móc thiết bị. Do đó trong những năm qua công ty đã không ngừng chú trọng tới việc phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Điều này ta có thể thấy qua bảng sau: Bảng 8: Nguồn lao động của công ty. Đơn vị tính : Người. Năm Tổng số CBCNV Trình độ đại học Trình độ cao đẳng Công nhân kĩ thuật 2001 521 46 26 449 2002 584 50 32 502 2003 602 54 41 507 2004 669 62 54 553 Nguồn: Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Ngày mới thành lập số cán bộ công nhân viên của công ty chỉ có 325 người, do nhận thức được vai trò quan trọng của yếu tố lao động nên số lượng lao động của công ty không ngừng tăng lên. Hiện nay tổng số lao động của công ty là 669 người trong đó 87% lực lượng lao động công ty là những người trẻ khoẻ, có trình độ văn hoá, tiếp thu tốt công nghệ sản xuất tiên tiến. Lao động trực tiếp của công ty là 553 người chiếm 82,66% tổng số lao động. Hầu hết công nhân của công ty đã qua lớp đào tạo dài hạn hay ngắn hạn của ngành. Số lao động gián tiếp là 116 người chiếm 17,34% trong đó 62 người đã tốt nghiệp đại học, 54 người tốt nghiệp cao đẳng hoặc trung cấp. Nguồn lao động thì chủ yếu thu hút từ các nguồn sau: - Từ các trường đại học, cao đẳng như: Đại Học Xây Dựng, Đại học Bách Khoa,Cử nhân kinh tế và các ngành khác…..về làm cho các phòng ban hành chính, phụ trách kỹ thuật tại công ty. - Con em các cán bộ công nhân viên trong ngành tuyển dụng vào làm công ty. - Tuyển qua các trung tâm giới thiệu việc làm….. Về thu nhập của người lao động trong công ty không ngừng nâng cao và cải thiện đời sống người lao động. Lương tháng trung bình của người lao động năm 2001 là 850.000đ, năm 2002 là 900.000đ, năm 2003 là 105.000đ, năm 2004 là 1.150.000đ.Việc tổ chức xét nâng lương nâng bậc được thực hiện tốt. Công ty có nhiều hình thức đầu tư trong lĩnh vực đào tạo nguồn lao động đặc biệt là nguồn lao động trẻ.Công ty thực hiện việc đào tạo đối với đội ngũ lắp ráp máy móc thiết bị đồng thời mời một số chuyên gia nước ngoài về trực tiếp hướng dẫn đào tạo lực lượng kĩ sư và công nhân vận hành máy móc thiết bị. Hàng năm công ty đều tổ chức bổ túc hoặc bồi dưỡng kiến thức chuyên môn cho lực lượng lao động. Việc khen thưởng xứng đáng các sáng kiến kĩ thuật, tiết kiệm trong sản xuất, tổ chức học tập phổ biến kinh nghiệm được tiến hành kịp thời trong các bộ phận sản xuất và quản lý. Lực lượng cán bộ được đào tạo chuyên sâu theo vị trí làm việc. Công tác an toàn lao động, bảo hộ lao động được hết sức coi trọng mặc dù có nhiều khâu công việc có khả năng mất an toàn lao động như xây dựng nhà cao tầng, thi công trên các tuyến đường quốc lộ…nhưng đã không để xảy ra tai nạn lao động. Trang bị bảo hộ lao động được cung cấp đầy đủ đúng chế độ. Nhìn chung nguồn nhân lực trong công ty đã đáp ứng được nhu cầu căn bản của quá trình sản xuất kinh doanh của công ty.Cùng với việc đầu tư cho máy móc thiết bị, đầu tư phát triển nguồn nhân lực của công ty đã góp phần quan trọng vào công tác nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 3.4. Đầu tư cho công tác Marketting. Ngày nay không một doanh nghiệp nào bắt tay vào kinh doanh lại không gắn kinh doanh của mình với thị trường. Vì trong cơ chế thị trường chỉ có cạnh tranh doanh nghiệp mới hy vọng tồn tại và phát triển được. Thật vậy, một doanh nghiệp có thể cho rằng cứ tập trung mọi cố gắng của mình để sản xuất ra nhiều sản phẩm, để làm ra những sản phẩm cực kì hoàn mĩ với chất lượng cao chắc chắn sẽ thu được nhiều tiền từ người tiêu dùng. Điều đó trên thực tế không có gì là đảm bảo. Bởi vì đằng sau phương châm hành động còn ẩn náu hai câu hỏi lớn mà nếu không giải đáp được nó thì mọi cố gắng của doanh nghiệp cũng chỉ là con số không. - Một là, liệu thị trường có cần mua hết số sản phẩm doanh nghiệp tạo ra không?. - Hai là: Liệu cái giá mà doanh nghiệp định bán, người tiêu dùng có đủ tiền để mua hay không?. Kết cục là cái mối liên hệ giữa doanh nghiệp với thị trường chưa được giải đáp thoả đáng. Có thể hiểu Marketting đặt cơ sở nối kết cách thức và phạm vi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với thị trường ngay từ trước khi doanh nghiệp chính thức bắt tay vào sản xuất. Đầu tư vào Marketting là một trong những yếu tố thúc đẩy sự phát triển của công ty bởi chỉ có sự đảm bảo đầu ra của sản phẩm thì mới tạo điều kiện thúc đẩy chế biến đầu vào của sản phẩm. Nguồn vốn mà công ty đầu tư vào Marketting giới thiệu sản phẩm trong giai đoạn 2001- 2004 là 2 tỷ. Công ty dùng nguồn vốn để xây dựng cataloge sản phẩm, thực hiện các chương trình quảng cáo thông qua các hình thức như quảng cáo lên tivi, tham gia triển lãm, hay thực hiện các chương trình ưu đãi giảm giá,công ty đã thực hiện giải ngân nguồn vốn qua các năm như sau: Bảng 9: Vốn đầu tư vào Marketting. Năm Đơn vị 2001 2002 2003 2004 Vốn đầu tư Triệu đồng 800 542 359 299 Tỷ lệ VĐT từng năm so với tổng. % 40 27,1 17,9 15 Nguồn: Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Qua bảng thấy nguồn vốn giải ngân ngày càng có xu hướng giảm. Đó là do, trong những năm đầu sản xuất, sản phẩm của công ty chưa được khách hàng biết đến nhiều, vì vậy cần phải đầu tư mạnh vào Marketing để tìm kiếm thị trường, giới thiệu sản phẩm của mình đến khách hàng….Càng về sau công ty càng khẳng định được vị thế của mình trên thị trường.Như sản phẩm đá Granite- Terazzo đã được người tiêu dùng biết đến với chất lượng cao, giá cả phải chăng…Vì thế có thể giảm nguồn vốn đầu tư cho Marketting. Để đáp ứng yêu cầu mở rộng thị trường kinh doanh VLXD và thi công công trình, công ty đã thành lập chi nhánh của công ty tại Thành Phố Hồ Chí Minh, Hoà Bình, Lào Cai, Phú Thọ và sẽ tiếp tục mở tại Thái Nguyên, Hải Phòng. Những chi nhánh này sẽ là cơ sở để công ty mở rộng địa bàn hoạt động của mình. IV. Đánh giá hiệu quả đầu tư. 1. Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư. Như ta đã biết hiệu quả tài chính ( Etc) của hoạt động đầu tư là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và nâng cao đời sống của người lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên cơ sở số vốn đầu tư mà cơ sở đã sử dụng so với các kỳ khác, các cơ sở khác hoặc so với định mức chung.Các chỉ tiêu phân tích hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư được thể hiện qua bảng sau: Bảng 10 : Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư. Đơn vị : Tỷ đồng. STT Chỉ tiêu 2002 2003 2004 1 VĐT 30,845 37,51 47,575 2 GTTSCĐ huy động trong kì 25,47 30,752 38,748 3 DT tăng thêm 5,912 8,981 7,549 4 LN tăng thêm 1,235 1,787 2,081 5 HTSCĐ = (2) / (1) 0,8257 0,8198 0,8145 6 HDT = (3) / (1) 0,1917 0,2394 0,1587 7 HLN = (4) / (1) 0,400 0,476 0,437 Nguồn: Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Qua bảng trên ta nhận thấy: - Năm 2002, giá trị TSCĐ huy động trong kỳ so với vốn đầu tư là 0,8257 tức là cứ một đồng vốn đầu tư bỏ ra thì có 0,8257 đồng đầu tư vào tài sản cố định. Cũng trong năm này, một đồng vốn đầu tư bỏ ra thu được 0,1917 đồng doanh thu tăng thêm và 0,4 đồng lợi nhuận tăng thêm. - Năm 2003, giá trị TSCĐ huy động trong kỳ so với vốn đầu tư là 0,8198 giảm nhẹ so với năm 2002. Tuy nhiên, năm 2003 một đồng vốn đầu tư bỏ ra làm tăng thêm 0,2394 đồng doanh thu và 0,476 đồng lợi nhuận. - Năm 2004, giá trị TSCĐ huy động trong kỳ so với vốn đầu tư là 0,8145 cũng giảm nhẹ so với năm 2003. Trong năm này 1 đồng vốn đầu tư bỏ ra thu được 0,1587 đồng doanh thu tăng thêm và làm tăng thêm 0,437 đồng lợi nhuận. 2. Hiệu quả sử dụng vốn. Thực trạng sử dụng vốn của công ty được thể hiện qua bảng sau: Bảng 11 : Thực trạng sử dụng vốn. Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Vốn cố định 17323 19209 22142 Vốn lưu động 5955 6603 7611 Tổng vốn kinh doanh 23278 25812 29753 Doanh thu 41357 50338 57887 Lợi nhuận 5252 7039 9120 Số vòng quay của Vcđ 2.387 2.621 2.614 Số vòng quay của Vlđ 6.945 7.624 7.606 Số vòng quay cuả Vkd 1.777 1.950 1.946 HVLĐ 0.882 1.066 1.198 HVCĐ 0.303 0.366 0.412 HVKD 0.226 0.273 0.307 Số ngày một vòng quay vcđ 152.886 139.284 139.614 Số ngày một vòng quay vlđ 52.556 47.878 47.990 Số ngày một vòng quay vkd 205.442 187.162 187.604 Nguồn: Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. 2.1. Hiệu quả sử dụng vốn cố định. - Hệ số doanh lợi của vốn cố định. HVCĐ= p/ VCĐ Chỉ tiêu này cho biết: Cứ một đồng vốn cố định bỏ ra thì công ty thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Năm 2002 HVCĐ = 0,303, tức là trong năm 2002 cứ bỏ ra một đồng vốn cố định thì thu về được 0,303 đồng lợi nhuận. Năm 2003, HVCĐ = 0,366, trong năm này công ty tạo ra được 0,366 đồng lợi nhuận trên một đồng vốn cố định. Chỉ tiêu này cao hơn năm 2002 là 0,063, điều đó có nghĩa là năm 2003 công ty hoạt động hiệu quả hơn năm 2002. Năm 2004 HVCĐ = 0,412 cao hơn năm 2003 là 0,046, cao hơn năm 2002 là 0,109.Có thể thấy hệ số doanh lợi vốn cố định của công ty tăng dần qua các năm, điều đó chứng tỏ công ty làm ăn có hiệu quả. -Số vòng quay của vốn cố định: NVCĐ = TR/ VCĐ. TR : Tổng doanh thu. VCĐ : Vốn cố định. Số vòng quay của vốn cố định qua các năm là không đều, điều đó chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn không ổn định. Năm 2003 NVCĐ = 2,624 lớn hơn năm 2002, nhưng năm 2004 số vòng quay này lại giảm nhẹ là 0,007. - Số ngày một vòng quay của vốn cố định: Là số ngày cần thiết để công ty thu lại toàn bộ số vốn cố định đã bỏ ra. Số ngày một vòng quay của vốn cố định có xu hướng giảm dần, đặc biệt từ năm 2002 đến năm 2003 đã giảm 13,602 ngày điều này chứng tỏ công ty đã sử dụng vốn khá hiệu quả trong năm 2003. Tuy nhiên từ năm 2003 đến năm 2004 thì chỉ tiêu này lại tăng nhẹ, tuy nhiên không đáng kể, chỉ tăng 0,33 ngày. 2.2. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động. - Hệ số doanh lợi của vốn lưu động. HVLĐ = p/ VLĐ Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn lưu động thì công ty tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Năm 2002, HVLĐ = 0,882. Tức là năm 2002 cứ một đồng vốn lưu động bỏ ra thì công ty sẽ tạo ra 0,882 đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này của năm 2003 là 1,066 và của năm 2004 là 1,198. Từ đó cho thấy xu hướng chung của chỉ tiêu hệ số doanh lợi của vốn lưu động của công ty tăng lên qua các năm.Điều đó chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty đang dần cải thiện. Số vòng quay của vốn lưu động. Số vòng quay của vốn lưu động cao nhất vào năm 2003 và thấp nhất vào năm 2002, điều này có nghĩa là năm 2003 hiệu quả sử dụng vốn lưu động là cao nhất. -Số ngày một vòng quay của vốn lưu động: là số ngày cần thiết để công ty thu hồi toàn bộ số vốn lưu động đã bỏ ra. Từ số liệu trên cho thấy số ngày một vòng quay của vốn lưu động thấp nhất vào năm 2003, điều này đồng nghĩa với việc năm 2003 hiệu quả sử dụng vốn lưu động là cao nhất. 2.3. Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh. - Hệ số doanh lợi của vốn kinh doanh. HVKD = p/ VKD Hệ số doanh lợi của vốn kinh doanh phản ánh: Cứ một đồng vốn kinh doanh bỏ ra thì công ty tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Qua đây chúng ta thấy: Hệ số doanh lợi của vốn cố định tăng dần qua các năm, cao nhất vào năm 2004 là 0,307. Số vòng quay của vốn kinh doanh. Chỉ tiêu này của công ty có xu hướng đi lên, cao nhất vào năm 2003 là 1,950, tuy có giảm nhẹ vào năm 2004 nhưng không đáng kể. Số ngày một vòng quay của vốn kinh doanh: Là số ngày cần thiết để công ty thu hồi toàn bộ số vốn kinh doanh đã bỏ ra. Từ số liệu trên cho thấy số ngày một vòng quay của vốn kinh doanh thấp nhất vào năm 2003, điều này đồng nghĩa với việc năm 2003 hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là cao nhất. Qua nghiên cứu về hiệu quả sử dụng vốn của công ty VLXD & XNK Hồng Hà cho thấy: Số vòng quay của vốn lưu động là lớn nhất; hệ số doanh lợi của vốn lưu động cũng là cao nhất; số ngày một vòng quay của vốn lưu động là nhỏ nhất, điều đó cho thấy hiệu quả sử dụng vốn lưu động của công ty là cao nhất. Ta cũng thấy số vòng quay của vốn cố định tăng vào năm 2003, nhưng lại giảm nhẹ vào năm 2004. Công ty phải tìm cách khắc phục để chỉ tiêu này tăng qua các năm tạo điều kiện cho công ty nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 3. Hiệu quả kinh tế - xã hội. 3.1. Số lao động có việc làm . Trong những năm qua, công ty có nhiều dự án đầu tư nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên,máy móc thiết bị ngày càng hiện đại, vì thế số lao động tăng thêm trong 3 năm trở lại đây là không nhiều lắm. Công ty chú trọng nhiều đến chất lượng nguồn nhân lực hơn là số lượng. Năm 2002, tổng số lao động trong công ty là 584 người, đến năm 2003 tăng lên là 602 người và sang năm 2004 tổng số lao động mới chỉ là 669 người. 3.2. Số lao động có việc làm trên một đồng vốn đầu tư. Chỉ tiêu này trong những năm qua ở công ty VLXD & XNK Hồng Hà được thể hiện qua bảng sau: Bảng 12: Số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư. Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Số lao động( người) 584 602 669 Vốn đầu tư( tỷ đồng) 30,845 37,51 47,575 Số lao động/ VĐT 18,93 16,05 14,06 Nguồn: Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị vốn đầu tư giúp cho bao nhiêu người lao động có được việc làm. 3.3. Nâng cao thu nhập của lao động trong công ty. Thu nhập bình quân theo đầu người của công ty từ năm 2002 – 2003 được thể hiện qua bảng sau: Bảng 13 : Thu nhập bình quân theo đầu người. Chỉ tiêu Đơn vị 2002 2003 2004 Doanh thu Triệu đ 41375 50338 57887 Lợi nhuận Triệu đ 5252 7039 9120 Số lao động Người 584 602 669 Thu nhập bình quân đồng 900000 1050000 1150000 Nguồn : Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Qua bảng trên cho thấy: Thu nhập bình quân theo đầu người tăng lên qua các năm, đến năm 2004 thu nhập bình quân của một lao động trong công ty đã là 1150000 đồng, điều đó chứng tỏ rằng công ty đang ngày càng kinh doanh có hiệu quả.Thu nhập tăng lên sẽ kích thích được người lao động hăng say làm việc từ đó làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty tăng thêm. 4. Tác động của đầu tư trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 4.1. Hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế được xác định bằng cách lấy kết quả tính theo đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh. H = TR/TC Hiệu quả kinh tế của công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Bảng 14 : Hiệu quả kinh tế. Đơn vị : Triệu đồng. Năm 2002 2003 2004 Tổng doanh thu 41.357 50.338 57.887 Tổng chi phí 36105 43299 48767 Hiệu quả kinh tế 1,1455 1,1625 1,1870 Nguồn: Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Hiệu quả kinh tế của công ty từ năm 2002 – 2004 đều lớn hơn 1. Điều này chứng tỏ rằng từ năm 2002 – 2004, khi bỏ một đồng chi phí thì công ty sẽ thu về hơn một đồng doanh thu. Mức độ thay đổi của chỉ tiêu hiệu quả kinh tế của công ty là không đáng kể. Hiệu quả kinh tế phụ thuộc vào doanh thu và chi phí. Chính vì thế hiệu quả kinh tế thay đổi là do sự thay đổi của doanh thu và chi phí. Năm 2002 hiệu quả kinh tế đạt 1,1455 tức là trong năm 2002 công ty bỏ ra một đồng chi phí thì sẽ thu về được 1,1455 đồng doanh thu. Năm 2003 hiệu quả kinh tế đạt 1,1625 cao hơn năm 2002 là 0,017. Điều này nói lên tốc độ tăng doanh thu cao hơn tốc độ tăng chi phí nên hiệu quả sản xuất kinh doanh năm 2003 cao hơn năm 2002. Năm 2004 hiệu quả kinh tế đạt 1,1870, tức là trong năm 2004 cứ bỏ ra một đồng chi phí thì công ty sẽ thu về được 1,1870 đồng doanh thu. Điều này cũng chứng tỏ năm 2004 làm ăn hiệu quả hơn hẳn năm 2002 và 2003. Có thể thấy nếu chỉ căn cứ vào chỉ tiêu hiệu qủa kinh tế thì công ty càng ngày làm ăn càng có hiệu quả, năm sau luôn cao hơn năm trước. Qua đây cũng cho thấy, muốn nâng cao hiệu quả kinh tế thì công ty cần giảm chi phí và tăng doanh thu. Tuy nhiêu công ty cũng có thể tăng chi phí nhưng phải đảm bảo là tốc độ tăng chi phí phải nhỏ hơn tốc độ tăng doanh thu. Để giảm chi phí, công ty cần có biện pháp quản lý sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, bố trí sắp xếp lao động hợp lý, giảm bớt số lượng lao động gián tiếp…Để tăng doanh thu công ty cần tăng cường máy móc thiết bị hiện đại, nâng cao trình độ công nhân, nâng cao chất lượng sản phẩm tích cực tìm bạn hàng mở rộng thị trường… 4.2. Mức sinh lời bình quân trên một lao động. Mức sinh lời bình quân trên một lao động phản ánh: Trong công ty, mỗi lao động tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Mức sinh lời bình quân trên một lao động của công ty VLXD & XNK Hồng Hà từ 2002 – 2004 được thể hiện qua bảng sau: Bảng 15 : Mức sinh lợi bình quân trên một lao động. Chỉ tiêu 2002 2003 2004 Lợi nhuận ( triệu đồng) 5252 7039 9120 Số lao động 584 602 669 Mức sinh lời của lao động 8.993 11.693 13.632 Nguồn: Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Qua bảng số liệu trên cho thấy mức sinh lời bình quân của lao động của công ty VLXD & XNK Hồng Hà trong giai đoạn 2002 – 2004 có xu hướng ngày càng tăng, điều này cho thấy hiệu quả sử dụng lao động của công ty ngày càng tăng. 4.3. Năng suất lao động. Năng suất lao động là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả sử dụng lao động của công ty. Tình hình năng suất lao động của công ty được thể hiện qua bảng sau: Bảng 16: Năng suất lao động chỉ tiêu 2002 2003 2004 Giá trị sản lượng sản xuất(triệu đồng) 30154 36478 41298 Số lao động 584 602 669 Năng suất lao động(triệu đồng) 51.634 60.595 61.731 Nguồn: Công ty VLXD & XNK Hồng Hà. Năm 2002, W = 51,634 triệu đồng, tức là năm 2002 một lao động của công ty tạo ra được 51,634 triệu đồng. Tương tự như vậy, năm 2003 là 60,731 triệu đồng tăng khá cao so với năm 2002( tăng 8,961 triệu đồng), nhưng năm 2004 tuy vẫn tăng so với năm 2003 nhưng tăng nhẹ, chỉ là 1,136 triệu đồng.Tuy nhiên đây vẫn là một tín hiệu đáng mừng bởi chỉ tiêu mức sinh lợi bình quân trên một lao động liên tục tăng qua các năm. Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp tạo điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí, tăng năng lực cạnh tranh của công ty và là cơ sở để hạ giá thành, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trong 3 năm qua, công ty VLXD & XNK Hồng Hà đã tập trung vốn đầu tư vào các lĩnh vực : Tài sản cố định, tài sản lưu động, nguồn nhân lực và công tác Marketing…đã nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm vừa qua, giúp công ty tạo được chỗ đứng của mình trên thị trường. Đầu tư vào tài sản cố định mà chủ yếu là đầu tư xây dựng nhà xưởng và mua sắm máy móc thiết bị…Đã giúp công ty mở rộng được sản xuất kinh doanh sang nhiều lĩnh vực khác nhau. Máy móc thiết bị hiện đại hơn làm tăng năng suất và tăng chất lượng sản phẩm, tiết kiệm được thời gian và chi phí cho nguyên vật liệu. Các xí nghiệp xây dựng được đầu tư thêm máy xây dựng, phương tiện vận tải phục vụ cho sản xuất giúp họ mạnh dạn nhận thi công thêm nhiều công trình, và không phải đi thuê ở bên ngoài. Xí nghiệp dệt may xuất khẩu được đầu tư những dây chuyền sản xuất mới nên chất lượng sản phẩm khá cao, sản phẩm tạo ra nhiều hơn …góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty. Đầu tư vào tài sản lưu động là một trong những lĩnh vực đầu tư quan trọng của công ty. Do trong những năm qua công ty đầu tư khá nhiều vào tài sản cố định nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh nên vốn đầu tư vào tài sản lưu động mà chủ yếu là đầu tư mua nguyên vật liệu đầu vào cũng tăng lên. Công ty chủ yếu sử dụng nguồn nguyên vật liệu trong nước nên giảm được chi phí, giảm lượng vật tư tồn kho….làm cho vốn quay vòng nhanh hơn.Doanh nghiệp cũng chú trọng đến việc tìm những nguồn cung cấp nguyên vật liệu rẻ, đầu tư mua nguyên vật liệu với số lượng lớn… Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến việc tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Trong những năm qua công ty cũng khá chú trọng đầu tư cho nguồn nhân lực, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty. Trình độ nhân viên được nâng cao sẽ làm cho hiệu quả công việc tốt hơn. Cụ thể như đối với công nhân trực tiếp sản xuất khi tay nghề được nâng cao thì sẽ giúp năng suất lao động tăng, chất lượng sản phẩm cũng tăng hơn. Còn đối với cán bộ quản lý: trình độ quản lý tốt hơn giúp các nhà lãnh đạo đưa ra những quyết định đúng đắn, kịp thời… làm cho sự phối hợp giữa các phòng ban, giữa các xí nghiệp trong công ty linh hoạt nhịp nhàng hơn. Công ty cũng có những chế độ đãi ngộ tốt đối với cán bộ công nhân viên của mình, tạo ra môi trường làm việc thuận lợi…giúp cho người lao động có tâm lý thoải mái, động lực làm việc lớn…từ đó họ làm việc sẽ hiệu quả hơn. Đây là một trong những mục tiêu quan trọng của công ty nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình. Đầu tư vào Marketing trong những năm qua đã giúp doanh nghiệp: + Tăng doanh thu nhờ tăng số lượng sản phẩm tiêu thụ. + Thu hút thêm khách hàng mới do hoạt động quảng cáo đã giúp doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp được biết đến rộng rãi hơn trên thị trường. + Tăng thị phần của doanh nghiệp nhờ mở rộng kênh phân phối sản phẩm. + Tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bởi doanh nghiệp đã sử dụng những chiến lược cạnh tranh về giá cả, hoặc doanh nghiệp sử dụng chiến lược về sản phẩm như tạo sự khác biệt hoá cho sản phẩm của mình, thiết kế sản phẩm có mẫu mã, bao bì mới, độc đáo để thu hút khách hàng…. 5. Những thành tựu đạt được. Trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh, công ty VLXD & XNK Hồng Hà luôn đặt cho mình một mục tiêu phát triển và luôn nỗ lực trong việc thực hiện các mục tiêu đặt ra đó là: tập trung vào việc tổ chức sản xuất vật liệu xây dựng và thi công xây lắp, xác định đó là nhiệm vụ chính và lâu dài của công ty. Nhưng trong điều kiện hiện nay, mọi nỗ lực của công ty đều nhằm mở rộng quy mô hoạt động của mình trên cơ sở mở rộng thị trường, mặt hàng kinh doanh, hình thức kinh doanh…đồng thời công ty cũng đặt ra vấn đề hiệu quả kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh doanh lên hàng đầu. Về tình hình đầu tư trong các năm qua, công ty luôn có nhiều hình thức đầu tư đáp ứng nhu cầu về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Mức đầu tư năm sau cao hơn năm trước chứng tỏ công ty luôn mở rộng được quy mô sản xuất kinh doanh của mình nhưng xét trên từng chỉ tiêu về hiệu quả thì sự hoạt động của công ty chưa đạt được hiệu quả cao tương ứng với tiềm lực của công ty. Năm 2000 công ty đã tập trung vào chỉ đạo việc nghiên cứu, thiết kế, chế tạo một hệ thống máy móc thiết bị sản xuất đá Granite- Terazzo, nghiên cứu công thức phôi liệu cho từng sản phẩm. Toàn bộ hệ thống thiết bị đều do đội ngũ kỹ sư, cán bộ kỹ thuật và công nhân của công ty chế tạo. Năm 2004 công ty đã tiến hành đầu tư nhà máy sản xuất loại vật liệu xây dựng này. Cho đến nay chúng ta đã có thể sản xuất đáp ứng yêu cầu tiêu dùng về gạch lát nền, lát cầu thang, ngoài ra đã vươn lên chế tạo thiết bị để sản xuất các loại sản phẩm đặc biệt có kích cỡ lớn như tấm tường Granite- Terazzo 8000mm x 4000mm x 100mm, cột đá tròn, lục lăng, bát giác…có đường kính F 600mm - F 1200mm đạt yêu cầu về kỹ thuật và mỹ thuật có thể đáp ứng cho những công trình xây dựng lớn có yêu cầu đặc biệt về VLXD như nhà quốc hội và các công trình xây dựng lớn sau này. Việc nghiên cứu hoàn thiện thiết kế, công nghệ chế tạo hệ thống thiết bị này có hiệu quả kinh tế lớn như giá thành hệ thống thiết bị rẻ hơn nhiều, chỉ bằng 20% - 30% so với máy nhập ngoại chất lượng sản phẩm đạt yêu cầu. Công ty đã lập ra được một cửa hàng giới thiệu tiêu thụ VLXD và nhất là sản phẩm đá Granite- Terazzo. Tuy nhiên thị phần còn nhỏ bé cần phải có sự nghiên cứu hoàn thiện hơn nữa về mẫu mã sản phẩm và đẩy mạnh công tác tiếp thị. Trong năm 2003 công ty đã tổ chức tốt việc giới thiệu sản phẩm của công ty tại triển lãm 45 năm ngành xây dựng Việt Nam. Thực hiện định hướng đã đựơc xác định là chuyển mạnh sang sản xuất và thi công, những năm qua công ty đã đẩy mạnh việc mở rộng địa bàn thi công xây dựng như nhận thi công các công trình xây dựng tại Lào Cai, Hoà Bình, Phú Thọ, đường Trường Sơn, Nghệ An….. Xí nghiệp VLXD & vận tải Phúc Xá đã khắc phục nhiều khó khăn để nhận thi công xây dựng trường học tại các vùng sâu vùng xa tại tỉnh miền núi Lào Cai.Hiện nay công việc đang tiến triển tốt, hứa hẹn nhận được nhiều công trình trong các năm tới. Xí nghiệp xây dựng công trình, xí nghiệp xây dựng giao thông, thuỷ lợi và sản xuất vật liệu đã nhận thi công một đoạn đường Trường Sơn tại miền Tây tỉnh Nghệ An một nơi có điều kiện sinh hoạt và khí hậu rất khó khăn. Mặc dù vậy các CBCNV của đơn vị đã phát huy tinh thần cố gắng, khắc phục các khó khăn về sinh hoạt và khí hậu, trong điều kiện thiếu thốn về thiết bị đã hoàn thành tốt các hợp đồng được ký kết. Xí nghiệp xây dựng công trình được giao tổ chức trạm bêtông tươi tại Cửa Lò, đã tập kết xong xe, máy để lắp đặt đưa vào sử dụng, xí nghiệp cũng đã trang bị máy sản xuất gạch block phục vụ cho dự án xây dựng tại Căm pu chia, đã tổ chức sản xuất thử, đồng thời đào tạo công nhân vận hành tại Cửa Lò. Xí nghiệp sản xuất hàng xuất hàng xuất khẩu ưu tiên sản xuất cốt liệu( hạt tra ver tanh) cho công ty gạch Thanh danh, dự kiến bước đầu cung ứng vào Thành Phố Hồ Chí Minh mạnh dạn nhận hợp đồng thi công trường học và các hạng mục xây dựng quy mô vừa và nhỏ. Trong năm 2004 công ty đã nhận thầu một công trình có quy mô rất lớn tại Cửa Lò – Nghệ An. Đó là nhận thi công một phần tổ hợp Du lịch –

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24645.DOC
Tài liệu liên quan