Đề tài Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác ở nước ta hiện nay

Tài liệu Đề tài Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác ở nước ta hiện nay: MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được pháp luật nói chung, luật hình sự nói riêng, bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của họ, vì đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Điều 71 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”. Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Việt Nam khẳng định con người là trung tâm của các ...

docx122 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1725 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Con người được coi là vốn quý của xã hội, là đối tượng hàng đầu được pháp luật nói chung, luật hình sự nói riêng, bảo vệ. Bảo vệ con người trước hết là bảo vệ tính mạng, sức khỏe, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của họ, vì đó là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với con người. Điều 71 Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm”. Trong những năm qua, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu rất quan trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Việt Nam khẳng định con người là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con người và cho con người. Nhà nước Việt Nam không chỉ khẳng định sự tôn trọng và bảo vệ quyền con người nói chung, nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, mà còn làm hết sức mình để bảo đảm thực hiện trên thực tế. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực và thành tựu đã đạt được, trong thời gian qua, cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó có nhiều vấn đề mới phát sinh có liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp trên tất cả các lĩnh vực, trong đó tình hình tội làm nhục người khác, xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội, được dư luận rất quan tâm, theo dõi. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác đã đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự phải nghiên cứu, giải quyết như khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội làm nhục người khác, nguyên nhân, điều kiện của tội làm nhục người khác... Về mặt lý luận, xung quan vấn đề đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài, “Đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác ở nước ta hiện nay”, mang tính cấp thiết, không những về lý luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tội làm nhục người khác là tội phạm có tính nhạy cảm cao, phức tạp, đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu. Sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành, tội làm nhục người khác được đề cập trong các giáo trình, sách pháp lý, đề tài nghiên cứu như Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 1997; Giáo trình luật hình sự Việt Nam, tập II của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 1998; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự của Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1987 (tái bản năm 1992, 1997); đề tài khoa học cấp Bộ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn phục vụ xây dựng Bộ luật hình sự (sửa đổi)”, mã số 95-98-107/ĐT của Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, nghiệm thu năm 1998… Sau khi Bộ luật hình sự năm 1999 được ban hành, tội làm nhục người khác được đề cập trong công trình: Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của TS. Trần Văn Luyện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2000; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của Khoa luật, Đại học quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2002; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 1999 (Phần các tội phạm) của TS Phùng Thế Vắc, TS. Trần Văn Luyện, LS. Th.S. Phạm Thanh Bình. TS. Nguyễn Đức Mai, Th.S Nguyễn Sĩ Đại, Th.S Nguyễn Mai Bộ, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; Bình luận khoa học Bộ luật hình sự, Phần các tội phạm, tập I (Bình luận chuyên sâu) của Th.S Đinh Văn Quế, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2002… Các công trình nói trên đã đề cập tội làm nhục người khác dưới góc độ pháp lý hình sự nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm học. 3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận và thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác, đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống, đồng bộ để nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm này. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau: - Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội làm nhục người khác; phân tích những quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về tội phạm này. - Phân tích và đánh giá đúng thực trạng tình hình tội làm nhục người khác, thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này; dự báo tình tội làm nhục người khác trong những thời gian tới. - Đề xuất hệ thống các giải pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác. Đối tượng nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác. Phạm vi nghiên cứu của luận văn Luận văn nghiên cứu tội làm nhục người khác dưới góc độ pháp lý hình sự và tội phạm học ở Việt Nam, trong thời gian từ năm 1997 đến năm 2005. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội làm nhục người khác nói riêng. Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về tội làm nhục người khác; các số liệu thống kê, báo cáo tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao về tội làm nhục người khác. Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: lịch sử, lôgíc, hệ thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, điều tra xã hội... 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về tội làm nhục người khác dưới hai góc độ: pháp lý hình sự và tội phạm học. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn: - Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về tội làm nhục người khác; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội phạm này trong pháp luật hình sự hiện hành. - Phân tích, đánh giá những quy định về tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý về lập pháp hình sự, để vận dụng có chọn lọc, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn. - Đánh giá thực đúng thực trạng tình hình tội làm nhục người khác ở Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân, điều kiện của thực trạng đó. - Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác. 6. Ý nghĩa của luận văn Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn trong việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác ở nước ta. Thông qua công trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm làm nhục người khác là loại tội phạm có tính nhạy cảm rất cao hiện nay. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học nói riêng và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các cơ quan bảo vệ pháp luật... 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm 114 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, mục. Chương 1 TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1. KHÁI LƯỢC SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM 1.1.1. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ phong kiến và Pháp thuộc Tội làm nhục người khác là một trong những tội phạm được đề cập rất sớm trong luật hình sự Việt Nam. Thời kỳ phong kiến, trong Quốc triều hình luật (Bộ luật Hồng Đức) là “Bộ luật chính thống và quan trọng nhất của triều đại nhà Lê”, cũng là “Bộ luật xưa nhất còn được lưu giữ đầy đủ ở nước ta” đã đề cập tội làm nhục người khác tại các điều 489, 491 492, 496. Điều 489 quy định: “Học trò mà đánh và lăng mạ thầy học, thì xử nặng hơn tội (đánh, lăng mạ) người thường ba bậc; đánh chết thì phải tội chém "[10, tr. 178]. Đây là quy định mang tính nhân văn, thể hiện truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, để cho quy tắc đạo đức “thầy ra thầy, trò ra trò” được thực hiện nghiêm chỉnh. Điều 495 Bộ luật còn quy định: “Lăng mạ vợ của quan tại chức, thì bị tội cùng tiền tạ, đều xử giảm tội lăng mạ người chồng ba bậc; lăng mạ đối với con thì tội lại xử giảm một bậc nữa” [10, tr. 180]. Trong Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long) được biên soạn trong một thời gian dài, đến năm 1811 thì hoàn tất và năm 1812 được khắc in lần đầu ở Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 1813 trên phạm vi toàn quốc, tội làm nhục người khác được đề cập tại các điều 293, 294, 295, 296, 297, 298, 299, 300. Điều 293 quy định: “Phàm mắng người thì bị phạt 10 roi. Cùng mắng nhau, thì mỗi người bị phạt 10 roi” [9, tr. 810]. Đáng lưu ý, hành vi làm nhục người khác những người thuộc giai cấp bị trị thực hiện, bị trừng phạt rất nặng trong Hoàng Việt luật lệ. Điều đó cho thấy, pháp luật hình sự bao giờ cũng mang tính giai cấp, được sử dụng để bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Điều 296 Bộ luật quy định: “Phàm nô tì mắng gia trưởng thì bị phạt treo cổ (giam chờ), mắng hàng kỳ thân của gia trưởng và ông bà ngoại của gia trưởng thì bị phạt 80 trượng, đồ hai năm, đại công thì bị phạt 80 trượng, hàng tiểu công thì bị phạt 70 trượng, hàng ti ma thì bị phạt 60 trượng. Nếu kẻ làm công mắng gia trưởng thì bị phạt 80 trượng, đồ hai năm. Mắng hàng kỳ thân và ông bà ngoại gia trưởng thì phạt trăm trượng, mắng hàng đại công thì phạt 60 trượng, mắng hàng tiểu công thì phạt 50 roi, mắng hàng ti ma bị phạt 40 roi, bị thưa lên là bị tội. (Đó là nói cho rõ, trong qua lại e có sự nghe lầm, cho nên phải chính người ấy nghe, có thể vì tình mà bỏ qua, hay có ý giấu đi, cho nên phải chính người ấy thưa lên” [9, tr. 812 – 813]. Dưới thời Pháp thuộc, để bảo đảm thực hiện mục tiêu kinh tế thực dân, thu lợi nhuận tối đa, thực dân Pháp thực hành chính sách chuyên chế về chính trị. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp, thẳng tay đàn áp, tuyệt đối không cho dân ta bất cứ quyền tự do, dân chủ nào. Pháp luật nói chung, pháp luật hình sự do thực dân Pháp đặt ra là để bảo vệ chế độ thực dân, phong kiến. Tội làm nhục người khác cũng được đề cập trong pháp luật hình sự thời gian này, nhưng là để bảo vệ nhân phẩm, danh dự của giai cấp thống trị, bóc lột. Trên tinh thần đó, Điều 154 Luật hình An Nam quy định: "Trong khi quan lại đương làm chức vụ, người nào lấy văn từ, ngôn ngữ, thư chỉ và làm việc gì hay là dọa điều gì, để cho mất danh dự, thể diện của các viên quan lại ấy, phải phạt giam từ một tháng đến hai năm, và phạt bạc từ hai mươi đồng đến hai trăm đồng" [46, tr. 25]. Tương tự như vậy, Điều 222 Hình luật canh cải quy định: "Người nào xỉ mạ quan bên chánh trị, bên Tòa hội đồng thẩm án, trong lúc mấy vị ấy làm việc bổn phận hoặc dùng lời nói mà xỉ mạ, hoặc viết chữ hoặc vẽ hình mà không có truyền ra ngoài, trong các cách ấy hoặc nói xấu cho danh giá, cho sự liêm sỉ của các vị ấy, thì phải bị phạt tù từ 15 ngày cho tới 2 năm" [17, tr.54]; Điều 320 Hoàng Việt hình luật quy định: "Dùng lời nói, hoặc giấy má, viết tay hay giấy in, bức vẽ hoặc những phương pháp khác mà lỵ mạ một người viên chức đương khi làm chức vụ hay là nhân khi làm chức vụ, bất kỳ là công việc hay không cũng gọi là lỵ mạ và chiếu theo Điều 145 chương thứ 12 mà nghĩ xử" [18, tr. 445]. 1.1.2. Tội làm nhục người khác trong thời kỳ từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công cho đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời, đã ban hành một loạt các văn bản quy phạm pháp luật hình sự, nhằm bảo vệ chính quyền nhân dân, chống thực dân Pháp, trừng trị bọn việt gian phản động. Do tình hình kháng chiến diễn ra hết sức khẩn trương, không thể ban hành kịp các văn bản quy phạm pháp luật nói chung, văn bản quy phạm pháp luật hình sự cần thiết nói riêng, ngày 10-10-1945, Nhà nước ta đã ban hành Sắc lệnh số 47-SL cho tạm thời giữ các luật lệ cũ, trong đó có Bộ "Luật hình An Nam", Bộ "Hoàng Việt hình luật" và Bộ "Hình luật pháp tu chính" với điều kiện "không trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa" [34, tr. 190]. Trong bối cảnh này, việc đấu tranh chống tội làm nhục người khác chưa được đặt ra. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam tạm thời bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Ở miền Bắc, Đảng ta chủ trương tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng miền Bắc thành căn cứ vững mạnh của cách mạng cả nước; ở miền Nam, tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhằm giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện thống nhất nước nhà. Trong thời kỳ này, đối với việc bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phầm, danh dự của con người, pháp luật hình sự chủ yếu đề cập các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe như giết người, gây thương tích, làm chết người trong Thông tư số 442-TTg ngày19-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ, mà chưa có văn bản pháp luật hình sự nào quy định về các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm nói chung, về tội làm nhục người khác nói riêng. Ngày 15-06-1960, Tòa án nhân dân tối cao ra Chỉ thị số 1024 có đề cập tội hiếp dâm, nhưng chưa đề cập tội làm nhục người khác. Trên cơ sở các kinh nghiệm mà thực tiễn xét xử đã đúc kết được trong thời gian trước đó, ngày 11-05-1967, Tòa án nhân dân tối cao đã thông qua Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm và các tội phạm khác về mặt tình dục, đề cập một cách toàn diện 4 hình thức phạm tội: hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu với người dưới 16 tuổi, dâm ô, nhưng vẫn chưa đề cập tội làm nhục người khác [39, tr. 389]. Sau khi miền Nam được giải phóng, trong khi chờ đợi thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, trên thực tế về hình thức, tạm thời tồn tại hai Nhà nước: Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam; mỗi Nhà nước có pháp luật riêng [20, tr.35]. Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành ngay một số chính sách, văn bản quy phạm pháp luật hình sự nhằm phục vụ thực hiện một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách là trấn áp bọn phản cách mạng và tội phạm khác, bảo vệ vững chắc an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội ở nửa đất nước mới được giải phóng. Cùng với việc ban hành Sắc luật về tổ chức Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân, Sắc luật quy định việc bắt, giam, khám người, khám nhà ở, đồ vật của Người phạm tội, Nhà nước Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật số 03-SL/76 ngày 15-3-1976 quy định các tội phạm và hình phạt. Sắc luật này được áp dụng trong phạm vi toàn quốc trước khi Bộ luật hình sự được ban hành. Sắc luật số 03-SL/76 có quy định về các tội xâm phạm đến thân thể và nhân phẩm của công dân một cách đầy đủ hơn so với Thông tư số 442-TTg ngày19-11-1955 của Thủ tướng Chính phủ Điểm d Điều 5 Sắc luật quy định: “Phạm các tội khác xâm phạm thân thể và nhân phẩm của công dân thì bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm những kẻ lập công chuộc tội" [40, tr. 236]. Trên cơ sở quy định này, các Tòa án đã vận dụng xử lý một số trường hợp phạm tội làm nhục người khác. 1.1.3. Tội làm nhục người khác thời kỳ từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay Trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, V của Đảng, nhân dân ta đã giành được một số thành tựu nhất định trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, tạo ra những cơ sở đầu tiên cho sự phát triển mới. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, chúng ta đã gặp phải nhiều khó khăn và khuyết điểm do duy trì quá lâu cơ chế quản lý quan liêu, bao cấp, nên không thực hiện được mục tiêu đã đề ra là ổn định một cách cơ bản tình hình kinh tế – xã hội và đời sống nhân dân. Về mặt lập pháp hình sự, các văn bản quy phạm pháp luật hình sự đơn hành không thể hiện được toàn diện, đầy đủ chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Trong bối cảnh đó, việc ban hành Bộ luật hình sự là vấn đề mang tính tất yếu khách quan và cấp thiết, có ý nghĩa góp phần phục vụ thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày 27-6-1985, tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, đã thông qua Bộ luật hình sự, có hiệu lực từ ngày 1-1-1986 (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1985). Bộ luật hình sự năm 1985 đã kế thừa và phát triển những thành tựu lập pháp hình sự Việt Nam, tổng kết kinh nghiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian trước năm 1985 và dự báo được tình hình tội phạm trong thời gian tới. Trong Bộ luật hình sự năm 1985, tiếp theo việc quy định các tội xâm phạm an ninh quốc gia ở chương 1, nhà làm luật đã quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự ở chương 2 và quy định các tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân ở chương 3. Đây là hai chương của Bộ luật hình sự bao gồm những quy phạm pháp luật trực tiếp bảo vệ con người với tính chất là chủ thể của các quan hệ xã hội. Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tội làm nhục người khác tại Điều 116, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên tại Điều 253, tội làm nhục cấp dưới tại Điều 254, tội làm nhục đồng đội tại Điều 255. Việc Bộ luật hình sự năm 1985 lần đầu tiên chính thức ghi nhận về mặt pháp lý tội làm nhục người khác, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới, tội làm nhục đồng đội, đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người Bộ luật đã đưa ra định nghĩa pháp lý của khái niệm tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác và quy định hai khung hình phạt. Khung cơ bản có mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Khung tăng nặng có mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 1 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. Đây là những trường hợp người phạm tội đã có hành vi làm nhục người thi hành công vụ để cản trở người đó thi hành công vụ hoặc để trả thù người đó vi đã thi hành công vụ, ảnh hưởng tới lợi ích của người phạm tội hay người thân hoặc gia đình họ. Từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã giành được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi cơ chế, bên cạnh những mặt tích cực, mặt trái nền kinh tế thị trường cũng đã làm nảy sinh nhiều vấn đề tiêu cực, trong đó tình hình tội phạm diễn biến phức tạp. Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành trong thời kỳ của cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, cho nên tuy đã phản ánh được nhu cầu bức xúc của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm thời kỳ đó, nhưng ở một mức độ nhất định vẫn chịu ảnh hưởng nhất định của cơ chế đó. Vì vậy, Bộ luật này không phù hợp cho việc bảo vệ các quan hệ phát sinh trong nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, Bộ luật hình sự năm 1985 còn có những hạn chế nhất định về kỹ thuật lập pháp hình sự nhiều tội danh được quy định quá chung chung; một số hành vi phạm tội với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau nhưng lại được quy định trong một điều luật với cùng một chế tài; khung hình phạt trong nhiều điều luật quá rộng, dễ dẫn đến tiêu cực... Hạn chế lớn nhất của Bộ luật hình sự năm 1985 là qua bốn lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật này đã không còn là một chỉnh thể thống nhất. Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc sửa đổi toàn diện Bộ luật hình sự năm 1985 là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan. Ngày 21-12-1999, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, đã thông qua Bộ luật hình sự (sau đây gọi tắt là Bộ luật hình sự năm 1999), thay thế cho Bộ luật hình sự năm 1985. Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực từ ngày 1-7-2000. Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội làm nhục người khác tại Điều 121, tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên tại Điều 319, tội làm nhục cấp dưới tại Điều 320, tội làm nhục đồng đội tại Điều 321. So với Bộ luật hình sự năm 1985, những quy định về tội làm nhục người khác trong Bộ luật hình sự năm 1999 có những điểm mới cơ bản như sau: Thứ nhất, quán triệt chính sách hình sự của Nhà nước ta trong việc xử lý hình sự đối với những người thực hiện các hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người là nghiêm khắc hơn, khung cơ bản Điều 121 quy định tội làm nhục người khác có mức phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 là một năm). Thứ hai, khung tăng nặng có mức phạt tù từ một năm đến ba năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 là cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm). Thứ ba, bổ sung một số tình tiết định khung tăng nặng hình phạt như phạm tội nhiều lần, đối với nhiều người, lợi dụng chức vụ, quyền hạn, đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình. Thứ tư, quy định thêm hình phạt bổ sung: người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm (trong Bộ luật hình sự năm 1985 không có quy định này). 1.2. TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 1.2.1. Khái niệm tội làm nhục người khác Tội làm nhục người khác có mối quan hệ chặt chẽ với danh dự và nhân phẩm con người. Cho nên, để có thể làm sáng tỏ khái niệm tội làm nhục người khác, cần làm rõ khái niệm danh dự, nhân phẩm con người. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, con người là vốn quý nhất. Đối với con người, chẳng những tính mạng, sức khỏe là vô giá mà danh dự, nhân phẩm cũng không kém phần quan trọng. Quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người đều rất thân thiết đối với con người và là những quyền quan trọng nhất trong các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận và bảo hộ. Điều 70 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, tài sản, danh dự và nhân phẩm”. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam, “danh dự là phạm trù đạo đức chỉ lòng tôn trọng của con người trong mọi cử chỉ, hành vi của mình” [50, tr. 647]. Người có danh dự biết tôn trọng lời mình đã hứa và có ý thức bảo vệ danh dự của mình, của dòng họ, của đoàn thể, Tổ quốc mình. Mất danh dự có nghĩa là mất sự tin yêu, mến phục của người khác và đối với người có danh dự, thì đó là tổn thất lớn nhất. Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm nhân phẩm. Theo Đại từ điển tiếng Việt, "nhân phẩm là phẩm chất và giá trị con người" [29, tr. 1762 –1323]. Nhân phẩm và danh dự là những giá trị nội tại, vốn có được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển và hoàn thiện của con người về mặt nhân tính. Đây là thuộc tính chung của tất cả các cá nhân trong cộng đồng nhân loại, không dựa trên bất kỳ sự phân biệt hay khác biệt nào về địa vị xã hội, kinh tế, chính trị, chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, giới tính, … Nhân phẩm và danh dự của con người chính là những cái làm nên sự khác biệt và cũng là bước tiến vượt bậc của con người với phần còn lại của giới tự nhiên. Vì chúng là những giá trị chỉ thuộc tính chung của con người, do vậy, tôn trọng nhân phẩm, danh dự của mỗi cá nhân con người là sự tôn trọng đối với chính mình, đối với đồng loại. Tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con người là tôn trọng những giá trị của con người, nhờ đó con người thực hiện được sự công bằng và bình đẳng. Tội làm nhục người khác phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo PGS.TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách có lỗi [37, tr. 105]. Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đưa ra khái niệm tội làm nhục người khác. Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng, “Tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác.” [38, tr. 158]. Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam, trường Đại học Luật - Hà Nội cũng cho rằng, “Tội làm nhục người khác là hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác” [49, tr. 335]. Từ sự phân tích các quan điểm được trình bày ở trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm tội làm nhục người khác như sau: Tội làm nhục người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. 1.2.2. Những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng và hình phạt được áp dụng đối với tội làm nhục người khác 1.2.2.1. Khách thể của tội phạm. Là một loại hoạt động của con người, nên cũng như các loại hoạt động khác, tội phạm cũng nhằm vào những khách thể cụ thể, tồn tại ngoài ý thức, độc lập với ý thức của chủ thể, nhưng không phải để cải biến mà gây thiệt hại cho chính những khách thể đó. Trong hệ thống các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị, các quan hệ xã hội có ý nghĩa khác nhau đối với sự phát triển của xã hội được Nhà nước bảo vệ bằng các quy phạm pháp luật khác nhau. Khách thể bảo vệ của luật hình sự là những quan hệ xã hội được Nhà nước xác định cần được bảo vệ bằng những quy phạm pháp luật hình sự. Những quan hệ xã hội đó sẽ là khách thể của tội phạm trong trường hợp chúng bị gây thiệt hại hoặc bị đe dọa gây thiệt hại ở mức độ nhất định. Như vậy, khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại” [49, tr. 61]. Công dân Việt Nam có quyền bát khả xâm phạm về thân thể và được pháp luật bảo vệ về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Tôn trọng và bảo vệ danh dự, nhân phẩm của mỗi công dân là trách nhiệm của mọi người. Đối với tội làm nhục người khác, khách thể của tội phạm là nhân phẩm, danh dự của con người. 1.2.2.2. Mặt khách quan của tội phạm. Bất cứ tội phạm nào khi xảy ra cũng đều có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bền ngoài, mà con người có thể trực tiếp nhận biết được. Đó là: - Hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội; - Hậu quả nguy hiểm cho xã hội, cũng như mối quan hệ giữa hành vi khách quan và hậu quả. - Các điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội (công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm phạm tội...). Tổng hợp những biểu hiện trên đây tạo thành mặt khách quan của tội phạm. Như vậy, mặt khách quan của tội làm nhục người khác là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thé giới khách quan. Mặt khách quan của tội làm nhục người khác là một trong bốn yếu tố của tội phạm. Không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và do vậy cũng không có tội phạm. Trong mặt khách quan của tội làm nhục người khác, hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản. Những biểu hiện khác của mặt khách quan của tội làm nhục người khác chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan. Hành vi khách quan của tội làm nhục người khác luôn luôn được thể hiện dưới hình thức hành động phạm tội – là hình thức của hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động, gây thiệt hại cho nhân phẩm,, danh dự con người quan việc chủ thể làm một việc bị pháp luật cấm như bằng lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác như xỉ nhục, nhạo báng, chửi rủa thậm tệ, lột trần truồng người bị hại trước đám đông, dùng phân lợn đổ vào người bị hại… Ví dụ: tại Bản án hình sự phúc thẩm số 3888/HSPT ngày 29-10-2004, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội kết luận: do nghi ngờ ông Nguyễn Ngọc Ninh xúi giục bà Trần Thị Vượng tranh chấp đất với gia đình Phạm Thanh Bình, nên sáng này 04-03-2004, trong lúc Bình cãi nhau với gia đình bà Vượng, thấy ông Ninh, Bình lên tiếng: “thằng nào đi vào lối tranh chấp Bình sẽ chặt chân”, ông Ninh thấy vậy đi ra khỏi cổng gia đình bà Vượng. Bình lấy xô nước đựng sẵn phân lợn ở cổng đến chỗ ông Ninh, dùng hai tay hất xô nước phân lợn vào đầu, người ông Ninh. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội cho rằng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của công dân. Phạm Thanh Bình đã phạm tội làm nhục người khác được quy định tại khoản 1 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999. Hành vi làm nhục người khác có thể được thực hiện công khai trước mặt người đó hoặc vắng mặt người bị hại, nhưng người phạm tội có ý thức để cho người bị hại biết việc lăng nhục đó vì động cơ cá nhân. Sự xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác phải đến mức nghiêm trọng thì mới truy cứu trách nhiệm hình sự. Đánh giá mức độ nghiêm trọng của hành vi phải căn cứ vào thái độ, nhận thức của người phạm tội, cường độ và thời gian kéo dài của hành vi; vị thế, vai trò của người bị hại trong gia đình, tổ chức hoặc trong xã hội; dư luận xã hội về hành vi lăng nhục đó. Nếu hành vi làm nhục người khác dẫn đến người bị hại tự sát, thì phải coi đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm K khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự năm 1999. Tội làm nhục người khác là tội phạm mà pháp luật hình sự quy định có cấu thành hình thức. Tội phạm được coi là hoàn thành từ khi người phạm tội có lời nói hoặc hành động xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác. Hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội làm nhục người khác. Tuy pháp luật hình sự không quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội làm nhục người khác, nhưng điều đó không có nghĩa là hậu quả không xảy ra. Thực tế cho thấy, hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác có thể gây ra thiệt hại to lớn về mặt tinh thần đối với người bị hại, ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Hậu quả không có ý nghĩa trong việc định tội, nhưng việc xác định hậu quả, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi làm nhục người khác với thiệt hại xảy ra, có ý nghĩa quan trọng đối với việc giải quyết trách nhiệm hình sự và hình phạt. Ngoài những nội dung biểu hiện của mặt khách quan đã được trình bày ở trên, thuộc mặt khách quan của tội làm nhục người khác còn có những nội dung biểu hiện khác. Đó là công cụ, phương tiện, phuơng thức, thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội. Đối với tội làm nhục người khác, phương tiện, công cụ, phuơng thức, thủ đoạn phạm tội, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, đây là những yếu tố có thể ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, do vậy chúng được coi là những tình tiết cần được xem xét khi quyết định hình phạt. 1.2.2.3. Chủ thể của tội phạm Chủ thể của tội làm nhục người khác phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả năng điều khiển hành vi đó. Đối với làm nhục người khác, người có năng lực trách nhiệm hình sự được hiểu là người có khả năng nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm danh dự của người khác và có khả năng điều khiển hành vi đó. Tội làm nhục người khác có mức tối đa của khung hình phạt là ba năm tù, cho nên theo quy định tại khoản 3 Điều 8 Bộ luật hình sự năm 1999, đây là tội phạm ít nghiêm trọng. Điều 12 Bộ luật hình sự năm 1999 còn quy định: “1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. 2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”. Như vậy, chủ thể của tội làm nhục người khác phải từ đủ 16 tuổi trở lên. 1.2.2.4. Mặt chủ quan của tội phạm Nếu mặt khách quan của tội làm nhục người khác là mặt bên ngoài, thì mặt chủ quan là mặt bên trong, là hoạt động tâm lý của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội làm nhục người khác gồm ba yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tôi. Tội làm nhục người khác được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác nhưng mong muốn thực hiện hành vi đó. Trong khoa học luật hình sự, động cơ phạm tội được hiểu là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý, còn mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Động cơ phạm tội, mục đích phạm tội của người phạm tội làm nhục người khác không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, người thực hiện hành vi làm nhục người khác có thể xuất phát từ những động cơ khác nhau như ghen tuông, thù oán, trả thù... và nhằm những mục đích khác nhau như làm nhục người khác vì vụ lợi, gây đau khổ cho người bị hại... Người phạm tội làm nhục người khác, cho dù xuất phát từ bất cứ động cơ, mục đích gì, cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, phải xem xét động cơ phạm tội, mục đích phạm tội của người phạm tội làm nhục người khác. 1.2.2.5. Hình phạt được áp dụng đối với tội làm nhục người khác Trong pháp luật hình sự hiện hành, hình phạt chính được quy định đối với tội làm nhục người khác bao gồm: hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và hình phạt tù có mức tối đa là ba năm tù. Khoản 1, khoản 2 Điều 121 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định: “1. Người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác thì, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm”. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ một năm đến ba năm: a) Phạm tội nhiều lần; b) Đối với nhiều người; c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn: d) Đối với người đang thi hành công vụ; đ) Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình. Phạm tội nhiều lần là trường hợp thực hiện tội làm nhục người khác mà trước đó người phạm tội đã phạm tội này ít nhất một lần và chưa bị xét xử. Hành vi phạm tội trong trường hợp này là sự lập lại tội làm nhục người khác đã thực hiện trước đó, cho nên có mức độ nguy hiểm cao hơn trường hợp bình thường. Phạm tội đối với nhiều người là trường hợp xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của hai người trở lên, có thể cùng một lần hoặc nhiều lần khác nhau. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là trường hợp người phạm tội làm nhục người khác đã sử dụng chức vụ, quyền hạn của mình để dễ dàng thực hiện tội phạm. Tính nguy hiểm của những trường hợp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội làm nhục người khác là ở chỗ, chúng không những xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, mà còn xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước. Phạm tội đối với người đang thi hành công vụ là trường hợp xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự mà người bị hại là người đang thi hành công vụ. Công vụ ở đây được hiểu là những công việc vì lợi ích chung mà việc thực hiện công việc đòi hỏi người thi hành phải có những quyền nhất định đối với công dân khác. Tính nguy hiểm của những trường hợp làm nhục người khác đối với người đang thi hành công vụ là ở chỗ chúng không chỉ xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của con người, mà còn xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự công cộng, cản trở hoạt động chung của xã hội, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh, trật tự, bởi lẽ khi thi hành công vụ, người bị hại thay mặt Nhà nước, chứ không phải nhân danh cá nhân họ. Phạm tội đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình là trường hợp làm nhục người khác mà người bị hại là người có quan hệ đặc biệt đối với người phạm tội. Người dạy dỗ người phạm tội là thầy, cô giáo trong hệ thống các trường đào tạo, giáo dục của Nhà nước hoặc của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, cũng có thể chỉ là người dạy dỗ theo một hợp đồng dân sự như gia sư, huấn luyện viên… Người nuôi dưỡng người phạm tội là người có trách nhiệm nuôi dưỡng người phạm tội do quan hệ huyết thống như bố mẹ đối với con cái, ông bà đối với cháu, anh chị đối với em; do quan hệ hôn nhân như người vợ hoặc người chồng không còn khả năng lao động phải sống nhờ vào người vợ hoặc chồng; có thể do quan hệ xã hội mà phát sinh mối quan hệ giữa người có trách nhiệm nuôi dưỡng với người được nuôi dưỡng như nuôi dưỡng trẻ mồ côi, nuôi dưỡng thương bệnh binh, nuôi dưỡng người cao tuổi cô đơn, nuôi dưỡng bệnh nhân… Người chăm sóc người phạm tội là những người theo nghĩa vụ hoặc hợp đồng có trách nhiệm chăm sóc người phạm tội. Nói chung, người có trách nhiệm nuôi dưỡng, đồng thời có trách nhiệm chăm sóc, nhưng cũng có trường hợp người có trách nhiệm chăm sóc, nhưng không có trách nhiệm nuôi dưỡng. Người chữa bệnh cho người phạm tội là những người thầy thuốc như bác sĩ, y tá, nhân viên y tế; họ có thể đồng thời là người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người phạm tội, nhưng có thể chỉ chữa bệnh cho người phạm tội, còn chăm sóc, nuôi dưỡng người phạm tội là người khác. Trong mối quan hệ đặc biệt với những người kể trên, người phạm tội hơn ai hết phải biết ơn và kính trọng người bị hại. Với hành vi phạm tội của mình, người phạm tội làm nhục người khác không chỉ vi phạm pháp luật hình sự, mà còn vi phạm nghiêm trọng đạo lý làm con, cháu, làm học trò, làm người được nuôi dưỡng. Đây là trường hợp phạm tội vừa bị pháp luật hình sự trừng trị, vừa bị dư luận xã hội lên án về mặt đạo đức. Theo quy định tại khoản 3 Điều 121, người phạm tội làm nhục người khác còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung: cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm. 1.2.3. So sánh tội làm nhục người khác với một số tội phạm khác có liên quan 1.2.3.1. So sánh tội làm nhục người khác với các tội: tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục đồng đội. Trước hết, cần phân biệt khách thể của tội làm nhục người khác với khách thể của các tội: tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục đồng đội. Đối với tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên: trong quân đội, các quân nhân phải giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng và nghiêm chỉnh tuân theo những yêu cầu về sinh hoạt xã hội. Trong quan hệ cấp trên, cấp dưới, mọi quân nhân phải kính trọng và tuyệt đối phục tùng người chỉ huy hoặc cấp trên. Hành vi làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên xâm phạm nghiêm trọng mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của người chỉ huy hoặc cấp trên. Đối với tội làm nhục cấp dưới: trong quan hệ chỉ huy, phục tùng, cấp trên, cấp dưới, một mặt cấp dưới phải tuyệt đối phục tùng lãnh đạo, chỉ huy, chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh, mặt khác, cấp trên cũng phải tôn trọng danh dự, nhân phẩm, thương yêu, giúp đỡ cấp dưới hoàn thành nhiệm vụ. Khi thực hiện nhiệm vụ, người chỉ huy hoặc cấp trên phải căn cứ vào chức trách, quyền hạn được giao để tổ chức, giáo dục, huấn luyện cán bộ, chiến sĩ thuộc đơn vị mình. Pháp luật nghiêm cấm người chỉ huy hoặc cấp trên dùng các biện pháp quân phiệt đối với cấp dưới. Hành vi làm nhục cấp dưới là trái với truyền thống, bản chất tốt đẹp của quân đội ta. Hành vi làm nhục cấp dưới xâm phạm nghiêm trọng mối quan hệ giữa chỉ huy với cấp dưới, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của cấp dưới. Đối với tội làm nhục đồng đội: hành vi làm nhục đồng đội xâm phạm nghiêm trọng mối quan hệ đoàn kết giữa các quân nhân trong nội bộ quân đội, xâm phạm danh dự, nhân phẩm của đồng đội. Mặt khác, cần phân biệt chủ thể của tội làm nhục người khác với chủ thể của các tội: tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục đồng đội. Đối với tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên: chủ thể của tội phạm là những người phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm nghĩa vụ, trách nhiệm của quân nhân, bao gồm: quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị, dân quân, tự vệ và công dân được trưng tập vào phục vụ quân đội: khi giữa họ với chỉ huy hoặc cấp trên đang ở trong hoàn cảnh có mối quan hệ công tác. Trường hợp nhiều người thuộc diện nêu trên cố ý cùng thực hiện hành vi làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, thì trên cơ sở mối quan hệ chỉ huy, phục tùng để quyết định tội danh với từng người phạm tội. Nếu giữa người phạm tội và người bị hại không có mối quan hệ chỉ huy, phục tùng, thì người đó sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội làm nhục đồng đội được quy định tại Điều 321 Bộ luật hình sự năm 1999. Đối với tội làm nhục cấp dưới: chủ thể của tội phạm này phải là người chỉ huy hay cấp trên của người bị hại trong quan hệ công tác. Đối với tội làm nhục đồng đội: chủ thể của tội phạm này là những người được quy định tại Điều 315 Bộ luật hình sự năm 1999. Đó là quân nhân tại ngũ, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện, công dân được trưng tập vào phục vụ trong quân đội, dân quân, tự vệ phối thuộc với quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, nếu giữa họ và người bị hại không có quan hệ chỉ huy, phục tùng. Do vậy, người phạm tội và người bị hại có thể là những người cùng cấp bậc, cùng chức vụ hoặc không cùng cấp bậc, chức vụ. 1.2.3.2. So sánh tội làm nhục người khác với tội bức tử. Trong quy định về các hành vi của tội bức tử có hành vi "làm nhục người khác" dẫn đến hậu quả "người đó tự sát". Như vậy, trong dấu hiệu hành vi của tội bức tử có một loại hành vi tương tự được quy định trong tội làm nhục người khác. Tuy nhiên, trong cấu thành tội phạm tội bức tử, ngoài hành vi "làm nhục người khác" còn có các dấu hiệu bắt buộc khác, đó là nhân thân (là người phụ thuộc người phạm tội) và hậu quả (tự sát). Hành vi làm nhục người khác theo Điều 100 có thể hiểu đó là hành vi "xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm", và nếu hành vi đó có kèm theo hai dấu hiệu: "là người lệ thuộc người phạm tội" và hậu quả làm người đó "tự sát" thì sẽ bị khởi tố về tội bức tử. Đường lối xử lý hình sự với tội bức tử nghiêm khắc hơn tội làm nhục người khác. Người phạm tội tại khoản 1 Điều 100 có khung hình phạt "tù từ hai năm đến bảy năm", khoản 1 Điều 121 có khung hình phạt "cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm". Khoản 2 Điều 100 có khung hình phạt "tù từ năm năm đến mười hai năm", khoản 2 Điều 121 có khung hình phạt "tù từ một năm đến ba năm". 1.2.3.3. So sánh tội làm nhục người khác với tội hành hạ người khác. Việc quy định thế nào là "đối xử tàn ác" trong tội hành hạ người khác rất quan trọng đối với việc định tội danh. Bởi lẽ, tuy trong phần hành vi của tội hành hạ người khác chỉ quy định hành vi "đối xử tàn ác", khác với các hành vi trong tội bức tử "đối xử tàn ác, làm nhục, ức hiếp, ngược đãi" và hành vi trong tội làm nhục người khác "xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm người khác", nhưng theo tinh thần của các điều luật, hành vi "đối xử tàn ác" về mặt tinh thần cũng được coi là dấu hiệu cấu thành tội hành hạ người khác, đồng thời đó cũng là những hành vi đặc trưng của tội làm nhục người khác. Do vậy, nếu hành vi "xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người lệ thuộc mình" và không có hậu quả tự sát xảy ra thì người phạm tội có thể bị truy cứu theo Điều 110 Bộ luật hình sự. 1.2.3.4. So sánh tội làm nhục người khác với tội vu khống. Tội vu khống giống tội làm nhục người khác ở dấu hiệu: xâm hại đến danh dự, nhân phẩm người khác. Hành vi đặc trưng của tội vu khống "bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt" cũng là một trong những hành vi đặc trưng của tội làm nhục người khác. Tuy nhiên, tội vu khống phân biệt với tội làm nhục người khác ở những điểm sau: Thứ nhất, hành vi cấu thành tội vu khống không đa dạng như tội làm nhục người khác. Ngoài ra, tội vu khống có một loại hành vi đặc trưng khác, đó là "bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền", nếu có hành vi trên thì người phạm tội sẽ bị truy cứu theo Điều 122 Bộ luật hình sự năm 1999. Tội làm nhục người khác và tội vu khống đều dẫn đến hậu quả làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhân phẩm, danh dự của người khác, nhưng hành vi khách quan khác nhau. Hành vi khách quan của tội làm nhục người khác thể hiện bằng lời nói, xỉ nhục ở nơi đông người hoặc hành động có tính chất bỉ ổi, còn hành vi khách quan của tội vu khống thể hiện ở việc bịa đặt, loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác hoặc bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ với cơ quan có thẩm quyền. Thứ hai, mục đích tội vu khống hướng tới bao gồm: xúc phạm danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, mục đích của tội làm nhục người khác chỉ nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm. Như vậy, hành vi bịa đặt, loan truyền tin tức thất thiệt nhằm gây thiệt hại đến danh dự, nhân phẩm là dấu hiệu có trong cả hai cấu thành tội phạm tội làm nhục người khác và tội vu khống. Tuy nhiên, thông thường hành vi cấu thành tội vu khống thường kèm theo mục đích nhằm bôi nhọ danh dự và gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác trước các cơ quan, tổ chức hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. 1.2.4. Ý nghĩa của việc quy định tội làm nhục người khác trong Bộ luật hình sự 1999 Tội làm nhục người khác lần đầu tiên được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 của nước ta, có ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự hết sức to lớn. Nó đánh dấu sự trưởng thành về kỹ thuật lập pháp hình sự của nước ta trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng. Việc chính thức ghi nhận về mặt pháp lý hình sự tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành là một biểu hiện cụ thể của việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người được ghi nhận tại Điều 50 Hiến pháp năm 1992: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, những quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật" [7, tr.139]. Việc quy định tội làm nhục người khác trong Bộ luật hình sự năm 1985, cũng như trong Bộ luật hình sự năm 1999 có những ý nghĩa sau đây: Thứ nhất, biểu hiện cụ thể mối quan hệ chặt chẽ giữa đạo đức và pháp luật hình sự. Đạo đức và pháp luật là những hình thái ý thức xã hội, có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình điều chỉnh hành vi của con người. Pháp luật lấy đạo đức làm cơ sở, nhiều quy tắc, chuẩn mực đạo đức được Nhà nước thừa nhận đã trở thành quy phạm pháp luật và Nhà nước cũng sử dụng pháp luật để bảo vệ đạo đức. Bộ luật hình sự năm 1985, cũng như Bộ luật hình sự năm 1999 quy định tội làm nhục người khác, điều đó có nghĩa, các giá trị đạo đức như nhân phẩm, danh dự của con người được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Thông qua việc quy định hành vi xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của con người là tội phạm và phải chịu hình phạt – biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, pháp luật hình sự đóng vai trò tác động mạnh mẽ đến sự hình thành, phát triển nền đạo đức mới, đạo đức hướng tới con người, tôn trọng con người và vì con người. Đạo đức nói chung, các giá trị đạo đức như nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, một mặt kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống, phản ánh những yêu cầu của sự phát triển kinh tế – xã hội, nhưng mặt khác, nó phải bảo đảm phù hợp với những yêu cầu của pháp luật nói chung, pháp luật hình sự nói riêng, khuyến khích công dân tuân thủ pháp luật, trong đó có pháp luật hình sự. Thứ hai, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh phòng, chống các hành vi xâm phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh sự của người khác. Đạo luật hình sự giữ vị trí hết sức quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, tội làm nhục người khác nói riêng, bởi vì chỉ văn bản này mới quy định hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác là tội phạm và hình phạt có thể áp dụng đối với người đã gây ra hành vi đó. Việc Nhà nước quy định tội làm nhục người khác và hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội là nhân danh ý chí của nhân dân, là sự thể hiện thái độ của nhân dân (thông qua Nhà nước đối với tội phạm). Quy phạm pháp luật hình sự về tội làm nhục người khác vừa có tính chất cấm chỉ, vừa có tính chất bắt buộc. Quy phạm này, một mặt cấm người ta không được thực hiện hành vi xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác bằng sự răn đe áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, mặt khác, quy phạm pháp luật hình sự này cũng buộc các cơ quan có trách nhiệm khi phát hiện có dấu hiệu của tội làm nhục người khác, thì phải điều tra, truy tố, xét xử một cách nghiêm minh, buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự. Thứ ba, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với việc bảo vệ và phát triển quyền con người nói chung, nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhà nước ta khẳng định, con nguời là trung tâm của các chính sách kinh tế – xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người nói chung, bảo vệ nhân phẩm, danh dự của con người nói riêng, là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, bảo đảm thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hiện đại hóa đất nước. Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định tội làm nhục người khác, cũng như các quy định khác về quyền con người trong hệ thống pháp luật Việt Nam chứng tỏ, mọi chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con người và cho con người. Thứ tư, bảo vệ danh dự, nhân phẩm của công dân, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Việc pháp luật hình sự hiện hành quy định tội làm nhục người khác góp phần quan trọng trong việc bảo vệ danh dự, nhân phẩm của con người, đồng thời góp phần tích cực vào nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các cơ quan có thẩm quyền phải áp dụng đúng đắn những quy định của pháp luật hình sự về tội phạm nói chung, tội làm nhục người khác nói riêng trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Việc áp dụng những quy định của pháp luật hình sự về tội làm nhục người khác một cách tùy tiện, không đúng pháp luật, bị coi là những hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, bởi nó không những xâm hại hoạt động đúng đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, mà còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Do vậy, việc quy định một cách chặt chẽ tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự và việc áp dụng đúng đắn nó trong thực tiễn, thể hiện sự tôn trọng quyền con người của Nhà nước ta, bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội trong hoạt động điều tra truy tố, xét xử nói chung và điều tra, truy tố, xét xử về tội làm nhục người khác nói riêng. Việc quy định tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự hiện hành, ngoài ý nghĩa về mặt lập pháp hình sự, còn có ý nghĩa nâng cao nhận thức của nhân dân nói chung, cán bộ các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng về sự cần thiết phải tôn trọng nhân phẩm, danh dự của con người. Mặt khác, việc quy định cụ thể về tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự, còn giúp các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm vững nội dung, bản chất pháp lý, từ đó áp dụng đúng đắn quy phạm pháp luật hình sự này, góp phần nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tội làm nhục người khác, động viên quần chúng nhân dân tham gia tích vào cuộc đấu tranh này. 1.3. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI Nghiên cứu những quy định về tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự của Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển, Liên bang Nga, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào cho thấy, các nước quy định rất khác nhau về tội phạm này. Bộ luật hình sự Nhật Bản quy định các tội xâm phạm danh dự tại chương XXXIV, gồm hai tội nói xấu người và sỉ nhục người khác. Điều 231 Bộ luật quy định: “Người nào công khai sỉ nhục người khác thì bị phạt giam hình sự hoặc bị phạt tiền về tội hình sự nhỏ, thậm chí nếu người đó thực hiện hành vi sỉ nhục mà không đưa ra sự kiện” [12, tr. 64]. Điều 232 Bộ luật này còn quy định: “1. Các tội phạm quy định tại chương này chỉ bị khởi tố căn cứ vào đơn yêu cầu. 2. Khi người làm đơn yêu cầu là Hoàng đế, Nữ hoàng, Hoàng hậu góa, Hoàng thái hậu góa hoặc người thừa kế ngôi hoàng đế và Thủ tướng Chính phủ thì những người đó đều nhân danh cá nhân hoặc khi người làm đơn yêu cầu là Vua hoặc Tổng thống của một nước ngoài, là người đại diện của nước ngoài hữu quan thì những người đó cũng đều nhân danh cá nhân” [12, tr. 64]. Bộ luật hình sự Vương quốc Thụy Điển quy định về tội làm nhục người khác tại Điều 2 chương 5– Các tội xúc phạm nhân phẩm, danh dự của người khác: “Người nào xỉ vả người khác bằng lời lẽ lăng mạ hoặc có hành động khác mang tính chất sỉ nhục đối với người đó, thì bị kết án về tội làm nhục người khác và bị phạt tiền nếu hành vi này không bị xử phạt theo Điều 1 hoặc Điều 2. Phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tiền hoặc bị phạt tù đến 6 tháng” [32, tr. 13]. Điều 5 của Bộ luật còn quy định: “Các tội nói từ Điều 1 đến Điều 3 có thể không bị truy tố trừ trường hợp có đơn yêu cầu của người bị hại. Tuy nhiên, nếu người bị hại không có đơn yêu cầu truy tố nhưng vì lợi ích công cộng thì công tố viên có thể truy tố các tội: 1. Vu khống và vu khống người khác trong trường hợp nghiêm trọng; 2. Làm nhục nhà chức trách hoặc lăng mạ nhà chức trách khi thi hành công vụ; 3. Làm nhục người khác vì lý do sắc tộc, màu da, nguồn gốc dân tộc hoặc tôn giáo của người đó; 4. Làm nhục người khác vì lý do bệnh đồng tình luyến ái của người đó. Hành vi xúc phạm danh dự và nhân phẩm người đã chết có thể bị truy tố theo yêu cầu của người vợ hoặc chồng còn sống, những người thừa kế trực tiếp, cha, mẹ hoặc anh chị em ruột của người chết. Công tố viên phải truy tố hành vi nói trên; việc truy tố là vì lợi ích công cộng do nhũng lý do đặc biệt. Hành vi xúc phạm nguyên thủ quốc gia của một nước ngoài hiện đang ở Thụy Điển hoặc đại diện của một nước ngoài tại Thụy Điển có thể bị truy tố theo các Điều 1 – 3 nói trên” [32, tr. 14]. Như vậy, tương tự như pháp luật hình sự Nhật Bản, pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển quy định tội làm nhục người khác có thể không bị truy cứu trách nhiệm hình sự trừ trường hợp có đơn yêu cầu của người bị hại. Tuy nhiên, khác với pháp luật hình sự Nhật Bản, pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển quy định cụ thể các trường hợp vì lợi ích công cộng, công tố viên phải truy tố về tội làm nhục người khác. Ngoài ra, pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển còn quy định hành vi xúc phạm danh dự và nhân phẩm người đã chết có thể bị truy tố theo yêu cầu của người vợ hoặc chồng còn sống, những người thừa kế trực tiếp, cha, mẹ hoặc anh chị em ruột của người chết. Đây là những quy định mang tính nhân bản sâu sắc trong pháp luật hình sự của nước này. Trong Bộ luật hình sự năm 1996 của Liên bang Nga, tội làm nhục người khác được quy định tại Điều 131: “1. Làm nhục, nghĩa là hạ thấp danh dự và nhân phẩm của người khác, bằng hình thức thô tục. - Thì bị phạt tiền đến 100 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương hay thu nhập khác của người bị kết án trong thời gian đến 1 tháng, hoặc bị phạt lao động bắt buộc đến 120 giờ, hoặc lao động cải tạo đến 6 tháng. 2. Làm nhục trên diễn đàn công cộng, trong tác phẩm được công bố công khai hay trên các phương tiện thông tin đại chúng. - Thì bị phạt tiền đến 200 lần mức thu nhập tối thiểu hay mức lương hay thu nhập khác của người bị kết án trong thời gian đến 2 tháng, hoặc bị phạt lao động bắt buộc đến 180 giờ, hoặc lao động cải tạo đến 1 năm” [33, tr. 84 –85]. Điều 328 Bộ luật này còn quy định tội xúc phạm quân nhân: “1. Quân nhân nào xúc phạm đồng đội trong khi thực hiện các nghĩa vụ trong quân đội hoặc liên quan đến việc thực hiện các nghĩa vụ đó thì phạt hạn chế phục vụ quân đội đến 6 tháng hoặc bị phạt giữ ở đơn vị kỷ luật của quân đội đến 6 tháng. 2. Cấp dưới xúc phạm người chỉ huy hoặc người chỉ huy xúc phạm cấp dưới trong khi thực hiện các nghĩa vụ trong quân đội hoặc liên quan đến việc thực hiện các nghĩa vụ đó, thì bị phạt hạn chế phục vụ quân đội đến 1 năm hoặc bị phạt giữ ở đơn vị kỷ luật của quân đội đến 1 năm” [33, tr. 136] Như vậy, khác với pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển, pháp luật hình sự Nhật Bản, pháp luật hình sự hiện hành của Liên bang Nga có quy phạm định nghĩa về khái niệm làm nhục người khác. Ngoài ra, pháp luật hình sự Liên bang Nga còn có quy định về tội xúc phạm quân nhân. Tội xúc phạm quân nhân trong pháp luật hình sư Liên bang Nga có nhiều điểm tương tự như tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục đồng đội trong pháp luật hình sự của nước ta. Bộ luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào quy định tội xúc phạm danh dự người khác tại Điều 87, tội chửi rủa lăng nhục người khác tại Điều 88, tội xúc phạm mồ mả và thanh danh của người đã chết tại Điều 89. Điều 87 Bộ luật quy định: “Người nào xúc phạm danh dự của người khác bằng lời nói, viết hoặc những hình thức khác thì bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm hoặc cải tạo không tước quyền tự do hoặc phạt tiền từ 5.000 đến 10.000 kíp. Người nào đặt ra những điều không có thực bằng lời nói, viết hoặc bằng các hình thức khác xúc phạm nghiêm trọng đến danh dự của người khác thì bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm hoặc bị phạt tiền từ 5000 kíp đến 10.000 kíp” [11, tr. 46]. Như vậy, theo pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, hành vi xúc phạm danh dự của người khác và hành vi vu khống người khác được quy định chung trong một điều luật quy định về tội xúc phạm danh dự của người khác. Điều 88 Bộ luật còn quy định về tội chửi rủa lăng nhục người khác: “Người nào dùng lời nói, viết hoặc thực hiện hành vi xấu xa, trụy lạc xúc phạm nghiêm trọng danh dự của người khác thi bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm hoặc cải tạo không tước quyền tự do hoặc phạt tiền từ 5.000 kíp đến 10.000 kíp” [11, tr. 28 – 29]. Ngoài ra, Điều 89 Bộ luật này còn quy định về tội xúc phạm mồ mả và thanh danh của người đã chết: “Người nào có hành động hoặc dùng lời nói xấu xa đối với hài cốt, thanh danh của người đã chết, ảnh hưởng xấu tới sự tôn trọng của quần chúng nhân dân với người đã chết thì bị phạt tước quyền tự do từ 3 tháng đến 1 năm hoặc cải tạo không tước quyền tự do hoặc phạt tiền từ 5.000 kíp đến 10.000 kíp” [11, tr. 29]. Như vậy, tương tự với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển, trong pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người đã chết cũng bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi đó phải chịu hình phạt. Đây là điểm khác biệt so với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự của nước ta. Từ sự phân tích ở trên, có thể rút ra một số nhận xét như sau: Thứ nhất, những quy định về tội làm nhục người khác trong pháp luật hình sự của các nước: Nhật Bản, Vương quốc Thụy Điển, Liên bang Nga, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào rất khác nhau, phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của từng nước. Thứ hai, pháp luật hình sự hiện hành của Liên bang Nga có quy phạm định nghĩa về khái niệm làm nhục người khác. Ngoài ra, pháp luật hình sự Liên bang Nga còn có quy định về tội xúc phạm quân nhân. Tội xúc phạm quân nhân trong pháp luật hình sư Liên bang Nga có nhiều điểm tương tự như tội làm nhục người chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục đồng đội trong pháp luật hình sự của nước ta. Thứ ba, tương tự với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự Vương quốc Thụy Điển, trong pháp luật hình sự Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, hành vi xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người đã chết cũng bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi đó phải chịu hình phạt. Đây là điểm khác biệt so với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự của nước ta. Ngoài ra, trong pháp luật hình sự hiện hành của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, hành vi xúc phạm danh dự của người khác và hành vi vu khống người khác được quy định chung trong một điều luật quy định về tội xúc phạm danh dự của người khác. Đây cũng là điểm khác biệt so với quy định tương ứng trong pháp luật hình sự của nước ta. Chương 2 TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN, ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 2.1 TÌNH HÌNH TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2005 2.1.1. Thực trạng và động thái của tình hình tội làm nhục người khác Danh dự, nhân phẩm là tài sản quý giá, là phần bất khả xâm phạm của con người. Trong những năm gần đây, Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, cơ quan và tổ chức đã thể hiện sự quan tâm của mình qua hàng loạt các quy định và các biện pháp chế tài áp dụng đối với các hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến danh dự, nhân phẩm của con người. Tuy nhiên, các hành vi “làm nhục người khác” đang có những diễn biến phức tạp. Theo số liệu thống kê của Toà án nhân dân tối cao, từ năm 1997 đến năm 2005, số vụ án xét xử về tội làm nhục người khác có xu hướng giảm nhưng không đáng kể, cụ thể năm 1997: 115 vụ với 177 bị cáo ; năm 1998: 162 vụ với 241 bị cáo; năm 1999: 144 vụ với 228 bị cáo, năm 2000: 106 vụ với 164 bị cáo; năm 2001: 86 vụ với 125 bị cáo; năm 2002: 89 vụ với 133 bị cáo; năm 2003: 96 vụ với 149 bị cáo; năm 2004: 56 vụ với 84 bị cáo; năm 2005: 61 vụ với 78 bị cáo. Để có cái nhìn tổng quan hơn về số vụ án về tội làm nhục người khác đã xét xử so với tổng số các vụ án hình sự, ta có thể nhìn vào bảng số liệu sau: Bảng 2.1: Số vụ án về tội làm nhục người khác/ Tổng số các vụ án hình sự: Năm Tội làm nhục người khác Tổng số các vụ án hình sự Tỷ lệ % Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo Vụ án Bị cáo 1997 115 177 42 440 61 962 0.3% 0.3% 1998 162 241 48 670 62 136 0.3% 0.4% 1999 144 228 50 461 76 302 0.3% 0.3% 2000 106 164 41 942 61 491 0.3% 0.3% 2001 86 125 49 712 58 222 0.2% 0.2% 2002 89 133 44 196 61 256 0.2% 0.2% 2003 96 149 49 373 66 232 0.2% 0.2% 2004 56 84 52 999 75 453 0.1% 0.1% 2005 61 78 49 845 79 193 0.1% 0.1% Tổng 915 1 379 429 638 602 247 0.2% 0.2% Nguồn: TANDTC Nhìn vào bảng số liệu trên, ta có thể nhận thấy qua 9 năm qua, số vụ án và bị cáo của tội làm nhục người khác diễn biến theo xu hướng giảm, tuy nhiên từ năm 1997 đến năm 2000, số vụ án và bị cáo bị xét xử về tội phạm này vẫn ở mức cao. Tội làm nhục người khác là một tội phạm ít nghiêm trọng nên phần lớn thuộc thẩm quyền xét xử của toà án cấp huyện, chỉ có một số ít các vụ án được toà án cấp tỉnh xét lại bản án theo thủ tục phúc thẩm, tuy nhiên số lượng này không nhiều. Theo thống kê của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, các vụ án về tội làm nhục người khác được xét xử theo thủ tục phúc thẩm trong các năm 1997 là 2 vụ, 1998: 2 vụ; 1999: 1 vụ; 2000: 0 vụ; 2001: 0 vụ; 2002: 2 vụ; 2003: 2 vụ; 2004: 2 vụ. Như vậy, trong vòng 8 năm, số vụ án về tội làm nhục người khác được xét xử theo thủ tục phúc thẩm tại Toà án nhân dân thành phố Hà Nội chỉ có 11 vụ, chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng số các vụ án đã giải quyết. Trong các năm 1997, 1998, 1999, 2000 tội làm nhục người khác chỉ chiếm 0,3% tổng số vụ án hình sự và 0,4% tổng số các bị cáo bị đưa ra xét xử. Từ năm 2001 đến năm 2003, số vụ án về tội làm nhục người khác giảm xuống dưới 100 vụ/ năm nhưng vẫn ở mức cao, năm 2001 có 86 vụ bị đưa ra xét xử, số vụ án bị đưa ra xét xử năm 2002 là 89 vụ và năm 2003 là 93 vụ. Như vậy, trong 3 năm này, số vụ án về tội làm nhục người khác có chiều hướng tăng. Tuy nhiên, các vụ án và bị cáo về tội làm nhục người khác chỉ chiếm 0,2% so với tổng số các vụ án và bị cáo hình sự, giảm 0,1% so với những năm trước. Trong hai năm 2004, 2005, số vụ án về tội làm nhục người khác giảm xuống rõ rệt. Cụ thể năm 2004, chỉ còn 56 vụ với 84 bị cáo, năm 2005, dù số vụ án tăng lên 61 vụ nhưng số bị cáo thấp hơn, chỉ còn 78 bị cáo. So với tổng số các vụ án và bị cáo bị xét xử, tỷ lệ các vụ án và bị cáo được đưa ra xét xử về tội làm nhục người khác chỉ chiếm 0,1%. Đây là một chỉ số đáng chú ý của tình hình tội phạm này. Tuy nhiên, các số liệu thống kê của Toà án chưa hẳn đã phản ánh chính xác thực trạng tội phạm trên, bởi lẽ trên thực tế nhận thức của người dân về tội làm nhục người khác còn thấp, cũng như giữa người bị hại và người vi phạm thường có mối quan hệ thân thuộc, cho nên tỷ lệ tội phạm ẩn tương đối cao. Để có sự đánh giá khách quan về sự quan tâm giải quyết của Toà án các cấp trong việc xử lý tội phạm trên, ta có thể nhìn vào bảng số liệu sau: Bảng 2.2. Số vụ án đã xét xử/ tổng số án phải giải quyết: Năm Số vụ án phải giải quyết Số vụ án đã xét xử Tỷ lệ % số vụ án phải giải quyết/ số vụ án đã xét xử Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo 1997 130 201 115 177 88% 88% 1998 173 259 162 241 94% 93% 1999 155 247 144 228 93% 92% 2000 138 201 106 164 77% 82% 2001 100 151 86 125 86% 83% 2002 103 157 89 133 86% 85% 2003 117 184 96 149 82% 81% 2004 69 109 56 84 81% 77% 2005 76 101 61 78 80% 77% Tổng 1 061 1 610 915 1 379 86% 86% Nguồn: TANDTC Như vậy, tổng số vụ án thụ lý qua các năm đều chiếm ở mức tương đối cao, qua bảng số liệu của 9 năm, ta có thể chia làm ba giai đoạn: Từ năm 1997 đến năm 2000: Trong 4 năm này, các vụ án về tội làm nhục người khác xảy ra ở mức cao, tuy nhiên Toà án các cấp rất quan tâm giải quyết và xét xử hầu hết các vụ án đã thụ lý. Năm 1997, trong tổng số 130 vụ án và 201 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 5 vụ với 6 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 12 vụ với 25 bị cáo, đưa ra xét xử 115 vụ với 177 bị cáo, chiếm 88% tổng số vụ án thụ lý. Năm 1998, trong tổng số 173 vụ với 259 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 10 vụ với 17 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 12 vụ với 18 bị cáo, đưa ra xét xử 162 vụ với 241 bị cáo, chiếm 94% tổng số án thụ lý. Năm 1999, trong tổng số 155 vụ với 247 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 5 vụ với 7 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 20 vụ với 13 bị cáo, đưa ra xét xử 144 vụ với 228 bị cáo, chiếm 93% tổng số án thụ lý. Năm 1998 và 1999 là hai năm có tỷ lệ các vụ án đưa ra xét xử/ tổng số các vụ án thụ lý cao nhất trong vòng 9 năm. Năm 2000, dù số vụ án và bị cáo vẫn ở mức cao: 138 vụ với 201 bị cáo, nhưng chỉ có 104 vụ án với 164 bị cáo được đưa ra xét xử, chiếm 77% tổng số án thụ lý, đây là năm có tỷ lệ các vụ án đưa ra xét xử thấp nhất trong vòng 9 năm. Từ năm 2001 đến năm 2003: Tuy số án thụ lý vẫn ở mức trên 100 vụ, nhưng có chiều hướng giảm so với 4 năm trước. Cụ thể: Năm 2001: trong tổng số 100 vụ với 151 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 4 vụ với 8 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 6 vụ với 11 bị cáo, đưa ra xét xử 86 vụ với 125 bị cáo, chiếm 86% tổng số án thụ lý. Năm 2002: trong tổng số 103 vụ với 157 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 3 vụ với 6 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 10 vụ với 16 bị cáo, đưa ra xét xử 89 vụ với 133 bị cáo, chiếm 86% tổng số án thụ lý. Năm 2003: trong tổng số 117 vụ với 184 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 3 vụ với 9 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 13 vụ với 17 bị cáo, đưa ra xét xử 96 vụ với 149 bị cáo, chiếm 82% tổng số án thụ lý. Năm 2003, tỷ lệ các vụ án đưa ra xét xử/ tổng số án thụ lý giảm đi đáng kể so với các năm trước, một phần do số lượng các vụ án về tội làm nhục người khác giảm, một phần do đã bước đầu áp dụng thành công công tác hoà giải cơ sở. Từ năm 2004 và 2005: Số lượng các vụ án thụ lý về tội làm nhục người khác giảm rõ nét. Năm 2004: trong tổng số 69 vụ với 109 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 2 vụ với 2 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 4 vụ với 10 bị cáo, đưa ra xét xử 56 vụ với 84 bị cáo, chiếm 81% tổng số án thụ lý. Năm 2005: Trong tổng số 76 vụ với 101 bị cáo, Toà án các cấp đã đình chỉ 2 vụ với 4 bị cáo, hoàn lại Viện kiểm sát 10 vụ với 14 bị cáo, đưa ra xét xử 61 vụ với 78 bị cáo, chiếm 80% tổng số án thụ lý. Có thể nói, năm 2005 là năm có tỷ lệ các bị cáo được đưa ra xét xử thấp nhất trong vòng 9 năm. Tuy nhiên, cần thấy rõ là tội làm nhục người khác có diễn biến rất phức tạp, trong đó tình hình tội phạm ẩn tương đối cao, theo thống kê chưa đầy đủ hàng năm tỷ lệ tội phạm bị phát hiện chỉ chiếm khoảng 70- 75% tội phạm xảy ra trên thực tế. Bên cạnh đó, việc không phân biệt rõ ràng ranh giới giữa xử lý hình sự với hành chính, dân sự cũng là một nguyên nhân khiến tình hình tội phạm ẩn càng thêm phức tạp. Nhiều vi phạm mang tính hình sự nhưng chỉ bị xử lý hành chính, dân sự. Ngoài ra, do đặc thù của các tội xâm phạm đến "danh dự, nhân phẩm" - một loại đối tượng phi vật thể, cho nên căn cứ để xác định tội phạm phụ thuộc rất nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. So với các tội phạm có cấu thành vật chất như tội cố ý gây thương tích (căn cứ giấy xác nhận tỷ lệ thương tật để xác định có hay không hành vi phạm tội và định khung hình phạt), các tội xâm phạm sở hữu (căn cứ vào giá trị tài sản bị xâm hại để định tội và định khung hình phạt), …. thì căn cứ định tội của tội làm nhục người khác là "xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm", chính vì vậy có nhiều trường hợp có tội phạm xảy ra trên thực tế nhưng do thời gian đã qua lâu hoặc không có người làm chứng, vật chứng nên các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền không có đủ cơ sở để khởi tố vụ án và bị can. Biểu đồ 1: Các vụ án về tội làm nhục người khác qua 9 năm. Biểu đồ 2. Các bị cáo về tội làm nhục người khác qua 9 năm: Trên đường biểu đồ về diễn biến tình hình tội phạm qua 9 năm, ta có thể nhận thấy tình hình các vụ án và bị cáo của tội làm nhục người khác có xu hướng giảm, đây là dấu hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, tội phạm này có tính chất tương đối phức tạp nên để đánh giá đúng mức độ nghiêm trọng của thực trạng tội phạm này chúng ta không chỉ căn cứ vào các số liệu thống kê mà còn thông qua nhiều kênh thông tin khác như các phương tiện thông tin đại chúng, các tài liệu báo cáo của các cơ quan ban ngành hữu quan như hành chính, dân sự, vv … Để xem xét mối tương quan và tỷ lệ tội làm nhục người khác với các tội phạm trong chương Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người, chúng ta có bảng 2.3 Bảng 2.3. So sánh tỷ lệ tội làm nhục người khác với nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm (Chương XII) Năm Tội làm nhục người khác Nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm Tỷ lệ tội làm nhục người khác/ Nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo 1997 115 177 6 814 9 524 2% 2% 1998 162 241 7 973 10 973 2% 2% 1999 144 228 7 416 10 129 2% 2% 2000 106 164 6 195 9 703 2% 2% 2001 86 125 6 795 8 823 1% 1% 2002 89 133 6 802 8 802 1% 2% 2003 96 149 7 323 9 685 1% 2% 2004 56 84 8 282 11 927 1% 1% 2005 61 78 7 794 11 251 1% 1% Tổng số 915 1 379 65 394 90 817 Nguồn: TANDTC Tội làm nhục người khác so với nhóm tội trong Chương XII chiếm số lượng thấp, từ năm 1997 đến 2000 số vụ án và bị cáo chiếm tỷ lệ 2% so với tổng số vụ án và bị cáo của nhóm tội chương XII. Từ năm 2001 đến năm 2005, số vụ án và bị cáo dao động trong khoảng từ 1% đến 2%, tuy nhiên, trong khoảng từ năm 2001 đến 2005, tổng số vụ án được xét xử về tội làm nhục người khác có xu hướng giảm đi rõ rệt, chỉ chiếm 1% trên tổng số vụ án của các tội trong Chương XII. Biểu đồ 3: Số vụ án tội làm nhục người khác và số vụ án của Chương XII qua 9 năm Biểu đồ 4: Bị cáo về tội làm nhục người khác và tổng số các bị cáo của Chương XII qua 9 năm Để làm rõ thêm cơ cấu, tính chất của tình hình tội làm nhục người khác, chúng ta xem xét mối tương quan và tỷ lệ tội làm nhục người khác với một số loại tội phạm trong chương Các tội xâm phạm tính mạnh, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người như tội bức tử, tội hành hạ người khác, tội vu khống. Bảng 2.4: So sánh tội làm nhục người khác với các tội bức tử; hành hạ người khác và tội vu khống. Năm Tội làm nhục người khác Tội vu khống Tội hành hạ người khác Tội bức tử Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo 1997 115 177 17 20 6 9 15 16 1998 162 241 20 32 0 0 17 19 1999 144 228 18 21 7 7 10 10 2000 106 164 7 7 6 7 10 10 2001 86 125 15 17 1 1 15 15 2002 89 133 16 20 0 0 7 7 2003 96 149 9 11 2 2 15 20 2004 56 84 14 18 5 8 1 1 2005 61 78 15 19 1 1 7 7 Tổng số 915 1 379 131 165 28 35 97 105 Nguồn: TANDTC Dựa vào bảng số liệu trên, ta có thể nhận thấy tội làm nhục người khác chiếm một tỷ trọng khá cao trong số các tội trên . Số liệu thống kê về tình hình tội vu khống qua 9 năm từ 1997 đến 2005 không có biến động nhiều, năm 1997 xét xử 17 vụ với 20 bị cáo; năm 1998 xét xử 20 vụ với 32 bị cáo (cao nhất trong vòng 9 năm); năm 1999 xét xử 18 vụ với 21 bị cáo; năm 2000 xét xử 7 vụ với 7 bị cáo (thấp nhất trong vòng 9 năm); năm 2001 xét xử 15 vụ với 17 bị cáo; năm 2002 xét xử 16 vụ với 20 bị cáo; năm 2003 xét xử 9 vụ với 11 bị cáo; năm 2004 xét xử 14 vụ với 18 bị cáo và năm 2005 xét xử 15 vụ với 19 bị cáo. Như vậy, so với số lượng các vụ án và bị cáo của tội làm nhục người khác, số vụ án và bị cáo của tội vu khống thấp hơn, chỉ chiếm khoảng từ 11 - 17% so với số vụ và số bị cáo của tội làm nhục người khác. Số liệu thống kê tội hành hạ người khác qua 9 năm từ 1997 đến 2005 cho thấy các vụ án và bị cáo bị xét xử về tội phạm này không nhiều, cụ thể năm 1997 chỉ có 6 vụ với 9 bị cáo; năm 1999 là 7 vụ với 7 bị cáo; năm 2000 là 6 vụ với 7 bị cáo; năm 2001 là 1 vụ với 1 bị cáo; năm 2003 là 2 vụ với 2 bị cáo; năm 2004 là 5 vụ với 8 bị cáo và năm 2005 là 1 vụ với 1 bị cáo. Tuy nhiên, tổng số án xét xử trên số án thụ lý của tội phạm này cao nhất trong nhóm 4 tội phạm phân tích ở trên, từ năm 2001 đến năm 2004, tỷ lệ án xét xử/ số án đã thụ lý là 100%, năm 2005 trong số 2 vụ án thụ lý, toà án đưa ra xét xử 1 vụ, 1 vụ hoàn trả lại hồ sơ cho VKS. Số liệu thống kê tội bức tử qua 9 năm từ năm 1997 đến 2005: Các vụ án và bị cáo bị xét xử về tội bức tử chiếm số lượng ít, năm 1997 có 15 vụ với 16 bị cáo; năm 1998 có 17 vụ với 19 bị cáo (cao nhất trong vòng 9 năm); năm 1999 và 2000 mỗi năm có 10 vụ với 10 bị cáo; năm 2001 có 15 vụ với 15 bị cáo; năm 2002 có 7 vụ với 7 bị cáo; năm 2003 có 15 vụ với 20 bị cáo; năm 2004 có 1 vụ với 1 bị cáo và năm 2005 có 7 vụ với 7 bị cáo. Tuy nhiên, trong bốn loại tội phạm phân tích trên đây, tội bức tử là tội phạm có tính nghiêm trọng cao nhất vì nó không chỉ xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, sức khoẻ mà còn xâm phạm đến quyền được sống của con người với hậu quả "tự sát" là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, do đó đường lối xử lý tội phạm này cũng nghiêm khắc hơn so với những tôi phạm phân tích ở trên, cụ thể năm 2001 có tới 11 trên tổng số 16 bị phạt tù (chiếm 69%), trong đó có 1 bị cáo bị phạt tù vói mức án từ 7 đến 10 năm ; năm 2002 có 7 trên tổng số 7 bị cáo bị phạt tù (chiếm 100%); năm 2003 có 16 trên tổng số 20 bị cáo bị phạt tù (chiếm 80%), trong đó có 5 bị cáo bị phạt tù với mức án từ 10 đến 15 tù, 1 bị cáo bị phạt tù vơi mức án từ 15 đến 20 năm. Năm 2004 chỉ xét xử 1 bị cáo và bị cáo này cũng bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn; năm 2005 xét xử 7 bị cáo thì cả 7 bị cáo đều bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn.. Trong tổng số 4 loại tội phạm trên, tội làm nhục người khác là tội phạm chiếm số lượng cao hơn cả, bảng 2.5 sẽ phân tích cụ thể tỷ trọng tội làm nhục người khác trên tổng số 4 loại tội phạm nói trên: Bảng 2.5: Tỷ lệ tội làm nhục người khác trong tổng số bốn tội phạm: tội làm nhục người khác, tội vu khống, tội bức tử, tôi hành hạ người khác. Năm Tội làm nhục người khác Tổng số VA, BC của 4 loại tội phạm trên Tỷ trọng tội làm nhục người khác/Tổng số Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo 1997 115 177 153 222 75% 80% 1998 162 241 199 292 81% 83% 1999 144 228 179 266 80% 86% 2000 106 164 129 188 82% 87% 2001 86 125 117 158 74% 79% 2002 89 133 112 160 79% 83% 2003 96 149 122 182 79% 82% 2004 56 84 76 111 74% 76% 2005 61 78 84 105 73% 74% Tổng số 915 1 379 1171 1684 78% 82% Nguồn: TANDTC Qua 9 năm, số liệu các vụ án và bị cáo của tội làm nhục người khác chiếm tỷ lệ cao, dao động trong khoảng 73% đến 87% trong tổng số các vụ án và bị cáo của 4 loại tội phạm nói trên. Biểu đồ 5: Biểu đồ so sánh vụ án tội làm nhục người khác với tổng số các vụ án của 4 tội trên: Biểu đồ 6: So sánh các bị cáo tội làm nhục người khác với tổng số bị cáo của 4 tội phạm trên: Ngoài ra, để đánh giá rõ hơn về thực trạng tội làm nhục người khác và những tội danh tương tự nhưng có dấu hiệu chủ thể đặc biệt như tội làm nhục chỉ huy hoặc cấp trên, tội làm nhục cấp dưới và tội làm nhục đồng đội, chúng ta có bảng số liệu sau: Bảng 2.6. So sánh tội làm nhục người khác với các tội quy định tại Điều 319, 320 và 321: Năm Tội làm nhục người khác Tội làm nhục chỉ huy hoặc cấp trên Tội làm nhục cấp dưới Tội làm nhục đồng đội Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo Vụ Bị cáo 1997 115 177 0 0 0 0 2 10 1998 162 241 0 0 0 0 0 0 1999 144 228 0 0 0 0 0 0 2000 106 164 0 0 0 0 0 0 2001 86 125 0 0 0 0 0 0 2002 89 133 0 0 0 0 0 0 2003 96 149 0 0 0 0 0 0 2004 56 84 0 0 1 1 5 7 2005 61 78 0 0 1 1 0 0 Tổng số 915 1 379 0 0 2 2 7 17 Nguồn: TANDTC Như vậy, với các bị cáo có dấu hiệu chủ thể đặc biệt trên, tỷ lệ phạm tội rất thấp, năm 1997 chỉ có 2 vụ và 10 bị cáo phạm tội làm nhục, dùng nhục hình, hành hung đồng đội, các năm 1998; 1999; 2000; 2001; 2002; 2003 không có vụ án và bị cáo phạm các tội này, đến năm 2004 chỉ có 1 vụ với 1 bị cáo phạm tội làm nhục cấp dưới theo quy định tại Điều 320 và 5 vụ với 7 bị cáo phạm tội làm nhục đồng đội theo quy định tại Điều 321; năm 2005 con số phạm tội là 1 vụ với 1 bị cáo phạm tội làm nhục cấp dưới. Để có cái nhìn tổng quan về sự đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của tội làm nhục người khác của Toà án nhân dân các cấp, chúng ta có thể nhìn vào bảng số liệu về hình phạt được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội làm nhục người khác. Bảng 2.7: Hình phạt được áp dụng Năm Tổng số bị cáo bị xét xử Cảnh cáo Cải tạo không giam giữ Kết án phạt tù nhưng cho hưởng án treo Tù có thời hạn <7 năm Tù có thời hạn ≤ 7 năm Hình phạt bổ sung Tỷ lệ án phạt tù/ tổng số bị cáo 1997 177 9 10 68 90 51% 1998 241 0 32 83 116 3 48% 1999 228 6 3 97 116  1 3 51% 2000 164 5 10 70 79 1 48% 2001 125 7 4 66 47 38% 2002 133 5 16 70 42 32% 2003 149 3 5 66 60 15 50% 2004 84 1 3 46 33 39% 2005 78 7 39 32 41% Tổng số 1379 44 90 605 615 16 7 46% Nguồn: TANDTC Nghiên cứu bảng số liệu về hình phạt được áp dụng cho các bị cáo phạm tội làm nhục người khác trong 9 năm qua, ta có thể nhận thấy, mặc dù tội làm nhục người khác là một tội phạm ít nghiêm trọng, song các hình phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ và kết án phạt tù nhưng cho hưởng án treo áp dụng cho các bị cáo chiếm tỷ lệ không cao. Năm 1997, hình phạt cảnh cáo được áp dụng cho 9 bị cáo, cải tạo không giam giữ 10, kết án phạt tù nhưng cho hưởng án treo là 68 bị cáo, phạt tù từ 7 năm trở xuống là 90 bị cáo (chiếm 51% trên tổng số các hình phạt áp dụng). Năm 1998, số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn năm 1998 là 116, chiếm 48% trên tổng số các hình phạt áp dụng. Năm 1999 con số này lại tăng lên 51% với 116 bị cáo, trong đó có 1 bị cáo bị phạt tù trong khung hình phạt từ 7 đến 10 năm tù. Như vậy, từ năm 1997 đến năm 2000, bảng số liệu về hình phạt cho ta thấy, các bị cáo phạm tội làm nhục người khác bị xử lý rất nghiêm minh. Số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn chiếm tỷ lệ lớn trong số các bị cáo bị đưa ra xét xử. Năm 2001 và 2002, hình phạt tù có thời hạn được áp dụng đối với các bị cáo phạm tội làm nhục người khác chiếm tỷ lệ thấp hơn 4 năm trước nhưng vẫn ở mức trên 30%. Năm 2003, hình phạt tù có thời hạn được áp dụng đối với các bị cáo lại tăng lên 50%, đặc biệt trong năm 2003, có tới 15 bị cáo bị phạt tù trong khoảng từ 7 năm trở lên, trong đó có tới 6 bị cáo bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm, 1 bị cáo bị phạt tù ở mức từ 15 đến 20 năm. Năm 2004 và 2005, số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn được dao động trong khoảng 49 đến 50%. Như vậy, qua bảng số liệu 9 năm, ta rút ra một nhận xét chung: những người phạm tội làm nhục người khác bị xử lý rất nghiêm khắc, chứng tỏ các Tòa án đã nhận thấy tính nghiêm trọng của tội phạm này trong thực tiễn. 2.1.2. Nhân thân người phạm tội làm nhục người khác Nghiên cứu nhân thân người phạm tội làm nhục người khác nhằm mục đích xác định những đặc điểm của người phạm tội, những yếu tố, điều kiện, môi trường hình thành nhân cách của họ. Về nhân thân các bị cáo, chúng ta có thể nhìn vào các bảng số liệu sau: Bảng 2.8: Nhân thân các bị cáo phạm tội làm nhục người khác Năm Tổng số bị cáo bị xét xử Số bị cáo là cán bộ, công chức Tỷ lệ % so với tổng số bị cáo Số bị cáo là đảng viên Tỷ lệ % so với tổng số bị cáo 1997 177 0 0% 2 1% 1998 241 3 1% 1 0% 1999 228 3 1% 11 5% 2000 164 1 1% 0 0% 2001 125 0 0% 0 0% 2002 133 0 0% 1 1% 2003 149 0 0% 0 0% 2004 84 0 0% 1 1% 2005 78 0 0% 0 0% Tổng số 1 379 7 1% 16 1% Nguồn: TANDTC Từ bảng trên cho thấy, các bị cáo là công chức, đảng viên chiếm một tỷ lệ rất thấp trong tổng số các bị cáo phạm tội làm nhục người khác. Năm 1997, trong tổng số 177 bị cáo, chỉ có hai bị cáo là đảng viên. Năm 1998, trong tổng số 241 bị cáo chỉ có 3 bị cáo là cán bộ, công chức và 1 bị cáo là đảng viên. Năm 1999 số bị cáo là công chức, đảng viên cao nhất trong 9 năm (3 cán bộ, công chức và 11 đảng viên trên tổng số 228 bị cáo). Năm 2000 chỉ có 1 bị cáo là cán bộ công chức. Các 2001, 2003, 2005 không có bị cáo thuộc thành phần cán bộ, công chức phạm tội. Như vậy, qua bảng số liệu trên, chúng ta có thể đánh giá sơ bộ về nhân thân các bị cáo phạm tội làm nhục người khác, hầu hết những bị cáo phạm tội đều có trình độ văn hóa và hiểu biết về xã hội thấp (phần nguyên nhân điều kiện phạm tội chúng tôi sẽ nói cụ thể hơn về vấn đề này). Tuy nhiên, các bị cáo phạm tội là đảng viên, cán bộ công chức chiếm tỷ lệ cao hơn so với tội làm nhục người khác, cụ thể năm 2001 có 2 bị cáo phạm tội là đảng viên trên tổng số 17 bị cáo (chiếm 12%); năm 2001 có 1 bị cáo là cán bộ công chức trên tổng số 11 bị cáo (chiếm 9%); năm 2004 có 1 bị cáo là cán bộ công chức trên tổng số 18 bị cáo (chiếm 6%). Tuy nhiên, đường lối xử lý các bị cáo phạm tội vu khống nghiêm khắc hơn tội làm nhục người khác, cụ thể năm 2001 có 8 bị cáo bị phạt tù từ 7 năm trở xuống (chiếm 47% trên tổng số bị cáo); năm 2002 có 14 bị cáo bị phạt tù từ 7 năm trở xuống (chiếm 70% trên tổng số bị cáo phạm tội); năm 2003 có 5 bị cáo bị phạt tù từ 7 năm trở xuống, 2 bị cáo bị phạt tù từ 7 đến 10 năm, 1 bị cáo bị phạt tù trong khoảng từ 10 đến 15 năm) (tổng số bị cáo bị phạt tù chiếm 73% trên tổng số bị cáo); năm 2004 có 11 bị cáo bị phạt tù từ 7 năm trở xuống (chiếm 61% trên tổng số bị cáo). Ngoài ra, chúng tôi xin đưa ra bảng số liệu phân tích nhân thân các bị cáo về giới tính, độ tuổi, thành phần dân tộc để chúng ta có cái nhìn tổng thể về nhân thân các bị cáo phạm tội làm nhục người khác. Bảng 2.9 :Giới tính, độ tuổi, thành phần dân tộc các bị cáo phạm tội làm nhục người khác Năm Tổng số bị cáo Dân tộc ít người Giới tính Độ tuổi Nam Nữ Từ 18 - 30 Trên 30 1 2 3 4 5 6 7 1997 177 1 124 53 67 107 1998 241 11 196 45 63 178 1999 228 45 173 55 28 200 2000 164 7 76 88 44 120 2001 125  0 86 39 22 99 2002 133  0 77 56 35 94 1 2 3 4 5 6 7 2003 149 4 116 33 30 117 2004 84 1 66 18 16 68 2005 78 1 48 30 16 62 Tổng số 1379 70 962 417 321 1045 Nguồn: TANDTC Các bị cáo phạm tội là dân tộc ít người chiếm tỷ lệ không cao, năm 2001, 2002 không có bị cáo là dân tộc ít người, năm 1997, 2004, 2005 mỗi năm chỉ có 1 bị cáo, năm 2003 có 4 bị cáo, năm 2000 có 7 bị cáo, năm 1998 có 11 bị cáo và năm nhiều nhất là 1999 có 47 bị cáo, chiếm 20% trên tổng số bị cáo. Để đánh giá cụ thể nhân thân các bị cáo thuộc các thành phần trên, chúng ta nhìn vào bảng tỷ lệ % sau: Bảng 2.10: Tỷ lệ % về thành phần dân tộc, giới tính, độ tuổi/ tổng số bị cáo. Năm % Tổng số bị cáo Dân tộc ít người Giới tính Độ tuổi Nam Nữ Từ 18 - 30 Trên 30 1997 100 1% 70% 30% 38% 60% 1998 100 5% 81% 19% 26% 74% 1999 100 20% 76% 24% 12% 88% 2000 100 4% 46% 54% 27% 73% 2001 100 0% 69% 31% 18% 79% 2002 100 0% 58% 42% 26% 71% 2003 100 3% 78% 22% 20% 79% 2004 100 1% 79% 21% 19% 81% 2005 100 1% 62% 38% 21% 79% Nguồn: TANDTC Về giới tính: Các bị cáo phạm tội làm nhục người khác phần lớn là nam giới, năm 1997 số bị cáo là nam giới: 124 người, chiếm 70% trên tổng số bị cáo, năm 1998 tăng lên 196 người, chiếm tỷ lệ 81% trên tổng số bị cáo, năm 1999 là 173 người, chiếm 76% trên tổng số bị cáo. Năm 2000 tỷ lệ nam giới giảm xuống còn 46% (76 trên tổng số 164 bị cáo). Tuy nhiên số bị cáo phạm tội là nam giới lại tăng trở lại vào những năm tiếp theo. Năm 2001 số bị cáo là nam giới: 86 (chiếm 69% trên tổng số bị cáo) trong khi số bị cáo là nữ chỉ có 39 người, năm 2002 số bị cáo là nam giới: 77 (chiếm 58%) và số bị cáo là nữ: 56 người. Năm 2003 số bị cáo là nam giới lại tăng cao: 116 bị cáo (chiếm 78%), năm 2004 và 2005 số nam giới vẫn chiếm tỷ lệ hơn 50% trên tổng số bị cáo (cụ thể năm 2004 là 79% và 2005 là 62%). Qua các số liệu phân tích trên, chúng ta có thể có một cái nhìn khác về vấn đề giới tính, với loại tội phạm xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm của con người như tội làm nhục người khác, thông thường người ta liên tưởng đến tỷ lệ phạm tội là nữ nhiều hơn, song bảng số liệu phân tích nhân thân các bị cáo về giới tính lại cho một kết quả ngược lại. Như vậy ta có thể nhận thấy hành vi làm nhục người khác của nữ giới có thể nhiều và đa dạng hơn, nhưng hành vi làm nhục người khác của nam giới mang tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn và bị xử lý về mặt hình sự nhiều hơn. Biểu đồ 7. Nhân thân các bị cáo: Giới tính Biểu đồ 8: Số bị cáo phạm tội là nam giới qua 9 năm Biểu đồ 9: Số bị cáo phạm tội là nữ giới qua 9 năm. Về độ tuổi: Về độ tuổi của số bị cáo phạm tội làm nhục người khác tuy có dao động qua các năm, nhưng nhìn chung trong độ tuổi từ 18 đến 30, số bị cáo phạm tội có xu hướng giảm. Phần lớn bị cáo phạm tội trong độ tuổi từ 30 trở lên. Cụ thể năm 1997 trong độ tuổi từ 18 đến 30 là 67 người (chiếm 38% trên tổng số bị cáo), trong độ tuổi trên 30 là 110 người (chiếm 60%), có 4 bị cáo phạm tội trong độ tuổi vị thành niên. Năm 1998 có 63 bị cáo trong độ tuổi từ 18 đến 30 (chiếm 26% trên tổng số bị cáo), số bị cáo trong độ tuổi trên 30 là 178 người (chiếm 74%). Năm 1999 tỷ lệ bị cáo trong độ tuổi từ 18 đến 30 thấp nhất trong vòng 9 năm với 28 bị cáo (chiếm 12% trên tổng số bị cáo, số bị cáo trong độ tuổi trên 30 là 200 người (88%). Từ năm 2000 đến năm 2005 số bị cáo phạm tội trong độ tuổi từ 18 đến 20 có xu hướng giảm dần, năm 2000 là 44 bị cáo (chiếm 27% trên tổng số bị cáo), số bị cáo trong độ tuổi trên 30 là 120 bị cáo. Năm 2001, số bị cáo trong độ tuổi từ 18 đến 30 chỉ có 22 bị cáo (chiếm 27% trên tổng số bị cáo), có 4 bị cáo là người chưa thành niên và 99 bị cáo trong độ tuổi trên 30 (chiếm 79%). Năm 2002 số bị cáo trong độ tuổi từ 18 đến 30 là 35 người (chiếm 26% trên tổng số bị cáo), có 4 bị cáo là người chưa thành niên và 94 bị cáo trong độ tuổi trên 30. Năm 2003 số bị cáo trong độ tuổi từ 18 đến 30 giảm xuống 30 người (chiếm 20% trên tổng số bị cáo), có hai bị cáo là người chưa thành niên phạm tội và 117 bị cáo trong độ tuổi trên 30. Năm 2004 và 2005 số bị cáo trong độ tuổi từ 18 đến 30 là 16 bị cáo (chiếm tỷ lệ khoảng 20 đến 21% trên tổng số bị cáo). Như vậy, phần lớn bị cáo phạm tội làm nhục người khác thuộc độ tuổi trên 30, chúng ta sẽ phải đặt câu hỏi tại sao ở độ tuổi đáng lẽ con người đã có độ chín nhất định trong suy nghĩ và hành động song tại sao lại có những hành vi (có thể nói là thiếu văn hoá) làm ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm người khác đến mức bị xử lý về hình sự? Điều này có thể gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh về sự xuống cấp về văn hoá và suy thoái đạo đức của một số ít người trong bộ phận dân cư. Biểu đồ 10: Nhân thân các bị cáo: Độ tuổi Biểu đồ 11: Nhân thân các bị cáo trong độ tuổi từ 18 đến 30 qua 9 năm Biểu đồ 12: Nhân thân các bị cáo độ tuổi trên 30 qua 9 năm Một trong những số liệu về nhân thân các bị cáo cũng cần được xem xét, nghiên cứu, đó là tỷ lệ tái phạm, chúng ta sẽ cùng nghiên cứu số liệu về tỷ lệ tái phạm của tội làm nhục người khác qua 9 năm: Bảng 2.11: Tỷ lệ tái phạm. Năm Tổng số bị cáo bị xét xử Tái phạm Tỷ lệ % 1997 177 3 2% 1998 241 9 4% 1999 228 3 1% 2000 164 2 1% 2001 125 1 1% 2002 133 2 2% 2003 149 0 0% 2004 84 0 0% 2005 78 2 3% Tổng số 1379 22 Nguồn: TANDTC Tội làm nhục người khác có tỷ lệ tái phạm không cao. Năm 1997 chỉ có 3 trường hợp tái phạm trên tổng số 177 bị cáo, năm 1998 là năm có tỷ lệ tái phạm cao nhất trong vòng 9 năm, 9 bị cáo (chiếm 4% trên tổng số bị cáo), năm 1999 có 3 trường hợp tái phạm trên tổng số 228 bị cáo, năm 2000 có 2 trường hợp tái phạm trên tổng số 164 bị cáo, năm 2001 chỉ có 1 trường hợp tái phạm trên tổng số 125 bị cáo. Năm 2002 có hai trường hợp tái phạm trên tổng số 133 bị cáo. Năm 2003 và 2004 không có trường hợp nào tái phạm và năm 2005, có 2 trường hợp tái phạm trên tổng số 78 bị cáo (chiếm 3%). 2.2. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC Theo tội phạm học, nguyên nhân của tình hình tội phạm là tổng hợp những ảnh hưởng, trực tiếp làm phát sinh tình hình tội phạm. Còn điều kiện của tình hình tội phạm là những hoàn cảnh thuận lợi cho sự tồn tại của tình hình tội phạm. Như vậy, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm xét cho cùng là những cơ sở cần thiết cho sự phát sinh, tồn tại, phát triển của tình hình tội phạm tại một quốc gia, một khu vực của quốc gia trong những thời điểm nhất định. Thông qua việc làm sáng tỏ nguyên nhân và điều kiện phạm tội, chúng ta có thể đưa ra được các biện pháp phòng ngừa tương ứng, thích hợp, từ đó góp phần làm giảm tình trạng phạm tội trong xã hội. Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã xác định quan hệ nhân quả là một hình thức của mối liên hệ giữa các hiện tượng, trong đó một hiện tượng được gọi là nguyên nhân trong những điều kiện nhất định, đã làm phát sinh một hiện tượng khác được gọi là kết quả. Cũng như những tội phạm khác, tội làm nhục người khác tồn tại là hậu quả của những nguyên nhân chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định. Nguyên nhân và điều kiện là hai khái niệm có quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau, một hiện tượng trong hoàn cảnh này là nguyên nhân phát sinh tội phạm, nhưng trong hoàn cảnh khác có thể là hoàn cảnh thuận lợi cho tội phạm phát sinh. Vì vậy, việc phân chia các hiện tượng làm phát sinh và thúc đẩy tội làm nhục người khác thành nguyên nhân và điều kiện chỉ mang tính chất tương đối. Nguyên nhân và điều kiện của tội làm nhục người khác bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, có quan hệ chặt chẽ, tác động trong mối quan hệ tổng hợp làm phát sinh tình hình tội làm nhục người khác. Đó là toàn bộ những hiện tượng, quá trình xã hội làm phát sinh, thúc đẩy tình hình tội làm nhục người khác. Tội làm nhục người khác thực chất là một hiện tượng xã hội tiêu cực. Vì vậy, muốn xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội phải tìm hiểu nó từ chính các quá trình xã hội. Nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tội làm nhục người khác trong thời gian qua ở nước ta, có thể thấy, tội làm nhục người khác là hành vi tuy không gây tổn hại về mặt sức khoẻ, tính mạng nhưng ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống tinh thần của người bị hại, thậm chí nó còn gây ra những hậu quả thương tâm, nhẹ thì bị mất niềm tin, mất danh dự, nặng có thể gây ra những rối loạn về tâm thần, khiến người bị hại có những hành vi tiêu cực. Chính vì vậy, việc tìm ra nguyên nhân, điều kiện của tội phạm này sẽ góp phần tích cực vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm. Trên thực tế, bất kỳ hành vi phạm tội nào cũng bắt nguồn từ một hay nhiều nguyên nhân nào đó, tuy nhiên, việc xác định rõ nguyên nhân, điều kiện của một hành vi phạm tội chỉ mang tính tương đối, bởi lẽ trong tổng thể mặt bằng chung của xã hội, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện phạm tội của một tội danh cụ thể phải dựa trên những dấu hiệu cơ bản nhất, chung nhất và phổ biến nhất. Xuất phát điểm là việc bảo vệ một trong những quyền cơ bản của con người – quyền được bảo hộ về danh dự, nhân phẩm, chúng ta có thể nghiên cứu về những nguyên nhân, điều kiện cơ bản nhất dẫn đến sự xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm. 2.2.1. Nguyên nhân về pháp luật Một hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, chồng chéo sẽ dẫn đến những cách hiểu và áp dụng khác nhau, một điều luật thiếu cụ thể và không có những hướng dẫn chi tiết cũng sẽ ảnh hưởng đối với việc xử lý tội phạm. Hiện nay, việc quy định về hành vi làm nhục người khác và đường lối xử lý hành vi phạm tội này còn nhiều bất cập, ví dụ, khoản 1 Điều 121 BLHS năm 1999 quy định: “người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự … thì bị phạt ….”, vậy thế nào là “xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm” thì vẫn chưa có một văn bản nào hướng dẫn cụ thể. Bởi chúng ta đều biết, danh dự, nhân phẩm là một thứ “tài sản vô hình”, không ai có thể đong đếm được, giá trị bao nhiêu tiền, mức độ ảnh hưởng của nó đối với người bị hại ra sao. Vậy nên việc không quy định cụ thể những loại, những nhóm hành vi nào được coi là xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm sẽ khiến cho những nhà áp dụng luật tuỳ nghi trong cách xét xử, bởi vì cùng một hành vi có thể gây ra những hậu quả tâm lý khác nhau đối với mỗi người. Hành vi làm nhục người khác không chỉ được quy định trong Bộ luật Hình sự mà còn được quy định trong các ngành luật khác, do vậy việc phân định rõ “làm nhục người khác” ở mức độ nào thì bị xử lý về hình sự là rất cần thiết. Hiện nay, ranh giới của việc xử lý hành chính, dân sự và hình sự đối với tội phạm này chưa được phân định rõ ràng. Như vậy, việc xác định rõ những hành vi xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người khác bị xử lý về mặt hình sự sẽ góp phần giảm thiểu sự chồng chéo về thẩm quyền, đồng thời khắc phục được tình trạng hình sự hoá các vi phạm hành chính, dân sự hoặc phi hình sự hoá các hành vi vi phạm pháp luật hình sự. Hiện nay, chưa có quy định cụ thể hay hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền như thế nào là hành vi "làm nhục người khác" và "làm nhục người khác" đến mức độ nào thì bị xử lý về hình sự. Một vấn đề nữa về pháp luật, đó là đường lối xử lý về tội phạm này còn mang tính hình thức, chưa thực sự có tác dụng răn đe, phòng ngừa chung. Hình phạt đối với tội danh này chưa được quy định và hướng dẫn cụ thể. Trong các quy định của pháp luật hình sự, “làm nhục người khác” là một tội danh ít nghiêm trọng. Nhưng nếu nhìn vào những hậu quả có thể ảnh hưởng tới đời sống tinh thần của người bị hại, ta có thể nhận thấy hậu quả đó không hề nhỏ. Ví dụ: Do bố mẹ chồng chị Hà và chị Nguyệt có lời xúc phạm đến bố mẹ đẻ của chị Hà, các anh em nhà chị Hà là anh Trần Xuân Thuyết, Trần Thị Thu, Trần Thị Soa đến yêu cầu bố mẹ chồng chị Hà không được xúc phạm đến bố mẹ mình. Trên đường về, Trần Thị Soa gặp Nguyệt và đã có những lời lăng mạ nhau thậm tệ, người nhà của Nguyệt nhìn thấy không những không can ngăn mà còn xông vào túm tóc kéo áo, tụt quần chị Soa xuống tận đầu gối ngay giữa chợ. Chị Soa đã kiện Nguyệt cùng đồng bọn ra Toà án nhân dân huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An về tội làm nhục người khác và đòi bồi thường thiệt hại danh dự và tài sản bị mất tổng số tiền 6 triệu đồng (Ngoisao.net/News/hinh-su). Trường hợp khác ở Bình Thuận, một cô giáo vô cớ bị làm nhục, cô Hắc Thị Bạch Tuyết – giáo viên trường tiểu học Hồng Thái 2, Bắc Bình, Bình Thuận đã vô cớ bị chủ tiệm vàng Mỹ Kim tên là Nguyễn Thị Để vu oan là ăn cắp vàng và áp giải lên công an thị trấn. Sau đó, cô Tuyết bị ép cởi hết quần áo để lục soát trước sự chứng kiến của Công an nhưng không có dấu hiệu nào cho thấy cô đã tráo vàng. Hành vi xâm phạm trắng trợn đến danh dự, nhân phẩm của một cô giáo như trên đã ảnh hưởng lớn đến uy tín và danh dự của cô Tuyết. Danh dự, nhân phẩm tuy không phải là những thứ có thể cân đo được bằng tiền, nhưng việc quy định một mức bồi thường hợp lý cũng là một hình thức cảnh tỉnh những người đã, đang và có ý định phạm tội. Hiện nay, mức bồi thường áp dụng cho hành vi làm nhục người khác chưa được quy định cụ thể. Tuy nhiên, mức bồi thường tối đa 3.500.000đ (ba triệu năm trăm nghìn đồng) đối với hành vi xâm phạm danh dự nhân phẩm người khác là quá nhẹ. Các trường hợp phát tán ảnh khoả thân trên mạng hoặc trên các phương tiện công cộng cũng được coi là hành vi làm nhục người khác, nó không chỉ ảnh hưởng đến danh dự, nhân phẩm mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến công việc và thu nhập của họ, đặc biệt là những người làm trong các ngành nghệ thuật. Luật sư Phạm Thanh Bình (VP Luật sư Hồng Hải) trong một cuộc phỏng vấn với VnXpress đã nói “Hành vi phát tán ảnh đồi trụy trên mạng cũng có thể cấu thành tội làm nhục người khác theo quy định tại Điều 121 Bộ luật Hình sự nếu chứng minh được người thực hiện hành vi đó nhằm xúc phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người bị chụp ảnh”. Cựu hoa hậu Hà Kiều Anh, diễn viên Mỹ Uyên, người mẫu Bảo Hoà, … đã từng là nạn nhân của các hành vi trên, việc phát tán những bức ảnh khoả thân của họ trên mạng đã ảnh hưởng rất nhiều đến danh tiếng cũng như sự nghiệp của họ. Do vậy, Bộ luật hình sự năm 1999 cũng cần được nghiên cứu bổ sung theo hướng xử lý về mặt hình sự đối với những ngừơi thực hiện các hành vi đó. 2.2.2. Nguyên nhân về tâm lý xã hội, giáo dục đạo đức Do tác động của công cuộc đổi mới và của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước, bộ mặt kinh tế - xã hội ở nước ta trong những năm qua đã có nhiều thay đổi, đời sống nhân dân ngày càng khá hơn. Tất cả điều đó đã tạo nên tâm trạng phấn khởi, lạc quan; niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chủ nghĩa xã hội được củng cố. Tuy nhiên, kinh tế thị trường chứa đựng cả mặt tích cực và mặt tiêu cực và đã tạo ra cả những tâm trạng tích cực và tiêu cực trong xã hội. Đó cũng là quan hệ tất yếu khách quan giữa tồn tại xã hội với tâm lý, ý thức xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ xã hội, nhất là quan hệ phân phối sản phẩm có nhiều thay đổi. Đồng tiền đóng vai trò đáng kể trong các quan hệ xã hội. Một bộ phận dân cư không có việc làm hoặc việc làm thiếu ổn định. Xóa bỏ bao cấp, xã hội đặt mỗi con người vào vị trí phải tự khẳng định mình, phải lo cho cuộc sống của chính mình. Từ đó, nhiều biểu hiện tiêu cực nảy sinh, các giá trị đạo đức, chuẩn mực truyền thống bị phá vỡ, tính chất cạnh tranh gay gắt đã làm xuất hiện sự đua chen, đố kỵ, sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, sự phân cực giàu nghèo cũng trở nên gay gắt. Tất cả những điều đó làm nảy sinh tâm trạng băn khoăn, lo lắng hoài nghi. Một bộ phận dân cư ngơ ngác trước cuộc sống mới, bên cạnh đó

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThS11.docx
Tài liệu liên quan