Tài liệu Đề tài Đào tạo nghề cho người lao động ở tỉnh Phú Thọ: Lời nói đầu
Nguồn lực con người là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của mối quốc gia. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển. Con người vừa là độnglực vừa là mục tiêu mà nếu thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ không có sự phát triển. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi lợi thế sự phát triển đang chuyển dần từ yếu tố tài nguyên thiên nhiên dồi dào, giá nhân công rẻ song nguồn nhân lực ổn định và có chất lượng.
Nước ta là nước kinh tế kém phát triển, các nguồn tài nguyên thiên nhiên không nhiều vì vậy Đảng ta xác định phải "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" với mục tiêu "nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài" (Văn kiện đại hội VIII, Nxb chính trị Quốc gia). Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với đào tạo nghề là phải tạo ra được đội ngũ lao động kỹ thuật đủ về số lượng, mạnh về chất lượng.
Đối với Phú Thọ - một tỉnh miền núi mới tái lập - điểm xuất phát thấp, mạng lưới cơ sở...
72 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1154 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đào tạo nghề cho người lao động ở tỉnh Phú Thọ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Nguồn lực con người là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của mối quốc gia. Điều đó bắt nguồn từ vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển. Con người vừa là độnglực vừa là mục tiêu mà nếu thiếu một trong hai điều kiện đó sẽ không có sự phát triển. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi lợi thế sự phát triển đang chuyển dần từ yếu tố tài nguyên thiên nhiên dồi dào, giá nhân công rẻ song nguồn nhân lực ổn định và có chất lượng.
Nước ta là nước kinh tế kém phát triển, các nguồn tài nguyên thiên nhiên không nhiều vì vậy Đảng ta xác định phải "Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững" với mục tiêu "nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài" (Văn kiện đại hội VIII, Nxb chính trị Quốc gia). Vì vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với đào tạo nghề là phải tạo ra được đội ngũ lao động kỹ thuật đủ về số lượng, mạnh về chất lượng.
Đối với Phú Thọ - một tỉnh miền núi mới tái lập - điểm xuất phát thấp, mạng lưới cơ sở dạy nghề còn yếu, chi ngân sách cho đào tạo nghề còn hạn chế. Do đó, nhiệm vụ đặt ra đối với đào tạo nghề cho người lao động càng khó khăn hơn. Để đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực , thực hiện được mục tiêu đào tạo nghề cần thiết phải có chiến lược phát triển đào tạo nghề gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội thông qua "Tầm nhìn đến năm 2020 và quy hoạch phát triển kinh tế xã hội đến năm 2010" của tỉnh Phú Thọ.
Trong quá trình học tập, nghiên cứu ở trường cùng với thời gian thực tập ở Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Phú Thọ em đã chọn đề tài: "Đào tạo nghề cho người lao động ở tỉnh Phú Thọ" nhằm vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn phát triển công tác đào tạo nguồn nhân lực nói chung và đào tạo nghề cho người lao động tỉnh phú thọ nói riêng.
*Mục đích nghiên cứu:
- Làm rõ thực trạng đào tạo nghể tên các mặt : quy mô đào tạo, cơ cấu đào tạo chất lượng đào tạo, tìm ra những bất cập hiện nay về đào tạo nghề tỉnh Phú Thọ.
- Đưa ra những quan điểm và giải pháp nhằm phát triển công tác đào tạo nghề cho người lao động tỉnh Phú thọ.
* Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
- Trên cơ sở đánh giá chung về tình hình kinh tế xã hội , lao động tỉnh Phú Thọ đề tài đi sâu nghiên cứu đào tạo nghề cho công nhân kỹ thuật và phổ cập nghề cho lao động nông thôn.
- Phạm vi nghiên cứu tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận và sự cần thiết dào tạo nghề ; phân tích đánh giá thực trạng đào tạo nghề trong những năm qua từ đó đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm phát triển công tác đào tạo nghề cho người lao động ở tỉnh Phú Thọ.
* Phương pháp nghiên cứu: Thông qua các phương pháp thống kê, khảo sát, phân tích tổng hợp….để nghiên cứu đề tài.
* Kết cấu chuyên đề:
Phần I: Tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề
Phần II: Phân tích thực trạng đào tạo nghề cho người lao động ở tỉnh Phú Thọ.
Phần III: Một số giải pháp nhằm phát triển công tác đào tạo nghề cho người lao động ở tỉnh Phú Thọ.
Phần một
Tầm quan trọng của công tác đào tạo nghề.
I. Một số khái niệm có liên quan về nghề và đào tạo nghề.
1. Nghề và trình độ lành nghề.
* Nghề là một hình thức phân công lao động, nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết tổng hợp và thói quen thực hành để hoàn thành những công việc nhất định.
*Trình độ lành nghề của lao động thể hiện một chất lượng của sức lao động. Nó thể hiện ở sự hiểu biết về lý thuyết, về kỹ thuật sản xuất và kỹ năng lao động để hoàn thành những công việc có trình độ phức tạp nhất định thuộc một nghề, một chuyên môn nào đó.
Trình độ lành nghề liên quan chặt chẽ tới lao động phức tạp. Lao động có trình độ lành nghề là lao động có chất lượng cao hơn, là lao động phức tạp hơn. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động lành nghề thường tạo ra một giá trị lớn hơn so với lao động giản đơn.
Để đạt tới trình độ lành nghề nào đó, trước hết phải đào tạo nghề cho nguồn nhân lực, tức là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao động để nắm vững một nghề, một chuyên môn, bao gồm cả người đã có nghề, có chuyên môn rồi hay học để làm nghề, chuyên môn khác.
2. Chuyên môn.
Chuyên môn là hình thức phân công lao động sâu sắc hơn do sự chia nhỏ của nghề. Do đó nó đòi hỏi kiến thức lý thuyết và thói qyen thực hành trong phạm vi hẹp và sâu hơn.
3. Đào tạo nguồn nhân lực.
Đào tạo nguồn nhân lực là quá trình trang bị kiến thức nhất định về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động để họ có thể đảm nhận một công việc nhất định. Hay đào tạo nguồn nhân lực là quá trình truyền đạt, lĩnh hội những kiến thức và kỹ năng cần thiết để người lao động có thể thực hiện một công việc nào đó trong tương lai.
Đào tạo nguồn nhân lực bao gồm các nội dung sau:
-Đào tạo kiến thức phổ thông (Giáo dục phổ thông).
-Đào tạo kiến thức chuyên nghiệp (Giáo dục chuyên nghiệp). Đào tạo kiến thúc chuyên nghiệp được chia ra: Đào tạo cán bộ chuyên môn (Đào tạo đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp) và đào tạo nghề (Đào tạo công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ, nhân viên bán hàng, phổ cập nghề cho ngưòi lao động).
Đào tạo cán bộ chuyên môn là việc đào tạo nguồn nhân lực ở các trường Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ có trình độ học vấn cao, có khả năng lãnh đạo, quản lý, chỉ đạo một chuyên môn, nghiệp vụ nào đó.
Căn cứ vào trình độ đào tạo, cán bộ chuyên môn được chia ra làm các loại sau :
-Cán bộ trung cấp : Là những người thực hành giúp việc cho công tác nghiên cứu .
-Cán bộ cao đẳng : Là những người được đào tạo tương đương trình độ Đại học xong nghiêng về khả năng thực hành.
-Cán bộ Đại học : Là những người được đào tạo trong các trường Đại học có khả năng nghiên cứu khoa học và vận dụng vào thực tiễn hoặc quản lý một lĩnh vực chuyên môn.
-Cán bộ trên Đại học : Là cán bộ có trình độ cao, có khả năng nghiên cứu khoa học và thực tiễn.
Việc đào tạo cán bộ chuyên môn được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau như :
- Đào tạo chính quy dài hạn.
- Đào tạo tại chức, chuyên tu.
- Đào tạo từ xa vv...
4.Đào tạo nghề.
Đào tạo nghề cho người lao động là quá trình giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người lao động để họ nắm vững một nghề, một chuyên môn, bao gồm cả người đã có nghề, có chuyên môn rồi hay học để làm nghề chuyên môn khác.
Đào tạo nghề bao gồm đào tạo công nhân kỹ thuật (Công nhân cơ khí, xây dựng, điện tử, v.v...). Nhân viên nghiệp vụ (Nhân viên đánh máy, nhân viên lễ tân, nhân viên bán hàng v.v...). Phổ cập nghề cho người lao động (Chủ yếu là lao động nông nghiệp).
Việc đào tạo nghề được tiến hành ở các cơ sở đào tạo nghề đó là : Các trường chính quy của Nhà nước ; Các cơ sở đào tạo nghế của tư nhân ; các trung tâm dạy nghề của chính quyền địa phương, các cơ sở tổ chức xã hội ; Các cơ sở đào tạo nghề thông qua hợp tác quốc tế.
Phân loại đào tạo nghề.
*Căn cứ vào nghề đào tạo với người học :
-Đào tạo mới : Đây là hình thức đào tạo nghề áp dụng cho những người chưa có chuyên môn, chưa có nghề.
-Đào tạo lại : Là quá trình đào tạo nghề áp dụng cho những người đã có nghề, có chuyên môn song vì lý do nào đó nghề của họ không phù hợp nữa đòi hỏi phải chuyển sang nghề khác, chuyên môn khác .
-Đào tạo nâng cao trình độ lành nghề : Là quá trình bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kinh nghiệm làm việc để người lao động có thể đảm nhận được những công việc phức tạp hơn.
* Căn cứ vào thời gian đào tạo nghề :
-Đào tạo ngắn hạn : Thời gian đào tạo nghề dưới một năm, chủ yếu đối với phổ cập nghề.
-Đào tạo dài hạn : Thời gian đào tạo nghề từ một năm trở lên, chủ yếu đối với đào tạo công nhân kỹ thuật và nhân viên nghiệp vụ.
II. Nội dung công tác đào tạo nghề.
Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết này, ta chỉ xem xét nội dung đào tạo nghề ở khía cạnh : Đào tạo công nhân kỹ thuật, vì đây là mảng đào tạo mang tính chiến lược trong quá trình đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.
1. Xác định nhu cầu đào tạo công nhân kỹ thuật.
Xác định nhu cầu công nhân kỹ thuật là cơ sở để lập kế hoạch đào tạo. Xác định nhu cầu đào tạo không chính xác sẽ dẫn đến việc mất cân đối giữa yêu cầu và đào tạo, giữa đào tạo và sử dụng. Trong thực tiễn quản lý vẫn còn gặp tình trạng này. Do chưa xác định được nhu cầu công nhân kỹ thuật một cách chính xác, toàn diện nên cơ cấu đào tạo thiếu cân đối, không đồng bộ, một số nghề thiếu công nhân kỹ thuật một cách trầm trọng nhưng có nghề đào tạo ra lại không sử dụng hết, sử dụng không đúng nghề đào tạo.
Kế hoạch hoá nhu cầu đào tạo công nhân kỹ thuật trong điều kiện hiện nay gặp nhiều khó khăn và khó chính xác. Để khắc phục việc này, việc xác định phải được bắt đầu từ doanh nghiệp, sau đó tổng hợp lại theo ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tài liệu tính toán nhu cầu là số lượng và cơ cấu thiết bị kỳ kế hoạch, kế hoạch năng suất lao động, lượng lao động hao phí để sản xuất sản phẩm ...
Việc xác định nhu cầu công nhân kỹ thuật trong doanh nghiệp có thể áp dụng công thức sau :
Nc = M / P.H
Trong đó :
Nc : Nhu cầu công nhân kỹ thuật của một nghề nào đó.
M : Khối lượng công việc (Tương ứng với nghề của công nhân).
P : Mức phục vụ .
Hoặc có thể căn cứ vào số máy móc, mức đảm nhận của công nhân và hệ số ca làm việc để xác định nhu cầu công nhân kỹ thuật theo công thức :
Nc = M / P.K
Trong đó :
M : Số máy móc thiết bị.
P : Số máy một công nhân phục vụ .
K : Số ca làm việc của máy móc thiết bị .
Trường hợp không có sẵn mức phục vụ, số lượng công nhân kỹ thuật theo từng nghề có thể tính theo công thức :
Nc = S1.Im.Ik / Iw
Trong đó :
Nc : Nhu cầu công nhân kỹ thuật của một nghề nào đó trong kỳ báo cáo.
S1 : Số công nhân thực tế của nghề nào đó trong doanh nghiệp ở kỳ báo cáo.
Im : Chỉ số số lượng thiết bị ở loại nào đó để hoàn thành kế hoạch sản xuất đã định kỳ kế hoạch.
Ik : Chỉ số ca làm việc bình quân của thiết bị kỳ kế hoạch.
Iw : Chỉ số năng suất lao động của công nhân kỹ thuật nghề đó kỳ kế hoạch.
Sau khi đã có nhu cầu công nhân kỹ thuật theo nghề, phải xác đinh nhu cầu bổ xung. Nó là hiệu số giữa nhu cầu cần thiết và công nhân hiện có từng nghề. Nhu cầu bổ xung chính là nhu cầu công nhân kỹ thuật cần phải đào tạo.
Tổng hợp nhu cầu bổ xung công nhân kỹ thuật của các doanh nghiệp sẽ được lượng đào tạo chung của ngành, tuỳ tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp hoặc của ngành mà tổ chức hình thức đào tạo nghề phù hợp.
2. Xác định các hình thức đào tạo.
Một trong những nhiệm vụ của kế hoạch đào tạo là xác định các hình thức đào tạo phù hợp. Thực chất là tính toán hiệu quả kinh tế của đào tạo, là so sánh giữa chi phí đào tạo với kết quả thu được sau khi đào tạo. đây là một vấn đề phức tạp, trong thực tế chưa có phương pháp tính thật chính xác. Hiện nay mới chỉ phân tích được những ưu điểm và nhược điểm của các hình thức đào tạo. Tuỳ theo yêu cầu và điều kiện thực tế, có thể áp dụng hình thức này hay hình thức khác. Những hình thức đang được áp dụng hiện nay là:
2-1.Đào tạo tại nơi làm việc.
Đào tạo công nhân tại nơi làm việc là đào tạo trực tiếp, chủ yếu là thực hành ngay trong quá trình sản xuất, do xí nghiệp tổ chức.
Đào tạo tại nơi làm việc được tiến hành dưới hai hình thức : Cá nhân và tổ đội sản xuất. Với hình thức đào tạo cá nhân, mỗi thợ học nghề được một công nhân có trình độ lành nghề cao hướng dẫn. Người hướng dẫn vừa sản xuất, vừa dạy nghề theo kế hoạch. Với hình thức đào tạo theo tổ đội sản xuất, thợ học nghề được tổ chức thành từng tổ và phân công cho những công nhân dạy nghề, thoát ly sản xuất, chuyên trách hướng dẫn.
Những công nhân dạy nghề phải có trình độ văn hoá, trình độ nghề nghiệp và có phương pháp sư phạm nhất định.
Quá trình đào tạo được tiến hành theo các bước :
-Phân công những công nhân có trình độ lành nghề cao, vừa sản xuất vừa hướng dẫn thợ học nghề. Trong bước này, người hướng dẫn vừa sản xuất, vừa giảng cho người học nghề về cấu tạo máy móc , nguyên tắc vận hành, quy trình công nghệ, phương pháp làm việc. Người học nhgề theo dõi quan sát những thao tác, động tác và phương pháp làm việc của người hướng dẫn. Cũng trong bước này, doanh nghiệp hoặc phân xưởng tổ chức dạy lý thuyết cho người học nghề do kỹ sư hoặc kỹ thuật viên phụ trách.
-Giáo viên làm thử cho học viên sau khi đã nắm được những nguyên tắc và phương pháp làm việc, ngưòi học việc tiến hành làm thử dưới sự kiểm tra uốn nắn của người hướng dẫn.
-Giao việc hoàn toàn cho người học nghề. Khi người học nghề có thể tiến hành công việc độc lập được, người hướng dẫn giao việc hẳn cho người học nghề nhưng vẫn phải theo dõi giúp đỡ thường xuyên.
Muốn cho hình thức này đạt hiệu quả tốt, việc kèm cặp trong sản xuất phải được tổ chức hợp lý, có chế độ đồng kèm cặp giữa người dạy và người học, giữa xí nghiệp và người dạy.
Hình thức đào tạo này có ưu điểm :
-Có khả năng đào tạo nhiều công nhân cùng một lúc ở tất cả các doanh nghiệp, phân xưởng. Thời gian đào tạo ngắn. Đây là biện pháp nhằm tái sản xuất sức lao động lành nghề với tốc độ nhanh, đáp ứng kịp thời nhu cầu công nhân kỹ thuật cho thị trường lao động.
-Do đào tạo trực tiếp tại cơ sở sản xuất nên không đòi hỏi điều kiện về trường sở, giáo viên chuyên trách, bộ máy quản lý và thiết bị học tập riêng. Vì vậy doanh nghiệp cũng có thể tổ chức và tiết kiệm chi phí đào tạo.
Trong quá trình học tập, học viên còn được trực tiếp tham gia vào quá trình lao động, góp phần hoàn thành kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp. Đồng thời, quá trình học tập gắn liền với quá trình sản xuất tạo điều kiện cho học viên nắm vững kỹ năng lao động.
Tuy nhiên hình thức này cũng tồn tại một số nhược điểm:
-Học viên nắm lý luận không phải từ thấp đến cao, theo trình tự khoá học, hệ thống.
-Thời gian đào tạo ngắn, chủ yếu vừa sản xuất vừa thực tập. Người dạy nghề không chuyên trách nên thiếu kinh nghiệm. Việc tổ chức lý thuyết còn nhiều khó khăn, do đó kết quả học tập còn hạn chế.
-Học viên không những chỉ học được phương pháp tiên tiến mà còn “bắt chước” cả những thói quen không hợp lý của người hướng dẫn. Vì vậy, hình thức đào tạo này chỉ thích hợp với những công việc không đòi hỏi trình độ lành nghề cao.
2-2.Các lớp cạnh doanh nghiệp .
Đối với nghề phức tạp, việc đào tạo trong sản xuất không đáp ứng được yêu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng. Vì vậy, các doanh nghiệp phải tổ chức các lớp đào tạo riêng cho mình hoặc cho các doanh nghiệp cùng ngành. Hình thức đào tạo này không đòi hỏi phải có đây đủ cơ sở vật chất kỹ thuật riêng, không cần bộ máy chuyên trách mà dựa vào điều kiện sẵn có của doanh nghiệp . Chương trình đào tạo gồm hai phần :
-Phần lý thuyết được giảng dậy tập chung do các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật phụ trách.
-Phần thực hành được tiến hành ở các phân xưởng thực tập và trong các phân xưởng do các kỹ sư, công nhân lành nghề hướng dẫn.
* Hình thức này có ưu điểm :
-Học viên học lý thuyết tương đối có hệ thống và được trực tiếp tham gia lao động ở các phân xưởng, tạo điều kiện cho họ nắm vững nghề. Hình thức này thích hợp với việc đào tạo những công nhân có trình độ lành nghề tương đối cao.
-Thời gian đào tạo dài, số lượng đào tạo tương đối lớn nên có khả năng giải quyết nhu cầu cấp bách về công nhân kỹ thuật.
-Bộ máy quản lý gọn nhẹ , chi phí đào tạo không lớn.
* Nhược điểm :
-Hình thức đào tạo này chỉ áp dụng được ở những doanh nghiệp tương đối lớn và chỉ đào tạo cho các doanh nghiệp cùng ngàng có tính chất giống nhau.
2-3. Đào tạo tại các trường chính quy.
Để đáp ứng yêu cầu sản xuất ngày càng phát triển trên cơ sở kỹ thuật hiện đại, Bộ hoặc các ngành cần tổ chức các trung tâm dạy nghề, các trường dạy nghề tập trung, quy mô tương đối lớn, đào tạo công nhân có trình độ lành nghề cao. Khi tổ chức các trường nghề cần phải có bộ máy quản lý, đội ngũ giáo viên chuyên trách và cơ sở vật chất riêng cho đào tạo. Để nâng cao chất lượng của công tác đào tạo nghề, các trường phải đảm bảo các điều kiện sau :
-Phải có kế hoạch và chương trình đào tạo. Đối với các nghề phổ biến chương trình phải do Bộ lao động - Thương binh - Xã hội và Bộ Giáo dục - đào tạo xây dựng ban hành. Chương trình đào tạo bao gồm hai phần : Lý thuyết và thực hành, không coi nhẹ phần nào.
-Phải có đội ngũ giáo viên dạy nghề có đủ khả năng kinh nghiệm, chuyên môn, giảng dạy.
-Phải được trang bị máy móc, thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập, các phòng thí nghiệm xưởng trường. Những nơi có điều kiện nhà trường cần tổ chức các phân xưởng sản xuất, vừa phục vụ cho việc giảng dạy, vừa tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Đối với những trường hợp không có xưởng sản xuất riêng, nên để ở gần các doanh nghiệp lớn của ngành, tạo điều kiện cho giảng dạy và học tập được thuận lợi. Các tài liệu giảng dạy, giáo trình phải được biên soạn thống nhất cho các nghề các trường. Như vậy, muốn cho việc đào tạo có chất lượng phải đi từ những vấn đề cơ bản của công tác đào tạo nghề, như định rõ mục tiêu của mỗi trường lớp ; Tang cường máy móc trang thiết bị cho giảng dạy, học tập : Đào tạo đội ngũ giáo viên lý thuyết và thực hành cho các nghề : Ban hành những chế độ chính sách cần thiết như quy chế trường lớp, tiêu chuẩn giáo viên, tiêu chuẩn tuyển sinh vào các trường.
* Hình thức náy có ưu điểm :
-Học sinh được học một cách có hệ thống từ đơn giản đến phức tạp, từ lý thuyết đến thực hành, tạo điều kiện tiếp thu kiến thức nhanh chóng, dễ dàng.
-Đào tạo tương đối toàn diện cả về lý thuyết lẫn thực hành, giúp học viên nắm được những kiến thức cơ bản và kỹ năng nghiệp vụ. Với hình thức đào tạo này, khi ra trường, công nhân có thể chủ động, độc lập giải quyết công việc, có khả năng đảm nhận được những công việc tương đối phức tạp, có trình độ lành nghề cao. Đi đôi với việc phát triển của sản xuát và khoa học kỹ thuật, hình thức này ngày càng giữ vai trò quan trọng trong việc đào tạo công nhân kỹ thuật.
* Nhược điểm :
-Đòi hỏi cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, có bộ máy quản lý đội ngũ giáo viên giảng dạy chuyên nghiệp nên chi phí đào tạo khá lớn.
-Thời gian đào tạo dài.
Kế hoạch giảng dạy công nhân kỹ thuật thường chia theo hai giai đoạn : Giai đoạn học tập cơ bản và giai đoạn học tập chuyên môn. Các kế hoạch giảng dạy công nhân kỹ thuật trong giai đoạn học tập cơ bản không thay đổi nhiều và vì thế người ta gọi giai đoạn này là giai đoạn ổn định và thường chiếm 70% - 80% nội dung giảng dạy.
Trong giai đoạn cơ bản nghề được đào tạo theo diện rộng, không những nhằm trang bị cho người học những kiến thức kỹ thuật tổng hợp mà còn giúp họ hiểu được những nguyên lý chung nhất để làm việc sau này. Các chương trình kỹ thuật cơ bản để giảng dạy chung cho mọi người bao gồm : Vẽ kỹ thuật, công nghệ kim loại, kỹ thuật điện, thuỷ lực học ...
Trong giai đoạn học tập chuyên môn, người học được trang bị những kiến thức và rèn luyện những kỹ năng, kỹ sảo nắm vững nghề đã chọn, giúp họ nắm vững được các chế độ làm việc,tính công suất của thiết bị, vận hành máy móc để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng theo đúng quy trình công nghệ.
Trong giai đoạn học tâp chuyên môn cần làm cho người học nghề :
-Biết thao tác trên các thiết bị, làm quen với quy trình công nghệ, các phương pháp tổ chức lao động.
-Nắm vững kiến thức và kỹ năng, hoàn thành những bước công việc khác nhau, tiến đến có những kỹ sảo trong việc làm của mình.
-Nắm được phương pháp lao động tiên tiến của người có năng xuất lao động cao nhất trong sản xuất hoàn thành mức sản lượng, mức thời gian sáng tạo.
-Biết sử dụng đúng các tài liệu các bản vẽ .
-Có tinh thần và ý thức tập thể, chấp hành đúng kỷ luật lao động .
-Biết tổ chức tốt nơi làm việc.
3. Xác đinh hiệu quả kinh tế của đào tạo.
Tính toán hiệu quả kinh tế cho đào tạo công nhân kỹ thuật là một việc cần thiết nhưng phức tạp, cần được nghiên cứu hoàn thiện hơn. Hiện nay người ta thường dùng các chỉ tiêu sau đây cho mọi thành phần kinh tế:
* Chi phí đào tạo cho một công nhân kỹ thuật.
* Tốc độ tăng năng suất lao động sau khi đào tạo.
*Thời gian thu hồi chi phí đào tạo hay tương quan giữa chi phí đào tạo và kết quả thu được.
Chi phí đào tạo (Giá thành đào tạo) được tính theo các yếu tố: Tiền lương của giáo viên dạy nghề, tiền lương của giáo viên hướng dẫn tay nghề, học bổng của học sinh, chi phí quản lý và các chi phí khác.
Hình thức đào tạo
Giá thành đào tạo một công nhân
Phân tích chi tiết
Tiền lương
Chi phí khác
Giáo viên lý thuyết
Giáo viên thực hành
Công nhân hướng dẫn nghề
Học sinh
Chi phí đào tạo thuộc loại đầu tư đặc biệt, kết quả đầu tư biểu hiện ở năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Chi phí đào tạo và kết quả thu được của các hình thức đào tạo có khác nhau.
Tăng năng suất lao động sau khi đào tạo được so sánh bằng kết quả cụ thể trước và sau khi đào tạo .
Hiệu quả kinh tế của việc đào tạo công nhân kỹ thuật còn được xác định bằng việc so sánh chi phí đào tạo. Nếu chi phí đào tạo ít, năng suất lao động cao, thu nhập thuần tuý nhiều thì hiệu quả đào tạo cao và ngược lại. Hiệu quả kinh tế của việc đào tạo công nhân kỷ thuật có thể phản ánh ở thời gian thu hồi chi phí đào tạo và biểu hiện ở công thức sau :
T +Cd / M
Trong đó :
T : Thời gian thu hồi chi phí đào tạo (Năm) .
Cd : Toàn bộ chi phí đào tạo
M : Thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp do công nhân sau khi được đào tạo đưa lại trong một năm.
III. Các yếu tố ảnh hưởng đến đào tạo nghề.
1. Cơ sở vât chất, trang thiết bị của các cơ sở đào tạo nghề.
Đây là yếu tố hết sức quan trọng, nó tác động trực tiếp lên chất lượng đào tạo ngứng với mỗi nghề dù đơn giản hay phức tạp cũng cần phải có các máy móc, trang thiết bị chuyên dùng phục vụ cho giảng dạy và họctập. Trang thiết bị đào tạo nghề giúp cho học viên có điều kiện thực hành để hoàn thành kỹ năng sản xuất. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề càng tốt, càng hiện đạibao nhiêu, theo sát với máy móc phục vụ cho sản xuất bao nhiêu thì người học viên có thể thích ứng, vận dụng nhanh chóng với sản xuất trong doanh nghiệp bấy nhiêu.
Chất lượng của các trang thiết bị, cơ sở vật chất đòi hỏi phải theo kịp tốc độ đổi mới hiện đại hoá của máy móc thiết bị xản suất.
Thực chất ở các cơ sở đào tạo nghề ở nước ta hiện nay, cơ sở vật chất trang thiết bị dạy nghề còn rất hạn chế., lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu đào tạo nghề. Phòng học thiếu thốn nơi thực hành, chỗ nội trú cho học viên. Một phần lớn các trang thiết bị trong các cơ sở dạy nghề không phải là trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo nghề một cách chính quy, nhiều máy móc được thu nhập lại từ nhiều nguốn khác nhau (Chủ yếu là thanh lý của các nhà máy, xí nghiệp ), do đó không có tính đồng bộ về hệ thống, tính sư phạm thấp ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo nghề. Đây là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tuy công nhân qua đào tạo đáp ứng được phần nào các công việc của các doanh nghiệp nhưng hầu hết vẫn phải đào tạo lại để nâng cao khả năng thực hành và tiếp cận công nghệ hiện đại của các cơ sở sản xuất .
2. Giáo viên đào tạo nghề.
Giáo viên đào tạo nghề là người giữ trọng trách truyền đạt kiến thức kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm của mình cho các học viên trên cơ sở thiết bị dạy học. Vì vậy, năng lực giáo viên đào tạo nghề tác động trực tiếp lên chất lượng giảng dạy, đào tạo nghề.
Dạy nghề có những nét khác biệt so với các cấp học khác trong nền giáo dục quốc dan, đó là ngành nghề đào tạo rất đa dạng, học viên vào học nghề có rất nhiều cấp trình độ văn hoá khác nhau. Cấp trình độ đào tạo nghề ở các cơ sở đào tạo nghề cũng rất khác nhau (bán lành nghề, lành nghề, bồi dưỡng nâng bậc thợ). Sự khác biệt đó làm cho đội ngũ giáo viên dạy nghề cũng rất đa dạng với nhiều cấp trình độ khác nhau.
Năng lực của giáo viên dạy nghề tốt thì mới có thể dạy các học viên được tốt bởi vì các học viên nắm được lý thuyết, bài giảng được học viên tiếp thu nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào năng lực giáo viên dạy nghề.
3. Nhận thức của xã hội về đào tạo nghề.
Nhận thức của xã hội về đào tạo nghề tác động mạnh đến công tác đào tạo nghề, ảnh hưởng rõ rệt nhất của nó là tới lượng học viên đầu vào cho các cơ sở dạy nghề. Nếu mọi người trong xã hội đánh giá được đúng đắn hơn tầm quan trọng của việc học nghề thì trước hết lượng lao động tham gia đào tạo nghề sẽ chiếm một tỷ lệ lớn hơn so với toàn bộ số lao động trên thị trường và sẽ có cơ cấu trẻ hơn, đa dạng hơn. Hơn nữa, nếu xã hội nhận thức được rằng giỏi nghề là một phẩm chất quý giá của người lao động, là cơ sở vững chắc để có việc làm và thu nhạp ổn định thì công tác đào tạo nghề sẽ nhận thêm nhiều nguồn lực hỗ trợ cần thiết của xã hội để phát triển mạnh hơn.
Thực tế công tác đào tạo nghề hiện nay chưa được xã hội nhận thức đầy đủ và đúng đắn. Việc làm chuyển biến nhận thức của từng gia đình và toàn xã hội sẽ có ý nghĩa quan trọng trong dạy nghề và học nghề. Không ít gia đình học sinh coi việc và đại học như là con đường duy nhất để tiến thân, kiếm được viẹc làm nhàn hạ. Nhiều thanh niên, nhất là thanh niên nông thôn đã cố công đèn sách để thi vào đại học, thậm chí thi lại nhiều lần nhằm thoát ly quê hương nghèo khổ. Một người thợ bậc cao về làng không một ai biết tới nhưng một “cậu cử” mới ra trường vẫn được coi là danh giá, nên người. Trong con mắt của nhiều người, một người thợ bậc cao ở xí nghiệp vẫn không “oai” bằngngười lao động ở cơ quan nhà nước. Hơn nữa, một cán bộ Nhà nước tốt nghiệp đại học rất có thể được học lên đến thạc sĩ hoặc tiến sĩ nhưng người thợ bậc ba, bậc bốn vẫn khó tìm cơ hội để học lên hoặc nâng coa tay nghề. Điều này khiến nhiều thanh niên bằng mọi cách để thi vào đại học, né tránh đi học nghề, coi việc vào trường nghề là vạn bất đắc dĩ, “chuột chạy cùng sào”.
4. Các chính sách của nhà nước liên quan đến đào tạo nghề.
Hệ thống văn bản, pháp luật, chính sách của Nhà nước tạo hành lang pháp lý, môi trường thuận lợi, khuyến khích đào tạo, phát triển nghề.Cụ thể ở đây là các chính sách đối với học viên học nghề, các chế độ chính sách ưu đãi các cơ sở đào tạo nghề, các chính sách về sử dụng đào tạo sau đào tạo.
Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy nhưng các chính sách đào tạo nghề còn rất nhiều hạn chế như:
-Phần lớn các chíh sách, chế độ mang tính giải pháp, tìh huóng.
-Một số chính sách đã ban hànhđến nay có những điểm không còn phù hợp hoặc thiếu những văn bản hướng dẫn cụ thể.
IV. Sự cần thiết phải phát triển công tác đào tạo nghề.
Quá trình hội nhập và toàn cầu hoá đang diễn ra nhanh chóng, khoa học công nghệ ngày càng được ứng dụng rộng rãi và phát triển mạnh mẽ cơ cấu kinh tế thay đôỉ dẫn đến cơ cấu lao động cũng thay đổi theo hướng tăng lao động kỹ thuật có trình độ lành nghề cao. Để đáp ứng nhu cầu phát triển nàychỉ có thể đạt được bằng công tác đào tạo nghề.
Tài nguyên thiên nhiên, tiền vốn, nhân lực là những nguồn lực vật chất nội tại, cơ bản cho sự phát triển của mỗi Quốc gia. Hiện nay, nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công rẻ về lâu dài không phải là lợi thế phát triển. Lợi thế so sánh của sự phát triển đang chuyển dần yếu tố giàu tài nguyên, tiền vốn, giá nhân công rẻ sang nguồn nhân lực ổn định, có chất lượng cao. Chất sám trở thành nguồn vốn lớn và quý giá; là nhân tố quyết định sự tăng trưởngvà phát triển của mỗi Quốc gia. Sự giàu có về tri thức là thước đo trình độ phát triển giữa các nước.
Đầu cho con người nhằm nâng cao chất lượng cuộc sốngcủa từng cá nhân tạo ra khả năng nâng cao chất lượng cuộc sống cho cả xã hội, từ đó, nâng cao năng suất lao động.Garry Becker, người Mỹ được giải thưởng Nobel kinh tế năm 1992 khẳng định: “Không có đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nhân lực”. Thật vậy, tiềm năng kinh tế của một đất nước phụ thuộc vào trình độ khoa học của đất nước đó. Trình độ khoa học kỹ thuật lại phụ thuộc vào các điều kiện về giáo dục-đào tạo. Đã có nhiều bài học thất bại khi một nước sử dụng ngoại nhập tiên tiến khi tiềm lực khoa học công nghệ trong nước còn non yếu. Sự yếu kém thể hiện ở chỗ thiếu các chuyên gia giỏi vè khoa học-công nghệ và quản lý, thiếu đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề, do đó, không thể tiếp thu, càng không thể khai thác có hiệu quả nên làm giảm hiệu suất của vốn đầu tư. Không có sự lựa chọn nào khác, hoặc là đào tạo các nguồn nhân lực quý giá cho đất nước để phát triển đất nước hoặc phải chịu tụt hậu so với các nước khác.
V.Kinh nghiệm đào tạo nghề ở một số nước.
Đào tạo nghề đóng vai trò quyết định đến sự phát trển bền vững của nền kinh tế. Việc đào tạo nghề rất đa dạng và khác nhau trong từng Quốc gia nhưng chúng ta có thể học kinh nghiệm của các nước đó và áp dụng có chọn lọc.
1. Nhật Bản.
Mô hình đào tạo tại công ty là mô hình đào tạo chủ yếu ở Nhật. Đỉnh cao phát triển mô hình này ở Nhật diễn ra trông thập kỷ 1960, 1970. Đào tạo tại công ty diễn ra mạnh mẽ trong các công ty lớn của Nhật bản . Phần lớn lớp trẻ Nhật sau khi tốt nghiệp phổ thông tham gia vào thị trường lao động, được công ty thuê và tham gia vào quá trình đào tạo nghề do công ty sử dụng tổ chức. Nội dung, chương trình đào tạo tại công ty gồm 2 phần :Định hướng về công ty và kiến thức thực hànhnghề. Định hướng về công ty là chương trình học nhấn mạnh các kiến thức về nền văn hoá của công ty, giá trị của công việc và thái độ làm việc. Nhân viên mới được tuyển nghe giảng về niềm tin và lòng tự hào về công ty và được làm nhân viên của công ty, về sự tự trọng , trách nhiệm và nghĩa vụ. Chương trình học kién thức thực hành nghề được thực hiện chủ yếu thông qua các chỉ dẫn không chính thức trong quá trình làm việc, các cuốn cẩm nang tự học và các khoá tương ứng. Phương thức thực hiện đào tạo kiến thức thực hành nghề là các buổi thảo luận kỹ thuật , thảo luận chất lượng, chuyển đổi vị trí và tự học. Điều quan trọng là nước Nhật có hệ thông giáo dục phổ thông tốt và học sinh tốt nghiệp THPT thường có khả năng học và tự học vững. Hiện nay 80% số học sinh trong độ tuổi theo học THPT với một phần đáng kể trong số họ theo đuổi mô hình đào tạo nghề ban đầu tại công ty và 20% còn lại tham gia hệ thống đào tạo nghề tại trường. Giáo dục phổ thông tốt là điều kiện căn bản để hệ thống đào tạo nghề tại công ty của Nhật vận hành được. Cùng với hệ thống đào tạo này Nhật bản đã đào tạo cho đất nước đội ngũ công nhân lành nghề đa chức năng và trung thành với công ty, góp phần tao nên thần kỳ kinh tế Nhật bản.
2. Hàn Quốc.
Từ giữa thập kỷ 60. Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra kế hoạch đào tạo trên cơ sở kế hoạch nhân lực, nhờ vậy đầu tư sức người và của tập trung để hướng học sinh trung học theo nhánh đào tạo nghề và công nhân kỹ thuật. Một số môn học nghề được đưa vào học trong chương trình THCS, tuy nhiên chuyên môn hoá theo ngành đào tạo chỉ được thực hiện ở cấp trung học bậc trên. Khoảng một phần ba số học sinh theo học trung học bậc cao lựa chọn trung học nghề còn hai phàn ba theo chương trình THPT. Các chuyên ngành được lựa chọn nhiều nhất trong trung học nghề là kỹ thuật và thương mại.
Bên cạnh các trường nghề trung học dành cho đào tạo nghề ban đầu ở Hàn Quốc còn phát triển mạnh mẽ các trung tâm dạy nghềvà đào tạo lại. Cả nước có khoảng 90 trung tâm như vậy và đào tạo nghề ở đây chủ yếu giới hạnở các khoá ngắn hạn đào tạo các kỹ năng hành nghề trực tiếp. Phần lớn chi phí cho các trung tâm này được nhà nước hỗ trợ. Song các học viên vẫn phải đóng học phí cho các khoá học này. Đồng thời chính phủ Hàn quốc còn khuyến khích mạnh mẽ các công ty thực hiện đào tạo tại chỗ.
3. Singapore
Đào tạo nghề phát triển mạnh mẽ vào những năm 80. Lĩnh vực có sự phát triển và mở rộng nhanh chóng là giáo dục nghề sau trung học, còn giáo dục nghề trung học tuy có phát triển song chỉ chiếm phần nhỏ. Trong giáo dục trung học, phần lớn học sinh trong độ tuổi theo học THPT.
ở Xingapo tuy giáo dục nghề trung học ít được Chính phủ khuyến khích song nó lại là một phần thống nhất không tách rời trong chiến lược phát triển nhân lực. Với chiến lược tái cơ cấu kinh tế đưa ra năm 1979, mục đích của Xingapo là chuyển sang các hoạt động có giá trị gia tăng cao mà chủ yếu là các dịch vụ cao cấp tài chính và ngân hàng nên điểm mạnh của đào tạo nghề tại nước này là sau trung học và đào tạo lại cho lực lượng lao động hiện hành. Đồng thời với công cuộc tái cơ cấu nền kinh tế chiến lược sử dụnglao động được chuyển dịch từ dựa vào lao động có kỹ năng trong nước.
Cùng với các chương trình đào tạo lại, các chương trìng đào tạo nghề ban đầu được đẩy mạnh đặc biệt là ở cấp sau trung học, do vậy cơ cấu nghề đã được chuyển đổi mạnh mẽ.
Phần hai
Phân tích thực trạng đào tạo nghề ở Phú Thọ.
I. Một số nét khái quát về tỉnh Phú Thọ.
1. Đặc điểm tự nhiên.
Phú Thọ là tỉnh miền núi gồm 12 huyện, thành thị với 270 xã, phường , thị trấn (trong đó có 8 huyện, 214 xã, thị trấn là miền núi ), Tổng diện tích tự nhiên là 3.465 Km2, dân số trung bình năm 1999 là1.264.967 người, bao gồm 21 dân tộc anh em, trong đó dân tộc kinh là chủ yếu. Trong tổng số , nữ chiếm 51,4%; dân cư đô thị chiếm 14,24% ; dân cư sống ở nông thôn chiếm 85,76%. Mật độ dân số 370,6 người/Km2. Tốc độ tăng dân số bình quân hàng năm khoảng 1,71%.
Về điều kiện tự nhiên, Phú Thọ có lợi thế về vị trí địa lý: Phú thọ nằm tiếp giáp giữa vùng Đông Bắc, Đồng bằng sông Hồng và Tây Bắc, có vị trí địa lý mang ý nghĩa trung tâmcủa tiểu vùng Tây- Đông Bắc, đó là yếu tố phát triển quan trọng và là một trong những lợi thế tiềm ẩn cần được phát huy một cách triệt để phục vụ cho phát triển KT- XH của tỉnh. Phía Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang và Yên Bái; Phía Tây và Nam giáp tỉnh Sơn La và Hoà Bình ; Phía Đông giáp tỉnh Hà Tây và Vĩnh Phúc. Thành phố Việt Trì là thủ phủ của tỉnh nằm ở vị trí “Ngã ba sông” , cửa ngõ giao lưu kinh tế văn hoá, KH- KT giữa các tỉnh đồng bằngBắc bộ với các tỉnh miền núi phía Tây, Đông Bắc, Phú thọ có mạng lưới giao thông thuận lợi bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thuỷ. Trong tương lai khi quốc lộ 2, 70, 32 và đặc biệt là khi cầu Trung Hà được xây dựng, cải tạo nâng cấp sẽ mở ra cơ hội mới cho Phú Thọ trong việc giao lưu, hợp tác với các trung tâm kinh tế lớn, các tỉnh trung du, miền núi và cả nước.
Phú Thọ tuy không thuộc tỉnh giàu tài nguyên, khoáng sản nhưng có một số loại tài nguyên, khoáng sản có ý nghĩa tạo cơ sở cho sự phát triển công nghiệp như đá xây dựng, cao lanh....
Phú Thọ có tiềm năng du lịch như khu di tích Đền Hùng- trung tâm văn hoá tâm linhcội nguồn của cả nước; có đầm Ao Châu, khu rừng nguyên sinhXuân Sơn và nhiều di tích lịch sử với kiến trúc đẹp, phong phú. Nếu kết hợp các danh lam thắng cảnh , di tích lịch sử kiến trúc trong tỉnh và mở tuyến nối với các tỉnh Bắc bộ (nhất là Hà Nội , Hải Phòng, Hà Tây, Vĩnh Phúc) thì sẽ có được những tuyến du lịch hấp dẫn du khách trong nước và quốc tế.
2. Đặc điểm kinh tế- xã hội.
Kể từ sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cùng với cả nước, Phú thọ chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Có thể nói nền KT - XH trong 15 năm qua trải qua 2 giai đoạn:
- Những năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986- 1990), nhiều nhà máy, xí nghiệp , cơ sở dịch vụ thua lỗ, phải đóng cửa hoặc sản xuất cầm chừng. Hàng nghìn cán bộ, công nhân nghỉ việc, nền KT- XH rơi vào khủng hoảng trầm trọng.
- Từ năm 1991 đến nay, nền kinh tế dần ổn định, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Xuất hiện nhân tố mới ở nhiều thành phần kinh tế. Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất sử dụng nhân lực có linh hoạt hơn , đòi hỏi cao hơn về chất lượng, hợp lý về cơ cấu ngành nghề.
Quá trình xây dựng và phát triển đã sớm tạo cho Phú Thọcó các cụm công nghiệp ở Việt Trì - Phong Châu - Thanh Ba. Cùng với sự phát triển công nghiệp, đã hình thành vùng nguyên liệu gắn với khu công nghiệp chế biến như : Chè, Giấy... cơ sở nghiên cứu khoa học của TW thuộc các lĩnh vực nông, lâm nghiệp, công nghiệp do đó đã sớm hình thành đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cơ cấu công nghiệp chiếm tỷ trọng cao tạo tiền đề rất cơ bản đối với cơ cấu công nghiệp - nông lâm nghiệp - dịch vụ của tỉnh trong những năm tới.
Hiện nay , trên địa bàn tỉnh có 118 doanh nghiệpbao gồm : 42 doanh nghiệp TW ; 60 doanh nghiệp địa phương ; 6 doanh nghiệp có vốn đàu tư nước ngoài ; 10 doanh nghiệp cổ phần hoá.
Công nghiệp tuy được hình thành sớm song phần lớn các doanh nghiệp địa phương đề nhỏ bé, công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, chất lượng và hiệu quả sản xuất thấp, sức cạnh tranh và khả năng chiếm lĩnh thị trườngthấp. Công nghiệp ngoài quốc doanh có biểu hiện sa sút.
Nông, lâm nghiệp được xác định là lĩnh vực quan trọng nhất để giải quyết việc làm . Trong những năm qua Phú Thọ đã tập trung khai thác và sử dụng có hiêu quả đất trống ,đồi núi trọc, diện tích hoang hoá, khả năng tăng vụ , tăng diện tích đất nông nghiệp, tiềm năng kinh doanh đất rừng phục vụ nguyên liệu giấy, sử dụng mặt nước ao hồ nuôi trồng thuỷ sản ,phát triển đàn gia súc gia cầm. Trong điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp, tỉnh đã chú trọng công tác đổi mới tổ chức, đổi mới cơ chế quản lý . Đối với các lâm trường quốc doanh- những đơn vị nắm phần lớn đất đai đồi rừng đã thực hiện giao đất, giao rừng cho người lao động, nông lâm trường làm nhiệm vụ cung ứng vật tư, hướng dẫn kỹ thuật, công nghệ sản xuất chế biến, tiêu thụ sản phẩm . Đối với hợp tác xã nông nghiệp tuy công tác chuyển đổi chưa làm được nhiều nhưng do chủ trương mở cửanên phần lớn các hợp tác xã đã tự chuyển đổi về chất: Đất đai và các tư liệu sản xuất chủ yếu đều được giao lâu dài cho nông dân, ban quản lý hợp tác xã tự thu gọn làm dịch vụ là chính... Nhờ có cách làm đúng, kết quả về kinh tế làm tăng giá trị sản xuất ngành nông lâm ngư nghiệp từ 721. 284 triệu (năm1995 ) lên 9.040 triệu đồng (năm 1999 ),về làm đã tạo thêm nhiều chỗ làm mới, tăng thêm việc làm những lúc nông nhàn, giảm tỷ lệ thiếu việc làm trong nông thôn từ 37,5% xuống còn 25,84% bình quân mỗi năm giảm 0,41%.
Hệ thống cầu đường bến cảng, cơ khí vận tải đã và đang đổi mới cách nghĩ cách làm , áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ tiên tiến để nâng cao năng xuất, chất lượng, hiệu quả . Các tuyến đường , cây cầu , bến cảng đã và đang được xây dựng , các phương tiện vận tải được đổi mới góp phần không nhỏ phục vụ cho sưn nghiệp CNH- HĐH của tỉnh. Phong trào làm GTNT đã thực sự đổi mới nông thôn, góp phần xoá đói giảm nghèo và phục vụ thuận lợi cho giao lưu kinh tế, chính trị xã hội và sự đi lại của nhân dân.
Tốc độ tăng GDP trung bình toàn tỉnh trong 5 năm qua (1996 - 2000 ) là 8,3% năm, đây là tốc độ tăng GDP tương đối khá, thể hiện sự tăng trưởng rõ rệt của Phú thọ. Tuy nhiên, thu nhập GDP bình quân đầu người còn thấp.
Biểu 1: Giá trị và cơ cấu GDP theo ngành kinh tế tỉnh Phú Thọ.
Chỉ tiêu
1990
1995
1999
1999/1990
I. Cơ cấu ngành
Công nghiệp- xây dựng
Nông lâm nghiệp.
Thương mại - dịch vụ
27,6
45,9
26,5
31,1
36,7
30,2
36
29,7
34,3
+ 8,4
- 16,2
+7,8
II. GDP/ người
-
-
2.427.012
Nguồn : Quy hoạch phát triển KT- XH tỉnh Phú Thọ.
Tỷ trọng của ngành CN- XD và TM- DV năm 1999 so với năm 1990 tăng đáng kể, tỷ trọng ngành nônglâm nghiệp giảm mạnh. Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch đúng hướng tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thực hiện theo chủ trương CNH- HĐH.
Do nền kinh tế có sự tăng trưởng khá, do thưc hiện các chương trình xoá đói giảm nghèo, khuyến khích các cá nhân và gia đình phát triển sản xuất kinh doanh giỏi, biết cách làm giàu ... nên đời sống của các tầng lớp dân cư tỉnh Phú Thọ ngày càng được cải thiện . Tỷ lệ số hộ đói nghèo giảm : năm 1993 số hộ đói nghèo của toàn tỉnh chiếm tỷ lệ 26,7% đến năm 1999 giảm xuống còn 16,4%. Các chương trình văn hoá xã hội như y tế, giáo dục đào tạo, kế hoạch hoá gia đình... được triển khai kịp thời góp phần quan trọng thúc đẩy các hoạt động xã hộichuyển biến tích cực lành mạnh. Là một trong sáu tỉnh đạt tiêu chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học sớm nhất toàn quốc, đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân ngày càng tăng . Chính sách đối với thương binh , gia đình liệt sĩ , gia đình có công với nước được thực hiện tốt. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững và tăng cường, các tệ nạn xã hội ngày càng giảm.
Một số thành tựu kinh tế - xã hội chủ yếu ( tính bình quân 1996- 2000 ):
- Tốc độ tăng GDP 8,3% năm (Cả nước 6,7%/ năm )
- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,9%/ năm trong đó công nghiệp TW tăn g10,8%, công nghiệp địa phương tăng 16,6%, công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 31,6%.
- Giá trị sản xuất nông lâm nghiệp tăng 4,55%/ năm , sản lượng lương thực quy ra thóc đạt 36,8 vạ tấn , lương thực bình quân đầu người 288 kg.
- Giá trị các ngành dịch vụ tăng 8,06% / năm
- Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 65 triệu USD
- Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2000 đạt 1,2%
- Cơ bản xoá hộ đói , hộ nghèo còn 12%.
3. Đặc điểm về lao động .
Phú Thọ sau khi được tái lập vẫn là tỉnh có dân số đông so với các tỉnh trung du miền núi khác.
Biểu 2. Dân số và biến động dân số.
Đơn vị :%
Chỉ tiêu
Đơn vị
1997
1998
1999
1999/1997
Dân số trung bình
Tỷ lệ sinh thô dân số
Tỷ lệ chết thô dân số
Tỷ lệ tăng tự nhiên
Người
%
%
%
1.237.499
21,97
4,99
16,98
1.251.156
20,29
4,87
15,42
1.264.967
17,71
4,16
13,55
+27.468
- 4,26
- 0,83
- 3,43
(Nguồn : Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ)
So với năm 1997 thì sau 2 năm dân số toàn tỉnh tăng 27,468 người, tỷ lệ tăng dân số bình quân là 1,22% . tỷ lệ tăng dân số 3 năm 1997 - 1999 có xu hướng giảm. Tỷ lệ tăng dân số bình quân thấp hớno với tỷ lệ tăng tự nhiên về dân số chứng tỏ di dân từ Phú thọ sang các tỉnh khác lớn hơn so với di dân từ các tỉnh khác vào Phú thọ. Tỷ lệ sinh thô và chết thô ngày càng giảm là do các chính sách đúng đắn được phổ biến tới từng người dân, các dịch vụ về y tế, văn hoá, giáo dục ... ngày càng được nâng cao.
Nguồn lao động của tỉnh Phú Thọ rất dồi dào chiếm trên 50% so với dân số. Số người trong độ tuổi lao động năm 1999 là 630,6 nghìn người chiếm 49,855 so với dân số. Số người trong độ tuổi LĐ là 621,5 nghìn người chiếm 49,13% dân số.
Biểu 3. Dân số và nguồn lao động tỉnh Phú Thọ.
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
1999/1997
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
I Dân số trung bình
1237.499
1.215.156
1.264.967
II. Nguồn lao động LĐ
1.Số người trong độ tuổiLĐ
a.Mất khả năng LĐ
b.Có khả năng LĐ
2.Sốngười ngoài tuổicó tham gia lao động
a.Trên tuổi lao động
b.Dưới tuổi LĐ
643,4
614,6
12,5
602,4
41,0
35,0
6,0
52
49,7
1,01
48,7
3,3
2,8
0,5
655,3
622,6
9,6
614,0
41,3
35,6
5,7
52,4
49,9
0,77
49,1
3,3
2,85
0,46
662,5
630.6
9.1
621,5
41,0
35,5
5,5
52,4
49,9
0,72
49,13
3,24
2,81
0,43
19,1
16,0
-3,4
19,4
0
0,5
-0,5
+2,97
+2,60
-2,7
3,17
0
1,43
-8,33
(Nguồn : Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ)
Nguồn LĐ tăng là do dân số trong độ tuổi LĐ tăng. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi có khả năng LĐ so với dân số có xu hướng tăn glà do mức sinh của Phú Thọ những năm 1981, 1982, 1983 cao . Số người trong độ tuổi LĐ có khả năng LĐ ngày càng tăng, mất khả năng LĐ ngày càng giảm.
Cơ cấu LĐ theo ngành vẫn còn lạc hậu, lao động trong ngành nông lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trong cao, trong nông thôn còn 25,84% quỹ thời gian chưa sử dụng hểttong khi tiềm năng phát triển nông lâm nghiệp còn rất lớn.
Người lao động Phú thọ có tinh thần hiếu học, cần cù, năng động sáng tạo có khả năng tiếp thu nhanh KH- KT, có nguồn lao động dồi dào, đội ngũ lao động công nghiệp.
Trong điều kiện hiện nay, với những chủ trương, định hướng phát triển KH- KT đúng đắn , cùng với sự hoàn thiện từng bước cơ sở hạ tầng như giao thông, điện, thông tin liên lạc, trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, những thế mạnh, tiềm năng đang được khai thác, sử dụng hợp lý. Đó là những điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế, tạo mở việc làm và đào tạo nguồn nhân lực.Tuy nhiên Phú Thọ vẫn là một tỉnh nghèo, cân đối ngân sách chưa đủ chi, thu nhập bình quân đầu người còn thấp hơn mức trung bình của cả nước , trình độ sản xuất chưa cao. Kinh tế hàng hoá chưa phát triển, tập quánvà trình độ sản xuất của đại đa số dân cư còn lạc hậu, mang tính tiểu nông. Những tồn tại này ảnh hưởng không ít dến sự phát triển KT- XH, tạo mở việc làm và đào tạo nghề cho người lao động.
II. Phân tích thực trạng đào tạo nghề cho người lao đông tỉnh Phú Thọ.
1. Phân tích quy mô, cơ cấu đào tạo nghề qua các năm.
1.1. Hệ thống đào tạo.
Cùng với sự phát triển KT- XH, trên địa bàn của tỉnh đã có hệ thống các trường đào tạo (tuy chưa thật đầy đủ) cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật và các cơ sở đào tạo nghề của TW và địa phương.
* Hệ thống các trường và đơn vị do TW quản lý.
- Trường cao đẳng hoá chất.
- Trường công nhân cơ điện I (Bộ NN và PTNT)
- Trường công nhân kỹ thuật lâm nghiệp 4 (Bộ NN và PTNT)
- Trường đào tạo nghề giấy (Tổng công ty giấy VN)
- Trường đào tạo nghề hoá chất( Tổng công ty phân bón và Hoá chất)
- Trường công nhân kỹ thuật xây dựng Việt Trì (Tông công ty XD sông Hồng)
- Trung tâm dịch vụ việc làm quân khu II
- Cơ sở dạy nghề của trung tâm dịch vụ việc làm (Cục quản lý xe máy- Bộ quốc phòng).
- Trung tâm công nghiệp thực phẩm.
* Các cơ sở dạy nghề do địa phương quản lý.
Thực hiện quy hoạch mạng lưới cơ sở dạy nghề đến năm 2010, tỉnh đã triển khai sắp xếp lại và phát triển hệ thống các cơ sở đào tạo nghề địa phương như sau:
- Trường dạy nghề tỉnh Phú thọ (Sở LĐTBXH )
- Trung tâm dich vụ việc làm Phú Thọ ( Sở LĐTBXH )
- Trung tâm dạy nghề Công đoàn (Liên đoàn LĐ tỉnh )
- Trung tâm xúc tiến việc làm thanh niên (Tỉnh đoàn TNCS)
- Trung tâm nâng cao kiến thức phụ nữ (Tỉnh hội phụ nữ )
- Trung học kinh tế và kỹ nghệ thực hành.
- Trung học nông lâm.
1.2 Phân tích quy mô đào tao qua các năm.
Phú Thọ là tỉnh có nguồn LĐ dồi dào, số người trong độ tuổi LĐ năm 1999 là 630,6 nghìn người chiếm 49,85% so với dân số. Số người trong độ tuổi LĐ có khả năng LĐ là 621,5 nghìn ngwoif chiếm 49,1% dân số. Trong đó số người đang làm việc trong nền KTQD là 596 nghìn người, cụ thể như sau:
Biểu 4: Cơ cấu lao động theo ngành nghề.
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
1999/1997
1.Số người đang làm việc trong nền KTQD
a.Nông lâm nghiêp, thuỷ sản
b.Công nhân xây dựng
c.Thưong mại dịch vụ
2.Học sinh trong độ tuổi LĐ
a.Học sinh chuyên nghiệp-nghề
b.Học sinh phổ thông
3.số người trong độ tuổi LĐ làm nội trợ và chưa có việc làm.
582,9
469,2
62,0
50,2
43,3
8,4
34,9
17,2
589,4
4721,4
63,9
51,7
48,1
8,5
39,6
17,8
596,0
476,4
64,64
54,96
50
9,0
41,0
16,5
+13,1
+7,2
+2,64
+4,94
+6,7
+0,6
+6,1
- 0,7
(Nguồn :Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ )
Qua số liệu trên ta thấy:
Đã có sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng :tăng tỷ trọng LĐ trong ngàng công nghiệp - xây dựng từ 10,64% (62,0/582,9) năm 1997 lên 10,86% (64,64/596,0 )năm 1999, ngành thương mại dịch vụ từ 8,73 năm 1997 lên 9,3 năm 1999, giảm tỷ trọng lao động trong ngành nông lâm nghiệp từ 80,5% năm 1997 xuống còn 79,8% năm 1999. Cơ cấu lao động đang chuyển dịchtheo hướng tích cực (mặc dù còn chậm ) tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển thực hiện theo chủ trương CNH-HĐH .
Nguồn lao động dồi dào, đặc biệt là lực lượng lao động trẻ ở nhóm tuổi từ 16 - 35 đây là nhóm có ưu thế về sức khỏe, sức vươn lên, năng động và sáng tạo . Về lâu dài đó là một thế mạnh nếu chúng ta có những chính sách đào tạo đúng đắn và hợp lý. Ngược lại, sẽ là một bất lợi về mặt kinh tế do những khó khăn về mặt việc làm, giáo dục đào tạo, xã hội ...
Trong thời gian qua, đặc biệt là những năm gần đây Phú thọ đã có nhiều cố gắng trong việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, từ năm 1996 đến năm 1999toà tỉnh đã đào tạo được gần 30 ngàn người để bổ xung cho nguồn nhân lực. Như vậy, bình quân mỗi năm tỉnh đào tạo được khoảng 7000 ngàn người có trình độ chuyên môn kỹ thuật. Số được đào tạo đã góp phần nâng tỷ lệ lao động đã qua đạo tạo từ 15,4% năm 1996 lên 18,2% năm 1999 .
Quá trình phát triển sớm tạo cho Phú thọ có các cụm công nghiệp ở Việt Trì - Phong Châu - Thanh Ba. Tỉnh có nhiều thế mạnh như giấy, nguyên liệu giấy, hoá chất và nhiề ngành nghề khác. Trên địa bàn tỉnh có nhiều công ty lớn như : Công ty giấy Bãi Bằng, Công ty Super hoá chất Lâm Thao, Công ty giấy Việt Trì v.v..đòi hỏi đào tạo nghề phaỉo chú trọng, quan tâm và coi đó là mũi nhọn để đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.
Biểu 5 : Quy mô đào tạo nghề của các trường qua các năm.
(Đơn vị người)
Tên trường
1997
1998
1999
1999/1997
SL
%
1- Trường đào tạo nghề giấy
2- Trường đào tạo nghề hoá chất
3- Trường CNKT Lâm nghiệp 4
4- Trường cao đẳng hoá chất
5- Các trường khác
6- Tổng số
526
870
638
300
3.950
6.484
545
800
1.475
320
4.260
7.400
840
1.104
1.312
350
4.822
8.428
+ 314
+ 234
+ 674
+ 50
+ 872
+ 1944
+ 59,7
+ 26,9
+ 105,6
+ 16,7
+ 22,1
+ 29,9
(Nguồn : Phòng đạo tạo nghề - Sở TBXH tỉnh Phú Thọ)
Quy mô đào tạo của các trường trong tỉnh những năm qua tăng nhanh nhất là những trường đào tạo về nghề giấy, hoá chất, lâm nghiệp... là những ngành kinh tế quan trọng và mang tính chiến lược của tỉnh. Quy mô đào tạo năm1999 so với năm 1997 : Trường đào tạo nghề giấy tăng 59,7% (314 người), Trường đào tạo nghề hoá chất tăng 26,9% (234 ngưòi ; Trường công nhân kỹ thuật lâm nghiệp 4, tăng 105,6% (674 người ). Đây là mức tăng quy mô tương đối lớn của các trường nhằm giải quyết nhu cầu bức xúc về công nhân kỹ thuật tron gthời điểm hiện tạivà tương lai. Tuy nhiên , quy mô đào tạo vẫn còn nhỏ bé chưa đáp ứng yêucầu về công nhân ký thuật của các ngành nghề . Quy mô đào tạo chỉ tăng ở một số ngành nghề còn lại tăng rất chậm thậm chí không tăng dẫn đến nơi thừa, nơi thiếu làm hạn chế sự phát triển.
Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng liên tục qua các năm ở các ngành nghề nhất là trong ngành công nghiệp - Xây dựng tăng 3,3 % (từ 45,3% năm 1997 lên 48,6% năm 1999) và ngành thương mại - dịch vụ tăng 3,2 % ( từ 51,1 năm 1997 lên 54,3 % năm 1999) . Tuy nhiên , với nông lâm nghiệp , thuỷ sản tỷ lệ lao động qua đạo tạo đã quá thấp lại không mở rộng quy mô tương xứng trong khi tiềm năng phát triển nông lâm nghiệp, thuỷ sản còn rất lớn.
Biểu 5 : Tỷ lệ lao động qua đào tạo của các ngành.
Chỉ tiêu
đơn vị
1997
1998
1999
1999/1997
1. Tổng số lao động
2. Tỷ lệ lao động qua đào tạo
- Công nghiệp - xây dựng
- Thương mại - dịch vụ
- Nông lâm thuỷ sản
Nghìn người
%
%
%
%
643,4
16
45,3
51
6,9
655,3
17
46,7
52
7,3
662,5
18,2
48,6
54,2
7,9
+ 19,1
+ 2,2
+ 3,3
+ 3,2
+ 1,0
(Nguồn : Thực trạng lao động - việc làm năm 1999.)
Lực lượng lao động nông ngiệp Phú thọ hiện có đến 478.000 người chiếm 79,8% lực lượng lao động của tỉnh . Số lao động đã được đào tạo kỹ thuật rất ít, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo mới chiếm 0,9% nếu tính cả số lao động nông nghiệp được tập huấn bồi dưỡng kỹ thuật thì mới đạt tỷ lệ 7,9%. Bên cạnh việc đào tạo cán bộ có trình độ trung cấp, ngành nông nghiệp đã tổ chức hệ thống khuyến nông từ tỉnh đến huyện làm nhiệm vụ tập huấn chuyển giao kiến thức cho nông dân.
Biểu 7 : Báo cáo kết quả tập huấn kỹ thuật cho nông dân.
(Đơn vị : Lượt người)
Ngành nghề
1998
1999
2000
1. Trồng trọt
2.Chăn nuôi
3. Thú y
4. Bảo vệ thực vật
5. Thuỷ sản
6. Lâm nghiệp
7. Khuyến nông
8. Dự án PTNTMN đào tạo theo các chuyên đề
6.214
3.434
130
2.730
828
1.450
102
6.580
8820
4.327
90
15.441
740
1.724
209
6.700
13.458
5.374
160
9.996
1.380
2.488
500
6.621
(Nguồn sở nông nghiệp phát triển nông thôn Phú Thọ)
Ngoài ra còn tổ chức đào tạo cho các đối tượng người tàn tật, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn gần 1000 người, các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức đào tạo theo hình thức kèm cặp truyền nghề cho gần 120 người gồm các ngành nghề : mộc, nề, thủ công mỹ nghệ, may mặc, ... công tác truyền nghề, kèm cặp nâng cao tay nghề ở các làng nghề truyền thống tạo điều kiện, phát triển các làng nghề góp phần phân công lại lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động trong năm của lao động tại địa phương, giảm thất nghiệp trá hình. Tuy nhiên quy mô đào tạo này còn nhỏ bé và mang tính chất tự giác, tự phát chứ chưa có hệ thống tổ chức đào tạo, kèm cặp, truyền nghề mang tính hệ thống khoa học và hiệu quả.
1.3 Phân tích cơ cấu chất lượng đào tạo qua các năm .
Cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực trong những năm qua nói chung và đội ngũ công nhân kỹ thuật nói riêng chưa hợp lý. Số công nhân kỹ thuật và thợ có tay nghề cao còn quá ít . đã thế việc sử dụng và bố trí lại chưa hợp lý. Do vậy không những phát huy được tốt hơn mà ngày càng mai một đội ngũ này.
Biểu 8 : Cơ cấu đào tạo qua các năm.
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
1. Lao động trong độ tuổi có khả năng lao động.
Trong đó: có CMKT.
2. Tỷ trọng lao động có CMKT
+ CĐ, ĐH, trên ĐH
+ THCN
+ CNKT
602,4
100,8
16
16,3
32,6
51,1
614,0
104,38
17
16,6
32,4
51
621,5
113,1
18,2
17
31
52
(Nguồn : Báo cáo công tác đào tạo nghề năm 1999.)
Như vậy từ năm 1997 đến nay tỉnh đã có nhiều có gắng trong công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực nói chung và đào tao nghề nói riêng đã đưa tổng số lao động đã qua đào tạo từ 16% (nă 1997) lên 18,2% (năm 1999). Trong tổng số lao động trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động năm 1999 là 621,5 nghìn người, số có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm 18,2% so với năm 1997 tăng 2,2%, số còn lại81,8% là lao động phổ thông chưa qua đào tạo . Như vậy hiện tại ở Phú thọ cứ 1000 lao động trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động trong nền kinh tế quốc dân mới có 182 người có trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Theo số liệu điều tra và báo cáo của 118 doanh nghiệp TW và địa phương đóng trên địa bàn (khôngđiều tra các doanh nghiệp thuộc ngành bưu điện, vận tải đường sắt ) cho thấy :tổng số công nhân kỹ thuật là 31.692 người được phân bổ vào các ngành kinh tế quốc dân: Công nghiệp 66% (20.977 người ); nông lâm nghiệp, thuỷ sản 6,4% (2.060 ngưòi ); ngành XDCB 14,6% (4.711)ành GTVT 7% (2.240 ngưòi ), ngành du lịch và các ngành dịch vụ khác 6% (1.704 ngưòi).
Trong tổng số CNKT :31.692 người được xếp theo trình độ tay nghề như sau:
Bậc 2- 3 có 39% (13.678 người )
Bậc 4-5 có 42.83% (15. O78 người)
Bậc 6 có 7,45% (2.633 người )
Bậc 7 có 0,8% (303 người )
Như vậy so với yêu cầ thực tế thì thợ có trìng độ lành nghề , thợ bậc coa có nhiều kinh nghiệm lâu năm rất ít. Nguyên nhân là do những năm 1988- 1991 các doanh nghiệp tiến hành sắp xếp lại sản xuất cho người lao động đủ năm công tác nghỉ hưu, nghỉ mất sức lao động , chạy ra ngoài làm (chủ yếu là thợ bậc cao), mặt khác chế độ đãi ngộ và khuyến khích thợ bậc cao chưa được các doanh nghiệp quan tâm hoặc không có nhu cầu sử dụng nên không tổ chức đào tạo , bồi dưỡng , nâng cao tay nghề cho người lao động .
Đáng chú ý là sự mất cân đối về tỷ trọng đào tạo giữa đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, công nhân kỹ thuật. Năm 1990 tỷ lệ đại học , cao đẳng là 15,6%, trung học chuyên nghiệp là38,5% , công nhânkỹ thuật44,9% đến năm 1999 tỷ lệnày là 17%; 31%; 52%. Vậy cơ cấu đào tạo của Phú thọ thể hiện qua tỷ lệ giữa đại học, cao đẳng - trung học chuyên nghiệp - công nhân kỹ thuật hiện nay là 1- 1,8 -3,0. Trong khi ở các nước kinh tế phát triển tỷ lệ này là 1- 4- 10. Chứng tỏ đội ngũ công nhân kỹ thuật của tỉnh thiếu nghiêm trọng. Nguyên nhân của tình trạng này là do sự điều tiết của nhà nước chưa hiệu quả Thể hiện :
- Việc điều tiết quản lý , giám sát thực hiện các chỉ tiêu tuyển sinh ở các bậc học, ngành học, khối học ... còn bất hợp lý. Các trường , các ngành học... mở rông hoặc thu hút chỉ tiêu tuyển sinh tuỳ ý dẫn đến tình trạng có những chuyên ngành thừa lại càng thừa, thiếu lại càng thiếu.
- Các chính sách , biện pháp khuyến khích theo hoc những ngành học , khối ngành học mà xã hội cần nhưng bản thân đối tượng không muốn theo học chưa hiệu quả.
- Việc mở rộng tràn lan các loại hình đào tạo cũng là một nguyên nhân gây ra tình trạng này
Như vậy hình tháp trí tuệ đã biến thành một hình chữ nhật với hai canh đáy gần bằng nhau. Phú Thọ chưa có nhiều lực lượng lao động có học hàm học vị cao nhưng rất thiếu đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề. Số công nhân kỹ thuật và thợ có tay nghề cao còn quá ít , đã thế việc sử dụng và bố trí không hợp. Khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn về tỷ trọng lực lượng có trìng độ chuyên môn kỹ thuật ngày cang rộng ra .Năm 1997, tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật của thành thị và nông thôn lần lượt là 31,5% và 7,2% thì đến năm 2000 co số này là 33,7% và 7,8%. Do vậy mức chênh lệch về tỷ lệ lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật của thành thị và nông thôn vào các năm1997 và 2000 là 24,3% (31,5- 7,2%) và 25,9 (33,7- 7,8) tăng 1,6%. Bên cạnh đó tỷ lệ gia tăng khác nhau. Lao động không có chuyên môn kỹ thuật giảm ở thành thị, tỷ lệ này giảm từ 68,5% (1997) xuống còn 66,3% (2000) đối với lực lượng lao động nông thôn, tỷ lệ này giảm từ 92,8% (1997) xuống còn 92,2% (2000). Như vậy tốc độ gia tăng tỷ lệ lao động có chuyên môn kỹ thuật của thành thị lớn hơn nhiều so với tỷ lệ này của nông thôn . Cơ cấu giữa các loại lao động rất bất hợp lý . Điều này dẫn đến thiếu công nhân kỹ thuật , kỹ thuật viên và giám sát chất lượng nguồn nhân lực.
Xem xét trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động Phú Thọ qua các năm 1997- 1999 chúng ta nhận thấy một số nét cơ bản sau :
Biểu 9 : Nguồn lao động chia theo trình độ CMKT.
Trình độ CMKT
1997
1998
1999
1999/1997
Không có CMKT
Sơ cấp và CNKT không bằng
CNKT có bằng
THCN
CĐ, ĐH, Trên ĐH
554.213
17.012
18.561
28.882
10.989
590.794
21.565
16.399
25.474
12.563
567.279
15.676
23.160
32.945
14.343
+ 13.066
- 1.336
+ 4.599
+ 4.063
+ 3.354
(Nguồn : Thực trạng lao động - việc làm năm 1999)
Theo số liệu ở bảng trên ta thấy : Về số lượng lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật tăng 13.066 người ( Từ 554.213 người /năm 1997 lên 567.279 người / năm 1999 ). Nhưng so sánh về tương đối thì lại giảm 2,2% (Từ 84% năm 1997 xuống còn 81,8% năm 1999 ). Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 1999 so với năm 1997 tăng 2,2% (Từ 16% năm 1997 lên 18,2% năm 1999 ). Đây là dấu hiệu tích cực phản ánh chất lượng nguồn nhân lực ngày càng tăng. Tuy nhiên tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật như vậy vẫn còn thấp chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Hơn nữa, cơ cấu còn bất hợp lý làm cảc trở sự phát triển .
Trình độ văn hoá của người lao động còn thấp điều này được thể hiện ở biểu sau :
Biểu 10 : Trình độ văn hoá của lực lượng lao động tỉnh Phú thọ.
Trình độ văn hoá
1997
1998
1999
SL
%
SL
%
SL
%
Không biết chữ và chưa tốt nghiêp tiểu học
Đã tốt nghiệp tiểu học
Đã tốt nghiệp THCS
Đã tốt nghiệp THPT
57.156
97.923
354.547
120.037
9,08
15,55
56,31
19,06
47.593
122.273
360.527
136.402
7,14
18,34
54,07
20,45
52.286
113.630
325.599
167.888
7,83
16,98
48,64
25,08
(Nguồn : Thực trạng lao động việc làm năm 1999)
Tỷ lệ lao động chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học còn khá cao, tuy vậy đang có xu hướng giảm dần. Trình độ văn hoá của người lao động ngày càng được nâng cao.
Trình độ văn hoá hiện nay của người lao động vẫn thấp so với mức trung bình chung của cả nước và các tỉnh đồng bằng. Điều này làm ảnh hưởng tới chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nói chung và đạo tạo nghề nói riêng. Theo báo cáo thống kê của Phòng đào tạo nghề (Sở LĐ- TBXH ) tỉnh Phú Thọ có kết quả như sau:
Đơn vị : Người
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Số tốt nghiệp
Có việc làm
Tốt nghiệp
Có việc làm
Tốt nghiệp
Có việc làm
3.654
2,725
4.606
2.748
4.747
2.640
Theo kế quả trên thì số học sinh học nghề tốt nghiệp tăng dần qua các năm, năm1999 so với năm 1997 tăng thêm 1.113 người. Nhưng số tìm được việc làm sau khi tốt nghiệp lại không tăng , thậm chí còn giảm, năm 1999 so với năm1997 giảm 85 người . Nguyên nhân của tình trạng trên là do :
-Cơ cấu ngành nghề đạo tạo không phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Do một số trường tự ý mở rộng quy mô một cách tràn lan dẫn đến có ngành thừa, ngành thiếu công nhân kỹ thuật.
Chất lượng đào tạo chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu từ phía những người sử dụng lao động.
Tóm lại, công tác đạo tạo nghề cho người lao động ở Phú Thọ hiện còn nhiều bất cập, chưa thể đáp ứng được nguồn lao động có chất lượng cao, số lượng lớn cho CNH-HĐH đất nước và đưa nền kinh tế xã hội của tỉnh phát triển nhanh trong thời gian tới. Bởi vậy, Phú Thọ cần có kế hoạch và chiến lược phù hợp để phát triển công tác đào tạo nghề trong hiện tại và tương lai
2. Phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới công tác đào tạo nghề
2.1. Giáo viên đào tạo nghề
Giáo viên đào tạo nghề là lực lượngcó tác động trực tiếp lên chất lượng công tác giảng dạy, đào tạo nghề. Năng lực của giáo viên đào tạo nghề quyết định sự phát triển của công tác đào tạo nghề, thể hiện ở lực lượng lao động sau khi được đào tạo nghề.
Tuy vậy, số lượng và chất lượng của đội ngũ giáo viên đào tạo nghề còn rất hạn chế. Chúng ta có thể đánh giá một cách tổng quát qua biểu sau:
Biểu 11: Cán bộ công nhân viên chức đào tạo nghề tỉnh Phú Thọ
Chỉ tiêu
Số lượng
%
1. Tổng số CBCNVC
551
-
2. Cán bộ giảng dạy (CBGD)
300
100
3. CBGD chia theo trình độ chuyên môn
+ Đại học, trên đại học
146
48,7
+ Cao đẳng
45
15
+ THCN
54
18
+ Trình độ khác
55
18,3
4. CBGD chia theo thâm niên giảng dạy
+ Dưới 5 năm
73
24,3
+ 5 á 10 năm
97
32,3
+ 10 á 20 năm
89
29,7
+ Trên 20 năm
41
13,7
(Nguồn: Phòng đào tạo nghề - Sở Lao động TBXH Phú Thọ)
Toàn ngành dạy nghề hiện có: 551 cán bộ giáo viên, trong đó có 300 giáo viên trực tiếp giảng dạy gồm 2 thạc sỹ, 144 đại học, 45 cao đẳng, 54 trung học chuyên nghiệp và 55 trình độ CNKT. Trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ giáo viên trực tiếp giảng dạy còn nhiều hạn chế, tỷ lệ giáo viên trực tiếp giảng dạy có trìh độ:
Đại học, trên đại học chiếm: 48,7%
Cao đẳng chiếm: 15%
Trung học chuyên nghiệp chiếm: 18%
Công nhân kỹ thuật chiếm 18,3%
Như vậy, tỷ lệ giáo viên dạy nghề có trình độ đại học và trên đại học là tương đối cao nhưng tỷ lệ giáo viên có trình độ trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật cũng rất lớn. Thêm vào đó, chỉ có khoảng 45% số giáo viên được đào tạo từ các trường sư phạm kỹ thuật và được bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm bậc I và bậc II là được trang bị kiến thức về sư phạm. Còn lại 55% là chưa qua đào tạo kiến thức ban đầu về sư phạm. Do đó khả năng truyền đạt kiến thức cho người học còn hạn chế, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng đào tạo và dạy nghề. Vì vậy, để đưa công tác đào tạo nghề của tỉnh Phú Thọ lớn mạnh hơn nữa đòi hỏi trình độ của giáo viên này phải được bồi dưỡng, nâng cao hơn nữa cả về trình độ chuyên môn, lẫn trình độ sư phạm để đáp ứng yêu cầu giảng dạy.
Trong tổng số cán bộ công nhân viên chức ngành đào tạo nghề, số lượng giáo viên tham gia giảng dạy so với cán bộ công nhân viên chức ở các trường còn thấp (chiếm 54,5%). Từ đó dẫn đến bộ máy quản lý cồng kềnh, chồng chéo không hiệu quả gây ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của giáo viên. Thêm vào đó, quy mô đào tạo của các trường tăng hơn so với trước rất nhiều, song biên chế giáo viên bị đóng băng. Số lượng giáo viên không tương xứng so với sự gia tăng quy mô đào tạo trong mỗi năm dẫn đến việc giảng dạy quá sức của giáo viên. Đặc biệt ở một số môn giáo viên phải dạy tăng ca, tăng giờ nên không còn thời gian để bồi dưỡng, nâng cao trình độ. Tất nhiên, việc này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ giáo viên và chất lượng đào tạo.
Tuổi đời bình quân của giáo viên toàn ngành khoảng 45 tuổi, một số trường có nhiều giáo viên cao tuổi như: cao đẳng hóa chất, trung học kinh tế, trung học nâng cao, công nhân cơ điện I. Số lượng giáo viên có kinh nghiệm giảng dạy lâu năm thấp.
Hiện nay, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ tiến bộ rất nhanh, một phần không nhỏ đội ngũ giáo viên đào tạo nghề chậm tiếp thu khoa học công nghệ nên không theo kịp yêu cầu phát triển. Khoa học công nghệ tiến xa so với trình độ giáo viên đã được đào tạo trước đây. Một số máy móc thiết bị tiên tiến được nhập về, một số giáo viên cũng chưa sử dụng thành thạo chứ chưa nói gì đến người học nghề. Trang bị phương tiện tối thiểu phục vụ cho dạy nghề để hỗ trợ cho giáo viên đổi mới phương pháp như: dụng cụ thí nghiệm, mô hình trực quan, đèn chiếu... còn ít, trong quá trình đào tạo vẫn còn nhiều giờ học, tiết học dạy chay.
Một số trường ở phân tán, xa các trung tâm kinh tế, văn hoá nên không thu hút được số giáo viên trẻ, có năng lực về dạy. Vì vậy, đòi hỏi nhà nước và tỉnh Phú Thọ cần có chế độ chính sách đãi ngộ thoả đáng để thu hút đội ngũ này. Bên cạnh đó, nhiều thầy giáo, cô giáo đã lớn tuổi, việc học tập nâng cao trình độ còn gặp nhiều khó khăn. Một số ngành nghề đào tạo không phù hợp, thích ứng với hoàn cảnh hiện nay sang đội ngũ giáo viên thiếu và yếu nên lúng túng trong việc chuyển đổi nội dung, chương trình đào tạo.
Việc bồi dưỡng đào tạo giáo viên dạy nghề trong thời gian qua còn bộc lộc một số hạn chế như: chương trình bồi dưỡng sư phạm bậc I, bậc II đã được ban hành từ nhiều năm nay nhưng việc thực hiện chưa được triệt để và tiến độ còn chậm. Vì vậy, đến nay Phú Thọ vẫn còn một lực lượnglớn giáo viên dạy nghề chưa được phổ cập chương trình sư phạm. Do tổ chức các lớp bồi dưỡng, do công việc, nhiều giáo viên vừa giảng dạy vừa tham gia các lớp bồi dưỡng nên nhìn chung một số giáo viên chưa đạt yêu cầu về chất lượng đặt ra. Bên cạnh đó, nguồn kinh phí nhà nước đầu tư cho công tác bồi dưỡng giáo viên trong thời gian qua còn tương đối hạn hẹp nên chỉ có các trường các trung tâm dạy nghề có đủ khả năng tổ chức bồi dưỡng cho giáo viên, còn lại ở các trung tâm giáo dục thường xuyên, dạy nghề khác thì không đủ kinh phí để tổ chức bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên đào tạo, dạy nghề.
Nhìn chung, đội ngũ giáo viên đào tạo nghề của tỉnh Phú Thọ còn yếu về chất lượng, thiếu về số lượng (do sự gia tăng về tuyển sinh, quy mô đào tạo), năng lực giảng dạy, nghiên cứu khoa học thấp, chưa đảm bảo về cơ cấu chủng loại. Đội ngũ giáo viên giảng dạy lý thuyết và thực hành chưa đồng bộ. Ngoài ra, chính sách đãi ngộ chưa thoả đáng nên không phát huy được tiềm năng và nhiệt huyết của họ. Đội ngũ giáo viên dạy nghề chuyên nghiệp bị phân tán và giảm dần, trình độ không được nâng cao để đáp ứng với sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
2.2. Cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo nghề
Về cơ sở vật chất: nhà làm việc, phòng học, nhà xưởng... chắp vá, chủ yếu là tiếp nhận lại của các cơ quan để sửa chữa thành cơ sở dạy nghề. Trang thiết bị dạy nghề của các các cơ sở thì rất thiếu thốn, lạc hậu và không đồng bộ. Theo số liệu thống kê của 6 cơ sở dạy nghề tổng giá trị tài sản phục vụ cho dạy nghề 3.608 triệu đồng trong đó nhà xưởng 1.364 triệu đồng, máy móc thiết bị 2.214 triệu đồng. Diện tích đất sử dụng cho dạy nghề chật hẹp, không tập trung.
Biểu 12: Cơ sở vật chất kỹ thuật của một số cơ sở dạy nghề
TT
Tên cơ sở
Diện tích (m2
Tổng tài sản (tr.đồng)
Tổng diện tích
DTXD
Chung
Nhà xưởng
Máy móc thiết bị
Tổng
Bán kiên cố trở lên
1
Trung tâm DVVL
9.080
2.971
2.094
3.009
1.326
1.683
2
TT xúc tiến việc làm thanh niên
2.700
500
250
224
38
186
3
Cơ sở dạy nghề công đoàn
350
216
216
115
0
115
4
TT công nhân kỹ thuật và dạy nghề
254
108
108
30
0
30
5
Công ty may Sông Hồng
220
105
105
120
0
120
6
Công ty may xuất khẩu Việt Trì
215
98
98
110
0
110
Tổng
12.819
3.998
2.871
3.608
1.364
2.244
(Nguồn: Phòng đào tạo nghề - Sở LĐTBXH tỉnh Phú Thọ)
Thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập hiện nay của các cơ sở dạy nghề tỉnh Phú Thọ vừa thiếuvề số lượng, vừa yếu về chất lượng và lệch về chủng loại. Phần lớn thiết bị, đồ dùng dạy học của các cơ sở đào tạo nghề là tranh ảnh, mô hình. Số còn lại là máy luyện kỹ năng, máy thực hành và thực tập chiếm tỷ trọng nhỏ. Máy móc phục vụ cho đào tạo thực hành và thực tập đại bộ phận là cũ, lạc hậu, chỉ có khoảng 55% máy móc hiện tại đạt yêu cầu và chỉ đáp ứng cho khoảng 40% nhu cầu.
Về thiết bị đào tạo nghề của một số nghề chủ yếu thì phần lớn các trang thiết bị đào tạo của các trường không phải là các trang thiết bị phục vụ cho công tác đào tạo, máy móc thiết bị được thu lại từ nhiều nguồn khác nhau (hầu hết là các trang thiết bị cũ đã được thanh lý của các nhà máy, xí nghiệp). Do đó, không có tính đồng bộ về hệ thống, tính sư phạm thấp, điều này ảnh hưởng tới chất lượng của đào tạo. Chỉ có một số trường hợp đã cố gắng đầu tư để từng bước b sung trang thiết bị tiên tiến hiện đại như: CNKT giấy, CNKT Lâm nghiệp, CNKT hoá chất... còn các trường và cơ sở còn lại đa số trang thiết bị máy móc lạc hậu, không đáp ứng yêu cầu.
Trong việc đầu tư cơ sở vật chất mới chỉ chú trọng về xây dựng cơ bản, đầu tư thiết bị chưa được quan tâm. Các thiết bị hiện đại, đắt tiền và không thống nhất giá nên khi duyệt xin vốn thường khó chấp nhận, thêm vào đó sự đầu tư chưa đúng mức và chưa hợp lý nên trang thiết bị chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo. ở một số cơ sở đào tạo như: cơ sở dạy nghề công đoàn, Trung tâm công nhân kỹ thuật và dạy nghề, Công ty may Sông Hồng... thậm chí còn không có cả nhà xưởng để học viên thực tập.
Đối với các trường đào tạo nghề chính quy được xây dựng cách đây khá lâu. Quy mô đào tạo lúc ấy hết sức nhỏ bé, ngày nay quy mô đào tạo của mỗi trường đều tăng lên hàng chục lần; đội ngũ cán bộ, giáo viên cũng tăng lên cơ sở vật chất của các trường thì tăng không đáng kể. Không tương xứng với mức độ tăng quy mô. Chính vì thế, hiện tại các trường đào tạo nghề của tỉnh Phú Thọ rất thiếu chỗ làm việc. Chỗ làm việc chỉ dành cho cán bộ phòng ban, hầu hết giáo viên phải làm việc ở nhà. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc quản lý lao động cũng như việc tiếp xúc giữa thày và trò trong quá trình giảng dạy, học tập.
Nhìn chung, cơ sở vật chất cho đào tạo nghề còn thiếu nhất là đối với các cơ sở dạy nghề do địa phương quản lý, nhiều thiết bị lạc hậu so với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ hiện nay. Để đáp ứng nhu cầu đào tạo với quy mô lớn trong hiện tại và tương lai đòi hỏi toàn ngành cũng như từng trường và từng cơ sở dạy nghề phải cố gắng, nỗ lực đầu tư hơn nữa để nâng cao chất lượng, tương xứng với quy mô đào tạo.
2.3. Nguồn vốn đào tạo
Về ngân sách nhà nước: Theo quy định của chính phủ tăng tỷ lệ ngân sách cho đào tạo nghề trong tổng ngân sách cho giáo dục và đào tạo lên 6,5% vào năm 1995 và 7,3% vào năm 2000. Để đạt được tỷ lệ trên, ngân sách Phú Thọ chi cho đào tạo nghề năm 2000 từ 10-11 tỷ đồng (năm 1998 chi cho dạy nghề 219,3 triệu đồng và năm 1999 là 366,8 triệu đồng).
Có thể nói ngân sách nhà nước tỉnh Phú Thọ chi cho đào tạo nghề là quá thấp so với quy định của Chính phủ cũng như thực tế công tác đào tạo nghề đòi hỏi. Do đó, các trường, các cơ sở đào tạo nghề phải tranh thủ khai thác các nguồn lực từ xã hội hoá đào tạo nghề như: các khoản đóng góp của người học theo quy định của Nhà nước, các khoản đóng góp của người sử dụng lao động và một số nguồn khác.
Biểu 13: Tổng chi cho đào tạo qua các năm
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
Tổng chi cho đào tạo
373,3
549,9
1.688,8
Trong đó: Ngân sách:
54,9
219,3
366,8
+ Chi thường xuyên
54,9
210,3
189,8
+ Xây dựng cơ bản
0
9,6
60
+ Chương trình mục tiêu
0
0
117
Ngoài ngân sách:
318,4
330,6
1.322
+ Đóng góp của học viên
318,4
330,6
859
+ Đóng góp của người sử dụng LĐ
0
0
61
+ Nguồn khác
0
0
402
Do khu vực tư nhân chưa phát triển và cũng chưa có chính sách chia sẻ gánh nặng này cho khu vực tư nhân nên phần lớn lấy từ ngân sách nhà nước và sự đóng góp của học viên. Mức chi ngân sách cho đào tạo có sự gia tăng nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu cũng như chưa phản ánh sự ưu tiên và chưa tương xứng với khả năng và còn vào loại thấp so với các tỉnh và mức chung của cả nước. Mức chi thấp tới mức các trường, các ngành học... hầu hết chỉ trả đủ mức chi trước mắt nên mức trang thiết bị, phương tiện học tập mới, cải tạo cơ sở vật chất, đổi mới giáo trình... còn rất thấp.
Thêm vào đó, sự phân bổ còn chưa hợp lý giữa các bậc học, các loại trường, các vùng, các huyện trong tỉnh... do kinh phí giáo dục được phân bổ theo số dân hay theo số lượng học sinh, còn cho các nhóm trường thì dựa trên số lượng sinh viên và mức cho cho một sinh viên nhưng mức chi này chưa phản ánh sự khác biệt giữa các khối học, các loại trường trong khi không xét đến điều kiện "làm" giáo dục - đào tạo có sự khác biệt rất lớn giữa các vùng, các nhóm trường. Điều này dẫn đến có những địa phương có điều kiện "làm" giáo dục thuận lợi thì lại nhận được mức đầu tư cho đào tạo từ ngân sách cao hơn trong khi những địa phương khó khăn hơn thì tình trạng ngược lại. Tình trạng này cũng đúng đối với các nhóm trường, khối trường, ngành học. Do vậy, ngân sách chi cho đào tạo nghề đã thấp lại bị sử dụng không hiệu quả thêm trở ngại cho sự phát triển của ngành.
Mức chi ngân sách có tăng nhưng mức chi cho một học viên, sinh viên lại không đáng kể. Dẫn đến tình trạng quá tải ở một số trường, một só trung tâm gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng dạy và học.
Tóm lại, do ngân sách dành cho đào tạo nghề thấp nên một số trường, trung tâm đào tạo nghề không có khả năng chuyển đổi trang thiết bị cho ngành học hoặc có đầu tư chuyển đổi thì rất chậm chạp và không đáng kể. Vì vậy, thực hiện mục tiêu đào tạo gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến chất lượng và quy mô đào tạo, gây trở ngại cho sự phát triển của ngành.
2.4. Nội dung - chương trình đào tạo
Trong thời gian qua, các trường đã tập trung cải tiến, đổi mới nội dung và phương pháp đào tạo nhằm đáp ứng được phần nào sự thay đổi phát triển của các ngành kinh tế.
- Do nhu cầu của người học, của nền kinh tế các trường và các trung tâm GDTX đã liên kết để đào tạo các lớp trung học, nghề với các hình thức chuyên tu, tại chức ... các ngành nghề đào tạo chủ yếu là: kinh tế, ngoại ngữ, tin học, trồng trọt, chăn nuôi, thú ý, hoá chất, giấy, công nghiệp thực phẩm, xây dựng, cơ khí, may mặc...
- Các trường đào tạo trung học nghề năm học 1998-1999 có 1.300 học sinh đang theo học, đây là bậc đào tạo mới trong hệ thống giáo dục quốc dân vừa dạy văn hoá vừa học nghề. Bậc học này cần được tuyên truyền sâu rộng đẻ thu hút được nhiều người học, phân luồng đào tạo và giảm gánh nặng cho PTTH.
- Dạy nghề ngắn hạn đã phát triển về số lượng: Trung tâm DVVL (sở LĐ-TBXH), trung tâm DVVL (quân khu II). Các cơ sở dạy nghề như: Cục quản lý xe máy, tỉnh đoàn thanh niên... bước đầu có sự đầu tư về đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất phương thức đào tạo nên đã thu hút được nhiều người theo học.
- Một số cơ sở vật chất đã kết hợp để đào tạo nghề như: công ty may xuất khẩu, công ty giầy da, công ty sứ Thanh hà... Nhiều người học xong đã ký hợp đồng lao động với công ty. Đây là mô hình đào tạo nghề kết hợp với sử dụng đang được các ngành khuyến khích mở rộng. Song hoạt động đào tạo ở các công ty trên đều xuất phát từ nhu cầu thiếu lao động nên thời gian đào tạo kết hợp với kết cấu nội dung chương trình đào tạo còn bất hợp lý, do đó mới chỉ hình thành được một số kỹ năng lao động cần thiết cho sản xuất nên hiệu quả lao động thấp.
Kế hoạch đào tạo đã hợp lý giữa lý thuyết và thực hành. Kết cấu chương trình có sự liên kết chặt chẽ giữa các bậc đào tạo nghề và giữa các môn học. Tuy nhiên điều kiện dạy và học như: giáo trình, thiết bị, thói quen nghề nghiệp và kinh nghiệm còn hạn chế nên kết quả còn thấp. Hầu hết các cơ sở dạy nghề chưa chủ động biên soạn được nội dung chương trình và giáo trình đào tạo. Do không đủ đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn và sư phạm cần thiết nên các cơ sở dạy nghề chủ yếu sử dụng chương trình đào tạo của các trường khác có sự điều chỉnh, cải tiến cho phù hợp với mục tiêu đối tượng và thời gian đào tạo. Giáo trình và các tài liệu tham khảo phục vụ cho dạy và học còn thiếu.
Mục tiêu, nội dung, chương trình, hình thức, phương thức và phương pháp đào tạo chậm đổi mới. Trong những năm gần đây, ngành đào tạo đã có những nỗ lực lớn nhằm đổi mới các nội dung đó. Bước đầu đã thu được những kết quả nhất định song còn chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu đặt ra.
2.5. Sử dụng lao động sau đào tạo
Đối với các học viên học nghề thì những người được học nghề ngắn hạn và những người được bồi dưỡng phổ cập nghề (chủ yếu là bà con nông dân, lao động thuần nông) hầu hết thường làm đúng theo ngành nghề đào tạo. Họ góp phần phát triển kinh tế - xã hội địa phương, nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi, họ còn có thể tự tạo việc làm với những nghề đã được đào tạo ở các cơ sở dạy nghề. Nhưng đối với lực lượng công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ được đào tạo dài hạn thì sau khi kết thúc khoá đào tạo nghề, họ không dễ dàng tìm được chỗ làm việc thích hợp. Theo báo cáo (chưa đầy đủ) của Sở công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, nông lâm nghiệp, thương mại, y tế và 25 doanh nghiệp của Trung ương đóng trên địa bàn tỉnh: số lao động được đào tạo ra đang làm việc tại các doanh nghiệp nhà nước đúng ngành nghề đào tạo chiếm 81,5%, còn lại 18,5% làm việc không đúng ngành nghề đào tạo (trong đó: đại học, cao đẳng chiếm 4,6%, trung học chuyên nghiệp và tương đương chiếm 7,6%; công nhân kỹ thuật và tương đương chiếm 6,2%). Số lao động đào tạo ra phân bổ không tương ứng giữa các vùng trong tỉnh, lao động qua đào tạo tập trung chủ yếu ở thành phố, thị xã, khu công nghiệp tập trung; nông nghiệp nông thôn và các khu vực miền núi chỉ chiếm khoảng 6%. Số lao động đào tạo ra vào các cơ quan nhà nước và tự tìm được việc làm chiếm khoảng 60%, còn 40% là không tìm được việc làm (số liệu điều tra lao động việc làm của Ban chỉ đạo Trung ương trên địa bàn tỉnh năm 1998).
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng nàylà do:
- Trình độ học viên sau khi kết thúc khoá đào tạo nghề chưa đáp ứng được yêu cầu từ phía các doanh nghiệp có nhu cầu về lao động.
- Sự mất cân đối giữa lượng học viên được đào tạo so với nhu cầu thực tế của thị trường. Xảy ra sự mất cân đói này là do:
+ Thông tin về thị trường lao động không thông suốt với thực tế để các cơ sở dạy nghề có hể điều chỉnh được lượng học viên đầu vào.
+ Có sự chồng chéo giữa các ngành nghề đào tạo gây ra sự dư thừa lao động ở một số ngành nghề.
+ Thị trường lao động có sự biến động trong khoảng thời gian mà học viên nhu cầu lao động về một ngành nghề đào tạo tại thời điểm học viên bắt đầu học nghề khác với nhu cầu tại thời điểm học viên kết thúc khoá học và bắt đầu đi tìm việc làm.
- Đào tạo nghề chưa gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội, với chiến lược kinh tế vùng, chưa gắn với sản xuất và thị trường sức lao động.
- Việc mở rộng tràn lan các loại hình đào tạo cũng là một nguyên nhân gây ra tình trạng trên. Các trường, các ngành học... mở rộng hoặc thu hút chỉ tiêu tuyển sinh tuỳ ý, theo thị hiếu của người học dẫn tới tình trạng có những chuyên ngành khác đã thiếu lại càng thiêú.
- Các chính sách, biện pháp khuyến khích theo học những ngành học, khối ngành học mà xã hội cần nhưng bản thân đối tượng không muốn theo học chưa hiệu quả.
- Việc mở rộng tràn lan các loại hình đào tạo
Một số chế độ, chính sách đã ban hành đến nay có những điểm không còn phù hợp hoặc thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể nên chưa khuyến khích cán bộ công nhân viên trong các cơ sở sản xuất cũng như trong các cơ quan nhà nước, trong các tầng lớp xã hội cũng như các cơ sở, tổ chức trong học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn kỹ thuật hoặc tự trang bị cho mình một nghề nào đó.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do công tác đào tạo nghề còn chưa được quan tâm thoả đáng, từ trước năm 1998 mảng đào tạo nghề còn thuộc hệ thống giáo dục - đào tạo, chịu sự quản lý của Bộ Giáo dục - đào tạo và nó chưa được nhận thứuc đúng mức về tầm quan trọng và cần thiết phải phát triển như một chiến lược trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực. Quản lý nhà nước về đào tạo nghề ở tỉnh Phú Thọ do Sở Giáo dục - đào tạo quản lý chỉ có 2 chuyên viên thuộc phòng Giáo dục chuyên nghiệp theo dõi và chỉ đạo, các nội dung quản lý nhà nước không được thực hiện đầy đủ, hiệu lực quản lý giảm.
Tuy nhiên, sau khi mảng đào tạo nghề được tách ra và nó trực thuộc Bộ Lao động - thưong binh - xã hội, công tác đào tạo nghề được quan tâm hơn, các chính sách về đào tạo nghề đang dần được hình thành tiến tới hoàn thiện, góp phần phát triển công tác đào tạo nghề.
III. Nhận xét chung về đào tạo nghề cho người lao động tỉnh Phú Thọ
Thực hiện đường lối đổi mới , cơ cấu kinh tế của tỉnh Phú Thọ đã có sự chuyển dịch quan trọng: các thành phần kinh tế phát triển. Nhiều ngành nghề mới, công nghệ mới và lĩnh vực mới đã xuất hiện. Thực tế đó đòi hỏi nguồn nhân lực phải phát triển để đáp ứng yêu cầu về số lượng và chất lượng của sản xuất.
Cùng với những kết quả về sự nghiệp giáo dục - đào tạo, công tác đào tạo nghề cho người lao động đã đạt được những kết quả bước đầu:
- Bình quân hàng năm đã đào tạo được khoảng 7 ngàn người có trình độ nghề nhất định phục vụ cho các ngành, các doanh nghiệp và các cơ sở sản xuất. Trong đó, trường hợp dạy nghề chính quy đào tạo khoảng 4.000 người; các cơ sở dạy nghề đào tạo kèm cặp bên cạnh xí nghiệp, các tổ chức đoàn thể đào tạo khoảng 2.700 người; các cơ sở dạy nghề tư nhân, các làng nghề... đào tạo khoảng 300 người giúp người lao động tự tạo được việc làm, nhiều người trở thành thợ bậc cao, công nhân lành nghề.
- Đang hình thành một hệ thống cơ sở đào tạo và dạy nghề đa sở hữu phù hợp với cơ chế mới. Đã thực hiện được đa dạng hoá các hình thức dạy nghề.
- Tuy còn rất nhiều khó khăn nhưng Phú Thọ đã cố gắng sắp xếp và tăng cường cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên, nội dung đào tạo. Vì vậy, công tác đào tạo đã có sự chuyển hướng theo nhu cầu thực tế của sản xuất và thị trường lao động.
- Cơ cấu đào tạo đang dần chuyển dịch theo hướng hợp lý hơn phục vụ kịp thời việc xây dựng đội ngũ cán bộ của tỉnh theo Nghị quyết TW3 khoá VIII.
Tuy nhiên trước yêu cầu đổi mới của nền kinh tế, yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH của tỉnh, công tác đào tạo nghề cho người lao động còn tồn tại một số vấn đề:
- Quản lý Nhà nước về công tác đào tạo nghề cho người lao động còn hạn chế: lao động đào tạo chưa có sự thống nhất giữa cơ quan đào tạo với đơn vị sử dụng dẫn đến mất cân đối giưã cung và cầu (thừa về các ngành thương mại, kế toán nhưng lại thiếu ngành điện tử, tin học, kỹ thuật sản xuất).
- Chưa có chiến lược dài hạn, đồng bộ cho công tác đào tạo nguồn nhân lực. Đào tạo chưa toàn diện, chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng. Quy mô, hệ thống đào tạo còn phân tán, nhỏ bé, hiệu quả thấp. Chất lượng đào tạo chưa cao, năng lực thực hành yếu, tỷ lệ công nhân kỹ thuật bậc cao còn thấp. Sử dụng lao động sau đào tạo mới đạt khoảng 60%. Chưa có chính sách nhất quán trong việc sử dụng và đào tạo nguồn nhân lực.
- Các cơ sở đào tạo, dạy nghề yếu kém cả về số lượng và chất lượng: các trang thiết bị thiếu thốn, lạc hậu, cũ kỹ, phân bố chưa hợp lý, có nơi có ngành còn quá ít, thậm chí không có nhất là vùng núi, vùng sâu, xa, khu vực nông thôn. Các cơ sở dạy nghề ngắn hạn của một số ngành chỉ đủ năng lực đào tạo nghề trình độ thấp (mang tính chất phổ cập nghề). Đội ngũ giáo viên dạy nghề chuyên nghiệp bị phân tán và giảm dần, trình độ không được nâng cao để đáp ứng với sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ hiện đại.
- Quản lý sử dụng đào tạo chưa tốt nhất là việc định hướng cho cán bộ sau đào tạo về nông thôn chưa được chú trọng.
- Tuy bước đầu đã đa số sở hữu hình thức dạy nghề nhưng chưa huy động được các nguồn lực, đào tạo và dạy nghề chưa được xã hội hoá, hoạt động dạy nghề vẫn dựa vào ngân sách nhà nước là chủ yếu.
- Hệ thống chính sách đối với lĩnh vực đào tạo nghề còn thiếu hoặc chưa có, từ năm 1996 sau khi Bộ Luật lao động ra đời mới có chính sách đề cập đến vấn đề học nghề theo quy định của Bộ luật lao động. Song điều này chưa đủ mạnh để thúc đẩy và khuyến khích người dạy và học.
Quá trình đào tạo nguồn nhân lực của tỉnh Phú Thọ cũng nằm trong bối cảnh chung của cả nước. Đúng như Hội nghị BCH TW 2 khoá VIII đã đánh giá: "Giáo dục chuyên nghiệp, nhất là đào tạo công nhân kỹ thuật có lúc suy giảm, mất cân đối lớn về cơ cấu, trình độ trong đội ngũ lao động ở nhiều ngành sản xuất. Quy mô đào tạo hiện nay quá nhỏ bé, trình độ thiết bị lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu CNH-HĐH".
Phần ba
Một số giải pháp để phát triển công tác đào tạo nghề ở tỉnh Phú Thọ
I. Quan điểm, phương hướng chung, mục tiêu công tác đào tạo nghề
1. Một số quan điểm chủ đạo:
1.1. Nâng cao vai trò đào tạo nghề.
- Phải thực sự coi đào tạo nghề là một nhiệm vụ trọng tâm trong việc phát triển nguồn nhân lực, đồng thời coi đào tạo nghề cũng là nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Đào tạo nghề phải được tăng nhanh cả về quy mô, chất lượng, hiệu quả và tạo ra cơ cấu lao động hợp lý hơn cho thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển đào tạo nghề phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong từng giai đoạn, gắn với nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, vùng dân cư, với từng địa phương, gắn với thị trường sức lao động theo quan hệ cung cầu.
- Nhà nước thống nhất quản lý về mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo nghề, quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ thống trường và trung tâm dạy nghề, cấp phát bằng, chứng chỉ, định hướng và hướng dẫn đối với các cơ sở dạy nghề quy mô nhỏ.
1.2. Xã hội hoá đào tạo nghề.
- Thực hiện xã hội hoá đào tạo nghề nhằm thu hút mọi nguồn nhân lực trong và ngoài tỉnh cho các hoạt động đào tạo nghề. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đào tạo nghề và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho người lao động có cơ hội học nghề, tìm kiếm việc làm. Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, loại hình trường lớp. Người học nghề và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng góp theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
- Bên cạnh việc thực hiện công bằng xã hội trong đào tạo nghề, đáp ứng yêu cầu đào tạo cho đông đảo người lao động, cần đầu tư có trọng điểm để tạo nên một bộ phận đào tạo nghề chất lượng cao làm chuẩn mực và đẻ đào tạo tđội ngũ công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ có khả năng tham gia cạnh tranh trong thị trường lao động trong nước.
- Song song với việc đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động công nghiệp và dịch vụ, phải coi trọng và tăng cường lãnh đạo nghề cho lao động nông thôn mà chủ yếu là đào tạo ngắn hạn các nghề trồng trọt, chăn nuôi, đánh bắt thuỷ sản, sơ chế, chế biến và bảo quản nông, lâm, ngư nghiệp và các nghề truyền thống.
1.3. Đào tạo gắn với sử dụng.
Đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho người lao động chưa có việc làm, tạo việc làm mới cho những người lao động mất việc làm trong quá trình sắp xếp lại lao động và cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước.
1.4. Tăng cường ngân sách cho đào tạo nghề.
Nhà nước và địa phương các cấp tăng ngân sách đầu tư cho đào tạo nghề đồng thời có chính sách, cơ chế hợp lý, đẩy mạnh xã hội hoá để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Nguồn ngân sách Nhà nước tập trung đầu tư cho các cơ sở đào tạo nghề cho lao động ở nông thôn.
2. Phương hướng :
- Phối hợp chặt chẽ và tranh thủ sự giúp đỡ của các trường trung học chuyên nghiệp, các trường dạy nghề của Trung ương, các cơ sở dạy nghề trong cả nước và trên địa bàn tỉnh nhằm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ của tỉnh. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để người lao động có kiến thức, có trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh trước mắt cũng như lâu dài.
- Tiếp tục xây dựng mạng lưới cơ sở dạy nghề đa sở hữu, xã hội hoá công tác dạy nghề, truyền nghề gắn việc dạy nghề làm nòng cốt để xây dựng và khôi phục các làng nghề truyền thống, hướng dẫn cho người lao động ứng dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất, trước hết là trong lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp, kinh tế trang trại phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá nông thôn.
- Đào tạo nguồn nhân lực phải gắn với phát triển kinh tế xã hội và phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn tỉnh.
- Thực hiện phương châm không chỉ đào tạo nghề ở trong các trường chuyên nghiệp, các cơ sở dạy nghề mà phải đào tạo trong suốt quá trình lao động. Ngoài việc học giỏi lý thuyết , học viên phải giỏi thực hành và vận dụng vào điều kiện thực tiễn của đời sống kinh tế xã hội. Không những hiểu biết thành thạo một nghề mà người lao động còn biết nhiều nghề, am hiểu những kiến thức khác như: luật pháp, ngoại ngữ, tin học.....
3. Mục tiêu đào tạo nghề :
Đào tạo phát triển nguồn nhân lực nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề đảm bảo nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá của tỉnh. Do đó phải mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo dạy nghề. Phải hết sức coi trọng và bồi dưỡng lực lượng lao động giỏi, có trình độ kỹ năng nghề nghiệp tạo sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức quản lý và vận hành nền kinh tế, thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội mà quy hoạch tổng thể đến năm 2010 của tỉnh đề ra.
3.1 Mục tiêu tổng quát :
- Tạo môi trường thuận lợi để người lao động có cơ hội lựa chọn ngành nghề, phát huy được năng lực sở trường của người lao động. Đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật, nhân viên nghiệp vụ theo tinh thần Nghị quyết 05/NQ-TW của Ban thường vụ tỉnh uỷ về đào tạo phát triển nguồn nhân lực đến năm 2010.
- Công tác đào tạo dạy nghề phải tạo ra đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nói chung, đặc biệt là ở nông thôn và đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hoá của tỉnh. Cung cấp ngày càng nhiều lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tin học, quản lý cho lĩnh vực hợp tác quốc tế về lao động, cho các công ty liên doanh, cho các khu công nghiệp tập trung. Nâng dần cơ cấu số lượng, chất lượng nguồn nhân lực của tỉnh đến năm 2010 tiến tới cơ cấu : 1 đại học - 4 trung học - 10 công nhân kỹ thuật và đạt tiêu chuẩn lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật của tỉnh từ 35 - 38% so với tổng nguồn lao động.
3.2 Mục tiêu cụ thể từng giai đoạn :
Trong giai đoạn 1997 - 2000 song song với việc đào tạo đáp ứng nhu cầu lao động cho các ngành đồng thời chú trọng đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật cho nông lâm nghiệp. Trong giai đoạn này đã đào tạo mới 25 ngành lao động, bình quân mỗi năm khoảng 8 ngàn người (dạy nghề chính quy 4 ngàn) . Đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ 16% năm 1997 lên 20% năm 2000.
Chỉ tiêu
Năm 2000
Giai đoạn 2001 - 2005
Giai đoạn 2006 - 2010
1. Lao động trong độ tuổi có khả năng lao động
629,2
705,6
748,5
Trong đó : Có CMKT
132,5
193,5
272
Chia ra :
- ĐH,CĐ,Trên ĐH
18,5
20
21
- THCN và tương đương
34,5
45
62
- CNKT và tương đương
79,0
128,5
188
2. Tỷ trọng lao động có CMKT so với nguồn lao động (%)
20
27
35
3. Tỷ trọng lao động đã qua đào tạo nghề so với nguồn lao động (%)
12
17,5
23,5
Trong giai đoạn 2001 - 2005 đào tạo mới là 49,5 ngàn người (trong đó dạy nghề chính quy khoảng 26 ngàn người), bình quân mỗi năm đào tạo nghề cho khoảng 10 ngàn lao động.
Trong giai đoạn 2006 - 2010 đào tạo mới là 59,5 ngàn lao động (trong đó đào tạo chính quy khoảng 29 ngàn người) , bình quân mỗi năm đào tạo nghề cho khoảng 11,9 ngàn lao động.
Để đạt được mục tiêu như trên, đòi hỏi tỉnh Phú Thọ phải có sự cố gắng, nỗ lực rất lớn trong công tác đào tạo nghề. Do đó, Phú Thọ phải có những chính sách, những giải pháp đúng đắn ngay từ bây giờ.
II. Một số giải pháp phát triển công tác đào tạo nghề ở tỉnh Phú Thọ
Để thực hiện chiến lược đào tạo vào từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân kỹ thuật, chúng ta phải giải quyết nhiều vấn đề có tính chiến lược đối với các cơ sở đào tạo nghề của tỉnh. Tuy nhiên, trong những năm trước mắt tỉnh cần tập trung giải quyết một số vấn đề chủ yếu sau:
1. Cần nhanh chóng sắp xếp, bố trí các cơ sở đào tạo nghề.
Để làm được việc này, trước hết cần tiến hành khẩn trương một số công việc:
- Rà soát lại điều kiện và khả năng của từng trường (kể cả công lập và dân lập) trên tất cả các phương tiện, trong đó đặc biệt chú trọng đến các vấn để:
+ Mặt bằng của nhà trường
+ Hệ thống phòng học và các thiết bị phục vụ cho giảng dạy và nghiên cứu.
+ Hệ thống các cơ sở làm việc của cán bộ giáo viên.
+ Số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên.
+ Hệ thống thư viện, thông tin tư liệu
+ Hệ thống giáo trình, tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy, nghiên cứu học tập của giáo viên và học sinh...
Từ sự phân tích đó tìm ra điểm mạnh, điểm yếu của từng trường, từng cơ sở đào tạo nghề để có hướng xử lý cho phù hợp.
- Thông qua việc điều tra xã hội học đối với số học viên đã tốt nghiệp ra trường cũng như đối với các cơ quan, đơn vị sử dụng số họcviên do các trường đào tạo ra để đánh giá một cách thực chất chất lượng đào tạo của các trường trong thời gian vừa qua. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch sắp xếp, bố trí lại các trường và trung tâm đào tạo phù hợp với yêu cầu của tỉnh.
Việc bố trí, sắp xếp lại hệ thống các trường rất phức tạp, bởi lẽ nó đụng chạm đến nhiều vấn đề lớn như:
+ Đất đai để xây dựng trường sở.
+ Tài chính để xây dựng trường, mua sắm máy móc thiết bị phục vụ cho việc dạy và học.
+ Việc làm của cán bộ, giáo viên, vị trí của mỗi con người trong các trường và thu nhập của họ.
Do đó, không thể tiến hành sắp xếp một cách ồ ạt bằng các mệnh lệnh hành chính đơn thuần, mà phải có sự lựa chọn, làm thử để rút kinh nghiệm, làm từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Do điều kiện, ngân sách, vì vậy trước mắt không nên thành lập quá nhiều trường, chỉ thành lập thêm những trường khi có nhu cầu ở các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp,... Điều quan trọng hơn là củng cố, tăng cường nâng cấp cho các trường để mở rộng quy mô, hoạt động hết công suất, nâng cao chất lượng. Cụ thể như sau:
- Hình thành các trường trọng điểm: Đây là hệ thống xương sống của ngành nhằm mục đích đào tạo kỹ thuật viên và CNKT lành nghề yêu cầu phát triển của tỉnh. Các trường này sẽ giữ vai trò nòng cốt của hệ thống các trường công lập bên cạnh việc đa dạng hoá các loại hình đào tạo nghề nghiệp khác. Để khai thác các điều kiện hiện có, tỉnh nên giao cho các trường trọng điểm nhiệm vụ dạy nghề, bồi dưỡng, tập huấn chuyển giao kỹ thuật như sau:
+ Trường dạy nghề Phú Thọ. Đây là trường trọng điểm đào tạo đa ngành với quy mô thường xuyên từ 600 - 800 học sinh/năm. Trường cung cấp công nhân kỹ thuật có chất lượng cao đạt chuẩn quốc gia để phục vụ nhu cầu khu công nghiệp, khu chế xuất, các vùng kinh tế trọng điểm các ngành kinh tế, kỹ thuật có thế mạnh của tỉnh.
+ Trường trung học Nông lâm: Là trường trọng điểm thực hiện chương trình đào tạo nông dân, cần được nâng cao trình độ giáo viên, đổi mới nội dung công ty, nhất là phương pháp tổ chức đào tạo để phù hợp với lao động của nông dân.
+ Trường trung học kinh tế: Nghiên cứu để đào tạo một số nghề thương mại, dịch vụ; dịch vụ ăn uống, quản lý nhà hàng, khách sạn, nhân viên du lịch... Hàng năm trường tuyển sinh từ 80 - 100 học sinh vào học nghề chính quy, tổ chức dạy nghề ngắn hạn, bồi dưỡng nhân viên nghiệp vụ kỹ thuật, nâng dạy nghề hơn 300 lượt người.
+ Trường Trung học y tế: Củng cố và mở rộng nhóm nghề kỹ thuật viên y, dược phục vụ chế biến dược phẩm, dược liệu, sản xuất thuốc y học cổ truyền đáp ứng yêu cầu lao động kỹ thuật y tế cho hệ thống chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
- Xây dựng một số cơ sở dạy nghề lưu động đáp ứng nhu cầu học tập nghề nghiệp của các vùng sâu, vùng xa và vùng núi cao đảm bảo sự công bằng và bình đẳng tạo cơ hội cho mọi người có mong muốn học tập nghề.
2. Xây dựng đội ngũ giáo viên đào tạo nghề:
Giáo viên là nhân tố quyết định đến chất lượng đào tạo, việc xây dựng đội ngũ giáo viên dạy nghề là quá trình liên tục, phải được tiến hành thường xuyên.
2.1. Đáp ứng yêu cầu về số lượng giáo viên.
Phải có kế hoạch dự báo nhu cầu giáo viên ở từng huyện, từng vùng.. để tỉnh có định hướng trước nhu cầu tuyển sinh ở từng trường, từng môn cũng như có sự cân đối ở tầm vĩ mô bảo đảm đủ số lượng giáo viên trước từng năm học. Đa dạng hoá hình thức đào tạo - bồi dưỡng giáo viên một cách có hiệu quả, kết hợp hợp lý giữa đào tạo chính quy và đào tạo tại chức.
Cần phải có chỉ tiêu đào tạo đội ngũ giáo viên theo địa chỉ (ngành, vùng, huyện) dựa trên quy hoạch tổng thể của sự phát triển giáo dục theo từng giai đoạn.
Kết hợp giải pháp cơ bản lâu dài với giải pháp tình thế, nhất thời (ký hợp đồng với những giáo viên nghỉ hưu có trình độ chuyên môn cao, có tâm huyết nghề nghiệp tiếp tục giảng dạy...). Có chính sách , chế độ bổ nhiệm và phân phối đồng bộ sao cho đội ngũ giáo viên có thể hoàn thành được nhiệm vụ dạy học đúng với chuyên môn đào tạo của mình.
Tiến hành đánh giá phân loại đội ngũ giáo viên, giảm số cán bộ hành chính để tăng thêm cán bộ giảng dạy có trình độ và đảm bảo cơ cấu, chủng loại đáp ứng yêu cầu đào tạo nghề trong hiện tại và tương lai.
2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên.
Đòi hỏi cần quan tâm đồng bộ từ tuyển chọn - đào tạo trong các trường sư phạm - đẩy mạnh công tác bồi dưỡng giáo viên thường xuyên trong các trường đào tạo. Giáo viên dạy nghề phải có trình độ chuyên môn, thành thạo về thực hành để có thể dạy lý thuyết kết hợp với thực hành. Bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho giáo viên là nhiệm vụ thường xuyên, có như thế việc dạy nghề mới đảm bảo chất lượng.
Về công nghệ mới, hướng bồi dưỡng công nghệ mới cho giáo viên tập trung vào những công nghệ đã và sẽ áp dụng vào địa phương, trang thiết bị hiện đại, vật liệu mới trong các ngành công nghiệp. Các trường, cơ sở dạy nghề cần chủ động phối hợp với các cơ sở sản xuất để đào tạo, mở các lớp bồi dưỡng về công nghệ mới cho các giáo viên dạy nghề.
Về ngoại ngữ: ngoại ngữ là một yêu cầu xã hội trong thời kỳ mở cửa, mục tiêu trong năm năm tới phải phấn đấu 100% giáo viên dạy nghề biết ngoại ngữ trong đó 40% trình độ B, 5 - 10% thành thạo đẻ giao tiếp được.
Về tin học: Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin được sử dụng ngày càng rộng rãi trong giáo dục đào tạo, tin học sẽ được đào tạo chính khoá trong các trường để người công nhân có thể sử dụng thành thạo nó như là một phương tiện sản xuất. Muốn vậy, bồi dưỡng tin học cho giáo viên phải đi trước một bước.
Tăng cường bồi dưỡng phấn đấu từ nay đến năm 2005 có 80% giáo viên đạt trình độ chuẩn; 30% có tay nghề bậc 6/7 - 7/7 hoặc tươngđương đối với giáo viên thực hành, 100% giáo viên dạy nghề được phổ cập tin học trong đó 15 - 20% có khả năng sử dụng tin học vào bài giảng và quản lý. Các hình thức bồi dưỡng giáo viên bao gồm:
- Bồi dưỡng dài hạn: thời gian kéo dài trên 1 năm, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Bồi dưỡng ngắn hạn: là hình thức phổ biến, bồi dưỡng phương pháp sư phạm công nghệ mới, ngoại ngữ, tin học.v.v... thường được tổ chức tại cơ sở hoặc trong các đợt bồi dưỡng hè.
- Bồi dưỡng qua hội thảo, hội giảng: Hội giảng được tổ chức thường xuyên hàng năm để giáo viên được thể hiện năng lực sư phạm, kỹ năng giảng dạy, học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp. Hội thảo nhằm bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ theo chuyên đề như phương pháp giảng dạy, phương pháp giáo dục quản lý học sinh...
Ngoài ra còn có hình thức như tự bồi dưỡng, tham quan và thực tập cả trong và ngoài nước.
Để có thể xây dựng được đội ngũ giáo viên dạy nghề đáp ứng đủ yêu cầu về số lượng, bảo đảm chất lượng đòi hỏi Nhà nước phải đưa ra những chính sách, chế độ đãi ngộ thoả đáng nhằm phát huy tiềm năng và nhiệt huyết của đội ngũ này.
2.3. Đổi mới hệ thống chính sách đối với đội ngũ giáo viên dạy nghề.
Đội ngũ giáo viên, cho dù ở bậc học nào, họ là người đại diện cho trí tuệ của dân tộc. Do đó, về nguyên tắc họ phải được xã hội trân trọng. Sự trân trọng ở đây không phải chỉ trên phương diện tinh thần là được xã hội tôn vinh mà còn phải được trân trọng trong phân phối và thụ hưởng các quyền lợi vật chất, trước mắt là chế độ tiền lương.
Hệ thống tiền lương của chúng ta hiện nay còn nhiều bất cập. tiền lương của chúng ta không đủ nuôi sống bản thân người giáo viên chứ chưa nói gì đến chuyện nuôi sống gia đình họ. hệ thống tiền lương củachúng ta đã làm cho đội ngũ cán bộ không toàn tâm, toàn ý với công việc mà họ gánh vác. Song nó lại là cơ sở đẻ ra nhiều tiêu cực trong xã hội. Trong tình hình chung đó, đội ngũ giáo viên là những người có mức thu nhập thấp và có cuộc sống đạm bạc nhất trong hệ thống viên chức Nhà nước. Chính vì thế mà các hiện tượng tiêu cực cũng đã xâm nhập và phát triển khá mạnh mẽ trong hệ thống giáo dục - đào tạo nói chung và đào tạo nghề nói riêng.
- Tiền lương chưa khuyến khích người ta làm việc theo khả năng và cũng chưa khuyến khích người tài giỏi
Cơ cấu lao động của nước ta hiện nay đang có sự bất hợp lý nghiêm trọng. Để có được cơ cấu lao động hợp lý trước hết phải có chiến lược giáo dục và đào tạo đúng, tức là một bộ phận lớn học sinh khi tốt nghiệp THCS phải chuyển sang học nghề, để đến khoảng tuổi 18 họ thực sự có một nghề vững chắc, có thể tự kiếm sống đẻ nuôi mình và gia đình trong tương lai. Chỉ những em học khá giỏi mới được chuyển sang học THPT, sau đó chuyển lên đại học, trung học hoặc học nghề.
Phải có hệ thống lương phù hợp, tức là phải xếp mức lương khởi điểm cao cho công nhân kỹ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 25329.DOC