Đề tài Đánh giá xu hướng phát triển của thị trường bảo hiểm rủi ro sau khi Việt Nam gia nhập WTO

Tài liệu Đề tài Đánh giá xu hướng phát triển của thị trường bảo hiểm rủi ro sau khi Việt Nam gia nhập WTO: PHỤ LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM RỦI RO 1.1. Một số vấn đề chung về bảo hiểm 1.1.1. Bảo hiểm rủi ro và nguyên tắc hoạt động 1.1.1.1. Khái niệm 1.1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm rủi ro 1.1.1.3. Nguyên tắc hoạt động 1.1.2. Vai trò của bảo hiểm rủi ro 1.2. Thị trường bảo hiểm. 1.2.1. Các chủ thể tham gia thị trường bảo hiểm 1.2.2. Các yếu tố trong hợp đồng bảo hiểm 1.2.3. Các sản phẩm của bảo hiểm rủi ro 1.2.3.1. Phân loại theo đối tượng bảo hiểm 1.2.3.2. Phân loại dựa vào tính chất nghiệp vụ của các loại bảo hiểm CHƯƠNG II: THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO 2.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam. 2.2. Những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO liên quan đến bảo hiểm 2.2.1. Nội dung các cam kết 2.2.1.1. Những cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam tại WTO 2.2.1.2. Các cam kết của Việt Nam tại Hiệp định Thương mại Việt Mỹ 2.2.2. Những ảnh hưởng đến bảo hiểm Việt Nam của các ca...

doc40 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1278 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá xu hướng phát triển của thị trường bảo hiểm rủi ro sau khi Việt Nam gia nhập WTO, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHỤ LỤC LỜI MỞ ĐẦU CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM RỦI RO 1.1. Một số vấn đề chung về bảo hiểm 1.1.1. Bảo hiểm rủi ro và nguyên tắc hoạt động 1.1.1.1. Khái niệm 1.1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm rủi ro 1.1.1.3. Nguyên tắc hoạt động 1.1.2. Vai trò của bảo hiểm rủi ro 1.2. Thị trường bảo hiểm. 1.2.1. Các chủ thể tham gia thị trường bảo hiểm 1.2.2. Các yếu tố trong hợp đồng bảo hiểm 1.2.3. Các sản phẩm của bảo hiểm rủi ro 1.2.3.1. Phân loại theo đối tượng bảo hiểm 1.2.3.2. Phân loại dựa vào tính chất nghiệp vụ của các loại bảo hiểm CHƯƠNG II: THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO 2.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam. 2.2. Những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO liên quan đến bảo hiểm 2.2.1. Nội dung các cam kết 2.2.1.1. Những cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam tại WTO 2.2.1.2. Các cam kết của Việt Nam tại Hiệp định Thương mại Việt Mỹ 2.2.2. Những ảnh hưởng đến bảo hiểm Việt Nam của các cam kết trên. 2.2.2.1. Về cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới 2.2.2.2. Về các cam kết hiện diện thương mại 2.2.2.3. Cam kết liên quan đến kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc 2.2.2.4. Cam kết xoả bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc sau 2.3. Thực trạng thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay 2.3.1. Trước khi Việt Nam gia nhập WTO 2.3.2. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO 2.3.2.1. Đặc điểm của nền kinh tế xã hội và thị trường bảo hiểm 2007 2.3.2.1.1. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ 2.3.2.1.2. Bảo hiểm nhân thọ 2.3.2. 2. Những năm tiếp theo CHƯƠNG III: NHỮNG CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP CHO BẢO HIỂM VIỆT NAM 3.1. Những cơ hội của ngành bảo hiểm khi Việt Nam gia nhập WTO. 3.2. Những thách thức đối với các doanh nghiệp bảo hiểm khi Việt Nam gia nhập WTO 3.3. Một số giải pháp và đề xuất cho bảo hiểm trong giai đoạn tới TÀI LIỆU THAM KHẢO LỜI MỞ ĐẦU Như chúng ta đều biết, trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh, dù đã chú ý ngăn ngừa đề phòng nhưng con người vẫn luôn phải đối mặt với nguy cơ rủi ro trong mọi lĩnh vực. Các rủi ro xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân như môi trường, các thảm họa thiên nhiên (bão lụt, hạn hán, động đất…), xã hội (bệnh dịch, tai nạn...). Tất thảy mọi rủi ro đó đều đe dọa đến khả năng tài chính của mỗi cá nhân, tổ chức những con người không may gặp tai nạn. Để ngăn ngừa, khắc phục những rủi ro trên người ta nghĩ đến việc tại sao không đoàn kết cộng đồng, liên hợp nhiều người lại để chia sẻ mất mát với những con người kém may mắn đó? Một cá thể hay một tập thể nhỏ nếu đơn phương gánh chịu những hậu quả nặng nề của một hiểm hoạ thì thiệt hại đó có thể quá lớn thậm chí có thể dẫn tới phá sản. Nhưng nếu phân tán được cho nhiều người thì rủi ro có thể bớt nặng nề, ai nấy đều có thể gánh chịu dễ dàng mà không ảnh hưởng gì đến đời sống và hoạt động sản xuất kinh doanh của cá nhân mình. Như vậy xét trên diện rộng là cả cộng đồng thì hành động này tận dụng được tối đa mọi nguồn lực xã hội và lợi ích xã hội thu được là rất lớn. Ý niệm cộng đồng hoá các rủi ro phát sinh đã dẫn tới hình thành các Công ty bảo hiểm. Với hình thức kinh doanh là loại hình bảo hiểm rủi ro, các công ty bảo hiểm không chỉ giúp hạn chế những thiệt hại không mong muốn mà còn mang lại cảm giác yên tâm cho các cá nhân, tổ chức trong cuộc sống cũng như trong hoạt động kinh doanh của mình. Thực tế ở Việt Nam hiện nay làm thế nào để cho mọi người hiểu biết rõ về Bảo Hiểm rủi ro và thấy được lợi ích to lớn của nó, từ đó thu hút được nhiều người tham gia là một vấn đề đang gặp nhiều khó khăn. Để làm được điều đó cần phải được sự quan tâm chung của các tổ chức xã hội, không chỉ riêng ngành Bảo Hiểm. Xuất phát từ những suy nghĩ đó nên nhóm chúng tôi sẽ đi phân tích đề tài “ Đánh giá xu hướng phát triển của thị trường bảo hiểm rủi ro sau khi Việt Nam gia nhập WTO”. CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM RỦI RO 1.1. Một số vấn đề chung về bảo hiểm 1.1.1. Bảo hiểm rủi ro và nguyên tắc hoạt động 1.1.1.1. Khái niệm. Bảo hiểm rủi ro là một loại hình bảo hiểm có lịch sử phát triển khá sớm. Khi giao lưu hàng hóa được mở mang giữa các nước, rủi ro xảy ra cũng khá nhiều, đồng thời trong quá trình của sống con người,nhiều yếu tố ngẫu nhiên cũng xảy ra đe dọa trực tiếp đến tính mạng tài sản của họ. Để đảm bảo an toàn trong quá trình sản xuất và đời sống các nước đã có nhiều cách bảo hiểm khác nhau,bảo hiểm rủi ro là một trong các hình thức đó, cho đến nay bảo hiểm rủi ro còn gọi là bảo hiểm thương mại và ở nước ta còn gọi là bảo hiểm nhà nước. Mục đích chính của bảo hiểm rủi ro là bồi thường những thiệt hại về của cải hay sức khỏe tính mạng con người bằng cách đảm nhận những rủi ro đó. Từ đó có thể hiểu: bảo hiểm rủi ro là hệ thống các quan hệ kinh tế gắn liền với việc huy động các nguồn lực tài chính thông qua sự đóng góp của các tổ chức và cá nhân tham gia bảo hiểm để lập quỹ bảo hiểm, phân phối và sử dụng chúng để trả bồi thường cho người tham gia bảo hiểm khi gặp rủi ro bất ngờ. 1.1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm rủi ro. - Mục đích của bảo hiểm rủi ro trước hết là bồi đắp, bồi thường những tổn thất cho các đối tượng bảo hiểm khi xảy ra sự cố bất ngờ nhưng bên cạnh đó bảo hiểm rủi ro còn mang tính chất kinh doanh. Tính chất vừa bồi hoàn vừa không bồi hoàn của bảo hiểm đóng vai trò rất quan trọng đối với bảo hiểm rủi ro, nó đáp ứng được mục đích kinh doanh của bảo hiểm này, tức là khi không xảy ra rủi ro thì không phải bồi hoàn bảo hiểm phí sẽ tạo ra thu nhập cho người kinh doanh bảo hiểm. - Tính chất bồi hoàn của bảo hiểm rủi ro: không biết trước được thời gian, không gian và quy mô, chỉ xác định được khi rủi ro thực tế xảy ra. Đặc điểm này tạo ra tính nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm trong thời gian nhất định, cho phép người bảo hiểm có thể sử dụng nó để tham gia vào thị trường tài chính để sinh hoạt. - Việc bồi thường tổn thất thực tế cho người tham gia bảo hiểm thường rất lớn, lớn hơn rất nhiều lần so với số tiền bảo hiểm phí đã đóng góp. 1.1.1.3. Nguyên tắc hoạt động Hoạt động bảo hiểm thường được thực hiện theo các nguyên tắc sau: - Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm rủi ro trước hết là bảo đảm quyền lợi, lợi ích của người tham gia bảo hiểm. Thực chất của hoạt động bảo hiểm là hoạt động mang tính phòng xa, nhằm bảo đảm an toàn về tài sản, tính mạng, trách nhiệm dân sự của người tham gia bao hiểm trước những rủi ro ngẫu nhiên xảy ra.Để thực hiện nguyên tắc này tất yếu nhà nước phải có luật bảo hiểm để điều chỉnh các quan hệ kinh tế phát sinh trong lĩnh vực bảo hiểm nhằm đảm bảo quyền lợi, lợi ích cho người tham gia bảo hiểm. Nguyên tắc hạch toán kinh doanh. Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động theo nguyên tắc hạch toán kinh doanh nghĩa là hoạt động kinh doanh các lĩnh vực bảo hiểm phải thu được lợi nhuận, phải lấy lợi nhuận làm mục tiêu hiệu quả kinh doanh. Bởi vì các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực sản xuất lưu thông hành hóa các doanh nghiệp hoạt động phải thu được lợi nhuận thì mới có điều kiện để bảo toàn và phát triển, thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Để thực hiện nguyên tắc này các doanh nghiệp bảo hiểm chỉ bảo hieemr những rủi ro không lường trước được chứ không bảo hiểm những rủi ro chắc chắn sẽ xảy ra hoặc đã xảy ra, đồng thời phải chủ động tìm kiếm khách hàng, đổi mới hoạt động kinh doanh, mở rộng các nghiệp vụ… - Nguyên tắc an toàn tài chính. An toàn tài chính là một trong những nguyên tắc quan trọng đặc biệt của hoạt động bảo hiểm rủi ro. Yêu cầu của nguyên tắc này là các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phải đảm bảo năng lực tài chính để thực hiện các nghiệp vụ bảo hiểm, có biện pháp ngăn ngừa rủi ro làm mất khả năng chi trả dẫn đến nguy cơ phá sản. 1.1.2. Vai trò của bảo hiểm rủi ro Vai trò của bảo hiểm rủi ro cũng chính là vai trò của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nền kinh tế. trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm có vai trò rất to lớn. Thứ nhất, góp phần ổn định sản xuất và đời sống. Thông qua quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm, các doanh nghiệp bảo hiểm tổn thất có hiệu quả sẽ giảm được khoản chi bồi thường. Từ đó, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ cao hơn đồng thời cũng mang lại sự an toàn chung cho xã hội. Thứ hai, góp phần cung ứng vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, bảo hiểm rủi ro không chỉ là tấm lá chắn kinh tế cho kinh doanh và đời sống của con người mà còn hoạt động với tư cách là các tổ chức tài chính trung gian để đầu tư phát triển kinh tế xã hội. Doanh nghiệp được phép sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của mình để đầu tư nhưng phải tuân theo các nguyên tắc đã được quy định của pháp luật. Thứ ba, tăng cường công tác đề phòng và hạn chế tổn thất Bên cạnh khả năng giải quyết các hậu quả của rủi ro, bảo hiểm còn góp phần thực hiện một nội dung trong các biện pháp rủi ro. Đó là đề phòng và hạn chế mức thấp nhất những tổn thất có thể xảy. Nhờ đó, những thiệt hại đáng tiếc về người và tài sản được giảm thiểu và những hậu quả về kinh tế - xã hội cũng được chủ động phòng tránh.  Thứ tư, tăng thu ngân sách nhà nước Hàng năm, thông qua việc nộp thuế, bảo hiểm đã đóng góp một phần không nhỏ vào ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, bảo hiểm đã góp phần tiết kiệm cho ngân sách thông qua việc tốt khâu phòng ngừa và hạn chế tổn thất, giúp bảo vệ tối đa tài sản công cộng, giảm đến mức thấp nhất những thiệt hại đáng tiếc. Điều này giúp nhà nước giảm bớt chi tiêu những khoản lớn để bù đắp những tổn thất như phải xây dựng đường xá, cầu cống, nhà xưởng, công trình… Ngoài ra, một thị trường bảo hiểm phát triển mạnh mẽ và ổn định sẽ thu hút các cá nhân và tổ chức mua bảo hiểm của công ty bảo hiểm trong nước, góp phần tiết kiệm một khoản ngoại tệ lớn cho ngân sách nhà nước. Thứ năm, tạo tâm lý an tâm trong kinh doanh, trong cuộc sống. Khi kinh doanh ngày càng phát triển, đời sống xã hội ngày càng được nâng cao thì người ta càng có nhu cầu được đảm bảo an toàn cho tương lai. Môi trường kinh doanh cũng như môi trường xã hội đang dần xuất hiện những rủi ro mới. Những rủi ro thiên nhiên như bão lũ, hạn hán, cháy rừng tự nhiên… đang trở lên hết sức phức tạp. Thế giới đang biến triển hết sức phức tạp, khó đoán như chiến tranh, khủng bố, xung đột. trong tình hình như vậy, bảo hiểm chính là một giải pháp hữu hiệu, góp phần tích cực tạo ra tâm lý an tâm trong kinh doanh trong cuộc sống cho con người. 1.2. Thị trường bảo hiểm. 1.2.1. Các chủ thể tham gia thị trường bảo hiểm. - Người bảo hiểm: là chủ thể hay pháp nhân nào đó đứng ra chỉ đạo việc tạo lập và diều khiển quá trình sử dụng quỹ bảo hiểm dược pháp luật công nhận. Ví dụ: Các công ty bảo hiểm: Bảo Việt, Bảo Minh… - Người tham gia bảo hiểm: là những thể nhân hay pháp nhân tham gia đóng bảo hiểm phí dưới hình thức tự nguyện hay bắt buộc và khi xảy ra sự cố hay tai nạn bảo hiểm theo quy định của pháp luận hay hợp đồng bảo hiểm đã kí kết thì họ sẽ được quyền nhận bồi thường tổn thất. - Người được bảo hiểm: là người vì tính mạng, sức khỏe của người đó khiến người tham gia bảo hiểm đi đến kí kết hợp đồng bảo hiểm với người bảo hiểm. - Người được chỉ định hưởng bồi thường bảo hiểm: là người được tham gia bảo hiểm chỉ định bằng văn bản với người bảo hiểm là người đó sẽ được nhận bồi thường bảo hiểm khi có sự cố xảy ra hoặc khi người dược bảo hiểm bị chết. 1.2.2. Các yếu tố trong hợp đồng bảo hiểm. - Đối tượng bảo hiểm: là những cái gì mà người tham gia bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm hoặc do pháp luật quy định bắt buộc phải baỏ hiểm, có thể là thân thể con người, tài sản, trách nhiệm dân sự… - Rủi ro bảo hiểm: là mức độ hay khả năng xảy ra sự cố bảo hiểm, là một trong những sự cố dự tính trong những điều kiện bảo hiểm mà khi những sự cố này xảy ra thì người bảo hiểm bắt buộc phải tiến hành trả tiền bồi thường tổn thất cho người tham gia bảo hiểm. - Tai nạn bảo hiểm: Là sự cố bảo hiểm đã xảy ra kéo theo trách nhiệm của người bảo hiểm phải bồi thường tổn thất cho người tham gia bảo hiểm. - Giá trị bảo hiểm: là giá trị tài sản được bảo hiểm tại thời điểm kí hợp đồng bảo hiểm. - Số tiền bảo hiểm: là số tiền tính cho từng loại tài sản được bảo hiểm mà trong giới hạn đó người bảo hiểm phải tiến hành trả bồi thường tổn thất khi tai nạn bảo hiểm xảy ra đối với bảo hiểm tài sản hoặc là số tiền phải trả cho đời sống và sức khỏe đối với bảo hiểm thân thể. - Phí bảo hiểm: là số tiền mà người tham gia bảo hiểm phải đóng góp cho người bảo hiểm về các đối tượng bảo hiểm. 1.2.3. Các sản phẩm của bảo hiểm rủi ro. 1.2.3.1. Phân loại theo đối tượng bảo hiểm. - Bảo hiểm tài sản: là loại hình bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là giá trị tài sản. Đây là hình thức bảo hiểm có lịch sử phát triển lâu dài. Mục đích của loại bảo hiểm này là thỏa mãn nhu cầu về vật chất cho người tham gia bảo hiểm khi xảy ra sự cố bất ngờ như thiên tai, hỏa hoạn, trộm cắp…làm cho tài sản của họ bị hư hỏng, mất mát hoặc bị tiêu hủy toàn bộ. Mức tiền bồi thường cho người tham gia bảo hiểm cao hay thấp tùy thuộc vào tính chất của từng loại tài sản được bảo hiểm, phương thức bảo hiểm và mức độ thiệt hại thực tế. Bảo hiểm tài sản bao gồm các nghiệp vụ cụ thể như: + Bảo hiểm ô tô, xe máy (thân xe) + Bảo hiểm máy bay (thân và tài sản trên máy bay) + Bảo hiểm tàu thủy (thân và tài sản trên tàu) + Bảo hiểm vận chuyển hàng hóa nội địa và xuất nhập khẩu + Bảo hiểm đầu máy và toa xe… + Bảo hiểm tài sản cá nhân và doanh nghiệp + Bảo hiểm tín dụng - Bảo hiểm con người (bảo hiểm thân thể) Đây là hình thức bảo hiểm có đối tượng là đời sống sức khỏe, khả năng lao động và tính mạng của con người.Mục đích của loại hình bảo hiểm này là nhằm thỏa mãn nhu cầu về vật chất cho người tham gia bảo hiểm khi gặp những sự cố bất ngờ làm mất khả năng lao động, thiệt hại về mặt sức khỏe, bị chết…Bảo hiểm con người không chỉ có tác động phòng ngừa hạn chế và khắc phục kịp thời hậu quả do tai nạn bất ngờ gây ra cho bảm than con người, đảm bảo cho cuộc sống đời thường được ổn định mà còn thể hiện tính cộng đồng hóa rủi ro,tinh thần nhân đạo, một trong những tiêu chí đạo đức cao quý của con người Bảo hiểm con người bao gồm các nghiệp vụ sau: + Bảo hiểm nhân thọ + Bảo hiểm tai nạn lao động + Bảo hiểm tai nạn hành khách + Bảo hiểm tai nạn học sinh, sinh viên… - Bảo hiểm dân sự: Là hình thức bảo hiểm có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự. Đây là loại hình bảo hiểm mới được ra đời trên cơ sở tiến bộ của khoa hoc kĩ thuật và sự phát triển của công nghệ quản lí của Nhà nước pháp quyền. Mục đích: nhằm giải phóng người tham gia bảo hiểm thoát khỏi yêu cầu phải bồi thường tổn thất cho người khác do những hành vi hoạt động của chính họ gây ra. Phân loại: + Bảo hiểm trách nhiệm dân sự lái xe cơ giới + Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu + Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ hang hang không… 1.2.3.2. Phân loại dựa vào tính chất nghiệp vụ của các loại bảo hiểm - Bảo hiểm bắt buộc: là hình thức bảo hiểm bắt buộc phảo bảo hiểm của pháp luật nhà nước. Đối tượng: cả người bảo hiểm lẫn người được bảo hiểm. Đặc trưng: được thiết lập theo nguyên tắc trách nhiệm tự động,loại trừ khả năng lựa chọn của người tham gia bảo hiểm. Bảo hiểm bắt buộc gắn liền với việc tăng cường vai trò quản lí của Nhà nước đối với đối tượng bảo hiểm có lien quan tới lợi ích và an toàn chung của xã hội. vì khi xảy ra rủi ro với đối tượng bảo hiểm không chỉ gây hại cho cá nhân người được bảo hiểm mà còn gây thiệt hại chung cho toàn xã hội.Loại bảo hiểm này có nhiều thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp bảo hiểm trong việc triển khai nghiệp vụ. Nguyên tắc số đông bù số ít được phát huy tác dụng một cách triệt để bảo đảm doanh thu cho hoat động bảo hiểm. Phân loại: + Bảo hiểm trách nhiệm của lái xe cơ giới + Bảo hiểm trách nhiệm của chủ thầu đối với công trình xây dựng + Bảo hiểm tai nạn hành khách đi lại trên các phương tiện giao thong + Bảo hiểm cho một số loại tài sản - Bảo hiểm tự nguyện: là hình thức bảo hiểm dựa trên nguyên tắc thỏa thuận, hợp đồng bảo hiểm được kí kết theo những quy định và điều kiện của bảo hiểm đã được pháp luật quy định. Loại bảo hiểm này trước hết gắn với quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, tùy theo nhu cầu của bản thân để lựa chọn loại bảo hiểm phù hợp. Về phía người bảo hiểm cũng phải chủ động linh hoạt trong hoạt động kinh doanh: xây dựng các phương án bảo hiểm thích hợp với các điều kiện của bảo hiểm, chủ động trong việc đáp ứng yêu cầu cụ thể của từng đối tượng, tăng cường tính hấp dẫn của bảo hiểm. Phân loại: + Bảo hiểm tai nạn học sinh, sinh viên + Bảo hiểm du lịch + Bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ doanh nghiệp CHƯƠNG II: THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO. 2.1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam. Như chúng ta đã biết, bảo hiểm Việt Nam xuất hiện từ khá sớm. Ở Việt Nam, dưới thời kỳ Pháp đô hộ năm 1918 đã có bảo hiểm cho công nhân viên chức bị tàn tật. Đến năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh kí xác lệnh về BHXH. Cho đến năm 1965 tổng công ty Bảo Hiểm Việt Nam ra đời gọi tắt là Bảo Việt. Đây là đơn vị kinh doanh bảo hiểm đầu tiên ở Việt Nam với hình thức là Bảo hiểm nhà nước. Từ khi có nghị định 100CP về BHTM thì hàng loạt công ty BHTM ra đời và từ đó đến nay ngành bảo hiểm của Việt Nam không ngừng phát triển, đóng góp to lớn cho ngân sách nhà nước. Bảo hiểm rủi ro ở Việt Nam bắt đầu được thực hiện khi thủ tướng chính phủ ban hành thành lập công ty bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) trực thuộc bộ tài chính. Ngày 15/1/1965, công ty bảo hiểm chính thức đi vào hoạt động. Khi mới thành lập Bảo Việt chỉ thực hiện một số nghiệp vụ như: bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển… Cùng với sự phát triển kinh tế, chính sách mở cửa của Chính phủ Việt Nam, đã có nhiều công ty bảo hiểm ra đời như công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh (Bảo Minh), công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng (Bảo Long), công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO), Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVIC), Công ty liên doanh bảo hiểm Việt Nam (VIA), các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài…Các công ty bảo hiểm đã triển khai được rất nhiều nghiệp vụ bảo hiểm trong đó có nhiều nghiệp vụ mới như: bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm nhân thọ… Sự phát triển của kinh tế thị trường đã tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các hoạt động bảo hiểm. Ngược lại chính sự phát triển mạnh mẽ của ngành bảo hiểm đã khuyến khích sự phát triển chung của nền kinh tế. Quy mô hoạt động của bảo hiểm rủi ro Việt Nam ngày càng được mở rộng thể hiện qua sự tăng trưởng của doanh thu từ hoạt động này. Mục tiêu của ngành bảo hiểm trong vài năm trước là hoàn thành hơn nữa các nghiệp vụ bảo hiểm, mở rộng thị phần bảo hiểm và tăng mức đóng góp vào GDP từ 0,58% như hiện nay lên 1,5% hoặc 2%. 2.2. Những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO liên quan đến bảo hiểm . 2.2.1. Nội dung các cam kết. 2.2.1.1. Những cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam tại WTO - Doanh nghiệp bảo hiểm tại nước ngoài được phép cung cấp vào Việt Nam các dịch vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm có vốn nước ngoài và người nước ngoài tại Việt Nam. Ngoài ra họ còn được cung cấp dịch vụ tái bảo hiểm, vận tải quốc tế, môi giới bảo hiểm, tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. - Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài không được kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc cho đến ngày 01/01/2008 thì bãi bỏ hạn chế này. Theo cam kết trên có thể hiểu các doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh và bảo hiểm nhân thọ không bị hạn chế được đối xử quốc gia (doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam được làm gì thì họ được làm cái đó). Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài chỉ bị hạn chế sản phẩm bảo hiểm bắt buộc đến 01/01/2008 nhưng thực tế doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hưởng lợi không nhiều vì mới có sản phẩm bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, sản phẩm bảo hiểm bắt buộc người kinh doanh vận tải hành khách và hàng dễ cháy dễ nổ trên đường thuỷ nội địa. Các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc khác như cháy nổ, người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế, xây dựng – lắp đặt, người sử dụng lao động trong hoạt động xây dựng, công trình dầu khí, công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường đang chuẩn bị dự thảo và ban hành, nếu có thực hiện sẽ vào nửa cuối năm 2007.Điều đáng lo ngại nhất là các doanh nghiệp bảo hiểm tại nước ngoài không cần thành lập doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam cũng có thể vươn cánh tay của mình vào khai thác thị trường bảo hiểm Việt Nam theo cam kết WTO nói trên. 2.2.1.2. Các cam kết của Việt Nam tại Hiệp định Thương mại Việt Mỹ Doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ không hoạt động tại Việt Nam được cung cấp: - Dịch vụ bảo hiểm cho các xí nghiệp nước ngoài và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. - Các dịch vụ tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm - Các dịch vụ bảo hiểm trong vận tải quốc tế. - Các dịch vụ tư vấn, giải quyết khiếu nại, đánh giá rủi ro. Doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ thành lập và hoạt động tại Việt Nam, việc thành lập chi nhánh phụ thuộc vào tiến trình xây dựng Luật Kinh doanh bảo hiểm. Ba năm sau khi Hiệp định có hiệu lực được thành lập công ty liên doanh phía Mỹ không được quá 50% vốn. Năm năm sau khi Hiệp định có hiệu lực thành lập công ty được 100% vốn Hoa Kỳ. Các công ty có vốn Hoa Kỳ không được kinh doanh các dịch vụ đại lý bảo hiểm. Các công ty có vốn Hoa Kỳ không được kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc (hạn chế này sẽ bãi bỏ với công ty liên doanh là 3 năm, công ty 100% vốn Hoa Kỳ là 6 năm sau khi hiệp định có hiệu lực). Phải tái bảo hiểm bắt buộc 20% nếu có tái bảo hiểm và sẽ bãi bỏ việc này sau 5 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực. Trên đây là 4 rào cản chính với các doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ đang hoạt động tại Việt Nam cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam trước khi Việt Nam gia nhập WTO. Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực từ 10/12/2001 và đến 10/12/2006. Cơ bản hết lộ trình 5 năm thực hiện rào cản nói trên. Như vậy nội dung cam kết tại WTO cơ bản giống cam kết tại BTA hay nói một cách khác các cam kết tại WTO là bước phát triển tiếp theo đi tiếp tục thực hiện và được mở rộng áp dụng với tất cả các nước thành viên WTO. Điều này cũng có thể hiểu rằng các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam đã biết được các cam kết này và đã có thời gian chuẩn bị ít nhất là 5 năm vừa qua. 2.2.2. Những ảnh hưởng đến bảo hiểm Việt Nam của các cam kết trên. Thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh cả về quy mô, chất lượng và cả sự ổn định trong thị trường tài chính nói chung. Theo Bộ Tài chính, tác động của các cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm trong việc Việt Nam cam kết gia nhập WTO có thể được nhìn nhận từ hai khía cạnh, tác động tích cực và tiêu cực. Quá trình hội nhập sẽ làm giảm chi phí dịch vụ, chất lượng dịch vụ được nâng cao, năng lực thị trường được mở rộng, công nghệ quản lý mới được chuyển giao, trình độ đội ngũ cán bộ được nâng cao... Nhưng, việc thực hiện các cam kết cũng dẫn đến các khả năng gây bất ổn định nói chung của thị trường tài chính, mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, hệ thống quy định quản lý chưa theo kịp được với mức độ mở cửa thị trường... 2.2.2.1. Về cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài sẽ được phép cung cấp các dịch vụ bảo hiểm như bảo hiểm vận tải quốc tế, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm, dịch vụ đánh giá rủi ro, giải quyết khiếu nại và tư vấn bảo hiểm và đặc biệt là được phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các dự án, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân tại Việt Nam. Trong thời gian đầu, các cam kết này có thể sẽ ảnh hưởng mạnh tới một số loại hình bảo hiểm phi nhân thọ và giới hạn trong nhóm đối tượng người nước ngoài và các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian trung hạn thì với sự lớn mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trong nước (xét về mặt uy tín và năng lực tài chính) thì các cam kết này không có ảnh hưởng nhiều, một phần do tâm lý khách hàng thường có thiên hướng lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm có trụ sở tại Việt Nam, là những doanh nghiệp nắm thông tin về rủi ro tốt nhất do đó có khả năng bảo hiểm tốt nhất, mặt khác các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài thông thường cũng muốn thành lập pháp nhân để cung cấp dịch vụ tốt hơn. Hơn nữa, theo xu thế chung và triển vọng phát triển của ngành bảo hiểm Việt Nam, tỷ trọng phí bảo hiểm phi nhân thọ trong tổng doanh thu phí bảo hiểm của cả thị trường sẽ giảm dần so với nhân thọ, do đó những tác động của cam kết này đối với ngành bảo hiểm sẽ giảm dần theo thời gian. 2.2.2.2. Về các cam kết hiện diện thương mại Có thể nói, các cam kết cho phép thành lập pháp nhân thực hiện kinh doanh dịch vụ bảo hiểm là những cam kết mang tính chất tự do hoá thị trường bảo hiểm và có ảnh hưởng lớn nhất đối với các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đã hoạt động trên thị trường cũng như tới tình hình chung của thị trường. Việc cho phép thêm các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tham gia cung cấp dịch vụ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam sẽ tăng thêm năng lực khai thác bảo hiểm của thị trường bảo hiểm. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên phạm vi quốc tế sẽ giúp chuyển giao công nghệ khai thác bảo hiểm và đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác bảo hiểm tại Việt Nam. Với năng lực tài chính mạnh, các doanh nghiệp bảo hiểm mới tham gia thị trường này cũng sẽ cho ra đời các sản phẩm bảo hiểm mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Trong điều kiện cung cấp dịch vụ tốt hơn, khách hàng sẽ là đối tượng hưởng lợi nhiều nhất. Đặc biệt, chi phí bảo hiểm là một cấu phần ngày càng quan trọng trong chi phí sản xuất và kinh doanh của các đơn vị kinh tế khi nền kinh tế ngày càng phát triển. Vì vậy, giảm giá thành đầu vào đối với chi phí bảo hiểm sẽ giúp giảm một cách tương đối giá thành sản xuất sản phẩm và dịch vụ đầu ra của các doanh nghiệp Việt Nam và là cơ sở để tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam nói chung trong điều kiện toàn cầu hoá ngày càng được đẩy mạnh. Như vậy, việc cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ đem lại những lợi ích tổng thể cho thị trường. Tuy nhiên, song song với các khía cạnh tích cực trên, điều kiện thị trường bảo hiểm với sự có mặt của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài cũng sẽ đặt ra một số vấn đề như cạnh tranh không lành mạnh, hệ thống pháp lý chưa đủ mạnh để kiểm soát hoạt động đa dạng của các doanh nghiệp này, song các vấn đề này có thể được kiểm soát tốt nếu có những bước đi phù hợp trong công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động của thị trường. 2.2.2.3. Cam kết liên quan đến kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc Hiện nay, bảo hiểm bắt buộc theo luật định gồm: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của người vận chuyển hàng không đối với hành khách; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp đối với hoạt động tư vấn pháp luật; bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp của doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Bảo hiểm cháy, nổ và các loại bảo hiểm khác được quy định theo điều kiện phát triển của nền kinh tế. Trong những năm gần đây, tỷ trọng phí bảo hiểm thu từ bảo hiểm bắt buộc khá lớn trong tổng phí bảo hiểm phi nhân thọ. Tuy nhiên, tỷ trọng phí bảo hiểm từ loại hình bảo hiểm bắt buộc này sẽ giảm tương đối qua thời gian khi các nhu cầu bảo hiểm tiềm năng trên thị trường được khai thác tốt hơn do các doanh nghiệp ngày càng trưởng thành về năng lực vốn cũng như trình độ chuyên môn. Do đó, việc cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài cung cấp các dịch vụ này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến thị trường bảo hiểm mà chỉ ảnh hưởng đến thị phần của các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động trên thị trường và chỉ trong lĩnh vực phi nhân thọ. 2.2.2.4. Cam kết xoả bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc sau 1 năm Hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm ra nước ngoài đều phải thực hiện tái bảo hiểm bắt buộc tối thiểu 20% với Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (VINARE). Vì vậy, thực hiện cam kết xoá bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc này sẽ có tác động kép, trước tiên là ảnh hưởng tới hoạt động của VINARE, đồng thời ảnh hưởng đến tổng mức phí giữ lại của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ. Đối với những doanh nghiệp khác trên thị trường, cam kết này nếu được áp dụng chung sẽ tạo điều kiện linh hoạt hơn trong công tác tái bảo hiểm và tạo điều kiện tái bảo hiểm lợi hơn xét về mặt kinh tế. 2.3. Thực trạng thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay. 2.3.1. Trước khi Việt Nam gia nhập WTO. 15 năm, một bước tiến dài Kể từ năm 1993, thời điểm Việt Nam bắt đầu mở cửa thị trường bảo hiểm cho đến hết năm 2006, ngành bảo hiểm Việt Nam đã có một bước tiến rất dài.Từ chỗ chỉ có duy nhất Bảo Việt, đến nay trên thị trường Việt Nam đã có hơn 30 doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động ở tất cả các lĩnh vực bao gồm bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm nhân thọ, tái bảo hiểm và môi giới bảo hiểm. Đây là một sự phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, với chính sách mở cửa khác nhau nên thị trường bảo hiểm Việt Nam được phân chia khá chênh lệch. Ở lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, do Việt Nam chưa mở cửa nên các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước chiếm đến 95% thị phần, trong khi các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài chiếm đến 62,5% thị phần bảo hiểm nhân thọ. Với hơn 800 sản phẩm các loại, nguồn thu chủ yếu của ngành là từ phí bảo hiểm. Mức tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm của ngành từ 1993 đến 2004 là 38%/năm. Đóng góp của doanh thu phí bảo hiểm vào GDP cũng có tăng trưởng đáng kể. Từ 0,37% năm 1993 tăng lên 2,13% vào cuối năm 2006. Tổng số tiền bồi thường bảo hiểm cho các tổ chức kinh tế và dân cư từ năm 2000 - 2005 đạt trên 12.300 tỉ đồng. Dù có tăng trưởng cao, nhưng tỉ lệ đóng góp phí bảo hiểm vào GDP của Việt Nam như vậy là khá nhỏ nếu so sánh với các nước trong khu vực. Một vấn đề khác cần quan tâm là cho dù thị trường phát triển nhanh nhưng không cân xứng giữa các công ty, giữa các thành phần kinh tế. Mức độ tập trung thị trường cao nhất là trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, có hiện tượng độc quyền nhóm trong một số doanh nghiệp bảo hiểm chuyên sâu các ngành dầu khí, xăng dầu, bưu chính viễn thông. Quy mô vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hạn chế. Phương thức cạnh tranh vẫn chủ yếu là giảm phí và khai thác thị trường thông qua các mối quan hệ. Hoạt động đầu tư còn nhiều hạn chế Đến cuối năm 2006, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, chiếm 4,07% GDP và cũng có tốc độ tăng đáng kể nếu so với năm 2001, con số này chỉ là 1,06% GDP. Đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp bảo hiểm là trái phiếu chính phủ, tiền gửi ngân hàng. Phần còn lại là góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán và đầu tư trực tiếp vào các cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất kinh doanh và phục vụ đời sống. Tổ chức hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm chưa thể hiện tính chuyên nghiệp. Hiện nay, mới chỉ có 3 doanh nghiệp bảo hiểm thành lập công ty quản lý quỹ và 2 doanh nghiệp bảo hiểm được niêm yết trên thị trường chứng khoán. Điều này làm giảm khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm hiện vẫn chưa thể cho vay vốn trực tiếp hoặc mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực bất động sản, cổ phiếu vì thiếu vắng các quy định cụ thể từ các cơ quan chức năng. Do vậy, hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa cao. Mục tiêu đến năm 2010, con đường còn dài Có lẽ do chiến lược được lập khi thị trường bảo hiểm đang ở thời điểm hoàng kim, với mức tăng trưởng gần 50% một năm, mọi người đang rất lạc quan nên đã đưa ra mục tiêu “Tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24%/năm; trong đó, bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 16,5%/năm và bảo hiểm nhân thọ tăng khoảng 28%/năm. Tỷ trọng doanh thu phí của toàn ngành bảo hiểm so với GDP là 2,5% năm 2005 và 4,2% năm 2010, tổng dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng khoảng 12 lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng trưởng tăng khoảng 14 lần so với năm 2002. Tuy nhiên, ngay sau đó ngành bảo hiểm (nhất là bảo hiểm nhân thọ) bắt đầu rơi vào trạng thái bão hòa, khi mà ba năm gần đây, tốc độ tăng số thu phí bảo hiểm đã chậm lại, với mức bình quân hàng năm chỉ là 16%. Điều này dẫn đến kết quả là cuối năm 2006, doanh thu bảo hiểm chỉ bằng 2,13% GDP, tổng đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trở lại nền kinh tế là 34.400 tỉ đồng, bằng 4,07% GDP. Như vậy, kế hoạch đến năm 2005 đã không đạt. Để đạt được mục tiêu đến năm 2010, hàng năm, tốc độ tăng trưởng số thu phí của ngành bảo hiểm Việt Nam phải đạt bình quân 41% và tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế phải đạt bình quân 42%. Nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng 24% năm thì đến năm 2010, doanh thu bảo hiểm sẽ bằng 3,3% GDP. 2.3.2. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO 3.2.1. Đặc điểm của nền kinh tế xã hội và thị trường bảo hiểm năm 2007 Năm 2007 là năm đầu tiên Việt thực hiện các cam kết khi trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương mại quốc tế WTO. Nền kinh tế Việt tiếp tục mở cửa và hội nhập quốc tế với mức độ sâu rộng hơn với nhiều cơ hội và thách thức cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế xã hội nói chung và ngành bảo hiểm nói riêng. Năm 2007 tăng trưởng GDP đạt 8,5% đầu tư trực tiếp nước ngoài tương đương 20,3 tỉ USD, đầu tư toàn xã hội đạt 40% GDP, vốn ODA đạt 5,4 tỉ USD xuất khẩu đạt 48 tỉ USD. Các ngành công nghiệp vận tải biển và đóng tàu, hàng không dân dụng, dệt may, giày da có những bước phát triển đột phá. Thị trường tài chính tiền tệ tiếp tục phát triển theo xu thế ổn định sau một thời gian phát triển nóng như: tín dụng ngân hàng, chứng khoán, quỹ đầu tư, bảo hiểm. Đây là những tiền đề cơ bản tạo điều kiện thuận lợi cho ngành bảo hiểm Việt phát triển. Trong năm 2007, thiên tai, tai nạn xảy ra tương đối nhiều, điển hình như: bão lụt tại miền Trung, sập cầu Cần Thơ, sạt lở núi tại Hà Tĩnh cũng như các vụ đắm tàu, tai nạn giao thông, cháy nổ, dịch tiêu chảy, dịch lợn tai xanh, dịch cúm gia cầm tiếp tục hoành hành. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Năm 2007 chế độ quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm được hoàn thiện thêm một bước với việc ban hành NĐ 45, NĐ 46 ngày 27/3/2007, Thông tư 155, 156 hướng dẫn thi hành NĐ 45, NĐ 46 ngày 20/12/2007, Thông tư liên tịch Bộ Công an, Bộ Tài chính số 41 và QĐ 28 ngày 14/4/2007 về bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, Thông tư liên tịch Bộ Công An, Bộ Tài Chính số 16 và QĐ 23 ngày 9/4/2007 về bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe cơ giới, QĐ 96 ngày 19/11/2007 và QĐ 102 ngày 14/12/2007 về triển khai bảo hiểm liên kết chung và bảo hiểm liên kết đơn vị. Các văn bản pháp quy trên vừa nâng cao chế độ quản lý Nhà nước, vừa tạo tính chủ động, sáng tạo cho doanh nghiệp bảo hiểm, vừa bảo vệ quyền lợi người tham gia bảo hiểm và đã góp phần tích cực phát triển thị trường bảo hiểm Việt . Năm 2007 Bộ Tài chính đã cấp phép hoạt động cho Bảo hiểm Quân Đội, Cathay Life và Great Eastern đưa tổng số doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có mặt tại thị trường Việt Nam là 23 doanh nghiệp, 9 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 1 doanh nghiệp tái bảo hiểm, 8 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Năm 2007, các doanh nghiệp bảo hiểm tiếp tục nâng cao năng lực hoạt động, chấp nhận cạnh tranh lành mạnh trong xu thế mở cửa hội nhập ngày càng sôi động. Các doanh nghiệp bảo hiểm đã chú ý tới đào tạo cán bộ bảo hiểm, đào tạo và sử dụng đội ngũ đại lý bảo hiểm ngày càng có chất lượng. Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm đều đầu tư lớn vào phát triển công nghệ thông tin phục vụ cho công tác quản lý và khai thác bảo hiểm. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm đã tăng vốn với quy mô lớn cao hơn cả vốn pháp định, tăng khả năng tài chính, tăng năng lực giữ lại và giảm bớt phần tái bảo hiểm. Một số doanh nghiệp bảo hiểm đã chọn được đối tác chiến lược là những tập đoàn bảo hiểm, tài chính hàng đầu quốc tế như Bảo Việt với HSBC, Bảo Minh với AXA, VINARE với Swiss Re vừa thu được nguồn thặng dư vốn lớn, vừa tiếp thu được kinh nghiệm công nghệ quản lý bảo hiểm, đầu tư và phát triển sản phẩm bảo hiểm mới. Đặc biệt năm 2007, các doanh nghiệp bảo hiểm đã chú trọng đầu tư nguồn vốn chủ sở hữu và dự phòng nghiệp vụ đem lại lợi nhuận cao. Hầu hết các doanh nghiệp bảo hiểm đều thành lập bộ phận chuyên trách đầu tư, các doanh nghiệp có quy mô lớn đã thành lập ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty đầu tư tài chính, công ty quản lý quỹ. 2.3.2.1.1. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Tình hình chung Năm 2007, bảo hiểm phi nhân thọ đạt doanh thu 8.360 tỉ đồng tăng 31% so với 2006. Tổng quỹ dự phòng nghiệp vụ đạt 4.500 tỉ đồng, vốn chủ sở hữu gần 8.000 tỉ đồng, đầu tư vào nền kinh tế quốc dân gần 9.000 tỉ đồng, nộp ngân sách Nhà nước trên 1.000 tỉ đồng (bao gồm cả thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập đại lý và thuế thu nhập doanh nghiệp). Dẫn đầu doanh thu là Bảo hiểm Bảo Việt 2.601 tỉ đồng, tiếp đó là PVI 1.650 tỉ đồng, Bảo Minh 1.612 tỉ đồng. Một số doanh nghiệp bảo hiểm mới vào hoạt động cũng đạt được doanh thu đáng phấn khởi như AAA 155 tỉ đồng, BIC 147 tỉ đồng, Toàn Cầu 172 tỉ đồng, Viễn Đông 156 tỉ đồng. Các doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu lớn là Bảo Minh 2.226 tỉ đồng (kể cả thặng dư vốn), PVI 1.750 tỉ đồng (kể cả thặng dư vốn), Bảo hiểm Bảo Việt 1.005 tỉ đồng. Các doanh nghiệp bảo hiểm có dự phòng nghiệp vụ lớn là Bảo hiểm Bảo Việt 1.895 tỉ đồng, Bảo Minh 785 tỷ đồng, PVI 460 tỉ đồng, PTI 303 tỉ đồng. Các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư vào nền kinh tế lớn là Bảo hiểm Bảo Việt 2.900 tỉ đồng, Bảo Minh 2.211 tỉ đồng, PVI 2.210 tỉ đồng. Bảo hiểm xe cơ giới: Bảo hiểm xe cơ giới có doanh thu gần đạt 2.550 tỉ đồng chiếm 30% doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ, tăng 49% so với năm 2006. Dẫn đầu doanh thu là Bảo hiểm Bảo Việt 842 tỉ đồng, Bảo Minh 510 tỉ đồng tiếp đến là PJICO 491 tỉ đồng. Riêng bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới theo QĐ 23 mới có hiệu lực từ 12/06/2007 đã có doanh thu đạt 731 tỉ đồng. Tổng số tiền bồi thường 1.228 tỉ đồng chiếm 48,2% doanh thu. Các Doanh nghiệp bảo hiểm có tỉ lệ bồi thường cao là QBE 79,4%, PTI 69,8%, Bảo Long 63,1%, Bảo Minh 58,7%, Bảo Việt 51%. Tình hình bồi thường chủ yếu vẫn là giải quyết những vụ tai nạn thuộc phạm vi bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe cơ giới tại QĐ 23/2003 cũ của Bộ Tài chính. Trục lợi bảo hiểm vẫn chưa ngăn chặn được và có xu thế gia tăng cần có những giải pháp xử lý kịp thời. Hiện tượng khuyến mãi mũ bảo hiểm kém chất lượng đã bị báo chí, nhất là báo Lao động phản ánh gây ảnh hưởng đến uy tín của một số doanh nghiệp bảo hiểm. Năm 2007, thực hiện QĐ 23, các doanh nghiệp bảo hiểm đã đóng góp 2% doanh thu 2006 (tạm tính) mới thu được 3 tỉ đồng hình thành quỹ tuyên truyền và đảm bảo an toàn giao thông để đầu tư vào tuyên truyền giáo dục theo Nghị quyết 32, QĐ 23 về đảm bảo trật tự an toàn giao thông và phát triển BHBB TNDS đối với chủ xe cơ giới, hỗ trợ cho cơ quan công an tuần tra, kiểm soát giao thông và xử phạt vi phạm. Nhìn chung, triển khai QĐ 23 đã góp phần tăng trưởng doanh thu bảo hiểm TNDS chủ xe cơ giới, song vẫn còn nhiều khó khăn vướng mắc trong việc giải quyết, bồi thường về người, thu thập hồ sơ từ cơ quan công an. Những vấn đề trên sẽ được giải quyết trong năm 2008 thông qua việc sửa đổi Nghị định 115 và có thể sửa đổi QĐ 23. Hiện tại, Hiệp hội đang triển khai đề tài phòng chống trục lợi bảo hiểm, xây dựng hệ thống sửa chữa và cung cấp phụ tùng thay thế thống nhất giữa các doanh nghiệp bảo hiểm. Bảo hiểm kỹ thuật: Bảo hiểm kỹ thuật có doanh thu đứng thứ hai đạt 1.546 tỉ đồng, tăng 9,3% so với 2006. Bảo hiểm xây dựng lắp đặt đạt 760 tỉ đồng, tăng 13,4% so với 2006, bảo hiểm máy móc thiết bị đạt 36 tỉ đồng, giảm 24% so với 2006, bảo hiểm thiết bị điện tử đạt 93,7 tỉ đồng, tăng 7,2% so với 2006. Dẫn đầu doanh thu Bảo hiểm xây dựng lắp đặt là PVI 327 tỉ đồng, Bảo hiểm Bảo Việt 181 tỉ đồng, PJICO 46 tỉ đồng, GIC 40 tỉ đồng, BIC 36 tỉ đồng, Samsung Vina 34 tri đồng. Dẫn đầu doanh thu bảo hiểm máy móc thiết bị là Bảo hiểm Bảo Việt 9 tỉ đồng, UIC 7,3 tỉ đồng, PVI là 5 tỉ đồng, BIC 5,2 tỉ đồng, PJICO 4,5 tỉ đồng, VIA 1,8 tỉ đồng. Dẫn đầu doanh thu thiết bị điện tử là PTI 74 tỉ đồng, Bảo hiểm Bảo Việt 15 tỉ đồng, PJICO 2,2 tỉ đồng, AAA 1,8 tỉ đồng. Dẫn đầu doanh thu bảo hiểm Dầu khí là PVI 333 tỉ đồng, Bảo hiểm Bảo Việt 13 tỉ đồng. Nhìn chung, so với tốc độ tăng trưởng của FDI, đầu tư toàn xã hội trên 40% GDP, sự tăng trưởng của Bảo hiểm kỹ thuật vẫn còn khiêm tốn. Năm 2007, các doanh nghiệp bảo hiểm đã cử 27 cán bộ đi học tại Học viện Bảo hiểm . Các khuyến cáo của Hiệp hội về hạ phí bảo hiểm, giảm mức khấu trừ, mở rộng điều khoản, điều kiện bảo hiểm vẫn chưa được các doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nghiêm túc. Việc ban hành mẫu đơn Bảo hiểm xây dựng lắp đặt thống nhất toàn Hiệp hội thay thế cho Quyết định 33 để tiện lợi cho chào thầu, mời thầu đang được nghiên cứu thực hiện. Bảo hiểm sức khỏe con người: Bảo hiểm sức khỏe con người có doanh thu đứng thứ ba đạt 1.203 tỉ đồng, tăng 25% so với năm 2006. Dẫn đầu là Bảo hiểm Bảo Việt 657 tỉ đồng, Bảo Minh 264 tỉ đồng, PJICO 78 tỉ đồng. Tổng số tiền đã giải quyết bồi thường là 583 tỉ đồng chiếm 48,5% doanh thu. Bồi thường có tỉ lệ cao là Bảo Minh 82,7%, PTI 64%, PJICO 54,9%. Một số doanh nghiệp bảo hiểm đã đưa ra sản phẩm bảo hiểm y tế chất lượng cao, có thể khám chữa và điều trị tại bệnh viện với đội ngũ bác sỹ nổi tiếng đã thu hút được nhiều người tham gia bảo hiểm. Tuy nhiên, bảo hiểm người Việt du lịch lữ hành quốc tế là sản phẩm bảo hiểm bắt buộc các doanh nghiệp du lịch lữ hành quốc tế phải mua bảo hiểm cho người du lịch vẫn chưa được triển khai rộng rãi. Nhiều hoạt động du lịch, vui chơi, giải trí có tính nguy hiểm cao vẫn chưa tham gia bảo hiểm như: leo núi, nhảy dù, đu quay, cáp treo, lướt ván, tàu xuồng cao tốc … Bảo hiểm tai nạn vận chuyển hành khách trên đường thủy nội địa nhất là các đò ngang, đò dọc đang được quy định là bắt buộc (Nghị định 125, QĐ 99 BTC) nhưng chưa được triển khai mạnh mẽ. Bảo hiểm học sinh vẫn có một vài nơi, chi nhánh doanh nghiệp bảo hiểm tranh thủ ủng hộ của cơ quan chính quyền bằng văn bản làm hạn chế cạnh tranh. Nhiều nơi cạnh tranh quá mức thông qua việc trợ cấp thêm cho đại lý bảo hiểm, tăng phần để lại cho nhà trường. Bảo hiểm cháy nổ và mọi rủi ro: Bảo hiểm cháy nổ và mọi rủi ro đặc biệt đạt doanh thu 1.022 tỉ đồng, tăng 61% sơ với năm 2006. Dẫn đầu là PVI đạt 289 tỉ đồng, Bảo Minh 220 tỉ đồng, Bảo hiểm Bảo Việt 136 tỉ đồng, PJICO đạt 57 tỉ đồng. Tổng số tiền đã giải quyết bồi thường là 422 tỉ đồng chiếm 41,3% doanh thu. Bòi thường có tỉ lệ cao là Vass 96,7%, Bảo hiểm Bảo Việt 94,5%, Samsung Vina 71%, Bảo Minh 62%, PJICO 55%, PVI 50,5%, NĐ 130, TT liên tịch 41 và QĐ 28 về bảo hiểm cháy nổ bắt buộc có hiệu lực từ 28/06/2007 và có tác động rất tích cực vào thị trường bảo hiểm cháy nổ cũng như mọi rủi ro đặc biệt, làm tăng trưởng doanh thu lên rõ rệt. Tuy nhiên, doanh thu bảo hiểm cháy nổ bắt buộc theo QĐ 28 mới đạt được số khiêm tốn là 10,4 tỉ đồng. Nguyên nhân tình trạng trên là phía cơ quan Cảnh sát PCCC chưa cấp giấy chứng nhận an toàn PCCC (một trong những điều kiện tiên quyết để bán bảo hiểm bắt buộc) nên các doanh nghiệp bảo hiểm buộc phải bán bảo hiểm tự nguyện. Một đối tượng khách hàng với số lượng không nhỏ là các cơ sở hoạt động từ nguồn ngân sách Nhà nước như: bệnh viện, trường học, công sở … viện dẫn không được duyệt kinh phí mua bảo hiểm nên không mua bảo hiểm. Tình trạng cạnh tranh vẫn xảy ra gắt gao, nhiều doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đã mở rộng nhiều điều kiện bảo hiểm bắt buộc thậm chí sang cả sản phẩm bảo hiểm tai nạn con người, đổ vỡ máy móc, thiết bị để giành được dịch vụ, một số doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chấp thuận. Trục lợi bảo hiểm vẫn không thể tránh được, nhiều khách hàng thông qua luật sư, tìm sơ hở của hợp đồng bảo hiểm, hay dựa vào căn cứ kết luận của cơ quan công an cháy do chập điện khác với kết luận của các công ty giám định độc lập để buộc doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường. Bảo hiểm thân tàu và TNDS chủ tàu: Bảo hiểm thân tài và TNDS chủ tàu đạt doanh thu 809 tỉ đồng, tăng 30% so với 2006. Dẫn đầu là PVI 275 tỉ đồng, Bảo hiểm Bảo Việt 251 tỉ đồng, Bảo Minh 130 tỉ đồng, PJICO 104 tỉ đồng. Tổng số tiền đã bồi thường 337,5 tỉ đồng chiếm 42% doanh thu. Bồi thường có tỉ lệ cao là Bảo hiểm Bảo Việt 86%, PJICO 79%, Bảo Minh 54,3%, VASS 47,7%, SS Vina 47,5%. Việc tăng doanh thu có một phần do phía Hội P&I tăng phí. Bảo hiểm đóng tàu ngày càng tăng và các đội tàu đánh giá lại giá trị làm tăng thêm giá trị của con tàu tham gia bảo hiểm. Tình hình tổn thất trong năm 2007 tuy có ít hơn các năm trước nhưng vẫn ở mức độ cao. Số tiền bồi thường trong năm cao do phải giải quyết các vụ bồi thường từ năm trước chuyển sang. Tình hình cạnh tranh vẫn xảy ra gay gắt và ở mức báo động. Nhiều doanh nghiệp tìm cách giảm phí bảo hiểm để giành giật khách hàng như bảo hiểm đóng tàu chỉ trong rủi ro hạ thủy, bảo hiểm tàu pha sông, biển với phạm vi hoạt động ra ngoài hải phận Việt … Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển: Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển đạt doanh thu 712 tỉ đồng, tăng 34% so với năm 2006. Dẫn đầu là Bảo hiểm Bảo Việt 191 tỉ đồng, Bảo Minh 141 tỉ đồng, PVI 113 tỉ đồng, PJICO 83 tỉ đồng với phí bảo hiểm mới đạt 40 triệu USD so với kim ngạch năm 2007, xuất khẩu 48 tỉ USD và nhập khẩu 58 tỉ USD thì tỉ trọng hàng hóa XHK mua bảo hiểm tại Việt Nam so với tổng kim ngạch mua bảo hiểm tại nước ngoài (Xuất khẩu giá FOB, Nhập khẩu giá CIF) là quá khiêm tốn. Tổng số tiền đã bồi thường là 188 tỉ đồng chiếm 27,6% doanh thu. Bồi thường có tỉ lệ cao là Bảo Minh 45,4%, Toàn Cầu 39%, SS Vina 38,3%, Bảo Long 38,2%, PTI 33,8% Hiệp hội đã đưa ra các khuyến cáo về thu phí tàu già, khấu trừ với hàng xá, chú ý đến giám định mớn nước có sai lệch, chú ý mất trộm, mất cắp đối với hàng nguyên liệu thức ăn gia súc, phân bón, lương thực, sắt thép bó theo thanh, gỗ tròn trở xà lan trên tàu … Kết quả thực hiện khuyến cáo trên vẫn còn thấp, nhiều doanh nghiệp bảo hiểm vì giành dịch vụ vẫn chấp nhận rủi ro trên. Các loại bảo hiểm khác: Bảo hiểm hàng không đạt doanh thu 321 tỉ đồng, giảm 3,5% so với 2006, dẫn đầu là Bảo Minh 166 tỉ đồng, Bảo hiểm Bảo Việt 142 tỉ đồng, GIC 33 tỉ đồng. Bảo hiểm trách nhiệm đạt doanh thu 175 tỉ đồng, dẫn đầu doanh thu là Bảo hiểm Bảo Việt 63 tỉ đồng, Bảo Minh 37 tỉ đồng, PVI 19 tỉ đồng, PJICO 16 tỉ đồng, AIG Việt Nam 12 tỉ đồng, QBE 10 tỉ đồng. Bảo hiểm rủi ro tài chính đạt doanh thu 649 triệu đồng, giảm 3,2% so với 2006, dẫn đầu là Samsung Vina 548 triệu và Bảo Minh 101 triệu. Bảo hiểm gián đoạn kinh doanh đạt doanh thu 19 tỉ đồng giảm 16% so với năm 2006, dẫn đầu là Bảo Việt 8 tỉ đồng, VIA 3,9 tỉ đồng, UIC 3 tỉ đồng. Bảo hiểm nông nghiệp đạt doanh thu 833 triệu đồng tăng 23% so với 2006, dẫn đầu là Bảo Việt 0,8 tỉ đồng, Groupama 11 triệu đồng. Tóm lại: Bảo hiểm phi nhân thọ năm 2007 có bước tăng trưởng đột phá cao nhất trong 5 năm trước. Song do cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp hạ phí bảo hiểm, tăng phần trợ cấp cho các đại lý, làm giảm hiệu quả kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm có kết quả kinh doanh nghiệp vụ bảo hiểm không khả quan, thậm chí không có lãi do tăng tỉ lệ bồi thường, doanh thu thấp do giảm phí và tăng chi phí, lãi thu được để chia cho cổ đông chủ yếu từ lãi đầu tư. Tình hình này nếu kéo dài sẽ hạ uy tín của doanh nghiệp bảo hiểm và sức ép của cổ đông về cổ tức buộc các doanh nghiệp bảo hiểm phải có sự thay đổi chiến lược kinh doanh và quản lý. Tình hình tái bảo hiểm cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước với nhau vẫn chưa được xây dựng thành vấn đề đóng góp phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam, phát triển các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam và thể hiện tinh thần hợp tác, thiện chí giữa các thành viên của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam. Năm 2008 sẽ có nhiều nguồn vốn FDI, ODA của năm 2007 được giải ngân. Vốn FDI, ODA và đầu tư toàn xã hội 2008 tiếp tục tăng, nền kinh tế dự kiến tăng trưởng trên 8,5% là những thuận lợi cơ bản cho ngành bảo hiểm phát triển. Năm 2008 cũng là năm dỡ bỏ rào cản cuối cùng về BHBB đối với doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, một số doanh nghiệp bảo hiểm mới sẽ được phép hoạt động, các doanh nghiệp bảo hiểm được thành lập 2006, 2007 sau một thời gian củng cố sẽ có những bứt phá vươn lên. Tình hình trên có thể đi đến những dự đoán năm 2008 bảo hiểm phi nhân thọ sẽ đạt tốc độ tăng trưởng trên 30%, doanh thu đạt trên 10.000 tỉ đồng hoàn thành xuất sắc chỉ tiêu chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm đến năm 2010 và là thành tích chào mừng 15 năm thành lập ngành Bảo hiểm Việt Nam. 2.3.2.1.2. Bảo hiểm nhân thọ Tình hình chung Năm 2007, thị trường Bảo hiểm nhân thọ tiếp tục phát triển trên cơ sở tăng trưởng của nền kinh tế xã hội, GDP tăng 8,5%, thu nhập bình quân đầu người lên tới 825 USD, tầng lớp trung lưu giàu có ngày một đông đảo, nhu cầu bảo hiểm y tế chất lượng cao, Bảo hiểm hưu trí vượt trên Bảo hiểm xã hội (20 lần lương tối thiểu). Song Bảo hiểm nhân thọ tiếp tục đối mặt cạnh tranh với các dịch vụ tài chính khác đang đà tăng trưởng hứa hẹn lãi suất cao như: chứng khoán, tiền gửi tiết kiệm. Trong bối cảnh này, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã đưa ra các sản phẩm bảo hiểm mới như: Bảo hiểm linh hoạt trọn đời, Bảo hiểm gắn liền với nguồn tài chính để thực hiện công việc lớn trong tương lai (cho con du học, mua nhà, mua xe ô tô), Bảo hiểm hưu trí với số tiền cao hơn mức trần của Bảo hiểm xã hội đối với những người có nguồn thu nhập cao, nguồn nhân tài chất xám mà chủ lao động của họ cần gìn giữ… Đồng thời các doanh nghiệp bảo hiểm không ngừng nâng cao chất lượng tuyển dụng, đào tạo và sử dụng đại lý nhằm tuyên truyền, giải thích, tư vấn và phục vụ khách hàng tốt hơn. Năm 2007 ban hành NĐ 45, NĐ 46, Thông tư hướng dẫn 155, 156 thi hành luật kinh doanh bảo hiểm, đã mở đường cho doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra sản phẩm bảo hiểm liên kết đầu tư. Bộ tài chính đã ban hành QĐ 96, QĐ 102 cho phép doanh nghiệp bảo hiểm triển khai sản phẩm bảo hiểm liên kết chung (Universal Life) và liên kết đơn vị (Unit Link). Trong bối cảnh thị trường chứng khoán đang phát triển ở thế ổn định, hấp dẫn nhiều người tham gia bảo hiểm vừa được bảo hiểm trước rủi ro vừa trở thành nhà đầu tư tài chính. Mặt khác, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã tranh thủ thời cơ đầu tư tài chính trong năm 2007 có hiệu quả sinh lời cao để đem lại cam kết trả bảo tức hấp dẫn hơn đối với người tham gia bảo hiểm. Cuối năm 2007 Bộ Tài chính đã cấp giấy phép cho 2 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là Cathay Life và Great Eastern. Doanh thu Bảo hiểm nhân thọ Kết quả năm 2007, doanh thu Bảo hiểm nhân thọ đạt 9.397 tỉ đồng, tăng 12% so với năm 2006, đây là doanh thu cao nhất trong 3 năm qua. Điều này chứng tỏ Bảo hiểm nhân thọ sau một thời gian ổn định đã bước vào một giai đoạn mới của thời kỳ phát triển. Thị trường Bảo hiểm nhân thọ đã có những sản phẩm hấp dẫn để thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm. Dẫn đầu doanh thu bảo hiểm là Prudential 3.958 tỉ đồng, Bảo Việt nhân thọ 3.250 tỉ đồng, AIA 547 tỉ đồng, ACE Life qua 2 năm hoạt động cũng đạt được doanh thu 174 tỉ đồng. Số lượng hợp đồng bảo hiểm Tổng số hợp đồng bảo hiểm mới khai thác trong năm là 1.323.891 hợp đồng, cao nhất trong 3 năm qua, tăng hơn năm 2006 là 29.71%, dẫn đầu là Prudential 532.606 hợp đồng, Bảo Việt 524.151 hợp đồng, AIA 108.001 hợp đồng. Số lượng hợp đồng hết hiệu lực trong kỳ là 919.158 giảm 24,38% so với năm 2006, đây là dấu hiệu đáng mừng. Số hợp đồng hết hiệu lực cao nhất thuộc về Bảo Việt nhân thọ 412.464 hợp đồng, Prudential 355.327 hợp đồng, AIA 70.491 hợp đồng. Số lượng hợp đồng khôi phục trong kỳ là 156.910 hợp đồng giảm 35,05% so với 2006, chứng tỏ người tham gia bảo hiểm muốn lựa chọn sản phẩm bảo hiểm mới hơn là khôi phục hợp đồng cũ. Prudential là doanh nghiệp có số hợp đồng khôi phục cao nhất với 133.422 hợp đồng, tiếp đến là Dai-ichi 9.544 hợp đồng, Bảo Việt nhân thọ 6.650 hợp đồng. Tổng số hợp đồng có hiệu lực đến cuối năm 2007 là 7.336.167 hợp đồng, tăng 11.62 % so với năm 2006. Dẫn đầu là Bảo Việt Nhân thọ 3.290.997 hợp đồng, Prudential là 2.883.154 hợp đồng, AIA 471.123 hợp đồng. Trả tiền bảo hiểm Trong năm 2007, các doanh nghiệp bảo hiểm đã chi trả cho hợp đồng đáo hạn và cho người tham gia bảo hiểm gây sự cố bảo hiểm với số tiền là 2.204 tỉ đồng, tăng 5,29% so với 2006. Dẫn đầu là Bảo Việt nhân thọ 1.556 tỉ đồng, Prudential 385 tỉ đồng, ManuLife 167 tỉ đồng. Cả năm 2007, các doanh nghiệp bảo hiểm trả giá trị hoàn lại 1.228 tỉ đồng, tăng 10,60% so với năm 2006 cho các hợp đồng chấm dứt trước hạn. Vấn đề này cũng phản ánh một phần tác động của thị trường chứng khoán, tiền gửi tiết kiệm, giá vàng hấp dẫn cũng như giá cả lạm phát gia tăng làm cho kế hoạch tiết kiệm để đóng phí bảo hiểm của nhiều gia đình gặp khó khăn, buộc phải chấm dứt hợp đồng trước hạn. Dẫn đầu chi trả hoàn lại là Prudential 480 tỉ đồng, Bảo Việt nhân thọ 459 tỉ đồng, Dai-ich 77 tỉ đồng. Số lượng đại lý bảo hiểm Số lượng đại lý bảo hiểm được tuyển dụng trong năm là 43.446 người tăng 3% so với năm 2006. Nhiều nhất là Prudential 24.947 người, ACE Life 5.443 người, Dai-ichi 4.730 người. Số lượng đại lý bảo hiểm đến cuối năm là 72.091 người tăng 14% so với năm 2006. Điều này chứng tỏ đại lý bảo hiểm bỏ việc ngày càng ít đi, chất lượng đại lý bảo hiểm ngày càng được tăng lên rõ rệt. Năng suất lao động của các đại lý bảo hiểm tăng cao, mỗi đại lý chịu trách nhiệm 7.336.167/72.091 = 101.7 hợp đồng, mỗi đại lý trong năm khai thác được 1.304.925/72.091 = 18,36 hợp đồng mới. Năng lực tài chính Tổng số vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là 4.681 tỉ đồng, bình quân 668 tỉ đồng/ doanh nghiệp bảo hiểm, tăng 36% so với 2006. Dẫn đầu là Bảo Việt nhân thọ 1.500 tỉ đồng, Prudential 1.200 tỉ đồng, Manulife 789 tỉ đồng. Tổng dự phòng nghiệp vụ Bảo hiểm Nhân thọ là 31.303 tỉ đồng tăng 19% so với 2006. Dẫn đầu là Prudential 13.211 tỉ đồng, Bảo Việt nhân thọ 12.215 tỉ đồng, Manulife 3.086 tỉ đồng, AIA 1.762 tỉ đồng. Như vậy năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ được tăng lên rõ rệt. Các doanh nghiệp bảo hiểm như Bảo Việt nhân thọ, Prudential, Manulife đủ điều kiện để phát triển thêm các dịch vụ tài chính khác như: thành lập ngân hàng cổ phần Bảo Việt, công ty chứng khoán Bảo Việt, công ty quản lý quỹ Bảo Việt, Prudential, Manulife, công ty tài chính Prudential… Hiệu quả kinh doanh Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đã đầu tư vào nền kinh tế quốc dân 33.370 tỉ đồng, đa số là nguồn vốn trung dài hạn. Dẫn đầu là Bảo Việt nhân thọ 13.300 tỉ đồng, Prudential 12.550 tỉ đồng, Manulife 4.159 tỉ đồng, AIA 1.931 tỉ đồng. Lãi ròng trước thuế của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là 2.062 tỉ đồng trong đó đã có 3 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có lãi là Prudential 1.749 tỉ đồng, Bảo Việt nhân thọ 308 tỉ đồng, Manulife 25 tỉ đồng. Ngoài ra các doanh nghiệp bảo hiểm đã góp phần thu thuế thu nhập cá nhân từ hoa hồng của đại lý bảo hiểm nhân thọ hàng trăm tỉ đồng. Tóm lại: Năm 2007, thị trường bảo hiểm Việt Nam trải qua năm đầu tiên kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO với những thành tựu đáng khích lệ: Doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ đạt 8.500 tỉ đồng, tăng trưởng 30%; Doanh thu bảo hiểm nhân thọ đạt 9.500 tỉ đồng tăng trưởng 12%. Dưới đây là 10 sự kiện của ngành bảo hiểm thương mại năm 2007 do Hiệp Hội Bảo Hiểm Việt Nam bầu chọn. 1. IPO 680 tỉ đồng của Tập đoàn Tài chính Bảo hiểm Bảo Việt đạt con số kỷ lục với 20.368 nhà đầu tư đăng ký, 13 đại lý lớn tham gia và tổng số nhà đầu tư trung gian tới 3.741, mở đầu cho việc đấu giá cổ phần của các Tập đoàn lớn sau này. 2. Doanh thu bảo hiểm phi nhân thọ đạt 8.500 tỉ đồng, tăng trưởng 30%, cao nhất trong 5 năm qua, xấp xỉ chỉ tiêu chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đối với Bảo hiểm phi nhân thọ là 9.000 tỉ đồng. 3. Doanh thu bảo hiểm nhân thọ đạt 9.500 tỉ đồng tăng trưởng 12% cao nhất trong 3 năm qua, đồng thời với việc các doanh nghiệp bảo hiểm nâng cao chất lượng tuyển dụng, đào tạo và sử dụng đại lý bảo hiểm, phát triển một số sản phẩm bảo hiểm mới đáp ứng nhu cầu bảo hiểm y tế chất lượng cao, bảo hiểm tiền hưu trí vượt mức trần của bảo hiểm xã hội và bảo hiểm trọn đời. 4. Chế độ quản lý nhà nước được hoàn thiện thêm một bước bằng việc ban hành NĐ 45 và NĐ 46 ngày 27/3/2007 và Thông tư 155, Thông tư 156 ngày 20/12/2007 hướng dẫn thi hành luật kinh doanh bảo hiểm theo xu hướng minh bạch công khai chế độ quản lý nhà nước và thủ tục hành chính, tăng cường tính chủ động cho doanh nghiệp bảo hiểm, nâng cao chất lượng đội ngũ quản lý kinh doanh bảo hiểm, nâng cao năng lực tài chính và đảm bảo quyền lợi hợp pháp chính đáng cho người tham gia bảo hiểm phù hợp với chuẩn mực quốc tế và cam kết WTO. 5. Nhà nước sửa đổi và ban hành 2 sản phẩm bảo hiểm bắt buộc trong đó NĐ 130 Chính phủ, Thông tư liên tịch BTC-BCA số 41 và QĐ 28/BTC ngày 24/4/2007 về chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, Thông tư liên tịch BTC-BCA số 16 và QĐ 23/BTC ngày 29/4/2007 về chế độ BHBB TNDS chủ xe cơ giới, tạo điều kiện pháp lý để bảo hiểm phát triển. 6. Bộ Tài chính ban hành Quy chế triển khai sản phẩm thí điểm sản phẩm bảo hiểm liên kết chung theo Quyết định số 96/2007/QĐ-BTC ngày 23/11/2007 và Quy chế triển khai thí điểm bảo hiểm liên kết đơn vị theo Quyết định số 102/2007/QĐ-BTC Ngày 14/12/2007 tạo điều kiện ra đời hàng loạt sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trong đó người tham gia bảo hiểm vừa tích lũy tiết kiệm vừa bảo hiểm rủi ro vừa cùng hợp tác với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đầu tư vào thị trường tài chính chứng khoán sinh lãi cao và chấp nhận một phần rủi ro mạo hiểm. 7. Tập đoàn Tài chính Bảo hiểm Bảo Việt chọn HSBC là cổ đông chiến lược, Bảo Minh chọn AXA là cổ đông chiến lược. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã nằm trong tầm ngắm chú ý để đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm hàng đầu quốc tế, đồng thời tận dụng được kinh nghiệm, công nghệ, sản phẩm mới và hệ thống của đối tác chiến lược để phát triển phân phối sản phẩm bảo hiểm, nâng cao uy tín thương hiệu của mình. 8. Các doanh nghiệp bảo hiểm đồng loạt tăng vốn phù hợp với quy định pháp luật, nâng mức vốn pháp định lên 300 tỉ đồng đối với bảo hiểm phi nhân thọ, 600 tỉ đồng đối với bảo hiểm nhân thọ, 200 tỉ đồng đối với bảo hiểm dầu khí hoặc vệ tinh hoặc bảo hiểm liên kết đầu tư, 10 tỉ đồng đối với thành lập chi nhánh thứ 21. Ngoài ra các doanh nghiệp bảo hiểm còn tăng thêm vốn để góp vốn thành lập tài chính, chứng khoán… Việc tăng vốn điều lệ cao hơn vốn pháp định giúp doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng hoạt động kinh doanh sang các dịch vụ tài chính nâng cao khả năng tài chính, nâng cao năng lực bảo hiểm làm giảm đi đáng kể phải tái bảo hiểm ra nước ngoài đồng thời làm tăng uy tín và sự tin cậy của khách hàng. 9. Các doanh nghiệp bảo hiểm đã đầu tư vào nền kinh tế quốc dân trên 40.000 tỉ đồng tương đương 2,5 tỉ USD bằng vốn chủ sở hữu và dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm (chủ yếu là trung và dài hạn) góp phần phát triển kinh tế xã hội. 10. Các doanh nghiệp bảo hiểm tích cực đóng góp vào công tác đề phòng hạn chế tổn thất trong đó đóng góp 5% doanh thu bảo hiểm cháy nổ bắt buộc cho kinh phí phòng Những thành tựu của năm 2007 chứng tỏ thị trường BHVN tiếp tục phát triển trong năm đầu tiên gia nhập WTO. 1.  Năng lực tài chính: Đơn vị: tỉ đồng Doanh nghiệp Vốn điều lệ Vốn chủ sở hữu Tổng tài sản · Phi nhân thọ 13 DNVN 9 DN nước ngoài 7.376 6.185 1.191 8.680 7.670 1.016 17.369 15.796 1.573 · Nhân thọ 1 DNVN 8 DN nước ngoài 5.940 1.500 4.440 5.624 1.502 4.122 39.417 13.990 24.426 · Tái BH (1) 672 614 1.215 · Môi giới BH (8) 424 -- -- Tổng cộng so với 2006 14.030,4 14.918 212,5% 58.001 146,1% 2.  Doanh thu:    Đơn vị: tỉ đồng Lĩnh vực 2006 2007 % Phi nhân thọ Nhân thọ 6.381 8.481 8.359 9.458 31% 12% 3.  Dự phòng nghiệp vụ:  Lĩnh vực 2006 2007 Tăng trưởng Phi nhân thọ DNVN DN nước ngoài 3.489 3.317 171 4.333 4.101 231 24,2% Nhân thọ DNVN DN nước ngoài 24.219 10.793 13.426 31.152 12.215 18.936 28,6% Tổng cộng 27.708 35.485 28% 4. Đầu tư:  Lĩnh vực 2006 2007 Tăng trưởng Phi nhân thọ DNVN DN nước ngoài 4.740 4.134 606 11.495 10.228 1.266 42,5% Nhân thọ DNVN DN nước ngoài 25.323 10.888 14.435 32.568 12.842 19.726 28,6% Tổng cộng 30.063 44.063 46,5% 2.3.2. 2.Những năm tiếp theo Năm 2008, cùng với lộ trình mở cửa và những ưu đãi theo cam kết Tổ chức thương mại thế giới (WTO) sau một năm hội nhập, trên đà kinh tế - xã hội phát triển cao, dòng vốn đầu tư FDI đạt con số kỷ lục 20,3 tỷ USD năm 2007, thị trường bảo hiểm đang khởi sắc và tăng tốc với nhiều hứa hẹn mới... Khởi sắc trở lại Khác với những con số khiêm tốn và ảm đạm của năm 2006, năm 2007, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. TS Phùng Đắc Lộc, Tổng thư ký Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cho biết: ngay đầu năm 2007, thị trường bảo hiểm đã đánh dấu một sự kiện quan trọng, đó là sự góp mặt của Công ty bảo hiểm nhân thọ (BHNT) Dai-ichi Nhật Bản vào thị trường trong nước thông qua mua toàn bộ cổ phần của Công ty Bảo hiểm NT Bảo Minh-CMG. Và thực tế cho thấy, năm 2007, nền kinh tế xã hội Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với nhiều cơ hội từ việc gia nhập WTO mang lại. Một số ngành đã xấp xỉ đạt chỉ tiêu lên kế kế hoạch phát triển đến năm 2010 như Thủy sản, dệt may, bảo hiểm phi nhân thọ... 9 tháng đầu năm 2007, GDP tăng trưởng 8.116% ước đạt 9% năm cùng với sự tăng trưởng nhanh của xuất nhập khẩu, công nghiệp - xây dựng, điện lực, hàng không, đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đây là những tiền đề, cơ sở quan trọng để ngành Bảo hiểm Việt Nam phát triển. Thị trường bảo hiểm Việt Nam sau 1 năm gia nhập WTO đã có những hình ành đậm nét của một ngành sẵn sàng hội nhập và đáp ứng các chuẩn mực quốc tế. Chế độ quản lý Nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm được hoàn thiện hơn để củng cố và phát triển thị trường bảo hiểm. Việc ban hành NĐ 45/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007, NĐ 46/2007/NĐ-CP ngày 27/3/2007 và chuẩn bị ban hành 2 Thông tư hướng dẫn nghị định trên thể hiện sự nắm bắt nhu cầu phát triển của thị trường bảo hiểm Việt Nam, cần thực hiện cam kết WTO hội nhập, và mở cửa thị trường bảo hiểm cần có những cơ chế chính sách quản lý Nhà nước phù hợp. Việc Bộ Tài chính ban hành Quyết định 23 về Bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới, ngày 9/4/2007, Quyết định 28 về Bảo hiểm Cháy nổ bắt buộc ngày 24/4/2007 và chuẩn bị ban hành Quy chế triển khai thí điểm bảo hiểm liên kết đơn vị và liên kết đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển thị trường bảo hiểm phi nhân thọ và nhân thọ. Bộ Công an và Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 41 ngày 29/4/2007 về Bảo hiểm cháy nổ bắt buộc TNDS chủ xe giới, xây dựng được cơ chế phối hợp giữa 02 Bộ, sự chỉ đạo của 02 Bộ tới các đơn vị trực thuộc các doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) nhằm thực hiện nghiêm chỉnh chế độ bảo hiểm cháy nổ bắt buộc và bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự (TNDS) của chủ xe cơ giới. Các DNBH đã đóng góp tích cực vào công tác đề phòng hạn chế tổn thất hình thành quỹ tập trung, quy mô lớn để thực hiện những công việc lớn như đóng góp 5% phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc nhằm góp phần phát triển lực lượng PCCC, 2% phí bảo hiểm bắt buộc TNDS chủ xe cơ giới để góp phần đảm bảo an toàn giao thông, đề phòng hạn chế tổn thất và bồi thường nhân đạo. Việc Tập đoàn Tài chính Bảo hiểm Bảo Việt chọn HSBC là cổ đông chiến lược, Bảo Minh chọn AXA là cổ đông chiến lược chứng tỏ các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã nằm trong tầm ngắm chú ý để đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm hàng đầu quốc tế, đồng thời tận dụng được kinh nghiệm, công nghệ, sản phẩm mới và hệ thống của đối tác chiến lược để phát triển phân phối sản phẩm bảo hiểm, nâng cao uy tín thương hiệu của mình.Các doanh nghiệp bảo hiểm đồng loạt tăng vốn phù hợp với quy định pháp luật, nâng mức vốn pháp định lên 300 tỉ đồng đối với bảo hiểm phi nhân thọ, 600 tỉ đồng đối với bảo hiểm nhân thọ, 200 tỉ đồng đối với bảo hiểm dầu khí hoặc vệ tinh hoặc bảo hiểm liên kết đầu tư, 10 tỉ đồng đối với thành lập chi nhánh thứ 21. Ngoài ra các doanh nghiệp bảo hiểm còn tăng thêm vốn để góp vốn thành lập tài chính, chứng khoán... Việc tăng vốn điều lệ cao hơn vốn pháp định giúp doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng hoạt động kinh doanh sang các dịch vụ tài chính nâng cao khả năng tài chính, nâng cao năng lực bảo hiểm làm giảm đi đáng kể phải tái bảo hiểm ra nước ngoài đồng thời làm tăng uy tín và sự tin cậy của khách hàng.Các doanh nghiệp bảo hiểm đã đầu tư vào nền kinh tế quốc dân trên 40.000 tỉ đồng tương đương 2,5 tỉ USD bằng vốn chủ sở hữu và dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm (chủ yếu là trung và dài hạn) góp phần phát triển kinh tế xã hội. Năm 2008 - bước tăng tốc mới. Theo lộ trình gia nhập WTO, VN sẽ thực hiện các cam kết như bỏ quy định tái bảo hiểm bảo hiểm 20% cho Công ty Tái bảo hiểm VN (Vinare); cho phép công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được cung cấp dịch vụ bảo hiểm bắt buộc kể từ ngày 1.1.2008; cho phép thành lập chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO, đối với dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ; cho phép thành lập công ty bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài và không hạn chế số lượng chi nhánh trong nước...Lộ trình này đã và đang làm cho thị trường bảo hiểm trong nước sôi động hơn. Năm 2008, nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng cao, dòng vốn FDI năm 2007 là 20,3 tỷ USD, vốn ODA là 5,3 tỷ USD chủ yếu được giải ngân năm 2008 sẽ là điều kiện thuận lợi để bảo hiểm phát triển. Tổng đầu tư xã hội sẽ chiếm khoảng 42% GDP đòi hỏi bảo hiểm phải phát triển mạnh hơn, có nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu của xã hội. Mặc dù thành công năm 2007 là rất lớn nhưng các chuyên gia vẫn cho rằng, còn đến 90-95% tiềm năng thị trường bảo hiểm Việt Nam chưa được khai thác và như vậy vẫn còn rất nhiều cơ hội để các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước tăng trưởng phí bảo hiểm và tăng thu nhập. Vẫn còn nhiều loại hình bảo hiểm đầy tiềm năng chưa được khai thác như: bảo hiểm liên quan đến tai nạn và sức khoẻ con người, bảo hiểm công nghệ cao, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm xuất khẩu, cả ở trong nước và ngoài nước...Ngành bảo hiểm cũng cần vươn tới các địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Đừng nghĩ rằng miền núi nghèo thì không có tiềm năng. CHƯƠNG III: NHỮNG CƠ HỘI, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP CHO BẢO HIỂM VIỆT NAM. 3.1 Những cơ hội của ngành bảo hiểm khi Việt Nam gia nhập WTO. Nền kinh tế sẽ phát triển với tốc độ trên 8%/năm, tăng thêm tiềm năng cho ngành bảo hiểm phát triển. - Lộ trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước sẽ kết thúc vào năm 2009. - Số lượng các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tăng trong đó tập quán mua bảo hiểm để an toàn trong sản xuất kinh doanh của nhà đầu tư nước ngoài sẽ lan rộng trong khối các tổ chức kinh tế xã hội. - Trình độ dân trí ngày càng nâng lên, thu nhập ngày càng cao kèm theo nhu cầu về bảo hiểm con người chăm sóc sức khoẻ y tế xã hội ngày càng tăng. - Chế độ quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng hoàn thiện chặt chẽ hơn vừa phát huy tính tự chủ tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm vừa đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm ngày một rõ ràng và tốt hơn mua bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam sẽ được phục vụ tốt hơn, đảm bảo quyền lợi tốt hơn so với mua bảo hiểm của hãng bảo hiểm không có mặt tại Việt Nam. 3.2. Những thách thức đối với các doanh nghiệp bảo hiểm khi Việt Nam gia nhập WTO - Dịch vụ bảo hiểm là một trong những dịch vụ nói chung và dịch vụ tài chính nói riêng có lộ trình mở của hội nhập quốc tế nhanh nhất nhưng chưa được sự quan tâm ủng hộ nhiều của các ngành các cấp, chưa thấy hết được vai trò của ngành bảo hiểm không những bồi thường kịp thời đầy đủ tổn thất do thiên tai, tai nạn, sự cố bất ngờ xảy ra mỗi năm hàng ngàn tỉ đồng mà còn đầu tư vào nền kinh tế (năm 2006 ước trên 31.000 tỉ đồng) thu hút hàng trăm ngàn lao động, nộp ngân sách nhà nước trên 1000 tỉ đồng mỗi năm tương đương với ngân sách địa phương tốp 10 của cả nước. Ngành bảo hiểm đang cần một thái độ ủng hộ quan tâm hơn nữa của các cơ quan công quyền. - Sự cạnh tranh sẽ diễn ra trên quy mô rộng hơn và mức độ gay gắt. Trước hết, là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam cả về sản phẩm bảo hiểm, chất lượng phục vụ, nguồn nhân lực và phát triển kênh phân phối sản phẩm. Thứ hai, là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam với các doanh nghiệp bảo hiểm tại nước ngoài về cung cấp sản phẩm bảo hiểm trong khuôn khổ đã cam kết tại WTO. Thứ ba, là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm với các dịch vụ tài chính khác như thu hút tiền gửi tiết kiệm, chứng khoán, kinh doanh bất động sản... - Trình độ dân trí ngày càng tăng làm cho sự lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng khắt khe hơn, doanh nghiệp bảo hiểm phải có thương hiệu mạnh, có uy tín thực hiện đúng cam kết về phương thức, cách thức, thời hạn bồi thường, đem lại nhiều giá trị dịch vụ gia tăng cho khách hàng thì mới được lựa chọn thay cho cách hạ phí bảo hiểm và khuyến mại trước đây. - Số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam ngày càng gia tăng, số lượng các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước mới được thành lập ngày càng nhiều, họ có chiến lược chiếm lĩnh thị trường, tăng thị phần bảo hiểm bằng nhiều hình thức trong đó có quảng cáo tiếp thị và chấp nhận lỗ kỹ thuật trong thời gian dài (thậm chí đến trên 5 năm) tạo ra sự cạnh tranh không cân sức nhưng được phép với các doanh nghiệp bảo hiểm còn lại. 3.3 Một số giải pháp và đề xuất cho bảo hiểm Việt Nam trong giai đoạn tới. Trong điều kiện kinh tế nước ta còn nhiều biến chuyển mạnh mẽ, đang trên đà phát triển. Muốn tạo được bước đi vững chắc trong cơ chế thị trường đòi hỏi ngành bảo hiểm nói chung và công ty Bảo hiểm nói riêng phải đạt được yêu cầu, mục tiêu của công tác bảo hiểm. Cùng với những thuận lợi vốn có, trong quá trình triển khai nghiệp vụ các công ty cũng gặp không ít những khó khăn nên kết quả thu được còn rất khiêm tốn. Mặt khác, công ty Bảo hiểm là các công ty hoạt động dịch vụ giải quyết đồng thời cả mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội. Do đó, trong quá trình triển khai nghiệp vụ, các công ty phải xác định cho mình hướng đi đúng đúng đắn và hiệu quả là không ngừng cải tiến quá trình kinh doanh, đặc biệt chú trọng nâng cao công tác bảo hiểm, phương thức phục vụ, đảm bảo giữ vững uy tín của mình ngày một tốt hơn. Mục tiêu của các công ty đặt ra là “đứng vững và phát triển” do đó thời gian tới nhiệm vụ của các công ty rất nặng nề. Vậy phải làm gì để nâng cao sự phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm? Đây là vấn đề cần phải giải quyết. Sau đây là một số biện pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập và hợp tác của doanh nghiệp bảo hiểm mà nhóm chúng tôi đưa ra: - Tăng cường trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, rủi ro và đối tượng được bảo hiểm, giám định giải quyết bồi thường và nhất là tiến tới thương mại điện tử bán hàng qua mạng. - Phát triển nhiều sản phẩm mới ngoài những sản phẩm bảo hiểm truyền thống. Cần tập trung phát triển sản phẩm bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ, y tế chất lượng cao, bảo hiểm trách nhiệm ( trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm đối với sản phẩm, trách nhiệm pháp lý...) và các sản phẩm phục vụ phát triển nông thôn. Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cần tăng thêm sản phẩm liên kết đầu tư, bảo hiểm hưu trí và chăm sóc y tế. - Phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua đại lý và môi giới bảo hiểm đi liền với tinh giảm biên chế cán bộ bảo hiểm khai thác trực tiếp. - Đào tạo phát triển nguồn nhân lực, có chế độ chính sách hợp lý để giữ được đội ngũ cán bộ bảo hiểm chuyên nghiệp. - Tạo ra nhiều dịch vụ gia tăng ngoài việc được bảo hiểm như được khám chữa bệnh tại cơ sở y tế và bác sỹ nổi tiếng theo giá ưu đãi, được sửa chữa xe (không thuộc trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm) tại cơ sở uy tín và được giảm giá... - Cải cách hành chính, đơn giản hoá thủ tục bán bảo hiểm, giám định tổn thất và bồi thường nhanh gọn chính xác. - Chú trọng đến công tác đầu tư tài chính từ quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhằm đem lại bảo tức ngày một tốt hơn cho khách hàng. - Tiếp tục xây dựng thương hiệu, văn hoá doanh nghiệp và phong cách phục vụ tốt. Làm được như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam sẽ chứng minh rằng việc mua bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam sẽ được phục vụ tốt hơn, đảm bảo quyền lợi tốt hơn so với mua bảo hiểm của hãng bảo hiểm không có mặt tại Việt Nam. Điều này sẽ hướng sự lựa chọn của khách hàng tới các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam.Việc hội nhập mở cửa thị trường bảo hiểm với tốc độ nhanh, ngành bảo hiểm rất cần sự trợ giúp kỹ thuật của Nhà nước thông qua việc kêu gọi tài trợ của nước ngoài để xây dựng Học viện bảo hiểm đào tạo cán bộ cao cấp, trung cấp cho ngành bảo hiểm Việt Nam. Vì trên thực tế các nước trên thế giới không có Đại học Bảo hiểm, không tạo cử nhân kỹ sư như chuyên ngành khác nên tất thiếu, rất yếu về nghiệp vụ chuyên sâu bảo hiểm. - Xây dựng phần mềm quản lý bảo hiểm trong đó có quản lý hợp đồng bảo hiểm, khách hàng bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm, phân tích tính phí bảo hiểm, thương mại điện tử, qua đó cơ quan quản lý nhà nước về bảo hiểm cũng có thể cập nhật có tính nhạy cảm cao. - Nhanh chóng hoàn thiện hành lang pháp lý và sân chơi cho các Doanh nghiệp bảo hiểm nhất là trong các loại hình bảo hiểm trách nhiệm, bảo hiểm tài sản hàng hóa dễ gây độc hại môi trường, dễ cháy nổ. bảo hiểm hưu trí, bảo hiểm y tế…. Dưới đây là một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt mục tiêu của các Công ty bảo hiểm: Một là: Nâng cao chất lượng khai thác bằng cách: - Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động bằng nhiều hình thức trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các tổ chức đoàn thể và cơ quan đơn vị có tiềm năng. Ví dụ cụ thể trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ: Với nghiệp vụ bảo hiểm trẻ em mà công ty đang triển khai. Công ty phải tập trung vào vận động cha mẹ, ông bà....của trẻ em. Người khai thác cũng cần phải hiểu rõ được tâm lý của người tham gia loại hình này, phải biết tận dụng khả năng và cần phải thống kê tìm hiểu cặn kẽ xem ở độ tuổi nào là tham gia nhiều, những người thuộc ngành nghề nào hay tham gia, ở địa phương nào là phổ biến, rồi thống kê cả về loại hợp đồng, về mức trách nhiệm về giới tính thậm chí cả về thời gian cần khai thác vào lúc nào là hợp lý và hiệu quả. Công ty cũng cần phải phối hợp với các trường tiểu học, mẫu giáo qua các buổi họp phụ huynh sẽ tranh thủ vận động mọi người tham gia bảo hiểm cho trẻ em, có thể phát tờ rơi quảng cáo để sản phẩm tiếp xúc với khách hàng nhiều hơn. - Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền quảng cáo: Mặc dù ta thấy rằng việc quảng cáo trong Bảo hiểm là rất khó bởi vì nó thường đề cập tới những rủi ro trong đời sống mà tâm lý của người Việt Nam thì lại hay kiêng kỵ do đó cần phải có hình thức tuyên truyền và quảng cáo phù hợp. Những điều còn tồn đọng và khó khăn với Bảo hiểm Việt Nam ta là, thực tế mọi người còn ít biết về Bảo hiểm và còn rất mới mẻ. Điều này cũng do trong thời gian qua các công ty chưa chú trọng tới công tác này mặc dù biết rằng hiệu quả đem lại rất cao. Như trong tháng 30/1997, sau khi công ty Bảo Việt có quảng cáo liên tục trên ti vi vào dịp tết nguyên đán, số lượng hợp đồng phát hành tăng lên rõ rệt. - Mở rộng tổ chức mạng lưới cộng tác viên, đại lý đặc biệt là các thành phố lớn đông dân cư và dân có mức sống cao như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, cần phải tuyển dụng và đào tạo đội ngũ đại lý chuyên nghiệp để bố trí rộng địa bàn. Các công ty nên xem xét tăng cường hơn nữa chương trình, kế hoạch bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ của các cán bộ trong Công ty, đồng thời nên dành một chế độ hoa hồng khen thưởng hợp lý cho đại lý cộng tác viên (hoa hồng là khoản thu nhập chính của đại lý nên ai cũng muốn có mức hoa hồng cao khi đó sẽ khuyến khích họ khai thác được nhiều hợp đồng) Công ty nên có chế độ khen thưởng như: Hàng tháng đánh giá kết quả làm việc của đại lý có số lần tiếp xúc khách hàng nhiều, làm như vậy sẽ kích thích tình thần thi đua của mọi người, rồi công bố số lượng hợp đồng khai thác được một cách thường xuyên. Và có phần thưởng đối với các đại lý có số hợp đồng khai thác đủ lớn và khả thi. Hai là: Chú trọng hơn nữa tới công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ của Công ty cũng như giúp đỡ các đại lý, cộng tác viên trong việc đào tạo nghiệp vụ. Đây cũng là công việc quan trọng phục vụ cho việc phát triển lâu dài của công ty như: - Đề nghị ban tổ chức cùng các cơ quan hữu quan quan tâm giúp đỡ hay khyến khích tạo điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật cho công tác đào tạo cán bộ phục vụ cho chuyên ngành bảo hiểm. - Công ty nên sắp xếp bố trí công việc, cử cán bộ có năng lực và nhu cầu đi học các lớp đào tạo về bảo hiểm ở nước ngoài trên cơ sở đó có điều kiện và hoàn thiện các loại hình Bảo hiểm ở Việt Nam được tốt hơn. Và từ đó, Công ty sẽ có quyết định đưa ra các sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu phong phú của mọi người. - Đối với công tác viên: Công ty nên tổ chức các buổi học về Bảo hiểm nhân thọ, cách thức quản lý và theo dõi hợp đồng trên máy vi tính để cho công việc triển khai của các cộng tác viên được thuận lợi. Ba là: Thiết kế trình bộ Tài chính một số sản phẩm mới để đa dạng hoá sản phẩm nhằm đáp ứng được nhu cầu của nhiều đối tượng, đồng thời hướng dẫn, chỉ đạo các cộng tác viên ở các công ty bảo hiểm địa phương thực hiện triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm trên cả nước được nhanh và có hiệu quả. Công ty nên giúp đỡ trong việc cử cán bộ xuống tuyển đại lý khai thác theo tiêu chuẩn của Công ty đồng thời tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ đại lý này. Công ty cũng có trách nhiệm cung cấp đầy đủ tài liệu tập huấn cho đội ngũ này. Bốn là: Đề nghị Nhà nước nên có chính sách ưu đãi không đáng thuế thu nhập với số tiền đóng phí bảo hiểm để từ đó thúc đẩy bảo hiểm là một ngành có ưu thế và ích lợi hơn hẳn so với hình thức gửi tiền tiết kiệm từ đó sẽ hạn chế những bất lợi cho việc triển khai nghiệp vụ của Công ty và làm cho khách hàng sẽ thấy được tham gia bảo hiểm nhân thọ có hiệu quả cao hơn các hình thức khác. Công ty phải có những ý kiến cụ thể trình lên lãnh đạo cấp trên xin được hưởng những chính sách ưu đãi nói trên đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đặc biệt là vấn đề đầu tư vốn trong Công ty. Cùng với những việc làm đó các Công ty cần phải tiến hành hoàn thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm cũng chính là nâng cao chất lượng của các hợp đồng. Thực tế trong thời gian qua, phần lớn các Công ty mới chỉ quan tâm đến số lượng hợp đồng và doanh thu đạt được mà chưa để mắt xem “đại lý nói gì với khách hàng” để đi đến ký kết được hợp đồng. Trong khi đó số lượng đại lý trong mỗi Công ty ngày một gia tăng. Nên chăng đây cũng là thời điểm mà mỗi Tổng công ty phải tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động của các công ty, đồng thời các công ty phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các đại lý để sớm sàng lọc được những đại lý đáng tin cậy. Cùng với việc nâng cao chất lượng hợp đồng công việc quản lý hợp đồng cũng cần được quan tâm hơn. Năm là: Các công ty nên đưa ra kế hoạch cụ thể về việc thành lập phòng giám định và trả tiền bảo hiểm. Hiện tại hầu hết các Công ty chưa có phòng giám định và trả tiền bảo hiểm, nhưng đã là nghiệp vụ bảo hiểm thì việc giám định và trả tiền bảo hiểm là chắc chắn phải có. Mục đích của công tác giám định, bồi thường nhằm đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, làm tốt công tác này sẽ tạo được lòng tin cho khách hàng thì việc phát triển của nghiệp vụ cũng càng được đảm bảo hơn. Đã đến lúc Công ty cần phải thực hiện mạnh mẽ những mục tiêu đề ra và tiếp thu những ý kiến thiết thực nhất. Trên đây là những ý kiến đề xuất của chúng tôi góp phần vào việc nâng cao hiệu quả và khả năng phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm. Khẳng định về sự phát triển của Bảo hiểm ở nước ta quả là hơi sớm nhưng chúng ta tin rằng các sản phẩm của Bảo hiểm chắc chắn sẽ mang lại lợi ích lớn cho các chủ hợp đồng. KẾT LUẬN Vai trò to lớn của bảo hiểm - đặc biệt là bảo hiểm rủi ro trong cuộc sống ngày càng được biểu hiện rõ hơn trong nền kinh tế hiện nay. Nó không đơn thuần chỉ là để hạn chế rủi ro mà hơn thế nó còn giúp cho nền kinh tế phát triển an toàn hơn. Thực tế cho thấy, sự tồn tại của một thị trường bảo hiểm mạnh là một trong những yếu tố cơ bản của bất cứ nền kinh tế thành công nào. Vì vậy, bất kì ai trong chúng ta cũng cần tìm hiểu rõ hơn về thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm Việt Nam nói riêng. Qua phân tích đề tài trên chúng ta có thể phần nào thấy rõ hơn về xu hướng phát triển bảo hiểm rủi ro ở Việt Nam sau khi gia nhập WTO. Từ đó có thể đưa ra được những chiến lược, quyết sách phát triển thị trường bảo hiểm rủi ro hội nhập với nền kinh tế quốc tế và mang lại ngày càng nhiều lợi ích cho bản thân cũng như xã hội. Do kiến thức lý luận và thực tiễn còn hạn chế. Hơn nữa vẫn còn là sinh viên đang học tập trên giảng đường chưa được tiếp xúc với thực tế nhiều nên bài viết chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót và hạn chế. Chúng tôi luôn luôn mong được sự giúp đỡ và hướng dẫn của các thầy cô và các bạn để từ đó sẽ hoàn thiện đề tài và nâng cao được kiến thức của mình hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢOII LIỆU THAM KHẢOđối tượng bảo giả GS.Đinh Văn Sơn Đề cương bài giảng Nhập môn tài chính tiền tệ - Bộ môn Tài chính doanh nghiệp. Lý thuyết Tài chính tiền tệ - NXB Quốc gia Hà Nội, tác giả Đinh Văn Sơn. Nhập môn Tài chính tiền tệ, tác giả GS Đinh Văn Sơn. Trang web www.mof.gov.vn Trang chủ google.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_hoan_chinh_tctt_118.doc
Tài liệu liên quan