Đề tài Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp

Tài liệu Đề tài Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp: —&œ– ĐỀ TÀI “Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp ”. TÓM LƯỢC Trong bài “Nghiên cứu chuyên nghành Quản lý đất đai” về “Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp ” em đã nghiên cứu một số nội dung chủ yếu sau đây: Xác định rõ mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm hiểu và đánh giá xác thực về thực trang công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư làm cơ sỏ để đề xuất cấp có thẩm quyền hoàn thiện hơn về công tác này nhằm làm cho dự án hoàn thành tốt tiến độ dược giao. Nắm được đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ cũng như lịch sử nghiên cứu để giới hạn quy mô cấp dự án ở cấp nào thực hiện mà đánh giá chính xác. Trong phần Lược khảo tài liệu bài làm cầm làm rõ đất đai là gì vai trò của nó như thế nào và giá đất cũng vậy trong nền kinh tế quốc dân. Nắm bắt được về bồ...

doc61 trang | Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1605 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
—&œ– ĐỀ TÀI “Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp ”. TÓM LƯỢC Trong bài “Nghiên cứu chuyên nghành Quản lý đất đai” về “Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp ” em đã nghiên cứu một số nội dung chủ yếu sau đây: Xác định rõ mục tiêu của bài nghiên cứu là tìm hiểu và đánh giá xác thực về thực trang công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư làm cơ sỏ để đề xuất cấp có thẩm quyền hoàn thiện hơn về công tác này nhằm làm cho dự án hoàn thành tốt tiến độ dược giao. Nắm được đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ cũng như lịch sử nghiên cứu để giới hạn quy mô cấp dự án ở cấp nào thực hiện mà đánh giá chính xác. Trong phần Lược khảo tài liệu bài làm cầm làm rõ đất đai là gì vai trò của nó như thế nào và giá đất cũng vậy trong nền kinh tế quốc dân. Nắm bắt được về bồi thường hỗ trợ và tái định cư là gì. Chính sách này được áp dụng đối với các nước xung quanh ta như thế nào và tại nước ta ra sao. Thấy được thực tiến bồi thường,hỗ trợ và tái định cư tại nước ta trên cơ sở đó Nghị định 69/2009NĐ-CP đã ra đời và giải quyết phần nào tình trạng bức xúc của người dân trong dự án. Với Phương tiện là các văn bản quy phạm pháp luật và giấy tờ hồ sơ liên quan đến dự án, công trình. Bằng Phương pháp thu thập thông tin số liệu, tài liệu cùng điều tra thực tế và phân tích so sánh đánh giá.để làm rõ vấn đề đặt ra. Phần trọng tâm của bài là kết quả nghiên cứu đã làm rõ đươc đặc điểm vùng nghiên cứu là huyện Tháp Mười.. Quy trình thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư theo quyết định 29/QĐ-UBND tỉnh Đồng tháp và tình hình bồi thường cũng như phương án cụ thể được áp dụng tại huyện Tháp Mười. Qua nghiên cứu một số dự án tại huyện đã thấy được một số thuận lợi và khó khăn cũng như mặc dược và mặc hạn chế của công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Trên cơ sở đó mà có ý kiến đề xuất để hoàn thiện hơn. Phàn cuối cùng là Kết luận lại bài làm và Kiến nghị lên cấp trên hoàn thiện chính sách về công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài. Đất là sản phẩm của tự nhiên, qua quá trình tác động của con người đất đai là yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất nông nghiệp, làm mặt bằng xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng, xây dựng các công trình sản xuất kinh doanh, xây dựng đô thị và các khu dân cư... Cùng với sự phát triển của xã hội, đất đai được sử dụng vào nhiều mục đích và nhu cầu sử dụng đất ngày một tăng lên. Việc sử dụng đất có hiệu quả cả về kinh tế – xã hội và tính bền vững môi trường ngày càng có ý nghĩa. Sử dụng đất đai vào các mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lơị ích công cộng để thực hiện mục tiêu phát triển đất nước, đặc biệt là các dự án phát triển đô thị, dự án sản xuất, kinh doanh phát triển kinh tế là một tất yếu khách quan trong quá trình phát triển công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước . Để có mặt bằng xây dựng các dự án, Nhà nước phải thu hồi đất của nhân dân và thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho các hộ dân có đất bị thu hồi. Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Tuy nhiên đất đai và công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất đang là vấn đề hết sức nhạy cảm và phức tạp, ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống kinh tế – xã hội. Do đó, thực tế công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư vẫn còn nhiều vướng mắc và tồn tại gây nhiều bức xúc trong nhân dân. Tình trạng tiến độ giải phóng mặt bằng chậm là rất phổ biến làm chậm tiến độ thực hiện dự án. Tại Nghị định số: 197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của Chính Phủ về việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; Quyết định số 29/2009/QĐ-UBND ngày 23 tháng 12 năm 2009 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Đã quy định cụ thể về các mức bồi thường về đất, tài sản và các chính sách hỗ trợ, tái định cư. Giao nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho các cơ quan chức năng như cấp huyện ( thị xã, thành phố thuộc tỉnh), chức năng của cấp xã trong công tác giải phóng mặt bằng. Cùng đó là trách nhiệm của các cơ quan chức năng co liên quan, nghĩa vụ và quyền lợi của người bị thu hồi đất Huyện Tháp Mười tình Đồng Tháp là một huyện lớn của Đồng Tháp. với nền kinh tế nông nghiệp, thương mại và dịch vu phát triển. Trên toàn địa bàn huyện Tháp mười với có nhiều dự án đã và đang được đầu tư, nhưng công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư đang gặp rất nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân và một trong những nguyên nhân chủ yếu nhất đó là đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chính, làm ảnh hưởng nhiều đến sản xuất và đời sống của nhân dân, đất ở và nhà cửa cũng như vật kiến trúc, hoa màu trên đất là tài sản rất lớn của nông dân nơi đây. Việc bồi thường, hỗ trợ chưa tương xứng với mức độ thiệt hại đã gây ra nhiều bức xúc trong nhân dân, từ đó đã có không ít trường hợp người dân không nhận tiền bồi thường, hỗ trợ dẫn đến khiếu kiện kéo dài. Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới, việc bồi thường đất đai, giải phóng mặt bằng, tái định cư là hiện tượng mà Nhà nước phải đối mặt như một quy luật tất yếu và phổ biến, không thể tránh khỏi. Đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp tác động tới mọi mặt của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội. Xuất phát từ thực tiễn trên em xin tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp ”. Nhằm điều tra, tìm hiểu thực trạng và tìm ra nguyên nhân gây cản trở, đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần đẩy nhanh tiến độ công tác bồi thường, hỗ, đáp ứng được yêu cầu cải cách hành chính của Nhà nước 2. Mục tiêu. Tìm hiểu và đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Rút ra những ưu điểm và vấn đề còn tồn tại trong việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tại một số dự án trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Đề xuất ý kiến, góp phần hoàn thiện và đẩy mạnh công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ cho mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.. 3. Đối tượng, phạm vi và nhiêm vụ nghiên cứu. 3.1 Đối tượng nghiên cứu. Các báo cáo, tổng kết dự án dầu tư của các đơn vị đầu tư và các sở ban ngành liên quan đến bồi thường , hỗ trợ và tái định cư. Các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai 2003 và Quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp: 3.2 Phạm vi nghiên cứu. Đất của hộ gia đình, cá nhân nằm trong khu vực của dự án phải giải toả; Đất ở, đất nông nghiệp; Các công trình kiến trúc; Cây cối, hoa màu. Phạm vi nghiên cứu: Khu vực huyện Tháp mười tỉnh Đồng Tháp. 3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu. Hiểu và nắm vững các chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cũng như các văn bản pháp lý có liên quan đến công tác giải phóng mặt bàng. Tìm ra những khó khăn vướng mắc trong công tác bồi thường hỗ trợ, tái định cư, bao gồm từ phía người dân và những người thực hiện dự án. Từ đó đưa ra những biện pháp giải quyết một cách hợp lý tạo công bằng cho người dân, Nhà nước và nhà đầu tư 4. Lịch sử nghiên cứu. Vấn đề bồi thường hỗ trợ và tái định cư trở thành một trong nhữngvấn đề nóng của xã hội. Do đó Chính phủ ban hành Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư. Nghị định này đã có nhiều quy định khắc phục được những nhược điểm trước đây nhưng vẫn chưa tạo ra cân bằng giữa Nhà nước, xã hội và cộng đồng. Nhằm tìm hiểu nguyên nhân và cách khắc phục những vướng mắc còn tồn tại có các đề tài nghiên cứu được thực hiện: Đề tài “Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội” thuvienluanvan.com. Đề tài “Những hạn chế trong áp dụng pháp luật đất đai vào công tác giải tỏa, đền bù về đất đai cho người dân – những vấn đề đặt ra” của tác giả Nguyến Thị Bích Mai & Trần Thị Phương Thảo, Bộ môn Quản lý đất đai, Khoa Địa lý - Trường Đại Hoc Đồng Tháp - năm 2011 Những đề tài trên đã nêu lên tương đối sát thực tế về những tồn tại hiện nay về công tác bồi thường hỗ trợ và tái định cư nhưng nó trên phạm vi rộng. Trên cơ sở đó em tiếp tục triển khai ở huyện Tháp mười có những vấn đề riêng phát sinh và tiếp tục hoàn thiện. CHƯƠNG 1 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 1.1. Đất đai và vai trò của đất đai 1.1.1. Định nghĩa đất đai: Theo Lê Quang Trí (2001), có rất nhiều định nghĩa về đất đai: đất đai định nghĩa như là “Một thực thể tự nhiên dưới đặc tính không gian và địa hình” và thường được kết hợp với một giá trị kinh tế được diễn giải dưới dạng giá đất/ha khi chuyển quyền sử dụng rộng hơn trên quan điểm tổng hợp và tổng thể thì cũng bao gồm luôn cả tài nguyên sinh vật và kinh tế xã hội của một thực thể tự nhiên. Đất đai về mặt địa lý mà nói thì là một vùng đất chuyên biệt trên bề mặt của trái đất: có những đặc tính mang tính ổn định hay có chu kỳ dự đoán được, trong khu vực sinh - khí quyển theo chiều thẳng đứng từ trên xuống dưới, trong đó bao gồm: không khí, đất và lớp địa chất, nước và quần thể thực vật và động vật và kết quả của những hoạt động bởi con người trong việc sử dụng đất đai ở quá khứ, hiện tại và trong tương lai (Theo định nghĩa về đất đai của Brinkman và Smyth, 1973) Một định nghĩa hoàn chỉnh chung như sau: Đất đai là một diện tích khoanh vẽ của bề mặt đất của trái đất, chứa đựng tất cả các đặc trưng của sinh - khí quyển ngay bên trên và bên dưới của lớp mặt này, bao gồm khí hậu gần mặt đất, đất và dạng địa hình, nước mặt (bao gồm những hồ cạn, sông, đầm trũng và đầm lầy), lớp trầm tích gần mặt và kết hợp với dự trữ nước ngầm, tập đoàn thực vật và động vật, mẫu hình định cư của con người và những kết quả về tự nhiên những hoạt động của con người trong thời gian qua và hiện tại (làm ruộng bậc thang, cấu trúc hệ thống trữ nước và thoát nước, đường xá, nhà cửa) (UN, 1994). 1.1.2 Vai trò của đất đai Lời mở đầu của Luật đất đai năm 1993 đã xác định vai trò của đất đai: Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bổ ác khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng; trải qua nhiều thế hệ, nhân dân ta đã tốn bao công sức, xương máu mới tạo lập, bảo vệ được vốn đất như ngày nay [39, tr.104]. - Về mặt kinh tế Theo Nguyễn Việt Cường (2000), có thể khẳng định rằng đất đai là một tư liệu không gì khẳng định được và sản xuất không giới hạn. Đất đai khác với mọi tư liệu sản xuất khác ở chỗ, đất đai được tồn tại vĩnh viễn theo thời gian mà không bị mất đi. Trong khi đó các tư liệu sản xuất khác bị hao mòn theo thời gian, sẽ bị vứt đi và được thay thế bằng một tư liệu sản xuất mới tiến bộ hơn. Còn đất đai thì được luân chuyển từ đời này sang đời khác. Đất đai là địa bàn sinh sống của dân cư, là kho tàng bến cảng, là chỗ đứng của nhân dân trong nhà máy. Nói chung, đất đai là cơ sở vật chất để thực hiện mọi quá trình sản xuất, tất cả các thành phần kinh tế đều cần đến đất đai. Chính vì thế từ lúc sơ khai tổ tiên của chúng ta cũng nhận thức được giá trị của đất đai là: “Tấc đất tấc vàng” và cho đến nay dân số ngày càng tăng thì giá trị của đất đai lại càng thể hiện rõ hơn trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội của con người. - Về mặt chính trị Theo Nguyễn Việt Cường (2000), đất đai là nơi trú ngụ của cả một cộng đồng dân tộc. Vì thế, để giữ gìn đất đai, bảo vệ lãnh thổ dân tộc ta đã trải qua lịch sử hàng nghìn năm chiến đấu kiên cường để bảo vệ lãnh thổ, độc lập dân tộc, bảo vệ 11 chủ quyền của quốc gia. Chủ quyền quốc gia gắn liền với đất đai, lãnh thổ là dấu hiệu để xác định sự tồn tại của quốc gia. Trong đời sống chính trị của một đất nước, đất giữ vai trò cực kỳ quan trọng. Là nguyên nhân cơ bản để diễn ra hầu hết các cuộc chiến tranh trong lịch sử giữa các giai cấp trong cùng một xã hội, mà chủ yếu là những người có đất và người không có đất. Như vậy qua một số phân tích trên, vai trò của đất đai về phương diện chính trị càng được khẳng định rõ hơn. Theo Bùi Quang Nhơn (2001), đất đai là một tài nguyên thiên nhiên vô cùng quí giá mà tự nhiên đã ban tặng cho con người. Đất là nền tảng là bệ đỡ của sự sống nói chung, của loài người nói riêng. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, cùng với sự ra đời của Nhà nước, đất đai được đưa vào sử dụng với những pháp lý khác nhau, điều này phụ thuộc vào chế độ chính trị kinh tế - chính trị của mỗi quốc gia ở từng thời kỳ nhất định. Khi đề cập đến đất đai, hẳn chúng ta điều biết đất luôn là địa điểm con người xây dựng nhà cửa, các công trình văn hoá, máy móc, kho tàng, bến bãi,.... Đồng thời đất cũng là nơi để phân bố dân cư, phân bố các ngành kinh tế quốc dân. Đối với môi trường đất là chổ dựa cho tất cả hệ sinh thái, đất là một trong những yếu tố quan trọng để điều hoà nhiệt độ và điều hoà khí hậu bằng cách giữ nhiệt độ làm giảm sức nóng thêu đốt của mặt trời qua nhiều tầng đất của mình. Đất còn là túi lọc chuyển nước bề mặt thành nước ngầm chứa vô khối nước tinh khiết. Với đặc thù độc đáo mà không vật thể tự nhiên nào có được, đó là độ phì nhiêu, đất còn cung cấp toàn bộ dinh dưỡng cho cây trồng, vật nuôi giúp cho nó sinh sôi nảy nở và phát triển. Ở một vùng nhất định, kết cấu đất có thể được sử dụng làm nguyên liệu của một số ngành sản xuất phục vụ đời sống xã hội như: gạch, ngói, đồ gốm, xi măng,... Trong lịch sử hình thành và phát triển của Nhà nước, đất gắn liền với sự ra đời và tồn tại của một quốc gia là vấn đề lãnh thổ, vì lãnh thổ nó có ý nghĩa đối với việc tồn tại và duy trì một ranh giới quyền lực Nhà nước trong một cộng đồng dân cư nhất định. 1.2 Gía đất và vai trò của nó 1.2.1 Định nghĩa giá đất: Điều 4 Luật đất đai 2993 Giá trị quyền sử dụng đất là giá trị bằng tiền của quyền sử dụng đất đối với một diện tích đất xác định trong thời hạn sử dụng đất xác định. Giá đất là phương tiện để thể hiện nội dung chủ yếu của các hệ chuyển quyền sử dụng đất trong chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp quyền sử dụng đất 1.2.2 Vai trò của giá đất Khoản 1 điều 54 Luật đất đai 2003 xác định giá đát là cơ sở đẻ thu tiền nộp ngân sách nhà nước: bao gồm: a) Tiền sử dụng đất trong các trường hợp giao đất có thu tiền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đất từ đất được Nhà nước giao không thu tiền sử dụng đất sang đất được Nhà nước giao có thu tiền sử dụng đất, chuyển từ hình thức thuê đất sang hình thức được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất; b) Tiền thuê đất đối với đất do Nhà nước cho thuê; c) Thuế sử dụng đất; d) Thuế thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất; đ) Tiền thu từ việc xử phạt vi phạm pháp luật về đất đai; e) Tiền bồi thường cho Nhà nước khi gây thiệt hại trong quản lý và sử dụng đất đai; g) Phí và lệ phí trong quản lý, sử dụng đất đai. Ngoài ra người ta còn căn cứ vào giá đất để tham gia đầu tư vào thị trường bất động sản trong nêng kinh tế thị trường.. 1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến giá đất: Đặc tính tự nhiên: vị trí, kích thước, hình thể, diện tích thửa đất hoặc lô đất, địa hình, đặc điểm trên mặt đất và dưới lòng đất, tình trạng môi trường, các tiện lợi và nguy cơ rủi ro của tự nhiên. Đặc tính kinh tế: khả năng mang lại thu nhập từ đất. Đặc tính xã hội: đặc tính nhân khẩu gia đình, tình hình chính trị an ninh xã hội, tình hình đầu cơ nhà đất, tiến trình đô thị hóa. Các yếu tố pháp lý. 1.3. Tổng quan về các chính sách bồi thường, hỗ trợ. giải phóng mặt bằng và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. 1.3.1. Khái niệm bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.: đất và tài sản. Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới, cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới. Giải phóng mặt bằng là quá trình thực hiện các công việc liên quan đến việc di dời nhà cửa, cây cối, các công trình xây dựng và một bộ phận dân cư trên một phần đất nhất định được quy hoạch cho việc cải tạo, mở rộng hoặc xây dựng một công trình mới. Quá trình giải phóng mặt bằng được tính từ khi bắt đầu hình thành hội đồng giải phóng mặt bằng đến khi giải phóng xong và giao cho chủ đầu tư mới. Đây là một quá trình đa dạng và phức tạp thể hiện sự khác nhau giữa các dự án và liên quan đến lợi ích trực tiếp của các bên tham gia và cả của xã hội. Tái định cư là Người sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi đất theo quy định tại mà phải di chuyển chỗ ở thì được bố trí tái định cư bằng một trong các hình thức sau: bồi thường bằng nhà ở, bồi thường bằng giao đất ở mới, bồi thường bằng tiền để tự lo chỗ ở mới. 1.3.2. Bản chất của công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Phát triển công nghiệp và đô thị là một tiến trình tất yếu trên toàn thế giới. Và, thu hồi đất nông nghiệp là cách thức thường được thực hiện để xây khu công nghiệp và đô thị. Quá trình thu hồi đất đặt ra rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội cần được giải quyết kịp thời và thỏa đáng. Để có thể hài hòa được lợi ích của xã hội, tập thể và cá nhân, mỗi quốc gia có cách làm riêng của mình. Về mặt hành chính thì đây là một quá trình không tự nguyện, có tính cưỡng chế và vẫn đòi hỏi sự “hy sinh”. Không chỉ là một sự đền bù ngang giá tuyệt đối. Từ những nhận thức trên có thể hiểu bản chất của công tác đền bù giải phóng mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất phục vụ mục đích an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng trong quá trình hiện nay không chỉ đơn thuần là sự đền bù về mặt vật chất mà còn phải đảm bảo lợi ích của người dân phải di chuyển. Đó là họ phải có được chỗ ở ổn định, điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi cũ, nhưng chắc chắn phải tốt hơn nơi cũ về mọi mặt thì mới tạo điều kiện cho người dân sống và ổn định. 1.4. Chính sách đền bù khi thu hồi đất của một số nước trong khu vực 1.4.1. Trung Quốc Ở Trung Quốc, mục tiêu bao trùm lên chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là hạn chế đến mức tối đa việc thu hồi đất, giải tỏa mặt bằng, cũng như số lượng người bị ảnh hưởng bởi việc thu hồi đất để thực hiện dự án đầu tư. Nếu như việc thu hồi đất là không thể tránh khỏi thì có sự chuẩn bị cẩn thận phương án đền bù, trên cơ sở tính toán đầy đủ lợi ích của nhà nước, tập thể và cá nhân, đảm bảo cho những người bị thu hồi đất có thể khôi phục lại hoặc cải thiện mức sống so với trước khi bị thu hồi đất. Theo quy định của pháp luật Trung Quốc, khi Nhà nước thu hồi đất thì người nào sử dụng đất sau đó sẽ có trách nhiệm bồi thường. Người bị thu hồi đất được thanh toán ba loại tiền: tiền bồi thường đất đai, tiền trợ cấp về tái định cư, tiền trợ cấp bồi thường hoa màu trên đất. Cách tính tiền bồi thường đất đai và tiền trợ cấp tái định cư căn cứ theo tổng giá trị tổng sản lượng của đất đai những năm trước đây rồi nhân với hệ số. Tiền bồi thường cho hoa màu, cho các loại tài sản trên đất được tính theo giá cả hiện tại. Mức bồi thường cho giải tỏa mặt bằng được thực hiện theo nguyên tắc đảm bảo cho người dân có cuộc sống bằng hoặc cao hơn nơi ở cũ. Việc quản lý giải phóng mặt bằng được giao cho các cục quản lý tài nguyên đất đai ở địa phương đảm nhiệm. Để giải quyết nhà ở cho người dân khi giải phóng mặt bằng, phương thức chủ yếu của Trung Quốc là trả tiền và hỗ trợ bằng cách tính ba khoản sau: giá cả xây dựng lại, chênh lệch giữa giá xây dựng lại nhà mới và nhà cũ, giá đất tiêu chuẩn, trợ cấp về giá cả. Ba khoản này cộng lại là tiền bồi thường về nhà ở. Việc bồi thường nhà ở cho dân ở thành phố khác với việc bồi thường cho dân ở nông thôn, bởi có sự khác nhau về hình thức sở hữu đất đai ở thành thị và nông thôn. Đối với nhà ở của người dân thành phố, nhà nước bồi thường bằng tiền là chính, với mức giá do thị trường bất động sản quyết định qua các tổ chức trung gian để đánh giá, xác định giá. Với người dân nông thôn, nhà nước thực hiện theo những cách thức rất linh hoạt, theo đó, mỗi đối tượng khác nhau sẽ có cách bồi thường khác nhau: tiền bồi thường về sử dụng đất đai; tiền bồi thường về hoa màu; bồi thường tài sản tập thể. Theo đánh giá của một số chuyên gia tái định cư, sở dĩ Trung Quốc có những thành công nhất định trong công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư là do thứ nhất, đã xây dựng các chính sách và thủ tục rất chi tiết, ràng buộc đối với các hoạt động tái định cư, đảm bảo mục tiêu tạo cơ hội phát triển cho người dân tái định cư, tạo các nguồn lực sản xuất cho những người tái định cư. Thứ hai, năng lực thể chế của các chính quyền địa phương khá mạnh. Chính quyền cấp tỉnh chịu trách nhiệm hoàn toàn trong việc thực hiện chương trình bồi thường hỗ trợ tái định cư. Thứ ba, quyền sở hữu đất tập thể làm cho việc thực hiện bồi thường hỗ trợ tái định cư có nhiều thuận lợi, đặc biệt là ở nông thôn. Tiền đền bù cho đất đai bị mất không trả cho từng hộ gia đình mà được cộng đồng sử dụng để tìm kiếm, phát triển đất mới hoặc mua của các cộng đồng sở tại hay dùng để phát triển kết cấu hạ tầng. Chính quyền thôn, xã chịu trách nhiệm phân chia cho các hộ bị ảnh hưởng. Bên cạnh những thành công như vậy, chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của Trung Quốc cũng bộc lộ những tồn tại nhất định mà chủ yếu là vấn đề việc làm; tốc độ tái định cư chậm, thiếu đồng bộ, thực hiện giải phóng mặt bằng trước khi xây xong nhà tái định cư... 1.4.2. Thái Lan Ở Thái Lan, cũng giống như ở nhiều nước khác trong khu vực châu Á, quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh chóng, mọi giao dịch về đất đai đều do cơ chế thị trường điều tiết. Tuy nhiên, với những dự án do CP quản lý, việc đền bù được tiến hành theo trình tự: tổ chức nghe ý kiến người dân; định giá đền bù. Giá đền bù phụ thuộc vào từng khu vực, từng dự án. Nếu một dự án mang tính chiến lược quốc gia thì nhà nước đền bù với giá rất cao so với giá thị trường. Nhìn chung, khi tiến hành lấy đất của dân, nhà nước hoặc cá nhân đầu tư đều đền bù với mức cao hơn giá thị trường. 1.4.3. Hàn Quốc Hàn Quốc, vào những năm 70 của thế kỷ trước, trước tình trạng di dân ồ ạt từ các vùng nông thôn vào đô thị, thủ đô Xê-un đã phải đối mặt với tình trạng thiếu đất định cư trầm trọng trong thành phố. Để giải quyết nhà ở cho dân nhập cư, chính quyền thành phố phải tiến hành thu hồi đất của nông dân vùng phụ cận. Việc đền bù được thực hiện thông qua các công cụ chính sách như hỗ trợ tài chính, cho quyền mua căn hộ do thành phố quản lý và chính sách tái định cư. Các hộ bị thu hồi đất có quyền mua hoặc nhận căn hộ do thành phố quản lý, được xây tại khu đất được thu hồi có bán kính cách Xê-un khoảng 5km. Vào những năm 70 của thế kỷ trước, khi thị trường bất động sản bùng nổ, hầu hết các hộ có quyền mua căn hộ có thể bán lại quyền mua căn hộ của mình với giá cao hơn nhiều lần so với giá gốc. 1.5. Chính sách bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất ở Việt Nam qua các thời kỳ Trên cơ sở Hiến pháp năm 1980 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý, ngày 01 tháng 07 năm 1980 Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 201/CP về việc: “Không được phát canh thu tô, cho thuê, cầm cố hoặc bán nhượng đất dưới bất kỳ hình thức nào, không được dùng để thu những khoản lợi không do thu nhập mà có, trừ trường hợp do Nhà nước quy định”. Quan hệ đất đai thời kỳ này đơn thuần chỉ là quan hệ “Giao - thu” giữa Nhà nước và người sử dụng. Ngày 31 tháng 5 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định 186/HĐBT về việc đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang mục đích khác, tại Điều 1 của Nghị định quy định rõ mọi tổ chức, cá nhân được giao đất nông nghiệp, đất có rừng để sử dụng vào mục đích khác phải đền bù thiệt hại về đất nông nghiệp, đất có rừng cho Nhà nước. Tiền bồi thường tài sản trên mặt đất và tài sản trong lòng đất cho chủ sử dụng không thuộc các khoản đền bù thiệt hại về đất. Khung mức giá đền bù thiệt hại do UBND tỉnh, thành phố, đặt khu trực thuộc trung ương quy định cụ thể, mức đền bù đối với từng quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh sát với giá đất ở địa phương nhưng không được thấp hơn hay cao hơn mức quy định của CP. Điều 23 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hoá, trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia mà Nhà nước trưng mua hay trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hay tổ chức theo thời giá thị trường”. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, thừa kế có chọn lọc Luật Đất đai năm 1988, Luật Đất đai năm 1993 ra đời với những đổi mới quan trọng, đặc biệt với nội dung thu hồi đất phục vụ lợi ích cộng đồng và đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất. Luật Đất đai quy định rõ hơn quyền của người được giao đất gồm có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp. Đồng thời, CP quy định khung giá cho từng loại đất, từng vùng và theo thời gian. Trong suốt thời gian này, Nhà nước ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật về quản lý đất đai. Trên cơ sở, cụ thể hoá Hiến pháp năm 1992, Luật dân sự, cùng với nhiều Nghị định, Chỉ thị, Thông tư về vấn đề đền bù, tái định cư. Nghị định 64/1993/NĐ-CP ngày 27 tháng 9 năm 1993 về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Nghị định 87/1994/NĐ-CP ngày 17 tháng 8 năm 1994 quy định khung giá các loại đất. - Nghị định 89/1994/NĐ-CP ngày 17 tháng 8 năm 1994 quy định về việc thu tiền sử dụng đất và lệ phí địa chính. Nghị định 02/1994/NĐ-CP ngày 15 tháng 01 năm 1994 về công tác giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Nghị định 91/1994/NĐ-CP ngày 17 tháng 8 năm 1994 ban hành điều lệ quản lý quy hoạch đô thị. Nghị định 45/1996/NĐ-CP ngày 03 tháng 8 năm 1996 đưa ra tiêu chuẩn hợp pháp về sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đô thị. Nghị định 90/1998/NĐ-CP và Nghị định 22/1998/NĐ-CP điển hình cho các văn bản pháp lý về đền bù và tái định cư. Nghị định 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Nghị định 84/2007/NĐ-CP quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai. Nghị định 69/2009/NĐ-CP điển hình bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư. Thông tư 14/2009/TT-BTNMT quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất. 1.6.Thực tiễn bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng ở Việt Nam Ở nước ta, các quy định của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ngày càng phù hợp hơn với yêu cầu của thực tế cũng như yêu cầu của các quy luật kinh tế. Quan tâm tới lợi ích của những người bị thu hồi đất, Nghị định 197/2004/NĐ-CP sau một thời gian thực hiện, đặc biệt là sau sự ra đời của NĐ 84/2007/NĐ-CP đã thể hiện được tính khả thi và vai trò tích cực của các văn bản pháp luật. Vì thế, công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trong thời gian qua đã đạt được các kết quả khá khả quan, thể hiện trên một số khía cạnh chủ yếu sau: Thứ nhất, đối tượng được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ngày càng được xác định đầy đủ chính xác, phù hợp với tình hình thực tế của đất nước, giúp cho công tác quản lý đất đai của Nhà nước được nâng cao, người nhận đền bù cũng thấy thỏa đáng. Thứ hai, mức bồi thường hỗ trợ ngày càng cao tạo điều kiện cho người dân bị thu hồi đất có thể khôi phục lại tài sản bị mất. Một số biện pháp hỗ trợ đã được bổ sung và quy định rất rõ ràng, thể hiện được tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước nhằm giúp cho người dân ổn định về đời sống và sản xuất. Thứ ba, việc bổ sung quy định về quyền tự thỏa thuận của các nhà đầu tư cần đất với người sử dụng đất đã góp phần giảm sức ép cho các cơ quan hành chính trong việc thu hồi đất. Thứ tư, trình tự thủ tục tiến hành bồi thường hỗ trợ tái định cư đã giải quyết được nhiều khúc mắc trong thời gian qua, giúp cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện công tác bồi thường, tái định cư đạt hiệu quả. Thứ năm, các địa phương bên cạnh việc thực hiện các quy định Luật đất đai năm 2003, các Nghị định hướng dẫn thi hành, đã dựa trên sự định hướng chính sách của Đảng và Nhà nước, tình hình thực tế tại địa phương để ban hành các văn bản pháp luật áp dụng cho địa phương mình, làm cho công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được thực hiện hợp lý và đạt hiệu quả cao hơn. Chẳng hạn như: Quyết định 143/QĐ-UB sửa đổi bổ sung một số vấn đề về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư của UBND Thành phố Hồ Chí Minh ngày 15/08/2007; Quyết định số 80/2005/QĐ-UB của UBND thành phố Hà Nội…Do đã vận dụng các chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thỏa đáng nên việc thu hồi đất tiến hành bình thường, mặc dù vẫn còn những khiếu nại nhưng con số này ít và không gây trở ngại đáng kể trong quá trình thực hiện. Thứ sáu, nhận thức về tầm quan trọng, ý nghĩa nhân văn cũng như tính chất phức tạp của vấn đề thu hồi đất, tái định cư của các nhà quản lý, hoạch định chính sách, của chính quyền địa phương được nâng lên. Chính phủ đã có nhiều nỗ lực để tạo điều kiện vật chất và kỹ thuật trong việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư có năng lực và có nhiều kinh nghiệm ngày càng đông đảo; sự chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn của công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư giữa các bộ, ban, ngành có các dự án đầu tư ngày càng được mở rộng và có hiệu quả. Nhờ những cải thiện về quy định pháp luật về phương pháp tổ chức, về năng lực cán bộ thực thi giải phóng mặt bằng, tiến độ giải phóng mặt bằng trong các dự án đầu tư gần đây đã được rút ngắn hơn so với các dự án cũ, góp phần giảm bớt tác động tiêu cực đối với người dân cũng như đối với dự án. Việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã giúp cho đất nước ta xây dựng cơ sở vật chất, phát triển kết cấu hạ tầng, xây dựng khu chế xuất, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, các dự án trọng điểm của Nhà nước, cũng như góp phần chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế, ổn định đời sống sản xuất cho người có đất bị thu hồi. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó chúng ta cũng còn những tồn tại, vướng mắc khi tiến hành bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, trong đó đặc biệt là vấn đề giá đền bù, gây những tác động tiêu cực đối với thị trường bất động sản. 1.7. Quy định chung của Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 08 năm 2009 về bồi thường hỗ trợ và tái định cư; Nhà nước thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng và giao đất cho nhà đầu tư để thực hiện dự án đối với các trường hợp đã có dự án đầu tư được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt. Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thu hồi đất thực hiện việc thu hồi đất đối với các trường hợp quy định của pháp luật thì: đất thu hồi thuộc khu vực nông thôn được UBND xã quản lý, đất thuộc khu vực đô thị và khu vực đã được quy hoạch để phát triển đô thị được giao cho tổ chức phát triển quỹ đất quản lý. Bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi (Điều 42 Luật Đất đai năm 2003) Nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất mà người bị thu hồi đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 50 của Luật Đất đai này thì người bị thu hồi đất được bồi thường, trừ các trường hợp quy định tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 điều 38 và các điểm b, c, d, đ, g, khoản 1 Điều 43 của Luật Đất đai năm 2003. Người bị thu hồi loại đất nào thì được bồi thường loại đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương lập và thực hiện các dự án tái định cư trước khi thu hồi đất để bồi thường bằng nhà ở, đất ở cho người bị thu hồi đất ở mà phải di chuyển chổ khác, khu tái định cư được quy hoạch chung cho nhiều dự án trên cùng một địa bàn và phải có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ. Trường hợp không có khu tái định cư thì bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền và được ưu tiên mua hoặc thuê nhà ở thuộc sở hữu của Nhà nước đối với khu vực đô thị, bồi thường bằng đất ở đối với khu vực nông thôn, trường hợp giá trị quyền sử dụng đất ở bị thu hồi lớn hơn đất ở được bồi thường thì người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền đối với phần chênh lệch đó. Trường hợp thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất mà không có đất để bồi thường cho việc tiếp tục sản xuất thì ngoài việc bồi thường bằng tiền, người bị thu hồi đất còn được Nhà nước hỗ trợ để ổn định đời sống, đào tạo để chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mới. Trường hợp người sử dụng đất được Nhà nước bồi thường khi thu hồi đất mà chưa được thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai theo quy định của pháp luật thì phải trừ đi giá trị nghĩa vụ tài chính chưa thực hiện trong giá trị được bồi thường. CP quy định việc bồi thường, tái định cư cho người có đất bị thu hồi và việc hỗ trợ để thực hiện thu hồi đất. Đối tượng phải đền bù thiệt hại: Tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài được Nhà nước giao đất, cho thuê đất (gọi chung là người sử dụng đất) để sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng có trách nhiệm đền bù thiệt hại về đất và tài sản hiện có gắn liền với đất theo qui định tại Nghị định 69/2009/NĐ-CP của CP. Đối tượng được đền bù thiệt hại: Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước có đất bị thu hồi (gọi chung là người bị thu hồi đất) được đền bù thiệt hại về đất khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng phải là người có đủ điều kiện theo quy định của Nghị định 69/2009/NĐ-CP của CP. Người được đền bù thiệt hại về tài sản gắn liền với đất bị thu hồi phải là người sở hữu hợp pháp tài sản đó phù hợp với quy định của pháp luật. Việc đề bù thiệt hại khi thu hồi đất của tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế, người định cư ở nước ngoài đã được Việt Nam cho thuê đất giải quyết theo quyết định riêng của Thủ Tướng Chính Phủ. Việc sử dụng đất phục vụ cho các công trình công ích của làng, xã bằng hình thức huy động sự đóng góp của dân thì không áp dụng những quy định tại Nghị định 69/2009/NĐ-CP của CP. Phạm vi đền bù thiệt hại: Đền bù thiệt hại về đất cho toàn bộ diện tích đất thu hồi theo quyết định tại Nghị định 69/2009/NĐ-CP của CP. Đền bù thiệt hại về tài sản hiện có bao gồm bồi thường, hỗ trợ về nhà, công trình, bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi. \rợ cấp đời sống và sản xuất cho những người phải di chuyển chổ ở, di chuyển nơi sản xuất kinh doanh, hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm. Trả các chi phí phục vụ trực tiếp cho việc tổ chức thực hiện đền bù, di chuyển, giải phóng mặt bằng. 1.8. Cơ sở pháp lý cùa việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. 1.8.1. Bồi thường, hỗ trợ về đất 1.8.1.1 Điều kiện để được bồi thường về đất Điều kiện để được bồi thuờng về đất được thực hiện theo Nghị định, người đang sử dụng đất được bồi thường về đất thực hiện theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 7, 9, 10 và 11 Điều 8 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP và các Điều 44, 45 và 46 của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP. Một số điểm tại khoản 3 Điều 8 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP được quy định cụ thể như sau: Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất và giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất quy định tại điểm c khoản 3 Điều 8 bao gồm: Giấy tờ thừa kế theo quy định của pháp luật; Giấy tờ tặng, cho nhà đất có công chứng hoặc xác nhận của UBND xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là UBND cấp xã) tại thời điểm tặng, cho; Giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất của cơ quan, tổ chức giao nhà. Giấy tờ về thanh lý, hóa giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền với đất ở quy định tại điểm đ khoản 3 Điều 8, trường hợp này phải bảo đảm các điều kiện sau: Nhà thanh lý, hóa giá, nhà bán phải thuộc sở hữu Nhà nước. Nhà thuộc sở hữu Nhà nước gồm: nhà ở tiếp quản từ chế độ cũ, nhà vô chủ, nhà vắng chủ đã được xác lập sở hữu Nhà nước; nhà ở tạo lập do ngân sách Nhà nước đầu tư; nhà ở được tạo lập bằng tiền có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước; nhà ở được tạo lập bằng tiền theo phương thức Nhà nước và nhân dân cùng làm; các nhà ở khác thuộc sở hữu Nhà nước. Nhà được cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân, tổ chức đoàn thể của Nhà nước và doanh nghiệp Nhà nước thanh lý, hoá giá nhà ở, bán nhà ở gắn liền với đất ở thuộc sở hữu Nhà nước trước ngày 5 tháng 7 năm 1994 hoặc giấy tờ bán nhà ở do tổ chức chuyên quản nhà ở bán theo quy định tại Nghị định số 61/1994/NĐ-CP ngày 5 tháng 7 năm 1994 của CP về mua bán và kinh doanh nhà ở. Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người đang sử dụng đất quy định tại điểm e khoản 3 Điều 8 Các loại giấy tờ khác chứng minh việc tạo lập nhà ở, đất ở nay được UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có đất ở (sau đây gọi chung là UBND cấp tỉnh) công nhận. Về giá đất để tính bồi thuờng là giá đất theo mục đích đang sử dụng tại thời điểm có quyết định do UBND tỉnh công bố hàng năm theo quy định của CP. 1.8.1.2. Giá đất để tính bồi thường và chi phí đầu tư vào đất còn lại Giá đất để tính bồi thường quy định tại Điều 11 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP là giá đất theo mục đích đang sử dụng của loại đất bị thu hồi, được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm. Trường hợp giá đất do UBND cấp tỉnh công bố chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường thì UBND cấp tỉnh giao cho cơ quan chức năng xác định lại giá đất cụ thể để quyết định giá đất tính bồi thường cho phù hợp và không bị giới hạn bởi quy định về khung giá các loại đất. Chi phí đầu tư vào đất còn lại quy định tại khoản 3 Điều 9 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP là các chi phí thực tế hợp lý mà người sử dụng đất đã đầu tư vào đất để sử dụng theo mục đích được phép sử dụng mà đến thời điểm Nhà nước thu hồi đất còn chưa thu hồi được. Các khoản chi phí đầu tư vào đất phải có đầy đủ hồ sơ, chứng từ, thực tế chứng minh. Chi phí đầu tư vào đất còn lại được xác định bằng tổng chi phí thực tế hợp lý tính thành tiền đã đầu tư vào đất trừ đi số tiền đầu tư phân bổ cho thời gian đã sử dụng đất. Các khoản chi phí đầu tư vào đất còn lại gồm: Tiền sử dụng đất của thời hạn chưa sử dụng đất trong trường hợp giao đất có thời hạn, tiền thuê đất đã nộp trước cho thời hạn chưa sử dụng đất (có chứng từ hóa đơn nộp tiền); Các khoản chi phí san lấp mặt bằng, chi phí tôn tạo đất được giao, được thuê và phù hợp với mục đích sử dụng đất. Trường hợp thu hồi đất mà đã được bồi thường về đất thì không được bồi thường chi phí san lấp mặt bằng, chi phí tôn tạo đất; Các khoản chi phí khác có liên quan. UBND cấp tỉnh quy định việc xác định khoản chi phí đầu tư vào đất còn lại đối với các trường hợp không có hồ sơ, chứng từ về chi phí đã đầu tư vào đất cho phù hợp với thực tế tại địa phương. 1.8.1.3 Bồi thường đối với đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân Bồi thường đối với đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân thực hiện theo quy định tại Điều 16 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP như sau: Đất nông nghiệp được bồi thường gồm: đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất là rừng trồng, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác. Đối với đất đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt quy hoạch rừng phòng hộ, rừng đặc dụng mà các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nhận khoanh nuôi tái sinh rừng, chăm sóc, bảo vệ rừng hoặc trồng rừng bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước theo hợp đồng khoán thì khi Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường về đất, chỉ được bồi thường về cây trồng trên đất. Mức bồi thường tương đương với mức phân chia sản phẩm theo quy định tại Thông tư liên tịch số 80/2003/TTLT/BNN-BTC ngày 03/9/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Quyết định số 178/2001/QĐ-TTg ngày 12/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về quyền hưởng lợi, nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân được giao, được thuê, nhận khoán rừng và đất lâm nghiệp. 1.8.1.4 Bồi thường đối với đất ở Người bị thu hồi đất ở được bồi thường bằng việc giao đất ở mới hoặc bằng nhà ở tái định cư hoặc bằng tiền theo giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi đất. Việc bồi thường bằng đất ở, nhà ở tái định cư được thực hiện khi người bị thu hồi đất ở thuộc các trường hợp quy định tại Điều 18 của Thông tư này. Bồi thường đất ở đối với những người đang đồng quyền sử dụng đất quy định tại Điều 15 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP khi Nhà nước thu hồi đất mà giấy tờ về đất không xác định được diện tích đất thuộc quyền sử dụng riêng của từng tổ chức, từng hộ gia đình, cá nhân thì UBND cấp tỉnh hướng dẫn việc tiếp nhận và phân chia tiền bồi thường về đất. 1.8.1.5. Bồi thường đối với đất thuộc hành lang an toàn khi xây dựng công trình có hành lang bảo vệ an toàn Bồi thường thiệt hại do hạn chế khả năng sử dụng đất trong trường hợp Nhà nước không thu hồi đất quy định tại khoản 2 Điều 16 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP được quy định cụ thể như sau: Trường hợp làm thay đổi mục đích sử dụng đất: Làm thay đổi mục đích sử dụng đất từ đất ở sang đất phi nông nghiệp không phải là đất ở, từ đất ở sang đất nông nghiệp thì tiền bồi thường bằng chênh lệch giữa giá đất ở với giá đất phi nông nghiệp (không phải là đất ở), giữa giá đất ở với giá đất nông nghiệp nhân với diện tích bị thay đổi mục đích sử dụng; Làm thay đổi mục đích sử dụng đất từ đất phi nông nghiệp (không phải là đất ở) sang đất nông nghiệp thì tiền bồi thường bằng chênh lệch giữa giá đất phi nông nghiệp (không phải là đất ở) với giá đất nông nghiệp nhân với diện tích bị thay đổi mục đích sử dụng. Trường hợp không làm thay đổi mục đích sử dụng đất (nhà ở, công trình đủ điều kiện tồn tại trong hành lang bảo vệ an toàn của công trình) nhưng làm hạn chế khả năng sử dụng thì được bồi thường bằng tiền theo mức thiệt hại thực tế. Mức bồi thường cụ thể do UBND cấp tỉnh quyết định cho phù hợp với thực tế tại địa phương. Khi hành lang bảo vệ an toàn công trình chiếm dụng khoảng không trên 70% diện tích đất sử dụng có nhà ở, công trình của một chủ sử dụng đất thì phần diện tích đất còn lại cũng được bồi thường theo quy định như trên . 1.8.2. Bồi thường, hỗ trợ về tài sản 1.8.2.1 Các trường hợp bồi thường, hỗ trợ cụ thể về nhà, công trình Xử lý các trường hợp bồi thường, hỗ trợ cụ thể về nhà, công trình quy định tại Điều 20 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP được quy định cụ thể như sau: Nhà, công trình khác được phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng trên đất có đủ điều kiện được bồi thường về đất thì được bồi thường theo quy định tại Điều 24 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP. Nhà, công trình khác không được phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng nhưng xây dựng trên đất có đủ điều kiện được bồi thường về đất và xây dựng trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 thì được bồi thường theo quy định tại Điều 24 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP; nếu xây dựng từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 trở về sau, xây dựng không đúng với mục đích sử dụng đất theo quy định của pháp luật thì không được bồi thường. Trong trường hợp đặc biệt, UBND cấp tỉnh xem xét hỗ trợ từng trường hợp cụ thể cho phù hợp với thực tế tại địa phương. 1.8.2.2 Bồi thường, hỗ trợ nhà, công trình đối với người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước Bồi thường, hỗ trợ nhà, công trình đối với người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước thực hiện theo quy định tại Điều 21 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP và được quy định cụ thể như sau: Khoản 1 Điều 21 quy định về phần diện tích nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước tự cải tạo, sửa chữa, nâng cấp được coi là hợp pháp khi được cơ quan ra quyết định phân nhà hoặc cơ quan quản lý nhà đất thuộc sở hữu Nhà nước tại địa phương cho phép. Khoản 2 Điều 21 quy định về người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước bị phá dỡ được thuê nhà tại nơi tái định cư; trường hợp không có nhà tái định cư để bố trí thì được hỗ trợ bằng tiền để tự lo chỗ ở mới, mức hỗ trợ bằng 60% trị giá đất và 60% trị giá nhà đang thuê; trường hợp có nhà tái định cư để bố trí mà người đang sử dụng nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước không có nhu cầu thuê thì không được hỗ trợ bằng tiền. 1.8.2.3 Bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi Bồi thường đối với cây trồng, vật nuôi thực hiện theo quy định tại Điều 24 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP và được quy định cụ thể như sau: Mức bồi thường đối với cây hàng năm bằng giá trị sản lượng thu hoạch của một (01) vụ thu hoạch. Giá trị sản lượng của một (01) vụ thu hoạch được tính theo năng suất cao nhất trong ba (03) năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương theo thời giá trung bình của nông sản cùng loại ở địa phương tại thời điểm thu hồi đất. Cây lâu năm bao gồm cây công nghiệp, cây ăn quả, cây lấy gỗ, lấy lá, cây rừng quy định tại khoản 1 Điều 2 của Nghị định số 74 ngày 25 tháng 10 năm 1993 của CP quy định chi tiết thi hành Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp, khi Nhà nước thu hồi được bồi thường theo giá trị hiện có của vườn cây, giá trị này không bao gồm giá trị quyền sử dụng đất. Giá trị hiện có của vườn cây lâu năm để tính bồi thường được xác định như sau: Cây trồng đang ở chu kỳ đầu tư hoặc đang ở thời gian xây dựng cơ bản thì giá trị hiện có của vườn cây là toàn bộ chi phí đầu tư ban đầu và chi phí chăm sóc đến thời điểm thu hồi đất tính thành tiền theo thời giá tại thị trường địa phương; Cây lâu năm là loại thu hoạch một lần (cây lấy gỗ) đang ở trong thời kỳ thu hoạch thì giá trị hiện có của vườn cây được tính bồi thường bằng số lượng từng loại cây trồng nhân với giá bán một (01) cây tương ứng cùng loại, cùng độ tuổi, cùng kích thước hoặc có cùng khả năng cho sản phẩm ở thị trường địa phương tại thời điểm bồi thường trừ đi giá trị thu hồi (nếu có); Cây lâu năm là loại thu hoạch nhiều lần (ví dụ như cây ăn quả, cây lấy dầu, nhựa…) đang ở trong thời kỳ thu hoạch thì giá trị hiện có của vườn cây được tính bồi thường là giá bán vườn cây ở thị trường địa phương tại thời điểm bồi thường trừ đi giá trị thu hồi (nếu có); Cây lâu năm đã đến thời hạn thanh lý thì chỉ bồi thường chi phí chặt hạ cho chủ sở hữu vườn cây. Chi phí đầu tư ban đầu, chi phí chăm sóc, chi phí chặt hạ quy định tại khoản này được tính thành tiền theo mức chi phí trung bình tại địa phương do UBND cấp tỉnh quy định cụ thể đối với từng loại cây. Đối với cây trồng và lâm sản phụ trồng trên diện tích đất lâm nghiệp do Nhà nước giao cho hộ gia đình, cá nhân để trồng, khoanh nuôi, bảo vệ, tái sinh rừng, mà khi giao là đất trống, đồi núi trọc, hộ gia đình, cá nhân tự bỏ vốn đầu tư trồng rừng thì được bồi thường theo giá bán cây rừng chặt hạ tại cửa rừng cùng loại ở địa phương tại thời điểm có quyết định thu hồi đất trừ đi giá trị thu hồi. 1.8.2.4 Xử lý tiền bồi thường đối với tài sản thuộc sở hữu Nhà nước Việc sử dụng tiền bồi thường đối với tài sản thuộc sở hữu Nhà nước quy định tại Điều 25 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP được quy định cụ thể như sau: Tổ chức bị thu hồi đất có tài sản được Nhà nước giao quản lý, sử dụng bị thiệt hại và phải di dời đến địa điểm mới thì được sử dụng tiền bồi thường tài sản để đầu tư tại địa điểm mới theo dự án đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Số tiền bồi thường tài sản này do người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất chi trả; nếu không sử dụng hết thì số tiền còn lại được nộp vào ngân sách Nhà nước. 1.8.3. Chính sách hỗ trợ 1.8.3.1 Hỗ trợ ổn định đời sống và sản xuất Tại Điều 20 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP được quy định cụ thể như sau: - Đối tượng được hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất là hộ gia đình,cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp và được xác định như sau: Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất nông nghiệp, lâm nghiệp khi thực hiện Nghị định số 64/1993/NĐ-CP ngày 27 tháng 9 năm 1993 của CP ban hành quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp; Nghị định số 02/1994/NĐ-CP ngày 15 tháng 01 năm 1994 của CP ban hành quy định về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Nghị định số 85/1999/NĐ-CP ngày 28 tháng 8 năm 1999 của CP sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp và bổ sung việc giao đất làm muối cho hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài; Nghị định số 163/1999/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 1999 của CP về việc giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp; Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của CP về thi hành Luật Đất đai năm 2003; Nhân khẩu nông nghiệp trong hộ gia đình quy định tại điểm a khoản này nhưng phát sinh sau thời điểm giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình đó; Hộ gia đình, cá nhân thuộc đối tượng đủ điều kiện được giao đất nông nghiệp theo quy định tại điểm a khoản này nhưng chưa được giao đất nông nghiệp và đang sử dụng đất nông nghiệp do nhận chuyển nhượng, nhận thừa kế, được tặng cho, khai hoang theo quy định của pháp luật, được UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận là đang trực tiếp sản xuất trên đất nông nghiệp đó. Diện tích đất nông nghiệp mà hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng quy định tại khoản 1 Điều 20 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP gồm diện tích đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất được giao để trồng rừng sản xuất, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối, đất nông nghiệp khác và được xác định như sau: Đối với đất nông nghiệp đã có giấy tờ về quyền sử dụng đất (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003) thì xác định diện tích đất ghi trên giấy tờ đó; Đối với đất nông nghiệp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất nhưng được thể hiện trong phương án giao đất nông nghiệp khi thực hiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì diện tích đất nông nghiệp được xác định theo phương án đó; Đối với đất nông nghiệp không có giấy tờ, phương án giao đất quy định tại điểm a và điểm b khoản này thì xác định theo hiện trạng thực tế đang sử dụng. Khi Nhà nước thu hồi đất của tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh có đăng ký kinh doanh mà bị ngừng sản xuất kinh doanh thì được hỗ trợ tối đa bằng 30% một (01) năm thu nhập sau thuế, theo mức thu nhập bình quân của ba (03) năm liền kề trước đó. Thu nhập sau thuế được xác định căn cứ vào báo cáo tài chính đã được kiểm toán hoặc được cơ quan thuế chấp thuận; trường hợp chưa được kiểm toán hoặc chưa được cơ quan thuế chấp thuận thì việc xác định thu nhập sau thuế được căn cứ vào thu nhập sau thuế do đơn vị kê khai tại báo cáo tài chính, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cuối mỗi năm đã gửi cơ quan thuế. 1.8.3.2. Xác định khu dân cư để tính hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư Khu dân cư thuộc thị trấn, khu dân cư nông thôn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 21 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP được xác định theo ranh giới của thửa đất có nhà ở ngoài cùng của làng, bản, thôn, ấp, buôn, phum, sóc và các điểm dân cư tương tự. UBND cấp tỉnh căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương quy định việc xác định ranh giới của thửa đất có nhà ở ngoài cùng quy định tại khoản 1 Điều này. 1.8.3.3. Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm Việc hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm được thực hiện theo quy định tại Điều 22 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP và được quy định như sau: Hộ gia đình, cá nhân thuộc đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 14 của Thông tư này mà bị thu hồi đất nông nghiệp nhưng không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 21 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP thì được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm. Việc áp dụng hình thức hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm bằng một (01) suất đất ở hoặc một (01) căn hộ chung cư hoặc một (01) suất đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp chỉ thực hiện một lần khi có đủ các điều kiện sau: Hộ gia đình, cá nhân được hỗ trợ có nhu cầu nhận suất đất ở hoặc căn hộ chung cư hoặc suất đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp; Địa phương có điều kiện về quỹ đất ở, quỹ nhà ở; Số tiền hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm quy định tại điểm a khoản 1 Điều 22 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP phải bằng hoặc lớn hơn giá trị một (01) suất đất ở hoặc giá một (01) căn hộ chung cư hoặc giá trị một (01) suất đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp. Việc lấy ý kiến của người bị thu hồi đất nông nghiệp về phương án đào tạo, chuyển đổi nghề nghiệp được thực hiện đồng thời khi lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Hình thức lấy ý kiến thực hiện như việc lấy ý kiến về phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư quy định tại khoản 2 Điều 30 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP. 1.8.3.4. Hỗ trợ người đang thuê nhà không thuộc sở hữu Nhà nước Hỗ trợ người đang thuê nhà không thuộc sở hữu Nhà nước quy định tại Điều 30 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP được quy định cụ thể như sau: Hộ gia đình, cá nhân đang hợp đồng thuê nhà mà không thuộc sở hữu Nhà nước, khi Nhà nước thu hồi đất phải di chuyển chỗ ở thì được hỗ trợ chi phí di chuyển theo quy định tại khoản 1 và khoản 4 Điều 18 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP. 1.8.4. Tái định cư 1.8.4.1 Các trường hợp được bố trí tái định cư Hộ gia đình, cá nhân khi bị Nhà nước thu hồi đất ở thì được bố trí tái định cư trong các trường hợp sau: Hộ gia đình, cá nhân phải di chuyển chỗ ở do bị thu hồi hết đất ở mà không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi (trừ trường hợp hộ gia đình, cá nhân không có nhu cầu tái định cư). Hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất mà phần diện tích đất ở còn lại sau thu hồi không đủ điều kiện để ở theo quy định của UBND cấp tỉnh mà không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi. Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở nằm trong hành lang an toàn khi xây dựng công trình công cộng có hành lang bảo vệ an toàn phải di chuyển chỗ ở mà không có chỗ ở nào khác trong địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi. Trường hợp trong hộ gia đình có nhiều thế hệ (nhiều cặp vợ chồng) cùng chung sống đủ điều kiện tách hộ hoặc có nhiều hộ gia đình có chung quyền sử dụng một (01) thửa đất ở bị thu hồi thì UBND cấp tỉnh căn cứ vào điều kiện thực tế tại địa phương để quy định diện tích đất, diện tích nhà ở để bố trí tái định cư. 1.8.4.2 Bố trí tái định cư Việc bố trí tái định cư thực hiện theo quy định tại Điều 34 của Nghị định số 197/2004/NĐ-CP và được quy định cụ thể như sau: Công khai phương án bố trí tái định cư; đối với dự án đã có khu tái định cư thì hộ gia đình, cá nhân được tái định cư được xem nơi dự kiến tái định cư trước khi chuyển đến. Giá đất tính thu tiền sử dụng đất tại nơi tái định cư do UBND cấp tỉnh quyết định theo quy định của CP về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất. Giá bán nhà tái định cư do UBND cấp tỉnh quyết định trên cơ sở suất đầu tư nhà ở và thực tế tại địa phương. Giá cho thuê nhà do UBND cấp tỉnh quyết định cho phù với thực tế tại địa phương. Hộ gia đình, cá nhân được giao đất, mua nhà, thuê nhà tại nơi tái định cư phải nộp tiền sử dụng đất, tiền mua nhà, tiền thuê nhà theo quy định của pháp luật và được trừ vào tiền bồi thường, hỗ trợ; nếu có chênh lệch thì thực hiện thanh toán bằng tiền phần chênh lệch đó theo quy định, trừ trường hợp được hỗ trợ tái định cư quy định tại khoản 1 Điều 19 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP. CHƯƠNG 2 PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Phuơng tiện nghiên cứu Địa điểm: Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện Tháp Mười Thời gian: từ ngày 15 tháng 7 đến 30 tháng 8 năm 2011 Tài liệu: Luật Đất đai 2003 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, ngày 29/10/2004 của CP, Nghị định của CP về thi hành Luật Đất đai Nghị định 197/2004/NĐ-CP, ngày 29/10/2004 của CP, Nghị định của CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất Nghị định 17/2006/NĐ-CP, ngày 27/01/2006 của CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất Đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định 84/2007/NĐ-CP, ngày 25/05/2007 của CP, Quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai Nghị định 69/2009/NĐ-CP, ngày 13/08/2009 của CP quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư. Thông tư 116/2004/TT-BTC, hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của CP về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hối đất Thông tư 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của BTNMT quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất. Các báo cáo định kỳ của các ban ngành có liên quan đến công tác giải tỏa, đền bù đất đai. Quyết định 08/2008/QĐ-UBND của UBND tỉnh Đồng Tháp về việc quy định về giá bồi thường cây trồng, vật nuôi, chi phí di dời mồ mả khi Nhà nước thu hồi trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp Quyết định 15/2010/QĐ-UBND, Quyết định ban hành quy định về Bảng giá chuẩn nhà và vật kiến trúc xây dựng mới áp dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Quyết định 29/2009/QĐ-UBND ngày 23/12/2009 quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Căn cứ Quyết định số 09/2011/QĐ-UBND ngày 07 tháng 4 năm 2011 của UBND tỉnh Đồng Tháp vể việc bổ sung một số nội dung của Quy định bảng giá chuẩn nhà và vật kiến trúc xây dựng mới áp dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp ban hành kèm theo Quyết định 15/2010/QĐ-UBND ngày 14 tháng 6 năm 2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Thiết bị: Máy vi tính Máy in USB 2.2 Phương pháp nghiên cứu 2.2.1 Phương pháp thu thập thông tin, số liệu, tài liệu: Khảo sát tình hình thực tế của địa bàn để thu thập được số liệu về tình hình giải tỏa đền bù. Từ đó, đánh giá thuận lợi và khó khăn của việc thực hiện công tác giải tỏa đền bù. 2.2.2 Phương pháp điều tra thực tế Nắm bắt tình hình thực tế tại đia bàn, từng người dân và nhà đầu tư tham gia dự án. 2.2.3 Phương pháp tổng hợp thông tin phân tích so sánh, đánh giá Tiến hành đánh giá phân tích tổng hợp số liệu từ phương pháp thống kê và phương pháp điều tra. Ngoài ra phương pháp so sánh kết hợp với những lý luận khoa học để làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu. Phân tích những điều kiện thuận lợi và khó khăn trong đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về việc giải tỏa, đền bù đất đai.. CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ THẢO LUẬN 3.1. Đặc điểm vùng nghiên cứu 3.1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của huyện Tháp Mười. 3.1.1.1 Điều kiện tự nhiên a Vị trí địa lý Huyện tháp mười có tọa độ địa lí Từ 10o23’ đến 10o60’ vĩ độ Bắc.từ 105o38’ đến 105o59’ kinh độ Đông Phía Bắc giáp huyện Vĩnh Hưng tỉnh Long An và huyện Tam Nông tỉnh Đồng Tháp; phía Đông giáp huyện Tân Thạnh tỉnh Long An; phía Tây và Tây – Nam giáp huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp; phía Nam và Đông – Nam giáp huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang. Từ vùng đất cực Bắc của huyện (Thạnh Lợi) cực Nam (Thanh Mỹ) có độ dài khoảng 45km, chiều rộng từ Mỹ Quý đến Đốc Binh Kiều khoảng 26km. Từ TT.Mỹ An đi theo đường bộ đến Cao Lãnh khoảng 30km; đi An Cư (Quốc lộ I) khoảng 31km; đi TT.Cai Lậy 40km, đi thành phố Hồ Chí Minh 140km. Đường thủy từ sông Tiền vào theo kinh Nguyễn Văn Tiếp B tới xã Thanh Mỹ khoảng 5km, theo kinh Nguyễn Văn Tiếp A đến TT.Mỹ An khoảng 25km. Hiện nay Tháp Mười có 12 xã và 1 thị trấn: Thị trấn Mỹ An, Hưng Thạnh, Mỹ Hoà, Trường Xuân, Thanh Mỹ, Đốc Binh Kiều, Mỹ Quý, Mỹ Đông, xã Tân Kiều, Phú Điền, Thạnh Lợi, Láng Biển và Thị Trấn Mỹ An. Với vị trí tiếp giáp như vậy, huyện có nhiều điều kiện thuận lợi để giao thương kinh tế với Thành phố Cao Lãnh và các tỉnh lân cận. b. Địa hình Huyện Tháp Mười hiện nay có diện tích tự nhiên 52.800ha bằng gần 17% diện tích của tỉnh Đồng Tháp, Địa hình toàn vùng Đồng Tháp Mười giống như lồng chảo, xung quanh cao. Huyện Tháp Mười nằm ở vùng thấp, tương đối bằng phẳng, nhưng vùng đất phía Nam và phía Tây có độ cao hơn phía Đông, phía Bắc. . so với các vùng xung quanh, địa hình của huyện tương đối thấp, qua tổng kết nhiều năm cho thấy độ ngập từ 0,5 m trở lên chiếm tỷ lệ 99,7 % tổng diện tích tự nhiên và thời gian ngập từ 3 đến 4 tháng. Nằm trong vùng trũng Đồng Tháp Mười. Xưa kia, vùng Tháp Mười ít sông, rạch, chỉ có một số lung sình, một số gò, đáng chú ý là hai gò: Động Cát (thuộc xã Mỹ Quý) và Tháp Mười (thuộc xã Tân Kiều). Gò Tháp Mười về mùa lũ ít khi bị ngập (trừ những năm có lụt lớn). Đây là khu di tích lịch sử văn hóa và du lịch, đã được Bộ Văn hóa – Thông tin cấp bằng công nhận Di tích cấp Quốc gia Huyện Tháp Mười có tổng diện tích tự nhiên là 52.800 ha, trong đó: đất nông nghiệp: 45.774 ha và đất phi nông nghiệp: 7.026 ha. c. Khí hậu Khí hậu, thời tiết huyện Tháp Mười cũng chịu ảnh hưởng chung của khu vực đồng bằng sông Cửu Long nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, có 2 mùa mưa nắng rõ rệt trong năm. Nhiệt độ bình quân trong năm 26,9oC, ẩm độ không khí bình quân trong năm 82%, nắng bình quân 2.733 giờ. Nhiệt độ cao và khá ổn định qua các tháng, chênh lệch trung bình 1 – 3oC, nhịêt độ trung bình năm là 27oC, cao nhất là 37,2oC, thấp nhất là 18,5oC. Thời kỳ nóng nhất trong năm kéo dài từ 3 đến 4 tháng, và tháng lạnh nhất là tháng 12 và tháng 1. Lượng mưa bình quân hàng năm là khoảng trên 1.410 mm. , lượng mưa có xu hướng giảm dần từ Tây - Tây Nam sang phía đông Mùa mưa từ tháng năm đến tháng 11, lượng mưa chiếm 90 – 92% lượng mưa cả năm. nước từ thượng nguồn MêKông tràn về hàng năm thường từ tháng 7 đến tháng 11, mực nước ngập trung bình 4,20m (so với mặt nước biển), trên đồng nước ngập sâu 1m. Ngoài nước mặt, ở Tháp Mười còn có nước ngầm rất tốt. Do đặc diểm mưa lớn tập trung theo mùa kết hợp với lũ từ thượng nguồn đổ về đã gây tình trạng ngâp lụt sâu trên diện rộng trong thời gian dài gây ảnh hưởng rất lớn dến đời sống và sản xuất của nhân dân. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng năm sau, lượng mưa thấp. d. Thủy văn Chế độ thủy văn ở Tháp Mười chịu tác động của 3 yếu tố: lũ, mưa nội đồng và thủy triều biển đông, hàng năm hình thành hai mùa rõ rệt: mùa lũ trùng với mùa mưa, mùa cạn trùng với mùa khô. Tháp Mười là vùng tiếp xúc và chịu ảnh hưởng sớm nhất của lũ thượng nguồn sông Mê Kông vào vùng đồng bằng Sông Cửu Long, những đặc trưng chính để đánh giá điển hình lũ ở đây là mực nước đỉnh lũ, cường suất lũ, thời gian xuất hiện và dạng lũ ảnh hưởng trong vùng. - Hệ thống sông rạch: Toàn huyện có 1542,79 km kênh rạch, trong đó có 6 tuyến kêng cấp I chảy qua do trung ương quản lí dài 101,5 km. + Kênh Nguyễn Văn Tiếp A dài 12 km và chảy từ Đông sang Tây + Kênh Nguyễn Văn Tiếp B chảy qua phía Đông của huyện là ranh giới tỉnh Đồng Tháp và tỉnh Tiền Giang + Kênh Đồng Tiến dài 16 km, chảy từ Đông sang Tây + Kênh Tư Mới dài 27 km chảy từ Tây Bắc xuống Đông Nam + Kênh Phước Xuyên dài 15 km chảy qua phía Bắc của huyện là ranh giới giữa tỉnh Đồng Tháp và tỉnh Long An. + Kêng Dương Văn Dương dài 2,5 km chảy từ kênh Hội Kỳ Nhất đến kênh An Phong. Ngoài ra nối liền với kênh rạch trên còn rất nhiều kênh rạch nhỏ được phân bố đều trên toàn địa bàn của huyện tạo nhiều thụân lợi cho việc cấp, thoát nước phục vụ cho sản xuất và đời sống. e. Thực trạng cảnh quan môi trường Cảnh quan của Tháp Mười mang đặc trưng cơ bản của vùng đồng bằng Nam bộ. Đại hình bằng phẳng, sông ngòi chằng chịt, dân cư sống ven theo đường giao thông và kênh rạch, nhà ở chủ yếu là nhà tre lá, cơ sở hạ tầng đang từng bước được phát triển. Môi trường ít bị ô nhiễm bởi chất thải công nghiệp. Tuy nhiên, do đặc điểm của huyện là vùng trũng, đất phèn chiếm diện tích lớn, lũ lụt xảy ra thường xuyên, dân cư phải sống chung với lũ, môi trường nước bị ô nhiễm nên ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của nhân dân nhất là sau khi ngập lụt. Rác thải ở nông thôn chủ yếu là rác thải sinh hoạt và rác thải từ các hoạt động sản xuất như trồng trọt, chăn nuôi gia súc, gia cầm,... đây là nguồn gây ô nhiễm cho môi trường nước. Tuy nhiên, đây cũng là nguồn chất thải có thể sử dụng được. Môi trường ở các tiểu thủ công nghiệp và làng nghề thủ công: Trong những năm qua thì sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển khác. Do đặc thù của địa phương, các cơ sở sản xuất đan xen với khu dân cư nông thôn, công nghệ sản xuất lạc hậu, vốn đầu tư ít, hoạt động theo kiểu gia đình xây dựng ngay trên phần đất của họ sử dụng nên nảy sinh các vấn đề môi trường không thể giải quyết được. Mặt khác Tháp Mười có hơn 80% dân số sống bằng nghề nông, trong sản xụất đã sử dụng một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật nên môi trường đất, nước, không khí ít nhiều đã bị ô nhiễm. Vì vậy trong tương lai phải có biện pháp kịp thời nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm. 3.1.1.2. Một số tình hình cơ bản phát triển kinh tế–xã hội huyện Tháp Mười. Trên chặng đường gần 30 năm xây dựng và trưởng thành, Đảng bộ và nhân dân huyện Tháp Mười luôn chung tay đoàn kết, không ngừng nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn, xây dựng huyện nhà ngày càng phát triển. Trong những năm vừa qua, Đảng bộ và nhân dân huyện Tháp Mười đã đẩy mạnh thực hiện phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và tạo ra nhiều động lực mới góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, bộ mặt huyện nhà ngày càng khởi sắc. Giao thông, thủy lợi, trường học, bệnh viện và các công trình văn hóa phúc lợi, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao. Mặc dù lũ lớn xuất hiện liên tục trong 3 năm liền (2000 – 2002) đã gây tàn phá khá nặng nề về cơ sở hạ tầng, ảnh hưởng đến việc sản xuất cũng như trong sinh họat của đại bộ phận nhân dân. Chính những điều đó đã ảnh hưởng lớn đến tốc độ phát triển kinh tế của huyện. Nhưng dưới sự chỉ đạo kiên quyết, có hiệu quả của các cấp ủy Đảng, nhất là Ban chấp hành Đảng bộ huyện; sự giám sát chặt chẽ của Hội đồng nhân dân; sự chỉ đạo, điều hành kịp thời của UBND huyện; sự phấn đấu cao của các ban nghành, các cấp cùng với sự nỗ lực phấn đấu của các tầng lớp nhân dân huyện trong việc khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức để đạt được những kết quả khá toàn diện trên mọi lĩnh vực. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục được nhân rộng khắp toàn huyện. Trên toàn địa bàn huyện có 25.765 hộ/24.844 hộ đạt gia đình văn hóa, đạt 103%. Với những thành tích đạt được trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, Đảng bộ và nhân dân huyện Tháp Mười đã được Đảng, Nhà nước và các cấp các ngành liên quan trao tặng nhiều phần thưởng cao quý tiêu biểu như vinh dự được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới,. Đó là những giá trị tinh thần to lớn cổ vũ động viên cán bộ và nhân dân toàn huyện tiếp tục phát huy những thành tích đạt được, ra sức xây dựng huyện nhà ngày càng giàu đẹp, văn minh a Kinh tế Theo Tạp chí thi đua khen thưởng năm2009. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của huyện đạt 13,87%, trong đó khu vực nông - lâm - thủy sản tăng 7%; Khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 34,87%; Khu vực thương mại - dịch vụ tăng 32,14%; GDP bình quân đầu người đạt 15.059.425 đồng. Trong những năm qua đã có chuyển hướng tính cực, tăng dần tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, thương mại dịch vụ, giảm tỷ trọng nông – lâm nghiệp. Hiện tại huyện có một Chợ trung tâm đạt loại I và 01 siêu thị cùng với nhiều chợ loại 2,3 ở trung tâm các xã. Ngày 01/10, Bộ Xây dựng đã có Quyết định 887/QĐ-BXD về việc công nhận thị trấn Mỹ An, huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp là đô thị loại IV. Điều đó đã chứng minh sự nỗ lực lao động phấn đấu của toàn thể nhân dân huyện Tháp mười . Tuy nhiên Tháp Mười lại là một vùng trũng thấp của tỉnh Đồng Tháp, những năm qua lũ lụt thường xuyên xảy ra gây thiệt hại rất lớn về người và tài sản của nhân dân cả về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và cơ sở hạ tầng xã hội. b. Nông nghiệp Tháp Mười là vựa lúa lớn của Đồng Tháp. Năm 2009 tổng diện tích gieo trồng của huyện là 89.599 ha tăng 464 ha so với năm 2008, sản lượng đạt 535 tấn, tăng 13227 tấn so với năm 2008. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi từng bước chuyển biến tích cực. Ngoài lúa, sen cũng là một loại cây trồng chủ lực của huyện, cho giá trị kinh tế ca. Năm 2010, Tháp Mười có gần 1000 ha sen tập trung chủ yếu ở các xã Mỹ Qúi, Mỹ Đông, Láng Biển, Mỹ An...Chăn nuôi của huyện cũng phát triển mạnh, hiện nay đàn gia súc toàn huyện có 8.636 con, đàn gia cầm 235.017 con. c. Công nghiệp – Xây dựng Sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp tiếp tục có sự chuyển biến, duy trì phát triển. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ước đạt 89.758 triệu đồng, đạt 101,14% kế hoạch. Toàn huyện có 686 cơ sở sản xuất kinh doanh mới thành lập, nâng tổng số cơ sở kinh doanh trên địa bàn lên 4.504 cơ sở. Công tác xây dựng cơ bản được chú trọng đầu tư, tính đến cuối năm 2009, tổng công trình tỉnh đầu tư trên địa bàn huyện 78 công trình với tổng số vốn phân bổ là 76,72 tỷ đồng và huyện đầu tư 116 công trình với số vốn đầu tư 31,25 tỷ đồng d. Về hệ thống giao thông Toàn huyện có 456 km lộ giao thông đường bộ trong đó tỉnh lộ là 64,51km, đường huyện là 137,6 km, đường liên xã là 203,9 km. Tuy nhiên hệ thống giao thông chưa đồng bộ, quy mô kỹ thuật còn nhỏ. Việc đi lại của người dân vào mùa mưa còn gặp rất nhiều khó khăn nhất là với xã Hưng Thạnh, Thạnh Lợi và cũng là xã có khoảng cánh xa nhất với 28 km đường bộ. d. Giáo dục Phong trào thi đua trong ngành Giáo dục và Đào tạo thực hiện sôi nổi và đạt hiệu quả cao; Đội ngũ giáo viên, quản lý giáo dục không ngừng được đào tạo và nâng cao trình độ. Năm 2009, toàn huyện đã xây dựng được 14 điểm trường các cấp, đưa vào sử dụng 37 phòng học, trang thiết bị giáo dục được đầu tư để duy trì chuẩn Quốc gia; Chất lượng dạy và học ngày càng được nâng cao. Tỷ lệ tốt nghiệp THPT 71,92%; Tỷ lệ học sinh đậu vào các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp 38,29%; g. Y tế Mạng lưới y tế từ huyện đến cơ sở được tập trung cũng cố và hoàn thiện. Trong những năm gần đây huyện Tháp Mười đã tập trung xây dựng 13 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất với tổng kinh phí trên 26 tỷ VNĐ. Đến tháng 5 năm 2010, cả 13 trạm y tế được đưa vào sử dụng. 3.1.2. Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường. - Thuận lợi: Là huyện có diện tích tự nhiên tương đối lớn, đất đai đa dạng, độ phì nhiêu của đất tương đối khá. Lượng mưa trong năm cao, biên độ dao động nhiệt giữa các tháng năm không đáng kể tạo điều kiện cây trồng sinh trưởng phát triển tốt. Tháp Mười là huyện trọng điểm về lương thực của tỉnh, có hệ thống giao thông thủy, bộ phân bố đều khắp trên địa bàn tạo điều kiện thuận lợi cho huyện trong lưu thông hàng hóa tiếp cận thị trường. Trong những năm tới quốc lộ N2 được xây dựng hoàn chỉnh sẽ là lợi thế rất lớn của huyện trong giao lưu trao đổi hàng hóa với các thị trường lớn tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế xã hội của huyện. Khí hậu tương đối ôn hòa, nền nhiệt cao đều trong năm thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi. Huyện có khu di tích lịch sử Gò Tháp và khu du lịch sinh thái vườn cò với diện tích trên 269,10 ha nơi chứa đựng nhiều giá trị lịch sử, văn hóa của dân tộc và nhân loại. Nơi đây có thể xây dựng thành khu du lịch sinh thái thu hút khách trong và ngoài nước. Mặc dù hàng năm lũ ngập 3 – 4 tháng, ảnh hưởng đến đời sống và sản xuất của nhân dân nhưng sau lũ đồng ruộng lại nhận được lương phù sa màu mỡ, tạo dinh dưỡng tốt cho cây trồng, mặt khác lũ cũng đem lại nguồn thủy sản tự nhiên dồi dào. - Khó khăn: Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông ngiệp có hướng phát triển đa dạng. Tuy nhiên việc sản xuất nông nghiệp còn phân tán, chất lượng, hiệu quả chưa cao, thị trường tiêu thụ bấp bênh và khả năng cạnh tranh trên thị trường kém. Việc chuyển giao khoa học - kĩ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp gặp nhiều khó khăn như: thiết bị, cây giống, trình độ… dẫn đến việc sản xuất nông nghiệp chưa đạt hiệu quả cao. Hệ thống thủy lợi tương đối hoàn chỉnh nhưng khi đi vào hoạt động thì vẫn chưa đạt hiệu quả do khâu quản lí không đồng bộ dẫn đến thường thiếu nước vào mùa khô. Việc sử dụng các hóa chất bảo vệ thực vật trong sản xuất nông nghiệp gây ra ô nhiễm môi trường, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng dân cư gây ra những thiệt hại không thể dự đoán được. Do địa hình thấp nên từ tháng 8 đến tháng 10 (âm lịch) khi nước lũ từ thượng nguồn ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long đổ về thì thường gây ra ngập lũ lục làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp, đe dọa đến tính mạng và tài sản của người dân trong huyện. Chưa khai thác tốt lợi thế với phát triển thủy sản mặt dù có diện tích mặt nước lớn. Vấn đề ô nhiễm môi trường không lớn, song cũng đã ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và sức khoẻ của nhân dân. Nghèo về tài nguyên khoáng sản. Địa chất công trình kém bền vững đòi hỏi xây dựng cơ sở hạ tầng phải đầu tư chi phí cao. 3.2. Quy trình thực hiện công tác giải tỏa, đền bù và tái định cư đất đai 3.2.1. Các bước thực hiện giải phóng mặt bằng: Theo Quyết định 29/2009/QĐ-UBND tỉnh Đồng Tháp có sơ đồ sau: Quy trình thực hiện Bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng. 3.2.2. Quy trình, thực hiện công tác giải tỏa, đền bù và tái định cư đất đai Theo quyết định 29/2009/QĐ-UBND ngày 23 tháng 12 năm 2009 của tỉnh quy định như sau: a) Bước 1: Kê khai, kiểm kê và xác định nguồn gốc đất. Thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của CP. Thời gian kê khai tối thiểu là năm (05) ngày kể từ ngày phát tờ kê khai (theo mẫu tại Phụ lục số 2). Thời gian tiến hành kiểm kê (mẫu kiểm kê quy định tại Phụ lục số 3) là 30 ngày làm việc đối với một dự án, trường hợp công trình có tính chất phức tạp hoặc khối lượng lớn thì thời gian kiểm kê có thể kéo dài hơn nhưng tối đa không quá 60 ngày làm việc. Trưởng công an cấp xã xác nhận số lượng nhân khẩu; Chi cục trưởng Chi cục Thuế cấp huyện xác nhận mức lợi nhuận sau thuế (đối với tổ chức, hộ gia đình có đăng ký kinh doanh), nghĩa vụ tài chính về đất đai phải nộp; Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác định nguồn gốc sử dụng đất, xác định các trường hợp được bồi thường, được hỗ trợ, được tái định cư trong thời gian không quá mười (10) ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị của Tổ chức làm nhiệm vụ bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. b) Bước 2: Lập, thẩm định và xét duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Thực hiện theo quy định tại Điều 24 và 25 của quy định này, được lập theo mẫu quy định tại Phụ lục số 4. c) Bước 3: Tổ chức lấy ý kiến, thời gian niêm yết, tiếp nhận ý kiến đóng góp và hoàn chỉnh phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Thực hiện theo quy định tại khoản 2, 3, 4 Điều 30 của của Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 9 năm 2009 của Chính phủ. Cơ quan ban hành quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư được quy định như sau: Trường hợp bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thực hiện thì CT Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư ký quyết định bồi thường; trường hợp bồi thường, hỗ trợ và tái định cư do Tổ chức phát triển quỹ đất thực hiện thì UBND cấp huyện nơi có đất thu hồi ký quyết định bồi thường. 3.3. Tình hình giải tỏa, đền bù đất đai hiện nay tại khu vực nghiên cứu 3.3.1. Phương án đền bù Theo báo cáo, trong tổng số các hộ được điều tra thì phương án đền bù bằng tiền cho đến nay vẫn là phương án được áp dụng phổ biến. Vì trên thực tế, quỹ đất phục vụ cho việc đền bù giải phóng mặt bằng và tái định cư của mỗi địa phương không giống nhau, đa số các địa phương quỹ đất công ích còn lại không đáng kể nên không đáp ứng được yêu cầu đền bù bằng đất và lập khu tái định cư. Mặt khác, với một số lượng lớn các hộ phải di chuyển để giải phóng mặt bằng có hộ diện tích đất thu hồi lớn nên việc đền bù cho họ một diện tích đất có cùng giá trị là rất khó. Vì vậy tỷ lệ đền bù bằng đất của các dự án ở nước ta rất thấp. Hầu hết địa điểm khu tái định cư và cơ sở hạ tầng khu tái định cư không thoả mãn yêu cầu của người bị thu hồi đất như không thể kinh doanh, buôn bán, cách xa trung tâm thị trấn, thị xã nên nhiều trường hợp người bị thu hồi đất lựa chọn phương án đền bù bằng tiền. Thực tế cho thấy chính sách đền bù bằng đất, đền bù bằng tiền chưa thật công bằng giữa các loại đất với nhau, giữa hộ gia đình với nhau và giữa 2 địa phương liền kề. Trong cùng một khu vực đền bù giải toả, nhiều nơi có sự phân biệt giữa 2 đối tượng sử dụng đất có ngành nghề khác nhau. Mức đền bù quá thấp giữa 2 đối tượng sử dụng đất có ngành nghề khác nhau. Mức đền bù quá thấp so với giá chuyển nhượng thực tế tại địa phương, tạo ra mức chênh lệch làm cho người dân cảm thấy bị thiệt thòi, đòi tăng tiền đền bù, không bàn giao mặt bằng theo kế hoạch, làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện dự án. 3.3.2. Chính sách hỗ trợ Một số địa phương chưa thực hiện chính sách hỗ trợ tuyển dụng, đào tạo việc làm cho cán bộ thuộc diện chính sách, mặc dù số hộ được hưởng chính sách rất cao. 58 Một số dự án có thực hiện chính sách đào tạo việc làm cho lao động bị thu hồi đất nông nghiệp song chất lượng đào tạo không đảm bảo trình độ tay nghề để làm việc ở các nhà máy. Tình trạng không có việc làm ở khu vực có dự án ngày càng cao, nhất là đối với dự án chiếm dụng đất nông nghiệp có quy mô lớn. Vì vậy, sự di dân tự do vào các thành phố lớn ngày càng nhiều, hậu quả lâu dài về mặt xã hội là điều để các cấp có thẩm quyền, chính quyền địa phương, tổ chức chính trị – xã hội quan tâm, có biện pháp giải quyết kịp thời. 3.3.3. Diện tích đất đền bù, giá đất đền bù Cách xác định hạn mức đất ở được đền bù so với quy định còn tuỳ tiện, không thống nhất giữa các địa phương và các dự án với nhau.. Do GCNQSDĐ là chứng thư pháp lý quan trọng trong việc xác định điều kiện được đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, nhưng công tác cấp GCNQSDĐ ở các địa phương còn rất chậm trễ đã gây không ít khó khăn cho công tác thu hồi, giải phóng mặt bằng. Bên cạnh đó tình trạng chung hiện nay là những quy định về tính hợp pháp của thửa đất đang được điều chỉnh theo hướng giảm dần các căn cứ pháp lý. Vì vậy, để giải phóng mặt bằng kịp tiến độ, nhiều địa phương đã phải thừa nhận và thoả thuận đền bù cho các trường hợp không có đủ căn cứ pháp lý về quyền sử dụng đất. Công tác định giá đất ở các địa phương hiện nay chủ yếu được tính bằng giá đất được UBND tỉnh quy định và công bố ngày 01 tháng 01 hàng năm của thửa đất được thu hồi.Vì vậy, phương pháp xác định giá đền bù ở mỗi địa phương được người dân đồng tình ủng hộ. Nhiều dự án đền bù cho một số công trình, cây cối, hoa màu cao hơn giá thị trường. Hiện nay chưa có quy định cụ thể về cách thức tính giá trị thiệt hại thực tế cho nhà và công trình kiến trúc. 3.3.4. Đền bù về tài sản, cây cối, hoa màu gắn liền với đất bị thu hồi Trên cơ sở chính sách đền bù và tái định cư của Nhà nước, cách xác định phương án đền bù tài sản gắn liền với đất của các địa phương được người dân đồng tình ủng hộ. Việc ban hành quyết định 08/2008/QĐ-UBND của UBND tỉnh Đồng Tháp về việc quy định về giá bồi thường cây trồng, vật nuôi, chi phí di dời mồ mả khi Nhà nước thu hồi trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp cũng đem lại hiệu quả cho công tác đền bù giải phóng mặt bằng cho người dân được công bằng và hợp lý. Không còn tình trạng có những dự án đền bù cho một số công trình, cây cối, hoa màu cao hơn giá thị trường. Nhưng hiện nay chưa có quy định cụ thể về cách tính giá trị thiệt hại thực tế cho nhà và công trình kiến trúc. 3.3.5. Tái định cư và cơ sở hạ tầng khu tái định cư Về chính sách này, những năm vừa qua cho thấy: việc xây dựng các khu tái định cư của các dự án rất bị động, thiếu đồng bộ nhất là các dự án thuộc nguồn vốn Trung ương, trong đó tồn tại lớn nhất là cơ sở hạ tầng khu tái định cư không được đầu tư theo quy định hoặc đầu tư nửa vời. Các dự án thiếu biện pháp khôi phục nguồn thu nhập tại nơi ở mới cho người được bố trí tái định cư. Các công trình xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất phương án đền bù, tái định cư do chủ dự án lập, Hội đồng giải phóng mặt bằng chỉ tham gia với tư cách tư vấn vì vậy trách nhiệm của chính quyền địa phương thường không cao và là nguyên nhân làm giảm hiệu lực pháp luật của các chính sách đền bù và tái định cư ảnh hưởng đến tiến độ giải phóng mặt bằng. Nguồn đất xây dựng các khu tái định cư ở các đô thị loại I và loại II rất hiếm, có sự chênh lệch lớn về các dịch vụ xã hội, những hộ sống bằng nghề buôn bán thì hầu hết không lựa chọn phương án đổi đất lấy đất. Còn ở khu dân cư nông thôn, việc thu hồi đất ảnh hưởng đến tập quán sinh hoạt của người dân, đất giao mới có quy mô diện tích như hiện nay không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp của người dân như: nhà phải có sân chơi, gần gũi với họ hàng, đi lại thuận tiện… Vì vậy, cần quy định rõ thêm dự án nào có khu tái định cư và quy trình thẩm định kế hoạch tái định cư cụ thể giúp cho người bị thu hồi đất không thiệt thòi và ổn định cuộc sống sau khi giải toả. 3.3.6. Trình độ hiểu biết của người dân về pháp luật đất đai và đền bù giải phóng mặt bằng. Công tác phổ biến pháp Luật Đất đai năm 2003 và chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng và tái định cư của Hội đồng đền bù cho người bị thu hồi đất ở các địa phương tính theo mặt bằng chung tỉ lệ không cao. Phần lớn người dân rất quan tâm đến chính sách đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng nhưng công tác tuyên truyền chính sách này ở các địa phương còn rất hạn chế. Ở những vùng có trình độ dân trí cao thì ở đó kiến thức hiểu biết pháp luật, việc chấp hành các quy định của luật nghiêm minh và công tác giải phóng mặt bằng đạt tiến độ và hiệu quả so với kế hoạch. Ngược lại, đối với vùng nông thôn do không có điều kiện tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật, mặt bằng dân trí thấp, người dân không đủ trình độ học tập tiếp thu chính sách pháp luật của Nhà nước. 3.4. Kết quả công tác bồi thường,hổ trợ và tái định cư ở huyện Tháp Mười. 3.4.1. Phương án cụ thể Lập Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng: Theo theo điều 24 Quyết định 29/2009/QĐ-UBND tỉnh Đồng Tháp như sau: Bất kỳ công trình giải phóng mặt bằng nào cũng phải thành lập hội đồng đề bù thiệt hại đất đai, nhà cửa, kiến trúc, hoa màu,... trong đó bao gồm: Về nhân sự trong Hội đồng đối với các dự án huyện Chủ tịch Hội đồng: Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện. Phó Chủ tịch Hội đồng: Lãnh đạo phòng Tài nguyên và Môi trường huyện. Uỷ viên thường trực: Chủ đầu tư. Các uỷ viên: Đại diện Phòng Tài chính - Kế hoạch; đại diện Phòng Công Thương đối với các huyện, Phòng Quản lý Đô thị đối với thị xã, thành phố; đại diện Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi; đại diện những hộ gia đình có đất bị thu hồi từ một đến hai người. Các thành viên khác do Chủ tịch Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định mời đại diện một số cơ quan tham dự: Mặt trận Tổ quốc, tổ chức đoàn thể và các cơ quan khác có liên quan. . Trách nhiệm của Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư giúp Uỷ ban nhân dân huyện lập và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư; Hội đồng làm việc theo nguyên tắc tập thể và quyết định theo đa số; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Chủ tịch Hội đồng. Trách nhiệm của các thành viên Hội đồng: Chủ tịch Hội đồng chỉ đạo các thành viên Hội đồng lập, trình duyệt và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. Chủ đầu tư có trách nhiệm giúp Chủ tịch Hội đồng lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; bảo đảm đầy đủ kinh phí để chi trả kịp thời tiền bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư. Đại diện những người bị thu hồi đất có trách nhiệm: phản ánh nguyện vọng của người bị thu hồi đất, người phải di chuyển chỗ ở; vận động những người bị thu hồi đất thực hiện di chuyển, giải phóng mặt bằng đúng tiến độ. Các thành viên khác thực hiện các nhiệm vụ theo sự phân công và chỉ đạo của Chủ tịch Hội đồng phù hợp với trách nhiệm của ngành. Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chịu trách nhiệm về tính chính xác, hợp lý của số liệu kiểm kê, tính pháp lý của đất đai, tài sản được bồi thường, hỗ trợ hoặc không được bồi thường, hỗ trợ trong phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. 3.4.2. Phương án chi tiết bồi thường, hỗ trợ và tái định cư: Công trình: Bờ bao Bắc Cây Vông – Đông Sư Phạm. 1 Khái quát chung 1.1 Tên, địa điểm dự án: Tên công trình: Bờ bao Bắc Cây Vông – Đông Sư Phạm. Chủ đầu tư: Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Tháp mười. Địa điểm: Xã Hưng Thạnh, Huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp. 1.2 Nguồn vốn và thời gian thực hiện dự án. Nguồn vốn bồi thường: Ngân sách nhà nước Thời gian thưc hiện dự án: năm 2011 1.3 Căn cứ thu hồi đất. Căn cứ Quyết định số 134/QĐ-UBND ngày 20/5/2011 của UBND huyện Tháp Mười về việc Phê duyệt báo cáo kinh tế kỹ thuật xây dựng công trình Bờ Bao Bắc Cây Vông – Đông Sư Phạm 1.4 Phạm vi, khối lượng GPMB: a Phạm vi thu hồi. Tổng diện tích đất thu hồi: 25.324m2. Trong đó: + Diện tích đất ở: 120 m2 + Diện tích đất lúa: 25.224 m2 b Khối lượng giải phóng mặt bằng Tổng số hộ dân có đất bị thu hồi là 7 hộ. Trong đó không có hộ nào bị thu hồi hết đất. Tổng số hộ có nhà bị di dời là 10 hộ. Trong đó có nhà và có đất phải di dời là 2 hộ, có nhà nhưng không có đất phải di dời là 8 hộ. Tổng số hộ có đất nhưng không phải di dời nhà là 5 hộ. 1.5 Căn cứ chính sách bồi thường hỗ trợ và tái định cư. Nghị định 197/2004/NĐ-CP, ngày 29/10/2004 của Chính phủ, Nghị định của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất Nghị định 69/2009/NĐ-CP, ngày 13/08/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư. Thông tư 14/2009/TT-BTNMT ngày 01/10/2009 của Bộ Tài nguyên Môi trường quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất Quyết định 15/2010/QĐ-UBND, Quyết định ban hành quy định về Bảng giá chuẩn nhà và vật kiến trúc xây dựng mới áp dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Quyết định số 09/2011/QĐ-UBND ngày 07 tháng 4 năm 2011 của UBND tỉnh Đồng Tháp vể việc bổ sung một số nội dung của Quy định bảng giá chuẩn nhà và vật kiến trúc xây dựng mới áp dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp ban hành kèm theo Quyết định 15/2010/QĐ-UBND ngày 14 tháng 6 năm 2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Quyết định 39/2010/QĐ- UBND ngày 28 tháng 12 năm 2010 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. 2 Mức bồi thường hỗ trợ 2.1 Mức bồi thường hỗ trợ cụ thể như sau: a Bồi thường về đất: Khái quát nguồn gốc đất: Trong số 7 hộ thu hồi đất thì tất cả điều có GCNQSDĐ. Đối tượng: Đất được cấp giấy CNQSDĐ nhưng đất tự khai mở, sử dụng ổn định có trước ngày 15/10/1993 được chính quyêng địa phương xác nhận là không tranh chấp. Mục đích: Bồi thường theo mục đích được ghi trên GCNQSDĐ thì được tính mục đích theo hiện trạng sử dụng.. Đơn giá bồi thường đất Căn cứ theo Quyết định 39/2010/QĐ-UBND ngày 28 tháng 12 năm 2010 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định giá các loại đất trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Áp dụng theo quyết định số 29/2009/QĐ-UB ngày 23 tháng 12 năm 2009 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh. Căn cứ theo biên bân thống nhất giá bồi thường đất tại buổi họp dân ngày 24 tháng tư năm 2011 tại UBND xã Hưng Thạnh huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp. Cụ thể gia bồi thường như sau: Đất lúa tại II vị trí 2 bồi thường theo giá quy định 28.000 đồng/m2. Đất ở nông thôn tại II vị trí 1 bồi thường theo giá quy định 70.000 đồng/m2 b Mức hỗ về đất Căn cứ Quyết định 29/2009/QĐ-UBND ngày 23/12/2009 quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Căn cứ theo biên bân thống nhất giá bồi thường đất tại buổi họp dân ngày 24 tháng tư năm 2011 tại UBND xã Hưng Thạnh huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp. Mức hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp được tính theo thỏa thuận như sau: Đất lúa: 40.000 đồng/m2 – 28.000 đồng/m2 (tương dương 0.429 lần ) quy định hiện hành là 3 lần. c Bồi thường hỗ trợ về tài sản. Căn cứ Quyết định 15/2010/QĐ-UBND, Quyết định ban hành quy định về Bảng giá chuẩn nhà và vật kiến trúc xây dựng mới áp dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp. Căn cứ Quyết định số 09/2011/QĐ-UBND ngày 07 tháng 4 năm 2011 của UBND tỉnh Đồng Tháp vể việc bổ sung một số nội dung của Quy định bảng giá chuẩn nhà và vật kiến trúc xây dựng mới áp dụng trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp ban hành kèm theo Quyết định 15/2010/QĐ-UBND ngày 14 tháng 6 năm 2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Công trình bờ bao Bắc Cây Vông – Đông Sư Phạm là công trình nhà nước và nhân dân cùng làm nên nhà ở chỉ là hỗ trợ di dời. Chỉ bồi thường những tài sản, vật kiến trúc xây dụng kiên cố phải đập bỏ không di dời được. 2.2 Mức hỗ trợ. a Hỗ trợ di chuyển. Di chuyển trong phạm vi tỉnh: Nhà ở có diện tích 15m2 trở xuống hỗ trợ 1.000.000 đồng/hộ. Nhà ở có diện tích trên 15m2 đến 30m2 hỗ trợ 2.000.000 đồng/hộ Nhà ở có diện tích trên 30m2 đến 45m2 hỗ trợ 3.000.000 đồng/hộ Nhà ở có diện tích trên 45m2 hỗ trợ 5.000.000 đồng/hộ Di chuyển chổ ở sang tỉnh khác hỗ trợ 6.000.000 đồng/hộ. b Hỗ trợ khác: Hỗ trợ di dời đồng hồ điện (phải di dời đi nơi khác): 600.000 đồng/cái. Hỗ trựo di dời điện thoại: 200.000 đồng/cái. Hỗ trợ di dời đồng hồ nước: 300.000 đồng/cái. Hỗ trợ di dời giếng khoan tay: 1.500.000 đồng/cái. 2.3 Giá trị bồi thường, hỗ trợ cho hộ gia đình cá nhân; a Số hộ bồi thường, hỗ trợ: 15 hộ. b Tổng giá trị bồi thường hỗ trợ: 1.141.387.720 đồng. Trong đó: Bồi thường đất: 741.112.000 đồng (25.324m2): Đất LUC: 25.204 x 28.000 đồng/m2 = 705.712.000 đồng Đất ONT: 120 x 70.000 đồng/m2 = 8.400,000 đồng Hỗ trợ về đất (chuyển đổi nghề nghiệp): 302.448.000 đồng (25.204m2). trong đó: Đất LUC: 25.224 x 12.000 đồng/m2 = 302.448.000 đồng Bồi thường về tài sản, VKT: 124.827.720 đồng. Trong đó: Bồi thường tài sản: 86.227.720 đồng Hỗ trợ di dời nhà: 38.000.000 đồng Hỗ trợ di dời đồng hồ điện: 600.000 đồng c Chi phí thực thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư GPMB 3%: 34.241.632 đồng. Tổng giá trị của dự án: (2+3) (làm tròn) = 1.175. 629.000 đồng. 3 Chính sách tái định cư Do đây là công trình đê bao nhà nước và nhân dân cùng làm nên phương án chỉ bồi thường về đất và hỗ trợ di dời nhà nên không hỗ trợ tái định cư. 3.4.3. Các công trình bồi thường m hỗ trợ và tái định cư tính đến hết tháng 8 năm 2011 được thực hiện tại huyện Tháp Mười năm 2011. 1 Công trình Trường tiểu học Thạnh Lợi, xã Thạnh Lợi. 2 Công trình Trương tiểu hoc Mỹ An 2 (xã điểm chính), xã Mỹ An. 3 Công trình Bờ bao Bắc kênh Bảy Thước, xã Mỹ An. 4 Công trình Đường Lê Hồng Phong, Thị trấn Mỹ An. 5 Công trình Cầu BOT Thanh Mỹ, xã Thanh Mỹ. 6 Công trình Bờ bao Bắc Cây Vông – Đông Sư Phạm, Xã Hưng Thạnh. 7 Công trình Bờ bao kênh Đường Thét – kênh Nhà Báo, xã Hưng Thạnh. 3.4.4. Những thuận lợi trong công tác đền bù giải toả. Quyết định số 29/2009/QĐ-UBND đã cụ thể hóa các quy định mà CP đã giao thẩm quyền cho UBND tỉnh như: hỗ trợ di chuyển (Điều 18 của NĐ 69/2009/NĐ-CP và Điều 12 của QĐ 29/2009/QĐ-UBND), hỗ trợ tái định cư (Điều 19 của NĐ 69/2009/NĐ-CP Điều 13 của QĐ 29/2009/QĐ-UBND), hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất (Điều 20 của NĐ 69/2009/NĐ-CP - Điều 14 của QĐ 29/2009/QĐ-UBND), hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư và đất vườn ao không được công nhận là đất ở (Điều 21 của NĐ 69/2009/NĐ-CP - Điều 15 của QĐ 29/2009/QĐ-UBND), hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm (Điều 22 của NĐ 69/2009/NĐ-CP - Điều 16 của QĐ 29/2009/QĐ-UBND) và các hỗ trợ khác (Điều 23 của NĐ 69/2009/NĐ-CP - Điều 20 của QĐ 29/2009/QĐ-UBND). Qua đó địa phương đã áp dụng đúng các quy định của UBND tỉnh để lập phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư tạo sự đồng thuận cao cho người bị thu hồi đất. 3.4.5. Những vướng mắc, khó khăn trong công tác đền bù giải toả 3.4.5.1 Về hỗ trợ tái định cư (quy định tại Điều 13 của Quyết định 29/2009/QĐ-UBND tỉnh Đồng Tháp). Đối với hộ gia đình, cá nhân được bố trí tái định cư nếu nhận đất ở tái định cư mà số tiền được bồi thường, hỗ trợ nhỏ hơn giá trị một suất tái định cư tối thiểu thì được hỗ trợ khoản chênh lệch đó, trường hợp không nhận đất ở tại khu tái định cư thì được nhận bằng khoản tiền chênh lệch đó; trường hợp tự lo chổ ở (trừ trường hợp đã nhận hỗ trợ khoản chênh lệch suất tái định cư tối thiểu) thì đuợc hỗ trợ một khoản tiền bằng suất đầu tư hạ tầng tại khu tái định cư tập trung. Theo quy định tại Quyết định 29/2009/QĐ-UBND thì suất tái định cư tối thiểu được tính bằng đơn giá giao đất tái định cư tại vị trí có giá thấp nhất trong khu tái định cư (giá đất ở do UBND tỉnh quy định và công bố tại thời điểm thu hồi đất, trường hợp tại thời điểm thu hồi đất mà tại vị trí nền TĐC, UBND tỉnh chưa quy định giá đất thì xác định lại giá) x 90m2 ( nếu được bố trí 01 nền TĐC) x 180m2 ( nếu được bố trí 02 nền TĐC). Tuy nhiên, theo thực tế thì diện tích nền tái định cư có thể nhỏ hoặc lớn hơn diện tích quy định hỗ trợ suất tái định cư tối thiểu (nhỏ hoặc lớn hơn 90m2), do nền tái định cư trong thực tế có nhiều diện tích khác nhau mà Quyết định 29/2009/QĐ-UBND chưa có hướng dẫn cụ thể đối với các trường hợp này dẫn đến khó xác định được giá trị chênh lệch để tính mức hỗ trợ. 3.4.5.2 Về hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất (quy định tại Điều 14 của Quyết định 29/2009/QĐ-UBND tỉnh Đồng Tháp). - Về đối tượng được hỗ trợ: do định nghĩa hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp theo khoản 1 Điều 14 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT do Bộ Tài nguyên và Môi trường không quy định chi tiết cho địa phương thực hiện, dẫn đến chưa thống nhất trong cách hiểu là trực tiếp sản xuất trên diện tích đất nông nghiệp hay hộ gia đình, cá nhân có nguồn sống chủ yếu bằng nông nghiệp (do UBND cấp xã nới có đất bị thu hồi xác nhận) nên còn xảy ra trường hợp hỗ trợ chưa đúng đối tượng hoặc UBND cấp xã không xác nhận đối với những trường hợp chủ sử dụng đất cho người khác thuê, không trực tiếp canh tác. - Về xác định tổng diện tích đất nông nghiệp: Tổng diện tích đất nông nghiệp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng (kể cả diện tích đất nông nghiệp do nhận chuyển nhượng) theo hướng dẫn tại Công văn số 012/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 06 tháng 10 năm 2010 của BTNMT về việc giải quyết một số vướng mắc trong thi hành pháp luật về đất đai thì việc xác định tổng diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng và không khống chế theo đơn vị hành chính xã hay huyện. Như vậy, việc xác định rất khó khăn đối với những hộ gia đình, cá nhân có nhiều diện tích đất nông nghiệp trên địa bàn nhiều xã, nhiều huyện hoặc thậm chí trên các tỉnh, hoặc người thân đứng tên do đó dẫn đến không phản ánh đúng tỷ lệ thu hồi đất nông nghiệp làm cơ sở tính mức hỗ trợ. - Về công tác xác nhận nhân khẩu và nghề nghiệp: Theo quy định tại Quyết định 29/2009/QĐ-UBND thì việc xác nhận nhân khẩu, nghề nghiệp do công an xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi đất xác nhận. Tuy nhiên, Công an xã, phường chỉ quản lý đối với các nhân khẩu tại địa phương, không quản lý nghề nghiệp và nhân khẩu đối với các hộ xâm canh từ địa phương khác có đất thuộc phạm vi thu hồi dự án nên không xác nhận nhân khẩu đối vơi các hộ xâm canh này. Do đó tổ chức lập phương án bồi thường không tính mức hỗ trợ cho các hộ này được dẫn đến tình trạng khiếu nại phải lập phương án điều chỉnh, bổ sung nhiều lần. 3.4.5.3 Về hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư và đất vườn, ao không được công nhận là đất ở (quy định tại Điều 15 của Quyết định 29/2009/QĐ-UBND) Đối với đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở trong khu dân cư, ngoài việc bồi thường đất nông nghiệp trông cây lâu năm còn được hỗ trợ 50% giá đất ở cùng vị trí với thửa đất vườn, ao bị thu hồi theo giá đất do UBND tỉnh quy định và công bố vào ngày 01 tháng 01 hàng năm; đối với đất nông nghiệp trong địa giới hành chính phường, trong khu dân cư thị trấn, khu dân cư nông thôn, thửa đất nông nghiệp tiếp giáp với ranh giới tường, ranh giới khu dân cư thì ngoài việc được bồi thường theo giá đất nông nghiệp còn được hỗ trợ 50% giá đất ở trung bình của khu vực có đất bị thu hồi. Trong quá trình thực hiện xác định giá đất ở trung bình của khu vực có đất bị thu hồi còn nhiều bất cập do một số dự án thu hồi đất không có đất ở hoặc có đất ở chưa đại diện được giá đất trung bình, một số trường hợp dự án tiếp giáp nhiều vị trí có giá đất ở khác nhau… do đó gặp khó khăn trong việc xác định giá đất ở trung bình chưa có sự thống nhất, còn nhiều cách hiểu khác nhau. Theo hướng dẫn tại Công văn số 10/BTNMT-TCQLĐĐ ngày 29/01/2010 của BTNMT hướng dẫn trường hợp khu vực thu hồi đất không có đất ở thì giá đất ở trung bình được xác định theo nguyên tắc trung bình cộng các mức giá đất ở trong bảng giá đất do UBND tỉnh ban hành của xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi. Tuy nhiên chưa áp dụng trong thực tế được do đặc thù của tỉnh là xây dựng bảng giá đất ở theo tiêu chí phân đọan đường theo khả năng sinh lợi nên còn gặp khó khăn trong việc xác định giá đất ở trung bình của toàn địa bàn xã, phường, thị trấn nơi có đất bị thu hồi làm cơ sở xác định giá đất ở trung bình để hỗ trợ. Mặt khác, việc khống chế diện tích hỗ trợ (1.000 m2 đối với đất đô thị và 2.000 m2 đối với đất nông thôn) gây thiệt thòi đối với những người dân có đất bị thu hồi nhiều. Dẫn đến việc một số hộ dân tự ý tách thửa để được hưởng mức hỗ trợ đối với phần diện tích vượt quá hạn mức quy định gây khó khăn trong công tác quản lý đất đai. 3.4.5.4 Về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm (quy định tại Điều 16 của Quyết định 29/2009/QĐ-UBND). - Về đối tượng được hỗ trợ: do định nghĩa hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp theo khoản 1 Điều 14 Thông tư số 14/2009/TT-BTNMT của BTNMT không quy định chi tiết cho địa phương thực hiện, dẫn đến chưa thống nhất trong cách hiểu là trực tiếp sản xuất trên diện tích đất nông nghiệp hay hộ gia đình, cá nhân có nguồn sống chủ yếu bằng nông nghiệp (do UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận) nên còn xảy ra trường hợp hỗ trợ chưa đúng đối tượng hoặc UBND cấp xã không xác nhận đối với những trường hợp chủ sử dụng đất cho người khác thuê. - Về mức hỗ trợ: đối với tỉnh Đồng Tháp quy định mức hỗ trợ 03 lần giá đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi nhưng tối đa không vượt quá 03 ha. Với mức hỗ trợ này đa số người dân bị thu hồi đất nông nghiệp đều đồng thuận (bình quân bồi thường 1mét vuông đất nông nghiệp khoảng 160.000 đồng đến 200.000 đồng) trong khi theo quyết định số 39/2010/QĐ-UBND thì giá đất ở nông thôn khu vực 1, 2, 3 bình quân khoảng 150.000 đồng đây chính là đều bất hợp lý giữa giá bồi thường đối với đất nông nghiệp và giá đất ở vì trên thực tế giá trị đất ở bao giờ cũng cao hơn giá trị đất nông nghiệp cùng khu vực, vị trí thể hiện qua việc khi chuyển mục đích từ đất nông nghiệp và đất khác sang đất ở phải nộp tiền chuyển mục đích sử dụng đất. Bên cạnh đó, diện tích bị khống chế mức hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm (không quá 3 ha) cao hơn nhiều so với diện tích bị khống chế mức hỗ trợ đối với đất nông nghiệp trong khu dân cư và đất vườn, ao không được công nhận là đất ở (1.000 m2 đối với đất đô thị và 2.000 m2 đối với đất nông thôn) càng làm cho việc khiếu nại, so bì giữa các hộ dân gay gắt hơn. Mặt khác, với mức bồi thường và hỗ trợ theo tinh thần Nghị định số 69/2009/NĐ-CP và Quyết định số 29/2009/QĐ-UBND thì ngân sách của địa phương không đảm bảo thu hồi đất để thực hiện các dự án công trình công cộng, lợi ích quốc gia, phát triển kinh tế. Hiện nay, tỉnh không có sẵn quỹ đất dự trữ để kêu gọi đầu tư, hầu hết tất cả các dự án đều ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐề tài Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại một số dự án trên địa bàn huyện Tháp Mười tỉnh Đồng Tháp ..doc
Tài liệu liên quan