Tài liệu Đề tài Đánh giá tình hình hoạt động PR trong chiến lược thương hiệu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long: TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài :
Đánh giá tình hình hoạt động PR trong chiến lược thương hiệu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long
GVHD : Ths. LÊ ĐÌNH THÁI
SVTH : LÊ THỊ PHƯƠNG MAI
MSSV : 105401131
Lớp : 05DQN
TP. Hồ Chí Minh tháng 10 / 2009
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
....................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
85 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá tình hình hoạt động PR trong chiến lược thương hiệu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA QUẢN TRỊ KINH DOANH
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Đề tài :
Đánh giá tình hình hoạt động PR trong chiến lược thương hiệu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long
GVHD : Ths. LÊ ĐÌNH THÁI
SVTH : LÊ THỊ PHƯƠNG MAI
MSSV : 105401131
Lớp : 05DQN
TP. Hồ Chí Minh tháng 10 / 2009
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
...............................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
Lời cảm ơn
Trong suốt thời gian thực tập và bảo vệ Luận văn tốt nghiệp, với sự chỉ bảo tận tình của các thầy cô giáo và sự quan tâm, luôn tạo mọi điều kiện tốt của các anh chị hiện công tác tại Ngân Hàng thương mại cổ phần Kiên Long, em đã được tiếp xúc, học hỏi với công việc thực tế và hoàn thành tốt Luận văn tốt nghiệp..
Em xin gửi lời cảm ơn đến toàn thể quý thầy cô Khoa Quản trị kinh doanh, đặc biệt là thầy Lê Đình Thái đã tận tình hướng dẫn để em hoàn thành tốt chuyên đề này. Kính chúc quý thầy cô dồi dào sức khỏe để giảng dạy tốt.
Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám Đốc, và các anh chị Phòng Tiếp thị Ngân Hàng thương mại cổ phần Kiên Long đã tạo điều kiện, hướng dẫn để em có thể hoàn thành tốt chuyên đề. Kính chúc các anh chị luôn thành công trong công việc và đạt được những chỉ tiêu đã đặt ra trong năm nay.
Lời mở đầu
Dịch vụ ngân hàng được dự báo sẽ là lĩnh vực cạnh tranh rất khốc liệt khi vòng bảo hộ cho ngân hàng thương mại trong nước không còn. Đến năm 2010, nước ta thực hiện mở cửa hoàn toàn thị trường dịch vụ ngân hàng; loại bỏ căn bản các hạn chế tiếp cận thị trường dịch vụ ngân hàng trong nước, các giới hạn hoạt động ngân hàng (qui mô, tổng số dịch vụ ngân hàng được phép…) đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài, thực hiện đối xử công bằng giữa tổ chức tín dụng trong nước và tổ chức tín dụng nước ngoài
Trong giai đoạn hậu WTO hiện nay, các ngân hàng muốn tồn tại, đứng vững và tạo lập niềm tin đối với người tiêu dùng thì vấn đề không chỉ ở lãi suất, chất lượng dịch vụ mà thương hiệu ngân hàng cũng là một yếu tố sống còn không kém phần quan trọng.
Để xây dựng một thương hiệu mạnh, các ngân hàng thường sử dụng các công cụ chiêu thị như Quảng cáo, Khuyến mại, Quan hệ công chúng, Marketing trực tiếp. Nhưng ngày nay, khách hàng có xu hướng bỏ qua và ít chú ý đến các mẫu quảng cáo, còn khuyến mại chỉ thực sự có hiệu quả khi kết hợp với các công cụ còn lại. Như vậy, chỉ có công cụ PR thực sự đem lại hiệu quả. Tuy nhiên, vai trò của PR trong quảng bá thương hiệu lại chưa được xem trong và đầu tư đúng mức.
Xây dựng thương hiệu mạnh cũng là mục tiêu của Ngân hàng TMCP Kiên Long. Ngân hàng Kiên Long là một ngân hàng quy mô nhỏ, đang trong giai đoạn quảng bá thương hiệu. Thương hiệu KienlongBank là thương hiệu đi tiên phong trong ngành ngân hàng Việt Nam đề cao việc bảo vệ môi trường và cải thiện, nâng cao đời sống cộng đồng. Hiện nay, ngân hàng cũng đang sử dụng các công cụ chiêu thị trên, đặc biệt là công cụ PR. Tuy nhiên, việc sử dụng công cụ này cũng như kết hợp với các công cụ chiêu thị khác chưa đem lại hiệu quả cao.
Chính vì vai trò ngày càng quan trọng của PR trong quảng bá thương hiệu nên em đã chọn đề tài: “Đánh giá tình hình hoạt động PR trong chiến lược thương hiệu tại Ngân hàng Kiên Long”.
Như đã đề cập ở trên, đối tượng nghiên cứu ở đây là hoạt động Quan hệ công chúng trong chiến lược thương hiệu tại ngân hàng Kiên Long.
Mục tiêu nghiên cứu: Nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động PR trong chiến lược thương hiệu. Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động PR trong hoạt động quảng bá thương hiệu tại Ngân hàng Kiên Long, từ đó đề ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động PR tại ngân hàng.
Đề tài chủ yếu dùng phương pháp phân tích hệ thống, thống kê, so sánh. Do những hạn chế khách quan mang tính ngành nghề nên đề tài sử dụng chủ yếu phương pháp điều tra phân tích. Tuy nhiên, việc vận dụng phương pháp phân tích không có nghĩa mang nặng tính lý thuyết mà cách tiếp cận và giải quyết vấn đề dựa trên tính logic của hiện tượng kinh tế, các quy luật kinh tế và các lý thuyết kinh tế để suy luận.
Nội dung nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu được trình bày thành 3 phần
Phần một: Cơ sở lý luận
Phần hai: Đánh giá tình hình hoạt động PR trong chiến lược thương hiệu tại Ngân hàng Kiên Long
Phần ba: Các giải pháp cho doanh nghiệp và một số kiến nghị đối với Nhà nước Việt Nam.
Phần một
Cơ sở lý luận
1. Khái quát về thương hiệu
Theo hiệp hội marketing Mỹ, thương hiệu là một cái tên, một từ ngữ, một dấu hiệu, một biểu tượng, một hình vẽ hay tổng hợp tất cả các yếu tố trên nhằm xác định một sản phẩm hay dịch vụ của một hay một nhóm người bán và phân biệt các sản phẩm hay dịch vụ đó với đối thủ cạnh tranh. Thương hiệu là tài sản vô hình, vô giá của doanh nghiệp. Người tiêu dùng nhận biết nguồn gốc của sản phẩm thông qua thương hiệu.
Khái niệm thương hiệu ngân hàng cũng có nội dụng tương tự như trên: thương hiệu của ngân hàng là một cái tên, từ ngữ, ký hiệu, biểu tượng, hoặc hình vẽ, kiểu thiết kế,… hoặc tập hợp của các yếu tố trên nhằm xác định hoặc phân biệt sản phẩm và dịch vụ của một ngân hàng, hoặc một tập đoàn ngân hàng, hoặc một hệ thống ngân hàng này với sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng khác, của đối thủ cạnh tranh. Đó cũng là biểu tượng, danh tiếng, tính đặc thù riêng về sản phẩm và dịch vụ của một ngân hàng trên thị trường trong và ngoài nước.
2. Tầm quan trọng của thương hiệu đối với ngân hàng
Hiện nay theo các đánh giá của các chuyên gia và doanh nhân thành công, chính thương hiệu là điều tạo nên sự khác biệt cho các doanh nghiệp trong điều kiện cạnh tranh vì khách hàng ngày nay không mua sản phẩm, dịch vụ mà mua thương hiệu và sẵn lòng trả giá cao hơn cho “hàng hiệu” so với các sản phẩm, dịch vụ tương đương.
Đối với ngân hàng, thương hiệu được xem là một công cụ, phương tiện để:
Ngân hàng được nhận diện và tạo sự khác biệt. Đây là vai trò rất đặc trưng và quan trọng của thương hiệu. Thông qua thương hiệu, khách hàng có thể dễ dàng phân biệt sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng này so với ngân hàng khác. Mỗi sản phẩm mang thương hiệu khác nhau sẽ đưa ra những thông điệp khác nhau dựa trên những dấu hiệu nhất định nhằm đáp ứng những nhu cầu của khách hàng. Khi các sản phẩm, dịch vụ càng phong phú, đa dạng thì chức năng phân biệt càng trở nên quan trọng. Mọi dấu hiệu gây khó khăn khi phân biệt sẽ làm giảm uy tín và cản trở sự phát triển của thương hiệu.
Giúp khắc sâu hình ảnh của ngân hàng vào đầu óc người tiêu dùng. Khi nhắc đến ngân hàng thì khách hàng sẽ nghĩ ngay đến tên gọi cũng như những dấu hiệu đặc trưng của ngân hàng mà họ biết nhiều nhất.
Mang lại tính nhận biết và lòng trung thành đồng thời củng cố lòng tự hào cho khách hàng khi sử dụng sản phẩm của ngân hàng. Một thương hiệu có đẳng cấp, đã được chấp nhận sẽ tạo ra một sự tin cậy đối với khách hàng và khách hàng sẽ trung thành với thương hiệu và dịch vụ đó. Chất lượng hàng hóa, dịch vụ là yếu tố quyết định lòng trung thành của khách hàng, nhưng thương hiệu là động lực cực kỳ quan trọng đế giữ chân khách hàng ở lại với hàng hóa, dịch vụ đó và là địa chỉ để người tiêu dùng đặt lòng tin.
Gia tăng hình ảnh của ngân hàng về quy mô, nâng cao hình ảnh của sản phẩm do ngân hàng cung cấp về chất lượng. Khách hàng luôn nghĩ rằng: đã là một ngân hàng có thương hiệu mạnh thì tất nhiên phải có năng lực tài chính mạnh, quy mô lớn. Và các sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao thì mọi người mới tin dùng thương hiệu đó.
Tạo điều kiện cho ngân hàng thâm nhập thị trường và cung cấp các chủng loại sản phẩm mới. Khi thương hiệu đã trở nên quen thuộc với khách hàng thì việc chấp nhận các sản phẩm, dịch vụ mới của ngân hàng sẽ trở nên dễ dàng hơn. Khách hàng đặt niềm tin vào thương hiệu và cũng không tìm hiểu, kiểm tra thông tin quá khắt khe về sản phẩm mới đó.
Tăng tính hấp dẫn đối với nguồn nhân lực tài năng. Thương hiệu mạnh giúp nhân viên tự tin vào công ty, tự hào khi được tham gia vào việc tạo ra các sản phẩm, dịch vụ chất lượng tốt và đóng góp cho sự phát triển của công ty. Vì vậy, điều đó giúp họ gắn bó và nhiệt tình hơn trong công việc.
Gia tăng khả năng thu hút các nhà đầu tư vào ngân hàng. Khi đã mang thương hiệu nổi tiếng, các nhà đầu tư sẽ không còn e ngại khi đầu tư vào ngân hàng và cổ phiếu của ngân hàng. Điều này sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho ngân hàng trong kinh doanh, góp phần giảm giá thành sản phẩm và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và doanh nghiệp.
Bán sản phẩm, dịch vụ của mình với giá cao hơn so với các ngân hàng khác. Khách hàng sẵn sàng trả một khoản tiền lớn hơn để đổi lấy sự an toàn, tin cậy, uy tín của ngân hàng.
Đối với khách hàng, thương hiệu có thể được sử dụng để:
Xác định nguồn gốc, xuất xứ của sản phẩm, dịch vụ. Thông qua logo, tên gọi... được in trên sản phẩm, khách hàng sẽ xác định được các thông tin về nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm.
Là cơ sở để khiếu nại hoặc yêu cầu ngân hàng bồi thường thiệt hại khi có rủi ro xảy ra trong quá trình sử dụng sản phẩm và dịch vụ. Khi có vướng mắc hay thiệt hại trong quá trình sử dụng thì khách hàng chỉ có khiếu nại được đối với những sản phẩm, dịch vụ có xuất xứ, thương hiệu rõ ràng.
Giảm bớt thời gian và chi phí khảo sát, nghiên cứu, tìm hiểu sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhu cầu của mình. Để mua sản phẩm người tiêu dùng luôn phải cân nhắc mua sản phẩm nào tốt nhất, đẹp nhất. Mặt khác, sản phẩm đòi hỏi phải đúng chất lượng, xứng đáng với đồng tiền bỏ ra.
Đem lại cảm giác yên tâm về chất lượng của sản phẩm, dịch vụ và sự an toàn đối với ngân hàng mà họ chọn. Một thương hiệu mạnh thường được liên tưởng rằng các sản phẩm dịch vụ của nó đều tốt, và ngân hàng vẫn sẵn sàng bồi thường nếu sản phẩm đó chưa đạt chất lượng. Chính vì vậy mà khách hàng cảm thấy yên tâm và an toàn.
Như vậy, Thương hiệu được coi như tài sản quý giá cho doanh nghiệp. Trong những năm qua các doanh nghiệp Việt Nam đã dần nhận thức được sự quan trọng của thương hiệu như một công cụ cạnh tranh trong thời kì hội nhập. Suy rộng ra, thương hiệu càng nổi tiếng thì sản phẩm của doanh nghiệp sẽ càng có khả năng tiêu thụ mạnh hơn. Bởi lẽ một khi thương hiệu đã mạnh thì tên gọi, biểu tượng, màu sắc đặc trưng của thương hiệu sẽ hỗ trợ sản phẩm dễ dàng đi vào tâm trí khách hàng, do đó lượng sản phẩm được tiêu thụ nhiều hơn là điều tất yếu. Phát triển nhãn hiệu, thương hiệu thành công nó sẽ trở thành "bất tử" vượt qua thời gian. Nó có khả năng tồn tại một cách đáng ngạc nhiên trên thị trường đầy biến động, một nhãn hiệu thậm chí có thể tồn tại lâu hơn hàng hóa. Vì thế nó là một tài sản vô hình “cố định” mà từ đó các doanh nghiệp có thể thu lợi nhuận cho mình.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc xây dựng và phát triển thương hiệu ở các doanh nghiệp
Một là, nhận thức của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp. Đây là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến việc xây dựng thương hiệu. Xây dựng thương hiệu có được quyết định hay không phụ thuộc vào bản thân các nhà lãnh đạo.
Hai là, đội ngũ cán bộ chịu trách nhiệm xây dựng thương hiệu. Xây dựng được một chiến lược sâu sát phù hợp đạt hiệu quả và có tính khả thi cho việc thực hiện đòi hỏi các cán bộ thực thi phải có tinh thần trách nhiệm, có trình độ kiến thức, hiểu biết sâu sắc về thương hiệu, nhiệt tình với công việc đồng thời nắm vững mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Ba là, nguồn lực của doanh nghiệp. Nguồn lực về tài chính là một yếu tố tối quan trọng cho việc xây dựng và thực hiện thành công một chiến lược thương hiệu.
Bốn là, sự hiểu biết và thói quen tâm lý của người tiêu dùng. Bước vào nền kinh tế thị trường, việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng rất được coi trọng. Người tiêu dùng hoàn toàn có quyền kiện những doanh nghiệp sản xuất hàng hóa kém phẩm chất, hàng giả, hàng nhái mà họ chính là nạn nhân. Nếu người tiêu dùng kiên quyết bảo vệ quyền lợi của mình, sẵn sàng kiện nhà sản xuất gây thiệt hại đến mình thì sẽ tạo cho các doanh nghiệp phải có ý thức cao hơn về việc cần phải có chiến lược nhằm xây dựng, bảo vệ và củng cố nhãn hiệu, thương hiệu của mình.
4. Các hình thức của hoạt động chiêu thị
Giả định rằng ngân hàng chỉ quan tâm đến: tính năng của sản phẩm do ngân hàng cung cấp phù hợp với nhu cầu của khách hàng; tính thuận tiện của cơ chế chuyển giao sản phẩm hoặc tính cạnh tranh về giá của sản phẩm. Nhưng ngân hàng vẫn cần phải chú ý đến chi tiết là: nếu khách hàng không biết về ngân hàng và sản phẩm do ngân hàng cung cấp thì chắc chắn họ không thể bắt đầu xem xét một sản phẩm nào đó của ngân hàng như là một phương án có thể lựa chọn trước khi thực hiện hành vi tiêu dùng.
Do đó, một trong những chức năng quan trọng của hoạt động truyền thông và xúc tiến của hỗn hợp Marketing đơn giản chỉ là việc thông tri về ngân hàng và sản phẩm, dịch vụ do ngân hàng cung cấp đến với khách hàng tiềm năng của ngân hàng. Các ngân hàng có thể sử dụng nhiều cách thức khác nhau để có thể thông tri với khách hàng của mình về bản thân ngân hàng, các sản phẩm và dịch vụ do ngân hàng cung cấp.
Xúc tiến hỗn hợp trong Marketing bao gồm các hoạt động và giải pháp nhằm đề ra và thực hiện các chiến lược, chiến thuật xúc tiến hỗn hợp nhằm thúc đẩy bán hàng, nâng cao uy tín và vị thế, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Một hỗn hợp xúc tiến gồm 5 công cụ chủ yếu mà các nhà Marketing có thể sử dụng để quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp mình. Đó là: Quảng cáo (Advertising), Khuyến mại (Sales promotion), Bán hàng cá nhân (Personal Selling), Marketing trực tiếp (Marketing direct) và Quan hệ công chúng (Public Relations - PR).
Quảng cáo: là hoạt động truyền thông phi thông tin để đưa ý tưởng, thương hiệu đến thị trường mục tiêu thông quan một kênh trung gian. Phương thức truyền tin này gián tiếp (thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng) mà doanh nghiệp phải trả tiền. Quảng cáo thường nhắm tới mục tiêu rộng lớn.
Khuyến mại: là các hoạt động tức thời nhằm kích thích việc dùng thử hay mua nhiều hơn sản phẩm, dịch vụ, thường là trong ngắn hạn. Có nhiều dạng khuyến mại như: quà tặng, chiết khấu, mua 1 tặng 1, xổ số, bốc thăm trúng thưởng, ...
Bán hàng cá nhân: là hoạt động quảng bá, thuyết phục khách hàng thông qua tiếp xúc trực tiếp giữa đội ngũ bán hàng của doanh nghiệp và khách hàng mục tiêu.
Marketing trực tiếp: là hình thức truyền thông tin trực tiếp đến các đối tượng đã xác định thông qua các phương tiện như thư tín, email, fax....với mong muốn nhận được sự đáp ứng tức thời.
Quan hệ công chúng: là các hoạt động nhằm xây dựng hình ảnh tốt đẹp cho thương hiệu và doanh nghiệp trong cộng đồng.
5. Định nghĩa về Quan hệ công chúng ( Public Relation – PR)
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về PR. Những định nghĩa đó tồn tại song song, và bổ sung cho nhau. Rex Harlow, một trong những học giả hàng đầu về PR cho hay, có đến hơn 500 định nghĩa khác nhau về PR. Tuy nhiên, các định nghĩa thường đi đến thống nhất với nhau về một vấn đề cốt lõi là:
PR là một quá trình quản lý về truyền thông nhằm nhận biết, thiết lập và duy trì những quan hệ hữu ích giữa một tổ chức, cá nhân với những cộng đồng liên quan có quyết định trực tiếp hay gián tiếp tới sự thành bại của tổ chức, cá nhân đó.
PR là một chức năng quản lý của doanh nghiệp nhằm xây dựng, duy trì, nâng cao danh tiếng, uy tín của tổ chức và tạo được sự hiểu biết và ủng hộ của công chúng, cũng như tác động đến tư tưởng và hành vi của họ.
Theo Fraser P. Seitel, một chuyên gia về PR người Mỹ, thì quan hệ cộng đồng là một qui trình nhằm tạo ảnh hưởng đến suy nghĩ, nhận thức của cộng đồng, thông qua những phẩm chất tích cực được trình bày theo một phong cách thích hợp, dựa trên quá trình truyền thông cùng thoả mãn hai chiều.
6. Vai trò của PR trong việc xây dựng và quảng bá thương hiệu
Các doanh nghiệp quảng bá thương hiệu bằng nhiều phương pháp: thông qua quảng cáo, PR, giá cả hoặc bằng chính sản phẩm, với mục tiêu chung là làm sao đưa thương hiệu vào tâm trí khách hàng. Trong đó, có thể nói hoạt động PR có tác động tích cực trong việc quảng bá thương hiệu.
Vai trò chính của PR là giúp doanh nghiệp truyền tải các thông điệp đến khách hàng và những nhóm công chúng quan trọng của họ. Khi truyền đi các thông điệp này, PR giúp sản phẩm dễ đi vào nhận thức của khách hàng, hay cụ thể hơn là giúp khách hàng dễ dàng liên tưởng tới mỗi khi đối diện với một thương hiệu. Và nếu khai thác PR hữu ích chắc chắn ngân hàng sẽ tạo nên sự khác biệt trong thương hiệu của mình với các đối thủ cạnh tranh khác
Mục đích thực sự của công tác PR là tạo dựng danh tiếng cho ngân hàng. Để đạt được điều này, ngân hàng phải thực hiện chăm sóc khách hàng chu đáo, giao tiếp với các giới hữu quan một cách hiệu quả, cũng như thể hiện trách nhiệm xã hội đối với người lao động, với cộng đồng địa phương và môi trường.
PR đặc biệt hữu hiệu trong trường hợp:
Ngân hàng chưa được biết đến rộng rãi và chưa tạo được uy tín
Ngân hàng tung ra sản phẩm mới
Ngân hàng có ngân sách hạn chế
Ngân hàng đang gặp khủng hoảng
Đối tượng của PR – quan hệ công chúng
“Công chúng” là một nhóm người có quan tâm hay ảnh hưởng thực tế hay tiềm ẩn đến khả năng công ty trong quá trình thực hiện để đạt được những mục tiêu của mình.
Công chúng là một lực lượng có thể thúc đẩy hoặc cũng có thể là lực lượng gây cản trở cho quá trình thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Chính vì vậy, các doanh nghiệp luôn phải tìm cách thu hút sự ủng hộ từ phía công chúng.
Một ngân hàng cần phải quan hệ với các cộng đồng được xác định như là đối tượng của PR như:
Khách hàng: những người đã, đang hoặc có thể sẽ mua sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng.
Các cơ quan quản lý Nhà nước: các tổ chức Nhà nước có ảnh hưởng chi phối đến hoạt động của ngân hàng thông qua hệ thống Pháp luật (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Chi cục thuế, chính quyền trung ương và địa phương, ....).
Cộng đồng dân cư: những người sinh sống trên địa bàn, nơi ngân hàng hoạt động. Họ có thể có những mối quan tâm chung với ngân hàng về môi trường, cơ sở hạ tầng, an ninh công cộng và những vấn đề xã hội khác.
Các nhà đầu tư: các cổ đông góp vốn trong ngân hàng, các bên liên doanh liên kết, các đối tác chiến lược,...
Nhân viên: là những đối tượng công chúng nội bộ và có vai trò đặc biệt quan trọng trong quan hệ công chúng của ngân hàng. Nhân viên là những người có liên quan chặt chẽ và quyết định sự thành công của ngân hàng, họ đồng thời cũng là cầu nối giữa ngân hàng và các đối tượng công chúng khác.
Các tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến ngân hàng: các nhà cung cấp, nhà phân phối, tổ chức tín dụng, công ty bảo hiểm, các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng,..
Ngoài những mối quan hệ trực tiếp nêu trên, ngân hàng còn có những mối quan hệ gián tiếp, ví dụ như giới báo chí, các cơ quan truyền thông đại chúng,....
Như vậy, công chúng là tất cả những tổ chức và các nhân có liên quan đến sự thành công hay thất bại của ngân hàng.
Các nhóm công chúng của PR trong ngân hàng Kiên Long
Trong hoạt động PR, ngân hàng thường xuyên tiếp xúc với nhiều nhóm đối tượng khác nhau, như: cơ quan luật pháp, khách hàng, đối tác, nhà đầu tư, giới truyền thông, công ty bảo hiểm, ...
Ngân hàng Kiên Long là một ngân hàng quy mô nhỏ, thương hiệu lại chưa lớn mạnh. Ngân hàng đang trong giai đoạn mở rộng mạng lưới và tạo sự nhận biết về thương hiệu Kienlong Bank.
Chính vì thế, ngân hàng Kiên Long xác định những nhóm đối tượng cần phải đặc biệt quan tâm trong giai đoạn này. Đó là: khách hàng hiện tại và cộng đồng nơi mà ngân hàng hoạt động. Các hoạt động PR của ngân hàng chủ yếu hướng vào hai nhóm đối tượng này.
Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của ngành ngân hàng là cung cấp các dịch vụ tài chính. Khách hàng cần được cung cấp các thông tin cụ thể, chi tiết, rõ ràng. Các nhân viên trong ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ của khách hàng. Chính vì vậy, một nhóm đối tương mà ngân hàng Kiên Long cũng cần phải quan tâm, đó là: nhân viên trong ngân hàng.
Quan hệ với khách hàng
Ở Việt Nam hiện nay, phần lớn các doanh nghiệp chủ yếu tập trung các hoạt động quan hệ công chúng của mình vào việc xây dựng và duy trì mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng, vì họ nhận thức được tầm quan trọng của việc này.
Khách hàng là một trong những đối tượng quan hệ công chúng quan trọng nhất của ngân hàng, bởi vì họ là người quyết định liệu ngân hàng có tồn tại và phát triển được hay không. Chỉ khi khách hàng có cảm tình, cảm thấy an toàn cũng như hiểu rõ về ngân hàng thì họ mới tin tưởng và trung thành giao dịch với ngân hàng. Đặc biệt đối với các ngân hàng nhỏ thì tìm kiếm được khách hàng mới là quan trọng nhưng việc giữ chân được khách hàng còn quan trọng hơn. Chỉ bằng cách tạo mối quan hệ tốt với khách hàng thì ngân hàng mới giữ được sự trung thành của khách hàng.
Hoạt động PR thông qua các buổi tư vấn, các chương trình chăm sóc khách hàng, các buổi giới thiệu sản phẩm mới,... giúp khách hàng nhân thấy rằng họ quan trọng như thế nào đối với ngân hàng.
Các hoạt động quan hệ công chúng thường được kết hợp với các hoạt động marketing khác như quảng cáo, khuyến mãi... để làm cho các sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng cung cấp hấp dẫn và thuyết phục được khách hàng.
à Do đó hoạt động PR quan hệ khách hàng ngày càng được quan tâm.
2.2 Quan hệ với nhân viên
Quan niệm cũ cho rằng lao động là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất nên nó được xem như là một trong những chi phí cấu thành nên giá thành sản phẩm, càng giảm thiểu chi phí này thì càng tốt.
Theo quan niệm ngày nay, người lao động là tài sản của doanh nghiệp bởi họ chính là những người trực tiếp tạo ra sản phẩm, dịch vụ. Đặc biệt đối với lĩnh vực ngân hàng, thì các nhân viên có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đáng kể đến sự tồn tại của ngân hàng.
Nguồn gốc của quan điểm trên xuất phát từ đặc thù của sản phẩm do các ngân hàng cung cấp thuộc tính dịch vụ. Những nhân viên của ngân hàng thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, giải thích các quy trình khi giao dịch với ngân hàng, các quyền lợi cũng như nghĩa vụ của khách hàng. Họ trở thành người có vai trò cầu nối, đại diện cho ngân hàng và chính là họ cũng là người có ảnh hưởng rất lớn đến sự hài lòng, thoải mái của khách hàng, quyết định sự ở lại hay ra đi hoặc chấm dứt mối quan hệ giữa ngân hàng.
Nhân viên là loại tài sản có sự cảm nhận và suy nghĩ. Họ có thể có những nhận thức và suy nghĩ tốt hoặc xấu về ngân hàng. Điều này sẽ tác động rất lớn đến thái độ làm việc của họ. Ví dụ như: nếu nhân viên cảm nhận rằng ngân hàng trả lương thấp cho họ và không quan tâm chăm lo cho đời sống của họ, hoặc đối xử không công bằng giữa các nhân viên thì họ cũng chỉ làm việc với thái độ của “người làm công ăn lương”. Họ sẽ không gắn bó với ngân hàng và luôn tìm kiếm các cơ hội làm việc ở nơi khác.
Tất nhiên bất kỳ ngân hàng cũng đều không muốn nhân viên của mình có thái độ như thế. Ngân hàng mong muốn họ làm việc với thái độ chăm chỉ, tích cực. Nếu vậy ngân hàng luôn phải duy trì quan hệ tốt đẹp với nhân viên. Làm thế nào để ngân hàng hiểu được mong muốn của nhân viên và những việc mà họ đang làm. Ngược lại, làm thế nào để nhân viên cũng muốn hiểu về ngân hàng: ngân hàng sẽ phát triển như thế nào, ngân hàng mong muốn gì ở họ, ngân hàng quan tâm đến họ ra sao, những nhân viên khác trong ngân hàng như thế nào... Để làm được điều này, ngân hàng cần phải xây dựng cách thức trao đổi thông tin hai chiều một cách có hiệu quả giữa các cấp quản lý và cấp nhân viên và giữa nhân viên của các bộ phận khác nhau. Quan hệ công chúng nội bộ sẽ giúp ngân hàng giải quyết được vấn đề này.
à Do đó hoạt động PR đối nội cũng quan trọng như truyền thông với khách hàng bên ngoài ngân hàng.
2.3 Quan hệ với cộng đồng nơi mà ngân hàng hoạt động
Đối tượng quan hệ công chúng quan trọng thứ ba đối với ngân hàng là cộng đồng mà ngân hàng tồn tại và hoạt động trong đó.
Thật tuyệt vời khi mọi người luôn nghĩ rằng ngân hàng Kiên Long rất quan tâm đến những hộ gia đình nghèo và sẵn sàng tham gia các hoạt động làm vệ sinh khu vực mà ngân hàng hoạt động. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu như người dân nghĩ rằng ngân hàng Kiên Long đối xử bất công với nhân viên hoặc thường xuyên có những tin đồn xấu về ngân hàng. Lúc đó có thể ngân hàng sẽ mất đi những khách hàng tiềm năng từ phía cộng đồng.
Như vậy cộng đồng có thể có những phản ứng tốt hoặc xấu đối với ngân hàng, và tất nhiên ngân hàng sẽ gặp khó khăn nếu cộng đồng có thái độ không ủng hộ. Ngược lại, nếu đã có thiện cảm thì khi có sự cố nào đó xảy ra với ngân hàng thì cộng đồng cũng dễ dàng thông cảm hơn.
à Do vậy quan hệ tốt với cộng đồng là một hoạt động mang lại lợi ích to lớn mà ngân hàng cần phải quan tâm. Các hoạt động quảng cáo, khuyến mại, bán hàng cá nhân hay các chiến lược về sản phẩm, giá, kênh phân phối không làm được điều này. Chỉ có hoat động PR mới đem lại hiệu quả cao.
8. Các hoạt động của PR trong xây dựng và quảng bá thương hiệu
Thông cáo báo chí
Tổ chức sự kiện
Hoạt động tài trợ
Hoạt động xã hội
PR trực tuyến
9. Ưu nhược điểm của hoạt động PR
9.1 Ưu điểm
Hoạt động PR của ngân hàng có thể được sử dụng như kênh chuyển tải thông điệp của sự tin cậy, bền vững và ổn định về bộ máy tổ chức của ngân hàng cho các chủ thể có liên quan (cổ đông, các trung gian, những nhà đầu tư khác, khách hàng). Nó truyền đi thông điệp là nếu một ngân hàng có thể chi trả cho các hoạt động tài trợ, từ thiện,... thì ít nhất cũng cho thấy ngân hàng đáng tin cậy và đang hoạt động kinh doanh có lời, ổn định, bền vững
Nghiên cứu cho thấy một khi đứng trước sự chọn lựa một ngân hàng, người tiêu dùng thường có xu hướng chọn ngân hàng mà họ có thiện cảm với thương hiệu đó hơn là ngân hàng mà họ có ác cảm. Thông qua các hoạt động xã hội, tài trợ, tổ chức sự kiện, PR thường gắn với các động cơ tốt đẹp nên tạo thiện cảm tốt hơn rất nhiều so với quảng cáo
PR gây dựng và duy trì niềm tin của khách hàng. PR đem thông tin về công ty và sản phẩm tới cho người tiêu dùng thường mang tính khách quan, có tính thông tin nhiều hơn bởi thông điệp PR được truyền đạt qua các phương tiện trung gian có tính khách quan là thông cáo báo chí, bài viết trên báo đài, các chương trình tài trơ, các hoạt động từ thiện v.v…Còn quảng cáo thường mang tính thương mại, mang tính chủ quan của doanh nghiệp nên khó duy trì niềm tin lâu dài trong cộng đồng dành cho doanh nghiệp
PR mang đến nhiều thông tin, lợi ích cụ thể hơn cho người tiêu dùng. Hoạt động PR chuyển tải một lượng thông tin nhiều hơn so với các phương tiện tuyên truyền, quảng bá khác. Người tiêu dùng có cơ hội nhận được lượng thông tin nhiều và kỹ hơn về hoạt động của bản thân doanh nghiệp cũng như sản phẩm của doanh nghiệp. Qua đó người tiêu dùng có thể hình dung về hướng phát triển cũng như quan điểm của doanh nghiệp trong việc quan tâm đến quyền lợi người tiêu dùng, về những ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp. Quảng cáo thường chỉ kéo dài 30 giây, chính vì thế nó không thể truyền tài mọi thông tin, đặc biệt là các thông tin về doanh nghiệp, lợi ích có được nếu khách hàng dùng sản phẩm đó,...
Các hoạt động PR thường có chi phí thấp hơn do không phải chi các khoản tiền lớn thuê mua thời lượng trên các phương tiện truyền thông và không cần chi phí thiết kế sáng tạo và sản xuất cao. Ngân quỹ cho hoạt động PR của các công ty thường ít hơn chi phí quảng cáo hàng chục lần. Tuy nhiên, hiệu quả thông tin thường lại không thấp hơn, do tính chất tập trung của đối tượng và nhờ tác dụng rộng rãi của truyền miệng
PR không chỉ đơn thuần là các hoạt động tiếp xúc với báo chí. PR giúp doanh nghiệp thiết lập và duy trì tốt mối quan hệ với giới truyền thông, chính phủ cũng như đối tác, nhà đầu tư, khách hàng và cả nhân viên trong ngân hàng… Còn quảng cáo chỉ liên kết mối quan hệ giữa sản phẩm, ngân hàng và khách hàng.
PR cũng tạo ra lời truyền miệng, và lời đồn đại về thương hiệu qua việc đưa ra các tin tức về sp, các chương trình hội thảo, tư vấn khách hàng... Đặc biệt, trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng, việc quyết định lựa chọn một ngân hàng để giao dịch tùy thuộc rất lớn vào sự giới thiệu của người thân, đồng nghiệp – những người đã trực tiếp tiếp xúc, biết nhiều về sản phẩm, dịch vụ, ngân hàng đó cung cấp.
Quảng cáo trên truyền hình, một thời gian dài được xem là hình thức “vua” của hoạt động tiếp thị, nhưng hiện nay, khi xu hướng nhận thức và tiêu dùng đã thay đổi thì quảng cáo đã dần bị xếp lại do chi phí đắt đỏ mà hiệu quả đem lại không tương xứng. Ngày nay, người tiêu dùng có hàng chục, thậm chí hàng trăm sự lựa chọn các kênh truyền hình khác nhau. Người ta mệt mỏi với tất cả các dạng quảng cáo. Và dưới sự tấn công ồ ạt của các hình thức quảng cáo của cùng một loại sản phẩm, dịch vụ thì khách hàng không thể nào xác định được sản phẩm, dịch vụ, ngân hàng nào tốt và phù hợp với mình. PR sẽ giúp khách hàng xác định được điều đó.
Các hoạt động PR cũng thường mang tính nhất quán lâu dài hơn. Một khẩu hiệu quảng cáo, một tính chất của sản phẩm hay thậm chí một chiến lược kinh doanh có thể thay đổi khá thường xuyên để bắt kịp thị hiếu của thị trường, song hình ảnh và các giá trị của thương hiệu thường phải được xây dựng và gìn giữ trong một quá trình lâu dài mới tranh thủ được lòng tin của công chúng.
Nhược điểm:
Hạn chế số lượng đối tượng tác động Thông tin không đến được với một số lượng rất lớn các đối tượng trong một thời gian ngắn do hoạt động PR chỉ tập trung được ở một nhóm đối tượng trong một khu vực định trước
Thông điệp đưa ra thường không gây “ấn tượng mạnh” và khó ghi nhớ hơn so với quảng cáo
Khó kiểm soát vì nội dung thông điệp thường được chuyển tải qua góc nhìn của bên thứ ba (nhà báo, chuyên gia, người nổi tiếng,..)
Hoạt động PR luôn gắn liền với một nhóm đối tượng cụ thể và gắn liền với hoạt động tuyên truyền, quảng cáo. Xuất phát từ đó, để tiến hành hoạt động PR nhằm quảng bá cho thương hiệu, doanh nghiệp cần phải xây dựng một chiến lược cụ thể cho hoạt động này. Chiến lược PR không thể tách rời khỏi chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, nó cần phải nhắm tới nhóm đối tượng khách hàng cụ thể và cần tập trung vào một chủ thể nhất định.
Giữa PR và quảng cáo có một mối quan hệ hữu cơ khắng khít. Các chiến dịch quảng cáo thường được hỗ trợ bởi các hoạt động PR song song. Ngược lại, nhiều chương trình PR được biết đến rộng rãi nhờ chương trình quảng cáo.
Nói tóm lại, nếu quảng cáo đóng vai trò hết sức quan trọng để sản phẩm của công ty được biết và nhớ tới rộng rãi thì PR góp phần để sản phẩm và công ty được yêu mến và tin cậy.
Phần hai
Đánh giá tình hình hoạt động PR trong chiến lược thương hiệu tại Ngân hàng Kiên Long
1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long (tiền thân là Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Kiên Long) chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 25/10/1995 với vốn điều lệ ban đầu là 1,2 tỷ đồng theo giấy phép:
Giấy phép hoạt động số 0056/NN-GP ngày 18/09/1995 do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp.
Giấy phép thành lập số 1115/GP-UB ngày 02/10/1995 do Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang cấp.
Ngày 25/12/2006, Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Kiên Long chuyển đổi mô hình hoạt động sang mô hình ngân hàng đô thị và đổi tên thành Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long theo quyết định số 2434/QĐ-NHNN của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam.
Ngày 05/06/2007, Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long khai trương chi nhánh Hà Nội đặt tại số 34A Hàn Thuyên, Quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
Ngày 26/07/2007, khai trương chi nhánh Sài Gòn tại số 197-199 Lý Thường Kiệt, phường 06, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 09/11/2007, khai trương chi nhánh tại thành phố Đà Nẵng.
Ngày 22/12/2008, Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long hoàn tất tăng vốn điều lệ lên 1000 tỷ đồng.
Hội sở chính của Ngân hàng TMCP Kiên Long đặt tại số 44 Phạm Hồng Thái, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Thông tin liên lạc:
Chi nhánh Rạch Giá:
Địa chỉ: 44 Phạm Hồng Thái, TP. Rạch Giá, Tỉnh Kiên Giang
Điện thoại: 077.386 9950
Fax: 077.387 1171
Chi nhánh Sài Gòn:
Địa chỉ: 197-199 Lý Thường Kiệt, Phường 6, Q.Tân Bình, TP. Hồ Chí Minh
Điện thoại: 08. 3866 9454
Fax: 08.3866 9466
Email: kienlong@kienlongbank.com
2. Logo của ngân hàng Kiên Long
3. Ngành nghề kinh doanh
3.1 Các sản phẩm dịch vụ chính:
Dịch vụ khách hàng cá nhân:
Huy động vốn
Tài trợ vốn cho các lĩnh vực: kinh tế gia đinh, bất động sản, tiêu dùng, dịch vụ tài khoản, chuyển tiền ….
Dịch vụ khách hàng doanh nghiệp:
Bảo lãnh thị trường nội địa và quốc tế
Tài trợ thương mại, tài trợ xuất nhập khẩu, tài trợ dự án, đồng tài trợ
Kinh doanh ngoại hối
Thanh toán quốc tế
3.2 Các dịch vụ khác
Dịch vụ Western Union
Phát hành và đưa vào khai thác hệ thống thẻ ATM và các sản phẩm có liên quan.
3.3 Ngân hàng hiện đại: Kienlong Bank đang tiến hành chọn lọc, thương lượng với các đối tác để triển khai sớm hệ thống CoreBanking tạo tiện ích cho khách hàng.
Internet Banking
Mobile Banking
Home Banking
4. Triết lý kinh doanh
KiênLong Bank phát triển bền vững trên nền tảng chữ “Xanh” và chữ “Tâm”
Chữ “Xanh” luôn được đề cao nhằm phát triển ngân hàng thông qua tất cả dịch vụ và hoạt động của KiênLong Bank nhằm mục tiêu mang lại lợi ích thiết thực đối với cộng đồng xã hội
Chữ “Tâm” được xem là nền tảng để xây dựng mối quan hệ gần gũi giữa con người với con người.
5. Cơ cấu tổ chức
Mạng lưới các chi nhánh
Đại hội đồng cổ đông
Hội đồng quản trị
Tổng giám đốc
Ban kiểm soát
Các phó tổng giám đốc
Hội đồng quản lý Tài sản – Nợ
Hội đồng xử lý rủi ro
Hội đồng lương – thưởng
Hội đồng tín dụng
Khối tác nghiệp
Phòng
Phân tích tín dụng – Đầu tư
Phòng
Kế hoạch – Tiếp thị
Phòng
Tài chính kế toán
Phòng
Quản lý rủi ro
Phòng
Kiểm soát nội bộ
Khối quan hệ khách hàng
Phòng
Quan hệ khách hàng doanh nghiệp
Phòng
Quan hệ khách hàng cá nhân
Phòng
Quan hệ định chế tài chính
Khối tổng hợp
Phòng
Dịch vụ khách hàng tổ chức
Phòng
Dịch vụ khách hàng cá nhân
Phòng
Xử lý bộ chứng từ
Phòng
Ngân quỹ
Khối hỗ trợ - kỹ thuật
Phòng
Tổ chức – Nhân sự
Phòng
Hành chính – Quản trị
Phòng
Pháp chế
Phòng
Công nghệ thông tin
6. Mạng lưới hoạt động
Miền Bắc
Hà Nội
Chi nhánh Hà Nội
Phòng giao dịch Bạch Mai
Phòng giao dịch Láng Hạ
Phòng giao dịch Đồng Xuân
Hải Phòng
Chi nhánh Hải Phòng
Phòng giao dịch Lạch Tray
Phòng giao dịch Ngô Quyền
Phòng giao dịch Trần Nguyên Hãn
Miền Trung
Đà Nẵng
Chi nhánh Đà Nẵng
Phòng giao dịch Cai Lang
Khánh Hòa
Chi nhánh Khánh Hòa
Phòng giao dịch Vĩnh Hải
Phòng giao dịch Diên Khánh
Tây Nguyên
Daklak
Chi nhánh Daklak
Phòng giao dịch Tân Lập
Miền Nam
TP.Hồ Chí Minh
Chi nhánh Sài Gòn
Phòng giao dịch Bình Tây
Phòng giao dịch Gò Vấp
Phòng giao dịch An Lạc
Phòng giao dịch Ngô Gia Tự
Phòng giao dịch Đầm Sen
Phòng giao dịch Quận 12
Phòng giao dịch Quận Thủ Đức
Bình Dương
Phòng giao dịch Bình Dương
Cần Thơ
Chi nhánh Cần Thơ
Phòng giao dịch Cái Răng
Phòng giao dịch Thốt Nốt
Vĩnh Long
Chi nhánh Vĩnh Long
Đồng Tháp
Phòng giao dịch Đồng Tháp
An Giang
Phòng giao dịch An Giang
Phòng giao dịch Châu Đốc
Bến Tre
Chi nhánh Bến Tre
Phòng giao dịch Bình Đại
Hậu Giang
Phòng giao dịch Hậu Giang
Bạc Liêu
Phòng giao dịch Bạc Liêu
Trà Vinh
Chi nhánh Trà Vinh
Phòng giao dịch Duyên Hải
Kiên Giang
Chi nhánh Rạch Giá
Chi nhánh Bến Nhứt
Chi nhánh Phú Quốc
Phòng giao dịch Số 2
Phòng giao dịch Số 3
Phòng giao dịch Số 4
Phòng giao dịch Rạch Sỏi
Phòng giao dịch Kinh 8
Phòng giao dịch Hà Tiên
Phòng giao dịch Tân Hiệp
Phòng giao dịch Tân Thành
Phòng giao dịch Vĩnh Thuận
Phòng giao dịch An Biên
Phòng giao dịch An Thới
Phòng giao dịch Gò Quao
Phòng giao dịch Hòn Đất
7. Thành tựu đạt được
Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ về thành tích trong công tác từ năm 2001 - 2005, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và Bảo vệ Tổ quốc.
Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc chấp hành tốt chính sách thuế năm 2005.
Bằng khen của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang về việc thực hiện tốt ký kết trong phong trào thi đua năm 2005.
Bằng khen của Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam về việc thực hiện tốt chế độ, chính sách Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế năm 2005.
Ngày 15/12/2007, Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long nhận 2 giải thưởng do Western Union khu vực Đông Dương và trung tâm dịch vụ tài chính Eden trao tặng vì đã có thành tích là một trong những ngân hàng có doanh số chi trả cao nhất và có nhiều giải pháp tiếp thị tốt nhất năm 2007.
Ngày 29/02/2008, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huân chương Lao động hạng Ba cho Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long và cá nhân ông Trương Hoàng Lương - Phó chủ tịch Hội đồng quản trị, Kiêm Tổng Giám Đốc Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long vì đã có thành tích xuất sắc trong công tác từ năm 2002 đến năm 2006, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và Bảo vệ Tổ quốc.
Ngày 30/08/2008, Tổng Giám Đốc Ngân hàng Kiên Long - Ông Trương Hoàng Lương được trao tặng Cúp vàng "Doanh nhân tâm tài" do Đài Tiếng nói Việt Nam, Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu Bảo tồn và phát huy Văn hóa dân tộc Việt Nam, Tạp chí Văn hiến Việt Nam cùng một số đơn vị liên quan tổ chức bình chọn.
Ngày 09/09/2008 Ngân hàng thương mại cổ phần Kiên Long vinh dự đón nhận Cúp vàng Topten Sản phẩm - Dịch vụ uy tín chất lượng - thương hiệu Việt hội nhập WTO lần thứ III năm 2008 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Trung tâm nghiên cứu ứng dụng phát triển thương hiệu Việt tổ chức bình chọn.
Ngày 04/01/2009, Ngân hàng TMCP Kiên Long đã nhận Cúp vàng Top ten ngành hàng thương hiệu Việt hội nhập WTO năm 2009 Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam trao tặng
8. Phương châm hoạt động
“Ngân hàng Kiên Long - sẵn lòng chia sẻ”
Ngân hàng Kiên Long - sẵn lòng chia sẻ những khó khăn, nỗi trăn trở, ước mơ, dự tính kinh doanh, thành công của khách hàng; chia sẻ khó khăn trong công việc đối với nhân viên và chia sẻ gánh vác một phần trách nhiệm đối với cộng đồng - xã hội
Đó là lới hứa của ngân hàng Kiên Long với toàn thể khách hàng và người dân trong cả nước
9. Đối thủ cạnh tranh
Hiện nay, các ngân hàng thương mại trong nước được chia thành bốn nhóm dựa trên nhiều chỉ tiêu (vốn điều lệ, tổng tài sản, lợi nhuận, số năm hoạt động, mức độ nhận biết của người tiêu dùng, các thành tựu đã đạt được,....). Các ngân hàng thuộc nhóm 1 được xem là những ngân hàng hàng đầu Việt Nam. Các ngân hàng thuộc nhóm 4 là những ngân hàng có quy mô nhỏ, tuổi đời hoạt động chưa lâu và còn đang trong giai đoạn xây dựng và quảng bá thương hiệu.
Ngân hàng Kiên Long nhằm trong nhóm 4 của bảng xếp hạng. Tất cả các ngân hàng thương mại đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam đều là đối thủ cạnh tranh, nhưng ngân hàng Kiên Long xác định cho mình đối thủ cạnh tranh chính là các ngân hàng cùng nhóm. Đó là các ngân hàng như: NH Đại Tín, NH Nam Á, NH Việt Á, NH Liên Việt, NH Miền Tây, NH Đại Dương, NH Đại Á...
Phân nhóm
Tên Ngân hàng thương mại Việt Nam
Nhóm 1
NH Nông nghiệp và phát triển nông thôn (Agribank), NH Công thương Việt Nam (VietinBank), NH Đầu tư và phát triển (BIDV), NH Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank)
Nhóm 2
NH Á Châu (ACB), NH Sài Gòn thương tín (Sacombank), NH Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), NH Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank)
Nhóm 3
NH Đông Á (Dongabank), NH Quân đội (MB), NH Phát triển nhà Hà Nội (Habubank), NH An Bình (ABbank), NH Đông Nam Á (SeaBank), NHTM Nhà Đồng bằng sông Cửu Long (MHB), NH Hàng hải Việt Nam (Maritime bank), NH Phương Nam (Sounthern bank), NH Sài Gòn công thương (SaigonBank), NH Đệ Nhất (FirtBank)
Nhóm 4
NH Kiên Long (Kienlongbank) , NH Miền Tây (Western bank), NH Đại Dương (OceanBank), NH Đại Tín (Trustbank), NH Đại Á (Daiabank), NH Việt Á (Vietabank), NH Liên Việt (Lienviet bank), NH Nam Á (Namabank), NH Tiên Phong, NH Bảo Việt
Hình 1: Bảng phân nhóm ngân hàng thương mại Việt Nam
(Nguồn: Tư vấn thương hiệu Kienlongbank – tập đoàn tư vấn thương hiệu MassoGroup)
9.1 Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Á
Ngân hàng TMCP Đại Á là Ngân hàng TMCP đầu tiên của tỉnh Đồng Nai chính thức được thành lập và đi vào hoạt động vào ngày 30/7/1993, với vốn điều lệ ban đầu là 1 tỷ đồng.
Đại Á ngân hàng đã chính thức được Ngân hàng nhà nước cho phép chuyển đổi mô hình hoạt động từ Ngân hàng TMCP nông thôn lên thành Ngân hàng TMCP đô thị từ tháng 10/2007. Tháng 3/2008, thẻ ATM của Ngân hàng Đại Á ra mắt khách hàng như và tấm thẻ đa năng.
Chỉ tiêu tài chính năm 2008:
Vốn điều lệ: 1.000 tỷ đồng
Tổng tài sản: 3.090 tỷ đồng
Lợi nhuận trước thuế: 66,2 tỷ đồng
9.2 Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Á
Ngân hàng TMCP Việt Á được thành lập vào ngày 04/07/2003 trên cơ sở hợp nhất hai tổ chức tín dụng đã hoạt động lâu năm trên thị trường tiền tệ, tài chính Việt Nam: Công ty tài chánh cổ phần Sài Gòn và Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn Đà Nẵng.
Ngân hàng Việt Á hoạt động với đầy đủ các chức năng kinh doanh của một ngân hàng thương mại và có thế mạnh trong các hoạt động tài chính như: Kinh doanh vàng, đầu tư, tài trợ các dự án ... Thực hiện mua, bán các loại ngoại tệ ở thị trường trong nước; Cho vay các tổ chức trong nước và nước ngoài bằng ngoại tệ; Vay vốn bằng ngoại tệ của các tổ chức trong nước và nước ngoài; Thực hiện việc thu hút và chi trả kiều hối; Mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài; Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác bằng ngoại tệ; Cung ứng các dịch vụ tư vấn cho khách hàng về ngoại hối.
Chỉ tiêu tài chính năm 2008:
Vốn điều lệ: 1.359,8 tỷ đồng
Tổng tài sản: 10.316 tỷ đồng
Tổng lợi nhuận trước thuế: 90 tỷ đồng
Tỷ lệ chi trả cổ tức: 5.3 % bằng tiền mặt
9.3 Ngân hàng thương mại Đại Tín
Ngân hàng TMCP Đại Tín tiền thân là Ngân hàng nông thôn Rạch Kiến - ngân hàng cổ phần đầu tiên của tỉnh Long An chính thức thành lập cách đây 18 năm.
Ngày 17/08/2007, ngân hàng Rạch kiến đã được thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam chấp thuận chính thức chuyển đổi mô hình hoạt động thành Ngân hàng thương mại cổ phần đô thị và đổi tên thành Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Tín nhằm tạo điều kiện, tiền đề để ngân hàng phát triển trong thời gian sắp tới.
Ngân hàng Rạch Kiến là một trong bảy ngân hàng cổ phần vinh dự được tham gia vào quỹ tài chính nông thôn I (Quỹ RDF1) do ngân hàng thế giới tài trợ từ năm 1998 và hiện nay tiếp tục tham gia vào quỹ RDF 2 do sở giao dịch III ngân hàng đầu tư và phát triển Viện Nam làm chủ dự án. Hiện Ngân hàng chuẩn bị tiếp tục tham gia quỹ RDF 3.
Chỉ tiêu tài chính năm 2008:
Vốn điều lệ: 1000 tỷ đồng
Tổng tài sản: 2.989 tỷ đồng
Tổng lợi nhuận sau thuế: 23,3 tỷ đồng
Tỷ lệ chia cổ tức là 12,09 % /năm
9.4 Ngân hàng thương mại cổ phần Liên Việt
Ngân hàng TMCP Liên Việt (LienVietBank) được thành lập theo Giấy phép thành lập và hoạt động số 91/GP-NHNN ngày 28/03/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Cổ đông sáng lập của LienVietBank là Công ty Cổ phần Him Lam, Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn (SATRA) và Công ty dịch vụ Hàng không sân bay Tân Sơn Nhất (SASCO). Với số vốn điều lệ 3.300 tỷ đồng, LienVietBank hiện là ngân hàng thương mại cổ phần lớn thứ 4 tại Việt Nam.
Các cổ đông và đối tác chiến lược của LienVietBank là các tổ chức tài chính – ngân hàng lớn đang hoạt động tại Việt Nam và nước ngoài như Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (Agribank), Ngân hàng Wells Fargo (Mỹ), Ngân hàng Credit Suisse (Thụy Sỹ), Công ty Oracle Financial Services Software Limited,…
Chỉ tiêu tài chính năm 2008:
Vốn điều lệ: 3.300 tỷ đồng
Tổng tài sản: 3.800 tỷ đồng
Tổng lợi nhuận sau thuế: 444 tỷ đồng
9.5 Ngân hàng thương mại cổ phần Nam Á
Ngân hàng TMCP Nam Á chính thức hoạt động từ ngày 21/10/1992. Qua 15 năm hoạt động, cơ sở vật chất và mạng lưới hoạt động của Ngân hàng ngày càng mở rộng, đời sống cán bộ nhân viên ngày càng được cải thiện, uy tín của Ngân hàng ngày càng được nâng cao
Những năm gần đây, Ngân hàng Nam Á được biết đến là một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần phát triển ổn định, bền vững, có chất lượng tín dụng thuộc loại tốt và được Ngân hàng Nhà nước đánh giá xếp loại A trong nhiều năm liền.
Thương hiệu Ngân hàng Nam Á đã được người tiêu dùng, cơ quan chức năng công nhận thông qua các giải thưởng có giá trị như: Top Trade Services do Bộ Công Thương trao tặng, “Thương hiệu vàng” do Bộ Công Thương và Hiệp hội chống hàng giả và Bảo vệ thương hiệu Việt Nam (VATAP) trao tặng. Năm 2007, Ngân hàng còn nhận được giấy chứng nhận “Nhãn hiệu nổi tiếng Quốc gia” do Hội sở hữu Trí tuệ Việt Nam trao tặng.
Chỉ tiêu tài chính năm 2008:
Vốn điều lệ: 1.253 tỷ đồng
Tồng tài sản: 5.891 tỷ đồng
Tổng lợi nhuân trước thuế:12,79 tỷ đồng
9.6 Ngân hàng thương mại cổ phần Đại Dương
Ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank) tiền thân là ngân hàng thương mại cổ phần Nông thôn Hải Hưng, được thành lập cuối năm 1993. Sau 14 năm hoạt động, Ngân hàng TMCP Nông thôn Hải Hưng chính thức được chuyển đổi mô hình hoạt động thành Ngân hàng cổ phần đô thị theo quyết định 104/QĐ-NHNN ngày 09/01/2007 của Ngân hàng nhà nước và được đổi tên thành Ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank).
Ngày 04/06/2007, OceanBank cho ra mắt tấm thẻ ATM đầu tiên, đánh dấu bước phát triển mới của OceanBank, đồng thời gia nhập liên minh thẻ Banknetvn để mở cổng kết nối với các ngân hàng khác. Trong năm 2008 và sang năm 2009, OceanBank tiếp tục cung cấp cho các nhóm khách hàng các sản phẩm như: Thẻ thanh toán nội địa với hệ thống máy chấp nhận thẻ rộng khắp trên toàn quốc; Dịch vụ Internet banking dành cho khách hàng cá nhân.
Hệ thống mạng lưới hoạt động của OceanBank đang được thiết lập nhanh chóng. Hiện OceanBank đã có 57 chi nhánh và phòng giao dịch khắp 3 miền Bắc, Trung, Nam. Trong năm 2009, OceanBank sẽ tiếp tục mở rộng thêm hệ thống chi nhánh và phòng giao dịch của mình.
Chỉ tiêu tài chính năm 2008:
Vốn điều lệ: 1.000 tỷ đồng
Tổng tài sản: 14.091,3 tỷ đồng
Tồng lợi nhuận trước thuế: 62.084,3 tỷ đồng
9.7 Ngân hàng thương mại cổ phần Miền Tây
Ngân hàng TMCP Miền Tây (Western Bank) tiền thân là Ngân hàng Cờ Đỏ, được thành lập từ cuối năm 1988 tại Thành phố Cần Thơ và chuyển đổi thành ngân hàng đô thị và vốn điều lệ của Western Bank nâng lên 1000 tỷ đồng năm 2007.
Western Bank là ngân hàng đầu tiên trong hệ thống ngân hàng Việt Nam ứng dụng những công nghệ hiện đại nhất vào hoạt động như: công nghệ bảo mật bằng dấu vân tay, máy kiểm xuất tiền tự động TCD (Teller Cash Dispenser), hệ thống ATM, hệ thống ebanking..
Western Bank nhiều năm liền nhận được sự tài trợ từ World Bank cho quỹ phát triển nông thôn, nâng cao năng lực thể chế và tài chính vi mô.
Chỉ tiêu tài chính năm 2008
Vốn điều lệ: 1.000 tỷ đồng
Tổng tài sản: 1.295,278 tỷ đồng
Lợi nhuận sau thuế: 30,419 tỷ đồng
Thu nhập trên mỗi cổ phiếu: 11% / năm
9.9 Ngân hàng thương mại cổ phần Bảo Việt
Được thành lập theo giấy phép hoạt động số 328/GP-NHNN, ngày 11/12/2008 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ngân hàng TMCP Bảo Việt (BAOVIET BANK) đã chính thức trở thành thành viên trẻ nhất của tập đoàn Tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt, góp phần hình thành thế chân kiềng vững chắc giữa Bảo hiểm - Ngân hàng - Chứng khoán, tạo nên sức mạnh tổng hợp, đảm bảo cho sự phát triển bền vững, toàn diện cho toàn hệ thống của Tập đoàn Bảo Việt.
Với các cổ đông sáng lập là Tập đoàn Bảo Việt, Tổng Công ty sữa Việt Nam (Vinamilk) và Công ty Cổ phần Tập đoàn CMC cùng một số cổ đông là các tổ chức có uy tín khác trong nước, BAOVIET BANK có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc phát triển quan hệ đối tác với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước, ứng dụng công nghệ ngân hàng tiến tiến và hiệu quả nhất để tạo nên sức mạnh cạnh tranh cho ngân hàng, tạo tiền đề để trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam vào năm 2015.
Chỉ tiêu tài chính năm 2008
Vốn điều lệ:1.500 tỷ đồng
9.8 Ngân hàng thương mại cổ phần Tiên Phong
Ngân hàng TMCP Tiên Phong được thành lập vào tháng 8/2008 bởi Công ty cổ phần FPT (nắm giữ 12 % cổ phần), Công ty thông tin di động VMS MobiFone (10 % cổ phần) và Tổng Công ty Cổ phần Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam Vinare (10% cổ phần)
TienPhongBank được kế thừa các thế mạnh về công nghệ thông tin, công nghệ viễn thông di động, tiềm lực tài chính và vị thế của các cổ đông lớn này mang lại. TienPhongBank xác định phát huy các ưu thế này để xây dựng cho mình một nền tảng bền vững và mang đến cho khách hàng cuộc sống tài chính đơn giản và hiệu quả hơn. Chỉ tiêu tài chính năm 2008:
Vốn điều lệ: 1.250 tỷ đồng
Tổng tài sản: 2.419 tỷ đồng
Tổng lợi nhuận sau thuế: 50,5 tỷ đồng
10. Tình hình hoạt động chung của ngân hàng Kiên Long
10.1 Một số chỉ tiêu hoạt động chủ yếu của ngân hàng Kiên Long
Tình hình cho vay
ĐVT: tỷ đồng
Hình 2: Biểu đồ dư nợ cho vay
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2008 – KienlongBank)
Tổng dư nợ cho vay tính đến 31/12/2008 đạt 2.195 tỷ đồng, tăng 843 tỷ đồng so với năm 2007 (tỷ lệ tăng 62,41%), nâng mức tăng trưởng bình quân hàng năm (giai đoạn 2006-2008) đạt trên 90%. Nợ xấu luôn được kiềm chế ở tỷ lệ thấp.
Với phương châm hoạt động an toàn và hiệu quả, ngoài việc mở rộng hoạt động tín dụng, Ngân hàng Kiên Long còn chú trọng đến mở rộng đối tượng cho vay đa dạng hóa danh mục sản phẩm tín dụng; cho vay sản xuất nông nghiệp, cho vay sản xuất kinh doanh, cho vay phục vụ đời sống, cho vay cá nhân, doanh nghiệp, cho vay liên kết… ngoài các hình thức cho vay truyền thống, hiện nay Ngân hàng Kiên Long còn có các hình thức cho vay khác như: cho vay tín chấp, thấu chi, mua nhà, mua xe ô tô…
Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ toàn Ngân hàng là 1,66 % (kế hoạch là ≤ 2%). Trong năm 2008, phần lớn các đơn vị trực thuộc đều hoàn thành vượt kế hoạch dư nợ cho vay. Trong đó, nhiều đơn vị thực hiện vượt trên 100% kế hoạch.
Tình hình huy động tiền gửi
ĐVT: tỷ đồng
Hình 3: Biểu đồ dư nợ cho vay
(Nguồn: Báo cáo thường niên 2008 – KienlongBank)
Trong năm qua, bằng những nỗ lực, quyết tâm của Ban lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ nhân viên Ngân hàng, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Kiên Long trong năm 2008 đã đạt được những kết quả khả quan.
Tổng huy động vốn tính đến 31/12/2008 đạt trên 1.846 tỷ đồng, tăng 318 tỷ đồng so với năm 2007 (tỷ lệ tăng 20,74 %), chiếm tỷ trọng
63%/tổng nguồn vốn. Trong đó:
Số dư tiền gửi tiết kiệm bằng VND đạt 1.543,15 tỷ đồng tăng 90,95% so với 31/12/2007 và đạt 106,37% so với kế hoach đề ra.
Tiền gửi tổ chức kinh tế đạt 86,93 tỷ đồng, giảm 49,1 tỷ so với 31/12/2007 và đạt 45,61% so với kế hoạch đề ra. Tiền gửi tổ chức kinh tế giảm so với đầu năm là do trong năm đến hạn trả của 2 khoản tiền giao dịch liên ngân hàng là 100 tỷ đồng (Khoản 50 tỷ của Phố Wall nhận vào ngày 27/12/2007, gửi Ngân hàng Đại Dương, kỳ hạn 3 tháng; và khoản 50 tỷ nhận của Công ty phát triển nhà đô thị ngày 10/12/2007, gửi Ngân hàng Nhà Đồng bằng Sông Cửu Long, kỳ hạn 01 năm). Như vậy, nếu tính trừ khoản giao dịch liên ngân hàng thì tiền gửi tổ chức kinh tế năm 2008 tăng 241% so với 31/12/2007.
Trong huy động vốn, Ngân hàng luôn chú trọng khai thác nguồn vốn tại chỗ, bằng các giải pháp huy động vốn hiệu quả phù hợp với tình hình cụ thể. Đồng thời Ngân hàng luôn chú trọng nâng cao chất lượng phục vụ, chính vì thế mà mối quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng ngày càng được củng cố và hoàn thiện, từ đó nguồn vốn huy động tiền gửi dân cư không ngừng tăng trưởng qua các năm, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm trên 92% (2006-2008).
Bên cạnh đó, năm qua Ngân hàng Kiên Long đã được Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá là Ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh, phát triển ổn định và hoạt động hiệu quả và tiếp tục tăng mức tài trợ nguồn vốn từ dự án Tài chính Nông thôn.
Tình hình hoạt động dịch vụ
Thực hiện việc đa dạng hóa sản phẩm, đẩy mạnh họat động dịch vụ, Ngân hàng Kiên Long đa liên kết với Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín, Ngân hàng Phương Nam, Công ty EDEN để phát triển các dịch vụ như: Thanh toán thẻ, séc du lịch, dịch vụ chuyển tiền nhanh trong và ngoài nước, thu đổi ngoại tệ và các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt khác thông qua tài khoản của khách hàng vv...
Ngoài ra trong quý IV năm 2008 Ngân hàng Kiên Long phát triển các sản phẩm dịch vụ mới như: thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối.Tuy tỷ trọng thu nhập từ các loại hình dịch vụ chưa cao, nhưng tốc độ tăng trưởng thu nhập từ dịch vụ hàng năm là khá cao (trên 40%). Điều này giúp Ngân hàng vừa nâng dần tỷ trọng thu nhập từ dịch vụ vừa giúp cho Ngân hàng có điều kiện tiếp cận với công nghệ Ngân hàng hiện đại.
Chỉ tiêu một số hoạt động dịch vụ năm 2008:
Doanh số chuyển tiền đạt : 812 tỷ đồng
Doanh số chi trả kiều hối đạt : 3 triệu USD
Doanh số thu đổi ngọai tệ đạt : 6.4 triệu USD
Thanh toán thẻ séc đạt : 0,035 triệu USD
Nguyên nhân dẫn đến các chỉ tiêu về dịch vụ không đạt mức cao là do: sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng trên cùng một địa bàn ngày càng gay gắt; Ngân hàng Nhà nước mới cho phép Ngân hàng Kiên Long được kinh doanh ngoại hối trong quý IV năm 2008, trước đó Ngân hàng chỉ được làm đại lý đối với các loại hình dịch vụ thanh toán bằng ngoại tệ nên hoạt động trong lĩnh vực này còn gặp nhiều khó khăn.
10.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng Kiên Long
Hình 4: Biểu đồ kết quả kinh doanh 2003-2008
(Nguồn: Báo cáo tài chính 2008 –Ngân hàng Kiên Long )
Tỷ đồng
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Kiên Long liên tục tăng trưởng mạnh qua các năm. Kết quả họat động kinh doanh năm 2008 như sau:
Tổng doanh thu đạt 374.412 triệu đồng, tăng 86,79% so với năm 2007.
Tổng chi phí là 323.758 triệu đồng, tăng 157,68% so với năm 2007.
Lợi nhuận trước thuế đạt 50.654 triệu đồng,. Lợi nhuận năm 2008 toàn Ngân hàng là 50.654 triệu đồng, đạt 115% chỉ tiêu kế hoạch đã đề ra, giảm 32,3% so với năm 2007 (năm 2007 là 74.803 triệu đồng), nâng tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt trên 41% cho giai đoạn 2006-2008.
Năm 2008, Ngân hàng đã phát triển mạng lưới rộng khắp cả nước với 4 chi nhánh mới ở các tỉnh, thành phố như Hải Phòng, Khánh Hòa, Đắc Lắc và Bến Tre, bên cạnh đó 19 phòng giao dịch mới cũng được khai trương, chủ yếu là ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Như vậy, tính đến đầu năm 2009, Kienlong Bank có tổng cộng 52 chi nhánh, phòng giao dịch trên cả nước.
Năm 2008, Ngân hàng Kiên Long đã được Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá là Ngân hàng có tình hình tài chính lành mạnh, phát triển ổn định và hoạt động hiệu quả và tiếp tục tăng mức tài trợ nguồn vốn từ dự án Tài chính Nông thôn.
10.3 Cơ cấu thu nhập của ngân hàng Kiên Long
STT
Chỉ tiêu
2008
2007
1
Thu nhập lãi thuần từ hoạt động cho vay
126,038,626,454
107,468,891,462
2
Lãi / lỗ thuần từ hoạt động dịch vụ
366,035,252
199,625,721
3
Lãi / lỗ thuần từ hoạt động kinh doanh ngoại hối
255,418,761
15,640,625
4
Lãi / lỗ thuần từ hoạt động mua bán chứng khoán
6,761,504,739
0
5
Lãi / lỗ thuần từ hoạt động khác
269,464,906
816,282,566
6
Thu nhập thuần từ góp vốn, mua cổ phần
2,793,569,600
0
Chi phí hoạt động và chi phí dự phòng
85,830,374,697
33,697,133,539
Tổng lợi nhuận trước thuế
50,654,245,015
74,803,306,835
Tổng lợi nhuận sau thuế
37,253,255,899
53,858,380,921
Hình 5: Bảng cơ cấu thu nhập của Ngân hàng Kiên Long
(Nguồn: Báo cáo tài chính 2008 – Ngân hàng Kiên Long)
Theo bảng cơ cấu thu nhập của ngân hàng thì hoạt động cho vay là hoạt động chính và đem về doanh thu cao nhất. Thu nhập lãi thuần từ hoạt động cho vay năm 2008 tăng 17,28 % so với năm 2007.
Đạt được thành quả này là do: ngoài việc mở rộng hoạt động tín dụng, Ngân hàng Kiên Long còn chú trọng đến mở rộng đối tượng cho vay đa dạng hóa danh mục sản phẩm tín dụng; cho vay sản xuất nông nghiệp, cho vay sản xuất kinh doanh, cho vay phục vụ đời sống, cho vay cá nhân, doanh nghiệp, cho vay liên kết … Ngoài các hình thức cho vay truyền thống, năm 2008, Ngân hàng Kiên Long còn có các hình thức cho vay khác như: cho vay tín chấp, thấu chi, mua nhà, mua xe ô tô…
Mặc dù tổng thu nhập của ngân hàng cao, nhưng về tổng thể, tổng lợi nhuận trước thuế và sau thuế năm 2008 đều giảm so với năm 2007. Điều này là do: chi phí hoạt động và chi phí dự phòng của ngân hàng năm 2008 tăng 154,71 % so với năm 2007.
Vì:
Ngân hàng mở rộng mạng lưới hoạt động nên trong năm 2008 đã xây dựng và đưa vào hoạt động 4 Chi nhánh và 19 Phòng giao dịch mới. Đồng thời, năm 2008 là năm mà ngân hàng đẩy mạnh công tác quảng bá thương hiệu. Nên chí phí do hoạt động mở rộng mạng lưới và quảng bá thương hiệu trong năm 2008 cao hơn hẳn so với năm 2007. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn đến lợi nhuận giảm.
Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng năm 2007 là 1,7 tỷ đồng, sang năm 2008 khoản này tăng lên 4,3 tỷ đồng. Đây là vì tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam có nhiều diễn biến bất thường và vẫn sẽ kéo dài ít nhất là đến cuối năm 2009.
Chính sách thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước nhằm kiềm chế lạm phát đã làm cho tình hình huy động tiền gửi trong năm 2008 có nhiều biến động, đặc biệt là 6 tháng đầu năm 2008. Các ngân hàng chạy đua lãi suất khiến lãi suất huy động tăng cao theo từng ngày, làm cho dòng tiền dịch chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Vì là ngân hàng quy mô nhỏ nên Kiên Long khó cạnh tranh với các ngân hàng đại gia khác.
11. Mục tiêu, định hướng phát triển của ngân hàng Kiên Long trong những năm sắp tới
Thực hiện chiến lược phát triển sản phẩm, dịch vụ mới:
Phát triển các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng hiện đại: Intetnet Banking, Home Banking, Mobile Banking, ATM / POS, thẻ ngân hàng.
Phát triển các sản phẩm, dịch vụ: thuê mua tài chính, chuyển tiền nhanh nội địa, kiều hối, bảo hiểm, quản lý nợ khai thác tài sản; thực hiện dịch vụ thanh toán ngân quỹ bằng ngoại tệ; mua bán hoặc làm đại lý mua bán các loại chứng khoán bằng ngoại tệ; mua bán, thu đổi các loại ngoại tệ; dịch vụ thanh toán quốc tế.
Phát triển thương hiệu và xây dựng văn hóa doanh nghiệp của ngân hàng Kiên Long, từng bước đưa ngân hàng trở thành Ngân hàng thân quen đối với khách hàng tại các địa bàn hoạt động.
Tăng nhanh vốn điều lệ để tăng cường năng lực tài chính: kế hoạch trong 2009 ngân hàng sẽ tăng vốn điều lệ lên tối thiểu là 2000 tỷ đồng, và phấn đấu đạt mức vốn điều lệ trên 3000 tỷ đồng vào cuối 2010 theo quy định của ngân hàng nhà nước.
Mở rộng mạng lưới hoạt động tại HCM. Thành lập các chi nhánh mới tại tỉnh: Vĩnh Long, Cà Mau, Sóc Trăng, Tiền Giang,Long an, đồng nai (Biên Hòa) và tỉnh Bình Phước. Nâng cấp các phòng giao dịch lên thành chi nhánh tại 1 số tỉnh miền Tây.
Thực hiện chiến lược phát triển nguồn nhân lực: đầu tư đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ nhân viên đáp ứng theo đúng tiêu chuẩn và yêu cầu công việc. Kết hợp với Trường ĐH Kinh tế HCM và sự hỗ trợ đào tạo về nghiệp vụ từ ngân hàng Á Châu.
Về lâu dài, Ngân hàng Kiên Long phát triển bền vững trên nền tảng chữ Xanh, phát triển đồng hành cùng với bảo vệ môi trường và vì lợi ích chung của cộng đồng.
II Thương hiệu KienLong Bank
1. Giới thiệu thương hiệu “ Xanh ”
Trong thế giới kinh doanh thế kỷ XXI, khi nhân loại đang phải đối mặt với những thách thức lớn từ môi trường, thay đổi khí hậu, dịch bệnh… thì chữ “Xanh” đang là một chiến lược được nhiều doanh nghiệp vận dụng hiệu quả.
Đối với các doanh nghiệp, chữ “xanh và sạch” không chỉ có ý nghĩa trong ngành thực phẩm hay những sản phẩm trực tiếp ảnh hưởng đến sức khỏe con người mà nó có thể được mở rộng ra tất cả ngành nghề kinh doanh khác. Từ ngành sản xuất ô tô, xe máy, đồ dùng gia đình cho đến các ngành dịch vụ như bảo hiểm hay ngân hàng đều có thể, bằng cách này hay cách khác mà đóng góp cho lợi ích chung của cộng đồng.
Đối với người tiêu dùng, thông qua việc sử dụng sản phẩm hay dịch vụ của những thương hiệu “sạch và xanh”, họ nhận thức được lợi ích mang lại cho chính mình, phù hợp với mình và thực sự có ý nghĩa trong cuộc sống.
Do vậy, vì mục tiêu phát triển lâu dài, đầu tư hợp lý cho chữ “sạch và xanh” là việc đáng làm ngay đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, nhất là khi đã gia nhập WTO.
Trong ngành ngân hàng, chữ xanh và sạch cũng rất có ý nghĩa:
Chữ xanh có nghĩa là môi trường xanh, sạch, không bị ô nhiễm, không bị tàn phá. Ngành ngân hàng thông qua các hoạt động cung cấp tín dụng hỗ trợ cho các dự án bảo vệ môi trường hoặc khuyến khích cộng đồng bảo vệ môi trường.
Chữ xanh trong ngành ngân hàng còn có nghĩa là đóng góp cho lợi ích phát triển của cộng đồng thông qua các hoạt động tài trợ, các hoạt động xã hội...
Chữ “sạch” có liên quan đến khái niệm “sạch” trong đạo đức kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng cần phải rõ ràng, minh bạch về hoạt động kinh doanh, tài chính cũng như trong thông tin gửi đến người tiêu dùng và các đối tượng có liên quan.
“Xanh và sạch” nên là yếu tố cơ bản, nếu không muốn nói là cốt lõi trong xây dựng thương hiệu. Rất nhiều thương hiệu quốc tế đang áp dụng triệt để định hướng này nhằm thu hút sự ủng hộ từ người tiêu dùng, các hiệp hội và các cấp chính quyền. Qua đó, nhắm đến mục tiêu lâu dài là gia tăng giá trị cho thương hiệu của mình.
Từ nhận thức sâu sắc về xu hướng phát triển tất yếu, trong chiến lược phát triển lâu dài của mình, Ngân hàng Kiên Long đã xác định sẽ phát triển trên nền tảng của chữ “Xanh”, trở thành thương hiệu “Xanh” đầu tiên trong ngành ngân hàng Việt Nam và đi đầu trong các hoạt động về môi trường tại Việt Nam.
Kiên
Tín
Tâm
Xanh
“Con người” Kienlong Bank
2. Thương hiệu Kiên Long
2.1 Giá trị cốt lõi
Xanh:
Xanh môi trường
Xanh sức sống
Xanh kỳ vọng
Tâm:
Lấy chữ Tâm làm trọng trong hoạt động
Sự tâm huyết, yêu nghề, có đạo đức kinh doanh của các thành viên Ban lãnh đạo và toàn thể nhân viên
Tín:
Ban lãnh đạo có uy tín với nhân viên Nội bộ đồng lòng
Nhân viên tạo sự tín nhiệm đối với lãnh đạo
Ngân hàng tạo được niềm tin nơi khách hàng à Khách hàng trung thành
Kiên:
Chia sẻ thông tin, ước mơ, kế hoạch, khó khăn, thành công với khách hàng
Bản lĩnh vượt qua mọi khó khăn thử thách
Kiên định phát triển theo con đường đi đã chọn: luôn luôn hướng tới xây dựng một thương hiệu Xanh, một môi trường sống và hoạt động xanh, sạch
2.2 Ý nghĩa của chữ “Xanh”
Xanh môi trường:
Kienlong Bank là thương hiệu tiên phong trong ngành ngân hàng đề cao môi trường. Tất cả các hoạt động của Kienlong Bank, từ diện mạo cho đến dịch vụ, đều liên quan đến chữ “Xanh” và mở rộng sang chữ “Sạch” trong hoạt động tín dụng.
Ngân hàng Kiên Long cam kết phát triển đồng hành cùng môi trường và cộng đồng để chung tay góp sức xây dựng môi trường sống xanh sạch, môi trường làm việc trong sạch và cải thiện, nâng cao đời sống cộng đồng.
Xanh sức sống:
Màu xanh tượng trưng cho tuổi trẻ, sự nhiệt tình phấn đấu vươn lên của một thương hiệu à thể hiện sự quyết tâm của ngân hàng Kiên Long trong việc tạo dựng cho mình một vị thế vững mạnh trong tâm trí khách hàng.
Xanh kỳ vọng:
Sự hài lòng và trung thành của khách hàng.
Tài lãnh đạo, quản trị từ các cấp lãnh đạo.
Sự học hỏi không ngừng vươn lên của toàn thể nhân viên.
Giá trị gia tăng từ cổ đông.
2.3 Lộ trình xây dựng thương hiệu
Giai đoạn 2007 – 2010: Kienlong Bank bắt đầu chính thức xuất hiện tại các địa bàn khác ngoài tỉnh Kiên Giang.
2007 - 2008: Tạo sự nhận biết ban đầu về thương hiệu Kienlong Bank
2008 - 2010:
Tạo sự hiểu biết về ý nhĩa thương hiệu, bước đầu tạo cảm tình đối với khách hàng
Cung cấp các sản phẩm, dịch vụ “Xanh”
Tham gia các hoạt động “Xanh” vì lợi ích phát triển cộng đồng
Giai đoạn 2010 – 2016: Kiênlong Bank tạo dựng thương hiệu mạnh
Duy trì việc thiết lập và phát triển cộng đồng ủng hộ các dịch vụ và hoạt động “Xanh” của Kienlong Bank.
Gia tăng sự hiểu biết và thiết lập mối quan hệ bền vững
Hình thành cộng đồng ưa chuộng thương hiệu Kienlong Bank, tạo thành giá trị thương hiệu mạnh
III Thực trạng hoạt động PR trong chiến lược xây dựng thương hiệu tại ngân hàng Kiên Long
Trong hoạt động quảng bá thương hiệu KienlongBank, ngân hàng Kiên Long sử dụng 3 công cụ chính là quảng cáo, khuyến mại và PR. Riêng trong công cụ PR, 5 phương thức được sử dụng là thông cáo báo chí, tổ chức sự kiện, hoạt động tài trợ, hoạt động xã hội và PR trực tuyến.
1. Thông cáo báo chí
Phương tiện truyền thông đại chúng là kênh thông tin hữu hiệu nhất nếu xét về khả năng tiếp cận được nhiều người tại nhiều địa điểm khác nhau. Tất cả các hoạt động PR từ hoạt động từ thiện đến tài trợ hay tổ chức sự kiện đều cần phải kết hợp với kênh này, nếu không các hoạt động quan hệ công chúng sẽ kém hiệu quả.
Để sử dụng kênh thông tin này, doanh nghiệp thường sử dụng các hoạt động quan hệ công chúng với giới báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình ...
Thông cáo báo chí bao gồm các hoạt động như: Tổ chức họp báo để giới thiệu sản mới và lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp; soạn thảo các thông cáo báo chí, tổ chức các buổi thông tin, chỉ dẫn mang tính cập nhật cho các nhà báo về sản phẩm và hoạt động của doanh nghiệp; sắp xếp các cuộc phỏng vấn, phóng sự đặc biệt về doanh nghiệp, về tư vấn tiêu dùng, lấy tin thậm chí thành lập lập tờ báo riêng cho mình.
Quan hệ tốt với giới báo chí, truyền hình là chiếc cầu nối ngắn nhất, hiệu quả nhất giữa khách hàng, cộng đồng với ngân hàng.
Tình hình quan hệ báo đài của Ngân hàng Kiên Long
Báo: Tuổi trẻ, Thanh niên, Sài Gòn giải phóng, Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh, Người lao động và tất cả các báo địa phương tại Đồng bằng sông Cửu Long (báo Cần Thơ).
Tạp chí chuyên ngành: Thời báo kinh tế Sài Gòn, Saigon Times, Thời báo ngân hàng, Nhịp cầu đầu tư.
Đài truyền hình: Trung tâm truyền hình Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh và Cần Thơ, CVTV1, VTV9 và tất cả các đài truyền hình tại Đồng bằng sông Cửu Long
Đài phát thanh: tất cả các Đài phát thanh tại Đồng bằng sông Cửu Long
Tất cả các sự kiện, hoạt động của Ngân hàng Kiên Long, đặc biệt là Lễ khai trương Chi nhánh, Phòng giao dịch và các hoạt động xã hội đều được đưa tin trên các báo, đài.
2. Tổ chức sự kiện
Tổ chức sự kiện là làm cho một hoạt động của ngân hàng trở thành một sự kiện có thể gây ra dư luận nhanh, mạnh và rộng rãi với sự tác động của báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng.
Tổ chức sự kiện là công việc góp phần "đánh bóng" cho thương hiệu và sản phẩm của một công ty thông qua những sự kiện. Là cơ hội để ngân hàng gặp gỡ, trao đổi và giao lưu với bạn hàng, đối tác, các cơ quan truyền thông, cơ quan công quyền, giúp thúc đẩy thông tin hai chiều và tăng cường quan hệ có lợi cho ngân hàng.
Mục đích của công việc này là tổ chức các hoạt động quan trọng của ngân hàng , nâng cao độ nhận biết thương hiệu, độ am hiểu sản phẩm và thậm chí là thu hút cả một thế hệ khách hàng tiềm năng trong tương lai.
Tình hình hoạt động tổ chức sự kiện của ngân hàng Kiên Long
Từ 2007 đến nay, Ngân hàng Kiên Long đã tổ chức Lễ khai trương cho 42 Chi nhánh và Phòng giao dịch tại nhiều địa bàn khác nhau trong cả nước. Tất cả đều diễn ra và kết thúc tốt đẹp.
Tổ chức Đại hội cổ đông thường niên tại Kiên Giang. Ngày 17/4/2009 diễn ra Đại hội thường niên 2008
Năm 2008, Ngân hàng tổ chức cuộc thi ảnh “Nụ cười thân thiện”, các CBNV ngân hàng đều ủng hộ và tham gia nhiệt tình
Mừng Xuân Kỷ Sửu 2009 và phát động phong trào tập luyện TDTT, trong 2 ngày 17-18 tháng 01 năm 2009, ngân hàng Kiên Long đã tổ chức giải Bóng đá mini trong lực lượng CBNV ngân hàng Kiên Long. Qua 2 ngày thi đấu sôi nổi trên tinh thần vui khỏe và đoàn kết. Kết quả giải nhất thuộc về phòng giao dịch Rạch Sỏi, giải nhì liên quân Chi nhánh Rạch Giá – Phòng giao dịch Hòn Đất và giải ba liên quân chi nhánh Bến Nhứt – Phòng giao dịch số 3.
Ngày 09/05/2009, tại sân bóng đá CLB Thanh Đa - 107 Bình Quới, phường 28, Quận Bình Thạnh đã diễn ra lễ khai mạc giải bóng đá: “FIS BANK OPEN 2009”. Tham gia thi đấu có 08 đội gồm: Fis Bank, Kienlong Bank, Agribank, BIDV HCM, Shinhanvina, Vietcombank, Eximbank và HDBank
Ngày 10/05/2009, Kienlong Bank tổ chức hội thảo “Giải pháp phát triển nghiệp vụ tài trợ xuất nhập khẩu và huy động vốn”. Riêng về chủ đề huy động vốn, Chi nhánh Hải Phòng đưa ra mô hình PR bằng cách đưa thông tin về các dịch vụ sản phẩm của ngân hàng trên Đài truyền thanh, Đài Phát thanh- Truyền hình tỉnh, huấn luyện đội ngũ giao dịch viên ứng xử trong giao tiếp với khách hàng và các hoạt động từ thiện với chi phí thấp, nhằm tăng khả năng nhận biết về thương hiệu Kiên Long đến với khách hàng, Chi nhánh Cần Thơ đưa ra mô hình quảng cáo sản phẩm dịch vụ gửi thư kèm báo...
2.3 Hoạt động tài trợ
Khách hàng mục tiêu thường cảm nhận về sự tài trợ với thái độ tích cực, thiện cảm. Họ nghĩ ngân hàng có nhiều nỗ lực đem lại thành công cho sự kiện, tức là làm họ được thỏa mãn hơn. Nhờ tài trợ, hình ảnh của ngân hàng được thiện cảm hơn, trở nên gần gũi hơn đối với khách hàng. Sự thân thiện này chắc chắn sẽ thúc đẩy doanh thu của ngân hảng.
Việc tài trợ cho các sự kiện, đặc biệt là trong những trường hợp độc quyền tài trợ, là một cách thức quan trọng để tạo ra sự khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh. Tên của ngân hàng có cơ hội được nêu lên nhiều lần với tư cách là nhà tài trợ duy nhất. Ngoài ra, ngân hàng còn khẳng định sự lớn mạnh, sự ổn định về tài chính.
Hình hình thực hiện hoạt động tài trợ của ngân hàng
Ngày 11/11/2007 là năm thứ hai Ngân hàng Kiên Long tài trợ chương trình Hội thảo "CEO Việt trong thế giới phẳng" do báo Người Lao Động và Viện nghiên cứu Kinh tế phát triển - ĐH Kinh tế TPHCM tổ chức. Đây là một sự kiện đặc biệt nhằm chào mừng một năm VN chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và cũng là dịp để đội ngũ CEO Việt bàn thảo, tranh luận chia sẻ kinh nghiệm quản lý, điều hành phát triển doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập mới. Tại hội thảo, Ông Trương Hoàng Lương, Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Kiên Long – là thành viên Chủ tọa cuộc Hội thảo.
Ngày 09/10/2007, ngân hàng Kiên Long - nhà tài trợ duy nhất Lễ hội truyền thống lần thứ 139 kỷ niệm ngày hy sinh của Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực đã được trung tâm sách kỷ lục VN xác lập kỷ lục Bức trường Thư pháp và Bộ Văn phong tứ bảo Lớn nhất VN. Ngân hàng đã trao tặng Bức trượng và Bộ văn phong cho Ban Tổ chức để đưa ra đấu giá nhằm xây dựng Quỹ Phát triển Giáo dục.
Ngày 23/02/2008, Ngân hàng Kiên Long tham gia tài trợ cuộc thi “Hoa hậu Đồng bằng song Cửu Long” do Ðài phát thanh - truyền hình tỉnh Hậu Giang đăng cai tổ chức. Nhân dịp này, Ngân hàng TMCP Kiên Long đã trao học bổng cho sinh viên trường Đại học Cần Thơ. Ngoài ra, Ngân hàng TMCP Kiên Long còn tặng 30 triệu đồng cho Quỹ khuyến học tỉnh Hậu Giang và tặng 20 triệu đồng xây dựng nhà cho các em lang thang cơ nhỡ ở Thị xã Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.
Ngày 21/03/2008, Ngân hàng TMCP Kiên Long tài trợ hội thảo chuyên đề Tài chính – Ngân hàng tổ chức tại ĐH Mở TP. HCM.
Ngày 10/10/2008 Ngân hàng TMCP Kiên Long tham gia tài trợ chương trình “Chắp cánh ước mơ”. Đây là chương trình với mục tiêu góp phần chung tay cùng cộng đồng giúp đỡ những người nghèo khó, bệnh tật, những học sinh nghèo học giỏi biết vượt lên số phận… Chương trình do Trung tâm truyền hình Việt Nam tại TP. HCM, hãng phim Tây Việt tổ chức và phát sóng trên VTV9.
Đêm ngày 5/01/2009, Ngân hàng TMCP Kiên Long là đơn vị tài trợ chính cho đêm ca nhạc “Những dòng sông hò hẹn” lần thứ 21 với chủ đề : “Mùa Xuân”. Chương trình được tổ chức tại tỉnh Kiên Giang và được truyền hình trực tiếp trên 11 Đài truyền hình như: Kiên Giang, Đồng Tháp, Long An, Đồng Nai, Bình Thuận, Bình Phước, Sóc Trăng, Ninh Thuận, Cà Mau, Đắc Nông và Lâm Đồng. Đêm văn nghệ đã thu hút hàng ngàn khán giả đến xem và cổ vũ cho chương trình
Ngân hàng Kiên Long tài trợ giải cầu lông đồng đội nam nữ hỗn hợp nam nữ toàn quốc diễn ra từ ngày 18 đến 21/3/ 2009, tại Nhà thi đấu Phan Đình Phùng, TP. Hồ Chí Minh với sự góp mặt của 9 đội đến từ 11 tỉnh, thành, ngành trên cả nước.
Ngoài ra còn một số hoạt động tài trợ vì cộng đồng khác như:
Tài trợ hội thi Thông tin lưu động của tỉnh Trà Vinh
Tài trợ cuộc đua ghe do Thành phố Rạch Giá tổ chức và nhiều phong trào khác mang tính phúc lợi nhằm hỗ trợ, chia sẻ các khó khăn với cộng đồng.
4. Hoạt động xã hội
Có 4 lý do chính để ngân hàng chọn hoạt động xã hội trong việc quảng bá thương hiệu:
Xây dựng sở thích thương hiệu: khách hàng thường thích lựa chọn sản phẩm, dịch vụ của thương hiệu nào có liên quan đến những động cơ tốt hơn so với các thương hiệu khác.
Khách hàng thường không bận tâm đến việc trả thêm tiền cho một thương hiệu được mọi người biết đến như là một nhà từ thiện. Vì họ cảm thấy rằng một phần tiền trả cho thương hiệu sẽ được dành cho các hoạt động từ thiện cao đẹp.
Giảm ý nghĩa tiêu cực liên quan đến thương hiệu: các ngân hàng thường bị nghĩ xấu là: đã là ngân hàng thì tất nhiên phải giàu, phải có nhiều tiền. Người dân gửi tiền vào thì dễ nhưng vay được tiền thì rất khó khăn. Vậy ngân hàng chỉ biết làm giàu cho chính mình chứ không quan tâm đến người khác à các hoạt động tài trợ, từ thiện sẽ làm xóa mờ suy nghĩ đó.
Các nhà đầu tư, đối tác chiến lược sẽ không cần phải tìm hiểu quá kỹ càng về thương hiệu mà họ có thể đầu tư bởi vì họ tin rằng một thương hiệu kinh doanh với mục đích tốt có thể tín nhiệm được.
Tình hình thực hiện hoạt động từ thiện của ngân hàng
27/11/2007, tập thể cán bộ - nhân viên Ngân hàng Kiên Long đã trích một ngày lương và quỹ phúc lợi của Ngân hàng với tổng số tiền trên 100 triệu đồng ủng hộ bà con bị lũ lụt ở Tỉnh Quảng Nam và Thành Phố Đà Nẵng. Với số tiền này, Ngân hàng TMCP Kiên Long đã:
Trao 25 sổ tiết kiệm (mỗi sổ trị giá 2 triệu đồng) cho những gia đình có người chết, mất tích trong các đợt lũ vừa qua tại Thành Phố Đà Nẵng.
Ngân hàng TMCP Kiên Long phối hợp với Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam Tỉnh Quảng Nam tổ chức xây dựng 05 căn nhà tình thương mỗi căn trị giá 10 triệu đồng cho những gia đình nghèo có nhà bị lũ cuốn trôi vừa qua, nhằm giúp các gia đình này sớm ổn định cuộc sống
Ngày 28/12/2007, tặng 200 mũ bảo hiểm cho bà con huyện Phú quốc
Ngày 23/02/2008, nhân dịp tham gia tài trợ cuộc thi hoa hậu Đồng bằng sông Cửu Long, Ngân hàng Kiên Long đã:
Trao 20 suất học bổng cho 20 sinh viên trường Đại học Cần Thơ mỗi suất trị giá một triệu đồng.
Tặng 30 triệu đồng cho Quĩ khuyến học tỉnh Hậu Giang.
Tặng 20 triệu đồng xây dựng nhà cho các em lang thang cơ nhỡ ở Thị xã Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang.
Ngày 17/08/2008, Ngân hàng TMCP Kiên Long tặng quà cho chương trình “Liên hoan văn nghệ - thể thao trẻ em thiệt thòi năm 2008”.
Ngày 17/10/2008, Ngân hàng TMCP Kiên Long trao tặng học bổng cho trường cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật TP. Hồ Chí Minh nhân dịp khai giảng năm học 2008 – 2009 của trường.
Ngày 25/10/2008, nhân dịp kỷ niệm 5 năm thành lập Khoa Ngân hàng – Đại họa Kinh tế TP. HCM, Ngân hàng Kiên Long tài trợ 10 suất học bổng cho những sinh viên nghèo vượt khó và tổ chức gian hàng hướng dẫn sinh viên về các sản phẩm, dịch vụ tài chính – Ngân hàng.
Ngày 17/01/2009, tại Sân vận động tỉnh Kiên Giang sẽ diễn ra đêm văn nghệ gây quỹ vì người nghèo với chủ đề: “Kiên Giang – Một tấm lòng nhiều nghĩa cử” do UBND tỉnh Kiên Giang tổ chức. Đây là đêm văn nghệ nhằm kêu gọi các công ty, doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài, công ty nước ngoài, các doanh nghiệp kiều bào, các tổ chức từ thiện, nhân đạo tham gia ủng hộ cho quỹ vì người nghèo với nhiều hình thức như: Nhà ở cho người nghèo, hỗ trợ kinh phí xây dựng cầu, lộ nông thôn. Ngân hàng TMCP Kiên Long hỗ trợ 200 triệu đồng nhằm chia sẻ những khó khăn của người nghèo trong tỉnh.
Ngoài ra, ngân hàng Kiên Long tham gia ủng hộ trong một số hoạt động xã hội khác như:
Đóng góp kinh phí xây dựng nhà Đại Đoàn kết; ủng hộ Quỹ Nhân đạo thành phố Rạch Giá; ủng hộ Quỹ Hỗ trợ Hội Nhà Báo Kiên Giang;
Ủng hộ Quỹ Đền ơn đáp nghĩa tỉnh Kiên Giang, chăm lo Tết cho các gia đình chính sách
Ủng hộ Quỹ bảo trợ trẻ em nghèo, trẻ em khuyết tật, Quỹ khuyến học Kiên Giang
Ủng hộ Hội Nạn nhân chất độc da cam quận Tân Bình, Tp. Hồ Chí Minh
Tổ chức quyên góp kinh phí hỗ trợ đồng bào bị lũ lụt của Tỉnh và nhân dân Cu Ba bị ảnh hưởng của bão lụt
Đóng góp quỹ xóa đói giảm nghèo của Ủy ban Nhân dân Thị xã Bạc Liêu, ủng hộ đợt vận động “Ngày vì người nghèo” của TP. Cần Thơ…
Tặng trên 6000 cuốn tập cho các em học sinh nghèo trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
5. PR trực tuyến
Không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của Internet trong cuộc sống hiện đại. Theo số liệu của Tổng Cục Thống kê Việt Nam thì có 442 triệu người trên khắp thế giới và có 6,7 triệu người trong tổng dân số 85 triệu người Việt Nam truy cập Internet tính đến cuối năm 2008. Con số này đã tăng 28,4 % so với năm 2007.
Ngày nay, công nghệ đang được sử dụng để nhanh chóng ảnh hưởng đến mọi đối tượng khán giả mục tiêu và cụ thể, cung cấp những thông tin cập nhật từng phút từng giây, tiết kiệm chi phí in ấn và gửi thư, giành được những ý kiến phản hồi từ phía khách hàng và những đối tượng khác, và phổ biến đến hàng ngàn nhà báo.
PR trực tuyến được coi là công cụ hỗ trợ đắc lực, thông minh cho các doanh nghiệp trong việc làm Thương hiệu và gây ấn tượng tích cực với người sử dụng Internet, tăng độ tín nhiệm của doanh nghiệp. Và PR trực tuyến giúp doanh nghiệp có thể thực hiện những ý tưởng PR độc đáo và nó cũng có những ưu điểm nổi bật hơn so với cách làm PR truyền thống.
Ưu điểm của PR trực tuyến
Có thể viết những bản tin, phóng sự trên báo chí với nhiều từ khoá tìm kiếm giúp doanh nghiệp tăng cơ hội có mặt trong top đầu kết quả tìm kiếm với những từ khoá phù hợp.
Khả năng truyền tin nhanh, đặc biệt là đối với các thông tin đang được sự chú ý của khách hàng, các thông tin cần cập nhật nhanh chóng.
Xây dựng những chiến lược PR hướng trực tiếp tới người mua có sử dụng Internet - thị trường đang được coi là tiềm năng hiện nay.
Cho phép khách hàng, cổ đông - những người nắm giữ cổ phiếu, và những bên quan tâm khác tiếp cận miễn phí cùng một nguồn thông tin mà vốn thường chỉ có trên các phương tiện truyền thông tin tức.
Chi phí thấp hơn mà hiệu quả tương đương hoặc có thể cao hơn so với PR truyền thống.
PR trực tuyến không bị giới hạn bởi thời gian, không gian.
Nhận được những ý kiến phản hồi của khách hàng và các đối tượng quan tâm một cách nhanh chóng.
Hình ảnh và thông tin của doanh nghiệp được biết đến rộng rãi thông qua dư luận và khả năng lan truyền nhanh chóng bởi sự linh hoạt của cộng đồng người sử dụng Internet và tính chất ưu việt của các công cụ Internet.
Tình hình thực hiện hoạt động PR trực tuyến
Ngân hàng đã thành lập một website riêng: www.kienlongbank.com
Đăng tải các bản tin về những sản phẩm mới, giá cả, chương trình khuyến mãi, lãi suất ngân hàng
Trên website, khách hàng có thể dễ dàng tìm hiểu các thông tin về ngân hàng như:
Lịch sử phát triển và hình thành của ngân hàng Kiên Long, cơ cấu tổ chức, bộ máy ban quản trị
Kết quả hoạt động kinh doanh từ khi thành lập đến nay, các báo cáo tài chính, các địa bàn hoạt động
Các sự kiện, hoạt động lớn của ngân hàng: khai trương chi nhánh, phòng giao dịch; tổ chức Đại hội cổ đông; tăng vốn điều lệ; chuyển đổi mô hình hoạt động, các hoạt động xã hội, ...
Các thông tin về tỷ giá ngoại tệ, tỷ giá vàng, chỉ số chứng khoán
IV Đánh giá tình hình hoạt động PR trong chiến lược xây dựng và quảng bá thương hiệu Kiên Long
1. Thương hiệu Xanh Kienlong Bank
“Thương hiệu xanh” không chỉ đơn thuần là một hướng phát triển cho doanh nghiệp trong thời đại kinh tế hội nhập, mà nó còn có ý nghĩa sâu hơn. Trong ngành kinh doanh có một câu nói nổi tiếng: “Nếu anh không phải là người khổng lồ thì hãy tạo cho mình một lối đi riêng”.
Câu nói này có nghĩa là: trong lĩnh vực tài chính- ngân hàng, nếu xét về tuổi đời, Kiên Long là một ngân hàng mới. Nếu xét về quy mô và năng lực tài chính, so với các ngân hàng khác, Kiên Long còn quá nhỏ bé. Nếu xét về kinh ngiệm thì cũng chưa thể bằng các đại gia ngân hàng khác. Chính vì thế Ngân hàng Kiên Long không thể đi theo con đường mà các ngân hàng đi trước đã đi và phát triển bởi vì con đường đó không còn chỗ trống nào cả. Để có thể tồn tại và phát triển, không còn cách nào khác là phải tự tạo cho mình con đường riêng để song hành cùng các ngân hàng khác đi đến cái đích của sự thành công. Và Ngân hàng Kiên Long đã tìm ra con đường phát triển riêng của mình, đó là xây dựng Thương hiệu Xanh đầu tiên trong lĩnh vực ngân hàng.
Phát triển dựa trên cái lõi là chữ Xanh sẽ giúp cho Ngân hàng Kiên Long tạo ra lợi thế cạnh tranh:
Nhận được sự ủng hộ và thiện cảm của các cấp ngành và đặc biệt là cộng đồng, các tổ chức môi trường, các tổ chức xã hội.
Giá trị gia tăng nhờ tính độc đáo của sản phẩm, dịch vụ Xanh cho phép ngân hàng đặt ra mức giá cao hơn mà không sợ bị khách hàng tẩy chay.
Chiến lược này giúp ngân hàng gia tăng lợi nhuận khi giá cao, xây dựng được lực lượng khách hàng trung thành, nâng cao uy tín thương hiệu.
Năm 2009 là một năm khó khăn đối với các doanh nghiệp “xanh” nói chung và Ngân hàng Kiên Long nói riêng. Bởi vì trong thời kỳ khủng hoảng, nền kinh tế khó khăn, người ta nghĩ đến việc làm sao để bảo đảm cuộc sống ổn định hơn là việc quan tâm đến môi trường và cộng đồng xung quanh.
Nhưng đây không phải là điều quá tồi tệ và thảm họa. Bất cứ một chu kỳ sống của nền kinh tế nào cũng có 4 giai đoạn : giai đoạn hình thành, giai đoạn phát triển, giai đoạn trưởng thành và giai đoạn suy thoái. Nền kinh tế thế giới đang ở trong giai đoan suy thoái. Nhưng theo quy luật của chu kỳ sống kinh tế, kết thúc thời kỳ suy thoái sẽ tiếp tục một chu kỳ kinh tế mới với sự phát triển mạnh mẽ hơn chu kỳ trước. Và thời kỳ suy thoái cũng chính là cơ hội để nền kinh tế lọc ra những doanh nghiệp nào thực sự khỏe mạnh và có hướng phát triển lâu dài thì sẽ tồn tại và phát triển trong chu kỳ kinh tế mới. Và khi nền kinh tế đã được khôi phục thì việc đầu tư cho xanh hóa sẽ lại là đề tài nóng bỏng và được quan tâm hàng đầu.
Và dù cho năm 2009, phong trào xanh có giảm đi một chút nhưng không có nghĩa là bị dập tắt hoàn toàn. Bởi vì nhận thức về tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường của con người đã ở tầm cao hơn trước kia rất nhiều, và luôn sẵn sàng ủng hộ phong trào bảo vệ môi trường mọi lúc mọi nơi.
Việc Ngân hàng Kiên Long xác định chiến lược xây dựng thương hiệu “Xanh” là một bước đi hết sức đúng đắn và phù hợp. Hiện nay tại Việt Nam, số lượng doanh nghiệp đi theo chiến lược “Xanh” chỉ đếm trên đầu ngón tay. Và đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng thì Ngân hàng Kiên Long là ngân hàng đi tiên phong.
2. Tình hình thực hiện lộ trình xây dựng thương hiệu Kienlong Bank giai đoạn 2007 - 2010
Giai đoạn 2007 – 2010 là giai đoạn Thương hiệu Kiên Long bắt đầu xuất hiện chính thức tại các khu vực ngoài địa bàn tỉnh Kiên Giang. Trong đó, giai đoạn 2007 – 2008 là giai đoạn tạo sự nhận biết ban đầu tại địa bàn Ngân hàng Kiên Long hoạt động, giai đoạn 2008 – 2010 là giai đoạn tạo sự hiểu biết về ý nghĩa thương hiệu và tạo cảm tình đối với Thương hiệu Kienlong Bank.
Trong giai đoạn này, công tác tiếp thị gắn liền với công tác phát triển mạng lưới của ngân hàng. Ta có bảng kết quả phát triển mạng lưới trong những năm vừa qua như sau:
STT
Nội dung
31/12/2006
31/12/2007
31/12/2008
30/06/2009
1
Chi nhánh
1
6
10
12
2
Phòng giao dịch
9
14
33
40
Tổng cộng
10
20
43
52
Hình 6: Bảng kết quả phát triển mạng lưới ngân hàng Kiên Long
(Nguồn: Báo cáo thường niên KienlongBank 2007, 2008)
Ngay từ khi các trụ sở làm việc của Ngân hàng Kiên Long bắt đầu đi vào khởi công xây dựng, công tác tiếp thị đã phải bắt đầu đưa tin về sự hiện diện của KienlongBank tại các địa bàn này. Trước và trong lễ khai trương chi nhánh, phòng giao dịch mới bắt đầu đi vào hoạt động chính thức, hàng loạt các hoạt động quảng bá thương hiệu được triển khai nhằm mục đích thu hút sự chú ý, gây được ấn tượng tốt ngay từ ban đầu đối với người dân và doanh nghiệp tại địa bàn. Sau đó, để mọi người biết rõ hơn về sản phẩm, dịch vụ cũng như về ngân hàng, giá trị Xanh mà ngân hàng muốn đem lại cho cộng động,... thì công tác tiếp thị tiếp tục thực hiện các buổi tư vấn, các hoạt động tài trợ, từ thiện,.... đây là quy trình chung nhất cho hoạt động quảng bá thương hiệu của Ngân hàng Kiên Long, nhưng đối với từng khu vực hoạt động cụ thể, ngân hàng sẽ áp dụng theo nhiều cách khác nhau.
Trong năm 2009 và 2010, theo kế hoạch đã đề ra, Ngân hàng Kiên Long sẽ tiếp tục mở rộng mạng lưới hoạt động. Phấn đấu đến cuối năm 2010, ngân hàng Kiên Long sẽ có 100 Chi nhánh và Phòng giao dịch. Vì vậy, công tác tiếp thị phải chú ý triển khai hoạt động quảng bá ngay từ đầu, thực hiện chuyên nghiệp hơn, sáng tạo hơn. Và các hoạt động quảng bá phải hướng đến tiêu chí Thương hiệu xanh – thương hiệu bảo vệ môi trường và vì lợi ích cộng đồng.
Bảng Tài sản cố định của Ngân hàng Kiên Long:
Tài sản cố định vô hình (hay còn gọi là tài sản vô hình) là tài sản không có hình thái vật chất, nhưng xác định được giá trị và do doanh nghiệp nắm giữ, sử dụng trong sản xuất kinh doanh, cung cấp dịch vụ hoặc cho các đối tượng khác thuê, phù hợp với tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình.
Tài sản cố định vô hình bao gồm: thương hiệu, quyền sử dụng đất (các chi phí cho đền bù, giải phóng mặt bằng, lệ phí trước bạ,...), quyền được phát hành, giấy phép, bằng phát minh sáng chế, ..... Đối với Ngân hàng Kiên Long thì khoản mục Tài sản cố định vô hình chủ yếu là giá trị của thương hiệu KienlongBank.
Tài sản cố định
2006
2007
2008
Chênh lệch 2007 - 2006
Chênh lệch 2008 - 2007
Tỷ lệ tăng BQ
(%)
TSCĐ hữu hình
7,102,025,164
17,936,583,607
32,213,770,546
10,834,558,443
14,277,186,939
116.08
Nguyên giá TSCĐ
8,448,002,900
20,167,610,214
37,422,277,553
11,719,607,314
17,254,667,339
Hao mòn TSCĐ
(1,345,977,736)
(2,231,026,607)
(5,208,507,007)
TSCĐ vô hình
2,181,597,049
5,123,506,306
13,414,301,463
2,941,909,257
8,290,795,157
148.33
Nguyên giá TSCĐ
2,257,286,000
5,397,614,320
14,325,230,757
3,140,328,320
8,927,616,437
Hao mòn TSCĐ
(75,688,951)
(274,108,014)
(910,929,294)
Hình 7: Bảng Tài sản cố định của Ngân hàng Kiên Long
(Bảng cân đối kế toán năm 2007, 2008 – KienlongBank)
Theo Bảng tài sản cố định ta thấy tài sản cố định của Ngân hàng Kiên Long liên tục tăng từ năm 2006 đến năm 2008. Trong đó:
Tài sản cố định hữu hình: bao gồm nhà cửa, trang thiết bị... TSCĐ hữu hình năm 2007 là 18 tỷ đồng, tăng 152,56 % so với năm 2006. TSCĐ hữu hình năm 2008 là 32 tỷ đồng, tăng 79,6 % so với năm 2007. Như vậy, từ năm 2006 đến 2008, TSCĐ của Ngân hàng Kiên Long đã tăng bình quân 116,08 % mỗi năm. Nguyên nhân chính là do trong thời gian qua, ngân hàng Kiên Long tập trung vào công tác phát triển mạng lưới, mở thêm các chi nhánh và phòng giao dịch tại nhiều địa bàn khác nhau trong cả nước.
Tài sản cố định vô hình: là giá trị thương hiệu KienlongBank được đánh giá và quy đổi thành tiền. TSCĐ vô hình năm 2007 là 5 tỷ đồng, tăng 134,85 % so với năm 2006. TSCĐ vô hình năm 2008 là 13 tỷ đồng, tăng 165,4 % so với năm 2007. Như vậy, từ năm 2006 đến 2008, TSCĐ của Ngân hàng Kiên Long đã tăng bình quân 148,33 % mỗi năm. Có được thành quả này xuất phát từ nhiều nguyên nhân:
Trong suốt hơn 10 năm từ lúc thành lập đến nay, Ngân hàng Kiên Long đã không ngừng lớn mạnh và tạo được cho mình vị trí vững chắc trong lòng người dân tỉnh Kiên Giang và các tỉnh đồng bẳng sông Cửu Long.
Năm 2008, Ngân hàng Kiên Long nâng mức vốn điều lệ lên 1.000 tỷ đồng, quy mô ngày càng được mở rộng, có thêm nhiều đối tác kinh doanh. Điều này đã gia tăng uy tín, mức độ tin cậy của ngân hàng Kiên Long với các cổ đông, các đối tác và cả khách hàng.
Từ khi phát triển thành ngân hàng đô thị, Ngân hàng Kiên Long đặc biệt quan tâm đến công tác quản bá thương hiệu. Ngân hàng đã thành lập Phòng tiếp thị chuyên về công tác này. Thông qua các hoạt động quảng cáo, khuyến mại, PR mà thương hiệu KienlongBank được nhắc đến nhiều hơn trong các bài báo, các cuộc phỏng vấn, chương trình phát thanh truyền hình,..
Nhờ công tác phát triển mạng lưới, mở thêm các chi nhánh và phòng giao dịch tại nhiều địa bàn khác nhau trong cả nước nên có ngày càng nhiều cộng đồng xung quanh địa bàn ngân hàng hoạt động biết đến và quan tâm tìm hiểu.
Bằng chứng rõ ràng nhất là kết quả kinh doanh của Ngân hàng Kiên Long trong những năm vừa qua. Tổng huy động vốn và thu nhập từ hoạt động cho vay liên tục tăng qua các năm, và đặc biệt cao trong năm 2007, 2008. Ngày càng nhiều tổ chức và cá nhân biết đến ngân hàng để đến gửi tiền và vay tiền.
à Thương hiệu KienlongBank có ảnh hưởng tích cực đến kết quả kinh doanh của ngân hàng và ngày càng được công chúng biết đến nhiều hơn.
Bảng ngân sách dành cho hoạt động tiếp thị:
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
2009
Lợi nhuận sau thuế
18,161,923,458
53,858,380,921
37,253,255,899
Cổ tức chia cho cổ đông
720,042,418
15,528,444,556
22,000,300,000
Số tiền còn lại sau khi chia cổ tức
17,441,881,040
38,329,936,365
15,252,955,899
Ngân sách của hoạt động tiếp thị năm nay là phần trăm trên Tổng số tiền còn lại sau khi chia cổ tức của năm trước
3.25%
6.50%
8.00%
6.50%
Thành tiền
1,133,722,268
3,066,394,909
991,442,133
Hình 8: Bảng Ngân sách dành cho hoạt động tiếp thị
(Nguồn: Báo cáo tài chính 2007, 2008 – KienlongBank)
Từ năm 2003 đến năm 2006, ngân sách dành cho hoạt động quảng bá thương hiệu chỉ là 3,25%. Nhưng đến năm 2007, ngân sách đã tăng lên 6.5 % và 8% vào năm 2008. Điều này càng cho thấy Ngân hàng Kiên Long nhận thức rõ vai trò của thương hiệu trong trong sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp.
Nhưng năm 2009, ngân sách hoạt động tiếp thị chỉ còn 6,5%, thấp hơn 1,5% so với năm 2008. Có sự sụt giảm này là do tình hình biến động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng, sự e ngại khi gửi tiền vào ngân hàng của người dân, các chính sách thắt chặt tiền tệ của Chính phủ đã làm cho lợi nhuận của Kiên Long sụt giảm. Không đoán trước được tình hình khủng hoảng sẽ còn kéo dài đến khi nào, Ngân hàng đã quyết định chi ra hơn 4 tỷ đồng để đưa vào quỹ dự phòng rủi ro. Chính vì thế mà đến năm 2009, ngân sách tiếp thị bị cắt giảm đáng kể, buộc công tác tiếp thị phải cân nhắc trong việc chi tiêu, lựa chọn hoạt động nào cho thật phù hợp.
3. Đánh giá tình hình hoạt động PR trong chiến lược Thương hiệu Kienlong Bank
3.1 Thông cáo báo chí
Trưởng bộ phận tiếp thị của Ngân hàng Kiên Long từng là nhà báo, nên khả năng viết bài đưa tin cũng như có mối quan hệ rất tốt với các giới báo chí, đài truyền hình, đặc biệt là tại TP Hồ Chí Minh và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
Do Ngân hàng hoạt động trên địa bàn các tỉnh miền Bắc, miền Trung và Tây Nguyên chưa lâu nên mối quan hệ giữa ngân hàng và các cơ quan thông tin đại chúng tại đây chưa sâu rộng. Thực tế, số lượng thông tin về hoạt động khai trương, các chương trình khuyến mại của Ngân hàng Kiên Long được đăng trên các tờ báo và đài truyền hình địa phương rất ít. Vì vậy, một lượng lớn dân chúng tại các địa bàn này cảm thấy lạ lẫm với thương hiệu KienlongBank. Vì giới truyền thông ảnh hưởng rất lớn đến hình ảnh và uy tín của thương hiệu. nên mối quan hệ với giới báo đài tại các khu vực này cũng cần phải được hết sức quan tâm.
Nội dung của các bài viết về Ngân hàng Kiên Long chỉ mới dừng lại ở việc đưa tin về các hoạt động như: tăng vốn điều lệ, khai trương các chi nhánh, phòng giao dịch. Thông tin về các sản phẩm, dịch vụ mới và chương trình khuyến mại được đưa tin rất ít, đặc biệt là những bài viết nói về những thành công hay mối quan hệ tốt đẹp giữa Ngân hàng Kiên Long và người dân đồng bằng sông Cửu Long thì hầu như không có à Đây là một thiếu sót lớn trong hoạt động quảng bá thương hiệu Kienlong Bank.
Tuy nhiên, các mẩu tin đăng trên báo đôi khi không chính xác hoặc thừa, thiếu một số thông tin tài chính. Điều này là do chưa có sự kết hợp tốt giữa phòng tiếp thị và các phòng ban khác có liên quan đến thông tin được đăng tải.
Bắt đầu từ năm 2007 đến nay, Ngân hàng Kiên Long thực hiện việc biên tập bản “Báo cáo thường niên” hàng năm để tổng kết lại những gì đã và chưa làm được trong năm. Công việc biên tập này đòi hỏi phải qua nhiều khâu như thu thập thông tin từ các phòng ban khác, tổng hợp lại, biên tập, dịch văn bản sang tiếng anh, thiết kế, làm việc với công ty in ấn,.....Chính vì không đơn giản, thiếu nhân lực đồng thời chưa có kinh nghiệm, nên bản Báo cáo thường niên năm 2007 được thiết kế chưa chuyên nghiệp về nội dung và cả phối màu. Nhưng bản Báo cáo thường niên năm 2008 đã tiến bộ hơn rất nhiều, nhận được nhiều lời khen từ phía ban lãnh đạo ngân hàng à điều này thể hiện sự cố gắng, nỗ lực học hỏi của các nhân viên Phòng tiếp thị để các hoàn thành tốt công việc.
3.2 Tổ chức sự kiện
Các sự kiện lớn của Ngân hàng Kiên Long như: Lễ khai trương các Chi nhánh và Phòng giao dịch, Đại hội cổ đông thường niên, Tổng kết báo cáo tài chính cuối năm... đều đều diễn ra và kết thúc tốt đẹp. Các khách mời đều tham gia đầy đủ.
Đối tượng tham gia trong các sự kiện này là:
Giới truyền thông: phóng viên các báo Thanh niên, báo Tuổi trẻ, Thời báo ngân hàng, báo địa phương và các tờ báo khác, đài phát thanh truyền hình địa phương tại địa bàn hoạt động.
Giới chính quyền: đại diện của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; ban lãnh đạo của Ủy ban nhân dân quận, huyện, thành phố nơi ngân hàng mở chi nhánh, phòng giao dịch
Các cổ đông lớn, các nhà đầu tư, các ngân hàng bạn khác cũng đang hoạt động trên địa bàn, các đối tác chiến lược (ACB, SaigonTourist)
Về phía nội bộ Ngân hàng Kiên Long có sự tham gia của: Chủ tịch và Phó Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng và Phó Tổng giám đốc, các Trưởng phòng....
Đặc biệt, các buổi lễ khai trương thu hút sự chú ý của khá đông người dân xung quanh. Một số còn rất nhiệt tình khi tham gia tham quan các phòng làm việc, tìm hiểu thông tin về ngân hàng và các sản phẩm, dịch vụ.
Tuy nhiên vẫn mắc phải một số sai sót như: Trong lễ khai trương Phòng giao dịch Hậu Giang, hầu hết khách mời đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai luan van phuong mai 05dqn.doc