Tài liệu Đề tài Đánh giá rủi ro môi trường và sức khỏe nước thải chứa metyl thủy ngân tại vịnh Minamata, Nhật Bản: Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MÔI TRƯỜNG
BÀI TIỂU LUẬN :
ĐÁNH GIÁ RỦI RO MÔI TRƯỜNG VÀ SỨC KHỎE
NƯỚC THẢI CHỨA METYL THỦY NGÂN
TẠI VỊNH MINAMATA-NHẬT BẢN
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Danh Sách Nhóm :
Nguyễn Văn Anh
Cao Thị Thu Duyên
Trần Thị Kim
Dương Văn Lăng
Hoàng Thị Hà My
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
MỤC LỤC
Chương I. Tổng quan
1.1. Giới thiệu về vùng nghiên cứu…………………………………Tr. 7
1.2. Quá trình hoạt động của nhà máy Chisso…………………….Tr. 8
1.3. Tác động của hoạt động xả thải của nhà máy Chisso lên người dân ở
Minamata………………………………………………………….Tr. 9
Chương II. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu………………………………………………….. ….Tr.11
2.2. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………Tr.11
2.2.1. Phương pháp xây ...
29 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1869 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá rủi ro môi trường và sức khỏe nước thải chứa metyl thủy ngân tại vịnh Minamata, Nhật Bản, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA MÔI TRƯỜNG
BÀI TIỂU LUẬN :
ĐÁNH GIÁ RỦI RO MÔI TRƯỜNG VÀ SỨC KHỎE
NƯỚC THẢI CHỨA METYL THỦY NGÂN
TẠI VỊNH MINAMATA-NHẬT BẢN
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Danh Sách Nhóm :
Nguyễn Văn Anh
Cao Thị Thu Duyên
Trần Thị Kim
Dương Văn Lăng
Hoàng Thị Hà My
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
MỤC LỤC
Chương I. Tổng quan
1.1. Giới thiệu về vùng nghiên cứu…………………………………Tr. 7
1.2. Quá trình hoạt động của nhà máy Chisso…………………….Tr. 8
1.3. Tác động của hoạt động xả thải của nhà máy Chisso lên người dân ở
Minamata………………………………………………………….Tr. 9
Chương II. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu………………………………………………….. ….Tr.11
2.2. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………Tr.11
2.2.1. Phương pháp xây dựng mô hình rủi ro cho vùng nghiên cứu................Tr. 12
2.2.4.1. Nhận diện mối nguy hại………………………………………………..Tr.13
2.2.4.2. Ước lượng mối nguy hại……………………………………………….Tr.14
2.2.4.3. Đánh giá phơi nhiễm…………………………………………………..Tr. 15
2.2.4.4. Đặc tính của rủi ro…………………………………………………….Tr.18
2.2.4.5. Quản lý rủi ro………………………………………………………….Tr.21
2.3. Methyl thủy ngân …………………………………………………………Tr.22
Chương III. Kết quả và phân tích
3.1. Liều lượng vào cơ thể của Methyl thủy ngân qua đường tiêu hóa……Tr.25
3.2. Đánh giá rủi ro của Methyl thủy ngân………………………………….tr. 27
Chương IV. Kết luận và kiến nghị
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
i. Đặt vấn đề
Minamata là tên của một thành phố thơ mộng, xinh đẹp thuộc tỉnh Kumamoto
(Nhật Bản). Nhưng Minamata còn là tên gọi một căn bệnh đã từng gây nỗi kinh hoàng
cho biết bao người Nhật. Năm 1956 và năm 1968, người ta phát hiện ra những người
mắc bệnh ở Minamata với biểu hiện chân tay bị liệt hoặc run lẩy bẩy, tai điếc, mắt mờ,
nói lắp bắp... Nhiều bệnh nhân đã bị điên, bất tỉnh và chết sau một tháng mắc bệnh. Có
nhiều người bị mắc bệnh Minamata kinh niên, hoặc bẩm sinh. Họ sinh ra bị tàn tật vì
người mẹ khi mang thai đã ăn cá bị nhiễm độc ở vùng vịnh....[2]
Hình 1: Nhà máy Chisso
Vì sao lại như vậy? Mãi đến năm 1968, Chính phủ Nhật Bản mới chính thức
tuyên bố: căn bệnh này do Công ty Chisso gây ra vì đã làm ô nhiễm môi trường. Các
nhà máy hóa chất của Công ty này đã thải ra quá nhiều lượng thủy ngân hữu cơ độc hại
làm cho cá bị nhiễm độc. Khi ăn cá, thủy ngân hữu cơ xâm nhâp vào cơ thể con người,
chúng sẽ tấn công vào cơ quan thần kinh trung ương, gây nên căn bệnh mà các nhà y
học gọi là bệnh Minamata. Tổ chức cứu trợ Nhật Bản cho biết, đến nay có gần 13.000
người mắc bệnh Minamata, có hơn 2.000 người bị chết. Năm1965, bệnh Minamata còn
bùng phát dọc theo con sông Agano thuộc tỉnh Nigata, do công ty Showa Denko thải
thủy ngân xuống lòng sông. Ngoài bệnh Minamata, các nhà nghiên cứu về kinh tế-môi
trường của Nhật đã không ngần ngại khi đưa ra bản danh sách các căn bệnh, các vụ
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
nhiễm độc như bệnh itai-itai ở tỉnh Toyama, nhiễm độc catmi, nhiễm độc đồng.... do các
nhà máy thải chất thải nguy hại ra môi trường trong suốt mấy chục năm phát triển công
nghiệp.[1]
Ở Việt Nam từ năm 1996 đến năm 1998, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch
tổng thể phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng cơ sở 1996 – 2010, và mới đây, ngày
14/3/2008, Thủ tướng Chính phủ lại ký Nghị định Quy định về khu công nghiệp, khu
chế xuất và khu kinh tế. Tính đến cuối năm 2007, cả nước có gần 190 khu công nghiệp
(KCN) với tổng diện tích 44.000 ha, trong đó có hơn 110 KCN đã đi vào hoạt động. Các
KCN đã thu hút hơn 3.000 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn gần 30 tỉ USD. Ngoài
ra còn có 3.000 dự án trong nước với tổng vốn gần 200 ngàn tỉ đồng, giải quyết việc
làm cho hơn 3 triệu lao động. Các KCN đã tạo ra một bộ mặt mới cho công nghiệp Việt
Nam. Các KCN được phân bố ở 54 tỉnh, thành phố, chủ yếu ở các vùng Đông Nam bộ,
đồng bằng sông Hồng và ven biển miền Trung, làm cho đường giao thông, cảng sông,
cảng biển, thông tin liên lạc và các kết cấu hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ... phát triển. Đội
ngũ công nhân kỹ thuật có tác phong công nghiệp có trình độ quản lý được hình thành.
Trong những năm qua, nhiều thương hiệu của các doanh nghiệp trong KCN đã xuất hiện
và có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế.
Có thể nói, thành tựu của KCN đã đánh dấu một mốc son trong phát triển kinh tế
nước ta thời hội nhập. Tuy nhiên, nó cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết mà trước
hết là ô nhiễm môi trường. Do KCN thường bám sát quốc lộ, gần khu vực dân cư, cộng
với việc một số doanh nghiệp nhập khẩu các thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, nguyên liệu
kém chất lượng, đã làm cho môi trường càng thêm ô nhiễm. Trong số 154 KCN đang
hoạt động trên toàn quốc chỉ có 39 KCN có hệ thống xử lý nước thải tập trung (chiếm
25%), chính vì hệ thống nước thải ở các KCN chưa được xây dựng đồng bộ, nên lượng
nước thải công nghiệp mỗi ngày thải ra môi trường khoảng 500.000-700.000 m3 hầu hết
chưa được xử lý đã làm ô nhiễm môi trường nước. Tình trạng ô nhiễm trên một số con
sông như sông Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Thị
Vải... đã đến mức báo động. Đó là chưa kể, các KCN khi xây dựng thiếu biện pháp bảo
vệ môi trường, làm ô nhiễm môi trường không khí và khi sản xuất, các chất thải rắn
không có chỗ chôn lấp, cũng như không có hệ thống xử lý, làm cho môi trường càng ô
nhiễm. Hiện nay, chất thải công nghiệp mỗi năm lên tới hơn 2,9 triệu tấn, trong đó các
KCN là 1,2 triệu tấn và khối lượng chất thải nguy hại chiếm 175.000 tấn, nhưng lượng
thu gom, xử lý không được 50%. Nếu kể cả lượng rác sinh hoạt, trong 20 năm qua còn
tồn đọng 70 triệu tấn, trong khi cả nước hiện có 850 bãi chôn lấp rác thải đang vận
hành, nhưng chỉ có 8 bãi là hợp vệ sinh. Các KCN làm ô nhiễm môi trường đã gây
nhiều tác hại đến sức khỏe con người. Ngân hàng thế giới đã đưa con số: Mỗi năm ở
Việt Nam thiệt hại 780 triệu USD trong các lĩnh vực sức khỏe cộng đồng vì ô nhiễm
môi trường. Không phải ngẫu nhiên mà nhân 50 năm ngày phát hiện ra bệnh Minamata,
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Hội đồng Môi trường Nhật Bản đã tổ chức một diễn đàn quốc tế về ô nhiễm môi trường
ảnh hưởng đến sức khỏe ở thành phố Kumamoto với chủ đề "Bài học gì từ 50 năm phát
hiện ra bệnh Minamata?". 300 đại biểu đến từ 141 vùng lãnh thổ của 12 quốc gia, trong
đó có Việt Nam đã rút ra bài học cho mình là, không vì tăng trưởng kinh tế mà bỏ qua
nguy cơ ô nhiễm môi trường tiềm ẩn gây hậu họa lâu dài cho đất nước và con người.
Đánh giá rủi ro nhà máy Chisso có ý nghĩa to lớn trong công cuộc hiện đại hóa hiện
nay, đó là bài học trước mắt cho các nước đang thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hiện nay.
ii. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu trong mô hình HRA. Chương I cho ta cách nhìn tổng quan về nhà
máy Chisso, về điều kiện tự nhiên và xã hội của vùng nghiên cứu, chương II giới thiệu
phương pháp nghiên cứu nhằm tính được mức rủi ro từ chất thải của nhà máy, con
đường phơi nhiểm của Methyl thủy , đánh giá độc tính một cách định lượng . Cuối cùng
là chương III: kết quả và kiến nghị.
iii. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài bằng phương pháp:
Thu thập tài liệu từ bài báo khoa học, các nghiên cứu.
Kế thừa từ các tài tiệu
Dùng mô hình HRA
Ứng dụng phương pháp thống kê
iv. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài ở hai tỉnh Kumamoto và Kagoshima thuộc Nhật Bản, trọng tâm
nghiên cứu tại huyện Minamata thuộc tỉnh Kumamoto.
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Chương I. TỔNG QUAN
1.4. Giới thiệu về vùng nghiên cứu
Minamata là một thị trấn nhỏ do Tổng công ty Chisso thống trị. Thị xã nằm sát
với biển Shiranui, và vịnh Minamata
một phần của biển này. Trong tiếng Nhật, "Chisso" có nghĩa là nitơ.
Tổng công ty Chisso đã từng là một công ty phân bón và carbicle, và
dần dần tiến đến một công ty hóa dầu và sản xuất nhựa.
Từ 1932-1968, Tổng công ty Chisso, một công ty đặt tại
Kumamoto Nhật Bản, thải bỏ ước tính hơn 27 tấn các hợp chất thủy ngân
vào vịnh Minamata. Kumamoto là một thị trấn nhỏ cách phía Tây Nam Tokyo khoảng
570 dặm. Thị xã gồm chủ yếu là nông dân và
ngư dân. Khi Tổng công ty Chisso đổ bỏ số lượng lớn
thủy ngân vào vịnh, hàng ngàn người có chế độ ăn uống bình thường
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
bao gồm cá từ vịnh, bất ngờ phát triển các triệu chứng của
methyl thủy ngân độc. Bệnh này được gọi là
"Dịch bệnh Minamata". Các ngộ độc thủy ngân là kết quả của năm
phá hủy môi trường và sự cẩu thả từ Tổng công ty Chisso.Năm 1907 người sáng lập
của tổng công ty Chisso
đã thuyết phục được người dân của Minamata để xây dựng một nhà máy ở thị trấn của
họ, đó là sự hy vọng được hưởng lợi
từ sự giàu có của công nghiệp hóa.
1.5. Quá trình hoạt động của nhà máy Chisso
Tổng công ty Chisso bắt đầu phát triển
các sản phẩm nhựa, thuốc, và nước hoa
thông qua việc sử dụng các hóa chất được gọi
là acetaldehyde vào năm 1932.
Acetaldehyd được sản xuất bằng cách sử
dụng như là một hợp chất thủy ngân, và là
chìa Công ty được
xem là một thành công kinh tế ở Nhật Bản,
đặc biệt bởi vì nó
là một trong những ngành công nghiệp duy trì
phát triển mặc dù Nhật. Doanh số bán hàng
tăng cường với sự thành công kinh tế của
Nhật Bản.
Giữa năm 1956 và đầu những năm
1970 các cụm công nghiệp chiếm 68% diện
tích đất của thành phố và tiêu thụ 93% nguồn cung cấp nước của nó. Chisso doanh
nghiệp liên quan chiếm 30% doanh thu bán lẻ, sử dụng 19% lực lượng lao động và hạ
66% của tất cả các hoạt động vận chuyển.
Ngoài ra, doanh số bán hàng của Tổng công ty Chisso tăng lên đáng kể,
xem xét cho thấy Chisso đã sản xuất được duy nhất một chất hóa học chính
gọi là D.O.P, một chất làm dẻo (diotyl phthalate). Có một độc quyền
về hóa chất kích hoạt, Chisso đã mở rộng nhanh chóng. Kể từ khi Tổng công ty Chisso
được thành lập thì sự tăng trưởng của thị trấn cũng được tiến hành song song. Tổng
công ty Chisso cuối cùng cũng đã dừng lại sản xuất acetaldehyde năm 1968, khi một
công nghệ thay thế cho chất dẻo đã được phát triển.Trong quá trinh hoạt động của mình,
tổng công ty Chisso đã xả thẳng chất thải độc hại ra biển.
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
1.6. Tác động của hoạt động xả thải của nhà máy Chisso lên người dân ở
Minamata
Minamata đã được biết đến như là một thị trấn đánh cá,
và các đại dương chính tài nguyên môi trường của họ. Khi
nước bị ô nhiễm, họ không còn có thể phụ thuộc vào điều này như một
nguồn lực khả thi, và không có cách nào khác để kiếm sống.
Độc tố do metyl thủy ngân gây nên trong nước thải của tổng công ty Chisso là rất
cao, và theo chuỗi thức ăn, độc tố đó ngày càng được tích tụ. Đầu tiên là cá, chim, mèo ,
rồi tới người. Dấu hiệu ở người đó là tê chân tay và môi. Đồng thời, tầm nhìn bị hạn
chế, một số người bị tổn thương não nghiêm trọng, hoặc bất tỉnh. Ở động vật, mèo
thường “tự tử” một cách vô lý, và chim lạ cũng chết, rơi từ trên trời xuống. Đặc biệt,
độc tố này đã gây ra rất nhiều thảm cảnh đáng thương cho người dân Minamata, và để
lại di chứng rất nặng nề ở nhiều thế hệ.
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Hình ảnh tang thương từ Minamata
Đến cuối năm 1956, các nhà nghiên cứu dịch tễ học và y tế xác định các bệnh như
nhiễm độc kim loại nặng gây ra do ăn cá và đồ biển của vịnh Minamata.
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Chương II. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu về ô nhiễm methyl thủy ngân ở Minamata bằng phương pháp thống kê số
liệu và dựa trên mô hình HRA để có cở sở đánh giá rủi ro cho vùng nghiên cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
2.2.1. Phương pháp xây dựng mô hình rủi ro cho vùng nghiên cứu[7
Mô hình HRA
1. Nhận biết mối nguy hại:
Thu thập dữ liệu và định lượng:
- Tập hợp và phân tích dữ liệu theo từng
vấn đề.
- Xác định sự ô nhiễm tiềm tàng dựa trên:
+ Đặc tính độc hại
+ Số lượng hiện diện tại nơi xem xét
+ Đường dẫn và các con đường phơi
nhiễm
+ Các chỉ thị hóa học
4. Đặc tính rủi ro:
Đánh giá khả năng gây nguy hại sức khỏe con
người dựa trên:
- Rủi ro ung thư
- Rủi ro không gây ung thư
3. Đánh giá độc tính:
- Nhận diện tất cả các định tính và định
lượng đôc chất sơ lược qua các chỉ thị
hóa học.
- Định lượng nguy hại của sự phơi
nhiễm
- Nhận diện các nguồn không chắc chắn
- Định lượng mức độ độc hại qua các
bằng chứng rõ rang
- Xác định giá trị độc tính rõ rang với
các chỉ thị hóa học
2. Đánh giá phơi nhiễm:
- Phân tích các tuyến phát thải
- Nhận dạng và mô tả đặc điểm
người nhận dạng có khả năng
- Xác định sự di chuyển và các con
đường phơi nhiễm
- Đánh giá mức độ phơi nhiễm sau
này cho các tuyến phơi nhiễm đáng
chú ý
- Tính toán liều lượng ô nhiễm cho
tất cả các đường dẫn
Mô tả rủi ro:
- Định lượng không chắc chắn
- Tổng kết các thông tin rủi ro
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Hình: Các tuyến phơi nhiễm
2.2.4.1. Nhận diện mối nguy hại
Nhận biết mối nguy hại là bước đầu tiên trong HRA, các chất độc gây ô nhiễm
môi trường có liên quan rất mật thiết tới những vấn đề sức khỏe do chúng gây ra hoặc
ảnh hưởng tới nhiều người. Nhận biết mối nguy hại và các vấn đề sức khỏe có thể bao
gồm ung thư, sự kích thích, những vấn đề về thần kinh và các khuyết tật bẩm sinh…
Một số vấn đề sức khỏe xuất hiện rất sớm sau khi một người phơi nhiễm với một
chất độc gây ô nhiễm môi trường. Những tác dụng trực tiếp này có thể phụ, như đôi mắt
sủng nước. Hay chúng có thể nghiểm trọng như gây hư hại phổi đe dọa cuộc sống.
Những vấn đề sức khỏe khác có thể không xuất hiện sau nhiều tháng hay nhhiều
năm sau lần phơi nhiễm đầu tiên của người tới chất độc gây ô nhiễm môi trường. Ung
thư là một ví dụ điển hình.
Sự xác thực của những bằng chứng về vấn đề sức khỏe liên quan, trong việc
nhận diện các mối nguy hại các nhà khoa học ước lượng tất cả các thông tin về những
Các loại phơi nhiễm
Qua đường
hô hấp
Qua da Qua đường
ăn uống
Chất
bẩn lơ
lửng
Dòng
khí vô
cơ
Hóa
chất
hữu cơ
bay hơi
Phơi
nhiễm
đất
Sử dụng
nước gia
đình
Sử dụng
nước, giải
trí,vui
chơi
Đất và
cặn bã
Thực phẩm từ
động vật
Nước
uống
Thực phẩm
Dưới nước
Hoa
màu
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
ảnh hưởng của chất độc gây ô nhiễm môi trường để đánh giá một cách đúng đắn những
tác động của hóa chất lên con người. Một bằng chứng tốt hơn, một số nhà khoa học cho
rằng các chất độc gây ô nhiễm môi trường gây ra những vấn đề đặc biệt về sức khỏe. Số
lượng, kiểu và chất lượng của các bằng chứng đều quan trọng.
Loại bằng chứng tốt nhất được thu thập từ các nghiên cứu trên con người. Bằng chứng
này có thể dưới dạng báo cáo từ trường hợp cụ thể như là những báo cáo của của những
thầy thuốc về những con số bất thường của số lượng các trường hợp sử dụng thuốc đặc
trị. Một số các dạng nghiên cứu khác có thể thực hiện là so sánh số lượng các trường
hợp đặc biệt trong một nhóm người với những mức phơi nhiễm khác nhau ( ví dụ như
số lượng người bị bệnh bạch cầu trong các công nhân sản xuất cao su).
Bởi vì những thông tin về các chất độc gây ô nhiễm môi trường còn hạn chế, các nhà
khoa học thường tiến hành các thí nghiệm trên các động vật trong phòng thí nghiệm như
là chuột. Các nghiên cứu trên động vật thường được tiến hành trong điều kiện được
kiểm soát của phòng thí nghiệm. Các nhà khoa học sẽ hiểu được những ảnh hưởng rất
đa dạng đối với sức khỏe bằng cách cho động vật phơi nhiễm với các chất ô nhiễm với
sự tập trung và thời gian có tính biến đổi.
Khi chỉ dựa vào các nghiên cứu trên động vật, các nhà khoa học cần phải chấp nhận
rằng các ảnh hưởng đối với sức khỏe của động vật cũng sẽ xảy ra đối với con người.
Các nhà khoa học luôn cố gắng sử dụng các loài động vật có cấu trúc cơ thể giống với
người nhất.
2.2.4.2. Ước lượng mối nguy hại
Đánh giá phơi nhiễm là một đánh giá phơi nhiễm ước lượng có bao nhiêu chất ô nhiễm
con người hít vào trong suốt khoảng thời gian đặc biệt, cũng tốt như có bao nhiêu người
đã phơi nhiễm. Bước này bao gồm cả các bước tiếp xúc hay phơi nhiễm chính trong
HRA.
Có nhiều nguồn phát thải chất độc gây ô nhiễm môi trường. Chẳng hạn, một ống khói
nhà máy hay hàng ngàn những xe ô tô chạy mỗi ngày có thể là nguồn của một chất gây
ô nhiễm đang xét. Vì vậy bước đầu tiên trong việc đánh giá phơi nhiễm là xác định
nguồn nào đang phát sinh chất gây ô nhiễm đó.
Sau khi nhận biết được các nguồn gây ô nhiễm mối nguy hại về sức khỏe, bước tiếp
theo sẽ xác định số lượng chất độc gây ô nhiễm môi trường đã được thải ra trong một
thời gian nhất định và mức độ phát tán của nó.
Người kĩ sư sử dụng các thiết bị kiểm tra hoặc những mô hình máy tính để ước lượng số
lượng hoặc lưu lượng của chất gây ô nhiễm thải ra từ nguồn và số lượng chất gây ô
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
nhiễm tại những khoảng cách khác nhau từ nguồn. Những thiết bị kiểm tra được dùng
để lấy mẫu không khí và xác định có bao nhiêu chất gây ô nhiễm hiện diện. Các chi tiết
công thức tính toán và giới thiệu mô hình áp dụng trong HRA có thể tham khảo trong
mô hình tính tóan tương từ như cách đánh giá ERA của chương 2 trong sách “ Đánh giá
rủi ro môi trường”
Mô hình máy tính sử dụng các phương trình tính toán mô tả các qua trình phát thải chất
gây ô nhiễm và sự di chuyển của những chất này trong môi trường. Mô hình này chịu sự
ảnh hưởng của các yếu tố như khoảng cách từ nguồn đến các người phơi nhiễm, tốc độ
gió và chiều cao ống khói.
Số lượng người phơi nhiễm tại những khoảng cách khác nhau từ nguồn thải có thể được
ước đoán với những mô hình máy tính mà sử dụng thông tin từ điều tra và từ những bản
đồ. Một số mô hình có thể ước lượng những sự phơi nhiễm cho con người tại các vị trí
khác nhau mỗi ngày bao gồm trong nhà, xe ô tô, ngoài trời và những sự phơi nhiễm môi
trường làm việc.
Công việc cuối cùng trong việc đánh giá phơi nhiễm sẽ xác định số lượng mỗi người
phơi nhiễm vào cơ thể. Ví dụ trong ô nhiễm không khí, những nhà khoa học kết hợp
ước lượng nhịp thở và thời gian sống của mỗi người bình thường với lượng chất gây ô
nhiễm môi trường không khí mà người đó tiếp xúc và hít vào cơ thể.
2.2.4.3. Đánh giá phơi nhiễm
Phơi nhiễm chính qua đường tiêu hóa có thể gây ảnh hưởng các quyết định quản
lí bao gồm liều lượng đất, thực phẩm dinh dưỡng và nước đi vào miệng. Thông
thường sự phơi nhiễm qua đường tiêu hóa là một hàm của nồng độ chất gây ô
nhiễm trong quá trình ăn uống ( đất, nước, thực phẩm dinh dưỡng như thịt bò, hoa
màu…), sự hấp thụ chất rắn hay cặn bã trong dạ dày, sự tính toán được đánh giá
một cách cẩn thận như sau:
Mức phơi nhiễm với nước qua đường tiêu hóa (mg/kg – ngày):
= (CW × WIR × GI) / BW
Mức phơi nhiễm với đất qua đường tiêu hóa (mg/kg – ngày):
= (CS × SIR × GI) / BW
Mức phơi nhiễm với vụ mùa qua đường tiêu hóa (mg/kg – ngày):
= (CD × FIR × GI) / BW
Trong đó:
CW: nồng độ hóa chất trong nước (mg/lít)
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
WIR: Tốc độ tiêu hóa nước (lít/ngày)
CS: Nồng độ hóa chất trong đất (mg/kg)
SIR: Tốc độ tiêu thụ đất (mg/kg)
CD: Nồng độ các hóa chất trong thức ăn thường ngày (mg/kg)
CT: Nồng độ hóa chất trong mô, CT = BCF × F× CD ( BCF là hệ số tích tụ sinh
học đối với sinh khối (mg/kg)/( mg/kg thức ăn hàng ngày)
FIR: Tốc độ tiêu thỵ thực phẩm ( kg/ngày)
BW : Trọng lượng cơ thể ( kg)
Tổng liều lượng nhận được bởi khả năng tiếp nhận do tiêu thụ hóa chất sẽ phụ thuộc
vào sự hấp thụ các hóa chất trog dạ dày. Các tài liệu khoa học đã cung cấp một số đánh
giá hệ số hấp thụ các loại hóa chất khác nhau. Đối với các hóa chất không được công bố
trị số hấp thụ và các hóa chất mà hệ số hấp thụ không được báo cáo hoàn toàn về yếu tố
độc hại, sự hấp thụ có thể được thừa nhận một cách hoàn toàn 100%.
Các tuyến phơi nhiễm có khả năng tiếp nhận qua đường tiêu hóa do lượng nước ô nhiễm
đi vào miệng, tiêu thụ thực phẩm dinh dưỡng ô nhiễm và sự tiêu hóa ngẫu nhiên đất hay
cặn bã ô nhiễm được chú giải như sau:
DI
Bảng 1.4b: Phương trình đánh giá phơi nhiễm với thủy sản bị ô nhiễm qua đường tiêu
hoa:
INGsf = (C w × FIR × CF × BCF× FI × ABS s × EF × ED) / (BW × AT)
Trong đó:
INGsf : Liều lượng phơi nhiễm với thủy sản bị ô nhiễm qua đường tiêu hóa
(mg/kg – ngày)
Cw : Nồng độ hóa chất trong nước mặt (mg/lít)
FIR : Tốc độ tiêu thụ cá trung bình (g/ngày)
CF : Hệ số chuyển đổi (10-3 kg/g)
BCF : Nồng độ sinh hóa của hóa chất đặc biệt ( l/kg)
FI : Phần được tiêu hóa từ nguồn ô nhiễm
ABSs : Phần trăm lượng chất được hấp thụ trong dạ dày, hệ số hấp thụ (%)
EF : Tần số phơi nhiễm (ngày/năm)
ED : Thời gian phơi nhiễm (năm)
BW : Trọng lượng cơ thể (kg)
AT : Thời gian trung bình phơi nhiễm (ngày)
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Phơi nhiễm qua đường tiêu hóa:
Đánh giá liều lượng trung bình hàng ngày trong suốt thời gian sống ( LADD) đối với tác
động gây ung thư.
Con đường tiêu hóa phơi nhiễm với đất, LADD được đánh giá theo từng nhóm người
khác nhau.
CDI ung thư đối với trẻ em dưới 6 tuổi được tính như sau:
CIng (1-6) = ( CS × IR × CF × FI × ABSS × EF × ED)/ ( BW × AT)
= ( CS × 200 × 1,00 E - 0,6 × 1 × ABSS × 330 × 5) / {16 ×(70× 365)}
= 8,07 E – 07 × ABSS × CS
CDI ung thư đối với trẻ em từ 6-12 tuổi được tính như sau:
CIng (6-12) = CS × IR × CF × FI × ABSS × EF × ED)/ ( BW × AT)
= ( CS × 100 × 1,00 E - 0,6 × 1 × ABSS × 330 × 6) / {29 ×(70× 365)}
= 2,67 E – 07 × ABSS × CS
CDI ung thư với người trưởng thành được tính như sau:
CIng ( adultR) = CS × IR × CF × FI × ABSS × EF × ED)/ ( BW × AT)
= ( CS × 50 × 1,00 E - 0,6 × 1 × ABSS × 330 × 58) / {70 ×(70× 365)}
= 5,35 E – 07 × ABSS × CS
CDI ung thư đối với công nhân được tính như sau:
CIng ( adultW) = CS × IR × CF × FI × ABSS × EF × ED)/ ( BW × AT)
= ( CS × 50 × 1,00 E - 0,6 × 1 × ABSS × 260 × 58) / {70 ×(70× 365)}
= 4,22 E – 07 × ABSS × CS
Đánh giá liều lượng hàng ngày ( ADD) không gây ung thư.
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Đối với tuyến đường tiêu hóa đất, ADD được đánh giá theo từng nhõm người khác
nhau.
CDI không ung thư đối với trẻ em dưới 6 tuổi được tính như sau:
NCIng (1-6) = ( CS × IR × CF × FI × ABSS × EF × ED)/ ( BW × AT)
= ( CS × 200 × 1,00 E - 0,6 × 1 × ABSS × 330 × 5) / {16 ×(5× 365)}
= 11,3 E – 05 × ABSS × CS
CDI không ung thư đối với trẻ em từ 6-12 tuổi được tính như sau:
NCIng (6-12) = CS × IR × CF × FI × ABSS × EF × ED)/ ( BW × AT)
= ( CS × 100 × 1,00 E - 0,6 × 1 × ABSS × 330 × 6) / {29 ×(6× 365)}
= 3,12 E – 06 × ABSS × CS
CDI không ung thư với người trưởng thành được tính như sau:
NCIng ( adultR) = CS × IR × CF × FI × ABSS × EF × ED)/ ( BW × AT)
= ( CS × 50 × 1,00 E - 0,6 × 1 × ABSS × 330 × 58) / {70 × 58× 365}
= 6,46 E – 07 × ABSS × CS
CDI không ung thư đối với công nhân được tính như sau:
NCIng ( adultW) = CS × IR × CF × FI × ABSS × EF × ED)/ ( BW × AT)
= ( CS × 50 × 1,00 E - 0,6 × 1 × ABSS × 260 × 58) / {70 ×(58× 365)}
= 5,09 E – 07 × ABSS × CS
2.2.4.4. Đặc tính của rủi ro
Nhận biết kết quả của sự phơi nhiễm của nhân tố ô nhiễm môi trường cũng là một ưu
tiên rất cao trong việc nhận biết sự nguy hại và đánh giá độc tính.
Chất độc gây ô nhiễm môi trường thông qua việc hít thở. Nó cũng có thể đi vào cơ thể
thông qua đường ăn uống ( như trẻ con ăn phải đất có chứa chì) hoặc thấm qua da.
Khi chất ô nhiễm đi vào trong cơ thể nó có thể ở trong phổi ( như amiăng), hoặc đi vào
máu từ phổi ( giống như oxi), bị thải ra hoặc từ hệ tiêu hóa hoặc từ da. Trong máu nó sẽ
được mang đi đến tất cả các bộ phận của cơ thể, các chất ô nhiễm sẽ có những biến đổi
hóa học, đặc biệt khi biến đổi chúng có thể trở nên độc hơn hoặc yếu hơn.
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Chất ô nhiễm có thể được thải ra ngoài thông qua nước tiểu, qua đường ruột, qua mồ hôi
hoặc qua sữa mẹ, chất ô nhiễm cũng có thể trữ lại trong tóc, xương hoặc mỡ.
Chất độc gây ảnh hưởng tới cơ thể
Chất độc gây ô nhiễm môi trường có thể gây ra những vấn đề về sức khỏe khi tác động
vào các bộ phận cơ thể con người. Thông thường nhất là chúng làm thay đổi các phản
ứng hóa học trong các tế bào, những bộ phận cấu thành của cơ thể. Sự thay đổi có thể
giết chết các tế bào, làm suy yếu cấu trúc của tế bào hoặc làm thay đổi hoạt động của tế
bào. Kết quả có thể là phá hủy các cơ quan nội tạng, gây ra khuyết tật bẩm sinh khi các
tế bào của bào thai bị phá hủy. Nócũng có thể gây ra ung thư khi mà các tế bào phát
triển không kiểm soát được.
Quan hệ liều lương – đáp ứng
Quan hệ liều lương – đáp ứng cho một chất gây ô nhiễm đặc biệt mô tả sự kết hợp giữa
phơi nhiễm và các đáp ứng ( hiệu ứng sức khỏe). Nói cách khác, nó đánh giá những
mức độ phơi nhiễm với các liều lượng chất gây ô nhiễm khác nhau và mức độ đáp ứng (
hiệu ứng sức khỏe). Ngay khi nhận ra mối nguy hiểm, các nhà khoa học sử dụng những
kết quả nghiên cứu trên động vật và trên người thiết lập mối quan hệ liều lượng- đáp
ứng.
Đáp ứng chất
Gây ung thư
0
Liều lượng
Hình : Mối quan hệ liều lượng – đáp ứng cho các chất gây ung thư
EPA giả thiết rằng không có những phơi nhiễm mà bảo “ không rủi ro” ngay cả mức độ
phơi nhiễm (liều) rất thấp với các chất ô nhiễm gây ung thư cũng có thể gia tăng rủi ro
về ung thư ( mặc dù một số lượng nhỏ). EPA cũng giả thiết rằng mối quan hệ giữa liều
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
và sự đáp ứng là một đường thẳng mỗi đơn vị của sự phơi nhiễm (liều) tăng lên, có một
sự tăng trong đáp lại ung thư.
Đáp ứng không
Gây ung thư
0 Liều lượng
Hình: Mối quan hệ liều lượng – đáp ứng cho các chất
không gây ung thư
Một liều có thể tồn tại ở dưới mức gây ra các hiệu ứng sức khỏe. EPA giả thiết rằng tại
những liều thấp cơ thể có khả năng tự thanh lọc, nên không bị bệnh tại những liều thấp.
Tuy nhiên một số chất không gây ung thư có thể phát hiện tại những liều thấp. Mối
quan hệ liều lượng – đáp ứng ( việc đáp ứng lại xuất hiện khi liều lượng tăng) thay đổi
theo chất gây ô nhiễm, tính nhạy cảm và điều kiện sức khỏe.
Các phương pháp nghiên cứu thường được sử dụng để xác định quan hệ giữa liều lượng
và đáp ứng trong HRA là phương pháp:
Nghiên cứu dịch tễ học
Thí nghiệm độc tố trên động vật trong phòng thí nghiệm
Nghiên cứu tế bào trên người
Phương pháp bệnh học – triệu chứng lâm sàn
Đặc tính của rủi ro sức khỏe:
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Mô tả rủi ro hay vấn đề rủi ro lớn nhất đối với sức khỏe. Những tin về rủi ro được đưa
ra ở đây để minh họa làm sao một cá nhân hay một cộng đồng bị ảnh hưởng. Một số các
đo đạc thường thấy được miêu tả ở đây.
Rủi ro ung thư cực đại
Kết hợp kết quả của đánh giá phơi nhiễm và đánh giá đôc tính đưa ra những ước lượng
về sự gia tăng các rủi ro về ung thư trong cuộc đời cho những phơi nhiễm cá biệt cho dự
đoán tập trung dài hạnh cao nhất.
Xác suất của rủi ro cá nhân:
Rất nhiều người phơi nhiễm ít nhất 1 lần ở mức độ cao. Dựa trên số lần phơi nhiễm,
những rủi ro của một cá nhân về ung thư có thể thay đổi. Xác suất của những rủi ro cá
nhân thường được miêu tả bằng số những người được đánh giá trên nhiều mức độ khác
nhau.
Rủi ro ung thư của cộng đồng
Xác suất của những người rủi ro riêng lẻ được sử dụng để tính toán những rủi ro cộng
đồng. Những rủi ro về ung thư của cộng đồng được biểu thị bằng sự gia tăng những tác
động của ung thư cho mọi tuyến ô nhiễm của mọi người với chất ô nhiễm.
2.2.4.5. Quản lý rủi ro
Khái niệm về quản lý rủi ro và đánh giá rủi ro là thường gây ra sự lẫn lộn, nhưng
chúng co 2 tính chất phân biệt nhau. Sự phân biệt này rất quang trọng để tránh sự sai
lầm trong nhận thức của những người đưa ra các quyết định trong chính phủ hay các
nhà ra quyết định không dựa vào khoa học cơ bản, mà theo sự bằng lòng của những nhà
làm luật. Quản lý rủi ro là quá trình làm giảm thiểu tác động, phân tích dữ liệu phân tích
quyết định sau khi đã có đánh giá rủi ro, đặc biệt là quyết định cuối cùng có ảnh hưởng
lớn đến chi phí kinh tế hay xã hội ( Landis, 1998). Ngoài ra có sự phân biệt về các hoạt
động khoa hoc với các áp lực chính trị và duy trì tính chất đặc thù riêng giữa mức độ rủi
ro và chi phí về môi trường, kinh tế, xã hội của nó ( Douben, 1998). Đánh giá rủi ro có
thể được xác định như là một tiến trình đánh giá khả năng các sự kiệ đặc trưng có thể
xảy ra dưới điều kiện nào đó.
Thời gian quan hệ
phơi nhiễm × liều lượng = Rủi ro lớn nhất
lớn nhất đáp ứng
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Ngược lại, quản lý rủi ro là quá trình quyết định xem đánh giá rủi ro cần được
quản lý bằng cách nào và phương tiện để hoàn thành nó, đối với việc bảo vêh sức khỏe
công chúng và các nguồn tài nguyên môi trường ( Linthrust, 1995). Quản lý rủi ro liên
quan đến việc quyết định dựa trên thông tin thu thập được từ các bước đánh giá rủi ro
trước đó thông qua việc xem xét các giá trị văn hóa và xã hội, các yếu tố chính trị và
hiện trạng về kinh tế. Quan điểm về đánh giá rủi ro và quản lý rủi ro môi trường sức
khỏe và sinh thái cũng theo quan điểm trên.
2.3. Methyl thủy ngân
2.3.1. Giới thiệu về Methyl thủy ngân
Những đặc trưng của thuỷ ngân :
- Là kim loại duy nhất tồn tại dưới dạng lỏng ở nhiệt độ thường. Nó bị phân chia
thành các giọt nhỏ khi khuấy.
- Là kim loại duy nhất có nhiệt độ sôi thấp hơn 6500 (3570).
- Là kim loại được đặc trưng bởi khả năng dễ bay hơi.
- Là một kim loại dễ dàng kết hợp với những phân tử khác như với kim loại (tạo hỗn
hống), với phân tử chất vô cơ (muối) hoặc hữu cơ (cacbon).
- Là kim loại được xếp vào họ kim loại nặng với khối lượng nguyên tử 200
- Là một kim loại độc. Độc tính của thuỷ ngân gây ra từ tính dễ bay hơi của nó (bởi
vì nó rất dễ được hít vào cơ thể), từ tính tan trong mỡ (nó được vận chuyển dễ dàng
trong cơ thể), từ khả năng kết hợp với những phân tử khác và làm mất chức năng của
chúng.
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Những dạng tồn tại của thuỷ ngân :
Về mặt hoá lí, thuỷ ngân là một kim loại rất dễ thay đổi dạng tồn tại cũng như tính chất.
Rất dễ bay hơi, nó dễ dàng chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái hơi ở nhiệt độ
phòng. Khi có mặt oxy, thuỷ ngân dễ dàng bị oxy hoá chuyển từ dạng kim loại (Hg0),
dạng lỏng hoặc khí sang trạng thái ion, (Hg2+). Nó cũng dễ dàng kết hợp với những
phân tử hữu cơ tạo nên nhiều dẫn xuất thuỷ ngân.
Thuỷ ngân tồn tại dưới hai họ :
% Họ thuỷ ngân vô cơ, gồm ba dạng khác nhau :
+ Thuỷ ngân nguyên tử, dưới dạng lỏng (kí hiệu Hg0). Đó là dạng quen thuộc nhất . Nó
được sử dụng trong các nhiệt kế.
+ Thuỷ ngân dưới dạng khí (kí hiệu Hg0), là thuỷ ngân dưới tác dụng của nhiệt chuyển
thành hơi.
+ Thuỷ ngân vô cơ, dưới dạng ion.
% Họ thuỷ ngân hữu cơ, khi nó kết hợp với một phân tử chứa cacbon, là nền tảng của
những cá thể sống.
Các dạng này có thể chuyển hoá qua lại vì thuỷ ngân có khả năng tự chuyển hoá, nhất là
trong môi trường axit và có mặt phân tử có khả năng kết hợp (clo, lưu huỳnh). Có thể
miêu tả sự chuyển hoá như sau :
- Từ thuỷ ngân kim loại thành ion thuỷ ngân - sự oxy hoá. Thuỷ ngân được hít vào dưới
dạng hơi, dưới tác động của catalaze có trong hồng cầu, thuỷ ngân kim loại được
chuyển thành ion Hg2+ lưu thông trong máu.
- Từ ion Hg2+ thành thuỷ ngân hữu cơ - sự metyl hoá. Sự metyl hoá diễn ra chủ yếu
trong môi trường nước hoặc trong cơ thể chuyển biến theo tính axit và sự có mặt của
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
lưu huỳnh. Những hợp chất hữu cơ của thuỷ ngân được biết đến nhiều là metyl thuỷ
ngân và đimetyl thuỷ ngân.[6]
2.3.2. Quá trình phơi nhiễm
Con đường đi vào cơ thể sinh vật :
Methyl thủy ngân có trong chất thải công nghiệp được thải ra môi trường, thảm
họa minamata thì methyl từ chất thải công nghiệp của công ty hóa chất chisso được thải
trực tiếp ra biển.methuy thủy ngân hữu cơ độc hơn nhiều lần so với methyl vô cơ.
Độc tính này sẽ càng tăng nếu có hiện tượng « tích luỹ sinh học » hay « khuyếch
đại sinh học ». Sự « tích luỹ sinh học » là quá trình đồng hoá và « cô đọng » những kim
loại nặng trong cơ thể.
Khi xâm nhập vào cơ thể thuỷ ngân có thể liên kết với những phân tử tạo nên tế
bào sống (axít nuclêic, prôtêin .... ) làm biến đổi cấu trúc của chúng và làm ức chế hoạt
tính sinh học của chúng.
Sự nhiễm độc thuỷ ngân gây nên những thương tổn trung tâm thần kinh tạo nên sự run
rẩy, sự khó khăn trong cách diễn đạt ... và nặng hơn nữa có thể gây chết người.[6]
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Chương III. Kết quả và phân tích
3.1. Liều lượng vào cơ thể của Methyl thủy ngân qua đường tiêu hóa
Thông số Kí hiệu Hệ số
Nồng độ hóa chất trong
nước mặt
C (mg/l) 25
Tốc độ tiêu thụ cá trung
bình
FIR (g/ngày) 10
Hệ số chuyển đổi CF (10^-3kg/ngày) 10^-3
Nồng độ sinh hóa của hóa
chất đặc biệt
BCF (l/kg)
Phần được tiêu hóa từ
nguồn ô nhiễm
FI 1
Phần trăm lượng chất được
hấp thụ trong dạ dày, hệ số
hấp thụ
ABS (%) 1
Tần số phơi nhiễm EF (ngày/năm) 365
Bảng 1.4b: Phương trình đánh giá phơi nhiễm với thủy sản bị ô nhiễm qua đường tiêu
hoa:
INGsf = (C w × FIR × CF × BCF× FI × ABS s × EF × ED) / (BW × AT)
Với người lớn:
HI = ING/RfD
= 25* 10*10^-3*1*1*365*3/(70*365*20*3,00E-04)
= 1,7 > 1 Độc.
Với trẻ em từ 6 – 12 tuổi
HI = ING/RfD
= 25*10*10^-3*1*0.7*365*3/(29*365*20*3,00E-04)
= 3,17 > 1 Rất độc
Với trẻ em từ 2 – 6 tuổi
HI = ING/RfD
= 25*10*10^-3*1*0.7*365*3/(16*365*20*3,00E-04)
= 5,45 > 1 Rất độc
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Chú thích:
Thông số Người lớn Trẻ em 6 – 12 tuổi Trẻ em 2 – 6 tuổi
Thể trọng trung
bình
70 20 16
Tỉ lệ hấp thụ % 100 70 70
Thời gian phơi
nhiễm (năm)
20 20 20
RfD 3,00E-04 3,00E-04 3,00E-04
Bảng 1: phân loại khả năng thần kinh và vận động của bệnh nhân thiểu năng trí tuệ theo
Oshima
IQ Khả năng di chuyển
Khả năng
chạy
Khả năng đi
bộ
Đi bộ khó
khăn
Khả năng ngồi Luôn luôn
trong trạng thái
ngủ
70-80 Lớp21 Lớp 22 Lớp 23 Lớp 24 Lớp 25
50-70 Lớp 20 Lớp 13 Lớp 14 Lớp 15 Lớp 16
35-50 Lớp 19 Lớp 12 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 9
20-35 Lớp 18 Lớp 11 Lớp 6 Lớp 3 Lớp 4
<20 Lớp 17 Lớp 10 Lớp 5 Lớp 2 Lớp 1
Cột nằm ngang cho thấy khả năng chuyển động, trong khi cột thẳng đứng cho thấy chỉ số IQ.
Bảng 2: bảng phân loại của Oshima về ngiên cứu trên 9 bệnh nhân nhiễm FMD
Phân loại của Oshima Số bệnh nhân
Lớp 1 5
Lớp 2 1
Lớp 3, 4 0
Lớp 5 1
Lớp 17. 18 2
Dữ liệu cho thấy số lượng những bệnh nhân đặc trưng
Bảng 3: Tần số của các triệu chứng thần kinh khác nhau trong chín đối tượng kiểm tra
Các triệu chứng thần kinh Số bệnh nhân
Tâm thần chậm phát triển 9
Triệu chứng kim tự tháp 5
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Triệu chứng ngoại tháp 5
Lác mắt 6
Tăng tuyến nước bọt 4
Động kinh 3
Tắc ruột 3
Dữ liệu cho thấy số lượng những bệnh nhân đặc trưng
Bảng 4: tuổi tác, cân nặng và chiều cao của bệnh nhân nhiễm FMD và kiểm soát sức
khỏe
Bệnh nhân nhiễm FMD
(n=9)
Kiểm soát sức khỏe
(n=13)
Tuổi (năm) 44+- 1.0 42.9 +-1.5
Cân nặng (kg) 45.2 +- 12.2 56.4 +- 6.3
Chiều cao (cm) 146.5 +- 10.0 160.5 +- 7.7
BẢNG 5: kết quả của áp lực máu và HRV với thời gian và phân tích miền tần số ở bệnh
nhân và kiểm soát dịch
Đo lường Bệnh nhân nhiễm FMD
(n=9)
Kiểm soát dịch (n=13)
Mean RR(milliseconds) 801+-152 953 +-129
SD RR (milliseconds) 22+-12 33+- 13
CV(%) 2.6 +_1.1 3.3 +-1.1
LF (nu) 22.3 +-7.9 28.2 +-14.2
HF(nu) 27.8 +- 16.9 41.9 +- 16.7
sBP (mmHg) 105.0 +- 9.5 111.7 +- 14.6
dBP (mmHg) 69.5 +- 6.2 68.8 +- 13.9
Pulse pressure (mmHg) 35.1 +- 5.6 42.9 +- 5.7
P<0.05: kiểm soát (Mann- Whitney tổng kiểm tra xếp hạng)
3.2. Đánh giá rủi ro của Methyl thủy ngân
Rủi ro từ Methyl thủy ngân mang lại là rất lớn, methyl thủy ngân giờ vẫn được
nhắc đến là một thảm họa, một nổi đau của người dân Nhật Bản. Methyl thủy ngân đã
làm cho 43 người Nhật đã chết, và 69 người bị tàn tật do nhiễm độc thuỷ ngân trong
khoảng tám năm, kể từ năm 1953. Cho đến ngày 30/4/1997, số người trong hai tỉnh
Kumamoto và Kagoshima chứng nhận là đã mắc bệnh Minamata lên tới 17 ngàn người.
Trong đó có 2.265 (trong đó 1.484 người đã qua đời cho đến 31/1/2003) đã được chính
phủ công nhận. 10.625 người sau khi được chứng nhận là bệnh nhân Minamata đã được
Chính phủ bồi thường. Như vậy, theo Chính phủ Nhật thì có tổng cộng 12.890 người đã
mắc bệnh cho đến nay.[3]
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
Sự ô nhiễm đã làm nồng độ thủy ngân có trong nước biển của vịnh Minamata
vượt quá 25 ppm. Lòng vịnh Minamata đã được nạo vét suốt 14 năm và tiêu phí tới 48.5
tỉ yên, những chi phí này do tỉnh Kumamoto đảm nhiệm. Sau khi được cải tạo, chất
lượng nước trong vịnh Minamata đã trở thành một trong những nơi đứng đầu trong tỉnh
Kumamoto về độ trong và độ sạch, vì vậy mọi người ngày nay có thể bơi lội hoặc chơi
các môn thể thao dưới nước một cách an toàn ở đó. Nhằm để ngăn chặn những con cá
đã bị nhiễm độc, và bảo vệ người dân ở trong tỉnh, tỉnh Kumamoto đã thả lưới ở cửa ra
vào vịnh Minamata vào năm 1974 và vận động việc đánh cá nằm trong vịnh. Công ty
Chisso đã mua lại số cá này và đem đi tiêu hủy.[5]
Chương IV. Kết luận và kiến nghị
Từ khi Chisso ngừng việc sản xuất Acetaldehyde, nồng độ thủy ngân trong cá và
sò trong vịnh Minamata càng ngày càng giảm xuống. Tháng 10/1994, tỉnh Kumamoto
đã khẳng định lượng thủy ngân năm trong các loài cá tại vịnh Minamata đều nằm trong
giới hạn tiêu chuẩn quốc gia là 0,4 ppm. Chính vì vậy vào tháng 6/1997, tỉnh
Kumamoto đã tuyên bố Minamata trở lại an toàn và toàn bộ những tấm lưới trên được
dỡ bỏ. Ngày nay, toàn bộ cá ở trong vịnh đều đảm bảo an toàn giống như những loài cá
ở ngoài vịnh.[4]
Tuy những tấm lưới trên đã được dỡ bỏ, nhưng những cuộc điều tra về nồng độ
thủy ngân trong các loài cá và sò trong vịnh Minamata đều được tiến hành mỗi năm 2
lần và sẽ kéo dài trong suốt 3 năm tới nữa. Các số liệu về Minamata là bài học rút ra cho
không chỉ người Nhật và còn cho nhiều người dân trên thế giới nữa về việc môi trường
bị tàn phá và sức khỏe con người bị ảnh hưởng trên diện rộng. Chính vì vậy mà căn
bệnh Minamata cần được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn nữa.
Minamata là căn bệnh gây ra do con người ăn cá và sò từ vùng biển bị ô nhiễm
nặng nề bởi công ty Chisso thải methyl thủy ngân ra biển. Cùng thời gian đó, sự xung
đột và thù địch giữa người với người trong cộng đồng cũng bung phát.
Mọi công dân của Minamata nhận ra rằng, nước và thức ăn là rất cần thiết cho
cuộc sống, và là vô giá. Ngành xây dựng và công nghiệp không thể được cho phép tàn
phá môi trường.
Sự sản xuất hàng loạt, tiêu thụ hàng loạt làm cho cuộc sống của chúng ta thuận
tiện hơn, thịnh vượng hơn, nhưng cũng sinh ra hàng loạt rác thải. Tuy nhiên môi trường
và sức khỏe của chúng ta phải chịu đựng với những cột khói thải khổng lồ, phân hóa
học trong nông nghiệp, những hóa chất bảo quản và hàng loạt những hóa chất độc hại
khác. Chúng ta không thể chỉ nghĩ đến cuộc sống vật chất giàu có đơn thuần của chúng
Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata
GVHD : Th.S. Lê Thị Hồng Hạnh
ta mà không tham khảo đến mối liên quan với các nước khác. Bệnh Minamata cho
chúng ta thấy rằng con người vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân.
Bệnh Minamata còn cho chúng ta thấy rằng, để cùng tồn tại với tự nhiên, dựa
trên quan điểm chúng ta phải sống đền đáp lại thiên nhiên, nghĩ về mối quan hệ với mọi
người, sông hồ, biển, về những loại thức ăn an toàn, giảm bớt rác thải ở nhà và rác thải
công nghiệp, phải phát triển kĩ thuật tái chế, và giải quyết các vấn đề của địa cầu.
Tài liệu tham khảo
1. "Bệnh Minamata: Lịch sử và các biện pháp" , Các Bộ Môi trường , (2002), lấy 17 Tháng
Một 2007
2. "Dịch bệnh Minamata Lưu trữ" của Viện Quốc gia về bệnh Minamata, lấy 29 tháng 10 năm
2006
3. Harada, Masazumi . (1972). Minamata bệnh. Kumamoto Nichinichi Shinbun Trung tâm
Thông tin và Trung tâm / Nhà xuất bản Iwanami Shoten. ISBN 4-87755-171-9 C3036
4. George, S. Timothy. (2001):. Minamata ô nhiễm và cuộc đấu tranh cho dân chủ ở Nhật
Bản thời hậu chiến. Đại học Harvard. ISBN 0-674-00785-9
5. Ui, Jun (1992). Ô nhiễm công nghiệp tại Nhật Bản . Đại học Liên Hiệp Quốc. ISBN 92-
808-0548-7 . Chương 4, mục IV.
6. Calvert J.B. (2004, 29 May). Mercury: The lore of mercury, especially its uses in science
and engineering. Retrieved April 05, 2005.
7. Kolev, S.T. Bates, N. Mercury (UK PID). National Poisons Information Service: Medical
Toxicology Unit (London Centre).
8. Lê Thị Hồng Trân, 2008. Đánh giá rủi ro sức khỏe và đánh giá rủi ro sinh thái. Nhà xuất
bản Khoa học và Kỹ thuật.
9. Lê Thị Hồng Trân, 2008. Đánh giá rủi ro môi trường. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Rủi ro sức khỏe-môi trường – bài học minamata.pdf