Tài liệu Đề tài Đánh giá quá trình sử dụng và điều hành chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua: lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài cần nghiên cứu:
Lãi suất là giá cả sử dụng vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời gắn liền với mọi hoạt động kinh tế có liên quan, mà trực tiếp là người gửi tiền và người vay vốn.
Lãi suất cũng là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia do Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) điều hành. Nó có tác động rất lớn đối với vịệc tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu thông, thu hẹp hay mở rộng tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn, kích thích hay cản trở đầu tư, tạo thuận lợi hay khó khăn cho hoạt động ngân hàng. Một chính sách lãi suất đúng đắn sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ngược lại khi chính sách lãi suất thiếu chuẩn xác sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Và vai trò đó của chính sách lãi suất ngày càng trở nên quan trọng và phức tạp hơn cùng với quá trình đổi mới hoạt động ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển sâu sắc.
ở Việt...
40 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1109 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá quá trình sử dụng và điều hành chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài cần nghiên cứu:
Lãi suất là giá cả sử dụng vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời gắn liền với mọi hoạt động kinh tế có liên quan, mà trực tiếp là người gửi tiền và người vay vốn.
Lãi suất cũng là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia do Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) điều hành. Nó có tác động rất lớn đối với vịệc tăng hoặc giảm khối lượng tiền lưu thông, thu hẹp hay mở rộng tín dụng, khích lệ hay hạn chế huy động vốn, kích thích hay cản trở đầu tư, tạo thuận lợi hay khó khăn cho hoạt động ngân hàng. Một chính sách lãi suất đúng đắn sẽ có tác dụng thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hoá, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ngược lại khi chính sách lãi suất thiếu chuẩn xác sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Và vai trò đó của chính sách lãi suất ngày càng trở nên quan trọng và phức tạp hơn cùng với quá trình đổi mới hoạt động ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển sâu sắc.
ở Việt Nam, sau hơn 10 năm đổi mới, ngành ngân hàng đã đạt được những thành tựu nhất định, góp phần không nhỏ vào những thành quả chung của nền kinh tế. Trong nhiệm vụ xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã rất chú trọng đến việc đổi mới các công cụ điều tiết như hạn mức tín dụng, dự trữ bắt buộc, tỷ giá...nhưng quan trọng nhất vẫn là công cụ lãi suất. Nhìn chung trong hơn 10 năm đổi mới, chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng đã góp phần bình ổn giá cả, đẩy lùi và kiểm soát lạm phát, kích cầu, tăng trưởng kinh tế. Cơ chế điều hành lãi suất được thay đổi theo từng thời kỳ phát triển kinh tế và ngày càng trở nên linh hoạt hơn. Đặc biệt, trong giai đoạn thúc đẩy phát triển kinh tế và xu hướng hội nhập vào thị trường tài chính khu vực cũng như Quốc tế hiện nay đòi hỏi NHNN phải xây dựng và thực thi một chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng phù hợp, tiến tới tự do hoá trên cơ sở đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nước với thị trường, phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô.
Vì vậy, việc học tập, nghiên cứu chính sách lãi suất cũng như việc học tập kinh nghiệm quản lý và điều hành chính sách lãi suất của các nước phát triển để từ đó đưa ra những điều kiện, giải pháp để xây dựng một chính sách lãi suất đúng đắn ở nước ta có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Điều này không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình xây dựng và điều hành một chính sách lãi suất phù hợp với cơ chế quản lý kinh tế hiện nay, mà còn rất quan trọng đối với quá trình hình thành và hoạt động một cách có hiệu quả của hệ thống thị trường tài chính ở Việt Nam, góp phần giải quyết những khó khăn về vốn, đảm bảo sự thắng lợi cho công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
2. Mục tiêu
- Về lý luận: tìm hiểu sâu hơn những khái niệm có liên quan đến chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng.
- Về thực tiễn: Tìm hiểu và đưa ra giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài: tìm hiểu chính sách lãi suất tín dụng trong giai đoạn đổi mới nền kinh tế.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tổng hợp.
- Tính chất lịch sử.
5. Kết cấu của đề tài
Chương I. Cơ sở lý luận của chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng và kinh nghiệm của một số nước trong việc điều hành chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng.
Chương II. Đánh giá quá trình sử dụng và điều hành chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua.
Chương III. Giải pháp nhằm củng cố và hoàn thiện chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam.
En xin gửi lời cám ơn chân thành đến thầy giáo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tài và cô giáo Cao Thị ý Nhi đã giứp đỡ em hoàn thành đề án này. Trong quá trình nghiên cức vấn đề trên, do trình độ và khả năng có hạn nên bài viết này không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, các cô để hoàn thành tốt đề án này.
Chương I
Cơ sở lý luận của chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng và kinh nghiệm của một số nước trong việc điều hành chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng.
Khái niệm lãi suất.
Trong nền kinh tế thị trường tồn tại rất nhiều phạm trù kinh tế - tài chính trong đó tín dụng và lãi suất tín dụng là một trong số những phạm trù quan trọng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động vay mượn, quan hệ sử dụng vốn giữa người đi vay và người cho vay theo nguyên tắc có hoàn trả. Đối với chủ thể thừa vốn, tín dụng mang đến cho họ cơ hội không những bảo tồn được vốn mà còn tạo thu nhập. Đối với các chủ thể thiếu vốn, tín dụng giúp cho họ bổ sung vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh hoặc đời sống. Như vậy, nhờ có hoạt động tín dụng mà có một bộ phận lớn nguồn vốn trong nền kinh tế được huy động, tập trung và phân phối từ nơi tạm thời dư thừa sang nơi thiếu để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các chủ thể trong nền kinh tế.
Công cụ và là đòn bẩy quan trọng không thể thiếu được trong hoạt động tín dụng chính là lãi suất. Lãi suất tín dụng ngân hàng là tỷ lệ % giữa lợi tức và tổng số tiền vay trong một thời kỳ nhất định. Như vậy, lãi suất chính là giá cả sử dụng tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời gắn liền với mọi hoạt động kinh tế có liên quan đến gửi tiền và vay tiền.
Mặt khác, ở tầm vĩ mô, lãi suất còn là một công cụ điều tiết kinh tế rất nhạy bén và hiệu quả của chính sách tiền tệ quốc gia. Thông qua việc thay đổi mức và cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ nhất định, Chính phủ có thể tác động đến quy mô và tỷ trọng các loại vốn đầu tư, do vậy mà có thể tác động đến quá trình điều chỉnh cơ cấu, đến tốc độ tăng trưởng, sản lượng, tỷ lệ thất nghiệp và tình trạng lạm phát trong nước. Hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định của nền kinh tế mở, chính sách lãi suất còn được sử dụng như một công cụ góp phần điều tiết đối với các luồng vốn đối với một nước, tác động đến tỷ giá và điều tiết sự ổn định của tỷ giá. Điều này không những tác động đến đầu tư phát triển mà còn tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán và các quan hệ thương mại quốc tế của nước đó đối với nước ngoài.
Chính vì những điều như vậy mà ở các nước kinh tế thị trường phát triển và theo đuổi chính sách tự do hoá tài chính (financial liberalization ), lãi suất được hình thành trên cơ sở thị trường, tức là do quan hệ giữa cung và cầu về vốn trên thị trường quyết định.
Có nhiều tiêu chí phân loại lãi suất tín dụng ngân hàng.
Căn cứ vào thời hạn tín dụng, lãi suất tín dụng ngân hàng chia thành ba loại. Đó là lãi suất tín dụng ngắn hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn, lãi suất tín dụng trung hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn, lãi suất tín dụng dài hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn.
Nếu căn cứ vào mức độ ổn định của lãi suất thì lãi suất được chia thành lãi suất thả nổi và lãi suất cố định. Lãi suất thả nổi là lãi suất thay đổi lên xuống còn lãi suất cố định là lãi suất được áp dụng trong suốt thời hạn tín dụng.
Nếu căn cứ vào loại hình lãi suất tín dụng, lãi suất được chia thành nhiều loại khác nhau. Lãi suất tiền gửi là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi, lãi suất này có nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, quy mô tiền gửi. Lãi suất tiền vay là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử dụng vốn vay của ngân hàng, nó được áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách hàng phải trả cho ngân hàng. Lãi suất chiết khấu áp dụng khi ngân hàng cho vay dưới hình thức chiết khấu thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác chưa đến hạn thanh toán của khách hàng, nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng. Lãi suất tái chiết khấu áp dụng khi ngân hàng tái cấp vốn cho các ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của ngân hàng. Nó cũng được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của các giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi NHTƯ cấp tiền vay cho ngân hàng thương mại (NHTM ). Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trường liên ngân hàng, nó được hình thành bởi quan hệ cung cầu tiền của các tổ chức tín dụng và chịu sự chi phối của lãi suất tái cấp vốn của NHTƯ. Lãi suất cơ bản là lãi suất được các NHTM sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình.
Một vấn đề quan trọng trong việc tìm hiểu khái niệm lãi suất tín dụng ngân hàng đó là phải phân biệt được lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa.
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là lãi suất chưa trừ đi tỷ lệ lạm phát. Lãi suất danh nghĩa thường được công bố chính thức trong các quan hệ tín dụng, trên các phương tiên thông tin đại chúng.
Lãi suất thực tế là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính về lạm phát.
Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế được khái quát thành phương trình sau đây:
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát.
hay
Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát.
Vì được điều chỉnh lại theo đúng những thay đổi về lạm phát nên lãi suất thực tế phản ánh chính xác hơn thu nhập từ việc cho vay cũng như chi phí thật của việc cho vay.
Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất:
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước đóng vai trò trung tâm trong hầu hết tất cả các hoạt động kinh tế xã hội trong đó có thị trường tài chính. Vì lẽ đó, lãi suất trong các nước đó đều do Nhà nước qui định, thậm chí một số nước còn quy định đến cả mức chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các ngân hàng. Sự biến động của lãi suất trong các điều kiện như vậy phần lớn phụ thuộc vào ý chí của chính phủ và không vận động theo bất cứ một quy luật nào.
Trái lại, trong các nền kinh tế thị trường, Nhà nước chỉ đóng vai trò là người điều tiết vĩ mô, thị trường tài chính hoạt động theo cơ chế tự do hoá, cơ chế hình thành lãi suất là cơ chế thị trường. Lãi suất vì vậy mà chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố kinh tế vĩ mô cũng như nhiều các nhân tố khác.
ảnh hưởng của cung cầu tiền tệ:
Lãi suất là giá cả sử dụng vốn vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung và cầu hoặc cả cung và cầu tiền tệ không cùng một tỷ lệ đều sẽ là thay đổi mức lãi suất trên thị trường. Tuy mức biến động của lãi suất ít nhiều phụ thuộc vào các quy định của chính phủ và NHTƯ, song đa số các nước có nền kinh tế thị trường đều dựa vào nguyên lý này để xác định lãi suất. Do vậy, có thể tác động vào cung cầu trên thị trường vốn để thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu, chiến lược trong từng thời kỳ chẳng hạn như thay đổi cơ cấu vốn đầu tư, tập trung vốn cho các dự án trọng điểm. Mặt khác, muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thì sự ổn định của thị trường vốn phải được đảm bảo vững chắc.
ảnh hưởng của lạm phát kỳ vọng:
Khi lạm phát được dự đoán tăng trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu hướng tăng. Điều này là xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa và để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. Mặt khác, công chúng dự đoán lạm phát tăng sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc những dạng thức phi tài sản khác như vàng, ngoại tệ mạnh hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài nếu có thể. Tất cả những điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất trên thị trường. Từ mối quan hệ này cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của việc khắc phục tâm lý lạm phát đối với việc ổn định lãi suất, sự ổn định và tăng trưởng của nền kinh tế.
ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận bình quân:
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của các dự án đầu tư phải cao hơn lãi suất các khoản vay tài trợ cho dự án. Có như vậy các nhà đầu tư mới có lợi nhuận từ các dự án đầu tư và phấn khởi mở rộng đầu tư. Do đó, cách đánh giá, lựa chọn chính sách lãi suất phù hợp sẽ dựa trên cơ sở ước lượng tỷ suất lợi tức trung bình của nền kinh tế.
ảnh hưởng của bội chi ngân sách:
Bội chi ngân sách ở trung ương và địa phương trực tiếp làm cho cầu tiền tăng và làm tăng lãi suất. Sau nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý công chúng về gia tăng mức lạm phát và sẽ gây áp lực tăng lạm phát. Thông thường, Chính phủ thường tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu. Lượng cung trái phiếu trên thị trường tăng lên làm cho giá trái phiếu có xu hướng giảm và lãi suất thị trường có xu hướng tăng. Mặt khác, do tài sản có của NHTM tăng ở khoản mục trái phiếu chính phủ, dự trữ vượt mức giảm nên lãi suất ngân hàng cũng sẽ tăng.
Những thay đổi trong thuế:
Thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp luôn có tác động đến lãi suất. Khi các hình thức thuế này tăng sẽ điều tiết đi một phần thu nhập của các cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những người tham gia kinh doanh chứng khoán. Mọi người đều quan tâm đến thu nhập thực tế hơn là thu nhập danh nghĩa. Do vậy, để duy trì một mức lợi nhuận thực tế nhất định, họ phải cộng thêm vào lãi suất cho vay những thay đổi của thuế.
ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái kỳ vọng:
Khi đồng nội tệ yếu, bị những sức ép lớn do những dao động của các đồng ngoại tệ mạnh thì tâm lý phổ biến của người dân là coi ngoại tệ mạnh như một trong những loại tài sản tiết kiệm an toàn. Chẳng hạn, khi hiện tượng đô la hoá xảy ra, người dân sẽ ồ ạt chuyển sang tiết kiệm bằng ngoại tệ cụ thể là đô la Mỹ. Làm như vậy người gửi hưởng lợi kép gồm lãi suất tiền gửi và sự lên giá của đồng đô la Mỹ. Sự chuyển dịch này tạo ra sự khan hiếm nội tệ ở các NHTM và buộc các ngân hàng này phải tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ để huy động cho vay nền kinh tế. Như vậy, khi xây dựng chính sách lãi suất cần phải xem xét đến khía cạnh tỷ giá để giảm bớt mức chênh lệch giữa lợi tức lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ hay lãi suất cho vay nội tệ và ngoại tệ. Điều này giúp giảm bớt sự dịch chuyển không mong đợi từ tiền gửi nội tệ sang đô la khi đồng đô la lên giá.
Những thay đổi trong đời sống xã hội:
Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về đời sống xã hội khác như tình hình về kinh tế, chính trị cũng như những biến động tài chính quốc tế như các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên thế giới, các luồng vốn đầu tư ra vào đối với các nước...
Tất cả những điều này gợi ý cho những nhà nghiên cứu, soạn thảo và điều hành chính sách lãi suất phải có một cách nhìn và đánh giá một cách tổng thể trước khi đưa ra bất cứ một kết luận hay một quyết định nào có liên quan đến lãi suất.
3. Các nguyên tắc cơ bản hình thành lãi suất tín dụng ngân hàng.
Như đã nói, lãi suất tín dụng chính là giá cả của tín dụng, là tỷ lệ % tính theo một thời hạn xác định ( ngày, tuần, tháng, quý, năm... ) dùng làm căn cứ để tính toán số lợi tức tín dụng mà các chủ thể tín dụng phải trả ( đối với chủ thể đi vay ) hoặc nhận được ( đối với chủ thể cho vay ) để điều hoà lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ tín dụng. Do vậy, việc xác định lãi suất tín dụng sao cho hợp lý là một vấn đề vô cùng quan trọng sao cho đảm bảo được lợi ích giữa các chủ thể trong quan hệ tín dụng.
Trước hết, lãi suất tín dụng phải đảm bảo một phần thu nhập hợp lý cho người gửi tiền vào ngân hàng. Do vậy trong thực tế, lãi suất thực tế phải lớn hơn hoặc bằng tỷ lệ lạm phát tức là:
Lãi suất thực tế = tỷ lệ lạm phát + tỷ lệ khuyến khích người gửi tiền.
Mặt khác, lãi suất tín dụng phải đảm bảo một phần thu nhập hợp lý cho các tổ chức tín dụng (TCTD ) và NHTM tức là:
Lãi suất = Lãi suất + Các chi phí hợp lý + Bù đắp rủi ro + tỷ lệ thu nhập
cho vay tiền gửi trong hoạt động trong hoạt động hợp lý của
tín dụng ngân hàng ngân hàng ngân hàng
Đồng thời, lãi suất cho vay của ngân hàng phải đảm bảo phát triển nền kinh tế tức là phải đảm bảo cho những người vay vốn ngân hàng có thu nhập hợp lý, nghĩa là:
Lãi suất cho vay < Tỷ lệ lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
Do vậy, có thể khẳng định rằng giới hạn tối đa của lãi suất tín dụng ngân hàng nói chung là tỷ suất lợi nhuận bình quân, còn giới han thấp nhất của lãi suất là chỉ số lạm phát vì nó sẽ làm cho người gửi tiền bảo toàn được vốn.
Tóm lại, để lãi suất tín dụng trở thành đòn bẩy kích thích và mở rộng các quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thì phải đảm bảo lãi suất tín dụng được kiểm soát trong khung giới hạn sau đây:
Tỷ lệ lạm phát <= lãi suất tín dụng <= tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Nếu vượt quá giới hạn trên, lãi suất tín dụng sẽ gây ra tác động tiêu cực đối với nền kinh tế xã hội, hệ thống ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng bất ổn, rối loạn.
4. Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng.
Lãi suất là công cụ có ý nghĩa khi thực hiện chính sách tiền tệ, NHTƯ sẽ căn cứ vào thực trạng của nền kinh tế để quy định một số chỉ tiêu lãi suất áp dụng trong toàn hệ thống ngân hàng. Thông thường, người ta thường quy định hai chỉ tiêu cơ bản là lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cơ bản.
a. Lãi suất cơ bản.
Lãi suất cơ bản là lãi suất có tác dụng chi phối tất cả các loại lãi suất khác hình thành trong nền kinh tế thị trường. Đó là loại lãi suất chiếm vị trí quan trọng trong cơ chế thị trường.
Lãi suất cơ bản do NHTƯ xác định và công bố trên cơ sở tình hình thực tế của thị trường và mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
Lãi suất cơ bản có một số chức năng nhất định. Nó là công cụ để điều hành chính sách tiền tệ quốc gia. Qua lãi suất cơ bản, NHTƯ tác động vào thị trường tiền tệ, thúc đẩy, mở rộng hay thu hẹp tín dụng, giữ mức tương quan cần thiết giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ. Mặt khác, lãi suất cơ bản là giá cả sử dụng vốn trong hoạt động tín dụng, là cở sở hình thành lãi suất thị trường, tức là lãi suất kinh doanh tiền tệ. Nó là điểm dung hoà một cách tự nhiên lợi ích của người gửi tiền, của người vay tiền và của TCTD.
Lãi suất cơ bản được xác định một cách trực tiếp dưới nhiều góc độ. Nếu đứng trên giác độ bảo vệ lợi ích của khách hàng ( người gửi tiền và người vay vốn) người ta quy định lãi suất tiền gửi tối thiểu và lãi suất cho vay tối đa. Điều này có nghĩa là, vì lợi ích của người gửi tiền, các TCTD không được hạ lãi suất một cách tuỳ tiện và vì yêu cầu phát triển sản xuất, các tổ chức tín dụng không được tăng lãi suất cho vay quá mức. Nếu đứng trên giác độ bảo vệ lợi ích của các TCTD, tạo khuôn khổ cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, người ta quy định lãi suất cơ bản theo chiều hướng ngược lại đó là quy định lãi suất tiền gửi tối đa và lãi suất cho vay tối thiểu. Điều này làm cho các TCTD không được vì muốn tạo lợi thế trong cạnh tranh mà nâng lãi suất huy động quá cao hoặc cho vay theo lãi suất quá thấp, gây thiệt hại chung cho toàn hệ thống các TCTD.
Khi xác định lãi suất cơ bản phải tính đến tổng thể quan hệ cung cầu vốn thông qua một loạt các yếu tố trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thông thường. Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân, mức tăng trưởng kinh tế, chỉ số lạm phát dự báo hàng quý, hàng năm, lãi suất thực dương cho người gửi tiền, bù đắp chi phí và có lãi cho TCTD, yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kỳ, rủi ro trong hoạt động tín dụng, mức độ dự trữ bắt buộc, lãi suất hình thành trên thị trường tiền tệ nói chung, mối tương quan giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, mối tương quan giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái...
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về lãi suất cơ bản, cách thức xác định và điều hành lãi suất cơ bản. Có thể lấy lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa, lãi suất cho vay tối đa, lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ đối với các TCTD hoặc lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
a1. Lãi suất cơ bản là lãi suất tái chiết khấu.
Đây là phương pháp phổ biến được NHTƯ các nước áp dụng. Do lãi suất này được chủ động công bố và được xem xét, tính toán tương đối thường xuyên nên thực sự đóng vai trò quyết định đối với các mức lãi suất kinh doanh cũng như cung cầu vốn của các TCTD. Nhưng lãi suất chiết khấu lại mang nặng tính chất để điều hành chính sách tiền tệ.
a2. Lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa.
Thực chất của lãi suất cơ bản loại này là NHTƯ công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi suất cho vay. Các TCTD sẽ ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất cho vay cụ thể phù hợp với cung cầu về vốn.
a3. Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa.
NHTƯ công bố một mức lãi suất trần nhưng có thể quy định một số mức biên độ phù hợp với từng loại hình TCTD, thời hạn khác nhau.
a4. Lãi suất cơ bản là lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất cho vay giữa các NHTM. Lãi suất liên ngân hàng hình thành trên cơ sở thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và quan hệ cung cầu vốn trong nền kinh tế. Do vậy, lãi suất liên ngân hàng gắn với thị trường nhiều hơn và dễ biến động hơn. Thông thường lãi suất cơ bản bằng lãi suất liên ngân hàng cộng thêm một biên độ gồm phí quản lý món vay, phí rủi ro...
Lãi suất tái chiết khấu.
Khi nền kinh tế phát triển cả chiều sâu lẫn chiều rộng, NHTƯ chuyển sang điều hành lãi suất một cách gián tiếp, mang nặng yếu tố kinh tế. Đó là lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ. Lãi suất chiết khấu có tác động và có ý nghĩa hướng dẫn lãi suất thị trường một cách gián tiếp, tức là tác động đến lãi suất kinh doanh của các TCTD.
Lãi suất chiết khấu chủ yếu ảnh hưởng đến cung ứng tiền tệ bằng cách ảnh hưởng đến khối lượng cho vay chiết khấu và cơ số tiền tệ. Một sự tăng lên trong cho vay chiết khấu sẽ làm tăng cơ số tiền tệ và tăng cung ứng tiền tệ. Còn một sự giảm xuống trong cho vay chiết khấu sẽ làm giảm bớt cơ số tiền tệ và thu hẹp cung ứng tiền tệ.
Ngoài việc sử dụng làm công cụ để tác động đến cơ số tiền tệ và cung ứng tiền tệ, lãi suất chiết khấu còn được sử dụng để giúp cho việc tránh khỏi những cơn sụp đổ tài chính vì ngân hàng đóng vai trò là người cho vay cuối cùng. NHTƯ đóng vai trò là người cho vay cuối cùng không chỉ cho các NHTM mà còn cho cả hệ thống tài chính nói chung. NHTƯ cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng khi các ngân hàng bị đe doạ phá sản, do đó ngăn chặn xảy ra những cơn sụp đổ ngân hàng và tài chính.
Lãi suất chiết khấu có hai tác dụng: tác dụng về lượng đối với khối lượng tiền tệ trong lưu thông và tác dụng về giá đối với cơ cấu lãi suất trong nền kinh tế.
Tác dụng về lượng: Việc phân tích quá trình tạo tiền đã cho thấy các NHTM sau khi tạo ra tiền ghi sổ còn phải tiền trung ương để đảm bảo. Nhu cầu này khiến họ phải đi vay ở NHTƯ bằng cách tái chiết khấu một phần chứng từ có giá của mình. Việc tái cấp vốn của NHTƯ cho các NHTM có tác dụng về lượng đối với khối lượng tiền tệ vì nó dẫn đến việc phát hành tiền của NHTƯ cho các NHTM để họ có thể chi trả cho việc rút vốn khỏi các NHTM.
Tác dụng về giá: NHTƯ tái chiết khấu các chứng từ do NHTM xuất trình với điều kiện NHTM phải trả một tỷ suất nhất định do NHTƯ đơn phương quy định. Lãi suất này gọi là tỷ suất chiết khấu hay lãi suất chiết khấu. Các loại lãi suất cho vay tư nhân tức là lãi suất tín dụng cấp cho nền kinh tế và lãi suất cho vay Nhà nước đều gắn chặt với lãi suất tái chiết khấu.
Mỗi khi tỷ suất chiết khấu thay đổi đều có xu hướng làm tăng hay giảm chi phí cho vay của NHTƯ đối với các NHTM và do đó khuyến khích hoặc cản trở nhu cầu xin vay.
Mặt khác, khi kho bạc muốn bán tín phiếu kho bạc cho lĩnh vực ngân hàng thì họ phải chào một lãi suất tương đương với tỷ suất chiết khấu. Nói cách khác, khi ấn định tỷ suất chiết khấu, NHTƯ cũng ấn định luôn mức lãi suất đi vay của Nhà nước.
Như vậy, lãi suất chiết khấu chính là một công cụ để NHTƯ điều hành chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng sao cho phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
5. Kinh nghiệm của một số nước trong việc sử dụng chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng.
Lãi suất là một trong những công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia. Tuỳ theo nhịp độ phát triển kinh tế, mức độ ổn định tiền tệ của mỗi nước mà mỗi nước có nội dung, phương pháp điều hành, quản lý chính sách lãi suất tín dụng ở mức độ khác nhau.
5.1 Kinh nghiệm của Nhật Bản.
Thị trường tiền tệ của Nhật Bản chỉ dành cho các ngân hàng và một số định chế tài chính được chính thức công nhận trong giai đoạn Nhật Bản phát triển với tốc độ cao. Sau này, Nhật Bản mở rộng thị trường tiền tệ cho các thành phần tham gia và thị trường liên ngân hàng gồm có thị trường mua tiền tệ (call money market) dành cho những giao dịch cực ngắn, phục vụ cho giao dịch thương mại và thị trường thương phiếu (bills market) dành cho các giao dịch dài hạn.
Hai thị trường này gồm có người cho vay, người đi vay và các nhà trung gian chuyên nghiệp, người buôn tiền ở thị trường tiền tệ. Vì giao dịch không ký quỹ nên người buôn tiền chỉ hoạt động như người môi giới. Ngân hàng Nhật cũng tham gia vào thị trường thương phiếu.
Để điều hành lãi suất, bên cạnh lãi suất có tính chất định hướng là lãi suất chiết khấu, Nhật Bản còn áp dụng một số loai lãi suất có điều tiết được xây dựng dựa trên lãi suất chiết khấu và xác định dược lãi suất cơ bản là sàn lãi suất cho vay nhằm đảm bảo an toàn hệ thống. Lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng được tự do xác định trên cơ sở cung cầu về vốn và làm lãi suất tham chiếu cho mọi định chế tài chính.
5.2 Kinh nghiệm của Pháp.
Pháp dùng lãi suất của thị trường liên ngân hàng làm lãi suất chỉ đạo (lãi suất cơ bản). Lý do là vì Pháp là một nước mà lượng vay vốn ngân hàng nhiều hơn lượng vay vốn qua thị trường tài chính. Pháp dùng lãi suất cho vay chào mời vào lúc 11 giờ hàng ngày của 8 ngân hàng và hiện nay là của 12 ngân hàng để tính theo số trung bình cộng ra lãi suất cho vay bằng đồng nội tệ và bằng Ecu.
ở Pháp, các tín phiếu kho bạc được dành riêng cho thị trường liên ngân hàng.
Về lý thuyết, người ta cho rằng Pháp xác định lãi suất cơ bản do cung cầu tín dụng quy định. Trong 12 ngân hàng lớn, mỗi ngân hàng có quan hệ giữa nguồn vốn và cung cầu vốn tín dụng riêng, từ đó xác lập nên cung cầu vốn riêng của mình. Nếu cung cầu, ngân hàng đó sẽ là người cung ứng vốn cho thị trường liên ngân hàng và phản ánh bên cung của thị trường liên ngân hàng. Sự gặp gỡ cung cầu của eác ngân hàng lớn phản ánh cung cầu tín dụng của nền kinh tế. Nếu cung > cầu, lãi suất hạ xuống, nếu cung < cầu, lãi suất tăng lên. NHTƯ với vai trò là người cho vay cuối cùng trên thị trường liên ngân hàng có thể không muốn lãi suất tăng lên sẽ cho vay một phần hoặc toàn bộ số cung < cầu. Có thể nói đây là một công cụ hữu hiệu để NHTƯ tác động vào lãi suất trên thị trường. Nhưng trong thực tế, lãi suất chỉ đạo đã biến động rất mạnh chứng tỏ vai trò quyết định hành chính của NHTƯ.
Lãi suất chiết chiết khấu của NHTƯ Pháp hoàn toàn không phụ thuộc vào lãi suất cơ bản mà phụ thuộc vào lãi suất trên thị trường tiền tệ.
5.3. Kinh nghiệm của Hồng Kông.
Hồng Kông có một nền kinh tế thị trường tự do - Phương Đông, do vậy mà lãi suất trên thị trường cũng là thả nổi. Hồng Kông không có các quan chức tiền tệ Trung ương. Viên toàn quyền và Hội đồng lập pháp chịu trách nhiệm công việc tài chính và tiền tệ.
Hồng Kông không có chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất độc lập trong dài hạn. Hiệp hội ngân hàng Hồng Kông đặt ra lãi suất tiền gửi tối đa để các ngân hàng căn cứ vào đó mà tự do định lãi suất cụ thể.
5.4 Kinh nghiệm của Malaysia.
Từ những năm 70, Malaysia đã có nhiều đổi mới trong điều hành chính sách lãi suất theo hướng tự do hoá. Tuy nhiên, không phải tự do hoá lúc nào cũng là giải pháp tối ưu. NHTƯ Malaysia đã liên tục điều chỉnh lãi suất, phục vụ linh hoạt việc thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Từ năm 1981, Malaysia cho phép các NHTM tự tính mức lãi suất cơ bản cho ngân hàng mình dựa trên cơ sở chi phí thực tế. Nhưng ngay sau đó, NHTƯ nhận thấy trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa thực sự phát triển, việc cho phép các NHTM tự xác định mức lãi suất cơ bản như vậy theo nguyên tắc tự do hoá lãi suất sẽ dẫn đến cạnh tranh quá mức về lãi suất giữa các ngân hàng và khi đó vấn đề an toàn trong hoạt động kinh doanh của các NHTM sẽ bị đe doạ. Chính vì vậy, để giải quyết kịp thời vấn đề nêu trên nhất là sau thời kỳ suy thoái kinh tế (1985 - 1986), vào năm 1987, Malaysia đã chuyển sang điều hành lãi suất theo hướng vừa đảm bảo sự phối hợp chỉ đạo của NHTƯ, vừa duy trì ở một mức độ nào đó quyền tự chủ của các NHTM. Với tinh thần đó, NHTƯ yêu cầu các NHTM tính lãi suất cơ bản của ngân hàng mình dựa trên mức lãi suất cơ bản của hai ngân hàng lớn "leader banks ". Các NHTM sẽ điều chỉnh lãi suất cơ bản của mình theo nguyên tắc áp dụng biên độ giao động xung quanh lãi suất cơ bản.
Hiện nay, các ngân hàng được phép tính lãi suất cơ bản cho ngân hàng mình, nhưng để đảm bảo tính khách quan và tương đồng giữa các ngân hàng trong khi tính lãi suất cơ bản, NHTƯ đưa ra công thức chuẩn chung nhất để tính lãi suất cơ bản. Lãi suất cơ bản được xây dựng trên cơ sở các yếu tố: chi phí huy động (sau khi đã tính đến cả chi phí đáp ứng yêu cầu về dự trữ bắt buộc); các chi phí cho vay (gồm chi lương cho cán bộ, chi phí hành chính, các chi phí khác liên quan đến việc cho vay, nhưng không bao gồm chi phí liên quan đến các khoản nợ khó đòi); tỷ lệ lợi nhuận "profit margin" cho phép.
Trên cơ sở lãi suất cơ bản được công bố, các NHTM sẽ niêm yết mức lãi suất cơ bản của mình. Mức lãi suất cho vay thực tế của ngân hàng sẽ là lãi suất cơ bản cộng với tỷ lệ phí rủi ro "risk premium" trong hoạt động ngân hàng áp dụng linh hoạt cho từng món vay. Các ngân hàng không được cho vay dưới mức lãi suất cơ bản đã công bố.
Như vậy, lãi suất đã được điều hành theo hướng vừa có sự chỉ đạo của NHTƯ, nhưng vẫn duy trì được quyền tự chủ của các NHTM trong việc quy định lãi suất. Lãi suất được quản lý linh hoạt theo diễn biến thay đổi của thị trường, dựa trên cơ sở đảm bảo an toàn hệ thống.
Như vậy theo kinh nghiệm của các nước, sự tác động của Nhà nước những khi cần thiết vẫn là những quyết định hành chính về lãi suất công bố trên báo chí.
Từ kinh nghiệm của các nước, chúng ta có thể tham khảo và vận dụng một cách thích hợp vào điều kiện thực tế của Việt Nam để xây dựng một chính sách lãi suất tín dụng phù hợp.
Chương II.
Đánh giá quá trình điều hành chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua.
Từ khi có Nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988, tiếp đến là hai Pháp lệnh về ngân hàng tháng 10/1990, ngành ngân hàng nước ta đã trải qua hơn 10 năm đổi mới, trong thời gian đó cũng là hơn 10 năm không ngừng đổi mới chính sách lãi suất theo hướng từng bước tiến dần đến một chính sách lãi suất thị trường khi điều kiện kinh tế và tiền tệ cho phép. Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam trong hơn 10 năm qua đã trải qua các giai đoạn như sau:
Giai đoạn lãi suất âm từ 1988 đến 1992.
Đây là thời kỳ Việt Nam đang trong giai đoạn khủng hoảng, lạm phát ở mức cao, lãi suất luôn trong tình trạng âm. NHNN quy định cụ thể lãi suất tiền gửi và cho vay. Lãi suất âm có đặc điểm là lãi suất tiền gửi thấp hơn lạm phát và lãi suất cho vay thấp hơn lãi suất huy động vốn và thấp hơn lạm phát.
Lãi suất âm trong giai đoạn đó gây ra rất nhiều tiêu cực đối với nền kinh tế. Do lãi suất thực của tiền gửi là số âm nên không khuyến khích dân cư gửi tiền vào ngân hàng để thực hiện việc tập trung vốn cho đầu tư phát triển, gây áp lực đối với giá cả hàng hoá, do đó làm cho mức lạm phát ngày càng tăng. Nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng lên không thực chất, tạo lợi nhuận giả cho doanh nghiệp. Ngân hàng bao cấp qua lãi suất cho khách hàng, tạo lỗ không đáng có cho ngân hàng và ngân hàng không thể kinh doanh tiền tệ bình thường theo cơ chế thị trường.
Từ tháng 10/1992 chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương.
Trước tình hình trên, NHNN đã chủ động sử dụng công cụ lãi suất, chuyển từ lãi suất âm sang lãi suất dương, tức là lãi suất tiền gửi cao hơn lạm phát để người gửi tiền có lãi thực, vừa bảo toàn được giá trị tiền gửi, vừa có lãi và lãi suất tiền vay cao hơn lãi suất tiền gửi đảm bảo cho ngân hàng bù đắp được chi phí và có lãi.
Trong giai đoạn này, NHNN công bố các mức lãi suất tiền gửi và cho vay bằng các quyết định hành chính để các NHTM thực hiện.
Chính sách lãi suất dương đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong quá trình chuyển hoạt động ngân hàng sang cơ chế thị trường, bảo đảm lợi ích thực sự của ba bên: người gửi tiền, người vay tiền và ngân hàng, xoá bỏ bao cấp trong hoạt động tín dụng. Chính sách lãi suất phù hợp trên đã góp phần thu hút và tập trung được một khối lượng tiền lớn trong lưu thông, tăng nguồn vốn tín dụng đầu tư cho phát triển, giảm áp lực đối với lạm phát.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, hệ thống lãi suất còn phức tạp, còn có quá nhiều mức lãi suất tiền gửi và cho vay. NHNN vẫn còn quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, phân biệt lãi suất giữa các thành phần kinh tế: lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp Nhà nước thấp hơn lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, lãi suất cho vay ngắn hạn cao hơn lãi suất cho vay trung và dài hạn, lãi suất tiền gửi tiết kiệm cao hơn lãi suất tiền gửi của các tổ chức kinh tế. Do vậy, trong giai đoạn này, các TCTD chủ yếu phục vụ vốn ngắn hạn cho nền kinh tế mà không quan tâm nhiều đến việc cho vay trung và dài hạn để cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ.
3. Giai đoạn vừa quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận.
Theo Quyết định số 184/ QĐ-NH1 ngày 28/9/1993, NHNN quy định các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể, cho phép các TCTD cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt mức lãi suất cho vay cụ thể.
Lãi suất trong giai đoạn này có hai loại: lãi suất cho vay doanh nghiệp Nhà nước 1,8%/tháng và lãi suất cho vay kinh tế ngoài quốc doanh cao nhất là 2,1%/tháng.
Lãi suất cho vay theo thoả thuận giữa ngân hàng và khách hàng: Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn để cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận. Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn là 0,2%/tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/tháng.
Trong thực tế, khoảng 30 - 60% tổng dư nợ lúc bấy giờ làt ừ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận mà phần lớn là cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân, với lãi suất phổ biến là 2,3% - 3,5%/tháng.
Trong lãi suất thoả thuận mức chênh lệch giữa sàn (tiền gửi) và trần (cho vay) rất lớn, khoảng từ 0,7% - 1,0%/tháng, làm cho các NHTM có mức lợi nhuận quá cao, trong khi doanh nghiệp và hộ nông dân gặp nhiều khó khăn. Từ thực tế này, Quốc hội khoá IX trong kỳ họp thứ 8, tháng 8/1995, cùng với nghị quyết bỏ thuế doanh thu trong hoạt động tín dụng ngân hàng, đã yêu cầu ngân hàng tiết kiệm chi phí hoạt động và khống chế mức chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bình quân là 0,35%/tháng. Đây là lý do để cơ chế lãi suất trần ra đời và bãi bỏ lãi suất cho vay theo thoả thuận từ 01/01/1996.
Chuyển từ lãi suất thoả thuận sang trần lãi suất.
Vào đầu năm 1996, khi lạm phát đã ổn định, NHNN điều hành chính sách lãi suất tín dụng theo trần lãi suất (lãi suất cho vay tối đa) và quy định về chênh lệch bình quân giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động ở mức 0,35%/tháng. Điểm cơ bản của chính sách lãi suất trong giai đoạn này xuất phát từ đặc điểm có nhiều loại hình tổ chức tín dụng hoạt động trên các địa bàn khác nhau, quy mô khác nhau và do đó chi phí hoạt động khác nhau, nên NHNN đã quy định nhiều trần lãi suất cho vay khác nhau phù hợp với đặc điểm từng loại vay, từng loại hình TCTD và các vùng khác nhau, gồm 4 trần lãi suất: Trần lãi suất cho vay ngắn hạn; trần lãi suất cho vay trung và dài hạn; trần lãi suất áp dụng cho các TCTD cho vay trên địa bàn nông thôn; trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng đối với các thành viên.
Trong đó, trần lãi suất cho vay ngắn hạn là thấp nhất và áp dụng cho khu vực thành thị. Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn cao hơn ngắn hạn một ít phù hợp với thông lệ quốc tế và tính chất cho vay thời hạn dài rủi ro hơn thời hạn ngắn. Trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn cao hơn trần lãi suất cho vay ngắn hạn và trung dài hạn một ít và áp dụng chung cho cả hai loại cho vay này và sự chênh lệch này dần dần được rút ngắn qua các lần điều chỉnh trần lãi suất. Trần lãi suất cho vay của các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với các thành viên là trần lãi suất cho vay cao nhất so với các trần lãi suất ở trên (quỹ tín dụng nhân dân cơ sở là loại hình tổ chức tín dụng có quy mô rất nhỏ bé, đang trong quá trình thí điểm và chỉ được huy động và cho vay vốn trong nội bộ các thành viên) nhưng khoảng cách chênh lệch so với các trần khác cũng dần dần được rút ngắn qua các lần điều chỉnh trần lãi suất.
Một thực tế khách quan của cơ chế thị trường cho thấy nơi có chi phí cao, cho vay món nhỏ, chi phí lớn, rủi ro cao, thiếu vốn là khu vực nông thôn, một khu vực luôn có nhu cầu vốn lớn nhưng huy động tại chỗ được rất ít và chi phí hoạt động ngân hàng ở nông thôn cao, nên NHNN quy định trần lãi suất cho vay nông thôn cao hơn thành thị nhằm thu hút vốn về nông thôn, điều hoà vốn từ thành thị về nông thôn cho vay bằng công cụ lãi suất và bảo đảm cho các NHTM ở nông thôn bù đắp được chi phí. Nhưng có nhiều quan điểm cho rằng lãi suất cho vay nông thôn phải thấp hơn hoặc bằng thành thị mới ưu đãi nông nghiệp, mới khuyến khích được nông nghiệp phát triển. Cho nên với Quyết Định số 39/1998/QĐ/NHNN1 của Thống đốc NHNN từ ngày 21/1/1998 đã xoá bỏ sự cách biệt về lãi suất cho vay giữa thành thị và nông thôn bằng cách rút từ 4 trần lãi suất xuống còn 3 trần lãi suất cho vay khác nhau và không quy định chênh lệch 0,35%/tháng giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động, cụ thể như sau: trần lãi suất cho vay ngắn hạn; trần lãi suất cho vay trung và dài hạn; trần lãi suất cho vay của quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đối với các thành viên. Chính sách này quy định khoảng cách giữa các trần lãi suất cũng dần dần được rút ngắn lại phù hợp với tình hình mới.
Đối với lãi suất cho vay ngoại tệ, NHNN cũng đã khống chế trần lãi suất cho vay và khi có sự biến động tỷ giá, phối hợp chặt chẽ với công cụ lãi suất và tỷ giá để tăng cường quản lý ngoại tệ, chống hiện tượng đô la hoá.
Đối với chính sách lãi suất này, NHNN chỉ quản lý lãi suất cho vay tối đa trong phạm vi trần lãi suất đã quy định và cho phép các tổ chức tín dụng được tự do ấn định các mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi huy động cụ thể, linh hoạt, phù hợp với đặc điểm hoạt động, tình hình về cung cầu vốn, chính sách khách hàng và cạnh tranh của từng TCTD và phù hợp với đặc điểm, chi phí hoạt động ngân hàng giữa các vùng khác nhau trong từng thời kỳ. Mặt khác, khi điều hành chính sách lãi suất theo trần đã khuyến khích các TCTD trong việc cạnh tranh lành mạnh và tăng cường vai trò tự chủ trong kinh doanh tiền tệ, chủ động trong việc điều hoà quan hệ cung cầu về vốn kinh doanh bằng công cụ lãi suất một cách rất linh hoạt nhạy bén theo cơ chế thị trường. Việc quy định cho vay theo trần lãi suất tạo ra mặt bằng chung về lãi suất cho vay trong phạm vi cả nước, xoá bỏ tình trạng cho vay theo lãi suất thoả thuận vượt xa các mức lãi suất do NHNN quy định. Các TCTD không cho vay với lãi suất vượt trần nhằm bảo vệ lợi ích của người vay, tạo mặt bằng về phân phối lợi nhuận giữa các thành phần kinh tế với các TCTD và người gửi tiền. Tăng cường được công tác quản lý về lãi suất và tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát về lãi suất của NHNN.
Tuy nhiên, đối với chính sách điều hành lãi suất trần còn một số hạn chế nhất định. Việc quy định cho vay theo trần lãi suất của NHNN thực chất là các TCTD được cho vay theo mức trần tối đa, vì vậy một số TCTD đã có xu hướng luôn cho vay hết trần lãi suất để đạt mức lợi nhuận tối đa. NHNN đã không biệt các mức lãi suất khác nhau giữa các vùng có điều kiện khó khăn, thuận lợi và điều kiện về cung - cầu vốn trong từng thời kỳ. Việc quy định chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn là 0,35%/tháng trong thời kỳ đầu đã tạo nên sự gò bó, cứng nhắc và triệt tiêu tính cạnh tranh tự chủ trong kinh doanh của các TCTD. Chính sách lãi suất này đã hạn chế chiến lược khách hàng của các TCTD, nhất là khách hàng có rủi ro lớn vẫn được áp dụng lãi suất như các khách hàng có độ rủi ro ít hơn hoặc không có rủi ro. Trong điều kiện lạm phát ra tăng, tỷ giá USD thay đổi, các NHTM thường xuyên phải điều chỉnh tăng lãi suất huy động để giữ nguồn vốn ổn định thì chênh lệch giữa lãi suất đầu ra và lãi suất đầu vào ngày càng thu hẹp, ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của TCTD.
Một bộ phận quan trọng của chính sách lãi suất trong việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN là lãi suất NHNN tái cấp vốn cho NHTM. Từ tháng 10 năm 1994 đến tháng 6 năm 1997, NHNN áp dụng lãi suất tái cấp vốn bằng 100% lãi suất trên hợp đồng tín dụng các NHTM cho khách hàng vay. Từ tháng 6 năm 1997 đến tháng 1 năm 1998 áp dụng lãi suất 10,8% năm và từ tháng 1 năm 1998 đến nay là 13,2% - năm. Nếu so sánh sự biến động về lãi suất trên thị trường thì lãi suất tái cấp vốn của NHNN khá ổn định với mục đích kìm chế lạm phát ở mức thấp. Nhưng lạm phát được kìm chế hay bùng nổ không chỉ phụ thuộc vào yếu tố lãi suất mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa, trong đó thâm hụt Ngân sách và tăng trưởng GDP thấp là yếu tố không thể xem nhẹ.
Song câu hỏi được đặt ra là lãi suất ở Việt Nam phải chăng đã thực sự linh hoạt, mềm dẻo và biến động phù hợp với nền kinh tế. Trên thực tế, lãi suất ở Việt Nam vẫn chỉ là lãi suất ngân hàng do NHTƯ quy định và áp dụng cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chúng ta vẫn chưa có lãi suất thị trường, chưa cho phép lãi suất được xác định trên cơ sở thị trường. Về vấn đề này, xét trên góc độ nền kinh tế Việt Nam mới đang ở giai đoạn đầu tiên bước sang cơ chế thị trường, có thể khẳng định rằng chưa thể cho phép tự do hoá lãi suất, tức là xác định lãi suất theo các lực lượng thị trường, nhưng trên một giác độ khác, muốn phát triển nền kinh tế thị trường, hoàn thiện và phát triển thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng ở Việt Nam đòi hỏi chúng ta phái từng bước thực hiện tự do hoá lãi suất.
5. Một số nhận thức về lãi suất theo tinh thần luật NHNN và sự điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất ở Việt Nam.
Sau nhiều năm đổi mới hoạt động và liên tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, đã đến lúc xuất hiện các điều kiện cần và đủ để NHNN và các TCTD chuyển sang giai đoạn mới của việc điều hành lãi suất và thực hiện chính sách lãi suất. Những điều kiện đó là:
- Luật NHNN và Luật các TCTD có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 10 năm 1998, trong đó Điều 18 Luật NHNN quy định: "NHNN xác định và công bố lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn".
- Quy định trần lãi suất cho vay của NHNN đối với các TCTD đã có những dấu hiệu chỉ mang tính định hướng. Một số NHTM do điều kiện cụ thể của mình đã thực hiện một số mức lãi suất cho vay dưới trần quy định của NHNN, trong khi đó một số NHTM Cổ phần đặc biệt là TCTD Nông thôn do nhu cầu của khách hàng, của thị trường vốn của địa phương và được sự chấp thuận của UBND Tỉnh đã có những vận dụng thu thêm phí ngoài mức trần lãi suất quy định.
- Mặt khác do yêu cầu phải tiếp tục hoà nhập với hoạt động ngân hàng các nước trong khu vực và cộng đồng ngân hàng Quốc tế, yêu cầu tự do hoá hơn nữa thị trường tiền tệ và thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn.
- Sự thống nhất cao độ trong việc điều hành lãi suất trong nền kinh tế của NHNN bao gồm cả lãi suất của hệ thống các NHTM, TCTD và kho bạc Nhà nước.
Do đó đòi hỏi có tính cấp bách, khách quan là NHNN cần phải điều hành theo lãi suất cơ bản trong nền kinh tế. Song để thực hiện được cơ chế đó, cần có sự thống nhất quan điểm và nhận thức về lãi suất cơ bản theo tư tưởng của Luật NHNN.
Điều 9 - Khoản 12 Luật NHNN quy định: " Lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh."
Như vậy việc quy định của Luật NHNN về lãi suất cơ bản có ý nghĩa trên sả hai mặt. Trước hết, nó khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc quản lý và điều hành lãi suất mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là NHNN. Vai trò quản lý của Nhà nước về lãi suất phải được thể hiện nhằm đạt mục tiêu: bảo đảm an toàn hệ thống các TCTD, bảo vệ quyền lợi một cách hài hoà gữa các bên: người gửi, người vay và TCTD; sử dụng công cụ lãi suất làm đòn bẩy để kích thích huy động vốn và điều hoà vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, góp phần thúc đầy tăng trưởng kinh tế, vừa sử dụng làm công cụ điều hành chính sách tiền tệ. Mặt khác, lãi suất cơ bản mà NHNN công bố vừa phải phù hợp với điều kiện kinh tế, tiền tệ của nước ta trong từng thời kỳ, vừa phải đảm bảo tính linh hoạt theo cung cầu vốn trong nền kinh tế thị trường và tăng tính cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD.
Khi xác định lãi suất cơ bản phải dựa vào các yếu tố như tăng trưởng kinh tế dự kiến hàng năm, chỉ số lạm phát dự kiến trong năm, lãi suất thực dương của người gửi tiền để khuyến khích người gửi tiền vào ngân hàng, yêu cầu của việc điều hành chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, tình hình cung cầu vốn tín dụng trên thị trường, mối quan hệ giữa lãi suất với tỷ giá ngoại tệ, giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, lãi suất thị trường đấu thầu thị trường trái phiếu Kho bạc Nhà nước trong những phiên đấu thầu gần nhất...
Trên cơ sở đó, ngày 02/02/2000, Thống đốc NHNN đã ban hành các Quyết dịnh về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05/08/2000: Quyết dịnh số 241/ 2000/QĐ - NHNN1 về việc thay đổi cơ chế điều hành lãi suất cho vay của các TCTD đối với khách hàng; Quyết định số 242/2000/QĐ - NHNN1 công bố lãi suất cơ bản làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng; Quyết định số 243/2000/QĐ - NHNN1 công bố biên độ lãi suất đôla Mỹ làm cơ sở cho các TCTD ấn định lãi suất cho vay bằng đôla suất Mỹ đối với khách hàng; Quyết định số 244/2000/QĐ - NHNN1 về việc cung cấp thông tin tham khảo về lãi suất của các NHTM cho NHNN.
Cơ chế mới về điều hành lãi suất của NHNN ra đời nhằm quán triệt chủ trương đổi mới hoạt động ngân hàng của Đảng, Nhà nước và Quốc hội đề ra và được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương lần thú 4, khoá VIII, Thông báo số 144/TB-TƯ ngày 03/03/1998 của Bộ chính trị: " Xây dựng và thực hiện cơ chế mới phù hợp hơn về tỷ giá và lãi suất, với bước đi thích hợp, không để xảy ra biến động xấu về kinh tế, xã hội... Cụ thể là thực hiện lãi suất thực dương, linh hoạt, phản ánh đúng cung cầu vốn trên thị trường, từng bước áp dụng lãi suất cơ bản thay dần cho việc ấn định trần lãi suất." và quán triệt theo tư tưởng của Luật NHNN Việt Nam.
Tư tưởng của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là từng bước tự do hoá lãi suất nhưng vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường, phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô, với điều kiện thực tế của thị trường, hạn chế tối đa rủi ro và tác động xấu của biến động thị trường tiền tệ thế giới, phù hợp với mức độ hội nhập thị trường tài chính khu vực và quốc tế, làm cho lãi suất trong nước bám sát với lãi suất trên thị trường quốc tế.
Đối với lãi suất cho vay bằng đồng Việt Nam:
NHNN bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của TCTD đối với khách hàng, chuyển sang xác định và công bố lãi suất cơ bản và tỷ lệ % biên độ trên. NHNN công bố lãi suất cơ bản dựa trên việc tham khảo lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường của các NHTM áp dụng đối với khách hàng vay có uy tín trong việc sử dụng vốn vay, trả nợ, có rủi ro thấp. Lãi suất cho vay và huy động vốn của TCTD gắn với lãi suất cơ bản. Theo đó:
Lãi suất cho vay cao nhất của TCTD = Lãi suất cơ bản + tỷ lệ %
Lãi suất cơ bản và biên độ giao động đựợc công bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời. Tại thời điểm hịện nay, lãi suất cơ bản là 1,75%/tháng, biên độ đối với lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,3%/tháng và đối với lãi suất cho vay trung và dài hạn là 0,5%/tháng.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ :
Cho vay bằng đôla Mỹ: Bỏ việc quy định trần lãi suất cho vay của NHTM đối với khách hàng, chuyển sang cơ chế lãi suất linh hoạt, phù hợp với thị trường quốc tế nhưng vẫn có sự kiểm soát của Nhà nước, cụ thể là lãi suất cho vay ngắn hạn (từ 01 năm trở xuống) không vượt quá mức SIBOR (lãi suất thị trường tiền tệ liên ngân hàng Singapore) kỳ hạn 3tháng + 1,0%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn (từ trên 01 năm trở lên) không vượt quá mức SIBOR kỳ hạn 6 tháng + 2,5%/năm.
Cho vay bằng các loại ngoại tệ khác: Do chiếm tỷ lệ nhỏ trong hoạt động tiền gửi và tín dụng trên thị trường, nên cho phép các NHTM tự xem xét quyết định lãi suất tiền gửi, lãi suất cho vay của các loại ngoai tệ này trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung - cầu vốn tín dụng của từng loại ngoại tệ trong nước.
Các NHTM cung cấp thông tin tham khảo cho NHNN về lãi suất bao gồm: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, NHTM cổ phần á Châu, Ngân hàng ANZ, Ngân hàng HSBC và Ngân hàng VID PUBLIC.
Đồng thời với việc triển khai cơ chế lãi suất mới, NHNN theo dõi chặt chẽ sự diễn biến của kinh tế vĩ mô và thị trường tiền tệ, có thể điều chỉnh thích hợp các công cụ tiền tệ khác đảm bảo cho sự vận hành cơ chế lãi suất mới phù hợp với mục tiêu đề ra.
Chương III.
Giải pháp nhằm củng cố và hoàn thiện chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam.
Như vậy là trong hơn 10 năm đổi mới, chính sách lãi suất tín dụng của ngân hàng đã được điều hành theo hướng tích cực, phù hợp với điều kiện của nền kinh tế nước ta. Chính sách lãi suất của nước ta đã từng bước được nới lỏng theo hướng tự do hoá, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước, mức độ hội nhập kinh tế của nền kinh tế nước ta. Cơ chế điều hành lãi suất ngày càng trở nên linh hoạt hơn, bám sát cung - cầu vốn thị trường, quyền chủ động ấn định lãi suất kinh doanh của các TCTD ngày càng được mở rộng, nên làm tăng khả năng cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo được sự kiểm soát lãi suất trên thị trường tiền tệ, góp phần phát triển thị trường tài chính trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam. Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập quốc tế, NHNN phải tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất, từng bước thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước.
Định hướng.
Để thúc đẩy phát triển nền kinh tế, từng bước hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, chúng ta phải xây dựng được một chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện của nền kinh tế nước ta và chính sách lãi suất đó phải đảm bảo những mục tiêu cơ bản sau:
Chính sách lãi suất là một bộ phận cấu thành của chính sách tiền tệ quốc gia vì thế trước hết nó phải hướng tới mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Đó là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và kích thích tăng trưởng kinh tế.
Chính sách lãi suất phải phù hợp với đặc điểm thị trường tín dụng của nước ta. Nước ta thực hiện đổi mới xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu. Vì vậy, thị trường tín dụng vẫn bao hàm cả thị trường cho vay nặng lãi đặc biệt là ở vùng nông thôn rộng lớn. Tỷ lệ người gửi tiền ngân hàng ở nước ta chiếm một tỷ lệ thấp trong dân số. Đặc biệt, ở nông thôn miền Nam, người dân chỉ có thói quen mua vàng cất trữ. Miền Bắc đã có phong trào gửi tiết kiệm khá cao ở nông thôn hồi kháng chiến chống Mỹ với các hợp tác xã tín dụng. Nhưng phong trào này đã tan vỡ vì lãi suất âm trong thời kỳ lạm phát phi mã và chưa hồi phục. Tình hình này tạo ra đặc điểm: thị trường tín dụng ở nước ta không đồng nhất và tự nhiên tồn tại những lãi suất khác biệt khá xa ở các vùng khác nhau, do cung cầu tín dụng khác nhau. Nó đã dấn đến tình trạng có lúc lãi suất tiền gửi của một vài ngân hàng ở thành phố cao hơn lãi suất cho vay của các ngân hàng khác gây ra tình trạng phải đồng loạt nâng lãi suất để tránh bị hút mất tiền gửi. Nước ta mới có từng mảnh thị trường tài chính và tiền tệ như thị trường tín phiếu kho bạc hàng hoạt động không thường xuyên và cung cấp không đủ lượng tín phiếu cho thị trường liên ngân hàng qua những đấu thầu quá ít ỏi. Thị trường liên ngân hàng đã có từ lâu nhưng hầu như không hoạt động và các ngân hàng ít vay mượn lẫn nhau hoặc vay mượn trực tiếp qua bảo đảm bằng tín phiếu kho bạc. Ngân hàng Trung ương sử dụng vốn phát hành qua tín dụng bằng cách cung ứng nguồn vốn trực tiếp cho các ngân hàng quốc doanh để thực hiện những loại cho vay ưu đãi. Đó là trở ngại rất lớn cho việc hình thành lãi suất thị trường có sự chỉ đạo của lãi suất cơ bản. Thị trường chứng khoán ở Việt Nam hình thành trong giai đoạn khủng hoảng tiền tệ xảy ra ở các châu lục và những đòi hỏi phải có cải cách thị trường tài chính thế giới khiến chúng ta phải cảnh giác và thận trọng. Do đó, chính sách lãi suất của Việt Nam phải góp phần vào việc khắc phục những mặt còn hạn chế của thị trường tín dụng Việt Nam, góp phần vào thúc đẩy tăng trưởng và phát triển nền kinh tế.
Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở nước ta phải hướng tới hình thành một thị trường tiền tệ, tạo ra sự công bằng và cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD, xoá bỏ sự khác biệt về lãi suất giữa các khu vực, thúc đẩy vốn linh hoạt giữa các lĩnh vực kinh tế, khu vực thành thị và nông thôn phù hợp với sự phát triển không đều của thị trường tài chính nước ta hiện nay.
Lãi suất tín dụng phải đáp ứng yêu cầu xử lý linh hoạt, vừa đáp ứng yêu cầu cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia kinh doanh tiền tệ trong việc huy động vốn để tiến tới từng bước tự do hoá lãi suất nhưng vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của NHNN đối với thị trường tiền tệ, tránh việc các TCTD tăng lãi suất cho vay quá mức ảnh hưởng đến đầu tư trong nước, phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô, với tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước, với điều kiện thực tế thị trường trong và ngoài nước và hạn chế đến mức tối đa rủi ro và tác động xấu của biến động thị trường tiền tệ thế giới.
Lãi suất tín dụng phải tạo điều kiện cho các T CTD và khách hàng gửi, vay vốn có thể thoả thuận để lựa chọn lãi suất sao cho linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của từng vùng, mức độ rủi ro theo thời hạn cho vay và đối tượng cho vay, mở rộng huy động và cho vay vốn trung và dài hạn với mục tiêu huy động nhiều nhất mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư để đáp ứng vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Chính sách lãi suất vừa phải đáp ứng quan hệ cung cầu vốn của nền kinh tế, vừa phải tạo điều kiện để giảm chi phí hoạt động tín dụng, đảm bảo có sự chênh lệch lãi suất đủ để duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh của các TCTD, tức là sau khi bù đắp các chi phí hoạt động, các TCTD phải thu được một lợi nhuận hợp lý.
Lãi suất tín dụng ngân hàng vừa phải kích thích được sản xuất trong nước, vừa phải khuyến khích phát triển kinh tế đối ngoại, tức là lãi suất trong nước cần phải theo sát lãi suất thị trường quốc tế để phù hợp với mức độ hội nhập thị trường tài chính khu vực và quốc tế., làm cho mối quan hệ giữa lãi suất VND - tỷ giá - lãi suất ngoại tệ linh hoạt hơn, phản ánh chính xác hơn quan hệ cung - cầu về vốn và ngoại tệ, điều chỉnh quan hệ tín dụng quốc tế một cách có hiệu quả.
Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng ở nước ta phải đáp ứng yêu cầu từng bước tự do hoá nhưng vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của Nhà nước đối với thị trường.Trong những năm qua, chúng ta đã thực hiện chính sách kiểm soát trực tiếp lãi suất. Chính sách này có một số điểm thuận lợi như dễ thực hiện, phù hợp với một nước có thị trường tài chính sơ khai và mức độ cạnh tranh kém, chưa có đầy đủ các công cụ kiểm soát lãi suất gián tiếp và hạn chế trong năng lực quản lý điều hành như nước ta. Nhưng bên cạnh đó, chính sách kiểm soát lãi suất cũng đưa đến những vấn đề bất cập. Kiểm soát trực tiếp lãi suất có thể dẫn đến suy giảm chức năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng, bởi vì nguồn tiền tiết kiệm sẽ chảy vào thị trường tài chính phi tổ chức và không bị quản lý. Kiểm soát lãi suất cũng dẫn đến việc áp đặt cơ cấu lãi suất phức tạp như tồn tại nhiều loại trần lãi suất cho vay, gây ra sự kém hiệu quả của chính sách tiền tệ quốc gia. Kiểm soát lãi suất không có lợi cho cạnh tranh ở điểm các TCTD kém hiệu quả có thể vẫn tồn tại hoạt động mà không phải chịu sức ép của cạnh tranh, khiến cho quá trình giải quyết khó khăn của những TCTD này tồn tại kéo dài. Những khó khăn gắn với việc kiểm soát lãi suất là vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức. Cả hai loại rủi ro này đều có xu hướng nâng lãi suất lên và tăng rủi ro tín dụng. Vấn đề lựa chọn đối nghịch phản ánh thực tế là kiểm soát lãi suất sẽ hấp dẫn các doanh nghiệp bất chấp rủi ro và khả năng có thể thanh toán được các khoản nợ của mình hay không, tìm đủ mọi cách vay được vốn từ ngân hàng, trong khi rủi ro đạo đức phát sinh do người cho vay không có khả năng kiểm soát được việc sử dụng vốn của người đi vay . Trong trường hợp này, vấn đề lựa chọn đối nghịch phát sinh vì tín dụng được đưa đến cho những người vay có tính rủi ro cao nhất và tới những dự án có tính rủi ro nhất. Khi vấn đề lựa chọn đối nghịch trở nên nghiêm trọng, các doanh nghiệp lành mạnh và các doanh nghiệp tư nhân mới sẽ bị loại ra khỏi thị trường tín dụng vì họ không sẵn sàng trả lãi suất cao như các doanh nghiệp đang gặp khó khăn. Như vậy là việc kiểm soát trực tiếp lãi suất tỏ ra kém hiệu quả trong việc điều hành chính sách tiền tệ, phân bổ nguồn vốn tín dụng, dẫn đến khả năng cạnh tranh thấp trên thị trường tiền tệ, giảm chức năng trung gian tài chính của hệ thống ngân hàng do sự thiếu linh hoạt, cứng nhắc. Mặc khác, trước xu tế hội nhập kinh tế như hiện nay đòi hỏi chuáng ta phải từng bước gắn kết được lãi suất với thị trường. Do vậy, để khắc phục những hạn chế của việc kiểm soát trực tiếp lãi suất, chúng ta phải từng bước xây dựng những điều kiện cần thiết, từng bước tiến dần đến tự do hoá lãi suất nhưng vẫn phải đảm bảo dược sự kiểm soát của NHNN đối với thị trường tiền tệ nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập vào nền kinh tế thế giới của nước ta hiện nay.
Giải pháp.
- Điều quan trọng để có một chính sách lãi suất hợp lý, vừa kích thích được đầu tư, vừa tạo điều kiện cho các TCTD hoạt động kinh doanh có lãi, tăng cường cạnh tranh, giải quyết được những bất cập của chính sách lãi suất là phải nhận thức được bản chất của lãi suất cơ bản, xác định được lãi suất hợp lý. Để xây dựng được lãi suất hợp lý, chúng ta phải chú ý:
Việc điều chỉnh lãi suất cần căn cứ vào định hướng chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.
Khi xây dựng lãi suất phải đặt trong tương quan với tỷ giá của VND so với các đồng tiền mạnh trên thế giới và trong khu vực đặc biệt là đồng USD, đồng EURO, đồng Yên, đồng Nhân dân tệ... Bởi lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ hữu cơ với nhau, một khi có sự tăng giảm, chuyển đổi nội tệ sang ngoại tệ, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất, nhập khẩu của nền kinh tế.
Việc công bố lãi suất cơ bản phụ thuộc vào lợi nhuận bình quân của xã hội. Tỷ suất lợi nhuận bình quân này được hình thành trong quá trình cạnh tranh giữa các nền kinh tế. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý luận kinh tế học Mác xít: lợi nhuận của tư bản cho vay bao giờ cũng nhỏ hơn lợi nhuận bình quân của tư bản sản xuất và nó chính là một phần của gía trị thặng dư do lĩnh vực sản xuất tạo ra.
Lãi suất phải được đặt trong mối tương quan với lãi suất tín phiếu kho bạc, trái phiếu kho bạc để làm sao có thể khai thác tối đa mọi nguồn lực trong xã hội.
Cần xem xét mối quan hệ giữa lãi suất và doanh lợi chứng khoán để xác định chính sách lãi suất. Khi thị trường chứng khoán hoạt động, việc duy trì một mức lãi suất hợp lý là một điều kiện cần thiết, bằng không những biến động trong chính sách lãi suất của NHNN tất yếu sẽ dẫn đến những biến động trên thị trường tài chính.lãi suất trên thị trường tiền tệ có ảnh hưởng lớn đến việc phát hành và mua bán chứng khoán trên thị trường tài chính. Nếu lãi suất ngân hàng trả cho người tiết kiệm cao, người gửi sẽ thích gửi tiền vào ngân hàng để hưởng lãi suất cao và rủi ro thấp, hơn là mua chứng khoán với lãi suất thấp nhưng rủi ro cao.
Do xu hướng hội nhập vào nền kinh tế khu vực nên việc điều chỉnh lãi suất phải căn cứ vào mức lãi suất trên thị trường quốc tế và khu vực.
Việc điều chỉnh lãi suất phải tuỳ thuộc vào tập quán và thói quen của người dân cũng như các yếu tố tâm lý của dân chúng trong thời kỳ nhất định.
Hiện nay theo tinh thần của Hội nghị Trung ương khoá 8 (lần1), Đảng và Nhà nước tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà trọng tâm hướng về nông nghiệp và nông thôn, vì thế khi xác định các mức lãi suất cho vay phải theo hướng ưu tiên cho lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn. Đó cũng là một trong những điểm quan trọng nhằm ổn định và phát triển kinh tế nông thôn, tiền đề của sự ổn định và phát triển kinh tế đất nước.
- Phải xây dựng một môi trường để lãi suất cơ bản phát huy tác dụng.
Trước hết, phải có một hệ thống ngân hàng hoạt động năng động và chủ động trong cạnh tranh. Trong môi trường cạnh tranh tốt, lãi suất của các TCTD sẽ dao động gần sát với lãi suất chỉ đạo của NHNN. Hơn thế nữa, trong môi trường cạnh tranh, hệ thống ngân hàng sẽ cung cấp cho nền kinh tế và dân cư các sản phẩm và dịch vụ ngày càng tốt hơn. Do vậy, để nâng cao tính chủ động trong cạnh tranh, các NHTM trong nước cần phải chủ động cải tiến chất lượng, quy trình tín dụng và các nghiệp vụ ngân hàngquốc tế, cải tiến chất lượng phục vụ. Đồng thời phải nghiên cứu áp dụng công nghệ mới trong hoạt động ngân hàng, cải tiến các vấn đề nhân sự, chi phí quản lý...để giảm tối đa chi phí kinh doanh. Chú trọng công tác tiếp thị trong hoạt động ngân hàng, hiểu rõ nhu cầu của khách hàng truyền thống, tổ chức tốt công tác tư vấn về dự án đầu tư, thanh toán quốc tế... cho khách hàng cũng như thường xuyên lắng nghe, tìm hiểu những đề nghị, phản ánh của khách hàng. Tạo lập mối quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp và ngân hàng trên cơ sở hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau. Mở rộng tín dụng đến nhiều đối tượng khách hàng, đến các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp vừa và nhỏ, ở những khu vực mà mức độ cạnh tranh còn thấp và đang cần vốn như khu vực sản xuất nông nghiệp, các doanh nghiệp vừa và nhỏ... Mặt khác, các NHTM cần nâng cao vai trò công tác cân đối tín dụng: Đa dạng hoá các loại hình tín dụng như cho vay tiêu dùng cho cán bộ công nhân viên, cho vay mua cổ phần, cho vay phục vụ chương trình nhà ở, tham gia các dự án kích cầu, cho vay hợp vốn, để tăng trưởng tín dụng bằng cách tăng trưởng vốn. Tổ chức công tác điều hoà vốn trong nội bộ hệ thống các chi nhánh ngân hàng đảm bảo nguồn vốn không bị ứ đọng, đồng thời tranh thủ nguồn vốn chi phí rẻ trên thị trường liên ngân hàng để cho vay. Tăng cường đầu tư vào các hoạt động kinh doanh khác như góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, tham gia thị trường tiền tệ do NHNN tổ chức bao gồm thị trường tín phiếu kho bạc, thị trường các chứng từ có giá theo quy định của pháp luật. Tham gia các hoạt động cung ứng dịch vụ tư vấn tài chính - tiền tệ, bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán, bất động sản theo quy định của pháp luật nhằm hỗ trợ cho việc tăng trưởng tín dụng.
Hai là, phải xây dựng một thị trường tiền tệ và hoạt động thị trường mở phát triển mới có môi trường cho lãi suất cơ bản phát huy tác dụng.
Ba là, phải có hệ thống thanh toán tốt, đặc biệt là thanh toán tổn tức thời mới hỗ trợ về mặt kỹ thuật và quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc điều hành thông suốt thị trường tiền tệ và lãi suất cơ bản.
- Thúc đẩy phát triển thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng, lấy đó làm căn cứ để xây dựng và thiết lập mặt bằng lãi suất chung, làm cơ sở cho các mức lãi suất thị trường tự do sau này.
- Cải tiến và tăng cường tác động của NHNN bằng các công cụ của chính sách tiền tệ hiện có, đặc biệt là điều chỉnh linh hoạt khả năng tạo tiền của các NHTM bằng giới hạn sử dụng vốn và hạn mức tái cấp vốn trong tái chiết khấu khế ước nợ và tín dụng thế chấp đối với giấy tờ có giá đảm bảo chất lượng.
- Để NHNN công bố lãi suất cơ bản và để nó có thể đi vào cuộc sống thuận lợi thì phải giải quyết căn bản các tồn đọng cũ của hệ thống NHTM. Hiện nay đang còn hàng nghìn tỷ đồng vốn cho vay của hệ thống NHTM đóng băng trong núi nợ quá hanj và tài sản phát mại phải có biện pháp hữu hiệu để giải quyết dứt điẻm. Nếu chưa lành mạnh hoá tình hình tài chính - tiền tệ cho hệ thống NHTM thì còn khó khăn trong việc thực hiên bất kỳ một chính sách mới nào của ngân hàng. Một trong những biện pháp nhằm giải quyết nợ quá hạn của hệ thống NHTM đó là việc Chính phủ cần phải thúc đảy quá trình thành lập và đưa vào hoạt động có hiệu quả các công ty mua bán nợ quá hạn.
- Hiện nay, các công cụ tài chính như thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác để thực hiện nghiệp vụ chiết khấu, tái chiết khấu chưa được phổ biến. Do vậy, phẩi sớm đưa thương phiếu, hối phiếu vào lưu thông để thực hiện lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu của NHTM và NHNN vì đó là công cụ tài chính phổ biến của nền kinh tế thị trường.
- Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá làm cơ sở cho việc ra đời các hàng hoá trao đổi trên thị trường chứng khoán, tạo môi trường cạnh tranh hoàn hảo giữa các chủ thể liên quan đến chu chuyển vốn trong nền kinh tế.
- Nguồn vốn vay nước ngoài để tái đầu tư của các NHTM cần phải đặt trong sự kiểm duyệt chặt chẽ của NHNN để không tạo ra sự bị động trong điều hành khối lượng tiền của NHNN.
- Tạo lập một môi trường pháp lý lành mạnh để khuyến khích sự cạnh tranh giữa các NHTM và các TCTD sao cho phù hợp vơi chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước.
- Một vấn đề vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế nước ta là phải từng bước xây dựng những điều kiện cần thiết để tiến tới từng bước tự do hoá lãi suất mà vẫn đảm bảo được sự kiểm soát của NHNN đối với thị trường tiền tệ.
Tự do hoá lãi suất có rất nhiều ưu điểm. Do lãi suất được tự do hoá, biến động theo cung - cầu về vốn, nên có thể phân bổ nguồn vốn tín dụng khan hiếm cho hàng ngàn người vay cạnh tranh nhau, đáp ứng đúng thị hiếu của người vay và có hiệu quả nhất; đồng thời đảm bảo thu hút tiền giữa hàng trệu người gửi cho ngân hàng với chi phí hợp lý nhất và được người gửi chấp nhận. Lãi suất tự do hoá có khả năng linh hoạt điều tiết để thích nghi với điều kiện thay đổi, tạo động lực cho sự tăng trưởng tài chính. Tự do hoá lãi suất cũng là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính giúp cho các nước thực hiện được quá trình hôi nhập nền kinh tế thế giới.
Bên cạnh những thuận lợi do tự do hoá mang lại cũng còn tồn tại rất nhiều những trường hợp mà tự do hoá không thực hiện được tốt vai trò của mình. Để tự do hoá và lãi suất làm tròn chức năng của mình, thị trường tài chính cần được củng cố và phát triển. Nhưng trong nền kinh tế, thị trường tín dụng không phải lúc nào cũng điều chỉnh đủ nhanh để cân bằng giữa cung - cầu khi điều kiện thay đổi và tình trạng mất cân bằng vẫn là đặc trưng của bất kỳ một nền kinh tế đang phát triển nào. Tự do hoá lãi suất sẽ kém hiệu quả nếu xã hội áp đặt vào hệ thống tài chính quá nhiều các mục tiêu quốc gia ...
Do vậy, để phát huy được những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm của tự do hoá lãi suất, một quốc gia khi thực hiện tự do hoá lãi suất cần những điều kiện sau: Môi trường kinh tế vĩ mô đã ổn định và khá chắc chắn, hành lang pháp lý đã tương đối ổn định và hoàn chỉnh, hệ thống ngân hàng ổn định và hoạt động hữu hiệu, thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán) đã hình thành và đã vận hành có hiệu quả, các nguồn lực trong nước đã được phân phối và sử dụng có hiệu quả, các tổ chức kinh tế đều đảm bảo khả năng sử dụng vốn triệt để và có hiệu quả.
Quan điểm của Đảng ta về việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là quan điểm cơ bản xuyên xuốt trong cơ chế quản lý kinh tế - tài chính của chúng ta. Đồng thời với chính sách mở cửa nền kinh tế, xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá trở nên cần thiết để chúng ta đẩy nhanh tốc độ phát triển nền kinh tế - xã hội. Trong điều kiện và bối cảnh đó, vấn đề tự do hoá tài chính và tự do hoá lãi suất nói riêng ở Việt Nam là một xu thế tất yếu hoàn toàn phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, thực hiện tự do hoá lãi suất ở Việt Nam phải được tiến hành một cách thận trọng, có cân nhắc, tránh nóng vội để có thể loại bỏ được những tác động tiêu cực của nó đối với nền kinh tế xã hội.
Với cơ chế điều hành lãi suất cơ bản như hiện nay, chúng ta đang từng bước xây dựng những điều kiện cần thiết để từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất. Đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay chúng ta phải khắc phục rất nhiều khó khăn để xây dựng những điều kiện cần thiết cho tự do hoá lãi suất: Khu vực sản xuất (nhất là khu vực Nhà nước) hoạt động kém hiệu quả, đang trong quá trình chấn chỉnh, sắp xếp, cổ phần hoá; hệ thống ngân hàng vẫn còn yếu kém, vốn nhỏ, trình độ quản lý thấp; các công cụ tài chính như thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác để thực hiện nhiệm vụ chiết khấu và tái chiết khấu chưa được phổ biến; nghiệp vụ tái cấp vốn của NHNN chưa thực hiện đúng nội dung kinh tế của nó, chủ yếu còn mang tính chất cho vay trực tiếp; trình độ của các cơ quan vĩ mô trong nền kinh tế chưa thể đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới...
Khi các điều kiện đã hội đủ, chúng ta sẽ chuyển sang cơ chế tự do hoá lãi suất nhưng không phải cơ chế tự do hoá hoàn toàn. NHNN với tư cách là người điều hành chính sách tiền tệ quốc gia sẽ sử dụng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tái cấp vốn để tham gia điều chỉnh gián tiếp các mức lãi suất trên thị trường nhằm phát huy vai trò của lãi suất đối với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội.
Kiến nghị.
Để tạo điều kiện cho việc điều hành chính sách lãi suất trong thời gian tới đòi hỏi cần có sự phối hợp hành động giữa các cơ quan có chức năng, có những chính sách hỗ trợ đi kèm nhằm làm cho công cụ lãi suất thực sự kích thích tăng trưởng kinh tế, kinh doanh ngân hàng ổn định và phát triển.
NHNN phải điều hành kinh doanh của các NHTM bằng những cơ chế, chính sách để các NHYM đi đúng quỹ đạo của cơ chế thị trường là cạnh tranh, giảm chi phí nghiệp vụ, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ có chất lượng ngày càng cao. NHNN phải thực sự là ngân hàng của các ngân hàng và là người cho vay cuối cùng đối với các NHTM. NHNN cần thực hiện một cách bình thường nghiệp vụ tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo thông lệ quốc tế. Đồng thời, NHNN cần đưa ra các chính sách dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng của nền kinh tế, chính sách tỷ giá và cơ chế tín dụng, thanh toán phù hợp với chính sách lãi suất cơ bản trong tình hình mới. NHNN cần có chính sách và giải pháp kiểm soát chặt chẽ, loại trừ kịp thời hoạt động mang tính đầu cơ trên thị trường tín dụng nhằm loại trừ nguy cơ tăng lãi suất, đầu tư vào các dự án xấu như kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính Đông á. Cần có một sự điều tra cơ bản của NHTƯ về mức chi phí quản lý bình quân của các ngân hàng ở các vùng khác nhau để lãi suất có thể bù đắp chi phí trung bình của các NHTM từ đó các NHTM mới đủ sức cạnh tranh khi hội nhập nền kinh tế.
NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính tăng cường phát hành những tín phiếu, trái phiếu kho bạc để đủ số lượng cho thị trường liên ngân hàng. ở Pháp, đó là các tín phiếu kho bạc chuyên dùng cho thị trường liên ngân hàng. Các ngân hàng vay hay cho vay rất dễ dàng bằng cách bán (= vay) khi thiếu vốn, hay mua (= cho vay) khi thừa vốn. NHTƯ cũng bán khi muốn thu hồi vốn từ lưu thông và mua khi muốn tung tiền ra lưu thông. Cách làm này nhanh và nhẹ nhàng hơn cách tái cấp vốn nặng nề hiện nay vì đòi hỏi phải có bộ hồ sơ cho vay có tài sản thế chấp được công chứng và có sự thẩm định của NHNN ở địa phương. Còn dùng cửa sổ tái chiết khấu như hiện nay thì chúng ta chưa có những điều luật về thương phiếu còn quá sơ sài. Với cách làm như hiện nay, thị trường liên ngân hàng sẽ không thể hoạt động thường xuyên được.
Đối với chính sách thuế của Nhà nước, cần phải có sự điều tiết giữa các vùng, các khu vực và các ngành để quá trình kinh doanh đạt hiệu quả .
Chính phủ cần có những chính sách bảo vệ các khu vực sản xuất khi thực hiện cơ chế chính sách lãi suất mới nhằm đảm bảo kinh doanh phát triển và ổn định lâu dài.
Mặt khác, Nhà nước cần nâng cao hơn nữa năng lực quản lý kinh tế vĩ mô của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và phải tạo những điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
kết luận.
Lãi suất là một loại giá cả đặc biệt, được sử dụng làm đòn bẩy cho các mục tiêu khác nhau của nền kinh tế. Việc điều chỉnh và đưa ra chính sách lãi suất phù hợp với từng thời kỳ khác nhau sẽ phát huy được tính hiệu quả của chính sách lãi suất nhằm thu hút vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế, khuyến khích mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phát triển kinh tế. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với Việt Nam đặc biệtlà trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta đang thực hiện đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm theo kịp được với các nước phát triển trên thế giới, hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Do vậy, trong thời gian tới, chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng sẽ tiếp tục được nghiên cứu, điều chỉnh và hoàn thiện hơn sao cho bắt kịp với những thay đổi trong nền kinh tế, nhằm mục tiêu phục vụ cho phát triển kinh tế đất nước./.
Danh mục tài liệu tham khảo
Bài giảng của TS. Nguyễn Hữu Tài
Giáo trình Tiền tệ, tín dụng và ngân hàng
Giáo trình Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Tạp chí Phát triển kinh tế số 8
Tạp chí Ngân hàng số 3 năm 2000
Tạp chí Ngân hàng số 6 năm 2000
Tạp chí Ngân hàng số 8 năm 2000
Tạp chí Ngân hàng số chuyên đề năm 1999
Mục lục.
Trang
Phần mở đầu 1
Chương I. Cơ sở lý luận của chính sách lãi suất tín dụng
ngân hàng và kinh nghiệm của một số nước 4
trong việc điều hành chính sách lãi suất.
1. Khái niệm lãi suất 4
2. Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất 6
3. Các nguyên tắc cơ bản hình thành lãi suất cơ bản 9
4. Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng 10
5. Kinh nghiệm của một số nước trong việc điều hành 13
chính sách lãi suất tín dụng
Chương II. Đánh giá quá trình điều hành chính sách lãi suất 17
tín dụng ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua
1. Giai đoạn lãi suất âm từ 1988 - 1992 17
2. Từ tháng 10/ 1992 chuyển từ lãi suất âm 18
sang lãi suất dương
3. Giai đoạn vừa quy định các mức lãi suất tiền gửi và 18
cho vay cụ thể, vừa cho vay theo lãi suất thoả thuận
4. Chuyển từ lãi suất thoả thuận sang trần lãi suất 19
5. Một số nhận thức về lãi suất theo tinh thần luật
NHNN và sự điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất 22
ở Việt Nam
Chương III. Giải pháp nhằm củng cố và hoàn thiện chính sách 26
lãi suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam
1. Định hướng 26
2. Giải pháp 29
3. Kiến nghị 34
Kết luận 37
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA379.doc