Đề tài Đánh giá phương pháp gọt giác mạc bằng laser trong điều trị bệnh lý giác mạc dải băng – Trần Hải Yến

Tài liệu Đề tài Đánh giá phương pháp gọt giác mạc bằng laser trong điều trị bệnh lý giác mạc dải băng – Trần Hải Yến: 32 ĐÁNH GIÁ PHƯƠNG PHÁP GỌT GIÁC MẠC BẰNG LASER TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ GIÁC MẠC DẢI BĂNG TRẦN HẢI YẾN, NGUYỄN THỊ DIỆU THƠ Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh LÊ MINH TUẤN Bộ môn Mắt ĐHYD TP. Hồ Chí Minh TÓM TẮT Mục tiêu: đánh giá tính hiệu quả và an toàn của phương pháp gọt giác mạc bằng laser (Phototherapeutic Keratectomy – PTK) trong điều trị bệnh lý giác mạc dải băng (BLGMDB). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu loạt ca: 9 bệnh nhân(BN) với 11 mắt được chẩn đoán BLGMDB và điều trị bằng phương pháp PTK từ 6/2006 -10/2007. BN được ghi nhận thị lực, khúc xạ, độ trong giác mạc, triệu chứng chủ quan trước và sau phẫu thuật và bệnh lý mắt đi kèm. Kết quả: Sau thời gian theo dõi hậu phẫu trung bình là 7 tháng (từ 2 đến 12 tháng), tất cả mắt đều có cải thiện độ trong so với trước mổ với 6/11 mắt đạt độ trong hoàn toàn (độ 0) . 3 mắt bị mờ đục giác mạc (haze) nhẹ,1 mắt hết mờ đục sau 3 tháng. Tất cả BN đều ghi nhận có cải thiện triệu chứng chủ quan như cộm xốn,...

pdf9 trang | Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 259 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá phương pháp gọt giác mạc bằng laser trong điều trị bệnh lý giác mạc dải băng – Trần Hải Yến, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
32 ĐÁNH GIÁ PHƯƠNG PHÁP GỌT GIÁC MẠC BẰNG LASER TRONG ĐIỀU TRỊ BỆNH LÝ GIÁC MẠC DẢI BĂNG TRẦN HẢI YẾN, NGUYỄN THỊ DIỆU THƠ Bệnh viện Mắt TP. Hồ Chí Minh LÊ MINH TUẤN Bộ môn Mắt ĐHYD TP. Hồ Chí Minh TÓM TẮT Mục tiêu: đánh giá tính hiệu quả và an toàn của phương pháp gọt giác mạc bằng laser (Phototherapeutic Keratectomy – PTK) trong điều trị bệnh lý giác mạc dải băng (BLGMDB). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu loạt ca: 9 bệnh nhân(BN) với 11 mắt được chẩn đoán BLGMDB và điều trị bằng phương pháp PTK từ 6/2006 -10/2007. BN được ghi nhận thị lực, khúc xạ, độ trong giác mạc, triệu chứng chủ quan trước và sau phẫu thuật và bệnh lý mắt đi kèm. Kết quả: Sau thời gian theo dõi hậu phẫu trung bình là 7 tháng (từ 2 đến 12 tháng), tất cả mắt đều có cải thiện độ trong so với trước mổ với 6/11 mắt đạt độ trong hoàn toàn (độ 0) . 3 mắt bị mờ đục giác mạc (haze) nhẹ,1 mắt hết mờ đục sau 3 tháng. Tất cả BN đều ghi nhận có cải thiện triệu chứng chủ quan như cộm xốn, chói lóa. Về thị lực sau mổ: 6 mắt tăng, 2 mắt không đổi và 3 mắt giảm do tổn thương khác tại mắt. Có 4 mắt được phẫu thuật phaco và đặt kính nội nhãn, thị lực tăng rất cao với BCVA từ 2/10 đến 10/10. Kết luận: PTK là một phương pháp hữu hiệu trong điều trị BLGMDB, góp phần phục hồi tính trong suốt và bề mặt giác mạc trơn láng của giác mạc, giảm bớt những khó chịu của BN, tạo điều kiện thuận lợi cho các phẫu thuật nội nhãn, nếu cần, để giúp cải thiện thị lực cho BN. Từ khóa: Phương pháp gọt giác mạc bằng laser, bệnh lý giác mạc dải băng (BLGMDB) I. ĐẶT VẤN ĐỀ Cuối thập niên 80 thế kỷ trước, phẫu thuật LASER Excimer đã được thực hiện nhằm tạo hình lại bề mặt giác mạc, điều trị trước hết là cận, sau đó đến viễn và loạn thị. Đến nay, nó đã trở thành lựa chọn hàng đầu trong điều trị tật khúc xạ. Năm 1990, LASER Excimer được nghiên cứu sử dụng để điều trị các tổn thương giác mạc nông dưới tên là Phototherapeutic keratectomy (PTK), phẫu thuật cắt gọt giác mạc quang học bằng LASER. Đến năm 1995, PTK đã được FDA của Mỹ công nhận. Ưu điểm của phương pháp PTK là lấy đi mô giác mạc với độ chính xác cao và ít gây tổn thương mô lành kế cận, giúp tạo bề mặt nhẵn mịn[4]. Những thương tổn giác mạc nằm ở nhu mô trước (<100µm), bao gồm loạn dưỡng giác mạc nông, sẹo nông và những tổn thương không đều trên bề mặt giác mạc, được điều trị tốt nhất bằng phương pháp PTK. Trên 15 năm ứng dụng PTK cho thấy LASER Excimer là 33 một công cụ rất hữu hiệu gia tăng tỷ lệ thành công trong điều trị bệnh giác mạc, cải thiện thị lực BN, giúp tránh những phẫu thuật can thiệp như ghép giác mạc phiến hoặc xuyên. BLGMDB là một tình trạng thoái hóa giác mạc, biểu hiện bởi sự phát triển từ từ của tổn thương đục màu trắng xám trên giác mạc nông. Có sự lắng đọng canxi trên màng đáy, màng Bowman và nhu mô trước. Khi tổn thương lan đến trục thị giác sẽ làm giảm thị lực và gây chói lóa. Ngoài ra, nó còn gây kích thích rất nhiều nếu lớp biểu mô bị tróc ra. Điều trị BLGMDB bao gồm lấy đi những lắng đọng canxi gây đục và phục hồi bề mặt láng mịn cho giác mạc. Thông thường, BLGMDB được điều trị bằng phương pháp cạo giác mạc bằng tay kết hợp với hóa chất ethylenediaminetetraacetic acid (EDTA). Phương pháp cắt gọt giác mạc cơ học cũng có thể được sử dụng để lấy đi những lắng đọng canxi nông. Tuy nhiên nhược điểm của các phương pháp này là bề mặt nhu mô giác mạc sau khi cạo thường không được đều đặn. Do đó phương pháp PTK đã được các tác giả trên thế giới nghiên cứu ứng dụng để điều trị BLGMDB, giúp tái tạo bề mặt nhẵn mịn của giác mạc. So với các tổn thương giác mạc nông gây sẹo gặp ở bệnh viện Mắt TPHCM, BLGMDB tương đối thường gặp hơn cả. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm đánh giá hiệu quả của phương pháp PTK trong điều trị bệnh lý này II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP Đây là một báo cáo loạt ca: phân tích trên 11 mắt của 9 BN được chẩn đoán BLGMDB và được điều trị tại khoa Khúc xạ bệnh viện Mắt TPHCM từ tháng 6/2006 đến tháng 10/2007. Trong số 9 BN, có 7 nam và 2 nữ. Tuổi trung bình là 18 (từ 8 đến 46 tuổi). Có 4 trường hợp bề mặt dải băng thô ráp và có vùng tróc biểu mô, các trường hợp còn lại biểu mô phẳng. Tiêu chuẩn loại trừ bao gồm mắt độc nhất, viễn thị, hở mi, quặm mi, có các bệnh lý khác ở nhãn cầu đang tiến triển như viêm màng bồ đào bệnh lý collagen toàn thân, bệnh tự miễn, suy giảm miễn dịch, tiểu đường. BN được đo thị lực không kính và có kính, đo bề dày giác mạc, chụp bản đồ giác mạc bằng máy Orbscan II, khám mắt toàn diện bằng sinh hiển vi. Mức độ trong suốt của giác mạc được đánh giá theo 5 mức: Độ 0: Giác mạc trong suốt Độ I: Dấu vết đục với mật độ tối thiểu, thấy được qua chiếu sáng trực tiếp và khuyếch tán Độ II: Đục màng khói thấy dễ dàng với chiếu sáng trực tiếp tại chỗ Độ III: Đục nhiều che phủ một phần chi tiết mống mắt Độ IV: Đục rất nặng che hoàn toàn chi tiết mống mắt Tất cả các BN được điều trị bằng chế độ PTK của máy laser TECHNOLAS 217Z 100 (Bausch & Lomb) với tê tại chỗ bằng proparacain 0.5%. Biểu mô được bóc đi bằng dao Hockey nếu bề mặt thô ráp, bằng LASER hoặc dao Epi K nếu bề mặt mịn nhẵn. Sau khi lấy biểu mô, nhu mô được phủ dung dịch làm nhẵn (smoothing agent) như carboxymethylcellulose 0.5% 34 (Refresh Plus, Allergan) để giúp tạo bề mặt nhu mô mịn màng sau khi chiếu LASER. Số lượng điểm bắn, tần suất điểm bắn, kích thước và chiều sâu vùng chiếu LASER được chọn tùy theo kích thước và chiều sâu của tổn thương. Độ sâu vùng chiếu laser thay đổi từ 35µm đến 80µm, kích thước vùng quang học chiếu laser (optic zone) từ 6,5mm đến 7mm. Sau khi phẫu thuật BN được gắn kính tiếp xúc, nhỏ thuốc kháng sinh và corticoid. BN được hẹn tái khám 1 ngày, 3 ngày, 1 tuần đánh giá mức độ lành biểu mô, đo thị lực không kính, và tháo kính tiếp xúc khi biểu mô lành hoàn toàn. Sau mổ 1 tháng, 3 tháng , 6 tháng BN được khám đánh giá mức độ trong suốt của giác mạc, nhãn áp (do nhỏ corticoid dài ngày), thị lực không kính, sau chỉnh kính, bản đồ giác mạc, triệu chứng chủ quan của BN. Các bệnh lý mắt đi kèm bao gồm: 6 mắt có di chứng viêm màng bồ đào cũ, trong đó có 3 mắt kèm đục thể thủy tinh (TTT) từ đục dưới bao sau đến đục gần toàn bộ, 2 mắt có đục TTT, 2 mắt đã được mổ TTT có gắn kính nội nhãn, 1 mắt đã được mổ cắt bè củng mạc vì glôcôm trẻ em. Một BN có hội chứng thận hư đi kèm viêm màng bồ đào cũ hai mắt. III. KẾT QUẢ Thời gian theo dõi từ 2 tháng đến 12 tháng, trung bình là 7 tháng. Độ trong giác mạc được cải thiện đáng kể so với trước phẫu thuật. Trước phẫu thuật: 2 mắt độ II, 5 mắt độ III và 4 mắt độ IV. Sau mổ 6 mắt độ 0, 4 mắt độ I và 1 mắt độ II . Giác mạc của tất cả các mắt trong nghiên cứu đều có bề mặt giác mạc trơn láng hơn và trong hơn ở các mức độ khác nhau so với trước khi can thiệp: 5/11 mắt cải thiện từ 3 độ trong trở lên. Tất cả các BN đều ghi nhận cải thiện nhiều về triệu chứng chủ quan như cộm xốn, chói lóa Biểu đồ 1: Đánh giá độ trong giác mạc trước và sau mổ Về thị lực, trước mổ có 9/11 mắt có thị lực < 1/10, 6 mắt thị lực tăng so với trước mổ, 2 mắt không đổi, 3 mắt có thị lực giảm. Có 4 BN (4 mắt), sau mổ PTK giác mạc trong đã tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật phaco và đặt kính nội nhãn, thị lực sau mổ đạt rất cao, với BCVA 1 mắt là 2/10, 2 mắt đạt 8/10 và 1 0 6 0 4 2 1 5 0 4 0 1 2 3 4 5 6 Độ 0 Độ I Độ II Độ III Độ IV 35 mắt đạt 10/10. Một BN thị lực ST (-) trước mổ với tình trạng dải băng thô ráp, yêu cầu được phẫu thuật vì lý do thẩm mỹ và giảm bớt khó chịu cho mắt. Riêng ba mắt bị giảm thị lực: trường hợp thứ nhất là hai mắt trên cùng một BN có viêm màng bồ đào cũ. Trước mổ: thị lực: MP ĐNT 3,5 m, MT 1/10; đục giác mạc 2 bên độ III. Sau mổ 1 tuần, độ trong suốt giác mạc 2 mắt ở độ I, thị lực MP 2/10, MT 3/10. Đến 1 tháng sau mổ, hai mắt xuất hiện mờ đục nhẹ, tuy nhiên chưa làm thay đổi thứ hạng theo tiêu chuẩn qui định trong thang đánh giá độ trong (vẫn ở mức độ I) và thị lực không suy giảm, BN được điều trị corticoid tại chỗ. Thời điểm 2 tháng sau phẫu thuật, mờ đục vẫn không tiến triển tiếp, độ trong giác mạc vẫn duy trì độ I, tuy nhiên thị lực BN giảm còn MP ĐNT 3m, MT ĐNT 4m. Chúng tôi hẹn BN quay lại để làm thêm một số khám nghiệm, nhưng BN bỏ tái khám nên không đánh giá được thị lực, tình trạng mờ đục sau đó cũng như chưa xác định được nguyên nhân gây giảm thị lực. Một trường hợp BN nam khác, trước mổ ghi nhận BLGMDB trên mắt đã mổ lấy thể thủy tinh có đặt kính nội nhãn, khi khám phát hiện màng đục trắng sau IOL, thị lực BBT. Mục tiêu của phẫu thuật trên BN này là giải phóng trục thị giác để có thể tiến hành cắt bao sau hoặc cắt dịch kính tiếp theo nhằm cải thiện thêm thị lực cho BN. Sau mổ 1 tuần, thị lực BN đạt ĐNT 0,2 m, giác mạc đục độ II (do sẹo dày nên không thể chiếu laser hết bề dày của sẹo). BN bỏ không tái khám. Sau mổ 6 tháng BN quay trở lại với thị lực ST (+), giác mạc giữ độ II, siêu âm B phát hiện bong võng mạc toàn bộ. Trước mổ, tất cả BN bị đục giác mạc nhiều nên không thể đo khúc xạ, vì vậy không thể đánh giá được sự thay đổi khúc xạ sau mổ của BN. Sau phẫu thuật PTK, dù giác mạc trong hơn nhưng do phần lớn BN kèm theo đục thủy tinh thể, Hình 1A. Hình ảnh trước mổ: bệnh nhân Nguyễn Thành N, 15 tuổi. Có tiền căn viêm màng bồ đào. Thị lực ĐNT ,.5m. Hình 1B. Hình ảnh sau mổ PTK 3 tháng, sau mổ đục thủy tinh thể và đặt kính nội nhãn 2 tháng. BCVA = 8/10. 36 nên chỉ thu thập được khúc xạ của 2 BN, và cả hai đều có xu hướng loạn thị hỗn hợp. Biến chứng: không có biến chứng xảy ra trong lúc mổ. Có 3 mắt bị mờ đục nhẹ. Một mắt xuất hiện mờ đục sau 1 tháng, được điều trị bằng corticoid nhỏ mắt (Predforte 1%), mờ đục biến mất sau 3 tháng. Hai mắt của một BN khác cũng xuất hiện mờ đục sau 1 tháng, đã được nêu ở trên. Không có trường hợp nào bị nhiễm trùng. Không ghi nhận trường hợp tái phát nào, có thể vì thời gian theo dõi hậu phẫu ngắn (tối đa là 12 tháng). Chúng tôi không tiến hành nghiên cứu thống kê số liệu vì số lượng BN ít. Bảng 1: Kết quả so sánh trước và sau mổ trên từng bệnh nhân Trước mổ Sau mổ (*) Biến chứng Bệnh lý đi kèm và các xử trí sau PTK (nếu có) BCVA Độ trong GM BCVA Độ trong GM Bệnh nhân 1 MT ĐNT 0.5m Độ III 1/10 Độ 0 VMBĐ cũ, đục TTT Bệnh nhân 2 MP ĐNT 1m Độ IV 8/10 Độ 0 Mờ đục nhẹ, hết sau 3 tháng Bệnh nhân được mổ phaco và đặt IOL sau mổ PTK Bệnh nhân 3 MT 3/10 Độ III 10/10 Độ I Bệnh nhân được mổ phaco và đặt IOL sau mổ PTK Bệnh nhân 4 MP ĐNT 2.5m Độ IV 2/10 Độ 0 VMBĐ cũ. Bn được mổ phaco và đặt IOL sau mổ PTK Bệnh nhân 5 MT ST (-) Độ IV ST (-) Độ 0 VMBĐ cũ, dính góc tiền phòng, đục thể thủy tinh Bệnh nhân 6 MP ĐNT 3.5m Độ III ĐNT 3m Độ I Mờ đục nhẹ sau mổ 1 tháng 2M: VMBĐ cũ, hội chứng thận hư MT 1/10 Độ III ĐNT 4m Độ I Mờ đục nhẹ sau mổ 1 tháng Bệnh nhân 7 MP BBT Độ III ST (+) Độ II Đã mổ lấy TTT và đặt IOL trước PTK. Bong võng mạc được phát hiện 6 tháng sau mổ PTK Bệnh nhân 8 MP ĐNT 0.5m Độ IV 8/10 Độ I VMBĐ cũ. Bn được mổ phaco và đặt IOL sau mổ PTK 37 Bệnh nhân 9 MP ĐNT 1m Độ II ĐNT 1m Độ 0 Đã cắt bè củng mạc do glaucoma, lõm gai 8/10 MT ĐNT 1m Độ II ĐNT 4m Độ 0 Đã mổ lấy TTT, đặt IOL (*): Kết quả lần khám cuối cùng sau mổ. IV. BÀN LUẬN BLGMDB là một tình trạng thoái hóa giác mạc, do sự lắng đọng của các loại muối canxi trên bề mặt giác mạc, cụ thể là ở màng đáy biểu mô, màng Bowman và nhu mô trước. Tổn thương khi lan tới trục thị giác sẽ gây giảm thị lực, chói lóa và khó chịu nếu lớp biểu mô bị tróc ra. Thường gặp bệnh lý này ở những BN có rối loạn chuyển hóa canxi hoặc phosphate, hoặc trong những bệnh lý tại mắt như viêm màng bồ đào kéo dài, teo nhãn cầu, glôcôm tuyệt đối. Bệnh có thể gây ra do một số loại chất bảo quản của thuốc nhỏ mắt pilocarpin, chất nhầy, thuốc nhỏ mắt corticoid có chứa phosphate, hoặc do dầu silicon trong tiền phòng [3]. Mục tiêu điều trị trong BLGMDB không phải là điều trị nguyên nhân mà chủ yếu là lấy đi phần giác mạc đục để giải phóng trục thị giác và giúp BN dễ chịu trong trường hợp bề mặt dải băng thô ráp. Trong nghiên cứu của chúng tôi, tất cả các trường hợp đều có cải thiện về độ trong giác mạc đáng kể với 6/11 mắt đạt được độ trong hoàn toàn (độ 0). Hơn nữa tất cả mắt đều có bề mặt giác mạc trơn láng sau mổ, giúp BN cải thiện nhiều về triệu chứng chủ quan như khó chịu, chói lóa Nghiên cứu tương tự của tác giả O’Brart và cộng sự cho thấy sau phẫu thuật PTK kết quả cải thiện đáng kể về độ chói lóa, độ nhạy tương phản và sự khó chịu của BN [1]. Hơn nũa cũng trong nghiên cứu này, khi khảo sát mô học của một mẫu giác mạc bị thoái hóa dải băng được điều trị bằng PTK, người ta nhận thấy rằng ở vùng được chiếu laser, biểu mô có hình thái bình thường so với biểu mô bất thường ở vùng thoái hóa chưa được chiếu laser. Điều đó cho thấy biểu mô giác mạc bất thường ở vùng dải băng có khả năng phục hồi những đặc tính bình thường của mình khi môi trường nuôi dưỡng bên dưới được cải thiện [1]. Và có lẽ nhờ phục hồi các đặc tính bình thường của biểu mô giác mạc vùng điều trị đã giúp cải thiện các triệu chứng chủ quan của BN. Tác giả Dogru và cộng sự trong nghiên cứu khảo sát các thông số về tình trạng bề mặt nhãn cầu sau phẫu thuật PTK cho nhiều bệnh lý giác mạc nông như loạn dưỡng Avellino, dạng lưới, dạng hạt, BLGMDB và sẹo giác mạc nông đã cho thấy có sự cải thiện về cảm giác giác mạc, thời gian phá vỡ phim nước mắt (BUT), chất lượng lớp lipid của phim nước mắt, và tình trạng chuyển sản tế bào vảy kết mạc [6]. Họ đã kết luận rằng nhờ cải thiện độ trong suốt và độ trơn láng của bề mặt giác mạc với phương pháp PTK, phim nước mắt cũng được cải thiện cùng với sự sản xuất mucin tốt hơn do biểu mô khỏe mạnh hơn. Về thị lực, chúng tôi nhận thấy trước mổ hầu hết BN đều có thị lực rất thấp với 10/11 BN có thị lực dưới 1/10. Điều đó có thể lý giải được vì ngoài tính chất mờ đục của giác mạc tổn thương, 38 phần lớn BN đều có bệnh lý mắt kèm theo như viêm màng bồ đào cũ, đục TTT, glôcôm. Cũng vì lý do đó mà phần lớn thị lực sau mổ cải thiện ít so với trước mổ mặc dù giác mạc đã trong hơn đáng kể. Tuy nhiên sau mổ PTK, giác mạc trong đã tạo điều kiện thuận lợi cho phẫu thuật phaco đặt kính nội nhãn trên 4 mắt có bệnh lý đục TTT đi kèm, thị lực sau mổ đạt rất cao với 3 trong số 4 trường hợp có BCVA ≥ 8/10. Có lẽ đây là điểm thuận lợi rất lớn của phẫu thuật PTK trong BLGMDB. Giải phóng trục thị giác cùng với việc tái tạo bề mặt giác mạc trơn láng đã giúp cho các phẫu thuật nội nhãn, nếu cần được tiến hành trên BN, trở nên thuận lợi hơn, từ đó giúp cải thiện hơn nữa thị lực của người bệnh. Có 3 mắt bị mờ đục nhẹ sau phẫu thuật 1 tháng. Thường mờ đục là do ánh sáng bị tán xạ bởi các tế bào giác mạc bị hoạt hóa ở vết thương. Một nguyên nhân khác của mờ đục là do sự lắng đọng của các sợi collagen mới và không đều đặn [4]. Điều trị mờ đục thường bằng corticoid nhỏ mắt tại chỗ. Đa số các trường hợp mờ đục sẽ hết sau 3 đến 6 tháng sau mổ [10]. Ngày nay với việc sử dụng mitomycin C 0,02% tại vùng chiếu laser trong lúc mổ tương tự như trong phẫu thuật PRK hoặc Epi LASIK hứa hẹn sẽ giúp giảm nguy cơ mờ đục sau phẫu thuật [8]. Chúng tôi không thể đánh giá được sự thay đổi khúc xạ vì không ghi nhận được khúc xạ của BN. Sau mổ chỉ ghi nhận được khúc xạ của 2 mắt nên khó lý giải được kết quả này vì số lượng quá ít (cả hai mắt đều có loạn thị hỗn hợp). V. KẾT LUẬN Tóm lại, phương pháp PTK là một phương pháp an toàn và hữu hiệu trong điều trị thoái hóa giác mạc dải băng, giúp phục hồi tính trong suốt, tái tạo bề mặt trơn láng của giác mạc, cải thiện những khó chịu của BN, tạo điều kiện thuận lợi cho các phẫu thuật nội nhãn nếu cần để cải thiện thị lực. Những bệnh lý đi kèm với BLGMDB có thể làm hạn chế khả năng cải thiện thị lực cho BN. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. D P O’ BRART, D S GARTRY, C P LOHMANN, A L PATMORE, M G KERR MUIR AND J MARSHALL, Treatment of band keratopathy by excimer laser phototherapeutic keratectomy: surgical techniques and long term follow up. Br. J. Ophthalmol. 1993; 77: 702-708. 2. DIGHIERO P; BOUDRAA R; ELLIES P et al : Therapeutic photokeratectomy for the treatment of band keratopathy. J Fr Ophthalmol. 2000; 23 (4): 345-349. 3. GEORGE O. WARING III, JOYCE N. MBEKEANI. Chapter 10: Corneal degenerations. In Corneal disorders, clinical diagnosis and management (Leibowitz, Waring, editors), second edition, Philadelphia, 303-313, 1998,W.B.Saunder company. 39 4. LIANE M. CLAMEN, DIMITRI T. AZAR: Phototherapeutic keratectomy: Indications, Contraindications, and preoperative Evaluation. In Corneal surgery: Theory, technique & tissue (Frederick S. Brightbill, editor), third edition , St Louis, 733 – 744, 1999, Mosby. 5. M. ASHRAF FAROOQ, WALTER J. STARK: PTK and lamellar surgery to treat corneal opacities and scars. In Custom LASIK, Surgical techniques and Complications (Lucio Buratto, Stephen Brint, editors) , Thorofare, NJ, 386-387, 2003, Slack incorporated. 6. MURAT DOGRU et al: Ocular surface changes after excimer laser phototherapeutic keratectomy. Ophthalmology 2000; 107: 144-1152. 7. OG STEWART AND AJ MORRELL: Management of band keratopathy with excimer laser phototherapeutic keratectomy: visual, refractive, and symptomatic outcome. Eye 2003; 17: 233-237. 8. PETER S. HERSH, SHAWN R. KLEIN, MICHAEL D. WAGONER: Phototherapeutic keratectomy. In Cornea (Krachmer, Mannis, Holland, editors), second edition, volume 2, Surgery of cornea and conjunctiva, Philadelphia, 1735- 1747, 2005, Elsevier Mosby. 9. SHIRO AMANO, TETSURO OSHIKA, YOSHIKO TAZAWA, et al: Long-term follow-up of excimer laser phototherapeutic keratectomy. Jpn J Ophthalmol 1999; 43: 513-516. 10. TIMOTHY B. CAVANAUGH: Phototherapeutic Keratectomy: Operative Techniques, Complications, and Results. In Corneal surgery: Theory, technique & tissue (Frederick S. Brightbill, editor), third edition, St Louis,745 – 761, 1999, Mosbaam SUMMARY MANAGEMENT OF BAND KERATOPATHY WITH EXCIMER PHOTOTHERAPEUTIC KERATECTOMY Purpose: to evaluate the efficacy of PTK in the management of band keratopathy. Objectives and methods: Case series report: 9 patients (eleven eyes) with band keratopathy were treated with excimer PTK between June 2006 and November 2007. Analysis was performed on patients’ pre- and postoperative visual acuity, refraction, corneal clarity, symptoms and associated or previous ocular pathology. Results: With mean follow-up of 7 months (ranging from 2 to 12 months), corneal clarity was improved significantly in all eyes postoperatively with 6/11 eyes crystalline clear. Three eyes had mild haze one month after the surgery, haze disappeared after 3 months in one eye. All the patients had improvement in symptoms regarding discomfort, glare. The visual acuity was increased in 6 eyes, unchanged in 2 eyes, and 40 decreased in 3 eyes postoperatively due to non-corneal pathologies. Four eyes that underwent phaco and IOL implantation following PTK had BCVA improved substantially to 0.2 - 1.0. Conclusion: PTK is an effective treatment for band keratopathy in terms of increasing corneal clarity, restoring smooth corneal surface, lessening patients’ symptoms, and faciliting intraocular procedures for better visual improvement. Key words: phototherapeutic keratectomy (PTK)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfde_tai_danh_gia_phuong_phap_got_giac_mac_bang_laser_trong_di.pdf
Tài liệu liên quan