Tài liệu Đề tài Đánh giá môi trường chiến lược đối với Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006 – 2010: MỞ ĐẦU
Mặc dù trong những năm qua Luật BVMT năm 1993 đã được thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả đối với các công trình cụ thể nhưng môi trường vẫn ngày càng bị ô nhiễm hơn, tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị suy thoái hơn, một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng trên là do đánh giá tác động môi trường đối với các dự án công trình cụ thể chỉ có khả năng ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của từng công trình cụ thể, chưa xem xét đánh giá tác động môi trường tổng hợp, tích luỹ và tương hỗ trong mối liên quan tổng thể của tất cả các dự án công trình, các chương trình và các dự án hoạt động của các dự án chiến lược, quy hoạch hay kế hoạch phát triển. Vì vậy đã nảy sinh nhu cầu cần có thêm công cụ quản lý môi trường, có tính tổng hợp hơn, đó là “Đánh giá môi trường chiến lược”.
Luật BVMT năm 2005 và Nghị định 175/CP của chính phủ đã quy định các “quy hoạch tổng thể phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành, tỉnh, thành phố thuộc Trung ương, các quy hoạch đô thị và k...
152 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá môi trường chiến lược đối với Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006 – 2010, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Mặc dù trong những năm qua Luật BVMT năm 1993 đã được thực hiện nghiêm túc và có hiệu quả đối với các công trình cụ thể nhưng môi trường vẫn ngày càng bị ô nhiễm hơn, tài nguyên thiên nhiên ngày càng bị suy thoái hơn, một trong những nguyên nhân chính gây nên tình trạng trên là do đánh giá tác động môi trường đối với các dự án công trình cụ thể chỉ có khả năng ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của từng công trình cụ thể, chưa xem xét đánh giá tác động môi trường tổng hợp, tích luỹ và tương hỗ trong mối liên quan tổng thể của tất cả các dự án công trình, các chương trình và các dự án hoạt động của các dự án chiến lược, quy hoạch hay kế hoạch phát triển. Vì vậy đã nảy sinh nhu cầu cần có thêm công cụ quản lý môi trường, có tính tổng hợp hơn, đó là “Đánh giá môi trường chiến lược”.
Luật BVMT năm 2005 và Nghị định 175/CP của chính phủ đã quy định các “quy hoạch tổng thể phát triển vùng, quy hoạch phát triển ngành, tỉnh, thành phố thuộc Trung ương, các quy hoạch đô thị và khu dân cư” phải thực hiện đánh giá tác động môi trường chiến lược.
Đánh giá môi trường chiến lược nhằm mục đích cung cấp các thông tin về các hậu quả môi trường của các quyết định về các chính sách, chiến lược, quy hoạch và các chương trình phát triển kinh tế, xã hội, cũng như lựa chọn các phương án và giải pháp có tính chiến lược nhằm giảm thiểu tác động gây ô nhiễm môi trường và suy thoái tài nguyên.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài bảo vệ Luận văn thạc sỹ “Đánh giá môi trường chiến lược đối với Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2006 – 2010”.
* Mục tiêu của luận văn:
Xuất phát từ phương pháp luận đánh giá môi trường chiến lược để đánh giá các tác động môi trường của Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Nghệ An.
Từ đó tìm các giải pháp có tính chiến lược chắc chắn để lựa chọn các phương án thay thế thích hợp để bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
* Ý nghĩa của đề tài
- Về mặt khoa học
Đánh giá, phát hiện những tác động, ảnh hưởng môi trường của quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế – xã hội tỉnh Nghệ An đến 2010, tầm nhìn đến 2020.
- Về mặt thực tiễn
Đánh giá và đề xuất các giải pháp có tính chiến lược cho quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế – xã hội tỉnh Nghệ An đến 2010, tầm nhìn 2020, nhằm phát triển hài hoà giữa kinh tế, xã hội và môi trường, thực hiện mục tiêu phát triển bền vững.
* Cấu trúc của luận văn
Luận văn gồm 3 chương (chưa bao gồm phần mở đầu, kết luận, kiến nghị và phụ lục).
Chương 1: Tổng quan
Chương 2: Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Dự báo tác động môi trường xảy ra khi thực hiện quy hoạch
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN
1.1. Khái niệm chung về đánh giá môi trường chiến lược trong các dự án quy hoạch
1.1.1. Định nghĩa về đánh giá môi trường chiến lược
Khái niệm “Đánh giá tác động môi trường chiến lược” (ĐMC) (thuật ngữ quốc tế: Strategic Environmental Assessment - SEA) được sử dụng rộng rãi trên thế giới và được quan niệm là một quá trình phân tích và đánh giá mang tính hệ thống các tác động ảnh hưởng tới môi trường từ các chính sách, chương trình và kế hoạch. Quá trình đánh giá và phân tích này được thực hiện trước khi ra một quyết định và khi đã có những phương án thay thế khác. ĐMC cũng có thể mở rộng và áp dụng xem xét trong các vấn đề liên quan đến kinh tế và xã hội.
Trên thực tế có rất nhiều cách hiểu về ĐMC. Khái niệm cơ bản và đầu tiên về ĐMC được hiểu là sự mở rộng việc đánh giá tác động môi trường (ĐTM) của một dự án ở tầm chiến lược, tập trung vào các tác động môi trường của các dự án đã được trình duyệt. ĐMC bao gồm cả các yếu tố xã hội, và cả yếu tố kinh tế, hay nói một cách khác ĐMC được xem như là một công cụ chính cho phát triển bền vững (Clayton và Sadler, 2005).
Hiện tại trên thế giới có rất nhiều định nghĩa về ĐMC tuỳ theo những nhận thức khác nhau về việc mục đích của việc đánh giá môi trường. Dưới đây nêu ra ba định nghĩa phổ biến về đánh giá môi trường chiến lược:
Định nghĩa 1: Sadler và Verheem (1996) định nghĩa: “Đánh giá tác động môi trường chiến lược là một quá trình có tính hệ thống để đánh giá những hậu quả môi trường của các chính sách, chương trình và kế hoạch được đề xuất nhằm đảm bảo những đánh giá này được đưa vào ở giai đoạn sớm nhất của quá trình ra quyết định ngang hàng với các xem xét về kinh tế và xã hội”
Định nghĩa 2: Therivel et al (1992) và Therivel Partidario (1996) định nghĩa: “Đánh giá môi trường chiến lược là một quá trình chính thức mang tính hệ thống và toàn diện để đánh giá các tác động môi trường của các chính sách, chương trình và kế hoạch và các phương án thay thế cùng với việc chuẩn bị các báo cáo về những kết qủa đánh giá (phát hiện) và việc sử dụng các kết qủa trong qúa trình gia quyết định.
Định nghĩa 3: Theo Ngân hàng Thế giới: “Đánh giá tác động môi trường chiến lược là phương pháp đánh giá ngược lại các vấn đề môi trường và xã hội ảnh hưởng từ các quy hoạch phát triển, quá trình ra quyết định và qúa trình thực hiện ở mức chiến lược” (Mercier, 1994).
Tóm lại có thể khái quát “Đánh giá tác động môi trường chiến lược” (ĐMC) là một quá trình khoa học mang tính hệ thống đánh giá các hậu qủa môi trường của các chính sách, kế hoạch và chương trình nhằm đảm bảo lồng ghép một cách đầy đủ các xem xét môi trường một cách sớm nhất và ngang bằng với các xem xét về kinh tế và xã hội vào trong quá trình hoạch định các chính sách, chương trình, kế hoạch đó. Chính vì vậy ĐMC được sử dụng như là một công cụ giống như đánh giá tác động môi trường (ĐTM) ở cấp độ chiến lược và được chấp nhận như là một biện pháp không thể thiếu trong việc cung cấp các thông tin môi trường làm căn cứ cho những quyết định phê duyệt các dự án phát triển.
Đánh giá môi trường chiến lược đã được định nghĩa trong Luật Bảo vệ môi trường (2005) là: ĐMC là việc phân tích, dự báo các tác động đến môi trường của dự án Chiến lược, Quy hoạch, Kế hoạch phát triển trước khi phê duyệt nhằm đảm bảo phát triển bền vững.
ĐMC liên quan đến các thuật ngữ chính sách, kế hoạch, chương trình và chúng được phân biệt như sau:
Chính sách là một quá trình hành động tổng quát theo một phương hướng tổng thể được đề xuất mà Chính phủ hay cấp chính quyền sẽ theo đuổi và hướng dẫn quá trình ra quyết định đang diễn ra.
Chương trình được thiết lập để thực hiện một mục tiêu cụ thể, bao gồm các mốc thời gian thực hiện, hoàn thành, các chỉ tiêu và phương pháp thực hiện cụ thể. Có thể gồm một hay nhiều các dự án với các mục tiêu đã xác định.
Kế hoạch là một chiến lược hay một thiết kế có chủ đích và hướng về phía trước thường đề ra các thứ tự ưu tiên, các giải pháp lựa chọn và các biện pháp, được soạn thảo tỉ mỉ và thực hiện chủ trương.
Ở nước ngoài ĐMC được thực hiện đối với 3P (chính sách, kế hoạch, chương trình), ở nước ta quy trình xây dựng các dự án phát triển như sau: từ đường lối, định hướng phát triển chung sẽ tiến hành xây dựng các chiến lược phát triển, từ chiến lược phát triển tiến hành xây dựng các quy hoạch, kế hoạch phát triển. Như vậy, ở đây từ “chiến lược” của nước ta tương đương với “policy” và từ “Quy hoạch, kế hoạch” tương đương với từ “plan” theo tài liệu về ĐMC của nước ngoài. Do đó luật bảo vệ môi trường ở nước ta quy định ĐMC đối với “Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch” tương ứng với quốc tế là ĐMC đối với “Chính sách, kế hoạch và chương trình”.
1.1.2. Lợi ích và tồn tại của ĐMC
1. Lợi ích
Đề cập đến nguyên nhân gây ra tác động môi trường nhiều hơn là đề cập đến việc xử lý đơn thuần các nhân tố làm huỷ hoại môi trường
Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả cho ĐTM bằng cách: Đề cập đến hàng loạt các phương án, đến các hoạt động tích luỹ thông qua việc xác định các giới hạn biến đổi có thể chấp nhận được đối với một vùng hoặc một lĩnh vực cụ thể. Tạo thuận lợi cho việc duy trì và củng cố mức chất lượng môi trường đã lựa chọn đáp ứng yêu cầu cho việc xác định phạm vi tiến hành ĐTM.
Có sự tham gia của công chúng, của các tổ chức phi Chính phủ và các cơ quan khác ở giai đoạn rất sớm. Sự liên quan nhiều phía này sẽ tạo thuận lợi để tham gia tăng sự chấp nhận của công chúng đối với chính sách, kế hoạch hoặc chương trình.
2. Tồn tại
Các quy hoạch, dự án, chương trình thường được phê duyệt với những quyết định mang tính chủ quan và không theo một khuôn mẫu rõ ràng.
Vấn đề trong ranh giới hệ thống giữa các cấp: nếu có càng nhiều các quyết định thực hiện ở các cấp cao nhất, sẽ có càng nhiều cách khai triển, thực hiện cho một chính sách hay chương trình, kế hoạch cụ thể ở các cấp thấp hơn. Điều này khiến cho việc theo dõi, đánh giá và phân tích trở nên khó khăn hơn.
Khi không có đầy đủ thông tin về điều kiện môi trường của các dự án hiện tại cũng như của các dự án trong tương lai, quy mô, vị trí của những khu có tiềm năng phát triển trong tương lai do vậy việc dự báo các tác động sẽ kém chính xác.
Có rất nhiều những phương án thay thế được đưa ra cân nhắc trong những bước khác nhau của quá trình ra quyết định. Mỗi phương án có một ưu, nhược điểm riêng, do vậy việc cân nhắc chọn lựa giữa các phương án rất khó và phức tạp.
Thiếu thông tin chia sẻ về ĐMC ở cấp độ chiến lược, cũng như kinh nghiệm thực tế đặc biệt là các chính sách.
Tính không chắc chắn về sự tham gia của cộng đồng trong quá trình ra quyết định.
Những vấn đề chính trị trong quá trình ra quyết định.
1.1.3. Các nguyên tắc chính của đánh giá môi trường chiến lược
1.1.3.1. Theo Sadler (1998) [7], Tonk và Verheem (1998) [7]
ĐMC cần tuân thủ các nguyên tắc sau đây:
Đạt được mục đích, đồng thời phải xây dựng để có thể áp dụng ở cấp chiến lược, kế hoạch hoặc chương trình;
Đảm bảo trung thực và hiệu quả có thể áp dụng vào mục tiêu và đIều kiện đặt ra;
Tập trung vào việc cung cấp các thông tin cần thiết cho việc ra quyết định, hướng tới những vấn đề mấu chốt.
Tuân theo những nguyên tắc của PTBV (Tính đến các vấn đề môi trường, kinh tế, xã hội);
Được lồng ghép với các tính toán kinh tế, xã hội và trong quá trình lập quy hoạch cũng như đánh giá khác;
Liên hệ với ĐTM dự án thích hợp theo sơ đồ phân cấp;
Công khai;
Có tính thực tế, dễ thực thi, hướng tới việc giảI quyết các vấn đề và tiết kiệm
Có tính khả quan, đồng thời là một quá trình tích luỹ và kinh nghiệm.
1.1.3.2. Theo Cơ quan đánh giá môi trường của Canada.
Các nguyên tắc của Canada được nêu trong “Hướng dẫn thực hiện Chỉ thị của Chính phủ về ĐMC” [8].
Có sự hoà nhập sớm: Việc phân tích các vấn đề MT phải được hoà nhập đầy đủ với quá trình xây dựng một chính sách, kế hoạch hoặc chương trình và việc xem xết các ảnh hưởng về MT phảI được bắt đầu sớm từ giai đoạn có ý tưởng lập quy hoạch, kế hoạch;
Có sự kiểm tra các phương án khác nhau: Việc đánh giá và so sánh các ảnh hưởng về MT của các phương án khác nhau trong quá trình xây dựng một chính sách, kế hoạch hoặc chương trình là một trong những khía cạnh quan trọng nhất hoặc bất kỳ quá trình ĐMC nào;
Có tính linh hoạt: Hướng dẫn thực hiện ĐMC là vvăn bản có tính tư vấn và không bắt buộc. Các cơ quan, các ngành được tự do xác định cách tiến hành ĐMC;
Có sự tự đánh giá: Mỗi cơ quan về ngành có trách nhiệm áp dụng ĐMC đối với các đề xuất về chính sách, kế hoạch, chương trình của mình. Xác định cách thức đánh giá, tiến hành đánh giá và báo cáo kết quả;
Có mức độ phân tích phù hợp: Phạm vi và quy mô phân tích phải tương xứng với mức độ ảnh hưởng đã được dự báo trước;
Có tính trách nhiệm: ĐMC phảI là một phần của quá trình ra quyết định có trách nhiệm trong Chính phủ liên bang;
Sử dụng các cơ chế hiện có: Các cơ quan, các ngành phải sử dụng những cơ chế hiện có khi tiến hành phân tích các nảh hưởng về MT, huy động cộng đồn tham gia khi cần thiết, đáng giá việc thực hiện và báo cáo kết quả.
1.1.3.3. Theo Hiệp hội Quốc tế về Đánh giá tác động (IAIA).
Một quá trình ĐMC có chất lượng tốt phải đảm bảo các nguyên tắc sau[8]:
Phải được hoà nhập (VD: đặt vấn đề và giải quyết được mối quan hệ qua lại của các khía cạnh về tự nhiên, kinh tế và xã hội);
Phải được định hướng theo tính bền vững (VD: tạo thuận lợi cho việc xác định các lựa chọn về phát triển sao cho được bến vững hơn);
Có trọng tâm, trọng đIểm (VD: là đối tượng có thể kiểm tra độc lập và phảI chỉ ra rằng làm thế nào để các vấn đề về tính bền vững được tính đến trong quá trình ra quyết định);
Có sự tham gia (VD: cung cấp thông tin và lôi kéo sự tham gia của các cơ quan Chính phủ và công chúng có sự quan tâm hoặc bị ảnh hưởng trong suốt quá trình ra quyết định);
Có sự lặp đi lặp lại (VD: bảo đảm rằng các kết quả đánh giá có được một cách sớm nhất để có tác động đến quá trình ra quyết định và lập kế hoạch).
1.1.4. Khác biệt giữa đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC)
Đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) về bản chất đều dựa trên nguyên tắc rất cơ bản đó là dự báo những tác động tiềm tàng của một hoạt động phát triển có thể gây ra cho môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội để từ đó đưa ra các giải pháp nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu và xử lý các tác động này tới mức thấp nhất có thể. Quy trình thực hiện ĐTM và ĐMC đều được thực hiện qua các bước sàng lọc, xác định phạm vi, đánh giá tác động, xác định các biện pháp giảm thiểu, bước sàng lọc, xác định phạm vi, thẩm định, ra quyết định và cuối cùng là quan trắc và giám sát.
Mặc dù có những điểm tương đồng nêu trên song giữa ĐTM và ĐMC cũng có nhiều sự khác biệt rất cơ bản. Trước hết là về đối tượng nghiên cứu, mục tiêu, mục đích cần đạt được và sau đó là sự khác biệt về nội dung báo cáo. Tuy vậy cần nhấn mạnh rằng sự khác biệt này không phải là sự phủ định lẫn nhau, mà chúng lại là những mặt bổ sung, hỗ trợ cho nhau và ĐMC đối với các chính sách, chương trình, kế hoạch ở cấp độ vĩ mô, và ĐTM ở cấp độ các dự án thực hiện cụ thể
.
Sự khác biệt đầu tiên giữa ĐTM và ĐMC là loại hình ra quyết định mà cả hai phương pháp này liên quan. ĐTM liên quan đến các quyết định ở cấp dự án và thường là các quyết định trước khi bắt đầu thực hiện dự án (thi công). Các quyết định này thường là các quyết định chi tiết chủ yếu về mặt vị trí và thiết kế một dự án và về các biện pháp giảm thiểu hơn là ngăn ngừa các tác động môi trường. Các giải pháp thay thế khả thi ở giai đoạn dự án thường giới hạn đối với các biến số nhỏ (ví dụ vạch chỉnh các tuyến đường, lựa chọn các tuyến tránh các điểm nhạy cảm môi trường …) trên cơ sở hướng tuyến đường và quy mô của nó đã được xác định. Trong khi đó ĐMC lại liên quan đến các quyết định mang tính chiến lược, ở cấp độ vĩ mô. Mục đích của ĐMC là cân nhắc kỹ hơn các vấn đề về môi trường (các cản trở và thuận lợi) và làm cho quy trình quyết định minh bạch hơn nhờ các biện pháp tư vấn và tham vấn cộng cộng. Như vậy ở cấp độ này các tuyến khác nhau và các phương thức giao thông khác nhau cũng như quản lý nhu cầu là các giải pháp có tính thay thế khả thi.
Những tính chất, nội dung khác biệt cơ bản nhất giữa ĐTM một dự án và ĐMC đối với chính sách, chương trình, kế hoạch được thể hiện ở bảng so sánh dưới đây:
Bảng 1.1: Những điểm khác nhau giữa Đánh giá tác động môi trường - ĐTM và Đánh giá môi trường chiến lược – ĐMC
TT
Đánh giá tác động môi trường
(ĐTM)
Đánh giá môi trường chiến lược
(ĐMC)
1
Đối tượng:
Đối tượng của ĐTM là một dự án phát triển cụ thể, như là các dự án đầu tư công trình hạ tầng cầu đường, cảng … với các tác động môi trường có tính đặc thù, có tính địa phương và có thể giảm thiểu bằng các giải pháp kỹ thuật
Đối tượng nghiên cứu của ĐMC là các chiến lược, quy hoạch/kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, vùng, địa phương, đô thị, nghành, có tính tổng hợp, tích luỹ trên một phạm vi rộng lớn.
2
Mục tiêu:
Nhận dạng, dự báo, phân tích và đánh giá các tác động môi trường của dự án, từ đó đề xuất các biện pháp (đặc biệt là các biện pháp kỹ thuật cụ thể) nhằm phát huy các tác động tích cực và giảm thiểu các tác động tiêu cực bảo đảm đạt tiêu chuẩn môi trường của một dự án phát triển kinh tế - xã hội cụ thể.
Nhận dạng, dự báo và đánh giá tổng hợp về các hậu quả môi trường của việc thực hiện các chiến lược, quy hoạch/kế hoạch, chương trình, nhằm đảm bảo, lồng ghép một cách đầy đủ các xem xét về vấn đề môi trường sớm nhất và ngang bằng với các xem xét về mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hoạch định các chiến lược, chương trình, quy hoạch/kế hoạch phát triển theo định hướng phát triển bền vững.
3
Quy trình thực hiện:
ĐTM là một quá trình xem xét, đánh giá về mặt môi trường đối với một dự án phát triển đã được đề xuất cụ thể, đã được xác định. Tức là tiến hành ĐTM sau khi hình hài của một dự án phát triển đã được xác định. Sự bắt đầu và kết thúc của ĐTM rõ ràng.
ĐMC được tiến hành song song với qúa trình xây dựng, hoạch định các chiến lược, quy hoạch/kế hoạch, chương trình, lồng ghép một cách hữu cơ việc xem xét cân nhắc môi trường vào suốt qúa trình và ở bất kỳ thời điểm nào của quá trình hoạch định chiến lược, quy hoạch/kế hoạch, chương trình nhằm mục đích điều chỉnh, sửa chữa nội dung của các chiến lược, quy hoạch/kế hoạch, chương trình đó theo định hướng phát triển bền vững.
4
Tính chất:
ĐTM có tính chi tiết cụ thể hơn.
ĐTM mang tính ứng phó đối với các tác động môi trường tiêu cực của dự án, bởi vì ĐTM được tiến hành đánh giá các tác động và đề xuất các giải pháp đáp ứng bảo vệ môi trường đối với phương án phát triển đã được lựa chọn.
ĐMC có tính tổng hợp hơn.
ĐMC có tính chủ động cao thể hiện ở việc:
- Rà soát các phương án thay thế để lựa chọn phương án tối ưu nhất.
- Phân tích, hồi cố quá khứ và dự đoán tương lai để xây dựng một loạt cac kịch bản dựa trên một tầm nhìn toàn diện, dự đoán hậu quả môi trường có thể xảy ra, để thay đổi phương án hoạch định.
5
Phương pháp đánh giá:
Các phương pháp đánh giá thường áp dụng trong ĐTM là: ma trận, liệt kê, bảng kiểm tra, dự báo môi trường bằng mô hình toán học …
Thường tập trung đến tác động môi trường trực tiếp của dự án, ít quan tâm đến các tác động môi trường gián tiếp, tích luỹ và tương hỗ.
ĐMC nghiên cứu tất cả các tác động môi trường trực tiếp, gián tiếp, đặc biệt là tác động tích luỹ và tác động tương hỗ của chiến lược, quy hoạch/kế hoạch, chương trình phát triển, bởi vì đối tượng đánh giá của ĐMC có quy mô lớn, đa dạng, bao gồm rất nhiều dự án cụ thể. Phương pháp đánh giá thường được dùng là: phương pháp chuyên gia, ma trận, liệt kê, mạng và sơ đồ hệ thống, phân tích xu hướng, chồng ghép bản đồ, phương pháp GIS.
6
Chỉ thị đánh giá, so sánh:
ĐTM thương xác định được các tác động môi trường có mức độ chi tiết về mặt kỹ thuật và có mức độ định lượng cao, được đánh giá so sánh với các trị số, giới hạn chỉ thị môi trường cho phép theo tiêu chuẩn chất lượng môi trường và tiêu chuẩn thải chất thải (TCVN).
ĐMC thường đánh giá hậu qủa môi trường ở mức độ khái quát, ở mức độ định tính và phi kỹ thuật. ĐMC thường lấy sự bền vững về mặt môi trường để làm chỉ thị đánh giá và so sánh.
7
Sản phẩm chủ yếu:
Đưa ra các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường, công nghệ giảm thiểu ô nhiễm nguồn thải, xử lý ô nhiễm, quản lý và quan trắc môi trường … trong giai đoạn chuẩn bị xây dựng, thi công xây dựng cũng như trong giai đoạn vận hành dự án để dự án đạt tiêu chuẩn môi trường.
Đưa ra các định hướng có tính định hướng phát triển, điều chỉnh hoạch định chiến lược, quy hoạch/kế hoạch, chương trình và lồng ghép các mục tiêu môi trường vào quá trình hoạch định chiến lược, quy hoạch/kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội , đề xuất chiến lược và quy hoạch bảo vệ mt để đảm bảo phát triển bền vững về mặt môi trường.
Nguồn: Phạm Ngọc Đăng và cộng sự “Đánh giá môi trường chiến lược, phương pháp luận và thử nghiệm ở Việt Nam”
1.2. Các điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, môi trường tỉnh Nghệ An
1.2.1. Điều kiện tự nhiên
1.2.1.1. Vị trí địa lý và địa hình
Nghệ An nằm ở vĩ độ 180 33" đến 190 25" kinh độ 1020 53" đến 1050 46" kinh đông, ở vị trí trung tâm vùng Bắc Trung Bộ với diện tích tự nhiên 16.488 km2 và dân số trung bình 3,03 triệu người, chiếm 5,1% diện tích tự nhiên và 3,64% dân số cả nước (năm 2005).
Nghệ An giáp tỉnh Thanh Hóa ở phía Bắc, tỉnh Hà Tĩnh ở phía Nam, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ở phía Tây với 419 km đường biên giới và biển Đông ở phía Đông với chiều dài 82 km. Vị trí này tạo cho Nghệ An có vai trò quan trọng trong mối giao lưu kinh tế - xã hội Bắc - Nam, xây dựng và phát triển kinh tế biển, kinh tế đối ngoại và mở rộng hợp tác quốc tế.
Nằm ở Đông Bắc dãy Trường Sơn, Nghệ An có địa hình đa dạng, phức tạp và bị chia cắt bởi các hệ thống đồi núi, sông suối hướng nghiêng từ Tây – Bắc xuống Đông – Nam. Tỉnh Nghệ An có một thành phố loại 2 – thành phố Vinh – là trung tâm hành chính của tỉnh nằm cách thủ đô Hà Nội 291km về phía Nam, một thị xã (thị xã Cửa Lò) và 17 huyện (10 huyện miền núi: Thanh chương, Kỳ Sơn, Tương Dương, Con cuông, Anh Sơn, Tân kỳ, Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn; và 7 huyện Đồng Bằng: Đô lương, Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi Lộc, Diễn Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành.
1.2.1.2. Điều kiện khí tượng – thuỷ văn.
Điều kiện khí hậu
Nghệ An có chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa có mùa đông lạnh và chia làm hai mùa rõ rệt: mùa hạ nóng ẩm mưa nhiều và mùa đông lạnh ít mưa, chịu sự tác động của gió mùa Tây – Nam khô và nóng (từ tháng 4 đến tháng 8) và gió mùa Đông Bắc lạnh, ẩm ướt (từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau).
Lượng mưa trung bình năm dao động trong khoảng khá rộng từ 950mm đến dưới 2000mm với 123-152 ngày mưa. Vùng đồng bằng và trung du có lượng mưa vào khoảng 1500-1800mm/năm. Lượng mưa lớn trên gặp ở khu vực núi cao trên 1000m ở phía cực Tây (Mường Lống: 1954mm/năm) và vùng phía Nam của tỉnh (Mông Sơn 1980mm/năm, Vinh: 1954mm/năm). Khu vực có lượng mưa thấp dưới 1200mm gặp ở vùng thung lũng sông Cả (Mường Xén: 1120mm/năm, Yên Hoà: 950mm/năm), đây cũng là một trong những trung tâm khô hạn của nước ta.
Độ ẩm không khí trung bình năm dao động 80 –90%. Vùng có độ ẩm cao nhất là thượng nguồn sông Hiếu, vùng có độ ẩm thấp nhất là vùng núi phía Nam huyện Kỳ Sơn, Tương Dương. Lượng bốc hơi từ 700 – 940mm/năm.
Tỉnh Nghệ An, bên cạnh tác động của gió Tây khô nóng trong mùa hè, dông cũng là một hiện tượng thời tiết đặc biệt hay xuất hiện trong khu vực. Hàng năm trung bình có 40-112 ngày dông. Dông chủ yếu xuất hiện ở vùng núi của tỉnh.
Nghệ An cũng là khu vực chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão. Mùa bão chậm hơn so với Bắc bộ khoảng 1 tháng (kéo dài trong khoảng từ tháng VIII đến tháng X). Bão đem lại mưa to và gió bão trong đất liền có thể lên tới 30-35 km/h và hoạt động của bão giảm nhanh khi tiến về vùng núi phía Tây. Trung bình mỗi năm có 2- 3 cơn bão.
b. Mạng lưới sông suối.
Nghệ An có hệ thống sông hồ khá dày đặc, trong tỉnh Nghệ An có 7 lưu vực sông (có cửa riêng biệt), tuy nhiên 6 trong số này là các sông ngắn ven biển có chiều dài dưới 50 km và duy nhất có sông Cả có lưu vực là 15.346 km2 chiếm tới 93,1% diện tích tỉnh với chiều dài là 361 km. Lưu vực sông Cả có dạng thuôn dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam . Các sông suối phát triển lệch về phía bờ trái. Phần hạ du sông Cả với sự nhập lưu của sông Hiếu và sông Ngàn Sâu (sông La) cùng với sự đổi hướng dòng chảy, độ dốc lưu vực cũng như đáy sông giảm và dãy cồn cát ven biển cao hơn vùng đồng bằng đã làm giảm rất nhiều năng lực tiêu nước ra biển, gây hiện tượng ngập lụt.
Ngoài lưu vực sông Cả, trong tỉnh còn có 6 lưu vực sông nhỏ chủ yếu diện tích hứng nước dưới 500 km2. Những con sông này đổ trực tiếp ra biển vì vậy trong những tháng mùa kiệt, nguồn nước của các sông này thường bị mặn xâm nhập.
Bảng 1.2: Các sông chính ở Nghệ An
TT
Tên sông
Chiều dài sông qua tỉnh (km)
Diện tích hứng nước km2
1
Hoàng Mai
35,5
363
2
Khê Dua
32
234
3
Độ Ông
21
114
4
Dừa
27
140
5
Bùng
48
753
6
Cửa Lò
52
400
7
Cả
361
17730
Nguồn: [2]
Mùa lũ: Ba tháng có dòng chảy lớn nhất là từ tháng 8 đến tháng 10. Do địa hình thấp, trũng và sự chuyển hướng dòng chảy ở đoạn cuối sông Cả ra biển nên lũ trên sông Cả thường xuyên gây ngập lụt cho khu vực đồng bằng hạ du.
Mùa kiệt: Ba tháng có dòng chảy nhỏ nhất rơi vào tháng 2 – 4. Có thể thấy rằng trên sông Cả dòng chảy mùa kiệt rất nhỏ, do tỷ lệ nước dưới đất tầng nông so với dòng chảy toàn phần thấp (30%) và lượng mưa trong mùa kiệt ở đây cũng rất nhỏ.
Như vậy, lượng dòng chảy trong tỉnh Nghệ An không lớn và có sự phân mùa dòng chảy rất sâu sắc. Hàng năm lượng nước lớn nhất và nhỏ nhất thường gấp tới hàng ngàn lần - đây là nguyên nhân tiềm ẩn của các tai biến môi trường.
1.2.1.3. Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản khá đa dạng, từ khoáng sản quý hiếm (vàng, đá quý), đến các loại khoáng sản kim loại, vật liệu xây dựng, và lượng nhỏ khoáng sản nhiên liệu, phân bón. Tuy vậy, hiện tại mới chỉ có một số ít loại hình khoáng sản có giá trị khai thác lớn trong phạm vi vùng và cả nước gồm: thiếc, đá trắng, đá xây dựng.
1.2.1.4. Đặc điểm tài nguyên sinh vật
a. Đa dạng hệ thực vật
Dựa vào các kết quả điều tra khảo sát của các nhà nghiên cứu thực vật bước đầu đã thống kê được 2608 loài, 211 họ thực vật bậc cao có mạch. Nếu điều tra chi tiết chắc chắn số lượng loài sẽ còn cao nhiều hơn. Hệ thực vật tỉnh Nghệ An có mối quan hệ gần gũi với 20 yếu tố địa lý thực vật, trong đó yếu tố nhiệt đới đóng vai trò chủ đạo. [15]
Dựa trên các tài liệu đã công bố về giá trị sử dụng các loài cây, luận văn đã thống kê được 2.270 loài cây có ích, chiếm 88,5% tổng số loài. Nghệ An bước đầu đã thống kê được 81 loài quí hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam năm 1996 được trình bày trong phụ lục 2. Trong số 81 loài quý hiếm có 1 loài đang nguy cấp, 23 loài sẽ nguy cấp, 25 loài hiếm, 18 loài bị đe dọa, 14 loài biết không chính xác.
Các loài nêu trên phần lớn là những cây có giá trị kinh tế nên bị khai thác quá mức làm cho trữ lượng của chúng còn rất ít và một số loài cho đến nay chưa có giá trị kinh tế nhưng do số lượng cá thể còn quá ít (nguồn gen hiếm) nên cũng được đưa vào sách đỏ. Các loài cây quí hiếm hiện chỉ còn ở các khu bảo tồn thiên nhiên như: Pù Hoạt, Pù Huống, Vườn quốc gia Pù Mát.
b. Thảm thực vật
Cấu trúc và thành phần loài các loại thảm thực vật tự nhiên có sự khác nhau khá rõ rệt theo đai cao.
- Thảm thực vật tự nhiên đai cao trên 800 m: cấu trúc các loại rừng này thường từ 4 – 5 tầng, trong đó gồm tầng cây gỗ, cây bụi và cây cỏ.
- Thảm thực vật tự nhiên ở đai cao dưới 800 m: cấu trúc các loại rừng này thườn từ 3 – 4 tầng.
- Thảm thực vật nhân tác: Các loài cây trồng chủ yếu gồm: Cây trồng hàng năm (Lúa, Ngô, Khoai, Sắn, Đậu các loại, Rau các loại); Cây trồng lâu năm (Chè, Cà phê, Các loài cây ăn quả); Rừng trồng (Mít, Bồ đề, Mỡ, Keo lá tràm, Keo tai tượng, Thông nhựa, v.v.)
c. Đa dạng hệ động vật
Hệ động vật tỉnh Nghệ An thống kê được 490 loài động vật có xương sống trên cạn và lưỡng cư, bao gồm 124 loài thú, 293 loài chim, 50 loài bò sát và 23 loài ếch nhái.
Trong tổng số loài động vật đã thống kê được có tới 95 loài quý hiếm được ghi trong Sách đỏ Việt Nam, IUCN, NDD 48/CP. Trong đó có 41 loài thú thuộc diện quý hiếm được ghi trong Sách Đỏ Việt Nam, 38 loài được ghi trong Sách đỏ IUCN và 18 loài có trong Nghị định 48/NĐ-CP. Chim có 15 loài được ghi trong Sách đỏ Việt Nam, 10 loài trong Sách đỏ IUCN, 2 loài trong Nghị định 48/CP-NĐ. Bò sát, ếch nhái có 18 loài được ghi trong Sách Đỏ, 2 loài trong Sách đỏ IUCN và 9 loài có trong Nghị định 48/2002/NĐ-CP. Danh sách các loài động vật quý hiếm được thể hiện ở phụ lục 3.
d. Vườn quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên
Tỉnh Nghệ An theo công bố của IUCN có 1 vườn quốc gia và 2 khu bảo tồn thiên nhiên đó là: Vườn quốc gia Pù Mát; Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống; Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt. Với tổng diện tích 301.222 ha chiếm 18% diện tích toàn tỉnh. Như vậy, tỷ lệ các khu bảo tồn là khá cao.
1.2.2. Hiện trạng các thành phần môi trường tự nhiên
1.2.2.1. Hiện trạng môi trường không khí
Nguồn số liệu chính được sử dụng để đánh giá hiện trạng môi trường không khí là số liệu quan trắc chất lượng môi trường không khí của Trung tâm Quan trắc và Kỹ thuật môi trường Nghệ An vào 4 đợt tháng 3, tháng 6, tháng 9 và tháng 11 năm 2006. Giá trị trong bảng số liệu được lấy trung bình của 4 đợt quan trắc. Riêng đối với số liệu nồng độ bụi, chỉ được đo vào đợt 3 (tháng 9/2006).
Bảng 1.3: Kết quả quan trắc chất lượng môi trường không khí tỉnh Nghệ An năm 2006
TT
Khu vực
SO2
Mg/m3
So với TCCP
CO
Mg/m3
So với TCCP
NO2
Mg/m3
So với TCCP
Bụi
mg/m3
So với TCCP
1
Cổng văn phòng CTXM Hoàng Mai – Quỳnh Lưu
0,22
0,4
3,4
0,08
0,15
0,4
0,25
0,8
2
Cổng NMXM Anh Sơn
0,23
0,5
3,02
0,08
0,19
0,5
0,22
0,7
3
Khu du lịch Kim Liên – Nam Đàn
0,11
0,2
1,27
0,03
0,14
0,3
0,14
0,5
4
Khu CN Bắc Vinh, TP Vinh
0,28
0,6
4,09
0,10
0,26
0,7
0,16
0,5
5
Ngã tư chợ Vinh
0,37
0,7
5,05
0,13
0,3
0,7
0,33
1,1
6
Sau NMXM Cầu Đước, TP Vinh
0,26
0,5
4,05
0,10
0,25
0,6
0,23
0,8
Nguồn: Trung tâm Quan trắc và Kỹ thuật môi trường Nghệ An
a. Môi trường không khí khu dân cư
Những khu vực dân cư nằm ở xung quanh đường giao thông, nhất là tại các nút giao thông hầu như đều bị ô nhiễm bụi. Nồng độ bụi thường vượt tiêu chuẩn cho phép (TCCP) khoảng 1,1 lần. Nồng độ các loại khí độc (NO2, SO2) cao hơn so với các khu vực khác, đều xấp xỉ TCCP. Các khu vực xung quanh nhà máy xi măng, nồng độ đạt 0,22-0,25mg/m3, xấp xỉ TCCP.
Ở các khu vực nông thôn xa trung tâm thành phố, thị trấn, thị tứ môi trường không khí hầu như chưa bị ô nhiễm bởi các khí độc mà chủ yếu bị ô nhiễm vì bụi do hoạt động giao thông vận tải và các hoạt động khai thác đá, sản xuất vật liệu xây dựng trên địa bàn.
b. Môi trường không khí khu công nghiệp, cụm công nghiệp
Theo báo cáo Hiện trạng môi trường đô thị, công nghiệp và làng nghề của tỉnh Nghệ An, hiện nay toàn tỉnh có 4 khu công nghiệp tập trung đi vào hoạt động: Bắc Vinh, Nam Cấm, Hoàng Mai, Cửa Lò; nhiều khu tiểu thủ công nghiệp: Diễn Hồng, Đông Vĩnh, Nghi Phú, Châu Quang...và có trên 32.000 cơ sở sản xuất nằm trong KCN, TTCN hoặc độc lập. Các cơ sở sản xuất chủ yếu tập trung ở thành phố Vinh và các vùng phụ cận. Nồng độ các chất ô nhiễm không khí tại một số KCN, CSSX năm 2005 được thể hiện trong phụ lục 1a.
Báo cáo của Trung tâm quan trắc và Kỹ thuật Môi trường Nghệ An cho thấy:
Tại các đơn vị sản xuất vật liệu xây dựng nồng độ bụi vượt TCCP 2-4 lần.
Tại các đơn vị sản xuất giấy: giấy sông Lam, xưởng chế biến bột giấy Con Cuông khí thải lò hơi không đạt tiêu chuẩn, gây ô nhiễm môi trường.
Tại nhà máy thuộc da Vinh: nhà máy không xử lý chất thải, nhất là chất thải rắn nên môi trường không khí bị ô nhiễm nặng ở khu vực chứa chất thải do sự phân huỷ chất hữu cơ.
Tại các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm sự phân huỷ chất hữu cơ từ chất thải tạo ra các khí H2S, NH3. Đối với các làng nghề sản xuất gạch ngói (huyện Tân Kỳ) có nồng độ các khí độc và bụi vượt TCCP 1,3-3 lần. Ngoài ra các làng nghề sản xuất chiếu cói, mộc, chổi đót... cũng có dấu hiệu ô nhiễm về bụi.
c. Môi trường không khí trên các trục đường và nút giao thông
Ô nhiễm do hoạt động giao thông vận tải gây ra thường là dạng ô nhiễm cục bộ, nồng độ chất ô nhiễm phụ thuộc rất nhiều vào lưu lượng dòng xe tại thời điểm đo. Ô nhiễm chủ yếu là bụi. Theo báo cáo của Trung tâm quan trắc và Kỹ thuật môi trường, nồng độ bụi trên các tuyến đường chính ở Nghệ An (đường Mai Hắc Đế qua KCN Bắc Vinh, quốc lộ 1A đoạn quan KCN Nam Cấm) nồng độ bụi có thể vượt TCCP 1,03-1,13 lần.
d. Hiện trạng tiếng ồn giao thông và công nghiệp
Ô nhiễm tiếng ồn xảy ra do hoạt động của các cơ sở sản xuất như: gia công cơ khí, sản xuất xi măng, khai thác vật liệu xây dựng... và trên các trục đường giao thông vào những giờ cao điểm. Do đó, ô nhiễm tiếng ồn chủ yếu xảy ra đối với các khu vực dân cư đô thị trong các thành phố lớn và các khu dân cư tập trung gần tuyến đường giao thông. Còn ở các vùng nông thôn không bị ô nhiễm bởi tiếng ồn.
Trên các tuyến đường giao thông, tuỳ thuộc vào từng thời điểm tiếng ồn có những xung dao động rất lớn, có khi trên 90 dB, đây là ngưỡng gây cảm giác khó chịu cho con người. Cường độ tiếng ồn tại một số khu vực công nghiệp và tuyến đường giao thông được thể hiện trong phụ luc 1b.
1.2.2.2. Hiện trạng môi trường nước mặt
1. Chất lượng nước
a. Độ nhiễm mặn nước sông
Vùng biển tỉnh Nghệ An mang tính chất nhật triều không đều với biên độ triều đạt 1,2-2,5 m. Độ mặn nước biển theo sóng triều xâm nhập sâu vào trong sông với chiều sâu tới trên 20 km , tới vùng chân đồi.
b. Chất lượng nước sông không ảnh hưởng triều
Độ khoáng hoá nước sông tỉnh Nghệ An nhỏ hơn 200 mg/l. Địa hình đồi núi chiếm tỷ trọng cao trong tỉnh nên khả năng xói mòn bề mặt của lưu vực cao, vì vậy nước sông có hàm lượng chất lơ lửng lớn, tính trung bình thường đạt tới trên 100 mg/l.
Nước sông suối trong tỉnh Nghệ An có phản ứng trung tính ngả sang kiềm yếu với độ pH=7,2, trong các tháng mùa lũ khi nước thượng nguồn về lớn nên nước gần với phản ứng trung tính (pH<7,2) còn đối với mùa kiệt, nguồn cấp nước cho sông chủ yếu là nước ngầm nên độ pH tăng hơn đạt tới 7,3-7,5.
Hàm lượng các chất dinh dưỡng có mặt trong nước sông suối tỉnh Nghệ An thường thấp, với NO3- có giá trị dưới 0,5mg/l, NO2- có giá trị dưới 0,01mg/l và NH4+ dưới 0,2 mg/l. Hàm lượng PO4-3 cũng đạt giá trị tương tự như nước trong điều kiện tự nhiên. Tuy nhiên hàm lượng ion sắt có mặt trong nước khá cao. Theo các tài liệu quan trắc cho thấy hàm lượng ion sắt đạt tới 2,88mg/l, trung bình cũng đạt tới 1mg/l. Trong mùa lũ khi lượng nước mặt lớn hàm lượng ion sắt giảm nhỏ chỉ đạt trung bình dưới 0,2 mg/l còn mùa kiệt nước sông được cung cấp bởi nước từ các tầng đất đá nên hàm lượng sắt cao hơn hẳn (vượt trên 1 mg/l).
Hàm lượng các chất hữu cơ có mặt trong nước sông suối trong tỉnh nhìn chung rất thấp. Theo các số liệu quan trắc của trạm Dừa trên sông Cả cho thấy độ oxy hóa nước sông (L) có giá trị 1,69 mg/l - thuộc vào loại nước rất nghèo chất hữu cơ. Tuy nhiên đến thời kỳ 2000-2005, nước sông Cả có hàm lượng các chất hữu cơ tăng cao hơn và được xếp vào loại trung bình với BOD5 dao động từ (3-30)mg/l và COD dao động từ (5-70) mg/l.
Đối với các ion vi lượng, nước sông suối tỉnh Nghệ An chưa có biểu hiện bị ô nhiễm. Với hàng loạt các ion vi lượng như Cu+2, Hg+2, Pb+2, Al+3, Mn+2, As+3, CN... đều có giá trị nằm trong giới hạn cho phép của nước dùng cho cấp nước sinh hoạt. Chất lượng nước sông suối tỉnh Nghệ An được thể hiện trong phụ lục 1c.
1.2.2.3. Lũ lụt, hạn hán
Nằm trong khu vực có chế độ khí hậu khắc nghiệt, tỉnh Nghệ An hầu như năm nào cũng xuất hiện các thiên tai liên quan đến dòng chảy. Thiệt hại do lũ lụt gây ra trong mùa mưa ngày càng nghiêm trọng, liên quan đến dòng chảy làm xuất hiện các tai biến tự nhiên, như lũ lớn, ngập lụt, úng, hạn hán ...
1.2.2.4. Hiện trạng môi trường nước dưới đất
Trên cơ sở kết quả phân tích mẫu nước dưới đất của các năm 2005, 2006 trong tỉnh Nghệ An và các kết quả nghiên cứu trước đấy có thể thấy được hiện trạng môi trường nước dưới đất của Tỉnh như sau:
1. Hiện trạng môi trường nước dưới đất vùng đô thị trọng điểm
a. Thành phố Vinh
Kết quả phân tích mẫu từ trước đến nay và tài liệu quan trắc nước dưới đất các năm gần đây của thành phố Vinh cho thấy:
Tổng sắt: Phía Tây thành phố Vinh có hàm lượng sắt khá cao (khu vực nhà máy xi măng Cầu Đước), có thể lên tới 30,95- 39,92 mg/l. TCCP cho ăn uống trực tiếp là <0,3mg/l và tiêu chuẩn nguồn nước cấp (TCVN 5944) là 1-5mg/l, nên ở khu vực này nước dưới đất không sử dụng được vào ăn uống mà chỉ dùng để tắm, rửa.
Mangan: Đa số các mẫu nước có hàm lượng sắt cao đều kéo theo hàm lượng mangan cũng cao, hàm lượng mangan cao nhất đạt 1,672 mg/l vượt TCCP.
Kết quả quan trắc nước dưới đất ở thành phố Vinh của Sở Tài Nguyên và môi trường tỉnh Nghệ An (năm 2004-2006) cũng cho thấy nước dưới đất ở thành phố Vinh có hàm lượng sắt và mangan vượt TCCP.
Nitrit (NO2-): Một số mẫu hàm lượng Nitrit khá cao, mẫu cao nhất đạt 26,47 mg/l, trong khi đó theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với nước ăn uống và sinh hoạt, hàm lượng NO2-= 0.
Hầu hết các giếng đào ở khu vực thành phố Vinh đều bị nhiễm bẩn bởi chỉ tiêu vi sinh, có những mẫu nước có hàm lượng Coliform vượt TCCP 800 lần.
Ngoài ra một số khu vực của thành phố Vinh bị ô nhiễm Thuỷ ngân nhẹ (mẫu nước giếng khoan ở gần sát kênh Hồng Bàng).
b. Các vùng đô thị khác
Các vùng ven biển: TX Cửa Lò, Diễn Châu, Hoàng Mai vv... nơi có địa hình thấp, nước dưới đất đã bị nhiễm mặn. Nhìn chung chất lượng môi trường nước dưới đất ở các khu vực này còn khá tốt, tuy nhiên ở các vùng khác nhau chúng có những chỉ tiêu ô nhiễm khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là: ô nhiễm bởi các hợp chất Nitơ và chỉ tiêu vi sinh (hàm lượng NO3- trong mẫu nước ở TT Con Cuông đạt 46,0 mg/l).
2. Hiện trạng môi trường nước dưới đất tại khu vực khai thác thiếc
Mẫu nước dưới đất được lấy tại giếng đào ngay trong khu vực sản xuất thiếc của Công ty TNHH Chính Nghĩa, Nghĩa Xuân, Minh Hợp, Quỳ Hợp. Kết quả phân tích cho thấy: pH thấp hơp TCCP, đạt 6,22. Hàm lượng Mn cao hơn TCCP (đạt 0,626 mg/l), đặc biệt là hàm lượng thuỷ ngân trong nước khá cao, đạt 0,00260 mg/l gấp hơn 2 lần TCCP.
3. Hiện trạng nhiễm mặn nước dưới đất
Vùng Đồng bằng Quỳnh Lưu - Diễn Châu: Độ tổng khoáng hoá biến đổi từ 0,05 g/l đến 2,88 g/l; Vùng đồng bằng sông Cả (phân bố chủ yếu ở Nghi Lộc, vùng Vinh - Cửa Lò và ven theo các thung lũng sông Cả): có độ tổng khoáng hoá nhỏ hơn so với 2 đồng bằng trên, độ tổng khoáng hoá nhỏ nhất đạt 0,06 g/l và cao nhất đạt 0,94 g/l.
1.2.2.5. Hiện trạng môi trường đất
1. Ô nhiễm môi trường đất do các hoạt động sản xuất và đời sống
Do sử dụng phân bón: ở Nghệ An, lượng phân bón sử dụng trong sản xuất nông nghiệp những năm gần đây không có sự biến động lớn, năm 2002 khoảng 45.000 tấn, năm 2003 khoảng 45.000 tấn, năm 2004 tăng lên khoảng 55.000 tấn [2]. Theo báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia (2005) [23], ở nước ta lượng phân bón tồn dư trong đất chiếm trung bình khoảng 60% lượng phân được bón. Theo cách tính toán trên thì ở Nghệ An dư lượng phân bón hóa học trong đất hàng năm như sau:
Bảng 1.4: Lượng phân bón hoá học được sử dụng ở tỉnh Nghệ An
Năm
Diện tích đất trồng cây hàng năm (ha)
Lượng phân bón sử dụng (tấn)
Lượng phân bón tồn dư (tấn)
2002
-
45.000
27.000
2003
-
45.000
27.000
2004
-
55.000
33.000
2005
193.524
55.000
33.000
Qua bảng 1.4 có thể nhận thấy, lượng phân bón tồn dư ở tỉnh Nghệ An là rất lớn, khoảng 33.000 tấn, tương đương với 170kg/ha. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho đất ô nhiễm.
Do sử dụng hoá chất bảo vệ thực vật: ở Nghệ An, diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 249.626,87 ha (2005). Theo số liệu của Báo cáo Hiện trạng môi trường Nghệ An năm 2005 thì lượng hoá chất bảo vệ thực vật (HCBVTV) được sử dụng vào khoảng 150 tấn. Theo cách tính như đã nêu trong báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia năm 2005, lượng tồn dư có khoảng 75 tấn, tương đương khoảng 0,03 kg/ha. Ngoài lượng tồn dư HCBVTV trong đất khi sử dụng gây ô nhiễm đất, một nguyên nhân khác là do bảo quản HCBVTV không đúng qui trình nên đã gây ô nhiễm môi trường, gây ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của người dân (tồn dư của 2 kho thuốc bảo vệ thực vật là Kho Dùng ở huyện Thanh Chương và kho Kim Liên ở huyện Nam Đàn đã gây ô nhiễm đất, nước và sức khoẻ của người dân trong khu vực). Bên cạnh đó, việc kinh doanh HCBVTV còn chưa được kiểm soát đầy đủ. Thuốc quá hạn sử dụng, thuốc giả vẫn còn được lưu hành. Hiện tượng bao bì đựng thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu, diệt cỏ không được thu gom xử lý mà vứt bừa bãi trên đồng ruộng gây ảnh hưởng môi trường đất nước vùng nông nghiệp.
Do hoạt động khai khoáng: Khu vực Tây Nghệ An là nơi tập trung nhiều mỏ khoáng sản như thiếc, đá quí, vàng, đá vôi…với trữ lượng lớn và diện phân bố rộng. Tại khu khai thác và chế biến thiếc Quỳ Hợp: Kết quả phân tích cho thấy chủ yếu là bị ô nhiễm kim loại nặng như As, Cu, Zn, Cd, có nơi cách nguồn thải khu khai thác thiếc khoảng 20km hàm lượng kim loại nặng cao hơn hẳn so với các mẫu còn lại và vượt TCCP tới hàng chục lần như (hàm lượng As vượt TCCP 100 lần). Đây là một điểm nóng môi trường cần phải quan tâm nghiên cứu; ở khu khai thác đá xây dựng Hoàng Mai và các khu khai thác đá khác như Diễn Châu, Cửa Lò, Quỳ Hợp, Con Cuông ... Quá trình khai thác đá ở khu vực này đã gây ô nhiễm môi trường, trong đó môi trường đất ở đây bị khói bụi và đá nhỏ vương vãi làm cho đất chai cứng, mất khả năng canh tác.
Do hoạt động công nghiệp chế biến: Địa phận thị trấn Thái Hoà, huyện Nghĩa Đàn, kết quả phân tích các mẫu đất cho thấy: trong vòng bán kính 100m đã bị ô nhiễm Zn, do người dân ở đây đã dùng nguồn nước thải của nhà máy tưới cho đất nông nghiệp; Địa phận nhà máy mía đường thị trấn Tân Kỳ, huyện Tân Kỳ, kết quả phân tích cho thấy: Hàm lượng các kim loại nặng như: Hg, Zn, Cr, Pb, Cd đều nằm trong TCCP. Hàm lượng As trong các mẫu NA19a, NA19b, NA20a từ 13,08 đến 15,4 vượt TCCP từ 1,2 đến 1,3 lần và gây ô nhiễm nhẹ tới môi trường đất.
Do chất thải sinh hoạt: Nhiễm bẩn đất vùng ven bờ biển tỉnh Nghệ An tập trung ở một số khu vực đô thị và ở những vùng cửa sông tập trung thuyền bè, bến cá. Ở vùng nông thôn miền núi, ô nhiễm chất thải sinh hoạt không lớn. Tuy nhiên, vẫn có những điểm tập trung rác không được xử lý đã gây ô nhiễm cục bộ. Ví dụ, tại khu vực thị trấn Quỳ Châu, bãi rác nằm dưới chân núi đá vôi, rộng vài trăm m2 gây mùi hôi thối, có nhiều ruồi nhặng. Rác được xử lý bằng cách đốt thành tro. Kết quả phân tích cho thấy: khu vực bãi thải đã bị ô nhiễm đất do kim loại nặng.
2. Thoái hoá môi trường đất do các quá trình tự nhiên
Ảnh hưởng do quá trình nhiễm mặn:
Theo kết quả phân tích 11 mẫu đất theo các chỉ tiêu hiện hành của Sở Khoa học và Công nghệ trên đất nông nghiệp vùng cửa sông của các xã thuộc các huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành, Nghi Lộc cho thấy: một phần đất nông nghiệp các xã vùng ven biển và các cửa sông đã bị nhiễm mặn. Độ mặn có chiều hướng giảm dần từ Quỳnh Lưu đến Nghi Lộc.
Ảnh hưởng môi trường đất do rửa trôi, thoái hoá, giảm độ phì của đất:
Đất xói mòn trơ sỏi đá vùng ven biển tỉnh Nghệ An có diện tích khoảng 5.159ha và được phân bố chủ yếu ở vùng Bắc Quỳnh Lưu. Đất bị xói mòn rửa trôi mất lớp đất tầng mặt nên hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất này thường nghèo, do đó khả năng canh tác trên loại đất này là không thể.
Hiện tượng cát bay, cát chảy:
Cát bay và cát chảy là hiện tượng phổ biến, 40% số xã có hiện tượng cát bay, cát chảy. Trong đó phần lớn là ở các xã bãi ngang thuộc Nghi Lộc, Cửa Lò. Tại một số xã sau mỗi đợt gió bão, tình trạng cát bay vào sâu nội đồng hàng chục mét vùi lấp hoa màu và khu vực dân cư.
Nhiều đợt mưa lớn, tập trung, tạo ra dòng chảy lớn, các hạt cát theo các dòng chảy này vùi lấp, lắng đọng làm mất tầng mặt của nhiều diện tích đất canh tác.
1.2.2.6. Hiện trạng chất thải rắn
1. Hiện trạng chất thải rắn
Trong những năm gần đây, quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá ở Nghệ An đang phát triển mạnh và liên quan đến chúng là vấn đề chất thải. Lượng thải ngày càng tăng, trong đó có chất thải nguy hại đang là một vấn đề môi trường cấp bách của tỉnh.
Các nguồn chất thải rắn (CTR) chủ yếu bao gồm: CTR sinh hoạt, CTR công nghiệp và CTR y tế.
Bảng 1.5: Lượng chất thải rắn phát sinh tỉnh Nghệ An năm 2005
TT
Các loại chất thải rắn
Tổng (tấn/năm)
Tỷ lệ (%)
1
Chất thải sinh hoạt
501.705
83,1
2
Chất thải công nghiệp
100.341
16,6
3
Chất thải y tế
1.771
0,3
4
Chất thải nguy hại
41.583
Tổng cộng lượng chất thải rắn
603.817
100
Nguồn: Cục thống kê tỉnh Nghệ An
2. Hiện trạng thu gom, quản lý chất thải rắn
Hoạt động thu gom, xử lý rác thải tập trung chủ yếu tại khu vực đô thị huyện đồng bằng và thị xã của tỉnh. Năng lực thu gom và xử lý rác chỉ đạt 85% ở thành phố Vinh, 75% ở thị xã Cửa Lò, lượng rác còn lại vẫn bị vứt bừa bãi, tuỳ tiện gây mất vệ sinh và ô nhiễm môi trường sống. Tại các vùng nông thôn hầu hết đều chưa có tổ chức thu gom và xử lý rác thải đúng nơi quy định.
Theo báo cáo hiện trạng môi trường, CTR công nghiệp tại thành phố Vinh có tỷ lệ thu gom là 95%, và ở một số huyện thị trong tỉnh (Tân Kỳ, Quỳ Hợp, Thanh Chương) tỷ lệ thu gom được khoảng 40-50%. CTR nguy hại công nghiệp được xử lý bằng phương pháp chôn lấp vĩnh viễn nhưng hiện nay tỉnh Nghệ An vẫn chưa quản lý được loại chất thải này, đặc biệt là loại chất thải kim loại nặng có thể tích tụ trong môi trường đất và nước nhiều năm gây ra các bệnh hiểm nghèo cho con người. Về CTR bệnh viện: Theo báo cáo của Sở Tài nguyên và Môi trường rác thải nguy hại bệnh viện mới chỉ được thu gom 90% ở TP Vinh và đốt tại lò đốt của bệnh Viện Đa khoa Nghệ An với công suất 400-500kg/ngày, còn lại tại các trung tâm y tế tuyến huyện, xã loại rác thải này được thải lẫn vào trong rác thải sinh hoạt và vẫn chưa được thu gom, phân loại và xử lý.
1.2.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.2.3.1. Điều kiện về kinh tế
1. Ngành Nông - Lâm - Thuỷ sản
Giá trị sản xuất ngành Nông - Lâm - Thuỷ sản đạt mức tăng trưởng bình quân 5,52% trong giai đoạn 1996 -2005.
2. Công nghiệp: Giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp - xây dựng tăng bình quân 24% giai đoạn 2001-2005. Riêng giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng trưởng với tốc độ 24,7%.
Phát triển tiểu thủ công nghiệp và làng nghề: Đến nay tỉnh đã xây dựng được 110 làng nghề, trong đó có 45 làng nghề được công nhận đạt tiêu chuẩn làng nghề của tỉnh Nghệ An.
Phát triển các khu công nghiệp: Tính đến cuối năm 2005 tỉnh đã triển khai xây dựng và có các dự án đầu tư ở 02 Khu công nghiệp (KCN) Bắc Vinh và Nam Cấm. Ngoài các khu công nghiệp còn có 08 cụm công nghiệp nhỏ đang được triển khai ở các huyện trong tỉnh với tổng diện tích 113,3 ha.
3. Ngành dịch vụ
Nhìn chung khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng khá, giai đoạn 2001-2005 là 8,95%. Những lợi thế phát triển của ngành dịch vụ (nhất là du lịch) vẫn chưa được khai thác hiệu quả.
1.2.3.2. Điều kiện về xã hội
1. Dân số, dân tộc
Năm 2005, dân số Nghệ An là 3.030.946 người, bao gồm 6 dân tộc cùng sinh sống: người Kinh (86,25%); người Thái (9,59%), người Khơ Mú (1,07%) và còn lại là các dân tộc Mông, Thổ, ơ Đu; Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh là 184 người/km2. Tỷ lệ tăng dân số trung bình giai đoạn 2001-2005 là 1,1%. Tỷ lệ tăng tự nhiên năm 2005 là 1,15%. Dân số thành thị chiếm 10,7%. Dân số hoạt động nông nghiệp chiếm 75,4%.
2. Lao động, việc làm
Tính đến tháng 7/2005, dân số trong độ tuổi lao động của Nghệ An là 1.782 nghìn người, chiếm 58,8% dân số toàn tỉnh. Tổng số lao động làm việc trong các ngành kinh tế của tỉnh là 1.548 nghìn người (chiếm 99,2% lực lượng lao động). Trong đó lao động khu vực nông thôn chiếm 86,11%, cao hơn so với mức bình quân cả nước (79,8%).
Một số chỉ tiêu kinh tế – xã hội tỉnh Nghệ An được thể hiện trong phụ lục 1d.
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng tập trung nghiên cứu là Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế –xã hội tỉnh Nghệ An giai đoạn 2006 – 2010, tầm nhìn 2020.
2.1.1. Xuất xứ của quy hoạch
Năm 1995-1996 Nghệ An đã xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội (QHTTPTKTXH) thời kỳ 1996-2010 và đã được Uỷ ban Nhân dân (UBND) tỉnh phê duyệt theo Quyết định số 19/QĐ-UB, ngày 3/01/1996.
Thực hiện chỉ thị số 32/1998/CT-TTg ngày 23/09/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc rà soát và điều chỉnh bổ sung QHTTPTKTXH các địa phương đến năm 2010, Nghệ An đã điều chỉnh, bổ sung và xây dựng QHTTPTKTXH thời kỳ 2001-2010. Bản Quy hoạch này đã được UBND tỉnh phê duyệt theo Quyết định số 104/QĐ-UB ngày 19/11/2002.
Theo tinh thần của chỉ thị 32/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh Nghệ An đã ra quyết định số 221/QĐ-UBND ngày 17/01/2006 về việc xây dựng dự án "QHTTPTKTXH tỉnh Nghệ An đến năm 2020". QHTTPTKTXH tỉnh Nghệ An đến năm 2020 đến nay đã được Hội đồng Nhân dân (HĐND) tỉnh khoá XV thông qua tại kỳ họp thứ 8.
2.1.2. Mục tiêu quy hoạch
Phấn đấu đưa Nghệ An thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo và kém phát triển vào năm 2010; cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020; quyết tâm đưa Nghệ An sớm trở thành một trong những tỉnh khá của cả nước.
Xây dựng Nghệ An trở thành một trung tâm công nghiệp, du lịch, thương mại, giáo dục, y tế, văn hoá của vùng Bắc Trung Bộ; có hệ thống kết cấu hạ tầng tương đối hiện đại và đồng bộ; có nền văn hóa lành mạnh và đậm đà bản sắc xứ Nghệ; có nền quốc phòng - an ninh vững mạnh; đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân không ngừng được nâng cao…
2.1.3. Thời gian thực hiện quy hoạch
* Giai đoạn 2006-2010
- Tập trung hoàn thành các chương trình, dự án lớn đã được Đảng bộ tỉnh thông qua.
Tiến hành xây dựng quy hoạch phát triển các ngành, quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội các huyện, thành phố, thị xã.
* Giai đoạn 2011-2015
Khai thác với hiệu quả cao các dự án phát triển công nghiệp, du lịch, dịch vụ, nông nghiệp... đã đầu tư trong giai đoạn 5 năm trước và tiếp tục đầu tư những dự án mới theo các hướng ưu tiên và các khâu đột phá đã xác định.
Rà soát, điều chỉnh nội dung quy hoạch cho phù hợp với bối cảnh và yêu cầu phát triển thực tế.
* Giai đoạn 2016-2020
Tiếp tục hoàn thành những nội dung còn lại của quy hoạch.
Tổng kết, đánh giá, điều chỉnh quy hoạch tuỳ theo yêu cầu phát triển trong giai đoạn này.
2.1.4. Về các hoạt động
1. Phát triển các lĩnh vực và ngành kinh tế- xã hội
Phát triển các phân ngành công nghiệp
Xây dựng khu kinh tế, các KCN, cụm CN- TTCN và làng nghề
Phát triển các phân ngành dịch vụ: Du lịch, thương mại và các phân nghành khác.
Phát triển các phân ngành nông - lâm - thuỷ sản: Phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản và diêm nghiệp.
Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng: Giao thông; Hệ thống phân phối điện; Cấp nước sạch, thoát nước; Hệ thống thuỷ lợi.
Bảo vệ môi trường và phòng chống, giảm nhẹ thiên tai
2. Định hướng sử dụng đất
Định hướng sử dụng đất cho phát triển nông nghiệp tỉnh Nghệ An đến năm 2010, tầm nhìn 2020.
Định hướng quy hoạch sử dụng đất phi nông nghiệp tỉnh Nghệ An đến năm 2010, tầm nhìn 2020: Định hướng quy hoạch đất ở, đất chuyên dùng, đất chưa sử dụng.
3. Phương hướng tổ chức không gian phát triển kinh tế-xã hội
Phát triển đô thị
Phát triển nông thôn và nông nghiệp
2.2. Các phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp đánh giá môi trường chiến lược của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Xuất xứ dự án; căn cứ pháp luật và kỹ thuật của việc thực hiện đánh giá môi trường chiến lược; tổ chức thực hiện ĐMC.
Khái quát được mục tiêu, quy mô, đặc điểm của dự án có liên quan đến môi trường.
Mô tả tổng quát các điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội, môi trường có liên quan đến dự án.
Dự báo tác động xấu đối với môi trường có thể xảy ra khi thực hiện dự án.
Chỉ dẫn nguồn cung cấp số liệu, dữ liệu và phương pháp đánh giá
Đề ra phương hướng, giải pháp tổng thể giải quyết các vấn đề môi trường trong quá trình thực hiện dự án.
Kết luận và kiến nghị.
2.2.2. Phương pháp thống kê
Thống kê các số liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và môi trường của khu vực (vùng, tỉnh...) thực hiện dự án trên cơ sở các tài liệu, số liệu được thu thập từ các nguồn khác nhau, đặc biệt là các số liệu thứ cấp từ các công trình nghiên cứu có liên quan. Các số liệu sau khi được thu thập và cập nhật đã được xử lý đồng bộ theo chuỗi thời gian và không gian. Các số liệu thống kê được trình bày dưới dạng bảng biểu, biểu đồ hoặc đồ thị.
2.2.3. Phương pháp phân tích, so sánh
Đây là một phương pháp quan trọng trong quá trình nghiên cứu để đánh giá tác động môi trường. Bằng cách phân tích, so sánh ta có thể nhận biết được những hoạt động phát triển nào có thể gây ra tác động gì đến các yếu tố môi trường? Mức độ tác động ra sao và khả năng các yếu tố môi trường chịu những tác động tích luỹ của nhiều hoạt động phát triển? Mặt khác, khi đánh giá về chất lượng môi trường cũng cần sử dụng phương pháp so sánh giữa hàm lượng các chất gây ô nhiễm môi trường trong thực tế với các tiêu chuẩn cho phép về môi trường trong quy định của nhà nước.
2.2.4. Phương pháp lập ma trận
Phương pháp ma trận là một phương pháp hết sức quan trọng để đánh giá các tác động và các đối tượng bị tác động.
Ma trận tương tự như các bảng liệt kê, trong đó thông tin được sắp xếp theo loại bảng. Ma trận được sử dụng để ước tính ở mức độ nào đó các hoạt động phát triển đã gây tác động đến một nguồn (yếu tố) nào đó ở dạng trực tiếp, gián tiếp hoặc tích luỹ. Có thể lượng hoá các tác động này bằng ma trận để thấy được bản chất của các yếu tố như thời gian tác động, tần suất và phạm vi tác động và có thể sử dụng ma trận lượng hoá để xếp loại các tác động. Việc thành lập ma trận lượng hoá phải dựa vào ý kiến của các chuyên gia có kinh nghiệm để lượng hoá cho từng tác động môi trường thông qua điểm số tác động. Lượng hoá đánh giá một tác động mang tính chủ quan và vì vậy, điều quan trọng nhất là phải giải thích được tính hợp lý của việc thừa nhận tiêu chí đánh giá bằng điểm.
Trong nghiên cứu ĐMC này, phương pháp ma trận được sử dụng cả ở dạng định tính lẫn dạng lượng hoá nhằm xác định ảnh hưởng của các hoạt động phát triển chính đến các yếu tố môi trường chính bị tác động. Thông qua các ma trận đã xem xét và đánh giá tổng hợp mức độ tác động cũng như bị tác động trong quan hệ giữa các hoạt động phát triển với các yếu tố môi trường, từ đó phân hạng các yếu tố môi trường bị tác động tổng hợp ở các mức độ khác nhau.
2.2.5. Phương pháp chuyên gia
Việc phân tích, đánh giá hiện trạng môi trường và đánh giá tác động của các hoạt động phát triển đến các yếu tố môi trường cụ thể được thực hiện bằng phương pháp chuyên gia, có nghĩa là sử dụng những chuyên gia có kinh nghiệm về lĩnh vực môi trường nào đó, ví dụ: môi trường nước, không khí, đất, sinh vật, kinh tế - xã hội trực tiếp thực hiện đánh giá lĩnh vực môi trường của mình theo những tiêu chí đã được thống nhất đặt ra giữa nhóm chuyên gia. Kết quả đánh giá của từng lĩnh vực môi trường sẽ được trao đổi thảo luận trong nhóm chuyên gia để thống nhất xếp hạng mức độ bị tác động của các yếu tố môi trường do các hoạt động phát triển gây nên.
* Đánh giá mức độ tin cậy của các phương pháp đã sử dụng
Các phương đánh giá trên bao gồm các phương pháp truyền thống và những phương pháp mới được khuyến nghị sử dụng trong đánh giá tác động môi trường. Vì vậy, kết quả đánh giá theo các phương pháp này là phù hợp và đáng tin cậy. Riêng đối với phương pháp đánh giá tổng hợp các tác động đến môi trường bằng ma trận là một phương pháp tuy không mới nhưng lại phụ thuộc vào ý kiến chủ quan và kinh nghiệm của người đánh giá, vì vậy kết quả đánh giá có thể còn phải thảo luận. Mặt khác, chỉ có thể bằng phương pháp ma trận mới có thể phân loại được mức độ tác động của các hoạt động phát triển gây ảnh hưởng đến các yếu tố môi trường và cũng phân loại được các yếu tố môi trường nào bị tác động nhiều nhất do tác động đồng thời của nhiều hoạt động phát triển. Vì vậy, tuy phương pháp đánh giá bằng ma trận còn có những hạn chế nhất định về độ chính xác của kết quả đánh giá, song đó là phương pháp duy nhất có thể sử dụng trong đánh giá tổng hợp một cách định tính các tác động đến môi trường của các hoạt động dự án.
CHƯƠNG 3. DỰ BÁO TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG CÓ THỂ XẢY RA KHI THỰC HIỆN QUY HOẠCH
3.1. Nguồn gây tác động
3.1.1. Các nguồn gây tác động có liên quan đến các loại chất thải
3.1.1.1. Nguồn phát sinh khí thải
Đến năm 2020 ở Nghệ An quá trình đô thị hoá nhanh, các ngành và lĩnh vực phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ngành công nghiệp. Vì vậy, môi trường không khí sẽ bị ảnh hưởng mạnh do khối lượng lớn khí thải sẽ được thải vào môi trường. Các nguồn phát sinh khí thải chính đến năm 2020 sẽ là do hoạt động công nghiệp và giao thông vận tải. Ô nhiễm không khí do sinh hoạt sẽ được giảm bớt do đun nấu của người dân bằng các loại nhiên liệu hoá thạch như: than, dầu... sẽ giảm.
Việc dự báo thải lượng khí thải do các hoạt động công nghiệp, giao thông vận tải là một việc rất khó khăn. Trong phạm vi luận văn chỉ dự báo thải lượng khí thải do hoạt động công nghiệp (đây là nguồn gây ô nhiễm chính) trên diện tích đất công nghiệp được dự kiến quy hoạch đến năm 2010, tầm nhìn 2020.
Bảng 3.1: Quy mô diện tích các khu CN, TTCN đến năm 2020
TT
KCN, tiểu thủ CN
Diện tích (ha)
2005
2010
2020
1
KCN Bắc Vinh
143
143
2
KCN Nam Cấm
245,6
245,6
3
KCN Hoàng Mai
200
354
4
KCN Phủ Quỳ
100
400
5
KCN Anh Sơn
200
6
KCN Đô Lương
250
7
KCN Thanh Chương
250
8
KCN Hưng Tây và Nghi Hoà
400
9
Cụm công nghiệp
490
790
Tổng
416,7
1179,6
3032,6
Nguồn: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An đến năm 2020.
Theo Báo cáo quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An, trong giai đoạn 2006-2010 tiến hành đầu tư xây dựng cơ bản 04 KCN: Bắc Vinh, Nam Cấm, Hoàng Mai, Phủ Quỳ. Sau năm 2010, thành lập thêm một số KCN mới: Hưng Tây (Hưng Nguyên), Nghi Hoa (Nghi Lộc), Đô Lương (chủ lực là xi măng) và Anh Sơn (gắn với đường Hồ Chí Minh), Thanh Chương (gắn với tuyến QL46 và đường Hồ Chí Minh) với chủ lực là chế biến nông, lâm sản, sản xuất vật liệu xây dựng.
Giai đoạn 2006-2010 xây dựng cơ sở hạ tầng cho 23 cụm công nghiệp với tổng diện tích 490 ha. Giai đoạn sau 2010 đầu tư 15 cụm công nghiệp với quy mô diện tích 300 ha. Ngoài ra, mục tiêu đến năm 2020 xây dựng khoảng 1000 làng nghề TTCN.
Đối với các KCN chưa có các dự án đầu tư cụ thể, trong khi chưa có các tài liệu hướng dẫn tính toán đủ độ tin cậy, trong phạm vi luận văn tạm dùng hệ số tính toán thải lượng ô nhiễm ước tính (kg chất ô nhiễm/ha diện tích KCN trong 1 ngày đêm) do Trung tâm Kỹ thuật nhiệt đới, Viện Nhiệt đới và Bảo vệ Môi trường TP Hồ Chí Minh đưa ra dựa trên tổng kết thực tế số liệu thải lượng ô nhiễm trung bình của một số KCN như sau:
Bảng 3.2: Hệ số ô nhiễm khí thải trung bình từ các khu công nghiệp
Chỉ tiêu
Hệ số ô nhiễm (kg/ha/ngày đêm)
Bụi
8,18
SO2
78,27
NO2
5,11
CO
2,42
Tải lượng khí thải từ các khu công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Nghệ An được tính từ diện tích đất các khu công nghiệp và hệ số ô nhiễm trung bình.
Bảng 3.3: Dự báo tải lượng ô nhiễm từ các KCN, TTCN Nghệ An (tấn/năm)
Năm
SO2
NO2
CO
Bụi
2005
11.904,5
777,2
368,1
1.244,1
2010
33.699,5
2.200,1
1.041,9
3.521,9
2020
86.637
5.656,3
2.678,7
9.054,4
3.1.1.2. Nguồn phát sinh nước thải
Nước trên các sông suối trên bề mặt là một yếu tố không thể thiếu được cho sự phát triển kinh tế xã hội nhưng đây cũng là nơi chịu tác động mạnh mẽ nhất của các hoạt động này thông qua lượng chất thải cả về dạng rắn lẫn dạng lỏng. Các chất thải đã làm thay đổi bất lợi cho tài nguyên môi trường nước. Đối với các sông suối thuộc tỉnh Nghệ An, các nguồn gây ô nhiễm chính bao gồm:
- Nguy cơ ô nhiễm do nước thải sinh hoạt.
Theo Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An đến năm 2020 thì đến năm 2020 người dân trong tỉnh sẽ được sử dụng nước sạch với tiêu chuẩn là 150l/người ngày. Lượng nước thải sinh ra được tính trung bình bằng 80% lượng nước cấp (theo WHO, 1985).
Dựa vào dự báo về dân số trong tỉnh, có thể tính được nhu cầu sử dụng nước cũng như lượng nước thải ra trong toàn tỉnh và các khu đô thị trong tỉnh như sau:
Bảng 3.4: Dự báo nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt và lượng nước thải ra môi trường năm 2020 của tỉnh Nghệ An.
Dân số
(10.000 người)
Nhu cầu sử dụng nước
(m3/ngày)
Nước thải (m3/ngày)
TP. Vinh
65
97.500
78.000
Các đô thị vệ tinh của TP Vinh
2,5-3
3.750 - 4.500
3.000- 3.600
TX Hoàng Mai
16
24.000
19.200
TX. Diễn Châu, Đô Lương
9-10,0
13.500 - 15.000
10.800-12.000
Đô thị vùng miền núi Tây Bắc
5,9
8.850
7.080
Đô thị miền núi Tây Nam
17,1
25.650
20.520
Toàn tỉnh
350
525.000
420.000
Theo tính toán của nhiều quốc gia đang phát triển, khối lượng chất ô nhiễm trong nước thải sinh hoạt đưa vào môi trường (nếu không qua xử lý) được thể hiện trong bảng 3.5.
Bảng 3.5: Khối lượng các chất ô nhiễm trong nước thải vào môi trường
Chất ô nhiễm
Khối lượng (g/người/ngày)
Khối lượng trung bình (g/người/ngày)
Chất rắn lơ lửng (TSS)
70 – 145
107,5
BOD5
45 – 54
49,5
COD
72 – 102
87,0
Amoni (NH4)
2,4 – 4,8
3,6
Tổng Nitơ (N)
6 – 12
9,0
Tổng Phốt pho (P)
0,8 – 4,0
2,4
(Nguồn : Trung tâm Công nghệ Môi trường ( ENTEC), 2001)
Tải lượng trung bình của các chất ô nhiễm sinh ra trong nước thải sinh hoạt của dân cư vùng nghiên cứu đến năm 2020, được thể hiện trong bảng 3.6.
Nước thải sinh hoạt thường được thải trực tiếp ra môi trường nếu không được xử lý triệt để sẽ gây ô nhiễm nghiêm trọng tới môi trường, đặc biệt là môi trường nước mặt và nước dưới đất - nguồn nước đang được khai thác để sử dụng cho ăn uống, sinh hoạt và các mục đích phát triển kinh tế - xã hội khác.
Bảng 3.6: Dự báo tải lượng trung bình các chất ô nhiễm trong nước thải sinh hoạt vùng nghiên cứu năm 2020 (tấn/năm)
Chất ô nhiễm
Vùng
TSS
BOD5
COD
NH4
SN
SP
TP. Vinh
25504,4
11743,9
20640,8
854,1
2135,3
569,4
Các đô thị vệ tinh của TP Vinh
980,9-1177,1
451,7-542,0
793,9-952,7
32,9-39,4
82,1-98,6
21,9-26,3
TX Hoàng Mai
6278
2.890,8
5080,8
210,2
525,6
140,2
TX. Diễn Châu, Đô Lương
3531,4-3923,8
1626,1-1806,8
2858,0-3175,5
118,3-
131,4
295,7-
328,5
78,8-87,6
Đô thị vùng miền núi Tây Bắc
2315,0
1067,0
1873,6
77,5
193,9
51,7
Đô thị miền núi Tây Nam
6709,6
3089,5
5430,1
224,7
561,7
149,8
Toàn tỉnh
137.331,3
63.236,25
111.142,5
4.599
11.497,5
3.066
- Nguy cơ ô nhiễm do nước thải công nghiệp.
Thực tế cho đến nay chưa đủ cơ sở để có thể dự báo chính xác được nhu cầu sử dụng nước cho các khu công nghiệp trong toàn tỉnh. Theo các chuyên gia Nhật Bản (JICA) nhu cầu nước sử dụng trong công nghiệp đối với các tỉnh đang phát triển các khu công nghiệp sẽ bằng khoảng 30% lượng nước cấp sinh hoạt. Như vậy nhu cầu nước cho công nghiệp đến năm 2020 khoảng 175.000 m3/ngày (64 triệu m3/năm) và thải ra môi trường khoảng 140.000 m3 (51 triệu m3/năm) nước thải trong một ngày.
Thành phần của nước thải công nghiệp chủ yếu là các yếu tố: Các kim loại nặng như Al3+, Pb2+, As3+, Hg2+, Cu2+, hàm lượng BOD5, COD, TSS, Coliform, Fecal Coliform vv. Cụ thể, chúng còn tuỳ thuộc vào đặc thù của từng ngành công nghiệp mà có các loại chất thải với nồng độ chất gây ô nhiễm khác nhau. Nồng độ trung bình ước tính của các chất ô nhiễm trong nước thải các khu công nghiệp ở Việt Nam được trình bày trong bảng 3.7.
Bảng 3.7: Ước tính nồng độ trung bình các chất ô nhiễm trong nước thải các KCN ở Việt Nam.
Thông số
Nồng độ trung bình (mg/l)
TSS
253
BOD5
170
COD
271
(Nguồn: Trung tâm Công nghệ Môi trường ( ENTEC ), 2001)
Như vậy, nếu theo ước tính trên, có thể tính được tải lượng các chất ô nhiễm trong nước thải khu, cụm CN vùng nghiên cứu năm 2020 của tỉnh Nghệ An.
Bảng 3.8: Dự báo tải lượng trung bình các chất ô nhiễm trong nước thải khu, cụm công nghiệp tỉnh Nghệ An năm 2020
Thông số
Nồng độ trung bình (mg/l)
Tải lượng chất ô nhiễm trung bình (tấn/năm)
TSS
253
12.928,3
BOD5
170
8.687,0
COD
271
13.848,1
Kiểm soát các nguồn nước thải công nghiệp là việc làm hết sức cần thiết nhằm giảm thiểu ô nhiễm do nước thải. Đặc biệt là các kim loại nặng và các hợp chất hữu cơ khó phân huỷ sinh học cần được kiểm soát chặt chẽ ở ngay tại nơi phát sinh nước thải hoặc trước khi thải vào nguồn tiếp nhận là những dòng chảy dùng để tưới tiêu, tái sinh vào hệ thống nước hay ngấm xuống nước dưới đất.
- Nguy cơ ô nhiễm do nước thải từ công nghiệp khai khoáng.
Tỉnh Nghệ An có một số tài nguyên khoáng sản đang được khai thác như các loại đá để sản xuất vật liệu xây dựng và một số khoáng sản kim loại khác như thiếc... Với phương thức khai thác khoáng sản (mỏ lộ thiên) như hiện nay, khả năng gây ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm nguồn nước nói riêng của việc khai thác mỏ lộ thiên rất lớn. Nước thải mỏ ở đây chủ yếu là nước mưa chảy tràn. Nếu lượng mưa lớn và có mức độ tập trung cao sẽ cuốn trôi theo đất đá trong khu khai thác xuống các vùng trũng.
Bên cạnh đó, các hóa chất được sử dụng luyện quặng cũng là nguồn ô nhiễm, như đối với khu vực Quỳ Hợp... khả năng sử dụng nguồn nước không cao.
- Nguy cơ ô nhiễm nước do nuôi trồng thuỷ sản.
Trải dài 82 km bờ biển và diện tích đất bị nhiễm mặn lên tới trên 29.000 ha, Nghệ An có địa hình thuận lợi nuôi trồng thuỷ sản. Hiện nay toàn tỉnh đã có 1.400 ha mặt nước nuôi thuỷ sản nước lợ. Ngành thủy sản phấn đấu đến năm 2020 ổn định diện tích nuôi thủy sản mặn lợ ở mức 3500-3700 ha trên cơ sở tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật; diện tích nuôi trồng thủy sản nước ngọt đạt 22.000 ha. Như vậy sự phát triển cả về diện tích, sản lượng nuôi trồng, khai thác và chế biến của ngành thủy sản sẽ làm tăng lượng chất thải và gây ảnh hưởng đến hệ sinh thái nhạy cảm vùng cửa sông ven biển và ảnh hưởng đến hệ sinh thái nông nghiệp, hệ sinh thái khu dân cư.
Các khu vực bầu, đầm ven biển đã có dấu hiệu ô nhiễm, cần phải có biện pháp khắc phục ngay nếu để lâu sẽ rất khó khăn vì các hệ sinh thái sẽ bị thay đổi theo chiều hướng xấu.
Tiềm năng ô nhiễm do phát triển các đầm nuôi tôm không quy hoạch cũng là nguy cơ đáng quan tâm tại hạ lưu và cửa sông các sông suối trong vùng.
- Nguy cơ ô nhiễm nước do sản xuất nông nghiệp.
Trong sản xuất nông nghiệp nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước lớn nhất là việc sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu. Theo dự báo lượng phân bón được sử dụng ở Nghệ An vào năm 2020 là 66.000 tấn và dư lượng sẽ là 39.600 tấn. Lượng HCBVTV được sử dụng là 173 tấn với dư lượng là 86,5 tấn.
Một số hoá chất bảo vệ thực vật (hoạt chất) được nông dân trong tỉnh sử dụng nhiều là Cypermethrin, Chlorfluazuron, Endosulfan, Monocrotophos, Bordeaux, Hexaconazole, Mancozeb, Propiconazole, trong đó đa số là thuốc nhóm III (ít độc), tuy vậy cũng có những thuốc có độ độc cấp tính cao như Monocrotophos, Endosulfan, Endosulfan hoặc một số hoạt chất khác có thời gian phân huỷ chậm như Mancozeb. Những hoạt chất phân huỷ chậm sẽ rất nguy hiểm vì nó dễ dàng ngấm xuống đất gây ô nhiễm đất cũng như nước dưới đất. Mặt khác khi mưa xuống các hoạt chất trên theo dòng nước ra các kênh mương rồi ra hồ gây ô nhiễm cho vùng nước mặt. Ngoài ra nông dân chưa có kiến thức sử dụng thuốc trừ sâu một cách hợp lí (phun không đúng thời gian, phun quá mức) và vệ sinh dụng cụ sau khi phun (một số nông dân rửa dụng cụ tại các kênh, sông) đây cũng chính là nguyên nhân gây nhiễm độc nguồn nước.
- Nguy cơ ô nhiễm nước do chôn cất, mai táng trong hệ thống các nghĩa địa.
Theo quy hoạch, đất được sử dụng để xây dựng các nghĩa trang, nghĩa địa đến năm 2020 là 7.206 ha. Các chất thải hữu cơ, vi trùng gây bệnh có thể xâm nhập vào đất và lan truyền vào môi trường nước mặt và nước dưới đất nếu như các hệ thống nghĩa trang này không được xây dựng và thiết kế kỹ thuật theo như quy định. Đây là một dạng gây ô nhiễm khá nguy hiểm đối với sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là tại các khu vực lân cận các nghĩa địa.
3.1.1.3. Nguồn phát sinh chất thải rắn
Các nguồn chất thải rắn (CTR) chủ yếu bao gồm: CTR sinh hoạt, CTR công nghiệp và CTR y tế.
Theo cách tính toán trong báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia năm 2005 thì:
- Tỷ lệ CTR sinh hoạt nguy hại lấy trung bình là 0,6% của CTR sinh hoạt.
- Tỷ lệ CTR nguy hại trong chất thải rắn y tế là 25%
- Tỷ lệ CTR công nghiệp nguy hại chiếm 35-41% CTR công nghiệp.
1. Chất thải rắn sinh hoạt
Theo Quy chuẩn Quy hoạch xây dựng đô thị do Bộ xây dựng ban hành, các tiêu chuẩn về CTR sinh hoạt được tính theo các loại đô thị loại I là 1,2kg/người/ngày loại II:1,1kg/người/ngày và loại III là 1kg/người/ngày. Đối với Nghệ An, luận văn tính trung bình lượng rác thải sinh hoạt năm 2020 cho dân cư vùng đô thị là 1,1 kg/người/ngày và nông thôn là 0,7 kg/người/ngày.
Theo Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dân số toàn tỉnh tính đến năm 2020 là 3.500.000 người, trong đó khu vực đô thị là 1.295.000 người và nông thôn là 2.205.000 người, tổng lượng CTR sinh hoạt ước tính là: 1.083.320 tấn, trong đó CTR không nguy hại là 1.076.820 tấn, CTR nguy hại là 6500 tấn.
2. Chất thải rắn y tế
Theo Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội tỉnh Nghệ An số giường bệnh trong khu vực sẽ tăng đạt bằng mức trung bình cả nước 25 giường bệnh/10.000 dân, vậy tổng số giường bệnh toàn tỉnh ước tính đến năm 2020 là: 8.750 giường. Theo Phạm Ngọc Đăng, khối lượng CTR không nguy hại thải ra trung bình của 1 giường bệnh vùng đồng bằng sông Hồng là 1,4-1,7 kg/giường/ngày đêm. Đối với Nghệ An, luận văn lấy hệ số này là 1,5 kg/giường/ngày đêm. Vậy lượng CTR y tế phát sinh vào năm 2020 ước tính: tổng lượng CTR bệnh viện là 4.791 tấn, trong đó CTR nguy hại là 1.198 tấn.
3. Chất thải rắn công nghiệp
Theo Phạm Ngọc Đăng trong chuyên khảo: Đánh giá diễn biến và dự báo môi trường 2 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc và phía Nam (2004), phương pháp dự báo CTR công nghiệp được dựa trên nguyên lý: Giả định rằng lượng CTR công nghiệp sẽ tăng tỷ lệ thuận cùng với tốc độ phát triển của ngành công nghiệp (không tính đến CTR công nghiệp từ các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ). Lượng CTR công nghiệp phát sinh được tính bằng cách lấy lượng CTR công nghiệp của một năm nào đó nhân với tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp cùng năm tương ứng. CTR công nghiệp nguy hại được quy định bằng 35-41% tổng lượng CTR công nghiệp.
Theo quy hoạch tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp trong các giai đoạn 2006-2010 là 19,8%, giai đoạn 2011-2015 là 14,2% và giai đoạn 2016-2020 là 12,2%, có thể ước tính lượng CTR công nghiệp theo các giai đoạn như sau:
Bảng 3.9: Ước tính tổng lượng chất thải rắn công nghiệp đến năm 2020
Năm
Lượng CTR không nguy hại (tấn/năm)
Lượng CTR nguy hại
(tấn/năm)
Tổng lượng CTR
(tấn/năm)
2010
183.912
112.720
293.633
2015
357.225
218.944
576.169
2020
635.193
389.312
1.024.505
Bảng 3.10: Ước tính tổng lượng chất thải rắn tỉnh Nghệ An năm 2020
TT
Các loại chất thải rắn
Tổng (tấn/năm)
Tỷ lệ (%)
1
Chất thải sinh hoạt
1.076.820
51,3
2
Chất thải công nghiệp
1.024.505
48,5
3
Chất thải y tế
4.791
0,2
4
Chất thải nguy hại
397.009
Tổng cộng lượng chất thải rắn
2.112.615
100
Tính đến năm 2020, lượng CTR tăng gấp 3,5 lần so với năm 2005. Trong đó, lượng CTR sinh hoạt chiếm 51,3%, CTR công nghiệp chiếm 48,5 và CTR y tế chiếm 0,2%. Trong đó, lượng chất thải nguy hại là 397.009 tấn, chiếm 18,8% tổng lượng CTR.
3.1.2. Các nguồn gây tác động không liên quan đến chất thải
Bên cạnh những tác động tích cực của các hoạt động phát triển đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung của tỉnh Nghệ An thì các hoạt động phát triển này cũng có thể gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường, mà tổng thể có thể nói là sự tác động vào chu trình vật chất và năng lượng của môi trường địa lý, địa chất, từ đó làm gia tăng quá trình địa động lực ngoại sinh, dẫn đến gia tăng các tai biến môi trường tự nhiên. Những tác động điển hình là:
+ Thay đổi sử dụng đất thông qua việc phát triển hệ thống giao thông, thuỷ điện, thuỷ lợi… sẽ làm giảm tính thống nhất tự nhiên của toàn bộ vùng, làm cắt sẻ vào các tầng cấu trúc địa chất, làm thay đổi bề mặt địa hình dẫn đến gia tăng hiện tượng trượt, sụt lở đất, nhất là ở vùng đồi núi. Mặt khác, do bị biến động sẽ xuất hiện những “cửa sổ” tác động vào các thực thể địa lý, địa chất, qua đó tạo điều kiện cho các chất độc hại có khả năng phát tán mạnh hơn trên diện rộng.
+ Do tăng mạnh nhu cầu sử dụng nước nên việc khai thác nước mặt sẽ có nhiều thay đổi, thông qua việc xây dựng thêm nhiều hồ chứa nước, thay đổi phương thức khai thác, sử dụng nước. Điều này sẽ gây tác động đến tài nguyên nước biểu hiện bằng sự biến đổi của cán cân nước, tăng nguy cơ khô hạn, lũ lụt, gây sạt lở bờ sông, làm thay đổi điều kiện sinh thái của nhiều vùng trong tỉnh.
+ Quá trình đô thị hóa, phát triển công nghiệp sẽ kèm theo việc tăng nhu cầu sử dụng các nguồn nước dưới đất, làm thay đổi phương thức và mức độ khai thác nước dưới đất, dẫn đến làm tổn thương cho tầng chứa nước.
+ Phát triển khai thác khoáng sản với một số loại hình có tác động tiêu cực rõ rệt đến môi trường địa lý, địa chất như: khai thác vật liệu xây dựng, khai thác thiếc… xáo trộn các tầng cấu trúc của bề mặt địa hình, làm mất vẻ đẹp cảnh quan của những khu vực khai thác, thay đổi các chu trình chuyển hoá vật chất và năng lượng tự nhiên, đồng thời tạo ra tải lượng chất thải bụi, bùn lớn ở những khu chế biến.
+ Phát triển du lịch cũng sẽ gây ra những tác động đến môi trường, làm biến động cảnh quan tự nhiên, tác động xấu đến các khu bảo tồn tự nhiên, làm xuống cấp các công trình văn hoá, tín ngưỡng.
+ Khai thác và bảo vệ rừng nếu không theo đúng quy hoạch, kế hoạch và quy trình khai thác và bảo vệ (chặt phá rừng bừa bãi, đốt nương làm rẫy...) có thể làm mất đi một số diện tích rừng đầu nguồn dẫn đến suy giảm khả năng điều tiết nước của rừng làm gia tăng tình trạng thiếu nước vào mùa kiệt, gia tăng sạt lở đất, lũ quét, lũ bùn đá vào mùa mưa, gây ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của cộng đồng.
3.2. Các đối tượng bị tác động
3.2.1 Đối tượng bị tác động có liên quan đến chất thải
3.2.1.1. Môi trường địa chất, các cảnh quan tự nhiên bị tác động do chất thải
Do phát triển các khu công nghiệp, làng nghề:
Các khu công nghiệp và lân cận: Các KCN tác động đến môi trường địa lý, địa chất thông qua sự biến đổi địa hình (tôn cao nền), khai thác nguyên liệu và xả thải vào hợp phần môi trường này. Sự can thiệp ở một số KCN được đánh giá là nhạy cảm khi các hoạt động có tác động đến những tầng cấu trúc địa chất có giá trị bên dưới (các tầng chứa nước, cách nước).
Các khu công nghiệp này phân tích dưới góc độ địa lý, địa chất thì chúng là các địa hình nhân tác nổi cao, và là cửa sổ tác động khá mạnh vào môi trường tự nhiên. Cũng cần phải nói thêm là tại các KCN, những chất độc hại thải vào các tầng đất đá bị tồn trữ thường rất lâu và chuỗi tác động tích luỹ, cộng dồn là hết sức phức tạp.
Các làng nghề: Các làng nghề theo truyền thống vẫn thường xả thải trực tiếp ra môi trường xung quanh các điểm sản xuất và với lượng không lớn, nhưng mang tính chất điểm tập trung nên vẫn gây nên những tác động tiêu cực cục bộ đến môi trường sống của con người.
Do các thể địa hình đặc biệt nguy hại:
Các bãi rác tập trung, các khu xử lý rác thải: Nguồn gây tác động là các dạng địa hình được hình thành với hàm lượng chất ô nhiễm cao và có khả năng phát tán ra bên ngoài làm xuống cấp chất lượng môi trường sống. Các dạng địa hình cần đặc biệt quan tâm gồm:
+ Bùn sét “bẩn” tích tụ ở ao hồ, kênh mương khu vực đô thị, dân cư, khu công nghiệp: liên quan chặt chẽ đến lượng và thành phần có trong và cuốn theo nước xả thải của các khu vực tập trung dân cư, các khu trũng tích tụ. Sự tích luỹ các chất ô nhiễm trong thực thể trầm tích này trở nên nguy hại ở hai khía cạnh: về không gian, chúng là nguồn lan truyền ô nhiễm vào các thực thể lân cận; về thời gian, khi vấn đề môi trường đã được phát hiện thì lượng tích tụ của chúng đã quá lớn, và thời gian cần để phân huỷ là khá dài. Vấn đề tác động vào thực thể địa chất này khá phức tạp vì hiện tại, thói quen chưa được thay đổi trong sinh hoạt của con người là hành động xả thải trực tiếp xuống kênh mương, vừa làm xấu đi chất lượng môi trường sống, vừa làm mất mỹ quan (nhất là đối với các loại vật liệu dạng nhựa khó phân huỷ).
+ Các bãi rác: liên quan chặt chẽ với chất thải rắn từ khu vực đô thị, các khu công nghiệp. Hiện nay và trong tương lai, ở tỉnh Nghệ An tỉ trọng chất thải sinh hoạt là lớn nhất, nhưng chất thải đặc biệt nguy hại lại liên quan đến các khu công nghiệp, các bệnh viện cũng không nhỏ. Điều thường thấy trong Tỉnh là những khu đô thị thường đi liền kề với các bãi rác lớn mà công nghệ xử lý còn hết sức thô sơ, và đó sẽ là nguồn gây tác động xấu đáng kể đối với môi trường xung quanh.
Các bãi rác nông thôn: Liên quan đến vùng nông thôn, khi mà khả năng thu gom, xử lý chất thải trong tiến trình phát triển sắp tới vẫn chưa thể bắt kịp với tốc độ xả thải, cũng như thói quen sinh hoạt của người dân chưa được cải thiện đáng kể nên sẽ tạo ra các đồng rác, đường rác, mương rác. Điều này gây ảnh hưởng tới cả mỹ quan của các thực thể địa lý, địa chất, đồng thời là nguồn phát tán những chất độc hại và bệnh tật cho con người khá dễ dàng. Mặc dầu vậy, do mật độ dân cư nông thôn trong tỉnh còn khá thấp nên vấn đề môi trường chưa trở thành điểm nóng, nhưng cần quan tâm để tránh lặp lại tình trạng như một số nơi ở nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng.
Các khu vực khai thác khoáng sản: Đáng quan tâm nhất là các khu vực khai thác vật liệu xây dựng, và một số kim loại khác. Chất thải sau khai thác bên cạnh việc tạo nên những dạng địa hình nhân tác mới mà những tác động của nó còn chưa được nghiên cứu đầy đủ thì nó còn đưa vào môi trường những chất nguy hại như asen, lưu huỳnh... Theo quy hoạch đến năm 2020, sẽ đẩy mạnh khai thác tất cả các loại hình khoáng sản, nhưng bên cạnh đó cũng cần phải lựa chọn công nghệ thân thiện với môi trường.
3.2.1.2. Môi trường không khí bị tác động do nguồn khí thải
Môi trường không khí và môi trường sống của cộng đồng bị tác động trực tiếp của khí thải do các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.
Từ các hoạt động sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp:
Vấn đề về môi trường công nghiệp gắn chặt với trình độ công nghệ và thiết bị sử dụng trong dây truyền sản xuất. Nhìn chung, theo quy hoạch thì hầu hết các khu, cụm, điểm công nghiệp đều phải nằm xa khu dân cư, nhưng do vấn đề đô thị phát triển nhanh bao quanh các khu công nghiệp mà vấn đề ô nhiễm môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng là không thể tránh khỏi. Theo tính toán ở phần trên, tải lượng của các loại khí thải nếu chưa được xử lý vào năm 2020 sẽ gấp 7,3 lần so với năm 2006, chủ yếu do việc phát triển các khu công nghiệp. Với một lượng khí thải như vậy, nếu không được quan tâm đúng mức và triệt để thì đây có thể là những nguồn ô nhiễm lớn đối với môi trường sống của dân cư nhất là dân cư ở các vùng đô thị nơi mà nền kinh tế phát triển với công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn.
Từ hoạt động giao thông vận tải
Hoạt động giao thông vận tải là một trong những nguyên nhân làm ô nhiễm môi trường không khí trong các khu vực dân cư đô thị.
Hệ thống đường giao thông ở các đô thị và ven đô thường trong tình trạng hoạt động quá tải. Bên cạnh đó, các phương tiện giao thông cá nhân như ô tô, xe máy tăng lên quá nhanh càng làm cho chất lượng môi trường không khí đô thị bị giảm.
Theo dự báo vào năm 2020 các tác động của hoạt động giao thông đến môi trường không khí sẽ càng trầm trọng hơn do việc xây dựng mới một loạt các tuyến giao thông đường bộ và đi cùng với nó là số lượng phương tiện giao thông cá nhân cũng tăng mạnh. Nếu không có biện pháp quản lý tốt các phương tiện tham gia giao thông thì ô nhiễm không khí, nhất là bụi sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến dân cư đô thị.
3.2.1.3. Môi trường nước bị tác động do các nguồn nước thải
Như trên đã trình bày các hoạt động phát triển KT - XH trong tỉnh Nghệ An gây tác động bất lợi đến chất lượng nước tập trung chủ yếu ở một số các khu vực như: các khu tập trung dân cư (đô thị), các khu công nghiệp... Còn đối với các hoạt động nông nghiệp do địa bàn canh tác phân bố rải rác nên hiện nay chưa ghi nhận được các biểu hiện ô nhiễm nước bởi các HCBVTV. Vì vậy để đánh giá tác động của các hoạt động phát triển KT - XH tới môi trường nước mặt, luận văn tập trung một số các khu vực chịu tác động mang tính chất đặc thù như: Khu vực nước sông nhận nước thải của đô thị lớn bao gồm cả chất thải dân sinh và công nghiệp; Khu vực nước sông chịu tác động của khai thác mỏ; và khu vực chịu tác động của nuôi trồng thuỷ sản vùng ven biển.
Khu vực nước sông chịu tác động của nước thải sinh hoạt đô thị:
Từ Quy hoạch tổng thể cho thấy: sự phát triển của hệ thống đô thị bao gồm thành phố Vinh, các khu đô thị mới, các thị xã, thị trấn, thị tứ...ở Nghệ An trong tương lai sẽ rất mạnh. Điều này có nghĩa là một lượng nước thải sinh hoạt đô thị rất lớn sẽ được thải ra môi trường vào hệ thống sông hồ của tỉnh. Đặc biệt, thành phố Vinh sẽ trở thành thành phố cấp I, là trung tâm của vùng Bắc Trung bộ và cũng sẽ là nơi có nguồn nước thải sinh hoạt lớn nhất. Nước thải sinh hoạt sẽ gây tác động đến nguồn nước mặt tại chỗ là rất lớn. Sông Lam và một số sông khác chảy qua khu vực thành phố Vinh là nơi tiếp nhận toàn bộ nước thải của thành phố Vinh đổ vào qua hàng loạt các công trình tiêu nước. Hiện tại, ở đây đã có dấu hiệu ô nhiễm nguồn nước, nổi bật nhất là sự gia tăng của các chất dinh dưỡng cũng như các chất hữu cơ có mặt trong nước. Trong tương lai, lượng nước thải sinh hoạt và công nghiệp ở thành phố Vinh sẽ rất lớn, nếu không có những công trình xử lý nước thải thì nước các sông sẽ bị ô nhiễm nặng nề.
Khu vực nước sông chịu tác động điển hình của khai thác khoáng sản
Tỉnh Nghệ An được đánh giá có tài nguyên khoáng sản đa dạng về chủng loại nhưng trữ lượng nhỏ. Trong số đó, đang và sẽ được đầu tư khai thác, chủ yếu là: Khoáng sản than có tổng trữ lượng đạt hơn 4 triệu tấn nhưng các mỏ có quy mô nhỏ; Thiếc có trữ lượng không lớn bao gồm cả sa khoáng và gốc, hiện nay đang triển khai tại Quỳ Hợp; Đá vôi trắng mới được khai thác ở mức độ nhỏ tại Quỳ Hợp...
Như vậy đối với công nghiệp khai thác khoáng sản, khu khai khoáng thiếc tại Quỳ Hợp có tác động tới môi trường lớn nhất. Theo các nghiên cứu của TT Khoa học và Công nghệ môi trường ĐH Bách khoa cho thấy việc khai thác thiếc và đá quý ở Quỳ Hợp ảnh hưởng tới môi trường nước, cụ thể:
Đối với trữ lượng nước mặt: Do các vật liệu san gạt bề mặt đã làm gia tăng lượng cát bùn trong sông làm biến đổi khả năng trữ nước trong lòng sông, hồ. Vì vậy lượng nước trong sông, hồ chứa giảm đặc biệt trong mùa kiệt.
Đối với chất lượng nước: Các chất thải đã làm gia tăng lượng cát bùn và các ion kim loại nặng trong nước sông. Nước thải mỏ ở đây chủ yếu là nước mưa chảy tràn. Nếu lượng mưa lớn và có mức độ tập trung cao sẽ cuốn trôi theo đất đá trong khu khai thác xuống các vùng trũng. Theo các nghiên cứu thực nghiệm ở trong vùng với lượng mưa ngày trên 300 mm sẽ sinh ra 36-40 nghìn m3 nước có độ đục nước lên tới 500-1100 mg/l. Và đây là nguồn tăng dòng chảy cát bùn trong lòng sông. Ngoài ra các chất hữu cơ cũng gia tăng đáng kể.
Như vậy tác động của khu khai thác khoáng sản thiếc tới môi trường nước sông Hiếu khá rõ nét, cần phải có biện pháp xử lý nước thải phù hợp tiêu chuẩn trước khi đổ vào sông Nậm Thông (phụ lưu trực tiếp đổ vào sông Hiếu), bảo đảm phát triển bền vững tài nguyên nước sông Hiếu, nguồn cung cấp nước chính cho các huyện Quỳ Châu, Quỳ Hợp, Nghĩa Đàn và Tân Kỳ.
Khu vực chịu tác động của nuôi trồng thuỷ sản
Vấn đề môi trường của các khu vực nuôi trồng thuỷ sản là một vấn đề lớn ở Nghệ An trong tương lai. Nuôi thuỷ sản thâm canh phát triển sẽ gây sức ép tới môi trường nước rất lớn thể hiện qua các vấn đề: Mở rộng diện tích nuôi tôm, nhất là nuôi tôm trên cát sẽ làm tăng nguy cơ nhiễm mặn đất và nước dưới đất; Làm ảnh hưởng chất lượng các bãi tắm của tỉnh như Cửa Lò, Nghi Lộc, Quỳnh Phương...); Các chất thải từ các đầm nuôi tôm gây ô nhiễm trực tiếp cho nguồn nước mặt.
3.2.1.4. Môi trường nước dưới đất bị tác động do chất thải
Đối với nước dưới đất, đối tượng bị tác động bởi các nguồn chất thải chính là tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích Đệ tứ Holocen (qh), tầng chứa nước Holocen và các tầng chứa nước các thành tạo trước Đệ Tứ nằm gần mặt đất. ở những nơi các tầng chứa nước này lộ ra hoặc ở những nơi lớp che phủ tầng không đủ khả năng bảo vệ tầng chứa nước thì chất bẩn trên bề mặt dễ xâm nhập vào tầng chứa nước làm ô nhiễm nước.
3.2.1.5. Môi trường đất bị tác động do chất thải
Môi trường đất chịu tác động trên diện rộng bởi sự gia tăng của các loại chất thải, đặc biệt tại các khu vực đô thị, các khu cụm công nghiệp, các làng nghề và các khu vực xung quanh bị tác động trực tiếp với mức độ khá lớn. Một số chất thải nguy hại như kim loại nặng, dầu thải, thuốc trừ sâu...có thể ngấm vào đất khi được thải ra môitrường.
3.2.1.6. Môi trường sinh thái ven biển bị tác động do phát triển các hoạt động kinh tế-xã hội
Theo quy hoạch, phát triển kinh tế vùng ven biển và vùng biển là một chiến lược phát triển quan trọng của tỉnh Nghệ An trong thời gian tới. Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản ven biển, phát triển khai thác hải sản, phát triển các cảng biển, các cơ sở chế biến thủy hải sản... đồng thời phát triển một số địa bàn du lịch trọng điểm ven biển như: TP. Vinh, TX. Cửa Lò, vùng du lịch biển Quỳnh Lưu - Diễn Châu - Nghi Lộc có thể làm nảy sinh những mâu thuẫn giữa các ngành trong phát triển và làm môi trường sinh thái ven biển bị gia tăng ô nhiễm. Chất thải do nuôi trồng và chế biến thủy hải sản, dầu mỡ do tàu thuyền đánh bắt hải sản sẽ gia tăng, gây ô nhiễm môi trường nước biển ven bờ và gây tác động xấu đến cảnh quan bãi biển, bãi tắm...và có thể làm giảm các hoạt động du lịch, nghỉ dưỡng ven biển.
3.2.1.7. Môi trường sống cộng đồng bị tác động do chất thải
Môi trường sống của cộng đồng bị tác động trực tiếp chất thải do các hoạt động phát triển kinh tế xã hội khu vực.
Theo ước tính lượng chất thải năm 2020 sẽ gấp 3,5 lần so với năm 2005. Việc thu gom, xử lý lượng chất thải là rất lớn và quan trọng. Lượng chất thải nếu không được thu gom, xử lý tốt sẽ trở thành nguồn gây ô nhiễm rất lớn đến môi trường sinh thái, đặc biệt là môi trường nước và môi trường đất, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống của cộng đồng. Bên cạnh đó, một số chất thải nguy hại có thể gây ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ cộng đồng, gây nhiều bệnh tật cho người dân tại khu vực có chất thải.
3.2.1.8. Đối tượng bị tác động là các yếu tố kinh tế
Các hoạt động phát triển trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ sẽ có những tác động lớn đến các thành phần kinh tế. Nền kinh tế chung và các ngành kinh tế, nhất là công nghiệp và dịch vụ sẽ có sự tăng trưởng mạnh, vững chắc. Hàng hoá sẽ được sản xuất nhiều về số lượng, đa dạng về chủng loại, thúc đẩy phát triển xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh cũng như cả nước. Bên cạnh đó, những tác động tiêu cực đến các thành phần kinh tế vẫn có thể xảy ra trong trường hợp thực hiện quy hoạch. Tác động trực tiếp của quy hoạch đến các yếu tố kinh tế là sự gia tăng chất thải, gây ảnh hưởng xấu đến các hoạt động sản xuất của các ngành kinh tế.
Đối với nông nghiệp:
Việc chuyển đổi sử dụng đất do phát triển đất xây dựng đô thị, các khu, cụm công nghiệp, đất xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông, thuỷ lợi, thuỷ điện hoặc các loại cây trồng khác sẽ làm giảm diện tích đất sản xuất nông nghiệp (đất lúa, cây hàng năm) gây ảnh hưởng đến sản lượng lương thực, thực phẩm. Để nâng cao năng suất và sản lượng cây trồng sẽ sử dụng lượng phân bón hoá học và HCBVTV nhiều hơn, gây nguy cơ làm gia tăng ô nhiễm đất, nước và có thể gây tác động xấu đến công tác vệ sinh và an toàn thực phẩm.
Đối với công nghiệp:
Việc phát triển mạnh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sẽ làm gia tăng chất thải ra môi trường. Trước thực tế đó đòi hỏi các cơ sở sản xuất phải tăng chi phí sản xuất nhằm quản lý và xử lý chất thải trong khi công nghệ sản xuất có thể chưa cao, dẫn đến giảm lợi nhuận trong sản xuất.
Đối với các ngành dịch vụ:
Theo quy hoạch, các hoạt động phát triển có thể tạo ra những xung đột về lợi ích đối với một số ngành dịch vụ như hoạt động du lịch, vui chơi giải trí, thể hiện thông qua việc gây ô nhiễm môi trường do chất thải sản xuất, làm ảnh hưởng đến các hoạt động dịch vụ nói trên. Chất thải từ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nuôi trồng thuỷ hải sản ven biển có thể sẽ làm ô nhiễm môi trường không khí, môi trường nước, môi trường đất của các khu vực du lịch, nghỉ dưỡng, bãi biển…, làm giảm tính hấp dẫn và lượng khách du lịch.
3.2.2. Đối tượng bị tác động không liên quan đến chất thải
3.2.2.1. Đối tượng bị tác động là các yếu tố tự nhiên.
1. Các yếu tố địa hình, địa mạo bị biến đổi do phát triển giao thông và hệ thống đô thị:
Hệ thống giao thông thường gây cản trở các quá trình luân chuyển vật chất, năng lượng giữa các vùng và với chuỗi dây chuyền tác động, chúng thường gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ hệ sinh thái. Hệ thống giao thông thường cắt vào bề mặt địa hình, làm gia tăng quá trình sạt trượt và dẫn đến gia tăng quá trình lũ quét, lũ bùn đá gây ảnh hưởng đến nhiều cụm dân cư và các công trình hạ tầng cơ sở khác.
Việc mở rộng quy mô và mật độ của hệ thống giao thông sẽ làm hạn chế không gian thống nhất của dòng luân chuyển vật chất - năng lượng trong lớp vỏ địa lý, địa chất, dẫn đến tình trạng phân mảnh sâu sắc hơn nữa bề mặt địa hình.
Việc chuyển đổi sử dụng đất là việc chuyển từ đất nông nghiệp sang thành đất đô thị và các khu công nghiệp...nghĩa là sẽ chuyển từ dạng địa hình tương đối bằng phẳng thành những tuyến, những cụm nổi cao tương đối và qua đó sẽ tác động đến môi trường địa lý, địa chất chung của toàn khu vực. Những vùng này sẽ trở thành nguồn cung cấp vật liệu cho các quá trình ngoại sinh mới được hình thành, trong đó đáng lưu ý nhất là lượng và loại chất thải sẽ có của chúng.
2. Các yếu tố môi trường tự nhiên bị ảnh hưởng do xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng và khai thác tài nguyên:
Do phát triển và nâng cấp hệ thống đê sông, đê biển:
Hệ thống đê điều kéo dài dọc sông và nổi cao trên bề mặt địa hình đồng bằng với vật liệu được lấy trong nội đồng nên cũng đã hình thành hệ thống trũng dọc theo các đê, sẽ tạo ra sự gián đoạn trong dòng luân chuyển năng lượng - vật chất của tự nhiên, làm gia tăng mức độ phân hoá giữa các tiểu vùng, gây ảnh hưởng đến chức năng tự làm sạch môi trường của tự nhiên, nhất là đối với các nguồn chất thải.
Do khai thác khoáng sản:
Các loại hình khoáng sản sẽ được khai thác với số lượng lớn trong thời gian tới gồm đá vôi, sét, đá, cát sỏi xây dựng. Khi khai thác sẽ có xu hướng làm biến đổi cảnh quan tự nhiên, san bằng hoặc khoét sâu bề mặt địa hình, gây tác động lớn đến rừng và điều kiện sinh thái tại khu vực khai thác, đồng thời gây ra mức độ tác động khác nhau đến môi trường thông qua việc gia tăng chất thải, hoá chất gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí và có thể làm gia tăng các hiện tượng sạt lở, sụt lở đất. Việc khai thác vật liệu cát sỏi xây dựng trên các dòng sông sẽ làm thay đổi cân bằng động lực dòng chảy, dẫn đến hậu quả là nhiều đoạn đê sông bị sạt lở, đe doạ nghiêm trọng đến sản suất và sinh hoạt của dân cư.
Do khai thác, sử dụng tài nguyên nước:
Theo quy hoạch, nhu cầu nước cho các ngành, các khu vực ngày càng tăng cao. Trong khi sự phối kết hợp để đảm bảo những lợi ích có thể chấp nhận được giữa các đơn vị sử dụng nước chưa đạt được thì các tác động xấu của nó càng có xu hướng trầm trọng hơn. Những tác động đối với môi trường địa lý, địa chất bao gồm:
Để đáp ứng các mục tiêu phát triển nên nhu cầu sử dụng nước gia tăng do đó phải đẩy mạnh việc khai thác nguồn nước bằng các đập, hồ chứa trên sông.
Theo quy hoạch đến năm 2020 sẽ củng cố, xây dựng mới nhiều hồ thuỷ lợi và các công trình thuỷ điện có quy mô lớn trên các lưu vực sông phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, cấp nước cho công nghiệp, đô thị và sản xuất điện. Các công trình này sẽ:
+ Làm thay đổi mực xâm thực của địa hình, làm gia tăng trữ lượng ẩm trên các thân trượt dẫn đến gia tăng quá trình sạt trượt trên sườn.
+ Sự lắng đọng bồi tích ở các hồ chứa sẽ gây thiếu hụt bồi tích hạ lưu và vùng đồng bằng. Các hồ chứa đã làm giảm lượng phù sa dẫn tới sự thiếu hụt chất dinh dưỡng do phù sa đem lại ở đồng bằng, kết hợp với lượng nước thiếu hụt cho các vùng sản xuất nông nghiệp ở hạ lưu sẽ làm ảnh hưởng xấu tới năng suất cây trồng và cũng có khả năng chi phối cán cân bồi tích vùng cửa sông, dẫn đến gia tăng hiện tượng sạt lở bờ biển.
+ Gây sạt lở bờ sông do thay đổi dòng chảy và lượng phù sa, đi cùng với xu thế phát triển không gian đô thị ra gần sông có thể xảy ra tai biến sạt lở, xói lở bờ sông.
Ngoài ra, việc khai thác nguồn nước dưới đất quá mức phục vụ cho nhu cầu sử dụng nước ở các khu đô thị và công nghiệp có thể gây hiện tượng sụt lún đất, đặc biệt là các vùng có hoạt động karst ngầm và vùng đồng bằng.
Do nuôi trồng thuỷ sản:
Phát triển nuôi trồng thuỷ sản, đặc biệt là nuôi tôm công nghiệp nước mặn ở các huyện ven biển sẽ gây những tác động lớn đến môi trường vùng cửa sông và ven biển, sẽ làm gia tăng khả năng xâm nhập mặn vào sâu trong nội địa (cả nước mặt cũng như nước dưới đất). Bên cạnh đó, chất lượng nước ở các vùng ven biển cũng sẽ bị gia tăng ô nhiễm.
3. Khả năng suy giảm Đa dạng sinh học
Như đã nêu ở trên, các hoạt động phát triển sẽ gây ra những tác động đến nhiều yếu tố của môi trường tự nhiên, dẫn đến gia tăng các hiện tượng trượt, sụt lở đất, xói lở bờ sông, bờ biển, thay đổi mực nước mặt, nước ngầm, gia tăng xâm nhập mặn…Những hiện tượng này sẽ có tác động đến Đa dạng sinh học của các vùng sinh thái khác nhau (các vùng sinh thái trên cạn, thuỷ sinh và vùng bờ ven biển), dẫn đến suy giảm các sinh cảnh, thành phần loài động, thực vật, gia tăng khả năng di nhập các loài sinh vật ngoại lai.
3.2.2.2. Đối tượng bị tác động là các yếu tố xã hội.
Di dân, tái đinh cư:
Theo quy hoạch, một loạt các hoạt động phát triển xây dựng các đô thị, khu, cụm công nghiệp, cơ sở hạ tầng (giao thông, thuỷ lợi, thuỷ điện…) đòi hỏi phải chuyển đổi sử dụng đất, từ đất sản xuất nông nghiệp, đất ở, đất chuyên dùng sang đất xây dựng cơ sở hạ tầng, các khu, cụm công nghiệp…Khi thi công các dự án sẽ phải thực hiện công tác giải phóng mặt bằng dẫn đến việc phải di dời một số lượng lớn dân cư ra khỏi các khu vực dự án và thực hiện đền bù trong công tác di dân, tái định cư. Đây là một vấn đề xã hội rất lớn sẽ nảy sinh khi thực hiện quy hoạch, đòi hỏi Nhà nước và các chủ đầu tư phải có những cơ chế chính sách thích hợp, đảm bảo sự công bằng trong công tác đền bù và tạo được sự ổn định lâu dài cho người dân phải di dời ở các khu tái định cư.
Cơ cấu lao động giữa các ngành nghề:
Sự phát triển theo quy hoạch sẽ mở ra cơ hội thu được nhiều lợi hơn cho người lao động trong các nhóm ngành công nghiệp, dịch vụ. Thực tế hiện nay là tỉ lệ lao động nông nghiệp trong tỉnh còn rất lớn (năm 2005 chiếm 79,6% lực lượng lao động). Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang phát triển công nghiệp - dịch vụ là chủ yếu sẽ tạo ra việc chuyển đổi mạnh cơ cấu lao động giữa các nhóm ngành nghề. Như vậy, vấn đề đào tạo và đào tạo lại lao động để đáp ứng những yêu cầu mới về trình độ lao động là một vấn đề lớn, đòi hỏi tỉnh và các doanh nghiệp phải đầu tư kịp thời, thích đáng, đặc biệt là đối với lực lượng lao động nông nghiệp sẽ dư thừa nhằm đảm bảo cho người lao động có công ăn việc làm, đảm bảo đời sống, giảm đói nghèo và hạn chế những tiêu cực trong xã hội.
Mức sống dân cư và sự phân hoá giàu nghèo:
Sự phát triển kinh tế toàn diện theo quy hoạch sẽ có tác động lớn đến đời sống dân cư. Do tăng trưởng kinh tế cao và phát triển mạnh các lĩnh vực kinh tế - xã hội nên thu nhập của người lao động trở nên đa dạng và cao hơn làm cho mức sống của người dân nói chung sẽ được tăng lên đáng kể. Bên cạnh đó, quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và phát triển các hoạt động dịch vụ trong cơ chế thị trường sẽ tạo điều kiện cho một bộ phận dân cư có khả năng tập trung, tích luỹ tư liệu sản xuất, phát huy các hoạt động dịch vụ để trở nên giàu có. Ngược lại, một bộ phận người dân khác, đặc biệt là người dân nông thôn, dân nghèo thành thị không có cơ hội làm giàu phải bán dần tư liệu sản xuất, đi làm thuê và có thể trở nên nghèo đói hơn. Vấn đề phân hoá giàu nghèo mạnh hơn trong quá trình phát triển là một xu thế thường xảy ra trong quá trình phát triển.
Các công trình văn hoá, di tích lịch sử, tín ngưỡng:
Các hoạt động phát triển nói chung, nhất là việc phát triển các cơ sở hạ tầng, các khu, cụm công nghiệp, các khu, tuyến, điểm du lịch có thể gây ra những tác động tiêu cực đến các công trình văn hoá, di tích lịch sử, tín ngưỡng của tỉnh. Tác động của các chất thải từ các hoạt động công nghiệp, giao thông, du lịch có thể làm thay đổi cảnh quan, gây sụt lở, sạt lở, gây ô nhiễm môi trường ở các khu vực có các công trình văn hoá, di tích lịch sử, tín ngưỡng. Mặt khác, sự khai thác quá tải của các công trình văn hoá, di tích lịch sử, tín ngưỡng do hoạt động tham quan, du lịch có thể làm xuống cấp công trình này và dẫn đến khả năng làm mất giá trị văn hoá và lịch sử của chúng, từ đó làm giảm thu nhập từ các hoạt động du lịch.
3.3. Đánh giá tổng hợp xu hướng biến đổi của các yếu tố môi trường bằng phương pháp ma trận
3.3.1. Đánh giá các nguồn gây tác động
3.3.1.1. Nhận dạng các nguồn gây tác động chính
Các nguồn có khả năng gây tác động xấu đến môi trường được xem xét, đánh giá dựa trên cơ sở định hướng phát triển của các ngành, các lĩnh vực và các chương trình, dự án ưu tiên đầu tư trong khuôn khổ nội dung bản quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020 của tỉnh Nghệ An. Theo đó có 21 đề xuất hoặc hoạt động phát triển chính (sau đây gọi là hoạt động phát triển) được gộp trong 5 nhóm lớn mà chúng có khả năng gây tác động xấu đến tự nhiên, môi trường, kinh tế xã hội.
Bảng 3.11: Các hoạt động có tiềm năng gây tác động xấu
TT
Các hoạt động phát triển
I
Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và tổ chức lãnh thổ
1
Phát triển hệ thống giao thông
2
Phát triển đô thị và cơ sở hạ tầng nông thôn
3
Phát triển hạ tầng các khu kinh tế và các khu CN- TTCN, làng nghề
4
Phát triển hệ thống khai thác nước cho đô thị, các khu kinh tế tập trung (KKT).
5
Thay đổi mục đích sử dụng đất
II
Phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp
6
Công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng
7
Công nghiệp chế biến nông – lâm – thuỷ sản, thực phẩm
8
Công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước (thuỷ điện, nhiệt điện)
9
CN Khai thác và chế biến khoáng sản (thiếc, đá trắng)
10
Cơ khí, hoá dầu và công nghệ cao
11
Dệt, may, da giày, sản xuất giấy, hoá chất
III
Nông – Lâm – Thuỷ sản
12
Chăn nuôi theo hướng sản xuất hàng hoá
13
Trồng trọt theo hướng sản xuất hàng hoá
14
Nuôi trồng thuỷ sản (nuôi ngọt, mặn, lợ), diêm nghiệp
15
Đánh bắt hảI sản
IV
Thương mại, du lịch, dịch vụ
16
Phát triển du lịch và sản phẩm du lịch
17
Phát triển mạng lưới và các trung tâm thương mại đa chức năng
18
Phát triển thương mại cửa khẩu
V
Văn hoá - xã hội
19
Gia tăng dân số khu vực thành thị
20
Phát triển y tế
21
Chuyển dịch cơ cấu lao động
3.3.1.2. Đánh giá tổng thể phương thức và quy mô tác động của các hoạt động phát triển đến môi trường
Để đánh giá chi tiết các tác động xấu của từng hoạt động phát triển đến môi trường cần thiết phải thực hiện việc đánh giá chung về tầm quan trọng của các hoạt động phát triển thông qua phương thức và quy mô gây tác động của chúng. Việc đánh giá được thực hiện bằng cách cho điểm. Điểm đánh giá được dựa trên việc phân tích bản chất tác động của mỗi hoạt động phát triển với các tiêu chí:
1. Phương thức tác động: Xác định hoạt động đó gây tác động có liên quan hoặc không liên quan đến chất thải. Việc đánh giá cường độ tác động của mỗi phương thức được cho điểm 1, 2, 3 tương ứng với cường độ tác động yếu, trung bình và mạnh và bằng 0 nếu hoạt động đó không gây biến đổi xấu môi trường.
2. Quy mô thời gian của tác động: Phân tích khả năng gây tác động kéo dài liên tục hoặc chỉ trong một khoảng mốc thời gian xác định. Trong luận văn, việc đánh giá được chia làm hai giai đoạn, khoảng thời gian ngắn (từ năm 2015 trở về trước) và dài (kéo dài qua năm 2015). Những tác động có quy mô thời gian ngắn được gán điểm 1 và dài được gán điểm 3. Một số hoạt động phát triển có thể kéo dài sau năm 2015 nhưng gây ảnh hưởng không đáng kể đến môi trường được gán điểm 0.
3. Quy mô không gian của tác động: Đánh giá khả năng ảnh hưởng của các tác động chỉ trong hoặc vượt ra ngoài một đơn vị lãnh thổ, ở đây lấy đơn vị cấp tỉnh/huyện và cấp vùng/liên vùng. Điểm số cũng được lấy giá trị 1 cho cấp không gian tỉnh/ huyện và 3 cho cấp vùng/ liên vùng. Những hoạt động phát triển có thể gây ảnh hưởng đến môi trường cấp vùng/ liên vùng nhưng thể hiện ở mức độ yếu cũng được gán điểm 0.
Mỗi một hoạt động phát triển đều được phân tích theo 3 tiêu chí trên. Mức độ tác động của mỗi hoạt động đến môi trường sẽ được đánh giá trên tổng số điểm A của hoạt động đó với 3 cấp: yếu, trung bình và mạnh. Được tính như sau:
Tổng điểm đánh giá của mỗi hoạt động: Aj =
Aj: tổng điểm của hoạt động thứ j
Bij: tiêu chí thứ i, của hoạt động thứ j
Khoảng điểm DA của các cấp trong trường hợp lấy đều nhau được tính theo công thức:
Trong đó là tổng điểm đánh giá chung cao nhất
và là tổng điểm đánh giá chung thấp nhất
Trên cơ sở tính toán đối với hoạt động phát triển Aj ta có thể gán hệ số mức độ quan trọng cho các hoạt động phát triển theo các mức độ đã được phân cấp: Aj nằm trong khoảng mức độ thấp được gán hệ số mức độ quan trọng là 1 và tương ứng như vậy ở mức trung bình là 2 và mức cao là 3.
Kết quả tính toán cho thấy ở mức độ thấp Aj £ 7; ở mức độ trung bình 7< Aj £ 9 và cao 9 < Aj £12.
Bảng 3.12: Tầm quan trọng của hoạt động phát triển (hđpt)
TT
Hình thức gây
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- MT (52).doc