Tài liệu Đề tài Đánh giá khái quát thực trạng phát triển hợp tác xã nông nghiệp trên cả nước: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế luôn được sự quan tâm của Đảng và nhà nước ta. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ : “tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể, khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú trọng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX, liên hiệp HTX cổ phần”. Nghị quyết lần thứ năm ban chấp hành Trung ương Đảng( khoá X) ngày 18/3/2002 cũng đã xác định: “kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, trong đó HTX là nòng cốt”, và “ kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.
Thể chế hóa Nghị quyết Trung ương 5,Thành uỷ Hải Phòng đã ban hành Nghị quyết 8( khóa XII) ngày 21/5/ 2002 “tiếp tục đổi mới, phát triển và...
74 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1429 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá khái quát thực trạng phát triển hợp tác xã nông nghiệp trên cả nước, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng trong tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế luôn được sự quan tâm của Đảng và nhà nước ta. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ : “tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể, khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, bao gồm các tổ hợp tác, hợp tác xã kiểu mới. Chú trọng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTX, liên hiệp HTX cổ phần”. Nghị quyết lần thứ năm ban chấp hành Trung ương Đảng( khoá X) ngày 18/3/2002 cũng đã xác định: “kinh tế tập thể với nhiều hình thức đa dạng, trong đó HTX là nòng cốt”, và “ kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.
Thể chế hóa Nghị quyết Trung ương 5,Thành uỷ Hải Phòng đã ban hành Nghị quyết 8( khóa XII) ngày 21/5/ 2002 “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”. Trong lĩnh vực nông nghiệp,Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã phối hợp với các cấp, các ngành trên địa bàn thành phố triển khai thực hiện Nghị quyết. Sở đã tham mưu đề xuất kịp thời với Uỷ ban nhân dân thành phố các cơ chế chính sách, các biện pháp để khuyến khích phát triển kinh tế tập thể trong nông nghiệp. Tuy nhiên hiện nay, kinh tế tập thể mà nòng cốt là các HTX nông nghiệp trên địa bàn Hải Phòng còn nhiều yếu kém, bất cập, năng lực hạn chế, môi trường hoạt động dịch vụ sản xuất kinh doanh dần bị thu hẹp, doanh thu thấp…Kinh tế HTX chiếm tỷ lệ thấp trong tổng sản phẩm xã hội, chưa đủ sức đảm nhiệm tốt vai trò cùng kinh tế nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Mặt khác, những nơi chưa có HTX nông nghiệp, chính quyền thôn phải quản lí điều hành cả dịch vụ nông nghiệp, bởi tính đặc thù trong nông nghiệp mà các thành phần kinh tế khác chưa làm được và nếu có làm thì cũng sẽ không có hiệu quả. Những hạn chế, yếu kém đó tồn tại do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân, trong đó có cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan đã tác động tới sự phát triển của các HTX.
Với mong muốn đưa ra một số giải pháp để khắc phục những hạn chế, yếu kém nói trên, góp phần thúc đầy sự phát triển của HTX nông nghiệp trên địa bàn Hải Phòng, cụ thể là các HTX nông nghiệp ở huyện Thuỷ Nguyên, em đã chọn nghiên cứu đề tài làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp, là: phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên đến năm 2015. Trong quá trình thực hiện chuyên đề này, em đã được sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của cô Võ Hoà Loan và phòng chính sách nông nghiệp và nông thôn thuộc Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Hải Phòng. Đây là một thuận lợi rất lớn đối với em. Em xin chân thành cảm ơn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nêu lên cơ sở lí luận về kinh tế tập thể và HTX như: bản chất, vai trò, đặc trưng…
- Đánh giá khái quát thực trạng phát triển HTX nông nghiệp trên cả nước.
- Tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng phát triển các HTX nông ngiệp trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên.
- Trên cơ sở phân tích trên, thấy rõ được các khó khăn, vướng mắc, rồi từ đó đưa ra phương hướng, các giải pháp nhằm phát triển HTX nông nghiệp ở Thuỷ Nguyên.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng
- Phương pháp thống kê
- Phương pháp phân tích và tổng hợp
- Phương pháp ước lượng
- Phương pháp so sánh
Ngoài ra còn một số phương pháp khác
4. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng: các HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên.
- Phạm vi: + thời gian: từ khi có Luật HTX cũ đến nay, chủ yếu là từ 2004 đến nay. Phương hướng , mục tiêu và giải pháp đến 2015.
+ không gian: các huyện trên địa bàn huyện Thuỷ Nguyên
Chương 1. Một số vấn đề lí luận
1.1. Một số vấn đề về HTX
1.1.1. Khái niệm
- Theo liên minh quốc tế ( international cooperative alliance- ICA): “ HTX là một tổ chức tự trị của những người tự nguyện liên hiệp lại để đáp ứng các nhu cầu và nguyện vọng chung của họ về kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua một xí nghiệp cùng sở hữu và quản lí dân chủ”. Năm 1995, định nghĩa này được bổ sung: “ HTX dựa trên ý nghĩa tự cứu giúp mình, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng, công bằng và đoàn kết. Theo truyền thống của những người sáng lập ra HTX, các xã viên HTX tin tưởng vào ý nghĩa đạo đức, về tính trung thực, cởi mở, trách nhiệm xã hội và quan tâm chăm sóc người khác”.
- Ngày 20/3/1996, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua Luật HTX. Tại điều 1, Luật khẳng định: “ HTX là một tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra để phát huy sức mạnh tập thể, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ và cải thiện đời sống góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước”.
- Tại điều 1 Luật HTX sửa đổi được thông qua tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XI vào tháng 11 năm 2003 quy định: “ HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có nhu cầu, lợi ích chung , tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước.
HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích luỹ và các nguồn vốn khác của HTX theo quy định của pháp luật”.
1.1.2. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp:
Theo điều 2- các Nghị định của Chính phủ về HTX ,quy định:
1.1.2.1 Tự nguyện
a, Cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân, cán bộ, công chức Nhà nước có đủ điều kiện theo quy định tại Điều 10 Nghị định này, tán thành Điều lệ HTX và có đơn xin gia nhập hoặc xin ra HTX.
Đối với xã viên của các HTX đã đăng ký và hoạt động theo Luật HTX năm 1996 được miễn trừ đơn xin ra nhập HTX, nhưng nếu xin ra HTX thì phải có đơn.
b, Việc HTX tham gia liên hiệp HTX phải được Đại hội xã viên biểu quyết thông qua.
1.1.2.2. Dân chủ, bình đẳng và công khai:
a, Tất cả xã viên cùng tham gia quản lý HTX thông qua biểu quyết, quyết định các vấn đề của HTX. Biểu quyết của xã viên có giá trị như nhau;
b, Xã viên có quyền đề đạt và yêu cầu Ban quản trị, Ban kiểm soát giải thích và trả lời về những vấn đề xã viên quan tâm. Trường hợp không được trả lời, xã viên có quyền đưa ra Đại hội xã viên để giải quyết;
c, HTX công khai tới xã viên trong Đại hội xã viên hoặc thông báo bằng văn bản định kỳ trực tiếp tới từng xã viên, nhóm xã viên cùng sinh sống theo địa bàn hoặc thông tin trên bản tin hàng ngày tại trụ sở HTX về: kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh; việc trích lập các quỹ; chia lãi theo vốn góp,theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX; các đóng góp xã hội; các quyền lợi, nghĩa vụ của từng xã viên, trừ những vấn đề thuộc về bí mật kinh doanh, bí quyết công nghệ sản xuất do Đại hội xã viên quy định.
1.1.2.3. Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi:
a, HTX tự quyết định: lựa chọn phương án sản xuất, kinh doanh; phân phối kết quả sản xuất, kinh doanh; lập và mức trích lập các quỹ; mức tiền công, tiền lương đối với những người làm việc cho HTX;
b, HTX tự lựa chọn và quyết định: hình thức, thời điểm huy động vốn; chủ động sử dụng vốn và tài sản của mình; chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và ký kết hợp đồng; tổ chức thực hiện hợp đồng và chịu trách nhiệm theo pháp luật về hợp đồng đã ký kết.
c, HTX tự chịu trách nhiệm về những rủi ro trong quá trình hoạt động. Mỗi xã viên trong HTX cùng chịu trách nhiệm về những rủi ro của HTX trong phạm vi vốn góp của mình, cùng nhau quyết định những giải pháp khắc phục rủi ro;
d, Các xã viên HTX cùng hưởng lợi theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 18 Luật HTX năm 2003.
1.1.2.4. Hợp tác và phát triển cộng đồng:
a, Xã viên HTX phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong HTX, trong cộng đồng xã hội;
b, Các HTX cùng hợp tác với nhau trong sản xuất, kinh doanh và trong xây dựng, phát triển phong trào HTX .
1.1.3. Điều lệ HTX .
1.1.3.1. Mỗi HTX có Điều lệ riêng, Điều lệ HTX phải phù hợp với các quy định của Luật HTX và các quy định khác của pháp luật.
1.1.3.2. Điều lệ HTX có các nội dung chủ yếu sau đây:
a, Tên HTX, biểu tượng của HTX( nếu có);
b, Địa chỉ trụ sở chính của HTX;
c, Ngành, nghề, sản xuất kinh doanh;
d, Các quy định về đối tượng , điều kiện, thủ tục gia nhập HTX và ra HTX của xã viên;
đ, Các quy định về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ của xã viên;
e, Nguyên tắc và đối tượng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc.
g, Vốn điều lệ của HTX;
h, Vốn góp tối thiểu: mức góp, hình thức góp, thời hạn góp và điều kiện trả lại vốn góp của xã viên;
i, Thẩm quyền và phương thức huy động vốn;
k, Nguyên tắc trả công, xử lý các khoản lỗ; chia lãi theo vốn góp, theo công sức đóng góp của xã viên và theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX; trích lập, quản lý và sử dụng các quỹ của HTX;
l, Thể thức quản lý, sử dụng, bảo toàn và xử lý phần tài sản chung, vốn tích luỹ của HTX khi HTX đang hoạt động và khi HTX giải thể;
m, Cơ cấu tổ chức quản lý HTX; chức năng, quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm của Ban quản trị, Trưởng Ban quản trị, Chủ nhiệm HTX, Ban kiểm soát, Trưởng Ban kiểm soát và các bộ phận giúp việc cho HTX.
n, Người đại diện theo pháp luật của HTX;
o, Thể thức tiến hành đại hội và thông qua quyết định của Đại hội xã viên;
p, Chế độ xử lý vi phạm Điều lệ HTX và nguyên tắc giải quyết tranh chấp nội bộ;
q, Thể thức sửa đổi Điều lệ HTX;
r, Các quy định khác do Đại hội xã viên tự quyết định nhưng không trái với các quy định của pháp luật.
1.1.3.3. Khi sửa đổi Điều lệ HTX, HTX phải gửi Điều lệ có sửa đổi kèm theo biên bản của Đại hội xã viên đến cơ quan đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho HTX.
1.1.3.4. Chính phủ ban hành Mẫu hướng dẫn xây dựng Điều lệ HTX nông nghiệp, quỹ tín dụng nhân dân và HTX phi nông nghiệp
1.1.4. Các loại hình HTX
1.1.4.1. HTX dịch vụ: bao gồm ba loại:
- HTX dịch vụ từng khâu: có nội dung hoạt động tập trung ở từng lĩnh vực trong quá trình sản xuất hoặc từng khâu công việc như: đầu vào, đầu ra, phòng trừ sâu bệnh…
- HTX dịch vụ tổng hợp đa chức năng: có nội dung hoạt động đa dạng, gồm nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất như: cung ứng vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ giống, phòng trừ sâu bệnh, tưới tiêu…
- HTX dịch vụ chuyên ngành: HTX này được hình thành từ nhu cầu của các hộ thành viên cùng sản xuất, kinh doanh một loại hàng hóa đặc trưng, hoặc cùng làm một nghề giống nhau( HTX trồng rừng, HTX trồng mía…) HTX thực hiện các khâu dịch vụ của kinh tế hộ như chọn giống, cung ứng vật tư, trao đổi hướng dẫn kỹ thuật, dịch vụ vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, đại diện các hộ thành viên quan hệ với các cơ sở chế biến, tổ chức tín dụng…
1.1.4.2. HTX sản xuất kết hợp dịch vụ:
Các HTX loại này thường dưới dạng các HTX chuyên môn hóa theo sản phẩm. Đó là các HTX gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ, trong đó trực tiếp sản xuất là các hộ nông dân, HTX hợp đồng bao tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm như: các HTX sản xuất rau, HTX sản xuất sữa. HTX loại này có đặc điểm: nội
dung sản xuất là chủ yếu, dịch vụ là kết hợp. Đây là hình thức HTX khá phổ biến
ở nước ta.
1.1.4.3. HTX sản xuất- kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện:
Mô hình HTX sản xuất- kinh doanh ở mức độ toàn diện, vừa trực tiếp tổ chức sản xuất kinh doanh tập trung như tổ chức các cơ sở chế biến của HTX để đảm bảo cung ứng đầu vào cho các xã viên (chế biến thức ăn gia súc, sản xuất cây giống…) hoặc đảm bảo tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho xã viên là chế biến và tiều thụ sản phẩm hoặc tổ chức phát triển ngành, nghề tiểu thủ công nghiệp để tạo việc làm, tăng thu nhập cho xã viên và người lao động tạo ra lợi nhuận để hỗ trợ các khâu dịch vụ cho xã viên phát triển kinh tế hộ tự chủ.
Đây là mô hình tổ chức HTX có hiệu quả mà nhiều nước trên thế giới đã áp dụng như: HTX sản xuất rau quả của Đài Loan, HTX chế biến rượu nho ở CHLB Đức…Đồng thời nó cũng phù hợp với điều kiện ở nhiều vùng nước ta, trước hết là đối với các vùng sản xuất hàng hóa, kinh tế đã có bước phát triển. Xây dựng HTX theo mô hình loại này sẽ tạo điều kiện để cho quá trình công nghiệp hóa- hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn có điều kiện hiện đại hóa sản xuất tạo ra nhiều loại hàng hóa có sức cạnh tranh cao, vừa phát huy được vai trò vị trí tự chủ của kinh tế hộ xã viên trong quá trình chuyển sang sản xuất hàng hóa, không hạn chế tính năng động, sáng tạo của hộ xã viên.
1.2. HTX nông nghiệp
1.2.1. Khái niệm
Theo giáo trình quản trị kinh doanh nông nghiệp- Đại học kinh tế quốc dân thì “ HTX nông nghiệp là một trong các hình thức cụ thể của kinh tế hợp tác trong nông nghiệp, là tổ chức kinh tế của những người nông dân có cùng nhu cầu và nguyện vọng, tự nguyện liên kết lại để phối hợp giúp đỡ nhau phát triển kinh tế hoặc đáp ứng tốt hơn nhu cầu về đời sống của mỗi thành viên, tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc pháp luật quy định, có tư cách pháp nhân”.
Như vậy, HTX nông nghiệp là một loại hình HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nó mang đầy đủ các đặc trưng, loại hình, vai trò…của một HTX nói chung. Tuy nhiên, do hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp nên nó cũng có những tính chất, đặc điểm riêng có.
1.2.2. Vai trò của HTX nông nghiệp
- HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế tập thể của nông dân,vì vậy hoạt động của HTX nông nghiệp có tác động to lớn, tích cực đến hoạt động sản xuất của hộ nông dân. HTX cung cấp các yếu tố đầu vào và các dịch vụ cho hoạt động sản xuất nông nghiệp được kịp thời, đầy đủ,và đảm bảo chất lượng làm cho hiệu quả sản xuất của hộ nông dân được tăng lên.
- Thông qua hoạt động dịch vụ mà vai trò điều tiết của HTX nông nghiệp được thực hiện, sản xuất của hộ nông dân được thực hiện theo hướng tập trung, tạo điều kiện hình thành các vùng sản xuất tập trung chuyên môn hóa như: dịch vụ làm đất, dịch vụ tưới nước…đòi hỏi sản xuất của hộ nông dân phải thực hiện thống nhất trên từng cánh đồng về chủng loại vốn, thời vụ gieo trồng và chăm sóc.
- HTX còn là nơi tiếp nhận những sự trợ giúp của nhà nước tới hộ nông dân, vì vậy hoạt động của HTX nông nghiệp có vai trò cầu nối giữa nhà nước với hộ nông dân một cách có hiệu quả.Trong một số trường hợp, khi có nhiều tổ chức tham gia hoạt động dịch vụ cho hộ nông dân thì hoạt động của HTX là đối trọng buộc các đối tượng phải phục vụ tốt hơn cho nông dân.
1.2.3. Các đặc trưng của HTX nông nghiệp
Một là, HTX nông nghiệp là tổ chức liên kết kinh tế tự nguyện của những nông hộ, trang trại có chung yêu cầu về những dịch vụ cho sản xuất kinh doanh và đời sống của mình mà bản thân từng nông hộ không làm được hoặc làm không có hiệu quả.
Hai là, cơ sở thành lập của các HTX là dựa vào việc cùng góp vốn của các thành viên và quỳên làm chủ hoàn toàn bình đẳng giữa các xã viên theo nguyên tắc mỗi xã viên một phiếu biểu quyết không phân biệt lượng vốn góp ít hay nhiều.
Ba là, mục đích kinh doanh của HTX trước hết là làm dịch vụ cho xã viên, đáp ứng đầy đủ và kịp thời về số lượng, chất lượng của dịch vụ, đồng thời cũng phải tuân theo nguyên tắc bảo toàn và tái sản xuất mở rộng vốn bằng cách thực hiện mức giá và lãi suất nội bộ thấp hơn giá thị trường.
Bốn là, HTX thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi.
Năm là, HTX là một tổ chức liên kết kinh tế chỉ liên kết những xã viên thực sự có nhu cầu, có mong muốn, không lệ thuộc vào nơi ở và cũng chỉ liên kết ở những dịch vụ cần thiết và đủ khả năn quản lí kinh doanh. Như vậy, trong mỗi thôn, mỗi xã có thể tồn tại nhiều loại hình HTX có nội dung kinh doanh khác nhau, có số lượng xã viên không như nhau, trong đó có một số nông hộ, trang trại đồng thời là lã viên của một số HTX.
Sáu là, nông hộ trang trại xã viên vừa là đơn vị kinh tế tự chủ trong HTX, vừa là đơn vị kinh tế cơ sở hoạt động kinh doanh và hạch toán độc lập. Do vậy, quan hệ giữa HTX và xã viên vừa là quan hệ liên kết, giúp đỡ nội bộ vừa là quan hệ giữa hai đơn vị kinh doanh có tư cách pháp nhân độc lập. Cơ chế liên kết của HTX cần phản ánh được mối quan hệ phức tạp đó.
Từ những đặc trưng trên có thể rút ra đặc trưng bản chất của HTX là : HTX là tổ chức kinh tế liên kết cơ sở của các nông hộ và trang trại, mang tính chất vừa tương trợ giúp đỡ, vừa kinh doanh.
1.2.4. Các hình thức của HTX nông nghiệp
1.2.4.1. HTX nông nghiệp làm dịch vụ
Về hình thức, đây là tổ chức kinh tế trong nông nghiệp tách ra làm dịch vụ cho nông nghiệp, bao gồm: dịch vụ các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp (các HTX cung ứng vật tư, giống…); dịch vu các khâu cho sản xuất nông nghiệp (HTX làm đất, tưới nước, bảo vệ thực vật…); dịch vụ quá trình tiếp theo của quá trình sản xuất nông nghiệp( HTX chế biến, tiêu thụ sản phẩm…).
Về thực chất, các HTX trên được tổ chức với mục đích phục vụ cho khâu sản xuất nông nghiệp của các hộ nông dân là chủ yếu. Vì vậy, sự ra đời của các HTX nông nghiệp làm dịch vụ hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu khách quan của sản xuất nông nghiệp, trong đó, đặc điểm của ngành, trình độ sản xuất của các hộ nông dân chi phối một cách trực tiếp nhất.
HTX dịch vụ nông nghiệp gồm: HTX dịch vụ chuyên khâu (là HTX chỉ thực hiện một chức năng dịch vụ một khâu cho sản xuất nông nghiệp như: HTX dịch vụ thuỷ nông, HTX dịch vụ điện nông thôn…) và HTX dịch vụ tổng hợp (là các HTX thực hiện các chức năng dịch vụ nhiều khâu cho sản xuất nông nghiệp, đôi khi cho cả đời sống).
1.2.4.2. HTX sản xuất kết hợp dịch vụ:
Các HTX loại này thường dưới dạng các HTX chuyên môn hoá theo sản phẩm. Đó là các HTX gắn sản xuất với chế biến, tiêu thụ, trong đó trực tiếp sản xuất là hộ nông dân, HTX hợp đồng bao tiêu chế biến và tiêu thụ sản phẩm, nông dân tham gia vào HTX như những thành viên chính thức. Ví dụ: HTX sản xuất
rau, HTX sản xuất sữa…
1.2.4.3. HTX sản xuất nông nghiệp:
HTX loại này giống như các HTX sản xuất nông nghiệp ở nước ta trước khi đổi mới, nhưng mục đích nhằm tạo ra quy mô sản xuất thích hợp chống lại sự chèn ép của tư thương, tạo những ưu thế mới ở những ngành khó tách riêng, khai thác những ưu đãi của chính phủ đối với các doanh nghiệp lớn, khai thác những nguồn lực cần đầu tư lớn…
1.3. Tính tất yếu khách quan của kinh tế HTX
1.3.1. Tính tất yếu khách quan
Trong mỗi chuyên ngành đều có thế mạnh riêng của nó đồng thời lại không thể phát huy thế mạnh riêng nếu không có sự liên kết với các chuyên ngành khác có liên quan hoặc liên kết ở phạm vi rộng. Bởi vậy, trong nông nghiệp, dưới bất kỳ phương thức sản xuất của một hình thái kinh tế xã hội nào, nông dân đều có nhu cầu hợp tác từ đơn ngành cho đến đa ngành, từ đơn giản cho đến hình thức cao, xuất phát từ lợi ích kinh tế của họ. Trình độ của lực lượng sản xuất càng phát triển thì nhu cầu hợp tác càng tăng lên và lập ra các HTX. Mọi thành viên trong HTX có quyền ngang nhau, được hưởng những thành quả trong sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng có trách nhiệm ngang nhau chia sẻ những rủi ro mất mát của HTX. Nội dung hoạt động của HTX rất phong phú và có quy mô thích hợp từ cấp cơ sở đến cấp khu vực, liên khu vực, cao hơn nữa là liên đoàn, tập đoàn trên phạm vi toàn quốc.
Kinh tế hợp tác và HTX là sản phẩm tất yếu của sản xuất hàng hóa; sản xuất hàng hóa càng phát triển, sự cạnh tranh trong kinh tế thị trường càng gay gắt thì những người lao động riêng lẻ, các hộ cá thể, các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng có yêu cầu phải liên kết hợp tác với nhau, nếu không thì khó có thể tồn tại và phát triển. Phát triển kinh tế hợp tác và HTX là con đường để giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất nhỏ, manh mún với sản xuất hàng hóa lớn, đáp ứng yêu cầu khách quan của quá trình công nghiệp hóa..
Ngày nay, nền kinh tế của hầu khắp các quốc gia đang hòa nhập vào nền kinh tế thị trường trên phạm vi toàn cầu. Với cơ chế này, bên cạnh những mặt tích cực thì mặt tiêu cực của nó đã làm tổn hại không nhỏ đến lợi ích của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nền kinh tế ở những nước này chủ yếu là nông nghiệp , gánh chịu những tổn hại đó chính là tầng lớp nông dân. Bởi vậy, sự hình thành và phát triển các HTX nông nghiệp ở những nước này là đương nhiên, đó là con đường tất yếu khách quan của kinh tế hộ nông dân.
Phát triển kinh tế hợp tác và HTX là một nhu cầu tất yếu, luôn được Đảng và nhà nước quan tâm, đặc biệt là trong thời kì đổi mới hiện nay, nó càng có vai trò quan trọng. Nước ta đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng sản xuất phát triển không đều, vì vậy cần phải phát triển nhiều thành phần để có quan hệ sản xuất phù hợp, trong đó kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể làm nòng cốt. Hơn n ữa, nước ta là một nước nông nghiệp, mà sản xuất nông nghiệp vốn có tính thời vụ rất lớn, phụ thuộc vào tự nhiên, thu nhập thấp…Vì vậy cần có sự hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau để giảm bớt những khó khăn đó.
Kinh tế hợp tác và HTX là hình thức tổ chức kinh tế mang tính chất xã hội hóa, còn là nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giáo dục ý thức phát triển cộng đồng; là hình thức tổ chức kinh tế quan trọng để người lao động, hộ xã viên tiếp nhận sự hỗ trợ của nhà nước, liên kết với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế; thực hiện liên minh công nông. Phát triển kinh tế hợp tác và HTX là phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
HTX giúp các xã viên phát triển sản xuất thông qua cung ứng các dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất, đảm bảo sản xuất đúng thời vụ. Góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người nông dân, cải thiện đời sống, bảo vệ môi trường, giải quyết các vấn đề xã hội, sản xuất ra các sản phẩm chất lượng cao, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm…
Chương 2. Thực trạng phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Thủy Nguyên (giai đoạn 2002- 2006).
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế -xã hội của huyện Thủy Nguyên
2.1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên
Thủy Nguyên là một huyện lớn nằm bên dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Phía Bắc, Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh; phía Tây Nam giáp huyện An Dương và nội thành Hải Phòng; phía Đông Nam là cửa biển Nam Triệu; Địa hình Thủy Nguyên khá đa dạng, dốc từ phía Tây Bắc xuống Đông Nam, vừa có núi đất, núi đá vôi, vừa có đồng bằng và hệ thống sông ngòi dày đặc. Đây chính là những điều kiện tự nhiên thuận lợi để huyện Thủy Nguyên phát triển một nền kinh tế đa dạng về ngành nghề bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thủy sản và du lịch.
- Vị trí địa lí: nằm ở cửa ngõ phía Bắc thành phố Hải Phòng
- Diện tích tự nhiên: 242km2
- Dân số: 29 vạn người
-Đơn vị hành chính: 34 xã, 2 thị trấn, trong đó có 6 xã miền núi
- Khí hậu:huyện Thủy Nguyên nằm trong vành đai nhiệt đới gió mùa châu Á, sát biển Đông nên chịu ảnh hưởng của gió mùa.
2.1.3. Điều kiện kinh tế- xã hội
- Kinh tế:
Trở về Thủy Nguyên, không chỉ với những con người xa quê lâu ngày mà ngay cả chính những người dân nơi đây cũng cảm thấy ngỡ ngàng trước sự đổi thay, phát triển nhanh chóng của vùng đất này. Nhiều công trình dân dụng mọc lên san sát, đường xá được nâng cấp, mở rộng, đời sống nhân dân ngày một cải thiện. Một chiếc áo với những gam màu mới đang khoác lên mình huyện Thủy Nguyên, mở ra một hướng phát triển mới, một diện mạo mới với vị thế của một trong những trung tâm đô thị của thành phố Cảng trong tương lai không xa theo quy hoạch điều chỉnh của thành phố Hải Phòng đến năm 2020.
Tận dụng tối đa các thế mạnh của một vùng đất giàu tiềm năng kinh tế, đa dạng về ngành nghề, Thủy Nguyên đã nắm bắt thời cơ, khai thác tối đa những tiềm năng sẵn có. Trên cơ sở đó, nhanh chóng xác định ngành kinh tế mũi nhọn để đầu tư phát triển, tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa bước đầu đã thu được những thành quả tốt đẹp. Trong giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 49% xuống 40%, công nghiệp xây dựng tăng từ 15% lên 30%, ngành dịch vụ cũng được điều chỉnh hợp lí hơn. Nhờ đó, năm 2005, tổng giá trị các ngành sản xuất và dịch vụ đạt 701,1 tỷ đồng, tăng 15,6% so với năm 2004, trong đó ngành nông nghiệp tăng 5,1%, ngành công nghiệp- xây dựng tăng 27%, ngành dịch vụ tăng 23%.
Trong nông nghiệp, diện tích cây lúa năng suất thấp giảm dần, một phần chuyển sang nuôi trồng thủy sản, thay đổi cơ cấu trà lúa theo hướng tăng diện tích cây lúa xuân muộn, mùa trung từ 28% lên 33%, đạt năng suất lúa 45,5 tạ/ha/vụ, đảm bảo diện tích trên 2000 ha rau màu, trong đó diện tích rau đạt 1.320 ha với sản lượng 22.586 tấn. Công tác chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp bước đầu có những kết quả đáng ghi nhận. Mặc dù, diện tích sản xuất nông nghiệp giảm dần, nhưng do tích cực đưa giống cây trồng,vật nuôi có năng suất,chất lượng cao vào sản xuất, giá trị sản xuất ngành trồng trọt năm 2005 tăng 24% so với năm 2002.
Chăn nuôi gia súc, gia cầm được chú trọng, đàn lợn gia cầm tăng theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển mạnh về số lượng và quy mô. Trong năm 2005, huyện đã đưa vào sử dụng 21 trang trại gà, quy mô 3000 con/ trang trại; 3 trang trại nuôi lợn nái ngoại, quy mô 25-30 con/ trang trại. Các trang trại tập trung chủ yếu ở một số xã Lưu Kiếm, Lại Xuân và Minh Tân.
Bên cạnh chăn nuôi, huyện đã tiến hành quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy sản, lập các dự án nuôi tập trung theo phương pháp bán thâm canh và công nghiệp. Diện tích nuôi trông duy trì ở mức 2.450 ha, đối tượng nuôi chủ yếu là tôm sú, cua bể, cá chim trắng với sản lượng đạt 4.800 tấn/năm. Hoạt động khai thác thủy sản phát triển, năm 2005, huyện Thủy Nguyên đóng mới gần 100 tầu đánh cá, nâng tổng số phương tiện đánh bắt lên 1.400 chiếc, trong đó có 450 phương tiện đánh bắt xa bờ, sản lượng khai thác thủy sản đạt 5.800 tấn.
Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp- xây dựng và dịch vụ, tổng giá trị sản xuất đạt 287 tỷ đồng. Hiện nay trên địa bàn huyện có hơn 20 xí nghiệp, nhà máy, hàng trăm cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ, công ty trách nhiệm hữu hạn hoạt động đã tạo lập môi trường sản xuất- kinh doanh sôi động, cạnh tranh lành mạnh, góp phần giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, tăng nhanh giá trị sản xuất công nghiệp- xây dựng trên địa bàn huyện. Trong đó, nếu năm 2002, giá trị sản xuất công nghiệp- xây dựng chỉ đạt 54,1 tỷ đồng thì năm 2005, con số này đã tăng lên 182 tỷ đồng, gấp gần 3,4 lần so với năm 2002. Sản lượng một số sản phẩm truyền thống của ngành công nghiệp đều tăng, trong đó đá các loại đạt 450.000m3, tăng 9%; đúc kim loại đạt 10.500 tấn, tằng 27,5%, vôi củ đạt 44.000 tấn, tăng 10% so với năm 2004. Cùng với những thành tựu đạt được, Thủy Nguyên còn đón nhận nhiều dự án lớn đang được đầu tư trên địa bàn như: tuyến quốc lộ 10 từ Bến Kiền, Đá Bạc sang Quảng Ninh; nhà máy nhiệt điện 600MW( xã Tam Hưng ), nhà máy xi măng Hải Phòng( thị trấn Minh Đức ); mở rộng công ty công nghiệp Tầu thủy Nam Triệu…Đây sẽ là những nền tảng cơ bản cho sự phát triển của Thủy Nguyên trong tương lai.
Bên cạnh đó, phát huy lợi thế của vùng ven đô giáp hải cảng, Thủy Nguyên có điều kiện phát triển du lịch, thương mại, và dịch vụ với nhiều thắng cảnh đẹp như: hồ Sông Giá , Hang Lương, Hang Vua, khu vực núi Tràng Kênh…và nhiều công trình kiến trúc độc đáo, đền thờ, miếu mạo đã được nhà nước công nhận và xếp hạng cùng với những lễ hội truyền thống độc đáo, đậm đà
bản sắc dân tộc.
- Văn hóa- xã hội:
Có thể nói, bức tranh kinh tế Thủy Nguyên trong giai đoạn gần đây đã có uhững gam màu sáng, hoạt động kinh tế sôi động hơn đã mang lại hơi thở mới cho cuộc sống của người dân nơi đây. Đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Thủy Nguyên được cải thiện rõ rệt nhờ các biện pháp chăm lo đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển văn hóa- giáo dục.
Trong đó, lĩnh vực văn hóa- xã hội của huyện đã có nhiều chuyển biến tích cực. Thực hiện phương châm “ giáo dục là quốc sách hàng đầu”, hàng năm, tỷ lệ học sinh đến lớp ở các bậc học đạt cao. Năm 2001, huyện đã được Bộ giáo dục- đào tạo công nhận phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Năm 2005-2006, toàn huyện có 245 học sinh doạt giải trong kỳ thi học sinh giỏi cấp thành phố, trong đó có 13 giải nhất, 54 giải nhì, 71 giải ba. Để đạt được những kết quả trên, đội ngũ giáo viên các cấp trong huyện luôn được nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Tính đến nay, toàn huyện có 95% giáo viên có trình độ cao đẳng sư phạm trở lên, tỷ lệ giáo viên giỏi đạt trên 30%.
Công tác y tế, dân số và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được quan tâm, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa. Đến nay, huyện đã hoàn thành chương trình đưa bác sĩ về cơ sở, sửa chữa các trạm y tế xã, đầu tư hệ thống trang thiết bị hiện đại, phục vụ tốt công tác khám, chữa bệnh. Đặc biệt, công tác giáo dục, chăm sóc, bảo vệ trẻ em được quan tâm thường xuyên bằng hành động thiết thực như duy trì tốt hoạt động giảng dạy ở các lớp học tình thương, giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt hòa nhập cộng đồng.
Các hoạt động văn hóa, thể thao quần chúng phát triển mạnh mẽ. Công tác xã hội hóa thể thao được đẩy mạnh từ cấp huyện đến cơ sở, góp phần rèn luyện sức khỏe cho nhân dân. Các môn bơi, lặn, bóng đá thiếu niên, nhi đồng, điền kinh trong sân đều đạt thành tích cao. Các năm gần đây, Thủy Nguyên luôn được công nhận là đơn vị lá cờ đầu về phong trào thể dục- thể thao của thành phố
Về xây dựng cơ bản, huyện chỉ đạo các ngành thực hiện xong quy hoạch chi tiết thị trấn Núi Đèo, thị trấn Minh Đức, khu đô thị Bắc Sông Cấm và lập dự án khai thác tài nguyên hồ Sông Gía. Ngoài ra, huyện còn tiến hành xây dựng 2 nhà máy nước loại nhỏ ở xã Tân Dương, Lập Lễ, hệ thống cấp nước ở Lại Xuân, xây dựng 60 bể xử lý chất thải chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường. Tổng mức vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 2005 đạt 50,5 tỷ đồng.
Hệ thống giao thông vận tải phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân. Bên cạnh đó, công tác quản lý phương tiện, giải tỏa hành lang an toàn giao thông được tăng cường, thường xuyên thực hiện chế độ duy tu, sửa chữa hệ thống đường xá. Năm 2005, huyện đã tiến hành cải tạo, nâng cấp 30 km đường, trong đó có 4,6 km đường huyện quản lý và 25,4 km đường liên thôn, xóm, xã.
Đến nay, huyện Thủy Nguyên đã cơ bản hoàn thành việc bàn giao lưới điện trung áp ở các xã,thị trấn, đưa vào sử dụng 5 công trình bằng nguồn vốn phụ thu và một phần đóng góp của nhân dân trị giá 644 triệu đồng. Bên cạnh đó, ngành Bưu điện Thủy Nguyên cũng đạt được nhiều bước tiến vượt bậc. Trang thiết bị được đầu tư mới khá hiện đại, số lượng máy mới được lắp đặt tăng nhanh, đạt 2,86/ 100 dân.
Có được sự phát triển như ngày hôm nay, huyện Thủy Nguyên luôn nhớ ơn những người con hy sinih bảo vệ Tổ quốc. Hướng về truyền thống uống nước nhớ nguồn, Huyện ủy, Uỷ ban nhân dân huyện Thủy Nguyên luôn chăm lo đời sống các gia đình chính sách, gia đình có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn; duy trì và đẩy mạnh các phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng quỹ nhân đạo ở khắp các cơ quan, đơn vị trong toàn huyện với số tiền ủng hộ quỹ trên 1 tỷ đồng. Đây là một nghĩa cử cao đẹp cần được duy trì và phát huy có hiệu quả ở các xã trong toàn huyện.
Thủy Nguyên- khởi nguồn của dựng xây, của những tín hiệu mới đang ngày một khởi sắc. Mảnh đất này, chẳng bao lâu nữa, sẽ trở thành một trung tâm đô thị hành chính của thành phố Cảng. Trong thời gian tới,khi quy hoạch của thành phố được triển khai, Thủy Nguyên sẽ hứa hẹn nhiều điều bất ngờ, đột phá trong tốc độ phát triển kinh tế và văn hóa- xã hội.
2.2. Thực trạng phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn
2.2.1. Về số lượng
2.2.1.1. V ề số lượng HTX
Biểu 2.1 .Phân loại HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Thủy Nguyên
Đơn vị: HTX
STT
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
1
Tổng số HTX
41
41
41
2
Số HTX có báo cáo
38
38
38
3
Phân loại HTX
- Loại khá
14
15
15
- Loại trung bình
16
15
15
- Loại kém
11
11
11
Nguồn: Sở NN& PTNT Hải Phòng
Huyện Thủy Nguyên có tổng cộng 41 HTX nông nghiệp thành lập mới theo Luật HTX trên nền của các HTX đã được chuyển đổi nên tình trạng xã viên cả làng như HTX cũ không còn. Những năm gần đây số lượng HTX không thay đổi. Tuy nhiên số HTX làm ăn có hiệu quả lại không nhiều, đa số vẫn là các HTX làm ăn trung bình và kém, tồn tại chỉ là mặt hình thức, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường.Qua nhiều năm, số HTX làm ăn đạt hiệu quả vẫn không tăng nhiều. Năm 2004 có số HTX nông nghiệp làm ăn khá là 14, số HTX làm ăn trung bình và kém là 27. Năm 2005 và 2006 đều có số HTX nông nghiệp làm ăn khá là 15 và số HTX trung bình và yếu là 26. ( số HTX làm ăn khá chỉ tăng 1 và số HTX làm ăn yếu kém giảm 1.)
Quy mô đất đai
Đất đai của HTX nông nghiệp huyện nhìn chung còn nhỏ hẹp, phân tán, sử dụng kém hiệu quả, một phần bị thu hồi cho các dự án phát triển, đất cho HTX xây dựng cơ sở làm việc cũng bị hạn chế. Nhiều HTX không có đất để xây dựng trụ sở làm việc, có HTX lại không có đủ đất để mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, dịch vụ( trong tổng số 41 HTX mới chỉ có 22 HTX có trụ sở làm việc). Điều này gây khó khăn, cản trở rất lớn cho quá trình phát triển của HTX.
2.2.1.3. Số lượng xã viên
Biểu 2.2 . Số lượng xã viên trên địa bàn huyện Thủy Nguyên
Năm
Đơn vị
2003
2004
2005
2006
Tổng số HTX
HTX
41
41
41
41
Tổng số xã viên
Người
9344
9395
9395
9400
Bình quân
Người
228
229
229
229
Nguồn: Cục thống kê Hải Phòng.
Hầu hết các xã của huyện đều có các HTX nông nghiệp hoạt động trên địa bàn, thu hút số lượng xã viên khá lớn. Bình quân một HTX nông nghiệp mỗi năm có 229 xã viên.Trong đó các HTX nông nghiệp có số lượng xã viên nhiều nhất là HTX Lại Xuân, HTX Lập Lễ. Số lượng xã viên HTX nông nghiệp cho thấy vai trò to lớn của các HTX nông nghiệp hiện nay. Hoạt động chủ yếu của các HTX là các khâu dịch vụ cho kinh tế hộ xã viên và bà con nông dân, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập của bà con xã viên và các hộ nông dân. Số lượng xã viên cao hơn qua các năm đã đánh dấu bước phát triển mới của HTX nông nghiệp, chứng tỏ HTX nông nghiệp đã đáp ứng được phần nào nhu cầu của xã viên và mang lại hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, so với tổng dân số và tiềm lực của huyện thì số lượng xã viên như vậy còn thấp, một phần cũng là do người dân chưa có nhu cầu hợp tác, còn thiếu các thông tin kinh tế. Mặt khác nội dung hoạt động dịch vụ và sản xuất kinh doanh của các HTX còn bó hẹp ở số lượng và quy mô nên nhu cầu kết nạp xã viên thấp.
2.2.2. Về chất lượng
2.2.2.1. Về vốn
Biểu 2.3. Bảng tổng hợp vốn, tài sản cố định của HTX trên địa bàn
Đơn vị: 1000 đ
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Số HTX báo cáo
38
38
38
Tổng vốn lưu động
3.645.382
5.273.937,6
4.926.847,78
Tổng giá trị TSCĐ
36.841.022
41.981.643,8
44.781.955,661
Vốn thanh toán
-Nợ phải thu+ tạm ứng
9.061.499
10.721.305,3
9.107.160,198
-Nợ phải trả
4.581.953
5.505.131,9
3.415.677,529
Nguồn: Phòng NN& PTNT huyện Thủy Nguyên
Đến năm 2004, qua số liệu HTX báo cáo, tổng giá trị tài sản cố định của các HTX là 36.841,022 triệu đồng, trung bình một HTX nông nghiệp có 969,5 triệu đồng,năm 2005 là 41.981,643 triệu đồng, bình quân một HTX có 1104,8 triệu đồng( tăng 135,3 triệu đồng so với năm 2004). Năm 2006, là 44.781,96 triệu đồng, bình quân một HTX có 1178,4 triệu đồng( tăng 73,6 triệu đồng so với năm 2005).Tài sản cố định tăng lên là do các HTX đã chú trọng đầu tư thêm vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng như: trậm bơm, máy biến thế… Nhìn chung thì các HTX quy mô xã thường có số vốn lớn hơn các HTX quy mô thôn và liên thôn. Tuy nhiên,vốn cố định chiếm tỷ lệ cao lại có ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của HTX. HTX sẽ phải vay vốn các tổ chức để tiến hành san xuất kinh doanh, dịch vụ, gây khó khăn cho quá trình hoạt động.
Vê vốn lưu động, năm 2004 tổng vốn lưu động là 3.645,382 triệu đồng, năm 2005 là 5.273,937 triệu đồng, năm 2006 là 4.926,848 triệu đồng. Vốn lưu động năm 2006 tăng 35% so với năm 2004 nhưng lại giảm 6,6% so với năm 2005, điều đó cho thấy các HTX nông nghiệp trên địa bàn vẫn đang gặp khó khăn về tài chính trong quá trình hoạt động.
Về vốn thanh toán, năm 2004, tổng số nợ phải thu và tạm ứng của các HTX là 9.061,499 triệu đồng, nợ phải trả là 4.581.9 triệu đồng. Năm 2005, nợ phải thu và tạm ứng là 10.721,3 triệu đồng, nợ phải trả là 5.505,1 triệu đồng. Năm 2006, con số tương ứng là 9.107,16 triệu đồng và 3.415,677 triệu đồng. Qua đó ta thấy nợ phải thu và nợ phải trả có phần giảm. Công tác theo dõi và quản lí vốn, tài sản, công nợ của HTX đã được chú ý chặt chẽ hơn, nói chung thì hiện tượng thất thoát vốn đã giảm, một số HTX làm ăn có lãi và tăng thêm vốn.
2.2.2.2. Về trình độ tổ chức, trình độ quản lí
Trong tổng số HTX nông nghiệp của huyện, có29 HTX hoạt động quy mô toàn xã và 12HTX hoạt động quy mô thôn, không có HTX hoạt động quy mô liên thôn và quy mô liên xã. Nhìn chung, sau khi chuyển đổi HTX theo Luật HTX , bộ máy tổ chức của HTX đã được tinh giảm gọn nhẹ, phù hợp hơn với điều kiện của HTX. Đại hội đại biểu xã viên bầu ra ban chủ nhiệm, thành viên ban quản trị, ban kiểm soát. Ban quản trị bầu ra kế toán trưởng và phó chủ nhiệm. Đối với HTX quy mô nhỏ, ban quản trị HTX phổ biến có 3 người( chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán ), HTX quy mô lớn( toàn xã ) thì có chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán trưởng, trưởng ban kiểm soát, thường có nhiệm kì không quá 5 năm, tùy theo quy định do đại hội xã viên đề ra( thường là 3 năm).
Việc tinh giảm cán bộ đã góp phần giảm chi phí quản lý và tăng cường tính năng động của cán bộ HTX. Hầu hết các HTX đều có tổ dịch vụ. Các HTX có số lượng xã viên lớn có tổ chức các đội xã viên. Việc phân công lao động trong HTX nông nghiệp cũng đã khoa học hơn, một người có thể kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau, trợ giúp nhau khi cần thiết để đảm bảo sản xuất kinh doanh, dịch vụ đạt kết quả tốt.
Trong HTX nông nghiệp, những lao động trực tiếp thường không yêu cầu phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ văn hóa. Chỉ có các lao động gián tiếp là cán bộ quản lí cần đòi hỏi phải có trình độ chuyên môn nhất định. Đội ngũ cán bộ này điều hành hoạt động trong HTX, do đó có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động của HTX.
Biểu 2.4. Tổng hợp trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn một số cán bộ HTX năm 2005
Chỉ tiêu
Chủ nhiệm
Phó chủ nhiệm
Kế toán trưởng
Trưởng ban kiểm soát
Số người
%
Số người
%
Số người
%
Số người
%
I. Trình độ văn hóa
41
44
41
41
Cấp I
Cấp II
13
31,7
20
45,5
6
14,6
20
48,8
Cấp III
28
68,3
24
54,5
35
85,4
21
51,2
II. Trình độ chuyên môn
ĐH, CĐ
4
9,7
3
6,8
10
24,4
4
9,7
Trung cấp
8
19,6
7
16
20
48,8
3
7,3
Chưa qua đào tạo
29
70,7
34
73,2
11
26,8
34
83
Nguồn: Sở NN & PTNT Hải Phòng
Theo biểu ta thấy: Trong tổng số 41 chủ nhiệm HTX, có 13 người có trình độ văn hóa cấp II ( chiếm tỷ lệ.31,7%), 28 người có trình độ văn hóa cấp III(chiếm tỉ lệ.68,3%), không còn ai có tình trạng văn hóa cấp I. Số người có bằng cấp đại học, cao đẳng chuyên ngành kinh tế, chuyên môn kĩ thuật là 4 người, trung cấp là 8 người, tức là chỉ có 12 người có bằng cấp, còn tới 29 người chưa qua đào tạo, chiếm tỉ lệ là.70,7%.
Trong số 44 phó chủ nhiệm, có 20 người có trình độ văn hóa cấp II( chiếm tỉ lệ 45,5%), 24 người có trình độ văn hóa cấp III( chiếm 54,5%), không có tình trạng văn hóa cấp I. Số người có bằng cấp đại học, cao đẳng chuyên ngành kinh tế, chuyên môn kĩ thuật là 3 người, trình độ trung cấp là 7 người, còn tới 34 người là chưa qua đào tạo( chiếm 77,3%).
Trong số 41 kế toán trưởng, có 6 người có trình độ văn hóa cấp II( chiếm tỉ lệ 14,6%), 35 người có trình độ văn hóa cấp III( chiếm 85,4 %). Số có bằng cấp đại học, cao đẳng chuyên ngành kinh tế, chuyên môn kĩ thuật là 10 người, trình độ trung cấp là 20 người, còn 11 người là chưa qua đào tạo( chiếm tỷ lệ 26,8%).
Trong số 41 trưởng ban kiểm soát, có 20 người có trình độ văn hóa cấp II( chiếm 48,8 %), 21 người có trình độ văn hóa cấp II( chiếm 51,2%). Số có bằng cấp đại học, cao đẳng chuyên ngành kinh tế, chuyên môn kĩ thuật là 4 người, trung cấp là 3 người, còn 34 người là chưa có bằng cấp( chiếm 82,9%).
Hầu hết các cán bộ HTX nông nghiệp đều có xuất thân tại địa phương, gắn bó với nông nghiệp, đã có kinh nghiệm nhiều năm công tác nên được tín nhiệm cao.
Qua kết quả trên ta thấy trình độ cán bộ quản lí HTX nông nghiệp ở huyện Thủy Nguyên là rất đáng báo động. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ còn rất thấp: trình độ đại học, cao đẳng quá ít, trình độ trung cấp tuy có khả quan hơn nhưng so với tổng số cán bộ thì vẫn còn rất nhỏ. Kết quả này một phần là do công tác đào tạo chưa đúng hướng, một phần do thành phố và nhà nước chưa có chế độ đãi ngộ thỏa đáng với HTX nên không thu hút được những người có trình độ cao, vì những người có trình độ thường muốn sang hoạt động bên xã hơn, họ không gắn bó với HTX do chế độ tiền công còn quá thấp, chế độ bảo hiểm lai chưa được quan tâm…
2.2.2.3. Về ứng dụng khoa học công nghệ
Các HTX nông nghiệp đã huy động được tiền vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đổi mới công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiếp thu ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kĩ thuật thâm canh cây trồng, con vật nuôi giúp kinh tế hộ phát triển, góp phần vào thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, đồng thời mở mang ngành nghề, phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ tổng hợp; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh. Các HTX đã tập trung tổ chức xây dựng cứng hóa kênh mương với kinh phí từ 3 nguồn: ngân sách nhà nước hỗ trợ, nhân dân đóng góp và một phần vốn đầu tư của HTX; HTX đã vươn ra xây dựng lắp đặt hệ thống nhà máy nước sạch phục vụ nhân dân trong vùng( HTX Phục Lễ ), một số HTX mua sắm máy kéo loại trung về dịch vụ làm đất: nhiều HTX đã duy tu bảo dưỡng trạm bơm nước, hệ thống mạng lưới điện phục vụ cho sản xuất và điện sinh hoạt. Một số HTX đã mở mang ngành nghề sản xuất vật liệu xây dựng có cơ khoán mới cởi mở để các nhà đầu tư đưa máy móc, thiết bị khai thác vật liệu xây dựng có hiệu quả như HTX Minh Đức, HTX Lại Sơn, HTX An Sơn. Các HTX mạnh dạn mua sắm một số trang thiết bị phục vụ sản xuất như hệ thống tưới phun nước theo công nghệ mới để tưới cho trên 150 ha canh tác ở vùng trồng rau và trồng hoa, cây cảnh. Các HTX tham gia cùng chính quyền cơ sở thực hiện quy hoạch phân vùng sản xuất, tổ chức “dồn điền, đổi thửa”, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và thông qua hoạt động các khâu dịch vụ nông nghiệp của HTX mà HTX đã thống nhất được kế hoạch sản xuất với xã viên, chỉ đạo và gieo trồng đúng thời vụ.
Hầu hết các HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện tổ chức công tác khuyến nông và dịch vụ khoa học kĩ thuật cho nông dân. Tổ chức đưa tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất cho xã viên và nông hộ.
Tuy nhiên, một số HTX có quy mô nhỏ, làm ăn thua lỗ và không có vốn để kinh doanh không có điều kiện để áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, quản lý, điều này lại càng làm cho họ thua kém hơn các HTX khác trong quá trinh phát triển.
2.2.2.4. Kết quả sản xuất kinh doanh, dịch vụ
Tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh của các HTX có báo cáo tài chính cho thấy tuy số lượng HTX báo cáo không thay đổi nhưng tổng doanh thu của các HTX năm sau đều cao hơn năm trước.
Trong tổng số 38 HTX báo cáo năm 2006, có 13 HTX có dịch vụ điện (chiếm 34,2 %), 12 HTX có dịch vụ thủy nông( chiếm 31,6 %), 38 HTX có dịch vụ tưới tiêu( chiếm 100 %), 36 HTX có dịch vụ điện( chiếm 94,7% ), 6 HTX có dịch vụ ngành nghề( chiếm 15,8 %) và 2 HTX có dịch vụ vật tư và giống khác( chiếm 5 %). Nhờ mở thêm dịch vụ nên hầu hết các HTX đều có lãi.
Biểu 2.5 B ảng tổng hợp doanh thu, lỗ- lãi của các HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện Thủy Nguyên
Chỉ tiêu
Đơn vị
2003
2004
2005
2006
Tổng số HTX
HTX
41
41
41
41
Số HTX có báo cáo
HTX
38
38
38
38
Tổng doanh thu
Tr. đồng
44.578
52.087
63.801
67.053
Bình quân doanh thu/HTX
Tr. đồng
1.173
1.370,7
1.678,9
1.764,5
Tổng lãi
Tr. đồng
1.387
2.698
4.062
3.541
Số HTX có lãi
HTX
38
38
36
36
Số HTX lỗ
HTX
2
2
Bình quân lãi/ HTX
Tr. đồng
46,2
71,02
106,89
93,18
Nguồn: Sở NN& PTNT Hải Phòng
Theo biểu ta thấy: doanh thu bình quân / HTX tăng dần qua các năm. Năm 2004 là 1.370,7 triệu đồng, năm 2005 là 1.678,9 triệu đồng ( tăng .22 % so 2004), năm 2006 là 1.764,5 ( tăng 28,7% so 2004). Năm 2006, đạt doanh thu lớn nhất là HTX Lại Xuân.Các HTX đạt doanh thu cao chủ yếu là các HTX kinh doanh nhiều ngành nghề như HTX Lại Xuân, có cả dịch vụ tưới tiêu, dịch vụ điện và dịch vụ ngành nghề.
Số HTX có lãi các năm gần đây có chiều hướng giảm đi. Năm 2006, có 2 HTX làm ăn thua lỗ.Bình quân lãi/ HTX tăng nhanh trong các năm 2004 và 2005, năm 2006,con số lại giảm đi. Năm 2004 là 71,02 triệu đồng, năm 2005 là 106,89 triệu đồng( tăng 35,87 triệu đồng so với năm 2004), năm 2006 là 93.18 triệu đồng( tăng 22,16 triệu so với năm 2004 nhưng lại giảm 13,71 triệu so với năm 2005). Năm 2005 và năm 2006 đều có 2 HTX làm ăn thua lỗ là HTX Hoàng Fa (-0,5 triệu đồng) và HTX Tuy Lạc(-88,2 triệu đồng). Đây là vấn đề đặt ra cho HTX cũng như các cấp lãnh đạo địa phương. Thời gian tới cần phải quan tâm, tạo điều kiện cho các HTX làm ăn, tránh tình trạng HTX bị thua lỗ, vì như HTX Tuy Lạc, mức lỗ quá nhiều.
Đa số các HTX nông nghiệp hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp với cơ sở vật chất kĩ thuật( kênh mương, hệ thống điện) sẵn có, không tiến hành các họat động chế biến sản xuất theo phương thức công nghiệp nên không có các dự án đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị. Nhiều HTX đang tích cực mở rộng sang các ngành nghề dịch vụ phi nông nghiệp ( nước sạch, vệ sinh môi trường…). Tuy nhiên, để thực hiện được, cần có sự quan tâm của lãnh đạo địa phuơng( một số xã giao HTX nông nghiệp quản lí, khai thác hệ thống nước sạch nhưng một số xã khác laị giao Ban quản lí nước sạch của xã quản lí, do đó còn nhiều khó khăn.
Trên địa bàn đã xuất hiện một vài HTX hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ đạt hiệu quả kinh tế cao, có điều kiện thực hiện phân phối lãi theo mức độ sử dụng dịch vụ và mức góp vốn cho xã viên, điển hình là HTX Lại Xuân: năm 2004, doanh thu đạt8,26 tỷ đồng, trích lập quỹ và phân phối lãi 448 triệu đồng; năm 2005, doanh thu đạt 14,6 tỷ đồng, trích lập quỹ và phân phối lãi 886 triệu đồng. Mặc dù công tác tài chính kế toán của HTX còn nhiều yếu kém, khấu hao chưa đảm bảo nhưng kết quả trên đã biểu hiện sự phát triển của các HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện trong thời gian qua. Nhờ đó vốn quỹ, tài sản của HTX nông nghiệp cũng được củng cố, thu nhập của bà con xã viên cũng được cải thiện hơn so với trước kia.
Các HTX nông nghiệp huyện Thủy Nguyên có được kết quả sản xuất kinh doanh dịch vụ trên, có rất nhiều nguyên nhân, song chủ yếu vẫn là do sự quan tâm của Đảng và chính quyền địa phương đối với HTX, nhất là việc xây dựng đơn giá dịch vụ sản xuất nông nghiệp ở các khâu đầu vào đảm bảo hơn so với các huyện khác trong thành phố; cộng với điều kiện tự nhiên khá thuận lợi về tự nhiên, kinh tế, xã hội của các HTX trong huyện, nên nhiều HTX đã vươn ra sản xuất kinh doanh tổng hợp, nhất là sản xuất vật liệu xây dựng đá- vôi, dịch vụ điện năng, dịch vụ nước sạch hệ tập trung và dịch vụ tiêu thụ hàng hóa nông sản thông qua hợp đồng( thực hiện quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ …
* Về liên doanh, liên kết: Các HTX nông nghiệp đã thực hiện liên kết với chi nhánh điện các huyện và các công ty khai thác công trình thủy lợi để phục vụ hộ nông dân và nhân dân trên địa bàn huyện, với tư cách là đối tác trung gian. Trong các hoạt động này, vai trò của các HTX là rất quan trọng. Các HTX mua điện nước từ các đơn vị này và bán lẻ cho các hộ. Các HTX nông nghiệp có đặc trưng là HTX do chính các xã viên làm chủ( những người trực tiếp hưởng thụ). Do đó khi HTX nông nghiệp phát huy tốt vai trò của mình thì người nông dân và nhân dân trên địa bàn huyện đều được hưởng lợi.
Một số HTX nông nghiệp cũng có quan hệ với các doanh nghiệp khác trong ngành để từ đó hỗ trợ nông dân mua các loại vật tư nông nghiệp ( giống, phân bón). Số lượng các HTX có dịch vụ đầu ra tiêu thụ nông sản cũng đang tăng lên.
Ngoài ra, các HTX nông nghiệp còn liên kết với các tổ chức khác trong đó có các đơn vị nhà nước( các đơn vị sự nghiệp có thu, các cơ quan quản lí nhà nước chuyên ngành) như trung tâm khuyến nông, chi cục thú y, chi cục bảo vệ thực vật…Thông qua mối quan hệ này, các HTX nông nghiệp phục vụ được cho hộ nông dân các dịch vụ thú y, dịch vụ bảo vệ thực vật…và giúp nông dân cập nhập kịp thời những giống cây, con mới có hiệu quả kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu thị trường. Tuy nhiên, những mối quan hệ này lại không nhiều.
Kết quả thực hiện dịch vụ
Doanh thu và lợi nhuận của các HTX nông nghiệp huyện Thủy Nguyên không được ổn định cho lắm. Năm 2004, lãi từ các hoạt động dịch vụ là 2.698.941,9 nghìn đồng, năm 2005 là 4.062.041 nghìn đồng( tăng 1.5 lần so với năm 2004), năm 2006 là 3.541.418,834 nghìn đồng( tăng 31% so với năm 2004 nhưng lại giảm 13% so với năm 2005). Nguyên nhân là do 2 có 2 HTX làm ăn thua lỗ và các đa số các HTX đều có doanh thu và lợi nhuận giảm. Đây là vấn đề bức thiết mà chính quyền huyện và các xã cần có kế hoạch nghiên cứu và đưa ra giải pháp khắc phục nhanh chóng.( bi ểu)
Biểu 2.6. Tổng hợp kết quả thực hiện dịch vụ của các HTX nông nghiệp huyện Thủy Nguyên(đơn vị: nghìn đồng)
2006
Lãi
1.549.866,62
1.145.388
597.488,402
248.675,807
3.541.418,834
Nguồn: Phòng NN & PTNT huyện Thủy Nguyên
Chi
31.191.696,08
17.987.340
8.236.135,742
6.097.096,284
63.512.268,11
Thu
32.741.562,7
19.132.728
8.833.624,144
6.345.772,091
67.053.386,94
2005
Lãi
1.400.506
1.145.388
399.830
1.116.290
4.062.014
Chi
30.742.344
17.987.340
8.823.266
2.186.510
59.739.460
Thu
32.142.850
19.132.728
9.223.096
3.302.800
63.801.474
2004
Lãi
1.089.313,9
796.219,7
362.672,3
450.736
2.698.941,9
Chi
25.951.925
14.280.976,6
8.102.037,3
1.053.104,4
49.348.079,3
Thu
27.041.238,9
15.077.196,3
8.464.745,6
1.503.840,4
52.087.024,2
Năm
Chỉ tiêu
Điện
Ngành nghề
Thủy nông
Vật tư & giống khác
Tổng hợp
2.2.3. Kết quả thực hiện một số chính sách về hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX nông nghiệp của địa phương.
Trong khi chờ các Bộ, Ngành thể chế một số cơ chế, chính sách phát triển HTX , Hải Phòng và cụ thể là Thủy Nguyên đã xây dựng được một số cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế HTX nông nghiệp song còn ở mức độ khiêm tốn như: chính sách hỗ trợ tài chính cho các HTX nông nghiệp làm công tác khuyến nông: hàng năm Uỷ ban nhân dân xã trích 50% nguồn thu trên quỹ đất công ích chuyển cho HTX làm công tác khuyến nông. Chính quyền xã hỗ trợ cho các HTX nông nghiệp bình quân hàng năm là 30 triệu đồng đối với các HTX có quy mô toàn xã, xấp xỉ 10 triệu đồng đ ối với HTX quy mô thôn.
Hỗ trợ 100% lãi suất tín dụng cho công ty vật tư nông nghiệp thành phố để ứng trước phân bón cho các HTX nông nghiệp làm dịch vụ với các hộ nông dân theo phương thức thanh toán trả chậm( giao phân bón từ đầu vụ đến cuối vụ thu hoạch mới thu tiền của nông dân).
Chương trình kiên cố hóa kênh mương sau trạm bơm: hầu hết các HTX được giao tổ chức thực hiện công trình kiên cố hóa kênh mương sau trạm bơm, các hộ nông dân đóng góp 30%, công trình hoàn thành được ngân sách nhà nước hỗ trợ 70%, nhiều HTX còn trích quỹ để đầu thêm cho công trình kênh mương.
Hàng năm ngân sách nhà nước hỗ trợ 100% kinh phí cho các cán bộ chủ chốt các HTX ( chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán trưởng, trưởng ban kiểm soát) tham gia học các lớp tập huấn ngắn ngày về các văn bản pháp luật về HTX và các lớp nâng cao năng lực quản lí HTX .
2.2.4. Nhận xét, đánh giá kết quả kinh tế HTX
2.2.4.1. Thuận lợi
Sau khi thực hiện Luật HTX , bộ máy quản lí HTX nông nghiệp tinh giản, gọn nhẹ phù hợp với quy mô sản xuất kinh doanh, dịch vụ của HTX theo chức năng nhiệm vụ mới. HTX đã dần đáp ứng được yêu cầu sản xuất và tiêu thụ nông sản của xã viên và các nông hộ. Nhiều HTX từ hoạt động dịch vụ ở một số khâu đầu vào của quá trình sản xuất đã vươn ra dịch vụ sản xuất kinh doanh tổng hợp, đồng thời thực hiện liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp, làm cầu nối đến nông dân, thực hiện quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ về tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng. HTX đã bước đầu thể hiện vai trò quan trọng trong tiếp thu, hướng dẫn chuyển giao tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, ngành nghề nông thôn; góp phần xóa đói giảm nghèo, giữ gìn trật tự an ninh và đẩy nhanh tiến độ thực hiện CNH, HĐH trong nông nghiệp, nông thôn; kết quả sản xuất kinh doanh dịch vụ của HTX đã khắc phục một bươc quan trọng tình trạng thua lỗ kéo dài trước đây, một số HTX có lãi cao thực hiện phân phối theo cổ phần và có tích lũy để đầu tư phát triển sản xuất; cùng với chính quyền xã xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, đặc biệt là hệ thống điện, thủy lợi, giao thông nông thôn, quyền lợi của đội ngũ cán bộ được gắn với kết quả sản xuất kinh doanh dịch vụ của HTX. Một số chính sách của địa phương trong thời gian qua đã góp phần giảm bớt khó khăn, thúc đẩy HTX trên địa bàn huyện và thành phố phát triển.
2.2.4.2. Một số tồn tại, khó khăn
- Năng lực quản lí kinh tế, điều hành dịch vụ, sản xuất kinh doanh còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi phát triển HTX trong nền kinh tế thị trường. Do tỷ lệ cán bộ qua đào tạo quá thấp, không những thế, cán bộ quản lí HTX không an tâm công tác, những cán bộ có năng lực đều muốn sang công tác khối xã vì công tác HTX tiền công thấp, chính sách của nhà nước về HTX còn đang bất cập. Do vậy, trong thời gian qua, trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ chủ chốt HTX tăng lên không đáng kể.
- Tiền công và BHXH bắt buộc của cán bộ quản lí gặp khó khăn: Doanh thu hàng năm của các HTX thấp nên tiền công tiền công của cán bộ quản lí HTX cũng thấp tương ứng. Qua kiểm tra, nhiều chủ nhiệm HTX quy mô toàn xã tiền công chỉ đạt 350.000 đến 700.000 đồng/ tháng, nhiều HTX quy mô thôn tiền công là 250.000 đến 300.000 đồng/ tháng.
Do kết quả doanh thu thấp nên vốn quỹ của HTX nhỏ, một trong những nguyên nhân bởi đơn giá dịch vụ thấp, không tính đúng, tính đủ giá thành, đồng thời do tình hình giá cả thị trường biến động qua nhiều giai đoạn mà bao nhiêu năm nay đơn giá dịch vụ không được điều chỉnh lại; nhiều HTX nếu đóng BHXH cho cán bộ và người lao động 17% mức tiền công hàng tháng tùy theo từng đối tượng, hạch toán vào giá thành thì không chịu nổi (bị thua lỗ).
Việc thực hiện Nghị định số 01/2003/ NĐ- CP ngày 9/1/2003 của chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều thuộc Điều lệ Bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP ngày 26/1/2005 của chính phủ; Thông tư số 07/2003/TT- BLĐTBXH 12/3/2003 và công văn số 2799/ BLĐTBXH- BHXH về việc thu BHXH đối với xã viên và người lao động trong HTX; Liên ngành Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và BHXH thành phố Hải Phòng đã có công văn liên ngành số 605/ CV-LN ngày 22/11/2005 về việc hướng dẫn thực hiện thu BHXH bắt buộc đối với xã viên và người lao động trong HTX nông nghiệp. Song đến nay, chỉ có vài HTX tham gia đóng BHXH. Xã viên và người lao động thuộc HTX có mức tiền công thấp, khi tham gia đóng BHXH bắt buộc, phải áp mức lương tối thiểu tại thời điểm này là 350.000 đồng/ tháng để tính mức thu BHXH). Đây cũng là khó khăn khiến những HTX nông nghiệp có doanh thu thấp chưa thực hiện được chế độ đóng BHXH bắt buộc cho xã viên và người lao động làm việc thường xuyên trong HTX .
- Chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX chậm thể chế hóa
Tháng 4 năm 1996 Quốc hội thông qua và chủ tịch nước đã k ý sắc lệnh ban hành Luật HTX; năm 1997, chính phủ đã ban hành hàng loạt Nghị định về HTX trong đó: Nghị định số 15/CP ngày 21/02/1997 của chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển HTX. Đến tháng 12 năm 2003, Luật HTX được sửa đổi, bổ sung, được Quốc hội thông qua và Chủ tịch nước đã kí sắc lệnh ban hành Luật HTX 2003, đồng thời Chính phủ ban hành nhiều Nghị định về HTX, trong đó có Nghị định số 88/2005/ NĐ- CP ngày 11/7/2005 về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX. Cả hai Nghị định về chính sách qua hai giai đoạn nêu trên, đến nay các Bộ, Ngành có liên quan vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, nên trải qua hơn 10 năm từ khi có Luật HTX, tuy chính sách nhưng thực chất các HTX vẫn chưa được hưởng ưu đãi của nhà nước.
Thực hiện Luật đất đai( năm 1993) và Nghị định số 64/ CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ về việc giao đất cho hộ gia đình, cá nhân ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp; Năm 1994, các HTX nông nghiệp phối hợp với UBND xã, đã hoàn thành việc giao đất nông nghiệp cho các hộ gia đình, cá nhân và đất công ích giành cho chính quyền xã; song nhiều nơi trên địa bàn, chính quyền xã thu hồi cả đất trụ sở, nhà kho, sân phơi của HTX mà không đền bù cho HTX. Qũy đất công ích qua dồn điền, đổi thửa đã quy vùng tập trung song nhiều xã chưa ưu tiên cho HTX nhận khoán để sản xuất thóc giống phục vụ nhân dân địa phương mà thuê, thầu cho cá nhân, tổ chức khác.
- Hành lang, môi trường hoạt động của HTX chưa được quan tâm.
Số HTX vươn ra hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ chưa nhiều mà phần đông các HTX còn dịch vụ ở một vài khâu đầu vào của quá trình sản xuất nông nghiệp như: dịch vụ thủy lợi, dịch vụ khoa học- kĩ thuật, dịch vụ vật tư nông nghiệp. Một số nơi HTX đang dịch vụ điện năng có hiệu quả thì chính quyền cơ sở chỉ đạo HTX phải bàn giao dịch vụ điện năng cho cá nhân và tổ chức khác mà không đền bù tài sản cho HTX. Sự hỗ trợ của nhà nước thông qua các chương trình dự án quốc gia và các chương trình dự án do các tổ chức quốc tế tài trợ chưa được ưu tiên cho khu vực kinh tế hợp tác và HTX; hiện có 30% chính quyền xã chưa thực hiện tốt hướng dẫn số 174 liên Sở( Sở Tài chính và Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) về việc giành 50% nguồn thu trên quỹ đất công ích chuyển cho HTX nông nghiệp làm công tác khuyến nông; chương trình cứng hóa kênh mương ở một số xã còn giao khoán cho tổ chức cá nhân khác…
- HTX thiếu vốn hoạt động, thu nợ gặp khó khăn
Hầu hết các HTX trên địa bàn huyện có vốn, quỹ ít. HTX đến nay vẫn chưa vay được vốn ngân hàng nên thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và phát triển ngành nghề mới. Tuy nhà nước đã có chính sách cho HTX vay vốn tại các ngân hàng thương mại từ năm 1997, song HTX chưa được vay vì phải thực hiện cơ chế đảm bảo tiền vay( thế chấp tài sản), khiến nhiều chủ nhiệm đã phải mang tài sản gia đình đi thế chấp để vay vốn cho HTX.
Tư tưởng chây ỳ công nợ của xã viên và các nông hộ về thanh toán thủy lợi phí, chi phí thủy lợi nội đồng đang có hiện tượng gia tăng ở nhiều HTX , nhất là ở những nơi chính quyền địa phương ít quan tâm đến HTX.
2.2.5. Nguyên nhân tồn tại
2.2.5.1. Nguyên nhân khách quan
- Một số tồn tại do lịch sử để lại như: tình trạng quản lý quá yếu kém của các HTX và tập đoàn sản xuất cũ đã làm cho nhiều người rất ấn tượng với tổ chức HTX. Một số vấn đề đến nay chưa được giải quyết dứt điểm như: tài sản chung của HTX với việc phục vụ cả cộng đồng; công nợ của các HTX với các đối tượng và nợ của xã viên đối với HTX chưa được dứt điểm đã làm cản trở quá trình đổi mới và phát triển HTX.
- Sản xuất ở nhiều nơi còn mang tính tự cung tự cấp; phân công lao động và sản xuất hàng hóa chưa phát triển, dẫn đến nhu cầu hợp tác chưa cao; đất đai nông nghiệp manh mún, chưa được tập trung; lao động thiếu việc làm và chất lượng thấp; cơ sở vật chất kĩ thuật nghèo nàn và xuống cấp; khoa học- kĩ thuật chưa phát triển. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập hiện nay………
Thực hiện Luật đất đai, Nghị định 64 của Chính phủ về việc giao diện tích đất nông nghiệp cho các hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài để sản xuất từ năm 1994 đến nay cho thấy: bình quân diện tích trên đầu người thấp( 400m2/ người), mặc dù đã thực hiện dồn điền, đổi thửa và thực hiện 5 quyền của Luật đất đai là quyền chuyển đổi, quyền thừa kế, quyền chuyển nhượng, quyền thế chấp và quyền sử dụng nhưng số thửa của mỗi hộ còn cao và diện tích thửa còn nhỏ; kinh tế trang trại chưa phát triển mạnh, sản xuất nông nghiệp của các hộ còn mang tính tự cấp, tự túc, sản xuất hàng hóa nhỏ lẻ, phân tán, chưa tạo động lực cho kinh tế hợp tác phát triển. Vùng sản xuất nguyên liệu, hàng hóa phát triển chậm, cơ sở hạ tầng thấp kém, thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa chưa được mở rộng.
- Lĩnh vực nông nghiệp kém sức hút do lợi nhuận thấp, rủi ro nhiều… nên sản xuất nông nghiệp nói chung, HTX nông nghiệp nói riêng không thu hút được nhiều đối tượng tham gia.
- Do chuyển hoạt động của HTX từ cơ chế quản lí bao cấp sang hoạt động theo cơ chế thị trường với nội dung hoạt động dịch vụ nên một bộ phận cán bộ còn lúng túng, bỡ ngỡ, có tư tưởng trông chờ, ỷ lại.
- Do một thời gian dài nhà nước không quan tâm đầy đủ đến đào tạo cán bộ cho HTX, không có các chính sách phù hợp…và các chính sách đãi ngộ khác nên rất nhiều người không muốn tham gia công tác HTX. Một số cán bộ có năng lực lại muốn vào hoạt động ở xã nên không thiết tha với HTX.
2.2.5.2. Nguyên nhân chủ quan
- Hệ thống cơ chế, chính sách nhà nước khuyến khích phát triển kinh tế HTX ban hành chưa đồng bộ; nhất là từ khi có Nghị quyết Trung ương 5 và Nghị quyết thành ủy 8 về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể đến nay, các cấp, các ngành chậm thể chế hóa cơ chế chính sách ưu đãi cho HTX về: tín dụng, tài chính, đất đai cho HTX nông nghiệp làm trụ sở- cơ sở chế biến- dịch vụ, chế độ bảo hiểm xã hội, trợ cấp tiền công cho cán bộ chủ chốt của HTX.
- Nhận thức của một bộ phận không nhỏ cán bộ xã viên chưa đúng đắn, thống nhất về đặc trưng, nguyên tắc, vai trò và nội dung hoạt động của HTX nông nghiệp, lầm lẫn với loại hình doanh nghiệp khác. Cũng từ đó, đã dẫn đến đánh giá quá trình phát triển, thực trạng HTX không thống nhất, cán bộ HTX điều hành lúng túng, thụ động. Một số cấp ủy,chính quyền can thiệp sâu, không đúng chức năng, nhiệm vụ vào tổ chức và hoạt động của HTX. Cán bộ trực tiếp quản lí HTX do nhận thức chưa đầy đủ, thu nhập thấp lại bị chi phối can thiệp, không yên tâm, muốn kiêm nghiệm chức danh ở thôn xã, không hăng hái khi được cử đi đào tạo và đem hết khả năng phục vụ HTX.
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo chưa được thường xuyên và tích cực; có nơi buông lõng quản lí nhà nước về HTX nhiều năm không triển khai hội họp, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc. Tình trạng dây dưa phí dịch vụ của các nông hộ với HTX ở mức cao. Có tới 25% chính quyền xã chưa thực hiện tốt hướng dẫn số 174 Liên sở về việc giành 50% nguồn thu trên quỹ đất công ích làm công tác khuyến nông, nên HTX chưa có điều kiện thuận lợi để tiến hành hoạt động. Việc tổng kết và nhân rộng các điển hình, mô hình tốt còn chậm. Công tác đào tạo và bồi dưỡng kiến thức quản lí, nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ quản lí HTX chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng và chất lượng. Trong chỉ đạo, một số nơi còn chậm xử lí những vướng mắc, tồn tại, thậm chí xử lí không đúng với tinh thần của Luật, tính chất của HTX, đã làm giảm năng lực của tổ chức kinh tế HTX như vấn đề xử lí tài sản, công nợ khi chuyển đổi HTX.
- Qua điều tra, khảo sát, nghiên cứu sản xuất kinh doanh, dịch vụ của HTX cho thấy: hiện nay, hầu hết các HTX nông nghiệp hoạt động mang tính công ích vì dịch vụ thiết yếu- nguồn thu chủ yếu của HTX hiện nay là dịch vụ về tưới tiêu nước, thủy lợi nội đồng, bảo vêj cây trồng trên các xứ đồng và khoa học kĩ thuật, mà đơn giá này hơn chục năm nay vẫn chưa được thay đổi, mặc dù giá cả thị trường những năm qua biến động. Có nơi cấp ủy chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo cho HTX điều chỉnh đơn giá nhưng rất khó khăn, chưa thực hiện được, vì tư tưởng của các nông hộ chỉ muốn đơn giá dịch vụ giảm đi còn tăng một chút cũng không chấp nhận. Với tình hình này, nếu không được các cấp, các ngành quan tâm xem xét thì tình hình vốn quỹ HTX ngày càng cạn kiệt, việc phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày một khó khăn hơn.
- Sản xuất kinh doanh còn dừng lại ở một vài khâu đầu vào của sản xuất nông nghiệp, chưa vươn ra dịch vụ tổng hợp, doanh thu thấp, lãi thấp nên việc trích lãi lập quỹ phát triển sản xuất hàng năm của HTX không đáng kể, việc thực hiện tái sản xuất mở rộng, xây dựng, đổi mới máy móc, trang thiết bị rất hạn chế.
- Độ tín nhiệm của các HTX không cao đối với các tổ chức tín dụng. Trước khi có Luật HTX, nhiều HTX có vay nợ hệ thống tín dụng, nhưng trong quá trình hoạt động, do thua lỗ, phần lớn nợ đọng của HTX đối với ngân hàng đã được khoanh nợ và được xóa theo Quy định 146/ QĐ- TTg của Thủ tướng Chính phủ. Do đó, các tổ chức tín dụng còn ngần ngại khi cho HTX vay vốn. Công tác quản lí tài chính của HTX nông nghiệp còn nhiều yếu kém, chưa gây được tín nhiệm đối với các tổ chức tín dụng.
2.2.6. Tình hình đổi mới và phát triển của HTX Lập Lễ,xã Lập Lễ, huyện Thủy Nguyên
2.2.6.1. Một số tình hình cơ bản của HTX
- HTX Lập Lễ nằm ở địa bàn xã Lập Lễ- Huyện Thủy Nguyên, một xã nằm gần cửa biển Nam Triệu. Được thành lập 28/12/1997, là HTX được chuyển đổi theo Luật HTX cũ với quy mô toàn xã. HTX theo mô hình đại diện mỗi hộ nông nghiệp có đại diện một người là xã viên. Tuy nhiên, không phải tất cả hộ nông dân trên địa bàn đều có người tham gia HTX. Hiện HTX có 270 xã viên trong tổng số 2500 hộ.
Cơ sở hạ tầng của HTX chưa được nâng cấp nhiều, ban quản lí HTX chưa có cơ sở làm việc chính thức, thường phải thay đổi nơi làm việc theo yêu cầu của Uỷ ban nhân dân xã (vì mượn đất của xã), điều này gây khó khăn cho HTX trong hoạt động của ban quản lí HTX và tiếp xúc xã viên.
Thành phần của HTX gồm 1 chủ nhiệm, 2 phó chủ nhiệm, 1 kế toán và 1 kiểm soát. Đội bảo vệ thực vật của HTX gồm 6 người, phân ra 6 khu của xã để hoạt động.
Ngành nghề HTX đăng kí kinh doanh gồm có: dịch vụ thủy nông, dịch vụ điện, dịch vụ bảo vệ thực vật và dịch vụ vật tư nông nghiệp. HTX thực hiện chế độ hạch toán theo ngành, quyết toán chung.
Tài sản của HTX hiện tại là 1,8 tỷ, bao gồm trong đó các tài sản cố định hữu hình như: trạm bơm, trạm biến thế…
Về vốn thanh toán: năm 2006, nợ phải thu và tạm ứng của HTX là 387,249 triệu đồng( nợ của HTX cũ là 100 triệu đồng. Nợ phải trả là 2.839 triệu đồng.
Về vốn lưu động: Năm 2004, vốn lưu động của HTX là 23,606 triệu đồng, năm 2005 là 75,403 triệu đồng( tăng 51,797 triệu đồng so với năm 2004), năm 2006 là 64,996 triệu đồng( tăng 41,39 triệu đồng so với năm 2004, giảm 10,407 triệu đồng so với năm 2005).
Nợ phải trả năm 2004 là 128,5 triệu đồng, năm 2005 là 88,5 triệu đồng, năm 2006 là 2,839 triệu đồng. Theo đó, ta thấy nợ phải trả của HTX giảm dần , thể hiện việc HTX đã hoạt động tốt hơn trong thời gian gần đây.
Tài sản cố định của HTX năm 2006 có cao hơn so với các năm trước, do HTX đầu tư mở rộng quy mô hoạt động( năm 2006, tài sản cố định là 1.879.079 nghìn đồng, trong khi của năm 2004 là 1.589.390 nghìn đồng, năm 2005 là 1.417.798 nghìn đồng).( biểu)
Biểu 2.7. Tổng hợp vốn lưu động, tài sản cố định của HTX
Đơn vị: 1000 đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
Vốn lưu động
23.606
75.043,4
64.996
Nợ phải thu+ tạm ứng
412.900
361.677,2
387.249
Nợ phải trả
128.500
88.500
2.839
TSCĐ
1.589.390
1.417.798
1.879.079
Nguồn: Phòng NN & PTNT huyện Thủy Nguyên
Lưong chủ nhiệm HTX là 850.000 đồng/ tháng; lương phó chủ nhiệm, kế toán, kiểm soát từ 70- 80% lương chủ nhiệm. Mức lương này so với lương của chủ nhiệm của các HTX khác trong huyện là tương đối cao. Đó cũng là do HTX tính lương theo doanh thu, mà doanh thu của HTX là tương đối cao.
* Tình hình thực hiện dịch vụ của HTX
- Dịch vụ thủy nông: là dịch vụ chung của các HTX nông nghiệp trên địa bàn huyện, là dịch vụ rất được coi trọng do vai trò của nước đối với quá trình sản xuất và sinh hoạt của xã viên và nhân dân trong địa bàn. Việc thực hiện dịch vụ còn gặp khó khăn do nhu cầu của người dân khác nhau, mương máng xuống cấp. ý thức của một số người dân chưa cao…Tuy nhiên, HTX cũng đã thu được lợi nhuận từ dịch vụ. Năm 2004, lãi từ dịch vụ là 6.906,5 nghìn đồng, năm 2005 là 2.718 nghìn đồng, năm 2006 là 11.582 nghìn đồng.
- Dịch vụ vật tư và giống khác: Đây là dịch vụ quan trọng, góp phần cung ứng kịp thời vật tư cho nông dân, làm bình ổn giá cả vật tư trên địa bàn xã theo hướng có lợi cho người nông dân, chủ yếu là vật tư xây dựng… dịch vụ cũng góp phần tăng thu nhập cho HTX, tuy nhiên không đáng kể: năm 2004, lãi từ họat động này là 1.500 nghìn đồng, năm 2005 là 4.700 nghìn đồng và năm 2006 là 6.790 nghìn đồng.
- Dịch vụ điện: đây là dịch vụ quan trọng, mang tính sinh tồn của HTX. Nếu không gắn điện với HTX thì HTX sẽ không thể tồn tại được. HTX thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở tổ quản lí điện thực hiện đúng quy chế sử dụng điện, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi gây thất thoát điện. Lãi thu được từ hoạt động này năm 2004 là 73.791,1 nghìn đồng, năm 2005 là 93.464 nghìn đồng( tăng 26,7% so 2004), năm 2006 là 147.183 nghìn đồng( tăng 99,45% so 2004 và tăng 57,5% so với năm 2005).
Tính toàn doanh thu năm 2004 đạt 1.616.589,7 nghìn đồng, năm 2005 đạt 1.877.226 nghìn đồng, năm 2006 là 2.227.233 nghìn đồng. Lợi nhuận năm 2004 là 82.197,06 nghìn đồng, năm 2005 là 100.882 nghìn đồng, tăng.22,7% so năm 2004, năm 2006 là 165.550 nghìn đồng, tăng 64,1% so với năm 2005 và .tăng gấp đôi so với năm 2004). Lợi nhuận tăng chủ yếu do lợi nhuận về dịch vụ điện tăng, do HTX chú trọng đầu tư thêm vốn và mở rộng quy mô các dịch vụ( biểu).
Biểu2.8. Tổng hợp tình hình thực hiện dịch vụ của HTX (đơn vị: 1000 đồng)
2006
Lãi
147.183
11.582
6790
165.555
Nguồn: Phòng NN & PTNT huyện Thủy Nguyên
Chi
1.583.417
478.261
0
2.061.678
Thu
1.730.600
489.843
6790
2.227.233
2005
Lãi
93.464
2.718
4700
100.882
Chi
1.389.140
387.206
0
1.776.344
Thu
1.482.602
389.924
4700
1.877.226
2004
Lãi
73.791,1
6.096.5
1500
82.197,6
Chi
1.146.755,9
387.636,2
0
1.534.392,1
Thu
1.220.547
394.542,7
1500
1.616.589,7
Năm
Chỉ tiêu
Điện
Thủy nông
Vật tư & giống khác
Tổng hợp
Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu phát triển HTX nông nghiệp huyện
Thủy Nguyên giai đoạn 2007- 2015
3.1. Phương hướng
Phát triển các tổ kinh tế hợp tác, bao gồm từ tổ vần công, đổi công, hợp tác lao động…tổ chức lỏng đến tổ hợp tác có tổ chức chặt chẽ, có tài sản, vốn quỹ dùng chung làm ở tất cả các vùng và ở những nơi có HTX đang hoạt động để đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu phát triển của kinh tế hộ. Khuyến khích, hỗ trợ tổ hợp tác mở rộng quy mô hợp tác, quy mô góp vốn, mở rộng phạm vi hoạt động, đào tạo cán bộ để khi có đủ điều kiện thành lập HTX mới. Từ những HTX làm được ít khâu đến HTX làm được nhiều khâu cho sản xuất nông nghiệp …
3.1.1. Đối với các HTX nông nghiệp hiện có
Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế HTX nông nghiệp đã và đang hoạt động, từng bước mở rộng ngành nghề dịch vụ tiến tới sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tổng hợp trong nông nghiệp , hướng dịch vụ dần chuyển sang các khâu dịch vụ đầu ra cho sản xuất nông nghiệp như: các khâu bảo quản, chế biến và bao tiêu nông sản phẩm cho nông dân, bảo đảm cung ứng các giống cây trồng- con vật nuôi, dịch vụ tín dụng nội bộ cho nông dân. Những HTX quy mô thôn hoạt động sản xuất kich doanh, dịch vụ khó khăn, bộ máy quản lí yếu kém, quy mô dịch vụ nhỏ,cán bộ, xã viên có nguyện vọng sáp nhập thì cho hợp nhất thành quy mô toàn xã, song phải đảm bảo theo luật định; trường hợp HTX yếu kém, sản xuất kinh doanh, dịch vụ thua lỗ mà không có phương án khắc phục thì thực hiện giải thể tự nguyện hoặc giải thể bắt buộc theo Luật HTX. Những xã chưa có HTX, cấp ủy chính quyền địa phương chỉ đạo quan tâm thành lập các tổ hợp tác để đảm nhiệm những dịch vụ nông nghiệp thiết yếu phục vụ nông dân, không để lồng ghép nhiệm vụ cho thôn trưởng.
3.1.2. Đối với HTX nông nghiệp thành lập mới
Khuyến khích thành lập HTX mới theo Luật HTX( tự nguyện- dân chủ- cùng có lợi) trên cơ sở nhu cầu của nông dân. Xuất phát từ các tổ hợp tác tự nguyện dịch vụ, sản xuất kinh doanh nông nghiệp, trên cơ sở có đăng kí với chính quyền xã và khuyến khích phát triển kinh tế trang trại để hai loại hình này dần đủ lớn sẽ hình thành HTX theo loại hình hoạt động chuyên ngành như: HTX chuyên chăn nuôi, HTX chuyên sản xuất rau sạch, HTX trang trại…
Từ bài học kinh nghiệm thành công và không thành công trong thực tiễn chỉ đạo xây dựng HTX nông nghiệp chung cả nước cũng như huyện Thủy Nguyên- Hải Phòng nói riêng những năm trước đây, nhất là trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt cho thấy, để xây dựng được HTX đứng vững và phát triển ổn định trong cơ chế thị trường cần hội tụ đủ các điều kiện:
- Nông dân có yếu cầu: HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế tự nguyện, tự quản của nông dân và những người sản xuất khác trong nông thôn. Vì vậy, họ hợp tác nhau lại chỉ khi họ thực sự có nhu cầu và do họ quyết định.
- Có đội ngũ cán bộ quản lí HTX , đặc biệt là chủ nhiệm có năng lực, có trình độ chuyên môn và tâm huyết với HTX , luôn quan tâm đến lợi ích của xã viên và lợi ích của tập thể.
- Có sự lãnh đạo của Đảng, sự hỗ trợ,giúp đỡ của nhà nước. Tổ chức HTX nông nghiệp là việc của nông dân, nhưng tự họ không thể tổ chức được mà cần có sự hướng dẫn, lãnh đạo của Đảng, sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà nước thì HTX mới đứng vững, phát triển ổn định và đúng hướng trong cơ chế thị trường.
3.1.3. Giải quyết những tồn đọng của HTX
Tập trung giải quyết dứt điểm nợ tồn đọng kéo dài trong HTX (nợ nhà nước, nợ ngân hàng và các doanh nghiệp khác, nợ xã viên, xã viên nợ HTX).
Giải quyết rõ ràng, rành mạch các quan hệ về tài sản giữa HTX cũ chuyển giao cho chính quyền như: trụ sở văn phòng, trạm xá, hệ thống truyền thanh..
Bổ sung, hoàn thiện chính sách khuyến khích phát triển HTX bao gồm Luật HTX, các Nghị định của Chính phủ về chính sách đất đai, tín dụng, thuế, đào tạo cán bộ HTX , bảo hiểm xã hội…
3.2. Mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể
3.2.1 Quan điểm phát triển HTX nông nghiệp
- Tiếp tục quán triệt đường lối đổi mới của Đảng về phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế tập thể mà nòng cốt là HTX và các doanh nghiệp nhà nước là nền tảng quan trọng của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa như đã được nêu trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Phát triển HTX nông nghiệp phải tôn trọng và tạo điều kiện, chăm lo kinh tế hộ phát triển.
- Phát triển HTX nông nghịêp phải gắn với quá trình CNH- HĐH đất nước và gắn giữa vùng sản xuất với công nghiệp chế biến, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng phù hợp với tiến trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực và là điểm tựa để xây dựng các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và nhà nước.
- Phát triển HTX nông nghiệp trong mối liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp nhà nước và quan hệ với các thành phần kinh tế khác. HTX nông nghiệp phải được làm rõ chức năng, nhiệm vụ về kinh tế- xã hội, được tạo mọi điều kiện đầy đủ về cơ chế chính sách để có điều kiện vươn lên làm giàu hiệu quả.
- Phát triển HTX nông nghiệp phải đảm bảo các nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi, phải tiến hành từng bước, linh hoạt với những mô hình, tổ chức hoạt động phong phú, đa dạng phù hợp với điều kiện, tập quán của địa phương.
- Phát triển HTX nông nghịêp phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý thống nhất, hỗ trợ tích cực của Nhà nước và tự chủ, tự chịu trách nhiệm của HTX nông nghiệp.
3.2.2. Mục tiêu
- Về nhu cầu hợp tác: thực tiễn sản xuất nông nghiệp về nhu cầu hợp tác là cần thiết và không thể thiếu được, dường như mang tính bắt buộc đó là dịch vụ tưới tiêu nước và dịch vụ khoa học kĩ thuật cho cây trồng; chính vì vậy mà ở nơi nào không có HTX thì ở nơi đó chính quyền thôn hoặc xóm vươn ra đảm nhiệm vì các hộ hay các thành phần kinh tế khác không làm được hoặc làm không có hiệu quả. Xu hướng vùng sản xuất nguyên liệu nông sản hàng hóa ngày một phát triển cao thì các HTX sẽ tập trung dịch vụ tiêu thụ nông sản và vươn lên sản xuất kin HTX doanh tổng hợp.
- Về tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng : thực hiện liên kết 4 “ nhà” như: sản xuất và cung ứng giống lúa, khoai tây giống: huyện có từ 5-7 HTX thực hiện liên kết với Công ty sản xuất giống cây trồng và Công ty dịch vụ kĩ thuật nông nghiệp thành phố và các doanh nghiệp khác để sản xuất giống lúa, khoai tây. Về vật tư phân bón theo hình thức chậm trả có 70% số HTX thực hiện hợp đồng với Công ty để dịch vụ cho các nông hộ.
- Về phát triển số lượng HTX : Giảm các HTX quy mô thôn hoạt động không có hiệu quả, khuyến khích thành lập HTX quy mô toàn xã và liên xã trên địa bàn toàn huyện.
3.2.3. Nhiệm vụ
- HTX nông nghiệp phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ nay đến 2015 là: tiếp tục tham gia cùng chính quyền xã thực hiện tốt việc dồn điền, đổi thửa trong nông nghiệp và chuyển dịch cơ cấu cây trồng, con vật nuôi; tổ chức xây dựng và tham gia thực hiện các chương trình: tiếp tục chương trình mương cứng sau trạm bơm; chương trình cứng hóa đường trục của các xứ đồng, làm tốt công tác khuyến nông và dịch vụ khoa học kĩ thuật; tăng cường vật chất, kĩ thuật đối với các HTX sản xuất giống lúa( kho, sân phơi, máy phân hạt, máy sấy…); xây dựng, mua sắm trang thiết bị kho lạnh bảo quản; tùy theo khả năng, điều kiện kinh tế và năng lực tổ chức kinh doanh của mỗi HTX mà tổ chức xây dựng, thực hiện các dự án: dự án thí điểm về chế biến nông sản phẩm, dự án nhà máy nước phục vụ nước sinh họat cho nhân dân
trong vùng, dự án mua sắm mới hệ thống điện sản xuất phục vụ nhân dân địa phương đạt tiêu chuẩn quy định chuyên ngành, phương án trồng rau sạch bằng nhà lưới, vòm che, màng phủ, phương án vận chuyển hàng hóa bằng cơ giới; xây dựng mô hình HTX tổ chức hoạt động dịch vụ những khâu đầu ra cho kinh tế hộ, nhất là tiêu thụ nông sản…
- Từ nay đến năm 2015, tùy theo khả năng, điều kiện kinh tế và năng lực tổ chức kinh doanh của HTX mà bình quân mỗi năm huyện chỉ đạo chọn từ 1- 2 HTX xây dựng đề án thực hiện khoa học công nghệ mới, tiên tiến( về chế biến nông sản phẩm, nhà máy cung cấp nước sạch, trồng rau sạch bằng nhà lưới…). Phấn đấu bình quân tốc độ đổi mới công nghệ đạt 15%/ năm để nâng cao năng suất, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Vùng trồng màu và trồng cây vụ đông quy mô lớn phải đạt 90-100 % HTX có kho lạnh để giữ giống, đồng thời chỉ đạo cho 100% các HTX tổ chức thực hiện chương trình mương cứng sau trạm bơm và tổ chức thực hiện công tác khuyến nông và dịch vụ kĩ thuật giống cây trồng và con vật nuôi.
3.3. Một số giải pháp chủ yếu
3.3.1. T ăng cường công tác thông tin tuyên truyền
Các HTX nông nghiệp còn gặp khó khăn trong quá trình phát triển, nguyên nhân quan trọng là do sự nhận thức chưa đúng, lệch lạc về HTX, sự lệch lạc đó tồn tại trong suy nghĩ của cả xã viên, nông dân, cấp ủy Đảng và chính quyền các cấp. Nhiều thế hệ dân cư nông thôn đã tham gia và chứng kiến quá trình hoạt động của mô hình HTX kiểu cũ, và hình thức hoạt động của nó đã in sâu vào trong tâm trí họ. Do đó, trong một thời gian ngắn, từ khi Luật HTX có hiệu lực, nhận thức về HTX chưa thể thay đổi kịp thời, do sự tiếp nhận thông tin và hiểu biết của họ còn có hạn. Do đó, cán bộ, xã viên và bà con nông dân , nhất là cán bộ cơ sở xã chưa nhận thức đúng mức về nguyên tắc tự nguyện, tự chủ, tự chịu trách nhiệm với đặc điểm chức năng, vai trò của HTX nông nghiệp, đặc biệt là mục đích hoạt động kinh doanh của HTX, không thấy rõ nguyên tắc quan trọng cơ bản là lợi ích của xã viên. Có nơi, cán bộ xã còn buông lỏng sự lãnh đạo, có nơi lại can thiệp sâu vào quá trình hoạt động của HTX, gây khó khăn cho quá trình hoạt động, làm sai lệch mục đích kinh doanh của HTX. Để khắc phục những tồn tại đó, một mặt cần tuyên truyền, phổ biến Luật HTX đến cán bộ, xã viên, người dân, thay đổi nhận thức của họ, một mặt, vận động họ tham gia HTX với tinh thần tự nguyện và theo nhu cầu. Huyện chủ trì cán bộ đến các xã, để phổ biến Luật HTX, tập huấn cho cán bộ cơ sở. Cán bộ xã đã được học tập, có kiến thức tổ chức xuống từng thôn, xóm trong địa bàn để tuyên truyền đến người dân, vận động họ tham gia HTX.
Thực hiện Nghị quyết số 08/NQ/TU ngày 21/5/2002 của Ban thường vụ Thành ủy Hải Phòng về kinh tế tập thể nông nghiệp và Chương trình hành động số 5784/ CT-UB ngày 18/12/2002 về xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích phát triển HTX nông nghiệp của Uỷ ban nhân dân thành phố; các cấp các ngành của thành phố tiếp tục quán triệt Luật HTX và các Nghị định của Chính phủ về HTX, các Nghị quyết Trung ương và Nghị quyết Thành ủy Hải Phòng để tạo ra sự chuyển biến, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ hơn các quan điểm cũng như các giải pháp của Đảng ta về phát triển kinh tế tập thể. Huyện Thuỷ Nguyên cần phối hợp chặt chẽ với Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn để thực hiện, giải quyết những khó khăn vướng mắc, giúp các HTX nông nghiệp hiện có ổn định và ngày càng phát triển, đồng thời tạo điều kiện hình thành và phát triển HTX mới theo Luật.
Huyện phải coi phát triển HTX nông nghiệp là nhiệm vụ quan trọng trong việc xây dựng nông thôn mới. Các xã hàng năm phải có sơ kết tình hình phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn, tạo điều kiện cho chính quyền huyện có cơ sở để nghiên cứu các HTX điển hình tiên tiến để tổ chức cho cán bộ chủ chốt của các HTX tham quan, học tập.
3.3.2. Về nguồn lực
3.3.2.1. Về tài chính
Việc huy động vốn mở rộng quy mô, phát triển ngành nghề mới trong HTX nông nghiệp là rất cần thiết, nhưng Uỷ ban nhân dân huyện Thủy Nguyên cần chỉ đạo các HTX phải có phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ cụ thể trình đại hội xã viên và được đại hội xã viên nhất trí tán thành. Trên cơ sở đó tổ chức huy động vốn như sau:
- Huy động vốn xã viên: Ban quản trị HTX phải chủ động đề xuất và lấy biểu quyết mức huy động vốn cụ thể của mỗi xã viên tham gia đóng góp để cùng hưởng lợi.
- Huy động vốn vay ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng (nếu HTX có vật thế chấp), các tổ chức kinh tế và cá nhân (nếu có thể), song tổng mức vay không quá 50% vốn điều lệ (theo thông tư 48/ 2002 của Bộ Tài chính và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định về chế độ tài chính đối với HTX nông nghiệp).
- Nghiên cứu những phương án ứng dụng công nghệ mới, khoa học kỹ thuật mới vào HTX ; nghiên cứu đề xuất với UBND về cơ chế hỗ trợ khuyến khích HTX , với kinh phí từ nguồn ngân sách thành phố.
- Nghị định 67/CP của Chính phủ và Luật đất đai quy định HTX được vay vốn theo quy định và thế chấp bằng đất được giao( hay được thuê). Đề nghị bổ sung chính sách cho HTX được vay vốn đối với loại tín dụng như đối với hộ nghèo, cho vay với vùng khó khăn, vì thực chất hiện nay, HTX nông nghiệp là của những người nghèo, những người nông dân sống ở vùng khó khăn. Theo chính sách đó, HTX nông nghiệp sẽ được vay với lãi suất ưu đãi, không phải thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay và được xem xét khi có rủi ro.
3.3.2.2. Về đất đai
Trong sản xuất nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh, do đó việc quản lí sử dụng đất đai hợp l ý, có hiệu quả là rất cần thiết, có chính sách đất đai đúng đắn sẽ tạo điều kiện để phát triển sản xuất hàng hóa, mở rộng ngành nghề.
- Việc tạo điều kiện, ưu tiên cho HTX thuê, thầu quỹ đất công ích của xã: Để tạo vùng sản xuất tiêu thụ nông sản hàng hóa tập trung quy mô lớn, rút bớt lao động trong nông nghiệp, giảm giá thành, tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, một trong những biện pháp là tiếp tục thực hiện dồn điền, đổi thửa trong nông nghiệp. Trong quá trình tổ chức thực hiện dồn điền, đổi thửa, thực hiện quy hoạch quỹ đất công ích tập trung vào vùng nhất định, trên cơ sở đó, Uỷ ban nhân dân xã nên ưu tiên cho HTX thuê, thầu sản xuất thóc giống phục vụ cho các nông hộ của địa phương.
- Nghiên cứu đề xuất xây dựng quy hoạch một số xứ đồng của xã trên địa bàn huyện:
Huyện nên chọn 1 đến 3 xã tổ chức xây dựng quy hoạch xứ đồng mật điền có diện tích khoảng từ 25- 30 ha canh tác, trên cơ sở dồn điền, đổi thửa, sao cho số hộ có khoảng từ 30- 130 hộ. Trên cơ sở đó thành lập HTX chuyên canh, cùng thực hiện công thức luân canh cây trồng phục vụ cho sản xuất, kinh doanh cây trồng phục vụ cho xuất khẩu, cho các vùng đô thị, hay sản xuất thóc giống cho nhân dân trong xã và các vùng lân cận.
3.3.2.3. Về lao động
Để phát triển HTX nông nghiệp trên địa bàn trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế(WTO ), vai trò của nguồn nhân lực là rất quan trọng. Kinh nghiệm cho thấy, muốn tạo ra được một HTX làm dịch vụ hiệu quả, trước hết cần có con người làm tiền đề. Muốn đi vào kinh doanh dịch vụ, HTX cần phải có những cán bộ chủ chốt vừa có tín nhiệm với xã viên, vừa có năng lực quản lý kinh doanh,thích ứng nhanh chóng với cơ chế thị trường, biết tính toán sử dụng các nguồn lực trong và ngoài HTX, thông qua liên kết kinh tế cùng có lợi. Nhiều HTX không chuyển sang kinh doanh dịch vụ được vì không có cán bộ đủ đạo đức và đủ năng lực. Có cán bộ tốt, nhưng không biết kinh doanh dịch vụ, tất yếu sẽ dẫn đến làm ăn thua lỗ, cán bộ năng động nhưng đạo đức kém sẽ dẫn đến tham ô, làm thất thoát tài sản của HTX.
Để có cán bộ giỏi, cần phải có chiến lược lựa chọn người năng động và có tâm huyết với HTX, từ đó tiến hành đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho họ Đồng thời cần có chế độ thù lao thỏa đáng và chế độ bảo hiểm xã hội cho đội ngũ cán bộ này. Ở những nơi tiền công quản lý HTX quá thấp thì nên có chế độ trợ cấp thêm từ ngân sách địa phương, coi đó là khoản đầu tư cần thiết cho sự phát triển HTX. Trong công tác đào tạo cán bộ( chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kế toán trưởng, trưởng ban kiểm soát), phấn đấu mỗi HTX có ít nhất một cán bộ chủ chốt có trình độ đại học trung cấp chuyên ngành phù hợp với trình độ quản lý HTX nông nghiệp. Công tác tập huấn ngắn hạn về chủ trương,chính sách phát triển HTX nông nghiệp và nghiệp vụ cho cán bộ quản trị, kiểm soát, kế toán của HTX nông nghiệp.
Do cán bộ Ban quản trị, Ban kiểm soát HTX được bầu công khai, dân chủ trong Đại hội xã viên nên các cơ quan quản lý Nhà nước khó can thiệp sâu vào nội bộ tổ chức của HTX. Vì vậy các HTX phải sớm xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về cán bộ và đưa ra thông qua tại Đại hội xã viên. Trong đó cần phải làm rõ những tiêu chuẩn riêng, phân biệt cán bộ chủ chốt và cán bộ chuyên môn giúp việc. Chính việc làm rõ các tiêu chuẩn sẽ giúp cho các lần bầu cử chọn đúng người. Các HTX có thể dựa vào thực trạng lao động ở xã, thôn mình mà đặt ra tiêu chuẩn cho phù hợp. Trên cơ sở đó, Đại hội xã viên bầu các chức danh và Ban quản trị chon cử cán bộ cho HTX, ưu tiên những người vượt tiêu chuẩn.
Tạo nguồn cán bộ: các HTX cũng cần chú ý xem xét việc tọa nguồn cán bộ bổ sung thay thế, nhất là với những chức danh chủ chốt. Một nguồn cán bộ kế cận quan trọng của HTX chính là những cán bộ trẻ, có năng lực,trình độ, đạt tiêu chuẩn, hiện đang làm việc cho HTX và sẵn sàng cống hiến cho HTX. HTX cũng cần mở rộng phạm vi nguồn lao động( có thể thu hút lao động có trình độ ở địa phương khác đến làm công cho HTX) và thu hút thanh niên địa phương tốt nghiệp các trường đại học, về phục vụ cho HTX. Khi tuyển chọn cán bộ cần niêm yết rõ ràng tiêu chuẩn cán bộ cần tuyển, vị trí cần tuyển và thi tuyển công khai.
3.3.3. Cơ chế chính sách của địa phương
Đề nghị Ủy ban nhân dân thành phố giao cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với các cấp, các ngành trên địa bàn thành phố nghiên cứu, tham mưu, đề xuất trình Uỷ ban nhân dân thành phố về cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuy ến khích phát triển HTX. Cụ thể như sau:
3.3.3.1. Về đất đai
- Việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các HTX :
Thực hiện điều 5, Nghị định số 88/2005/NĐ- CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX, đối với HTX nông nghiệp chưa có đất xây dựng trụ sở, nhà kho, sân phơi, cơ sở dịch vụ thì “ Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào quỹ đất của địa phương xem xét, quyết định việc giao đất không thu tiền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho HTX”; đối với HTX đang sử dụng đất vào các mục đích xây dựng trụ sở, nhà kho, sân phơi, cơ sở dịch vụ thì “được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định tại Điều 53 Nghị định số 181/ NĐ- CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai”. Như vậy, các ban, ngành thành phố cần ban hành quyết định về việc giao đất không thu tiền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho HTX để xây dựng trụ sở, cơ sở dịch vụ, nhà kho sân phơi…
HTX được giao đất để xây dựng trụ sở, nhà kho, sân phơi, các cơ sở dịch vụ sản xuất nông nghiệp trong các trường hợp:
- Các HTX đang sử dụng đất để xây dựng trụ sở, nhà kho, sân phơi, cơ sở dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp được thành phôds cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng dất.
- Các HTX thực hiện chưa có đất để xây dựng trụ sở, nhà kho, sân phơi, cơ sở dịch vụ trực tiếp phục vụ xã viên các hộ nông dân sản xuất nông nghiệp thì làm thủ tục xin giao đất với hạn mức đất giao cho các HTX như sau:
+ Trụ sở: 300m2
+ Cơ sở dịch vụ: 200m2
+ Đất làm nhà kho, sân phơi HTX phải xây dựng dự án và được uỷ ban nhân dân huyện thẩm định, trình Uỷ ban nhân dân thành phố phê duyệt.
+ Những xã thực hiện tốt dồn điền, đổi thửa đã quy hoạch đất công ích tập trung thì ưu tiên cho HTX thuê đất để sản xuất giống lúa phục vụ nhân dân trong địa phương và toàn vùng.
3.3.3.2. Về cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật của HTX.
Thực hiện Điều 4, Nghị định số 88/ 2005/ NĐ- CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX về bồi dưỡng, đào tạo cán bộ và xã viên cho HTX. Uỷ ban nhân dân thành phố trực thuộc Trung ương (Hải Phòng) cần quy định mức hỗ trợ cụ thể cho các địa phương.
Để nâng cao năng lự quản lý và năng lực điều hành sản xuất kinh doanh của HTX, quy chuẩn đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật phát triển HTX phục vụ CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn; đề nghị uỷ ban nhân dân thành phố hỗ trợ, khuyến khích các cán bộ quản lý HTX đã qua đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ chuyên ngành, hiện đang công tác tại các HTX nông nghiệp trên địa bàn.
* Huyện v à các xã trong địa bàn phải xây dựng quy hoạch đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kha học kỹ thuật cho HTX; chọn cử cán bộ và con em xã viên đi đào tạo các lớp ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Sau khi tốt nghiệp tham gia công tác tại HTX. Ngoài mức hỗ trợ về bồi dưỡng, đào tạo( the điều 4 Nghị định 88/2005/ NĐ- CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX) cán bộ HTX còn được Ngân sách thành phố hỗ trợ, khuyến khích hàng tháng như sau:
- Cán bộ HTX có trình độ chuyên môn nghiệp vụ trung cấp nông nghiệp hoặc trung cấp tài chính kế toán được trợ cấp 100.000 đồng/ tháng.
- Cán bộ HTX có trình độ chuyên môn nghiệp vụ từ cao đẳng đến đại học chuyên ngành được trợ cấp 150.000 đồng/ tháng.
- Cán bộ HTX có trình độ chuyên môn nghiệp vụ trên đại học được trợ cấp 200.000 đồng/ tháng.
* Thực hiện chế độ thâm niên cho cán bộ chủ chốt HTX( chủ nhiêm, phó chủ nhiệm, kế toán trưởng, trưởng ban kiểm soát) có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ từ trung cấp trở lên, sau 5 năm đầu công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ, được hưởng phụ cấp thâm niên là 5% mức lương hiện hưởng, tiếp sau mỗi năm công tác được tính thêm 1%. Nguồn kinh phí chi trả phụ cấp thâm niên từ quỹ tiền lương trước khi tính tiền công cho cán bộ quản lý HTX.
Chính sách đối với cán bộ HTX
Hàng năm đề nghị thành phố phối hợp với huyện dành khoản kinh phí thoả đáng để đào tạo, nâng cao trình độ cho số cán bộ hiện tại và cán bộ kế cận của HTX . Phấn đấu đến 2010 toàn bộ cán bộ HTX đều có trình độ từ trung cấp trở lên, trong đó 50% có trình độ đại học.
Khuyến khích các HTX nông nghiệp sử dụng cán bộ của các pháp nhân tham gia làm cán bộ trên cơ sở hoạt động sản xuất- kinh doanh dịch vụ giữa HTX nông nghiệp và doanh nghiệp có liên doanh, liên kết sản xuất kinh doanh.
Giảm 50% học phí cho cán bộ HTX nông nghịêp do HTX cử đi học( theo mức học phí hiện nay), còn 50% cán bộ phải nộp. HTX nông nghiệp cấp kinh phí mua tài liệu cho cán bộ HTX được cử đi đào tạo, phụ cấp tiền đi đường, hưởng nguyên thù lao theo chức danh trong thời gian đi học. Khi ra trường cán bộ HTX phục vụ cho HTX tối thiểu 5 năm trở lên. Hướng dẫn HTX trả thù lao cho cán bộ được đào tạo theo chức danh của HTX nhưng không dưới mức lương khởi điểm cùng bậc ngạch quy định của nhà nước đối với công chức.
Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn cho các cán bộ chủ chốt của HTX nông nghịêp, hoàn thiện và thực hiện đề án đào tạo cán bộ quản lý, kỹ thuật cho các HTX nông nghiệp. Cấp kinh phí tập huấn, bồi dưỡng, tập huấn ngắn hạn cho cán bộ HTX , đầu tư kinh phí khuyến nông để tập huấn kỹ thuật cho cán bộ, xã viên, lập quỹ khuyến nông cho HTX vay làm dịch vụ tiêu thụ nông sản hoặc các dịch vụ quan trọng khác.
3.3.3.3. Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
Thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với cán bộ HTX, tổng mức đóng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế là 23%/ tháng( trong đó; bảo hiểm xã hội 20%, bảo hiểm y tế 3%), Ngân sách thành phố hỗ trợ 7%/ tháng( theo mức lương tối thiểu của công nhân viên chức ứng với từng thời điểm), HTX đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc 10%/ tháng( theo mức tiền công thực tế cảu cán bộ HTX), giá trị còn lại cán bộ HTX có trách nhiệm. Phần đóng bảo hiểm xã hội của HTX cho cán bộ được hạch toán vào giá thành sản xuất kinh doanh, dịch vụ trong HTX.
Việc mua bảo hiểm xã hội đã được triển khai ở nhiều HTX nông nghiệp. Tuy nhiên, nhiều HTX còn chưa thực hiện được do khả năng kinh phí còn hạn chế. Thành phố cần hỗ trợ thực hiện để cán bộ yên tâm công tác, gắn bó với HTX.
3.3.3.4. Tham gia các chương trình, phát triển kinh tế xã hội
- Các chương trình xây dựng cơ sở hạ tầng trên địa bàn cấp xã như kiên cố hoá kênh mương sau trạm bơm, các công trình hạ tầng phát triển cụm công nghiệp và làng nghề của xã, phường thì giao cho HTX đảm nhận.
- Dự án nước sạch hệ tập trung( máy nước mini) và dự án nâng cấp hệ thống điện năng( hiện HTX đang quản lý, sử dụng) để dịch vụ cho nhân dân địa phương thì giao cho HTX tổ chức thực hiện.
3.3.3.5. Đơn giá dịch vụ đầu vào của hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Đơn giá các dịch vụ đầu vào của hoạt động sản xuất nông nghiệp như: dịch vụ về tưới tiêu nước, thuỷ lợi nội đồng, bảo về cây trồng trên các xứ đồng và khoa học kỹ thuật, nhiều năm nay chưa được điều chỉnh; Uỷ ban nhân dân thành phố sẽ chỉ đạo các Sở có liên quan, phối hơp với huyện nghiên cứu soạn thảo văn bản hướng dẫn nội dung phương pháp tính đơn giá dịch vụ nông nghiệp trong HTX cho phù hợp.
3.3.4. X ây d ựng m ô h ình và các chương trình, dự án phát tri ển
- Mô hình HTX chuyên canh cây trồng xuất khẩu, sản xuất thóc giống.
- Mô hình HTX nông nghiệp tổng hợp.
- Mô hình HTX chuyên ngành chăn nuôi.
Mô hình Liên hiệp HTX trong lĩnh vực nông nghiệp.
Uỷ ban nhân dân huyện Thủy Nguyên cần phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị Uỷ ban nhân dân thành phố cho triển khai thực hiện thí điểm một số mô hình HTX để tổng kết và nhân diện rộng. Cụ thể là:
* Về chương trình:
- Chương trình kiên cố hoá kênh mương sau trạm bơm.
- Chương trình cải tạo nâng cấp trạm bơm điện tưới tiêu nước thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn.
- Chương trình cứng hoá đường trục các xứ đồng phục vụ sản xuất.
- Chương trình trồng rau an toàn đối với các HTX ven đô.
* Một số dự án
- Dự án xây dựng kho lạnh bảo quản nông sản phẩm
- Dự án nhà máy nước( tầm nhỏ và trung bình)
- Dự án đỏi mới hệ thống dịch vụ điện sản xuất và phục vụ sinh hoạt cho nhân dân địa phương.
3.3.6. Giải pháp phát triển thành viên Liên minh HTX và thành lập liên hiệp HTX
3.3.6.1. Phát triển thành viên Liên minh HTX
Hiện nay trên địa bàn, trong tổng số 41 HTX mới có 1 HTX tham gia Liên minh HTX, con số này là quá ít. Trong bối cảnh cả nước đang gia nhập vào nền kinh tế thế giới, việc kết nạp các HTX là thành viên của Liên minh HTX là rất quan trọng. Vấn đề đặt ra cho Liên minh HTX phải thực sự làm tốt điểm c mục 2 điều 45 Luật HTX về chức năng của Liên minh HTX là: “ hỗ trợ và cung cấp các dịch vụ cần thiết cho sự hình thành và phát triển HTX, liên hiệp HTX…” gắn với tuyên truyền, vận động phát triển HTX và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các HTX và Liên hiệp HTX. Trên cơ sở đó, các HTX, chưa là thành viên của Liên minh HTX sẽ nhanh chóng tự nguỵện gia nhập Liên minh và các HTX đã là thành viên của Liên minh HTX mới yên tâm, phấn khởi tham gia Liên minh HTX. Muốn vậy, Liên minh HTX cần nghiên cứu tổ chức thực hiện một số vấn đề cơ bản sau:
- Tổ chức thực hiện tốt chương trình phối hợp công tác phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2006- 2010 đã được ký kết với Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn
- Nghiên cứu hỗ trợ và cung cấp các dịch vụ cần thiết cho sự hình thành và phát triển HTX như: hỗ trợ hệ thống máy vi tính, hỗ trợ phần mềm kế toán cho các HTX, hỗ trợ các HTX xây dựng các cơ sở chế biến nông sản phẩm,, tiêu thụ nông sản hàng hoá cho nông dân, dịch vụ hệ thống sổ sách, chứng từ kế toán chuyên ngành về HTX nông nghiệp( theo mẫu thuộc quyết định số 1017/ QĐ- BTC- TCKT ngày 12/12/1997 của Bộ trưởng Bộ tài chính về chế độ kế toán đối vói HTX nông nghiệp) vì lâu nay các cơ sở in ấn từ Trung ương tới địa phương không dịch vụ, khiến các HTX còn lúng túng.
- Nghiên cứu,chủ trì với các cấp uỷ/ chính quyền địa phương để tạo hành lang, môi trường cho các HTX nông nghiệp hoạt động dịch vụ, sản xuất kinh doanh như việc giữ vững và phát triển dịch vụ điện sản xuất và điện sinh hoạt của nhân dân trong xã. Việc ưu tiên cho HTX nhận thầu nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất giống lúa, sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng và mở mang các ngành nghề mới.
3.3.6.2. Thành lập liên hiệp HTX
Đến nay, huyện chưa có Liên hiệp HTX trong lĩnh vực nông nghiệp. Năm 2007, Liên minh HTX chủ trì, phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nghiên cứu xây dựng thí điểm Liên hiệp HTX trong lĩnh vực nông nghiệp, trên cơ sở đó rút kinh nghiệm nhân diện rộng
3.3.7. B ản th ân các HTX nông nghi ệp
3.3.7.1. Gi ải pháp về thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, quy luật cạnh tranh ngày càng diễn ra gay gắt. Nó đòi hỏi các HTX phải nghiên cứu tìm hiểu, nắm bắt được nhu cầu thị trường để có thể tồn tại và phát triển. Thị trường là yếu tố quyết định quy mô của sản xuất. HTX cần tìm hiểu cả thị trường đầu vào và thị trường đầu ra trong quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ của mình, từ đó tìm được thị trường đảm bảo doanh thu, lợi nhuận của HTX. Thị trường đầu vào là tập hợp các cá nhân, tổ chức mua và bán các tư liệu sản xuất đầu vào như phân bón, thuốc trừ sâu, thuế, giống phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh ra sản phẩm. Thị trường đầu ra là thị trường phần lớn để tiêu dùng phần lớn nông sản hàng hoá do các HTX sản xuất ra. HTX cần nghiên cứu thị trường đầu vào để nhằm mục đích mua được các yếu tố đầu vào với giá rẻ, chất lượng, làm giảm chi phí đầu vào từ đó tiết kiệm được vốn đầu tư, có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất. Một thị trường đầu ra hợp lý là thị trường có giá cả ổn định, hợp lý, đảm bảo lợi nhuận cho HTX.
Cho đến nay, các HTX mới chỉ chú trọng thị trường đầu vào mà bỏ quên thị trường đầu ra. Trong thời gian tới cần có biện pháp chú trọng thị trường đầu ra, mở rộng thị trường tiêu thụ, chế biến nông sản hàng hoá cho HTX. Làm được diều này có nghĩa là các HTX đã tìm được thị trường tiêu thụ nông sản cho mình, qua đó thu lại được nguồn vốn đầu tư, đảm bảo được vòng chu chuyển của vốn lưư động, có vốn để tiếp tục quá trình sản xuất sau đó.
Thực tế trên địa bàn huyện, do nhận thức hạn chế và ít tiếp xúc với thông tin nên sự hiểu biết của một số cán bộ và người dân về thị trường còn hạn chế, thụ động. Phần lớn các HTX làm ăn thua lỗ là do họ chưa hiểu rõ và chưa quan tâm đến vấn đề thị trường. Khi họ nhận thức được thì đã mất một thời gian tương đối dài, do đó mất đi ưu thế cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác, đánh mất những cơ hội kinh doanh quý báu. Đây là mặt hạn chế rất lớn ảnh hưởng đến sự phát triển của HTX.Các cấp chính quyền cần có kế hoạch mở rộng nhận thức cho các cán bộ HTX, từ đó cán bộ HTX tiến hành tiếp xúc, trao đổi với người dân, xã viên, truyền đạt những kiến thức và thông tin cần thiết đến cho họ, giúp họ hiểu rõ hơn vấn đề thị trường hiện nay, tạo điều kiện cho họ có đủ khả năng nhận thức được tác động của quy luật cạnh tranh trên thị trường, từ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NNo05.docx