Tài liệu Đề tài Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển và cho năng suất của một số giống dưa chuột có triển vọng trong vụ Xuân Hè 2009 tại Trung tâm Giống cây trồng Tứ Hạ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế: Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Mở đầu
Rau là loại cây trồng có nhiều chất dinh dưỡng và là thực phẩm cần thiết không thể thiếu trong đời sống nhân dân. Đặc biệt khi lương thực và các loại thức ăn giàu đạm đã được đảm bảo thì nhu cầu về rau xanh lại càng gia tăng, như một nhân tố tích cực trong cân bằng dinh dưỡng và kéo dài tuổi thọ. Ngành sản xuất rau cung cấp cho chúng ta sản phẩm của các loại cây rau hằng năm, hai năm là một bộ phận quan trọng trong sản xuất nông nghiệp.
Dưa chuột Cucumis sativus L thuộc họ bầu bí, trong họ bầu bí thì dưa chuột là loại được trồng nhiều hơn cả. Ở nước ta dưa chuột đã được trồng từ rất lâu, không chỉ để giải quyết vấn đề thực phẩm trong bữa ăn hằng ngày mà còn mang tính thương mại quan trọng.
Những năm gần đây, thị trường tiêu thụ rau xanh trong nước và thế giới ổn định, kinh tế đối ngoại có nhiều cơ hội phát triển đó là điều kiện thuận lợi tiềm năng cho ngành rau phát triển. Tuy ngành trồng rau trong đó có dưa chuột có nhiều khởi sắc nhưng trên thực tế v...
46 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển và cho năng suất của một số giống dưa chuột có triển vọng trong vụ Xuân Hè 2009 tại Trung tâm Giống cây trồng Tứ Hạ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1 Mở đầu
Rau là loại cây trồng có nhiều chất dinh dưỡng và là thực phẩm cần thiết không thể thiếu trong đời sống nhân dân. Đặc biệt khi lương thực và các loại thức ăn giàu đạm đã được đảm bảo thì nhu cầu về rau xanh lại càng gia tăng, như một nhân tố tích cực trong cân bằng dinh dưỡng và kéo dài tuổi thọ. Ngành sản xuất rau cung cấp cho chúng ta sản phẩm của các loại cây rau hằng năm, hai năm là một bộ phận quan trọng trong sản xuất nông nghiệp.
Dưa chuột Cucumis sativus L thuộc họ bầu bí, trong họ bầu bí thì dưa chuột là loại được trồng nhiều hơn cả. Ở nước ta dưa chuột đã được trồng từ rất lâu, không chỉ để giải quyết vấn đề thực phẩm trong bữa ăn hằng ngày mà còn mang tính thương mại quan trọng.
Những năm gần đây, thị trường tiêu thụ rau xanh trong nước và thế giới ổn định, kinh tế đối ngoại có nhiều cơ hội phát triển đó là điều kiện thuận lợi tiềm năng cho ngành rau phát triển. Tuy ngành trồng rau trong đó có dưa chuột có nhiều khởi sắc nhưng trên thực tế vẫn chưa theo kịp nhiều ngành khác trong sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt là ở các tỉnh miền Trung, diện tích trồng rau nói chung và dưa chuột nói riêng có nhiều biến động qua các năm. Năng suất chỉ bằng một nửa so với năng suất trung bình của cả nước. Có nhiều nguyên nhân làm cho năng suất dưa chuột ở các tỉnh miền Trung còn thấp đó là do điều kiện thời tiết quá khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra mưa lũ, hạn hán, đất đai nghèo dinh dưỡng, chưa có bộ giống dưa chuột chuẩn và tốt. Đặc biệt là giống dùng cho chế biến công nghiệp và xuất khẩu còn quá ít không đáp ứng đủ nhu cầu của sản xuất do vậy phải nhập ngoại, giá thành cao và không chủ động trong sản xuất. Bên cạnh đó giống dùng cho ăn tươi, tiêu thụ nội địa năng suất còn thấp, kém hiệu quả. Phần lớn hạt giống rau do dân tự để giống hoặc nhập nội không qua khảo nghiệm kỹ. Điều này cũng ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất và chất lượng của dưa chuột. Vấn đề đặt ra là phải tìm được những giống dưa chuột có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt, thích ứng với điều kiện thời tiết ở miền Trung cho năng suất cao, ổn định đặc biệt là chất lượng dinh dưỡng mà giá thành sản xuất thấp phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng.
Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển và cho năng suất của một số giống dưa chuột có triển vọng trong vụ Xuân Hè 2009 tại Trung tâm Giống cây trồng Tứ Hạ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế".
1.2 Mục tiêu của đề tài
- So sánh đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển và cho năng suất của 5 giống dưa chuột có triển vọng từ đó chọn ra những giống thích hợp nhất với điều kiện địa phương để phục vụ sản xuất.
- Chọn giống có chất lượng nông sản tốt, giá trị thương phẩm cao để phục vụ người tiêu dùng.
- Tạo cơ sở cho việc chọn tạo giống có đặc tính nông sinh học nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất như chiều cao cây, thời gian sinh trưởng, khả năng cơ giới hóa khi thu hoạch và bảo quản, chế biến nông sản phẩm.
- Nhận biết được các đặc trưng hình thái, phản ứng của cây trồng với điều kiện thời tiết, sâu bệnh.
1.3 Yêu cầu của đề tài
- Tìm hiểu các chỉ tiêu về khả năng sinh trưởng, phát triển của các giống dưa chuột tham gia thí nghiệm.
- Tìm hiểu các chỉ tiêu biểu hiện giới tính của các giống thí nghiệm.
- So sánh đánh giá khả năng cho năng suất của các giống.
- Tìm hiểu về sâu bệnh hại trên các giống tham gia thí nghiệm
Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Nguồn gốc và phân bố của cây dưa chuột
Dưa chuột thuộc họ bầu bí có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới ẩm thuộc nam Châu Á, là loại cây ưa nhiệt. Những năm cuối của thế kỷ XX, dưa chuột là cây rau chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất rau trên thế giới. Những nước dẫn đầu về diện tích gieo trồng và năng suất là: Trung Quốc, Liên Xô, Nhật Bản, Mỹ, Hà Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Aicập, Tây Ban Nha. Theo FAO ( 1993) diện tích dưa chuột trên thế giới là 1.178.000 ha, năng suất 15,56 tấn/ ha và sản lượng đạt 1.832.968 tấn. Ở nước ta những năm gần đây dưa chuột đã trở thành cây rau quan trọng trong sản xuất, có ý nghĩa lớn về hiệu quả kinh tế và giải quyết vấn đề về thực phẩm [Tạ Thị Thu Cúc, Hồ Hữu An, Nghiêm Thị Bích Hà, Cây rau, Trường ĐHNN HN, NXBNN, tr 206].
2.2 Vai trò của dưa chuột
2.2.1 Về dinh dưỡng
Các loại rau nói chung và dưa chuột nói riêng là loại thực phẩm cần thiết trong đời sống hằng ngày và không thể thay thế. Rau được coi là nhân tố quan trọng đối với sức khỏe và đóng vai trò chống chịu với bệnh tật. Theo kết quả nghiên cứu của nhiều nhà dinh dưỡng học trong và ngoài nước thì khẩu phần ăn của người Việt Nam cần khoảng 2300 - 2500 Calo năng lượng hằng ngày để sống và hoạt động. Ngoài nguồn năng lượng cung cấp từ lương thực, rau góp phần đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho cơ thể con người. Rau không chỉ đảm bảo cung cấp chỉ số Calo trong khẩu phần ăn mà còn cung cấp cho cơ thể con người các loại vitamin và các loại đa, vi lượng không thể thiếu được cho sự sống của mỗi cơ thể. Hàm lượng vitamin trong rau khá cao lại dễ kiếm.
Dưa chuột là một thức ăn rất thông dụng và còn là một vị thuốc có giá trị. Thành phần dinh dưỡng gồm Protein (đạm) 0,8g; glucid (đường) 3,0g; xenlulo (xơ) 0,7g; năng lượng 15 kcalo; Canxi 23mg; Phospho 27mg; Sắt 1mg; Natri 13mg; Kali 169mg; Caroten 90mcg; Vitamin B1 0,03mg; Vitamin C 5,0mg.
Bảng 2.1: Thành phần dinh dưỡng trong 100g rau ăn được
[ Mai Thị Phương Anh, Rau và trồng rau, Giáo trình cao học nông nghiệp, HNN 1996; 9]
Chỉ tiêu
Loại rau
Thành phần hóa học (g%)
Calo/
100g
Vitamin ( mg%)
Nước
Protit
Glu
Tro
B1
B2
PP
C
Bầu
95,1
0,6
2,9
0,4
14
0,02
0,03
0,40
12
Dưa chuột
95,0
0,8
3,0
0,5
16
0,03
0,04
0,10
5
Bí xanh
95,5
0,6
2,4
0,5
12
0,01
0,02
0,03
16
Bí đỏ
92,0
0,3
6,2
0,8
27
0,06
0,03
0,40
8
Dưa gang
96,2
0,8
2,0
0,3
11
0,04
0,04
0,30
4
Cà chua
94,0
0,6
4,2
0,4
20
0,06
0,04
0,50
10
Mướp đắng
91,4
0,9
3,0
0,6
16
0,07
0,04
0,3
22
Xà lách
95,0
1,5
2,2
0,8
15
0,14
0,12
0,7
15
Rau dền
92,3
2,3
2,5
1,8
20
0,04
0,14
1,3
35
Trong thành phần của dưa chuột chứa hàm lượng cacbon rất cao khoảng 74-75%, ngoài ra còn cung cấp một lượng đường (chủ yếu là đường đơn). Nhờ khả năng hòa tan, chúng làm tăng khả năng hấp thụ và lưu thông máu, tăng tính hoạt động trong quá trình oxi hóa năng lượng của mô tế bào. Bên cạnh đó trong thành phần dinh dưỡng của dưa chuột còn có nhiều axit amin không thay thế rất cần thiết cho cơ thể như Thianin ( 0,024 mg%); Rivophlavin ( 0,075 mg%) và Niaxin ( 0,03 mg%), các loại muối khoáng như Ca( 23,0 mg%), P( 27,0 mg%), Fe( 1,0 mg%). Tăng cường phân giải axit uric và các muối của axit uric (urat) có tác dụng lợi tiểu, gây cảm giác dễ ngủ. Không những thế trong dưa chuột còn có một lượng muối kali tương đối giúp tăng cường quá trình đào thải nước, muối ăn trong cơ thể có lợi cho người mắc các bệnh về tim mạch.
2.2.2 Giá trị kinh tế
Ngoài giá trị về dinh dưỡng thì xét về mặt kinh tế dưa chuột là cây rau quả quan trọng cho nhiều vùng chuyên canh mang lại hiệu quả kinh tế cao. Dưa chuột là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị.
Bảng 2.2: So sánh hiệu quả sản xuất dưa chuột với các cây trồng khác
[ Lê Thị Khánh, Tài liệu chuyên đề rau - hoa - quả, Trường Đại học Nông Lâm Huế, 2002 ]
Loại cây
Dưa chuột
Bắp cải
Cà chua
Ngô
Lúa
Năng suất ( tạ/ha)
250
444,4
278,8
25
44,4
Giá bán bình quân(đ)
1.200
400
700
2.300
2000
Tổng chi phí
Chi phí vật chất (1000đ/ha)
Chi phí lao động (công/ha)
6.447,8
834
6.028,3
556
5.157,1
695
2.417
222
5.050
194,4
Tổng thu nhập (1.000đ/ha)
23.552,2
11.749,3
14.302,9
3.333
3.830
Thu nhập / công ( đ/công)
28,2
21,1
20,6
15,0
19,7
Trong quả dưa chuột có các loại chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể như protein, các loại vitamin A, C, B1, B2...Trước đây dưa chuột được sử dụng như loại quả tươi để giải khát. Đến khi thị trường trong nước cũng như thế giới mở rộng, nhu cầu của người tiêu dùng phong phú thì việc đa dạng hóa cách sử dụng là tất yếu. Ngày nay dưa chuột được sử dụng dưới nhiều dạng khác nhau như quả tươi, trộn salat, cắt lát, đóng hộp xuất khẩu...
Bên cạnh đó dưa chuột còn là cây rau quả quan trọng cho nhiều vùng chuyên canh mang lại hiệu quả kinh tế cao, thời gian sinh trưởng tương đối ngắn, chi phí đầu tư thấp có thể mở rộng trên nhiều vùng kinh tế khác nhau.
2.3 Tình hình phát triển dưa chuột trên thế giới và Việt Nam
2.3.1 Trên thế giới
* Tình hình sản xuất
Theo số liệu thống kê từ FAO, năm 2007 diện tích trồng dưa chuột trên thế giới khoảng 2.583,3 ha, năng suất đạt 17,27 tấn/ha, sản lượng đạt 44160,94 nghìn tấn. Số liệu từ bảng thống kê cho thấy Trung Quốc là nước có diện tích trồng dưa chuột lớn nhất với 1.653,8 ha chiếm 64,02% so với thế giới. Về sản lượng Trung Quốc vẫn là nước dẫn đầu với 28062 nghìn tấn, chiếm 62,09% tổng sản lượng dưa chuột của thế giới. Sau Trung Quốc là Nhật Bản với sản lượng 634 nghìn tấn chiếm 1,42% của thế giới. Như vậy chỉ riêng 2 nước Trung Quốc và Nhật Bản đã chiếm 64,32% tổng sản lượng của toàn thế giới.
Bảng 2.3: Tình hình sản xuất dưa chuột của một số nước trên thế giới qua các năm 2006, 2007
Quốc gia
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)
2006
2007
2006
2007
2006
2007
Thế giới
2524,11
2583,3
17,46
17,27
44065,87
44610,94
Trung Quốc
1603,6
1653,8
17,06
16,97
27357
28062
Nhật Bản
13,1
13
47,96
48,77
628,3
634
Indonesia
58,65
59
10,21
10,17
598,89
600
Mexico
17,73
18
27,98
27,78
496,03
500
Thái Lan
28
28
7,93
7,93
222
222
Canada
2,55
2,48
85,06
88,82
216,56
220
Cuba
17,55
18
8,87
8,78
155,67
158
Israel
1,75
1,75
76,27
80,57
133,47
141
Pháp
0,7
0,75
182,72
182,67
128,63
137
Ấn Độ
18
18
6,67
6,67
120
120
Hungary
1,17
1,2
60,51
59,08
70,86
70,9
Italya
2,31
2,2
30,87
31,82
71,36
70
Malaysia
2
2
22,5
22,5
45
45
Bangladesh
6,48
5,9
4,32
4,32
28
25,5
Australia
1
1
13
14
13
14
Philippines
1,6
1,62
6,06
6,17
9,72
10
Pakistan
1,11
1,1
5,85
5,91
6,49
6,5
Nguồn FAO.org
Nhìn chung diện tích, năng suất và sản lượng dưa chuột của các nước trên thế giới đều tăng qua các năm. Do nhu cầu về rau xanh nói chung và dưa chuột nói riêng của người tiêu dùng ngày càng cao khi lương thực và các loại thức ăn giàu đạm được đảm bảo. Đặc biệt là ở các nước phát triển như Trung Quốc, Nhật Bản, Anh, Canada, Đức...
* Tình hình tiêu thụ
Theo tính toán thì mức tiêu dùng rau tối thiểu cho mỗi người cần 90 - 110 kg/người/năm tức khoảng 250 -300 g/người/ngày. Đối với các nước phát triển có đời sống cao đã vượt quá xa mức quy định này: Nam Triều Tiên 141,1 kg/người/năm; Newzealand 136,7 kg/người/năm, Hà Lan lên tới 202 kg/người/năm, ở Canada mức tiêu thụ rau bình quân hiện nay là 227 kg/người/năm.
Trước nhu cầu về rau ngày càng tăng, một số nước trên thế giới đã có những chính sách nhập khẩu rau khác nhau. Năm 2005, nước nhập khẩu rau nhiều nhất thế giới là Pháp đạt 145,224 nghìn tấn; sau Pháp là các nước như: Canada (143,332 nghìn tấn); Anh (140,839 nghìn tấn); Đức (116,866 nghìn tấn). Trong khi đó, 5 nước chi tiêu cho nhập khẩu rau lớn trên thế giới là: Đức (149.140 nghìn USD); Pháp (132.942 nghìn USD); Canada (84.496 nghìn USD); Trung Quốc (80.325 nghìn USD); Nhật Bản (75.236 nghìn USD). Riêng đối với dưa chuột đã trở thành mặt hàng xuất nhập khẩu quan trọng ở một số nước trên thế giới.
Bảng 2.4 Tình hình xuất nhập khẩu dưa chuột một số nước trên thế giới 2005
Nhập khẩu
Xuất khẩu
Quốc gia
Khối lượng (tấn)
Quốc gia
Khối lượng (tấn)
Hoa Kỳ
423.431
Tây Ban Nha
399.256
Đức
410.084
Mexico
398.971
Anh
104.054
Newtherland
360.054
Newtherland
66.901
Jordan
64.308
Pháp
59.019
Canada
54.967
Liên Bang Nga
44.112
Hoa Kỳ
48.460
Canada
42.470
Iran
36.948
Thế giới
1.545.819
Thế giới
1.331.695
( Nguồn: Records Copyright FAO 2006 )
Số liệu từ bảng 2.4 cho thấy hiện nay 5 nước có khối lượng dưa chuột xuất khẩu lớn nhất là Tây Ban Nha (399.256 tấn), Mexico (398.971 tấn), Newtherland (360.054 tấn), Jordan (64.308 tấn) và Canada (54.967 tấn). Những nước đứng đầu về nhập khẩu là Hoa Kỳ (423.431 tấn), Đức (410.084 tấn), Anh (104.054 tấn), Newtherland (66.901 tấn), Pháp (59.019 tấn). Ở những nước như Hoa Kỳ, Newtherland công nghệ chế biến đồ hộp đang phát triển mạnh do đó ở những nước này vừa có khối luợng nhập khẩu và xuất khẩu rất lớn. Dưa chuột được nhập về cùng với sản xuất trong nước, qua chế biến, đóng gói và đem xuất khẩu.
2.3.2 Tình hình ở Việt Nam
* Ở Thừa Thiên Huế
Thừa Thiên Huế là một tỉnh thuộc khu vực miền Trung, có diện tích đất tự nhiên 500.920 ha, diện tích đất nông nghiệp 51.527 ha trong đó đất trồng rau là 2.789 ha [ ]. Dân số Thừa Thiên Huế 1,1 triệu người, nhu cầu về rau tươi hằng ngày của người dân là rất lớn. Mặt khác đó thành phố Huế là một thành phố du lịch, hằng năm lượng khách trong nước và nước ngoài đến tham quan rất đông. Do vậy, một yêu cầu đặt ra là phải cung cấp lượng rau đầy đủ cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó chất lượng của các mặt hàng rau quả cũng cần được đảm bảo. Sản xuất không chỉ mang tính tự cung tự cấp mà còn phải mang tính hàng hóa cao.
Trong quá trình phát triển, Thừa Thiên Huế đã xuất hiện nhiều vùng rau chuyên canh mới trong đó có dưa chuột, không ngừng đổi mới về tiến bộ kỹ thuật, giống mới vì vậy năng suất, sản lượng không ngừng tăng lên.
Sản phẩm từ dưa chuột sản xuất tại Thừa Thiên Huế chủ yếu cung ứng cho người tiêu dùng ở trong tỉnh và cho các nhà hàng, khách sạn phục vụ khách du lịch.
* Tình hình sản xuất
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, diện tích trồng rau cả năm 2006 là 644,0 nghìn ha, tăng 29,5% so với năm 2000 (452,9 nghìn ha). Năng suất đạt 149,9 tạ/ha, là năm có năng suất trung bình cao nhất từ trước đến nay. Tổng sản lượng rau cả nước đạt 9,65 triệu tấn, đạt giá trị 144.000 tỷ đồng (tương đương 900 triệu USD), chiếm 9% GDP của nông nghiệp Việt Nam, trong khi diện tích chỉ chiếm 6%. Với khối lượng trên, bình quân sản lượng rau sản xuất trên đầu người đạt 115 kg/người/năm, tương đương mức bình quân toàn thế giới và đạt loại cao trong khu vực, gấp đôi trung bình của các nước ASEAN (57 kg/người/năm). Kim ngạch xuất khẩu rau, quả và hoa cây cảnh trong 5 năm (2000 - 2004) đạt 1.222 triệu USD (bình quân mỗi năm đạt 224,4 triệu USD), trong đó khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu rau
Riêng đối với dưa chuột được xem là một trong những loại rau chủ lực, có diện tích 19.874 ha, năng suất 16,88 tấn/ha, sản lượng 33.537 tấn chỉ đứng sau cà chua.
Bảng 2.5: Diện tích, năng suất và sản lượng một số loại rau chủ lực năm 2004 [ ]
Loại rau
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(tấn)
Cà chua
20.648
17,34
357.210
Dưa chuột
19.874
16,88
33.537
Dưa hấu
18.140
17,82
322.890
Đậu rau
7.681
6,87
52.760
Cải các loại
26.184
22,64
592.805
Hành tỏi
14.678
15,84
232.500
Các vùng trồng dưa chuột lớn của cả nước bao gồm các tỉnh phía Bắc thuộc vùng đồng bằng sông Hồng. Phía Nam, các huyện ngoại thành TP. Hồ Chí Minh, đồng bằng sông Cữu Long như Tân Hiệp - Tiền Giang, Châu Thành - Cần Thơ, Vĩnh Châu - Sóc Trăng. Miền Trung và Tây Nguyên gồm vùng rau truyền thống như Đà Lạt, Đơn Dương, Đức Trọng (Lâm Đồng), các tỉnh duyên hải miền Trung ( Thừa Thiên Huế...).
* Tình hình tiêu thụ
Sản phẩm làm ra từ dưa chuột không chỉ để tiêu thụ tại chỗ mà một lượng khá lớn được chế biến và xuất khẩu sang thị trường nước ngoài. Mặc dù công nghệ sau thu hoạch của nước ta còn thấp, song thị trường xuất khẩu vẫn chiếm một vị trí quan trọng.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan kim ngạch xuất khẩu các loại dưa chuột vào cuối tháng 04 năm 2007 đạt trên 571 nghìn USD, tăng 38% so với cùng kỳ tháng 03/2007. Trong đó có 03 doanh nghiệp có mức kim ngạch xuất khẩu dưa chuột các loại đạt trên 50 nghìn USD là Công ty giao nhận và xuất nhập khẩu Hải Phòng, Tổng công ty rau quả Nông sản, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Rau quả I.
Công ty giao nhận và xuất nhập khẩu Hải Phòng là doanh nghiệp đứng đầu với kim ngạch xuất khẩu đạt trên 215 nghìn USD, chiếm 38% tổng kim ngạch xuất khẩu các loại dưa chuột của cả nước. Các loại dưa mà công ty xuất khẩu là dưa chuột bao tử dầm dấm, dưa chuột dầm dấm, dưa chuột trung tử dầm dấm sang thị trường Hoa Kỳ. Giá dưa chuột xuất khẩu khá ổn định dao động từ 0,29 đến 0,33 USD/kg.
Tổng công ty rau quả Nông sản đã xuất khẩu dưa chuột dầm dấm sang thị trường Nga với đơn giá là 5,14 USD/hộp (FOB, Cảng Hải Phòng). Trong khi đó công ty cổ phần xuất nhập khẩu Rau quả I xuất sang thị trường này với đơn giá dao động từ 3,24 đến 4,83 USD/hộp.
Bảng 2.6: Tham khảo thị trường xuất khẩu các loại dưa chuột cuối tháng 04/2007 [ ]
Thị trường xuất khẩu
Chủng loại
Kim ngạch (USD)
Nga
Dưa bao tử dầm dấm, dưa chuột đóng lọ, dưa chuột dầm dấm, dưa trung tử
318.939,2
Mông Cổ
Dưa chuột dầm dấm
65.696,4
Nhật Bản
Dưa chuột muối, dưa chuột bao tử muối
58.220,03
Đài Loan
Dưa chuột muối, dưa bao tử muối, dưa gang muối
47.726,9
Cộng hòa Sec
Dưa chuột đóng lọ
34.627,5
Theo số liệu thống kê, kim ngạch xuất khẩu rau các loại cả nước trong tháng 8/2008 đạt 18 triệu USD, tăng 46% so với tháng 7/08 và nâng tổng kim ngạch xuất khẩu rau trong 8 tháng đầu năm 2008 lên trên 112 triệu USD.
Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả của nước ta trong 8 tháng đầu năm 2008 đều tăng ổn định so với cùng kỳ năm 2007. Trong đó, kim ngạch xuất sang hầu hết các thị trường chủ lực đều tăng khá mạnh, 3 thị trường đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu hàng rau quả của nước ta trong 8 tháng đầu năm là Nhật Bản, Đài Loan và Indonesia. Dưa chuột vẫn là chủng loại đứng đầu về kim ngạch xuất khẩu trong tất cả các loại rau.
Bảng 2.7 Tham khảo một số loại rau xuất khẩu tháng 8 và 8 tháng đầu năm 2008 [ ]
Chủng loại
Thị trường
Kim ngạch xuất khẩu tháng 8/08 ( USD)
Kim ngạch xuât khẩu 8 tháng đầu năm 2008 (USD)
Dưa chuột
Đài Loan, Nhật Bản
961.386,49
16.666.185,69
Hành
Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Đức
172.351,04
11.182.157,05
Ớt
Nhật Bản, Đài Loan, Singapore, Malaysia
1.246.460,52
27.848.342,74
Đậu các loại
Đài Loan, Singapore, Hồng kông.
1.329.216,49
13.113.515,51
2.3 Tình hình nghiên cứu
Yêu cầu về năng suất và chất lượng dưa chuột ngày càng tăng đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu, chọn tạo giống quan tâm ngày càng nhiều vào việc tìm và sản xuất ra các loại giống mới phù hợp với điều kiện sản xuất của từng vùng, từng địa phương mang lại hiệu quả kinh tế cao. Công tác nghiên cứu về dưa chuột đã được thực hiện chủ yếu trên các lĩnh vực:
* Thu thập, nhập nội nguồn gen các giống dưa chuột tạo cơ sở cho lai tạo và nghiên cứu.
* Tạo nguồn vật liệu bằng lai tạo và xử lý đột biến bằng các tác nhân hóa học.
* Chọn và tạo các giống dưa chuột cho chế biến và sản xuất trái vụ.
* Bước đầu nghiên cứu công nghệ sản xuất rau sạch (hàm lượng nitrat, dư lượng thuốc hóa học, kim lọa nặng và vi sinh vật dưới ngưỡng cho phép).
* Tập trung việc phát triển các giống dưa chuột tốt trong sản xuất, chuyển giao công nghệ sản xuất rau cho nông dân.( Mai Thị Phương Anh, Rau và trồng rau, Giáo trình cao học nông nghiệp, HNN, 1996;9)
Về công tác chọn và tạo giống, điển hình có:
- Giống CS758: là giống dưa chuột mới do Công ty giống Thuận Nông nhập về từ Thái Lan và đã được đưa vào trồng thử nghiệm ở huyện An Nhơn. Kết quả thử nghiệm cho thấy, giống dưa leo CS758 (F1) sau trồng 38 ngày là cho thu hoạch, bình quân mỗi cây cho 6 quả. Sản lượng từ ngày cho trái đến khi kết thúc thu hoạch đạt trên 3 tấn quả mỗi sào.
- Giống dưa chuột CV5 và CV11 (Viện nghiên cứu Rau quả). Qua nghiên cứu và các mô hình thử nghiệm tại các tỉnh như Hưng Yên, Bắc Giang, Vĩnh Phúc… cho thấy hai giống dưa chuột CV5 và CV11 sinh trưởng phát triển khoẻ, thân lá màu xanh đậm, phân cành khá, nhiều hoa cái, tỷ lệ đậu quả cao.
- Giống dưa chuột Hữu Nghị: là giống lai giữa giống Việt Nam (Quế Võ) và Nhật Bản (Nasu Fuxinari) do Viện Cây lương thực và thực phẩm chọn tạo cho năng suất cao, phẩm chất tốt, chín sớm, chống bệnh, thích hợp trồng trong vụ Đông ở đồng bằng sông Hồng.
- Giống PC1, Sao xanh 1 do GS.VS Vũ Tuyên Hoàng và cộng sự lai tạo. Thời gian sinh trưởng tương đối ngắn, cho năng suất cao, ổn định, được người tiêu dùng ưa thích [ Tạ Thị Thu Cúc, Hồ Hữu An, Nghiêm Thị Bích Hà, Giáo trình Cây rau, Trường ĐHNN Hà Nội, Nxb Nông nghiệp, 2002].
- Dưa chuột bao tử: giống được đưa vào thử nghiệm là giống lai F1: MirinbeII và Marinda, mật độ 14.000 cây/ha tại 3 xã Phú Mậu (Phú Vang), Thuỷ Thanh (Hương Thuỷ) và Hương Long (Thành phố Huế). Mỗi điểm thử nghiệm trên 1 vùng diện tích 500 m2 . Dưa chuột bao tử giống MirabeII đạt 12 - 17 tấn/ha, Marinda đạt 10,0 - 17,2 tấn/ha. Nhìn chung tỷ lệ đậu bông, quả đạt cao, kháng bệnh tốt, cho lãi cao khoảng 57 triệu đồng/ha/vụ.
Ngoài ra còn có các loại giống nhập nội cũng đã được đưa vào trồng thí nghiệm như:
- Mummy 331: Nhập nội từ Thái Lan, sinh trưởng khá, ra nhánh mạnh, bắt đầu cho thu hoạch 35 - 37 NSKG, trái suông đẹp, to trung bình (dài 16 - 20 cm, nặng 160 - 200 g), vỏ màu xanh trung bình, gai trắng, thịt chắc, phẩm chất ngon, dòn, không bị đắng, năng suất trung bình 30 - 50 tấn/ha.
- Giống 759: Nhập nội từ Thái lan, sinh trưởng mạnh, cho thu hoạch 35 - 37 NSKG, trái thẳng, to trung bình, gai trắng, màu trái hơi nhạt hơn nhưng năng suất và tính chống chịu tương đương Mummy 331.
- Mỹ Trắng: Nhập nội từ Thái Lan, cây phát triển và phân nhánh tốt, cho thu hoạch 35 - 37 NSKG, tỉ lệ đậu trái cao, trái to trung bình, màu trắng xanh, gai trắng, ít bị trái đèo ngay cả ở giai đoạn cuối thu hoạch.
- Mỹ Xanh: Nhập nội từ Thái Lan, cây sinh trưởng tốt, chống chịu tốt hơn giống Mỹ Trắng, trái to tương đương Mỹ Trắng nhưng cho nhiều trái và năng suất cao hơn.
- Happy 2 và Happy 14: Nhập nội từ Hà Lan, cây phát triển rất mạnh nên cần giàn cao, cây cho 100 % hoa cái, có 10 % cây đực cho phấn. Do đó trong kỹ thuật trồng chú ý đảm bảo tỉ lệ cây đực trong quần thể. Trái to (dài > 20 cm, nặng > 200g), màu xanh trung bình, ruột nhỏ, gai trắng nên trái giữ được rất lâu sau thu hoạch. Dưa Happy chống chịu tốt bệnh đốm phấn và cho năng suất cao tương đương các giống F1 khác.
Các giống dưa chuột ở địa phương cũng rất phong phú và đa dạng như:
- Dưa leo Xanh: Tăng trưởng khá, ít đâm nhánh nên phải trồng dầy, cho trái rất sớm (32 - 35 NSKG), trái to trung bình, vỏ xanh trung bình, gai đen, dưa cho năng suất từ 20 - 40 tấn/ha. Khuyết điểm của giống là cho trái loại 2 nhiều vào cuối vụ và dễ nhiểm bệnh đốm phấn. Hiện nay giống nầy được Công Ty Giống Cây Trồng Miền Nam chọn lọc thành giống cao sản.
- Dưa Tây Ninh: Tăng trưởng mạnh, đâm nhánh mạnh, hoa cái xuất hiện trên dây nhánh nên cho thu hoạch trễ (40 - 42 NSKG), trái to dài hơn dưa leo xanh, vỏ xanh trung bình, có sọc, 2 đầu hơi nhỏ hơn phần giửa trái. Dưa Tây Ninh chịu nóng tốt, thích hợp canh tác trong thời điểm giao mùa hơn dưa Xanh và cho năng suất cao hơn. Giống nầy cũng được Công Ty Giống Cây Trồng Miền Nam chọn lọc thành giống cao sản. Các loại dưa chuột Cao Bằng, Yên Mỹ, Hà Tây, Thanh Hóa, Củ Chi, Bình Thạnh, Đà Lạt...
Nhìn chung các giống dưa chuột hiện có của chúng ta còn chưa đáp ứng được yêu cầu về sản xuất và tiêu dùng. Các giống địa phương vẫn chưa được khai thác triệt để trong công tác chọn giống dưa chuột ở Việt Nam. Chưa có những giống chuyên dùng cho chế biến và phục vụ xuất khẩu mà thường phải nhập từ nước ngoài như: giống dưa chuột lai F1 TO, TK của Nhật Bản; giống dưa chuột bao tử nhập từ Thái Lan MTXTE; giống Marina quả chùm hoặc giống Levina quả đơn, v.v.., giá hạt giống cao. Đó là một yếu tố quan trọng dẫn đến chi phí sản xuất trên đơn vị diện tích tăng.
Về công tác giống dưa chuột tại Thừa Thiên Huế, bước đầu đã có những thử nghiệm các loại giống F1 từ công ty giống cây trồng: Công ty Trang Nông (giống TN 404, TN 362, TN 442, TN 765, TN 169...); các giống nhập nội từ Thái Lan (giống Thunderberd, Queen, Amata 765, Cham 937...), giống từ Pháp (L-04); nghiên cứu tập đoàn giống nhập nội từ Trung tâm nghiên cứu và phát triển Rau Châu Á (CS 085, CS 084, Chili 303...- Ks. Trương Thị Hồng Hải,Đại học Nông Lâm Huế, 2001); giống dưa chuột bao tử MirinbeII và Marinda (Thạc sĩ Đồng Sĩ Toàn và cộng sự Phòng Kinh tế thành phố Huế)...
Ở một số nước có trình độ thâm canh cao (như Nhật Bản), người ta thường ghép dưa chuột lên bí đỏ (vì bí đỏ không bao giờ bị bệnh Fusarium phá hoại) để tăng cường sức chống bệnh cho dưa, lợi dụng bộ rễ ăn sâu và khỏe của bí đỏ để làm cho dưa có khả năng tăng năng suất [ ]
2.5 Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài
2.5.1 Cơ sở lý luận
- Giống cây trồng là yếu tố quan trọng quyết định rất lớn trong việc tăng năng suất và cải thiện chất lượng sản phẩm. Sản phẩm của các chương trình giống cây trồng không chỉ tạo ra các giống mới có ưu thế hơn các giống hiện có, mà điều quan trọng là phải duy trì và nhân ra nhiều lô giống có chất lượng tốt cung cấp cho nông dân. Chọn giống có hiệu quả là giải quyết tốt mối quan hệ phức tạp giữa các tính trạng trong cơ thể cây trồng và mối quan hệ cũng phức tạp giữa cây trồng và môi trường để đảm bảo cho giống có năng suất cao và ổn định, chống chịu sâu bệnh tốt, phù hợp với yêu cầu thâm canh và điều kiện sản xuất của địa phương.
Các đặc tính của giống cây trồng được quyết định không những bởi môi trường và sự chọn lọc ( tự nhiên và nhân tạo) đã tác động lên thành phần di truyền, mà còn được quyết định bởi tính chất phong phú hay nghèo nàn của thành phần di truyền giống đó. Muốn khẳng định giống mới có ưu thế hơn các giống khác thì phải qua khảo nghiệm và đánh giá một cách cụ thể và chi tiết các loại giống. Mặt khác, mỗi loại giống cây trồng nói chung và dưa chuột nói riêng phù hợp với một điều kiện đất đai, thời tiết và điều kiện ngoại cảnh nhất định.
- Trong sản xuất cần nắm vững các đặc trưng và đặc tính của giống để từ đó có biện pháp kỹ thuật tác động thích hợp nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Tuy vậy trong thực tế sản xuất nhiều năm qua ở nước ta nông dân chưa thực sự chọn tạo được giống phù hợp với điều kiện sản xuất mình và thích ứng với địa phương. Vì vậy việc chọn tạo, khảo nghiệm giống mới là cần thiết và cần được duy trì liên tục.
2.5.2 Cơ sở thực tiễn
Thừa Thiên Huế là một tỉnh thuộc miền Trung, có điều kiện khí hậu khắc nghiệt, nóng ẩm mưa nhiều. Bên cạnh đó đất đai lại kém màu mỡ. Những năm gần đây có nhiều nghiên cứu trong sản xuất dưa chuột, một số nghiên cứu bước đầu về các giống dưa chuột nhập nội và biện pháp canh tác khác đã đưa lại những kết quả nhất định. Tuy nhiên năng suất cũng như chất lượng sản phẩm vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nuớc cũng như xuất khẩu. Do đó để có cơ sở vững chắc nhằm phát triển cây dưa chuột tại Thừa Thiên Huế, trong từng điều kiện cụ thể của từng vùng sản xuất thì công tác nghiên cứu sự thích nghi, tuyển chọn các giống phù hợp với địa phương là hết sức cần thiết.
Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đối tượng nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành với 5 giống dưa chuột, trong đó giống đối chứng là giống CHAI - YO 578. Các giống tham gia thí nghiệm được trình bày ở bảng sau:
Các giống dưa chuột sử dụng thí nghiệm
Công thức
Tên giống
Nguồn gốc
I
CHAI - YO 578 ( ĐC)
Thái Lan
II
AMATA 765
Thái Lan
III
TN 404
Công ty Trang Nông
IV
CHAMP 937
Thái Lan
V
L - 04 ( TROPICA)
Pháp
3.2 Sơ đồ thí nghiệm
Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp khối ngẫu nhiên hoàn toàn (RCB), 4 lần nhắc lại.
Bảo vệ
Va
Ia
IVa
IIa
IIIa
IIb
IVb
IIIb
Vb
Ib
Ic
IIc
Vc
IIIc
IVc
Vd
Id
IIId
IId
IVd
Bảo vệ
Chú thích: I, II, III, IV, V là các công thức thí nghiệm tương ứng
a, b, c, d là các lần nhắc lại.
Thí nghiệm được bố trí theo phương pháp khối ngẫu nhiên hoàn toàn (RCB), 4 lần nhắc lại.
Số ô thí nghiệm 20 ô
Diện tích mỗi ô 3,6m2
Diện tích thực hiện thí nghiệm 78 m2
Diện tích bảo vệ 30 m2
Diện tích toàn khu thí nghiệm 108 m2
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Thí nghiệm được tiến hành tại Trung tâm giống cây trồng Tứ Hạ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, vụ xuân 2009.
* Các biện pháp kỹ thuật áp dụng
- Làm đất: Do bộ rễ của dưa chuột phát triển yếu nên phải làm đất kỹ: Đất đảm bảo yêu cầu tơi, xốp, đủ ẩm và sạch cỏ dại.
- Lên luống: Luống lên rộng 1,5 m, mặt luống 1,2 cm, rãnh 0,3 cm, cao 20 -30 cm.
- Lượng phân bón/ha và cách bón
Phân chuồng 20 tấn + 70kgN + 40kg P2O5 + 90kg K2O
(150 kg u rê + 200kg lân supe + 200kg Kali sul phat)
Vôi bột: 400 - 500kg, nếu pH thấp dưới 5 có thể bón 600 - 800 kg vôi bột.
Bón lót toàn bộ phân chuồng, phân lân và 50% tổng lượng N và K vào hốc, trộn đều, lấp 1 lớp đất nhẹ.
- Gieo hạt:
+ Cách gieo: Hạt được gieo theo 2 hàng/luống với khoảng cách 60 x 30 - 40cm, mật độ 60000 cây/ha, mỗi hốc gieo 2 hạt.
* Chăm sóc
- Xới vun + bón thúc:
+ Bón thúc lần 1: kết hợp vun xới với bón thúc đợt 1 lúc cây có 4 - 5 lá thật gồm 25% tổng số N + K
+ Bón thúc lần 2: Khi thu quả lứa đầu gồm 25% tổng lượng N và K còn lại.
- Làm giàn: Khi cây bắt đầu xuất hiện tua cuốn thì tiến hành làm giàn, làm giàn kiểu chữ X.
3.4 Nội dung, phương pháp nghiên cứu
3.4.1 Nội dung nghiên cứu:
- So sánh khả năng sinh trưởng, phát triển của các giống dưa chuột tham gia thí nghiệm.
- So sánh năng suất của các giống dưa.
- So sánh các chỉ tiêu về tình hình sâu bệnh hại xuất hiện trên các giống thí nghiệm.
3.4.2 Các chỉ tiêu nghiên cứu
* Thời gian sinh trưởng qua các giai đoạn của dưa chuột
Gieo - mọc mầm
Mọc mầm - 3 lá thật
Mọc mầm - ra tua cuốn
Mọc mầm - phân cành
Mọc mầm - ra hoa cái đầu
Mọc mầm - thu quả 1
Thu quả 1 - thu quả 2
Tổng thời gian sinh trưởng: tính từ khi gieo đến khi thu quả cuối cùng
* Các chỉ tiêu về sinh trưởng
- Động thái tăng trưởng chiều cao thân chính (cm):
- Tổng số cành cấp 1,cấp 2 trên cây.
- Động thái ra lá của các giống tham gia thí nghiệm.
* Quan sát đặc điểm hình thái của các giống
- Quan sát màu sắc lá,thân, hoa, vỏ quả, gai quả
- Chiều cao thân chính tối đa, số lá trên thân chính tối đa, số cành đếm được.
* Các chỉ tiêu về giới tính
- Tổng số hoa/ cây ( hoa)
- Tổng hoa cái/ cây ( hoa)
- Tổng hoa đực/ cây ( hoa)
Tổng số hoa cái
- Tỷ lệ hoa cái (%) = x 100
Tổng số hoa
Tổng số quả thu được
- Tỷ lệ đậu quả (%) = x 100
Tổng số hoa cái
Tổng số quả thương phẩm
- Tỷ lệ quả thương phẩm (%) = x 100
Tổng số quả thu được
* Các yếu tố cấu thành năng suất
- Mật độ (số cây/ m2)
- Số quả đậu/ cây
- Số quả hữu hiệu/cây (quả)
-Khối lượng TB của mỗi quả
tổng kg quả
KLTB( g/ quả) =
tổng số quả
Số cây/m2 x số quả hữu hiệu/cây x trọng lượng TB/ quả( g)
- NSLT ( tấn/ ha)=
100
- NSTT ( tấn/ ha) = năng suất thu được trên ô thí nghiệm
* Các chỉ tiêu chất lượng quả
- Kích thước quả (cm): chiều dài, đường kính, độ dày thịt quả.
- Nếm thử độ dòn, quan sát độ rỗng đặc. Thang điểm như sau
- Chỉ tiêu ruột quả: + <6 điểm: Ruột quả rỗng
+ từ 7-8 điểm: Ruột quả đặc
+ > 9 điểm: Ruột quả rất đặc
- Chỉ tiêu độ giòn quả : + <6 điểm: không giòn
+ từ 7-8 điểm: giòn
+ > 9 điểm : rất giòn
- Chỉ tiêu thị hiếu người tiêu dùng được đánh giá kết hợp giữa chỉ tiêu ruột quả, độ giòn quả và sức mua của người tiêu dùng trực tiếp trên thị trường.
* Các chỉ tiêu về sâu bệnh
- Tỷ lệ cây bị bệnh (%): Số cây bị bệnh/ tổng cây theo dõi
- Tỷ lệ quả bị bệnh (%): Số quả bị bệnh / tổng số quả theo dõi
- Tỷ lệ sâu hại (%): Số cây bị sâu hại / tổng cây theo dõi
- Tỷ lệ sâu hại quả (%): Số quả bị sâu hại / tổng số quả theo dõi
Tiến hành phân cấp bệnh trên lá như sau:
Cấp 1: < 1% diện tích lá
Cấp 3: 1 - 5% diện tích lá
Cấp 5: > 5 - 25% diện tích lá
Cấp 7: > 25 - 50% diện tích lá
Cấp 9: > 50% diện tích lá
[(N1 x 1) + (N3 x 3) +...+(Nn x n)]
- Chỉ số bệnh = x 100
N x n
Trong đó: N1 là số lá bị bệnh ở cấp 1
N3 là số lá bị bệnh ở cấp 3
Nn là số lá bị bệnh ở cấp n
N là số lá điều tra
N là số cấp bệnh cao nhất
3.4.3 Phương pháp nghiên cứu
Mỗi ô theo dõi 10 cây bất kỳ ở giữa luống cố định, các chỉ tiêu về quả theo dõi 10 quả ngẫu nhiên trên luống.
- Chỉ tiêu chiều cao cây: Đo từ mặt đất đến đỉnh sinh trưởng của thân chính bằng thước dây chia độ, 7 ngày / lần.
- Chỉ tiêu về số lá đếm trực tiếp, 7 ngày / lần.
- Chỉ tiêu về hoa đếm trực tiếp, 2 ngày / lần.
- Chỉ tiêu về diện tích lá đo bằng phương pháp cân nhanh.
- Kích thước quả đo bằng thước panme.
- Trọng lượng quả dùng cân bàn nhỏ lúc thu quả từng đợt .
- Chỉ tiêu về sâu bệnh theo dõi trên mỗi ô thí nghiệm bằng quan sát trực tiếp trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển của cây. Đối với chỉ tiêu sâu đục quả tiến hành theo dõi 10 quả ngẫu nhiên trên ô.
3.4.4 Phương pháp phân tích thống kê
- Sử dụng phần mềm Statistics để phân tích thống kê.
- Phần mềm excel
Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1 Thời gian hoàn thành các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các giống dưa chuột
Sinh trưởng, phát triển là biểu hiện sự biến đổi về lượng và về chất thực vật trong chu kỳ sống của chúng. Sự sinh trưởng về kích thước, trọng khối và hình thành các yếu tố cấu tạo mới là tiền đề cho sự phát triển và ngược lại sự phát triển là quá trình biến đổi về chất bên trong dẫn đến sự ra hoa kết quả lại thúc đẩy sự sinh trưởng [Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Đình Thi, Bài giảng sinh lý thực vật, Trường ĐHNL Huế, 2008, tr 119].
Thời gian hoàn thành các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây trồng nói chung và của dưa chuột nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong công tác chọn giống. Qua đó cho biết đặc trưng, đặc tính của giống chín sớm, chín trung bình hay chín muộn của từng giống. Nghiên cứu thời gian sinh trưởng phát triển của giống giúp người sản xuất có kế hoạch sắp xếp thời vụ, bố trí cây trồng hợp lý cũng như tác động các biện pháp kỹ thuật thích hợp nhằm hạn chế tối thiểu tác động của điều kiện ngoại cảnh tạo điều kiện tốt nhất cho cây sinh trưởng, phát triển tốt mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất.
Đối với dưa chuột, thời gian sinh trưởng phát triển được tính từ lúc mọc mầm cho đến khi kết thúc thu năng suất. Các giống khác nhau sẽ trai qua từng giai đoạn trong khoảng thời gian không giống nhau. Một giống được đánh giá là giống tốt phải là giống có khả năng sinh trưởng phát triển tốt, có thời gian sinh trưởng tương đối ngắn, thích ứng rộng với điều kiện thời tiết và có tiềm năng cho năng suất cao.
Qua theo dõi chúng tôi thu được kết quả sau:
* Thời kỳ gieo - mọc mầm
Ở dưa chuột thời kỳ này được tính từ lúc gieo đến khi xuất hiện 2 lá mầm. Hạt sau khi gieo muốn nãy mầm cần phải có đủ 3 điều kiện đó là nhiệt độ, ẩm độ và không khí, khi hạt hút đủ khoảng 50% lượng nước so với trọng lượng hạt thì hạt sẽ nãy mầm. Thời kỳ nãy mầm của dưa chuột yêu cầu nhiệt độ cao, nhiệt độ trên 120C hạt mới có thể nãy mầm,nhiệt độ tối thích ở phạm vi 25- 320C dưới 100C hạt không mọc [Đào Mạnh Khuyến, Kỹ thuật trồng dưa, H.NXB Nông nghiệp, 1986, tr 9]. Độ ẩm đất cũng rất quan trọng đến quá trình nãy mầm của hạt, độ ẩm quá cao hay quá thấp đều có thể gây ra hiện tượng thối hạt. Nhiệt độ ở độ sâu 10 cm khoảng 12- 150C là thích hợp nhất đối với hạt.
Hạt của dưa chuột tương đối lớn, chứa nhiều chất dự trữ nên khả năng nãy mần rất mạnh, tỷ lệ mọc rất cao, nhất là đối với những giống F1. Hạt nãy mầm tốt có ảnh hưởng đến mật độ cây trồng và khoảng cách cây trên đơn vị diện tích từ đó ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng sau này.
Đặc trưng của thời kỳ này là kết thúc bởi sự xuất hiện của 2 lá mầm. Sự sinh trưởng của 2 lá mầm phụ thuộc nhiều vào giống, chất dự trữ, nhiệt độ và độ ẩm đất. Có ảnh hưởng đến đời sống của cây đặc biệt là thời kỳ cây con.[ Tạ Thị Thu Cúc, Hồ Hữu An, Nghiêm Thị Bích Hà, Cây rau, Trường ĐHNN Hà Nội,2002, tr 202; 203]. Nghiên cứu chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng trong xác định thời gian gieo hạt một cách hợp lý nhằm cung cấp điều kiện tốt nhất cho sự phát triển của 2 lá mầm dưa chuột.
Qua theo dõi chúng tôi nhận thấy tất cả các giống tham gia thí nghiệm có thời gian nãy mầm tính từ khi gieo là 4 - 5 ngày. Chưa có sự sai khác đáng kể giữa các giống tham gia thí nghiệm. Các giống Chaiyo578, TN404, Champ937, Amata765 trải qua thời gian này trong 4 ngày, giống L-04 là 5 ngày. Điều này được giải thích là điều kiện về thời tiết trong giai đoạn này thuận lợi cho sự nãy mầm của hạt. Bên cạnh đó các giống thí nghiệm đều là giống F1 nên có sức nãy mầm rất cao. Sau 5 ngày toàn bộ thí nghiệm đều đã xuất hiện 2 lá mầm.
Bảng 4.1 Thời gian hoàn thành các giai đoạn sinh trưởng, phát triển của
Đơn vị tính: ngày
Giai đoạn
Giống
Gieo- mọc
Từ mọc mầm đến..........
Tổng TGST
3-4 lá thật
Ra tua
cuốn
Phân
cành
Ra hoa
cái đầu
Thu quả
đợt 1
Chaiyo578 (Đ/c)
4
16
21
25
27
40
65
Amata765
4
15
19
23
31
43
67
TN404
4
13
17
21
29
40
65
Champ937
4
14
21
24
27
41
65
L-04
5
13
18
21
30
42
67
* Thời kỳ mọc mầm - 3,4 lá thật
Sau khi mọc mầm cây bắt đầu chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện ngoại cảnh trên mặt đất đến quá trình sinh trưởng. Giữa các giống bắt đầu có sự sai khác đáng kể về thời gian hoàn thành các giai đoạn sinh trưởng.
Số liệu từ bảng 4.1 cho chúng tôi nhận xét sau
Giống có thời gian xuất hiện 3 lá thật sớm nhất là TN 404 và L -04 (13 ngày sau mọc mầm) sớm hơn so với thời gian xuất hiện 3 lá thật của đối chứng - Chaiyo 578 (16 ngày sau mọc) là 3 ngày. Giống Amata bắt đầu xuất hiện 3 lá thật 15 ngày sau mọc mầm và L - 04 là 14 ngày.
* Thời kỳ mọc mầm - ra tua cuốn
Cũng như các loại cây khác trong họ bầu bí, dưa chuột thuộc loại thân leo, ở mỗi nách lá trên thân chính mọc ta tua cuốn. Dưa chuột có tua cuốn dạng đơn. Tua cuốn giúp thân leo bám vào giàn, hạn chế sự đổ ngã của cây. Những giống phát triển thân lá nhanh nhưng thời gian ra tua cuốn chậm sẽ làm cho cây dễ bị đổ ngã. Đối với những giống xuất hiện tua cuốn sớm là điều kiện thuận lợi cho cây vươn leo theo giàn dễ dàng hơn. Tua cuốn xuất hiện trong suốt quá trình sinh trưởng của cây. Qua theo dõi chúng tôi nhận thấy thời gian bắt đầu xuất hiện tua cuốn của các giống biến động từ 17 đến 21 ngày, trong đó giống xuất hiện tua cuốn muộn nhất là giống Chaiyo 578 đ/c, và giống sớm nhất là TN 404 17 ngày sau mọc.
* Thời kỳ mọc mầm - phân cành
Sau khi ra tua cuốn cây bước vào thời kỳ phân cành. Thời gian phân cành, số cành và số cấp cành đều do đặc tính di truyền của giống quy định. Cành hình thành nhiều hay ít, nhanh hay chậm phụ thuộc vào giống chín sớm hay chín muộn. Ngoài ra còn chịu ảnh hưởng của điều kiện chăm sóc trong suốt thời gian sinh trưởng của cây. Số liệu từ bảng 4.1 cho thấy các giống tham gia thí nghiệm bước vào thời kỳ phân cành cách nhau từ 1 - 4 ngày. Trong đó có 2 giống cùng bước vào thời kỳ này 21 ngày sau khi mọc mầm đó là giống L - 04 và giống TN 404. Giống có thời gian phân cành muộn nhất là giống đối chứng (25 ngày sau mọc), tiếp đó là giống Champ 937 24 ngày và giống Amata 765 là 23 ngày.
* Thời kỳ mọc mầm - ra hoa cái đầu
Thời gian này có liên quan đến giai đoạn phân hóa mầm hoa đến hình thành nụ hoa và kết thúc bằng sự ra hoa của cây. Theo quan điểm nông học thì thời kỳ này có ý nghĩa quan trọng nhất trong việc xác định tính chín sớm hay chín muộn của giống. Đồng thời đây cũng là giai đoạn cây chuyển từ sinh trưởng dinh dưỡng sang sinh trưởng sinh thực. Cây có hoạt động sinh lý mạnh mẽ nhất, phát triển mạnh về chiều cao ,thân lá và khả năng tích lũy chất khô lớn. Trong giai đoạn này, nhiệt độ có ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian ra hoa ra hoa của cây. Ở nhiệt độ thích hợp, cây ra hoa cái ở ngày thứ 26 sau khi nãy mầm. Nhiệt độ càng thấp thời gian này càng kéo dài. Dựa trên số liệu từ trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Thừa Thiên Huế thì nhiệt độ trung bình trong khoảng thời gian này là 23,5 - 24,50C là thích hợp cho quá trình phân hóa mầm hoa của dưa chuột [Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Thừa Thiên Huế, tháng 1,2,3 năm 2009]. Thông thường tổng tích ôn từ lúc từ lúc hạt nãy mầm đến lúc thu quả đầu ở các giống địa phương là 9000C, đến lúc thu hoạch là 16500C [Mai Thị Phương Ạnh, Rau và trồng rau, H.NN, 1996, tr 198]. Nghiên cứu thời gian ra hoa cái đầu giúp chúng ta có những định hướng và biện pháp kỹ thuật tác động phù hợp nhất nhằm tăng khả năng ra hoa tập trung và tỷ lệ hoa cái của các giống. Ở thời kỳ này sự cân bằng giữa sinh trưởng sinh thực và sinh trưởng dinh dưỡng là rất quan trọng. Nếu đạm trong cây dư thừa, cây sinh trưởng quá mạnh sẽ kéo dài thời gian ra hoa, giảm khả năng chống chịu với sâu bệnh hại và điều kiện bất thuận của thời tiết.
Kết quả theo dõi cho chúng tôi nhận xét sau:
Giống Champ 937 có thời gian từ khi mọc mầm đến thời gian ra hoa là 27 ngày và bằng với đối chứng. Giống ra hoa muộn nhất là giống Amata 765 31 ngày (chậm hơn so với đối chứng là 4 ngày), giống L - 04 là 30 ngày (chậm hơn so với đối chứng là 3 ngày).
* Thời kỳ mọc mầm - thu quả đợt 1
Thu hoạch dưa chuột đúng độ chín thương phẩm có ảnh hưởng tốt đến năng suất và phẩm chất hàng hóa. Thời kỳ thu hái dưa chuột chủ yếu phụ thuộc vào đặc tính của giống và mục đích sử dụng. Dưa chuột quả lớn dùng làm quả tươi, cắt lát phụ thuộc vào thời gian sinh trưởng. Giống sớm sau gieo 35 - 40 ngày thì được thu hái quả, giống trung và giống muộn sau gieo 50 - 60 ngày thì có thể thu hái quả đợt đầu tiên. Sau khi thu hái quả nhanh chóng chuyển màu vàng, đây là nhược điểm của một số loại giống, không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Khi thu hái cần chọn thời gian và thời điểm thích hợp. Vì vậy nghiên cứu thời gian cho quả đợt 1 giúp chúng ta có cơ sở chuẩn bị cho công tác thu hoạch, chế biến cũng như tiêu thụ. Các công thức có thời gian thu quả đợt 1 chênh lệch nhau từ 1 - 3 ngày. Giống đối chứng có khoảng cách giữa thời gian ra hoa cái đầu và thu quả 1 là 13 ngày, giống Amata 765 và L - 04 có khoảng thời gian này là 12 ngày, giống Champ 937 là 14 ngày.
* Tổng thời gian sinh trưởng
Cũng như các loại cây trồng khác, dưa chuột trải qua chu kỳ sống từ lúc mọc mầm cho đến khi thu quả đợt cuối cùng trong một khoảng thời gian nhất định. Khoảng thời gian đó tùy thuộc vào giống ngắn ngày, trung ngày hay dài ngày. Tổng thời gian sinh trưởng là cơ sở giúp người sản xuất bố trí thời vụ hợp lý cũng như các biện pháp luân canh, xen canh giữa các loại cây trồng khác với dưa chuột.
Các giống dưa chuột mà chúng tôi sử dụng trong thí nghiệm đều là những giống ngắn ngày, có tổng thời gian sinh trưởng, phát triển từ 65 ngày (Chaiyo 578, Champ 937, TN 404) đến 67 ngày (giống Amata 765 và L - 04).
4.2 Động thái tăng trưởng chiều cao thân chính của các giống dưa chuột
Thân cây phát triển mạnh khỏe là cơ sở cho các bộ phận khác phát triển một cách hợp lý, tạo điều kiện cho quá trình quang hợp của cây tiến hành một cách thuận lợi. Chiều cao thân chính là một đặc tính di truyền nó phụ thuộc vào từng loại giống và các yếu tố ngoại tác động như chăm sóc, điều kiện dinh dưỡng. Thông thường những giống chín sớm có độ dài thân ngắn, phân cành ít hơn so với giống chín trung bình và chín muộn. Chiều cao thân chính còn là một đặc điểm phản ánh khả năng tổng hợp chất hữu cơ của giống và một phần phản ánh dinh dưỡng có trong đất trong suốt thời gian sinh trưởng của cây.
Dưa chuột thuộc họ bầu bí, thân thuộc loại leo bò, thân mảnh nhỏ, trên thân có lông tơ nhiều hay ít phụ thuộc vào ngoại cảnh, tuổi cây, giống, điều kiện ngoại cảnh lúc cây sinh trưởng và kỹ thuật chăm sóc. Nếu điều kiện thời tiết không thuận lợi và chăm sóc không đảm bảo thì chiều cao thân sẽ không đạt tới chiều cao của giống. Thân ở thời kỳ đầu phát triển chậm chạp, bắt đầu từ thời kỳ 3 - 4 lá phát triển nhanh mang tính đặc trưng của giống và tốc độ giảm dần về sau. Chiều cao thân là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá sự sinh trưởng mạnh hay yếu của dưa chuột và là yếu tố quan trọng góp phần quyết định năng suất vì hoa cái dưa chuột chủ yếu ra trên thân chính.
Sự tăng trưởng về chiều cao thân chính của dưa chuột mạnh hay yếu thể hiện sức sống và khả năng chống chịu của cây trong điều kiện trồng trọt cụ thể. Thông thường trong một giới hạn nhất định sự sinh trưởng tốt sẽ tạo tiền đề cho sự phát triển tốt. Tuy nhiên nếu vượt qua giới hạn đó sinh trưởng quá mạnh sẽ kìm hãm sự phát triển. Đây là trường hợp cây bị lốp đổ do độ ẩm quá cao, bón nhiều đạm làm cho cây tập trung vào sinh trưởng thân lá và ra hoa chậm.
Đánh giá chỉ tiêu mức độ tăng trưởng chiều cao giữa các giống có ý nghĩa quan trọng giúp chúng ta có những nhận định bước đầu về tiềm năng sinh trưởng phát triển của giống, và là cơ sở để có những tác động kỹ thuật phù hợp nhất giúp cây phát triển tốt. Bên cạnh đó thân chính còn có nhiệm vụ nâng đỡ các bộ phận trên cây, do vậy song song với quá trình phát triển của thân chính là sự phát triển của lá, cành, hoa và quả của cây.
Kết quả thu được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 4.2 Động thái tăng trưởng chiều cao thân chính của các giống
ĐVT: cm
Thời kỳ
Giống
Sau mọc
13 ngày
20 ngày
27 ngày
34 ngày
45 ngày
Thu hoạch đợt cuối
Chaiyo578 (Đ/c)
4,64
22,22b
55,86b
98,50b
120,37b
127,26b
Amata765
5,87
26,07ab
58,29b
109,06ab
129,23b
136,50b
TN 404
5,35
28,20a
73,05a
122,65a
156,52a
160,9a
Champ937
5,16
24,19ab
57,74b
100,18b
119,04b
123,36b
L-04
5,41
24,63ab
60,04b
107,95ab
123,24b
130,99b
LSD0,05
5.6882
11.481
14.933
15.807
16.235
Số liệu từ bảng 4.2 mà chúng tôi thu được trong suốt quá trình theo dõi thí nghiệm cho chúng tôi nhận xét:
* Thời kỳ 13 ngày sau mọc
Đặc điểm của thời kỳ này là bộ phận trên mặt đất - thân lá phát triển chậm, lá nhỏ, lóng cây nhỏ và ngắn. Thân ở trạng thái đứng, thân thẳng chưa phân cành. Đây cũng là thời kỳ cây bắt đầu xuất hiện 3 - 4 lá thật, khả năng quang hợp để tổng hợp chất hữu cơ còn thấp, chủ yếu là nhờ 2 lá mầm. Bộ phận dưới mặt đất phát triển tương đối nhanh cả về độ sâu và chiều rộng, khả năng ra rễ phụ mạnh. Cây bắt đầu chuyển từ dinh dưỡng nhờ hạt sang dinh dưỡng nhờ rễ. Cây sinh trưởng yếu, mẫn cảm với điều kiện ngoại cảnh, khả năng chống chịu với sâu bệnh hại rất kém [Tạ Thị Thu Cúc, Hồ Hữu An, Nghiêm Thị Bích Hà, Cây rau, Trường ĐHNN Hà Nội,2002, tr 203]. Mặt khác trong thời gian này gặp điều kiện khí hậu tương đối nắng nóng, độ ẩm không khí thấp nên tốc độ tăng trưởng về chiều cao thân ở hầu hết các giống đều rất chậm. Chiều cao các giống giao động từ 4,64 cm ở giống Chaiyo 578 đến 5,87 cm ở giống Amata 765. Các giống TN 404 đạt 5,35 cm, Champ 937 đạt 5,16 cm và L- 04 đạt 5,41 cm.
Biểu đồ 1: Động thái tăng trưởng chiều cao cây của các giống
* Thời kỳ 20 ngày sau mọc
Ở thời kỳ này sự phát triển của bộ phận trên mặt đất tương đối nhanh. Cây lấy dinh dưỡng từ đất qua bộ rễ và khả năng tổng hợp chất hữu cơ của cây tăng dần do diện tích lá cũng như số lá trên cây tăng. Thêm vào đó là điều kiện thời tiết khá thuận lợi cho sự phát triển của cây như độ ẩm trung bình 85 - 90%, nhiệt độ 23,5 - 24,50 [Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Thừa Thiên Huế, tháng 1,2,3 năm 2009] cùng với sự chăm sóc cung cấp nước thường xuyên nên đã tạo điều kiện tốt cho quá trình phát triển.
Qua theo dõi chúng tôi nhận thấy bắt đầu có sự sai khác có ý nghĩa giữa các giống tham gia thí nghiệm. Kết quả thu được phân thành 2 nhóm sai khác. Trong đó giống có chiều cao và tốc độ tăng trưởng lớn nhất là TN 404 đạt 28,2 cm (3,26 cm/ ngày), thấp nhất là Chaiyo 578 Đ/c đạt 22,22 cm (2,51 cm/ngày). Giữa các giống còn lại không có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê, lần lượt có chiều cao cây là: giống Amata 765 26,07 cm ( 2,89 cm/ngày), giống Champ 937 24,19 cm (2,71 cm/ngày), L - 04 24,63 cm ( 2,74 cm/ngày). Các giống này có sự chênh lệch không đáng kể so với đối chứng.
* Thời kỳ 27 ngày sau mọc
Sự phát triển hoàn thiện của bộ rễ cộng với sự tăng nhanh về số lá trên cây trong thời kỳ này đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh của chiều cao cây. Đây cũng là thời gian cây đang ở giai đoạn phân cành cấp 1. Cây sử dụng đa số nhờ dinh dưỡng có trong đất. Số liệu từ bảng 4.2 cho thấy:
Giống có chiều cao thân chính thấp nhất trong giai đoạn này vẫn là giống đối chứng Chaiyo 578 chỉ đạt 55,86 cm.Trong khi đó giống TN 404 đạt 73,05 cm cao hơn so với đối chứng 17,19 cm. Giống Champ 937 đạt 57,74 cm, Amata 765 58,29 cm và L- 04 đạt 60,04 cm.
Xét về tốc độ tăng trưởng chiều cao cây trong giai đoạn này thì giống có tốc độ tăng trưởng cao nhất là TN 404 (6,41cm/ngày), thấp nhất là Amata 765 (4,6 cm/ngày).
* Thời kỳ 34 ngày sau mọc
Đây là thời kỳ cây ra hoa và có tốc độ tăng trưởng chiều cao nhanh nhất. Nhìn chung các giống tham gia thí nghiệm đã phát triển mang tính đặc trưng của giống. Đáng chú ý nhất vẫn là giống TN 404 với chiều cao thân chính trong giai đoạn này là 122,65 cm (cao hơn so với đối chứng là 24,15 cm, tốc độ tăng 7,09 cm/ngày). Tiếp đó là giống Amata 765 109,06 cm (cao hơn so với đối chứng là 10,56 cm, tốc độ tăng 7,25 cm/ngày), giống Champ 937 đạt 100,18 cm.
* Thời kỳ 45 ngày sau mọc
Chiều cao thân chính trong giai đoạn này gần đạt đến chiều cao tối đa, cây tập trung dinh dưỡng cho sự sinh trưởng của quả nên tuy chiều cao vẫn tăng nhưng tốc độ tăng trưởng ở các giống có phần giảm xuống. Cao nhất là giống TN 404 với 156,52 cm, thấp nhất là giống Champ 937 với 119,04 cm. Các giống còn lại có chiều cao lần lượt là Chaiyo 578 120,37 cm, Amata 765 đạt 129,23 cm, và cuối cùng là L-04 đạt 123,24 cm.
* Thu hoạch đợt cuối
Đây là thời kỳ chiều cao cây đạt tối đa. Cụ thể chiều cao chỉ tăng từ 4,27 cm đến 7,75 cm. Do cây tập trung vật chất khô để nuôi quả, chỉ một lượng nhỏ dinh dưỡng được sử dụng để phát triển thân lá nên thời kỳ này chiều cao thân chính tăng chậm dần đến ổn định. Cao nhất vẫn là giống TN 404 với 160,09 cm (cao hơn so với đối chứng với 127,26 cm là 32,83 cm). Giống Amata 765 là 136,50 cm (cao hơn so với đối chứng là 9,24 cm). Giữa các công thức Champ 937 với 123,36 cm (thấp hơn so với đối chứng là 3,9 cm) và L- 04 với 130,99 cm (cao hơn so với đối chứng 3,73 cm) có sự chênh lệch không lớn lắm.
Như vậy, chiều cao thân chính là một chỉ tiêu phụ thuộc rất lớn vào đặc tính di truyền của giống, nhưng đồng thời nó cũng là giá trị kiểu hình thể hiện trong từng môi trường cụ thể. Do vậy chỉ tiêu này không nằm ngoài sự tác động của môi trường. Trong đó phải kể đến chế độ dinh dưỡng của đất, điều kiện nhiệt độ, ẩm độ không khí cũng như các thành phần môi trường khác như các biện pháp tác động của con người.
4.3 Động thái ra lá của các giống dưa chuột
Lá là bộ phận quan trọng của tất cả các loại cây nói chung và của dưa chuột nói riêng. Lá có nhiệm vụ quang hợp, tổng hợp vật chất khô bên cạnh đó lá còn có nhiệm vụ thoát hơi nước điều hòa nhiệt độ trong cây. Thông thường giống nào có số lá trên cây nhiều thì sức sinh trưởng của cây lớn và khả năng tích lũy chất dinh dưỡng cao. Đặc điểm ra lá, tuổi thọ lá là do đặc tính di truyền của giống quy định ngoài ra còn phụ thuộc vào điều kiện ngoại cảnh và kỹ thuật chăm sóc. Nhiệt độ quá cao hay quá thấp đều ức chế sự tạo thành lá và sinh trưởng của lá. Khi gặp nhiệt độ thấp lá sinh trưởng chậm nhưng phiến lá dày hơn.
Lá của dưa chuột gồm có lá mầm và lá thật, 2 lá mầm mọc đối xứng qua trục của thân. Lá mầm nhú ra đầu tiên, có hình trứng và là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá và dự đoán tình hình sinh trưởng của cây. Trong kỹ thuật trồng trọt người ta thường quan tâm tới độ lớn, sự cân đối và thời gian duy trì 2 lá mầm trên cây dài hay ngắn. Vì nó có ý nghĩa lớn trong quang hợp tạo vật chất nuôi cây và ra lá thật sau này.
Chất lượng 2 lá mầm chịu ảnh hưởng của yếu tố chất lượng giống, khối lượng hạt giống, dinh dưỡng trong đất, độ ẩm đất, nhiệt độ lúc hạt nãy mầm. Nếu bị ảnh hưởng xấu bởi các điều kiện nói trên thì lá mầm phát triển không đầy đủ và cân đối, có thể bị dị hình. Trong điều kiện đất đai, dinh dưỡng và các điều kiện khác tốt, lá mầm có thể tồn tại đến lúc thu quả lứa đầu mới rụng.
Lá thật có 5 cánh chia thùy nhọn hoặc có dạng chân vịt, mọc đơn, phiến và cuống lá đều có lông cứng. Màu sắc lá thay đổi tùy theo giống xanh vàng hoặc xanh thẫm. Nách lá là nơi phát sinh ra tua cuốn, hoa đực, hoa cái và rễ bất định. Sự ra lá và phát triển về diện tích lá thật của dưa chuột ở thời kỳ cây con rất chậm, sau đó tăng dần, đạt cao nhất khi có quả và giảm tốc độ ở giai đoạn già cỗi.
* Giai đoạn 13 ngày sau khi mọc mầm
Đây là giai đoạn cây đang ở thời kỳ cây con chuẩn bị bước sang thời kỳ 3 -4 lá thật. Diện tích lá cũng như số lá trên thân chính tăng chậm ở hầu hết các giống tham gia thí nghiệm. Giữa các giống chưa có sự sai khác đáng kể. Số lá giao động từ 2,53 lá (giống đ/c Chaiyo578) đến 2,73 lá (giống Amata 765 và L - 04).
Bảng 4.3 Động thái ra lá của các giống
Đơn vị tính: lá
Thời kỳ
Giống
Sau mọc
13 ngày
20 ngày
27 ngày
34 ngày
45 ngày
Thu hoạch đợt cuối
Chaiyo578 (Đ/c)
2,53
7,01
10,33b
14,95b
18,43b
19,4b
Amata765
2,73
7,01
10,38ab
14,6b
18,48b
19,35b
TN404
2,65
7,63
11,85a
17,23a
21,7a
23,05a
Champ937
2,6
7,08
10,43ab
14,7b
17,83b
18,7b
L-04
2,73
7,11
10,68ab
15.15b
18,18b
19,05b
LSD0,05
1.5039
1.8983
1.8585
1.7965
Chú thích: Giá trị trung bình trong cùng một cột theo sau bởi những chữ cái giống nhau thì không có sự sai khác về mặt thống kê.
* Giai đoạn 20 ngày sau khi mọc mầm
Số lá tăng nhanh ở tất cả các giống trong thời kỳ này, điều này có thể được giải thích là do bộ rễ của dưa chuột trong giai đoạn này đã có thể hút được dinh dưỡng trong đất, lượng phân bón lót trước khi trồng đã có tác dụng lớn trong sự sinh trưởng của cây. Tuy chưa có sự sai khác đáng kể về số lá trên cây nhưng ở hầu hết các công thức đều tăng từ 4-5 lá so với giai đoạn trước. Trong đó cao nhất vẫn là giống TN 404 đạt 7,63 lá, tiếp đến là giống L- 04 7,11 lá, giống Champ 937 đạt 7,08 lá và cuối cùng là Chaiyo 578 đ/c, Amata 765 đều đạt 7,01 lá.
* Giai đoạn 27 ngày sau khi mọc mầm
Kết quả từ bảng 4.3 cho chúng ta thấy rằng số lá trên cây giữa các giống trong giai đoạn này bắt đầu có sự sai khác đáng kể về mặt thống kê. Giống có số lá cao nhất vẫn là TN 404 với 11,85 lá ( cao hơn so với đối chứng 10,33 là 1,53 lá). Các giống còn lại có số lá giao động từ 10,38 ( giống Amata 765) đến 10,68 lá ( giống L- 04).
* Giai đoạn 34 ngày sau khi mọc mầm
Cùng với sự phát triển của chiều cao cây, tốc độ tăng trưởng số lá trong giai đoạn này của các giống đều tăng nhanh. Điều này có thể giải thích là do cây đang trong thời kỳ ra hoa, tập trung dinh dưỡng nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho sự ra hoa tạo quả đồng thời điều kiện thời tiết trong giai đoạn này khá thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây. Số lá trên thân chính của giống Chaiyo đ/c đạt 14,95 lá (tốc độ 0,66 lá/ngày), trong khi đó giống TN 404 lên đến 17,23 lá (cao hơn so với đối chứng là 2,28 lá, tốc độ tăng trưởng 0,76 lá/ngày). Giống có số lá thấp nhất trong giai đoạn này là Amata 765 với 14,6 lá trên thân chính, tiếp đến là giống Champ 937 với 14,7 lá và tiếp theo đó là giống L-04 đạt 15,15 lá. Số lá của các giống giao động từ 14,6 lá đến 17,23 lá trên thân chính.
Biểu đồ 2: Động thái ra lá của các giống
* Giai đoạn 45 ngày sau khi mọc mầm
Kết quả từ bảng 4.3 cho thấy ở tất cả các công thức số lá đều tăng tuy tốc độ có giảm so với giai đoạn trước. Lý giải điều này chúng tôi cho rằng trong giai đoạn này cây tập trung dinh dưỡng để nuôi quả, do vậy giảm sinh trưởng về thân lá. Số lá giao động từ 17,83 lá (ở giống Champ 937) đến 21,7 lá (ở giống TN 404). Thời kỳ này số lá trên thân chính đã ổn định và mang tính đặc trung của giống. Các giống còn lại không có sự sai khác đáng kể với nhau và với giống đối chứng..
* Tổng số lá trên thân chính
Kết thúc thu số lá trên thân chính đạt tối đa. Bên cạnh các chỉ tiêu về chiều cao thân chính, số cành,chỉ tiêu này phản ánh một cách tổng quát nhất về khả năng sinh trưởng của các giống trong chu kỳ sống của dưa chuột. Tốc độ tăng số lá kể từ giai đoạn trước giảm rõ rệt ở tất cả các giống cho đến kết thúc thu thì ngừng tăng và đạt tối đa. Do lúc này dinh dưỡng cũng đã cạn kiệt và sức sinh trưởng của dưa chuột giảm do cây chuyển sang thời kỳ già cỗi. Nếu giống TN 404 đạt tới 23,05 lá trên thân chính (cao hơn so với đối chứng 19,4 lá là 3,65 lá) thì giống Cham937 chỉ đạt 18,7 lá (thấp hơn so với đối chứng là 0,7 lá). Các giống còn lại có tổng số lá lần lượt là Amata 765 19,35 lá, L- 04 là 19,05 lá.
Tóm lại tốc độ và số lá trên thân chính của các giống tăng nhanh ở giai đoạn từ 3-4 đến giai đoạn ra hoa, sau đó giảm dần và đạt tối đa vào giai đoạn kết thúc thu. Giữa các giống có sự sai khác đáng kể, có thể sắp xếp thứ tự như sau: TN 404 > Chaiyo 578 (Đ/c) > Amata 765 > L-04 > Champ 937
4.4 Khả năng phân cành của các giống dưa chuột
Ở mỗi nách lá trên thân của dưa chuột đều có khả năng mọc ra tua cuốn, phân cành hoặc không phân cành. Tuy nhiên phân cành nhiều hay ít, sớm hay muộn trên cành đó cho quả hay không cho quả và cho quả sớm hay muộn, nhiều hay ít phụ thuộc vào từng giống và biện pháp kỹ thuật tác động.
Cành cùng với thân làm nên bộ khung của cây, cành mang lá, hoa và là bộ phận gián tiếp góp phần tăng năng suất của cây. Ở dưa chuột có 2 loại cành đó là cành chính và cành phụ. Cành phụ là loại cành cũng mọc ra từ nách lá nhưng có chiều dài rất ngắn và không có ý nghĩa trong việc tăng năng suất cho cây. Trong quá trình theo dõi thí nghiệm chúng tôi chỉ quan tâm đến chỉ tiêu cành chính, tức là loại cành có ý nghĩa nông học trong quá trình sinh trưởng của các giống.
Nghiên cứu chỉ tiêu này giúp chúng ta có kế hoạch thâm canh hợp lý, là cơ sở cho việc bố trí thời vụ, mật độ cũng như các biện pháp kỹ thuật chăm sóc như bấm ngọn nhằm tăng sự phát triển của cành.
Cùng với sự theo dõi các chỉ tiêu như chiều cao cây, số lá chúng tôi thu được kết quả về khả năng phân cành của các giống thí nghiệm như sau:
Bảng 4.4 Khả năng phân cành của các giống dưa chuột
Đơn vị tính: cành/ cây
Chỉ tiêu
Giống
Số cành cấp 1
Số cành cấp 2
Tổng số
cành / cây
Tổng số
cấp cành
Chaiyo578 (Đ/c)
2,13b
0
2,13
1
Amata765
2,48ab
0
2,48
1
TN404
3a
0
3
1
Champ937
2,5ab
0
2,5
1
L-04
3,03a
0
3,03
1
LSD0,05
0.6799
Chú thích: Các giá trị trung bình theo sau bởi những chữ cái giống nhau thì không có sự sai khác về mặt thống kê.
Kết quả từ bảng 4.4 cho chúng tôi nhận xét: tất cả các giống đều phân cành cấp 1, không có cành cấp 2. Do vậy tổng số cấp cành trên cây là 1 ở tất cả các giống. Giống có khả năng phân cành cao nhất là L - 04 đạt 3,03 cành cao hơn so với đối chứng 0,9 cành, tiếp đến là giống TN 404 đạt 3 cành, cao hơn so với đối chứng là 0,87 cành, thấp nhất là giống Chaiyo 578 Đ/c đạt 2,13 cành. Giữa các giống Chaiyo 578 và TN 404, L - 04 có sự sai khác có ý nghĩa về mặt thống kê. Nghĩa là sự sai khác đó là do đặc tính của giống quy định chứ không phải do điều kiện ngoại cảnh tác động. Các giống còn lại có số cành là: giống Amata 765 đạt 2,48 cành, cao hơn so với đối chứng là 0,35 cành, giống Champ 937 đạt 2,5 cành trên cây. Nhìn chung các giống tham gia thí nghiệm có số cành giao động từ 2,13 cành đến 3,03 cành trên cây và đều cao hơn so với đối chứng.
4.5 Đặc điểm giới tính của các giống dưa chuột thí nghiệm
Để hoàn thành chu kỳ sống của cây trồng nói chung và cây dưa chuột nói riêng đều phải trải qua hai quá trình sinh tưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực. Ra hoa là quá trình sinh lý sinh hóa, đánh dấu bước chuyển biến từ thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng sang sinh trưởng sinh thực. Đối với các loại rau ăn lá thì chỉ cần trải qua giai đoạn sinh trưởng dinh dưỡng là có thể thu hoạch, dưa chuột là rau ăn quả nên bắt buộc phải trải qua giai đoạn sinh trưởng sinh thực. Do vậy khả năng ra hoa đậu quả là một trong những chỉ tiêu quan trọng liên quan chặt chẽ đến năng suất sau này. Số lượng hoa nhiều, tỷ lệ hoa đực hoa cái hợp lý là yếu tố góp phần nâng cao tỷ lệ đậu quả, số quả hữu hiệu lớn đó là các yếu tố quyết định năng suất dưa chuột. Các chỉ tiêu này liên quan chặt chẽ vào nhiều yếu tố như giống, thời vụ, điều kiện ngoại cảnh và các biện pháp kỹ thuật tác động.
Dưa chuột thuộc nhóm cây trung tính, là loại cây vừa sinh trưởng vừa phát triển. Thông thường những giống có khả năng sinh trưởng tốt, số lá nhiều sẽ cho tổng số hoa và tỷ lệ hoa hữu hiệu cao. Chỉ tiêu này cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều của điều kiện ngoại cảnh, sự chăm sóc cũng như các biện pháp kỹ thuật tác động trong quá trinh sản xuất.
Sự biến dị về tính trạng giới tính ở dưa chuột rất rộng, đó là đặc tính thích nghi mạnh của cây trong điều kiện môi trường. Nói chung, điều kiện ngày dài, nhiệt độ cao và các điều kiện bất lợi khác làm cho cây cho nhiều hoa đực. Ngoài ra, tỉa nhánh, sử dụng kích thích sinh trưởng và chế độ phân bón có thể ảnh hưởng đến sự biến đổi giới tính của cây. Các dạng cây có giới tính khác nhau ở dưa chuột được nghiên cứu và tạo lập để sử dụng trong chọn tạo giống lai.
Hoa của dưa chuột là hoa đơn tính đồng chu chiếm đa số. Ngoài ra vẫn có thể gặp cây hoa cái (trên cây toàn hoa cái), cây hoa đực (trên cây toàn hoa đực) và cây lưỡng tính (cả hoa đực và hoa cái trên cùng một hoa). Trong đó cây hoàn toàn hoa cái và hoa lưỡng tính có ý nghĩa quan trọng trong công tác chọn tạo và sản xuất giống lai F1. Hoa đực mọc thành chùm ở nách lá, có cuống dài, ra sớm và ở vị trí thấp hơn so với hoa cái. Hoa cái mọc đơn, bầu hoa phát triển ngay từ trước khi hoa nở [Tạ Thị Thu Cúc, Giáo tình trồng rau, NXB Nông nghiệp, 1979, tr 168]. Trên cây tỷ lệ giữa hoa đực và hoa cái không cân đối, sự không cân đối này phụ thuộc vào giống và chịu sự chi phối của điều kiện ngoại cảnh, đặc biệt là độ dài ngày. Sự chênh lệch này phản ánh tỷ lệ thụ phấn của hoa trên cây từ đó ảnh hưởng đến tỷ lệ đậu quả của cây.
Qua quá trình theo dõi sự ra hoa của cây chúng tôi có kết quả ở bảng sau:
Bảng 4.5 Biểu hiện giới tính và khả năng ra hoa đậu quả của các giống
Chỉ tiêu
Giống
Số hoa cái
/cây (hoa)
Số hoa đực
/cây (hoa)
Tổng số hoa
/cây (hoa)
Tỷ lệ hoa cái /cây (%)
Tổng
số quả
/cây (quả)
Tỷ lệ quả đậu (%)
Tổng số quả thương phẩm/ cây
(quả)
Tỷ lệ quả thương phẩm (%)
Chaiyo578 (Đ/c)
9,75a
20,13
29,88bc
32,63
3,68
37,74
2,53
68,75
Amata765
5,38b
30,18
35,56ab
15,13
3,35
62,27
2,5
74,63
TN404
7,18b
31,85
39,03a
18,4
4,03
56,13
2,88
71,46
Champ937
11,4a
17,35
28,75bc
39,65
3,78
33,16
2,4
63,49
L-04
10,85a
16,18
27,03c
40,14
3,6
33,18
2,35
65,28
LSD0,05
2,4498
7,9700
* Tổng số hoa trên cây
Kết quả thu được từ bảng 4.5 cho thấy rằng tổng số hoa trên cây giữa các giống chia thành 3 nhóm sai khác có ý nghĩa. Trong đó giống có số hoa trên cây cao nhất là TN 404 đạt 39,03 hoa (sai khác và cao hơn so với giống đối chứng là 9,15 hoa), giống có số hoa thấp nhất là L - 04 đạt 27,03 hoa (sai khác và thấp hơn giống đối chứng là 2,85 hoa). Các giống còn lại có số hoa lần lượt là: Amata 765 đạt 35,56 hoa, Chaiyo 578 đạt 29,88 hoa,Champ 937 đạt 28,75 hoa.
* Số hoa cái và tỷ lệ hoa cái trên cây
Hoa cái sau khi được thụ phấn, thụ tinh thì bắt đầu phát triển thành quả. Do vậy tổng số hoa cái trên cây có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc quyết định năng suất của cây. Những giống có số hoa cái trên cây cao là những giống có tiềm năng cho số quả nhiều. Chỉ tiêu này do đặc tính di truyền của từng giống quy định song bên cạnh đó điều kiện thời tiết và chăm sóc cũng góp phần không kém.
Đặc biệt chú ý đến 2 giống đó là giống L - 04 và giống Champ 937 có số hoa cái và tỷ lệ hoa cái trên cây cao, cao hơn so với đối chứng. Cụ thể giống L-04 10,85 hoa, chiếm tỷ lệ 40,14% trên tổng số hoa (cao hơn đối chứng 7,51%), giống Champ 937 đạt 11,4 hoa/cây, chiếm tỷ lệ 39,65% trên tổng số hoa (cao hơn so với đối chứng 7,02%). Thấp nhất là giống Amata 765 có số hoa cái là 5,38 hoa chiếm tỷ lệ 15,13% (thấp hơn so với đối chứng 17,5%), giống TN 404 đạt 7,18 hoa chiếm tỷ lệ 18,4% trên tổng số hoa cũng thấp hơn so với đối chứng.
* Tỷ lệ đậu quả
Tỷ lệ đậu quả là một chỉ tiêu quan trọng trong việc tạo nên số quả trên cây góp phần quyết định năng suất của dưa chuột. Ảnh hưởng đến chỉ tiêu này là hàng loạt các yếu tố nhưng ảnh hưởng lớn nhất có lẽ là yếu tố thời tiết khí hậu mà điển hình là nhiệt độ và ẩm độ không khí. Ngoài ra yếu tố di truyền cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến tỷ lệ đậu quả của các giống. Qua theo dõi và thu kết quả chúng tôi nhận thấy rằng: có những giống có tỷ lệ hoa cái thấp thì tỷ lệ đậu quả lại cao hơn so với những giống có tỷ lệ hoa cái cao. Đặc trưng nhất là giống Amata 765, tỷ lệ hoa cái chỉ đạt 15,13% nhưng tỷ lệ đậu quả lại lên đến 62,27%. Còn như giống L - 04 có tỷ lệ hoa cái là 40,14 nhưng tỷ lệ đậu quả chỉ đạt 33,18%. Điều này có thể được giải thích như sau: những giống có tỷ lệ hoa đực/ hoa cái cao thì quá trình thụ phấn thụ tinh luôn được đảm bảo (như giống Amata 765, cứ trung bình 5,6 hoa đực thụ phấn cho 1 hoa cái). Ngược lại những giống có tỷ lệ hoa đực/hoa cái thấp thì tỷ lệ đậu quả thấp. Ngoài ra một nguyên nhân ảnh hưởng đến tỷ lệ đậu quả đó là thời gian ra hoa của các giống. Qua thí nghiệm chúng tôi có nhận xét rằng những hoa được hình thành vào những tuần đầu của thời gian ra hoa thì có khả năng đậu quả cao nhất do lúc đó dinh dưỡng trong cây vẫn còn đảm bảo tốt cho quá trình ra hoa, nuôi quả còn những hoa được hình thành vào cuối thời gian sinh trưởng có khả năng đậu quả thấp hơn do dinh dưỡng thiếu hụt.
Ở dưa chuột hoa cái thường ra sau hoa đực do đó để có tỷ lệ đậu quả cao thì khoảng cách giữa thời gian ra hoa đực và hoa cái cũng là một điều kiện quan trọng, góp phần tăng tỷ lệ thụ phấn. Trong quá trình theo dõi sự ra hoa của cây chúng tôi thấy giống Amata 765 và giống TN 404 có khoảng thời gian này là 1- 2 ngày, do vậy khi hoa cái nở đảm bảo được thụ phấn. Còn giống Champ 937, L - 04 là 3- 4 ngày nên tỷ lệ đậu quả thấp hơn.
* Số quả thương phẩm và tỷ lệ quả thương phẩm
Đây là một trong những nhân tố tạo nên năng suất lý thuyết và năng suất thực thu thương phẩm của dưa chuột. Chỉ tiêu này chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện dinh dưỡng trong suốt thời gian nuôi quả của cây, điều kiện chăm sóc và cả tỷ lệ sâu bệnh phát sinh trong thời gian này.
Tỷ lệ quả thương phẩm phụ thuộc vào tổng số quả và số quả thương phẩm. Với cùng tổng số quả đậu thì tỷ lệ này tỷ lệ thuận với số quả thương phẩm thu được trên cây. Từ bảng 4.5 cho thấy tỷ lệ quả thương phẩm giao động từ 63,49%, thấp hơn so với đối chứng là 5,26% (giống Champ 937) đến 74,63%, cao hơn so với đối chứng là 5,88% (giống Amata 765). Cũng qua đây ta thấy rằng những giống có tổng số quả trên cây cao chưa hẳn là những giống có tỷ lệ quả thương phẩm cao.Giải thích điều này chúng tôi cho rằng những quả được hình thành từ hoa nở vào cuối của giai đoạn sinh trưởng thường cho tỷ lệ quả thương phẩm thấp vì khi đó dinh dưỡng mà cây cung cấp cho quả không đủ. Bên cạnh đó, những giống mà sự phát triển của quả diễn ra trong thời kỳ mẫn cảm với sâu bệnh cũng như thời tiết thì tỷ lệ quả thương phẩm vẫn thấp. Qua điều tra chúng tôi thu được kết quả là giống Champ 937 có tỷ lệ sâu đục quả cao hơn so với những giống khác. Ngoài ra trong quá trình ra hoa tạo quả mà thiếu nước sẽ làm cho quả bị eo nhỏ, đây cũng là một nguyên nhân làm giảm tỷ lệ quả thương phẩm trên cây. Các giống còn lại có tỷ lệ quả thương phẩm lần lượt là TN 404 71,46%, Chaiyo 578 68,75%, và L - 04 65,28%.
Nhìn chung diễn biến của các chỉ tiêu về giới tính và khả năng cho quả của các giống tham gia thí nghiệm không đồng nhất. Điều này chứng tỏ rằng yếu tố di truyền tác động rất lớn đến các chỉ tiêu này. Các giống khác nhau thì có bản chất di truyền không giống nhau do vậy biểu hiện trong cùng một môi trường sẽ khác nhau.
4.6 Các chỉ tiêu về hình thái của các giống
Trong cùng một loại cây trồng, các giống khác nhau thì có đặc điểm về hình thái không giống nhau. Cả về chiều cao, số lá, số cành trên thân chính và cả màu sắc các bộ phận trên cây. Nghiên cứu chỉ tiêu này giúp chúng ta có nhận định bước đầu để nhận biết từng giống, đồng thời cũng qua chỉ tiêu này giúp chúng ta có cơ sở chọn ra những giống có đặc tính phù hợp với điều kiện sản xuất của từng vùng. Chỉ tiêu về hình thái của các giống cũng là một chỉ tiêu đáng quan tâm trong công tác chọn giống cây trồng.
Bảng 4.8 Đặc điểm hình thái của các giống
Chỉ tiêu
Giống
Chiều cao thân chính
(cm)
Số lá/ thân chính
(lá)
Số cành /cây
(cành)
Màu sắc các bộ phận
Thân
Lá
Hoa
Võ quả
Chaiyo 578(Đ/c)
127,26
19,4
2,13
Xanh lục
Xanh lục
Vàng
Xanh vàng
Amata 765
136,50
19,35
2,48
Xanh lục
Xanh lục
Vàng
Vàng xanh
TN 404
160,9
23,05
3
Xanh đậm
Xanh đậm
Vàng
Xanh
Champ 937
123,36
18,7
2,5
Xanh đậm
Xanh đậm
Vàng
Xanh vàng
L - 04
130,99
19,05
3,03
Xanh lục
Xanh lục
Vàng
Xanh
* Đặc điểm hình thái thân và lá
Ở dưa chuột độ dài thân chính phụ thuộc vào giống và các yếu tố khác như điều kiện chăm sóc, mật độ...Trong 5 giống tham gia thí nghiệm thì giống TN 404 có chiều cao thân chính cao hơn cả. Điều này được giải thích là do đốt thân của giống này thưa, lóng dài nên có chiều cao thân cao. Đối với những giống còn lại có đốt thân ngắn hơn nên chiều cao có phần thấp hơn. Về màu sắc thân thì 2 giống TN 404, và Champ 937 có màu xanh thẫm, những giống còn lại có thân màu xanh lục.
Ngoài đặc điểm về thân thì đặc điểm về lá cũng là chỉ tiêu quan trọng giúp chúng ta nhận dạng các giống dưa chuột khác nhau. Các giống khác nhau thì có màu sắc lá cũng khác nhau. Bằng quan sát trực tiếp cùng với kết quả đo đếm chúng tôi nhận thấy giống có số lá trên thân chính cao nhất là giống TN 404 với 23,05 lá, lá dày và có màu xanh đậm. Giống Champ 937 cũng có màu sắc lá là xanh đậm nhưng giống này có số lá trên thân chính thấp nhất là 18,7 lá.
* Đặc điểm màu sắc hoa và quả
Màu sắc vỏ quả phản ánh thị hiếu người tiêu dùng và khả năng tiêu thụ của quả. Những giống có màu sắc vỏ quả thiên về màu vàng thường ít chiếm được vị trí cao trên thị trường và khả năng dự trữ thấp hơn so với những giống có màu thiên về màu xanh. Các giống Chaiyo 578 và giống Champ 937 có màu sắc vỏ quả là xanh vàng, giống L - 04 và TN 404 có màu quả xanh, giống còn lại có màu quả là vàng xanh.
Về màu sắc hoa thì nhìn chung các giống tham gia thí nghiệm đều có hoa màu vàng. Giữa các giống không có sự khác biệt về màu hoa.
4.7 Tình hình sâu bệnh hại
Cây thực phẩm là loại cây trồng đòi hỏi kỹ thuật thâm canh cao, có nhiều đặc điểm riêng về hình thái, cấu tạo và sinh trưởng nên rất thích hợp cho nhiều loại sâu bệnh phát sinh gây hại mạnh [Chu Thị Thơm, Phan Thị Lài, Nguyễn Văn Tó, Hướng dẫn phòng chống sâu bệnh hại 1 số cây thực phẩm, NXB lao động 2006, tr 7]. Cũng như các loại cây thực phẩm khác, dưa chuột là loại rau ăn quả, trong suốt quá trình sinh trưởng, phát triển thường bị các loại sâu bệnh gây hại.
Thừa Thiên Huế là một vùng có khí hậu nóng ẩm mưa nhiều, là điều kiện thuận lợi cho sâu bệnh phát triển. Tỷ lệ và mật độ sâu bệnh hại có ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất của sản phẩm sau này. Chỉ tiêu này chịu ảng hưởng rất lớn bởi điều kiện thời tiết, điều kiện chăm sóc, mật độ, phân bón...và tính chống chịu của từng giống.
Trong công tác chọn giống cây trồng, xác định sự khác nhau giữa các giống về phản ứng với sâu bệnh là rất cần thiết và rất quan trọng. Đó là cơ sở cho việc bố trí thời vụ hợp lý, xác định mật độ, phân bón, chế độ nước và các biện pháp sinh học cũng như biện pháp bảo vệ, phòng trừ thích hợp giúp cây phát triển tốt. Đồng thời cũng là cơ sở cho công tác chọn giống nhằm tuyển chọn được những giống có khả năng chịu sâu bệnh mà vẫn cho năng suất cao.
* Tình hình sâu hại
Trên cây dưa chuột có thể có nhiều bộ phận bị sâu phá hoại, tùy vào loại sâu và đặc điểm của từng bộ phận mà mức độ cũng như tỷ lệ gây hại là khác nhau. Sâu có thể phá hại một phần (quả, lá, thân...) hoặc toàn bộ cơ thể của cây [Nguyễn Thị Hoa, Nguyễn Đình Thi, Bài giảng sinh lý thực vật, Trường ĐHNL Huế, 2008, tr170]. Theo dõi trong suốt quá trình làm thí nghiệm chúng tôi thu được kết quả về tình hình gây hại của một số loại sâu chính như sau:
Bảng 4.7.1 Tình hình sâu hại trên các giống thí nghiệm
Chỉ tiêu
Giống
Sâu xanh
Sâu xám
Bọ rùa
Tỷ lệ sâu đục quả (%)
Tỷ lệ cây cho thu hoạch (%)
Mật độ (con/m2)
Tỷ lệ cây bị hại (%)
Mật độ (con/m2)
Tỷ lệ cây bị hại (%)
Mật độ (con/m2)
Tỷ lệ cây bị hại (%)
Chaiyo 578 (Đ/c)
1,53
28,57
0,63
10,71
0,49
5,95
8,8
100
Amata 765
2,22
35,71
1,04
11,9
0,63
9,52
5
100
TN 404
1,46
23,81
0,97
13,1
0,56
4,76
2,5
100
Champ 937
2,08
30,95
1,25
14,29
0,69
8,33
11,3
100
L-04
2,36
33,33
2,01
16,67
0,42
15,48
13,8
100
- Sâu xanh
Là đối tượng gây hại chủ yếu trên lá và đỉnh sinh trưởng của cây vào thời kỳ cây con đến 5,6 lá. Sâu non gặm chất xanh lá và chừa lại phần màng lá, sâu non thường tập trung thành từng cụm, sâu trưởng thành cắn thủng lá làm lá bị khuyết chừa lại phần gân lá. Qua theo dõi chúng tôi thấy mật độ sâu xanh gây hại cao nhất ở giống L - 04 với 2,36 con/m2, tiếp đến là giống Amata 765 với 2,22 con/m2, mật độ sâu xanh thấp nhất ở giống TN 404 với 1,46 con/m2. Về tỷ lệ gây hại thì giống Amata 765 có tỷ lệ cây bị hại cao nhất (gây gại 35,71% số cây trên ô, cao hơn đối chứng là 7,14%), thấp nhất là giống TN 404 với tỷ lệ gây hại là 23,81% (thấp hơn so với đối chứng là 4,76%).
- Sâu xám
Sâu có màu xám nâu hoặc đen bóng phá hoại trên lá làm khuyết lá hoặc gặm mép lá. Ở giai đoạn cây con sâu có thể cắm ngang thân cây làm giảm mật độ của cây. Nhìn chung các giống tham gia thí nghiệm có mật độ và tỷ lệ sâu xám gây hại thấp hơn so với sâu xanh. Cụ thể mật độ sâu xám ở các giống chỉ dao động từ 0,63 con/m2 ở giống đối chứng Chaiyo 578 đến 2,01 con/m2 ở giống L - 04. Tỷ lệ gây hại cũng chỉ dao động từ 10,71% (giống đối chứng) đến 16,67% (giống L - 04).
- Bọ rùa
Gây hại chủ yếu vào thời kỳ cây bắt đầu có 3 -4 lá thật cho đến thời kỳ trước ra hoa, chủ yếu phá hoại trên lá. Bọ rùa có màu cam, có hiện tượng giả chết khi bị phát hiện. Mật độ và tỷ lệ bọ rùa gây hại trên các giống đều ở mức độ thấp. Cao nhất là giống Champ 937 với 0,69 con/m2, tiếp đến là giống Amata 765 với mật độ 0,63 con/m2, giống TN 404 0,56 con/m2, giống Chaiyo 578 0,49 con/m2, và cuối cùng là giống L - 04 với 0,42 con/m2. Tỷ lệ gây hại giao động từ 5,95% đến 15,48% số cây trên ô.
- Sâu đục quả
Gây hại trong giai đoạn phát triển của quả đến thu hoạch. Sâu đục quả là một trong những nguyên nhân làm giảm tỷ lệ quả thương phẩm trên cây. Đồng thời nó cũng làm giảm chất lượng, mẫu mã của quả khi thu hoạch. Chúng tôi tiến hành theo dõi 20 quả ngẫu nhiên trên ô và thu được kết quả như ở bảng trên. Tỷ lệ sâu đục quả phá hại trên quả của các giống tương đối thấp giao động từ 2,5% (giống TN 404) đến 13,8% (ở giống (L - 04). Tuy ở hầu hết các giống đều bị sâu gây hại nhưng tất cả các cây trên ô thí nghiệm đều cho thu hoạch.
* Tình hình bệnh hại trên các giống
Điều kiện thời tiết mà trong đó yếu tố nhiệt độ và ẩm độ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát sinh của bệnh trên dưa chuột. Ngoài ra khả năng chống chịu bệnh cũng là một nhân tố có tác động không nhỏ đến tỷ lệ và mức độ gây hại của bệnh trên cây.
Đối với dưa chuột thường có 2 loại bệnh gây hại chính đó là bệnh sương mai và bệnh phấn trắng. Hai loại bệnh này bắt đầu gây hại chủ yếu vào thời kỳ trước ra hoa. Đối với từng loại giống và từng loại bệnh thì có biểu hiện gây hại không giống nhau. Qua theo dõi chúng tôi thu được kết quả ở bảng sau:
Bảng 4.7.2 Tình hình bệnh hại trên các giống
Chỉ tiêu
Giống
Bệnh sương mai
Tỷ lệ
cây bị
phấn trắng
(%)
Tỷ lệ
cây cho thu hoạch
(%)
Tỷ lệ cây bị hại
(%)
Tỷ lệ
lá bị
hại/cây
(%)
Chỉ số
bệnh
(%)
Chaiyo 578 (Đ/c)
100
14,39
22,78
9,52
100
Amata 765
100
12,66
18,33
7,14
100
TN 404
100
12,39
17,02
13,1
100
Champ 937
100
19,23
23,54
14,29
100
L-04
100
14,54
21,25
19,05
100
LSD0,05
- Bệnh sương mai
Do điều kiện thời tiết trong giai đoạn này thuận lợi cho sự phát triển của bệnh như: thời tiết âm u, mưa, ẩm độ không khí cao...Qua theo dõi chúng tôi thấy tất cả các giống đều bị bệnh sương mai gây hại, tuy nhiên mức độ và tỷ lệ gây hại là không giống nhau. Trong khi giống Champ 937 có 19,23% lá trên cây bị hại thì giống TN 404 chỉ bị hại ở mức 12,39%, giống Amata 765 bị hại ở mức 12,66%. Giống Chaiyo 765 và giống L - 04 có sự khác biệt không đáng kể về mức độ gây hại. Cụ thể giống đối chứng Chaiyo 765 có 14,39% số lá bị hại trên cây, giống L - 04 có 14,54% số lá trên cây bị hại.
- Bệnh phấn trắng
Bệnh hại chủ yếu ở phiến lá. Lúc mới xuất hiện, trên lá có từng vết lá màu xanh bình thường, dần dần chuyển sang màu vàng, vết bệnh rộng dần và phủ một lớp nấm dầy như bột mịn màu trắng. Lớp nấm có màu xám tro phủ lên lá khiến lá mất khả năng quang hợp, chuyển sang vàng tía, khô dần và lụi đi. Bệnh làm cho cây phát triển kém. Nhìn chung ở các giống tham gia thí nghiệm có tỷ lệ cây bị bệnh phấn trắng thấp hơn so với sương mai. Ở những cây bị bệnh thì bệnh gây hại ở một vài lá sát gốc nên ảnh hưởng ít đến quá trình sinh trưởng và phát triển của cây. Tỷ lệ bệnh gây hại lớn nhất ở giống L - 04 (19,05% số cây), thấp nhất là giống Amata 765 (7,14% số cây).
4.8 Các yếu tố cấu thành năng suất và năng suất các giống
Tính ổn định về năng suất hay các đặc điểm về nông học khác của giống trong điều kiện khác nhau là một chỉ số quan trọng trong chương trình chọn giống [Lê Tiến Dũng, Bài giảng chọn giống cây trồng, trường ĐHNL Huế, 2008, tr19]. Mục tiêu cuối cùng của người sản xuất và người làm công tác khoa học là nâng cao năng suất và phẩm chất. Năng suất là kết quả cuối cùng của quá trình sinh trưởng và phát triển của cây trồng, sản phẩm thu được trên một đơn vị diện tích gieo trồng trong một vụ và là chỉ tiêu để đánh giá việc trồng trọt hợp lý hay không, quá trình sinh trưởng tốt hay kém, khả năng thích ứng với điền kiện ngoại cảnh, khả năng chống chịu. Vì vậy năng suất không chỉ phán ánh riêng một khía cạnh nào của giống mà là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh một cách sâu sắc nhất, đầy đủ nhất quá trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng. Năng suất của bất kì một loại cây trồng nào cũng đều có sự chi phối của nhiều yếu tố như: đặc điểm di truyền, điều kiện ngoại cảnh và các biện pháp kỹ thuật. Nói cách khác, một giống có thể có năng suất cao trong môi trường này so với giống kia nhưng lại thấp hơn trong môi trường khác [Lê Tiến Dũng, Bài giảng chọn giống cây trồng, Trường ĐHNL Huế, 2008, tr19]. Muốn đạt được năng suất cao và phẩm chất tốt cần tác động các biện pháp kỹ thuật sao cho hợp lý đối với từng loại giống cây trồng trong từng điều kiện cụ thể. Dưa chuột là loại rau ăn quả, tiềm năng cho năng suất được cấu thành bởi các yếu tố sau: số cây/m2, số quả thương phẩm trên cây, và khối lượng trung bình 1 quả.
* Mật độ cây/m2
Mật độ là khoảng cách giữa cây và cây trên một đơn vị diện tích nó có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng sinh trưởng và phát triển của cây trong suốt chu kỳ sống. Mật độ quá dày sẽ dẫn đến hiện tượng cạnh tranh dinh dưỡng, khó khăn trong việc chăm sóc đồng thời dễ bị các loại sâu bệnh gây hại sẽ ảnh hưởng đến năng suất sau này. Nhưng mật độ giảm quá ngưỡng thích hợp sẽ không tận dụng được diện tích canh tác, cỏ dại dễ phát triển và năng suất trên đơn vị diện tích giảm. Do vậy việc bố trí mật độ phải được dựa trên cơ sở đặc tính nông học của từng giống, điều kiện dinh dưỡng trong đất và điều kiện thời tiết khí hậu của từng vùng cụ thể. Trong thí nghiệm chúng tôi bố trí tất cả các giống với khoảng cách cây cách cây 30 -40 cm, hàng cách hàng 60 cm, mật độ 6 cây/m2 (60000 cây/ha).
Bảng 4.8 Năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của các giống
Chỉ tiêu
Giống
Mật
độ (cây/ m2)
Số quả hữu
hiệu /cây
Khối lượng TB quả (g)
NSLT
tấn/ha
NSTT
tấn/ha
Tăng giảm so với đối chứng
±
%
Chaiyo578 (Đ/c)
6
2,53
349,85a
46,18
19,82ab
0
0
Amata765
6
2,5
321,30ab
44,34
20,56ab
+0,74
+3,73
TN404
6
2,88
296,45 bc
43,58
24,95a
+5,13
+25,88
Champ937
6
2,4
268,45c
39,14
22,21ab
+2,39
+12,06
L-04
6
2,35
302,38abc
45,36
18,65b
-1,17
-5,9
LSD0,05
52,316
4.3873
* Số quả hữu hiệu/cây (quả)
Đối với dưa chuột, quả hữu hiệu là những quả có giá trị thương phẩm khi đưa ra thị trường tiêu thụ, có hình dạng cân đối và không bị sâu bệnh. Cùng với mật độ và chỉ tiêu khối lượng trung bình quả, khối lượng trung bình quả có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất của các giống dưa chuột. Chỉ tiêu này được đánh giá qua các lần thu năng suất, kết quả chúng tôi thu được thể hiện ở bảng 4.7. Trong 5 giống tham gia thí nghiệm thì đáng chú ý nhất là giống TN 404 với số quả hữu hiệu trên cây đạt 2,88 quả cao nhất trong tất cả các giống. Tiếp đến là giống đối chứng Chaiyo 578 đạt 2,53 quả, giống Amata 765 đạt 2,5 quả, giống Champ 937 đạt 2,4 quả và cuối cùng là giống L - 04 chỉ đạt 2,35 quả hữu hiệu/cây.
* Khối lượng trung bình quả hữu hiệu (g)
Khối lượng trung bình quả giữa các giống có sự sai khác đáng kể, và được chia thành 3 nhóm, giao động từ 268,45 g/quả đến 349,85g/quả. Trong đó giống có khối lượng trung bình quả lớn nhất là giống Chaiyo 578 Đ/c 349,85g/quả, kế đến là Amata 765 321,3 g/quả, L - 04: 302,38g/quả, TN 404: 296,45g/quả và cuối cùng là Champ 937 đạt 268,45g/quả. Thông qua kết quả từ bảng trên chúng tôi thấy ở một số giống có số quả hữu hiệu/ cây cao như giống TN 404 nhưng khối lượng trung bình quả lại thấp. Điều này được lý giải là khi số quả/cây nhiều thì lượng dinh dưỡng mà cây hấp thu được không đủ để nuôi quả nên dẫn đến khối lượng giảm. Tuy nhiên điều này cũng chỉ mang tính tương đối vì khối lượng trung bình quả còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác như đặc tính của giống, điều kiện chăm sóc và điều kiện thời tiết..
Biểu đồ 3: Năng suất của các giống dưa chuột
* Năng suất lý thuyết
Năng suất lý thuyết là cơ sở để đánh giá tiềm năng cho năng suất của giống. Ở dưa chuột năng suất lý thuyết được quy định bởi số cây/m2, số quả hữu hiệu/cây và khối lượng trung bình 1 quả. Giống có năng suất lý thuyết cao nhất là giống Chaiyo 578 đ/c đạt 46,18 tấn/ha, trong khi đó giống Champ 937 chỉ cho 39,14 tấn/ha. Các giống Amata 765 đạt 44,34 tấn/ha,TN 404 đạt 43,58 tấn/ha và giống L - 04 đạt 45,36 tấn/ha. Nhìn chung năng suất lý thuyết của các giống dao động trong khoảng từ 39,14 - 46,18 tấn/ha.
* Năng suất thực thu
Xét về cơ sở lý luận thì năng suất thực thu là biểu hiện của giá trị kiểu hình trong một điều kiện môi trường cụ thể của từng loại cây trồng và của từng giống. Đây là chỉ tiêu để cuối cùng đánh giá khả năng thích ứng của giống trong điều kiện sản xuất và có ý nghĩa nhất trong công tác chọn giống. Kết thúc quá trình thu năng suất chúng tôi tổng hợp được kết quả ở bảng trên. Cũng qua đó cho chúng ta thấy năng suất giữa các giống có sự sai khác đáng kể về mặt thống kê. Điển hình là giống TN 404 với năng suất đạt 24,95 tấn/ha cao nhất trong tất cả các giống và cao hơn so với đối chứng là 5,13 tấn/ha (tăng 25,88% so với đối chứng). Tiếp đến là giống Champ 937 với năng suất đạt 22,21 tấn/ha, cao hơn so với đối chứng là 2,39 tấn/ha (tăng 12,06%), giống Amata 765 có năng suất thực thu bằng 20,56 tấn/ha và cũng cao hơn so với đối chứng 0,74 tấn/ha (tăng 3,73%). Cuối cùng là giống L - 04 có năng suất thấp nhất bằng 18,65 tấn/ha, thấp hơn so với đối chứng 1,17 tấn/ha (giảm 5,9% so với đối chứng).
Như vậy trong tất cả các giống tham gia thí nghiệm thì có 3 giống cho năng suất cao hơn so với đối chứng đó là giống TN 404, Amata 765 và giống Champ 937. Mặc dù năng suất lý thuyết của các giống này đều thấp hơn so với đối chứng nhưng lại có năng suất thực thu cao hơn. Điều này có thể giải thích rằng các giống trên có khả năng thích nghi cao hơn so với giống đối chứng trong điều kiện thí nghiệm nên cho năng suất cao hơn.
4.9 Các chỉ tiêu về hình thái, chất lượng quả
Một trong những yếu tố làm nên giá trị kinh tế của dưa chuột đó là hình thái và chất lượng quả. Sản phẩm của dưa chuột không chỉ dùng để ăn tươi và tiêu thụ nội địa mà nó còn có vị trí không nhỏ trên thị trường xuất khẩu. Do vậy chất lượng và mẫu mã luôn giữ một vai trò quan trọng. Đối với dưa chuột bao tử dùng để chế biến đóng lọ (ngâm dấm), sau khi hoa thụ phấn, thụ tinh, cánh hoa héo (khoảng 72 giờ sau khi hoa thụ tinh), đường kính quả từ 1 - 1,5 cm thì thu quả lúc này là phù hợp với kỹ thuật chế biến. Riêng đối với dưa chuột quả lớn thì tùy thuộc vào mục đích sử dụng mà chọn những loại quả cho phù hợp. Hình thái, chất lượng quả có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng vận chuyển cũng như tiêu thụ của dưa chuột. Ngoài đặc tính di truyền thì chỉ tiêu này còn chịu ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, phân bón và chế độ dinh dưỡng cũng như chế độ chăm sóc. Để đánh giá chất lượng quả chúng tôi dựa trên một số chỉ tiêu sau:
Bảng 4.9 Một số đặc điểm hình thái quả
Chỉ tiêu
Giống
Chiều dài
quả
( cm)
Đường kính quả
( cm)
Độ dày thịt
quả
( cm)
Ruột quả
Độ giòn
Thị hiếu người tiêu dùng
Chaiyo578 (Đ/c)
19,87
5,22
1,37
Rỗng
Rất giòn
Rất thích
Amata765
19,4
4,99
1,33
Ít đặc
Giòn
Thích
TN404
18,74
4,96
1,44
Đặc
Ít giòn
Thích
Champ 937
16,61
4,85
1,48
Đặc
Ít giòn
Thích
L-04
17,61
5,15
1,43
Rất đặc
Ít giòn
Không thích
* Chiều dài quả
Giống có chiều dài quả lớn nhất là giống đối chứng Chaiyo 578 với 19,87 cm, tiếp đến là giống Amata 765 với 19,4 cm, giống TN 404 với chiều dài quả là 18,74 cm, giống L - 04 đạt 17,61 cm và cuối cùng là giống Champ 937 với 16,61 cm.
* Đường kính quả
Giữa các giống có sự chênh lệch không lớn lắm về chỉ tiêu này giao động từ 4,85 cm ở giống Champ 937 đến 5,22 cm ở giống đối chứng Chaiyo 578. Có những giống như L - 04 tuy chiều dài quả chỉ đạt 17,61 cm nhưng có đường kính quả khá cao và bằng 5,15 cm.
* Độ dày thịt quả
Đây là một chỉ tiêu nhằm xác định độ chắc của quả. Chúng tôi tiến hành theo dõi 5 quả ngẫu nhiên trên mỗi ô và sử dụng thước Panmer để đo chỉ tiêu độ dày thịt quả. Kết quả thu được là trung bình của các quả theo dõi. Độ dày thịt quả lớn nhất là quả của giống Champ 939 đạt 1,48 cm, thấp nhất là giống Amata 765 đạt 1,33 cm.
* Đặc điểm về độ đặc ruột, độ giòn và thị hiếu người tiêu dùng
Bằng quan sát trực tiếp và nếm thử độ giòn của quả. Và với tiêu chí là những giống có chiều dài, đường kính, độ dày thịt quả lớn, ruột quả đặc, độ giòn cao, vỏ quả màu xanh kết hợp với tham khảo ý kiến người tiêu dùng thì đó là những giống có khả năng tiêu thụ cao. Như vậy giống sử dụng làm đối chứng trong thí nghiệm là giống có giá trị thương phẩm cao. Giống TN 404 có chiều dài quả tương đối cao và có màu sắc quả là xanh nên khả năng tiêu thụ cũng rất lớn.
Phần 5
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
5.1 Kết luận
Qua quá trình theo dõi và phân tích kết quả chúng tôi đưa ra một số kết luận về khả năng sinh trưởng, phát triển và cho năng suất, chất lượng sản phẩm của các giống dưa chuột tham gia thí nghiệm như sau:
1. Về tổng thời gian sinh trưởng
Tất cả các giống tham gia thí nghiệm đều là những giống ngắn ngày, có thời gian sinh trưởng từ 65 - 67 ngày phù hợp với cơ cấu cây trồng của Thừa Thiên Huế trong vụ Xuân - Hè.
2. Về khả năng sinh trưởng và phát triển
Giống TN 404 có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt trong điều kiện thời tiết của địa phương. Có chiều cao và số lá cao nhất đạt 160,9 cm và 23,05 lá trên thân chính.
Tổng số cành trên cây của giống L - 04 là cao nhất với 3,03 cành/cây
3. Về khả năng ra hoa, đậu quả
Giống Champ 937 có số hoa cái đạt lớn nhất là 11,4 hoa, chiếm tỷ lệ 39,65% trên tổng số hoa. Tỷ lệ hoa cái lớn nhất thuộc về giống L - 04 là 40,14% trên tổng số hoa.
Tỷ lệ quả đậu và tỷ lệ quả thương phẩm cao nhất trong tất cả các giống là Amata 765 với 62,27% và 74,63%.
4. Về tình hình sâu bệnh hại trên các giống thí nghiệm
Về sâu hại thì giống L - 04 bị sâu phá hại với tỷ lệ cao nhất, thấp nhất là giống TN 404.
Về bệnh sương mai thì giống Champ 937 nhiễm nặng nhất, nhẹ nhất là giống TN 404. Bệnh phấn trắng hại trên giống L - 04 là cao hơn so với các giống khác trong thí nghiệm.
5. Về đặc điểm hình thái giống
Có 2 giống có màu sắc thân, lá xanh đậm đó là giống TN 404 và giống Champ 937, các giống còn lại có màu xanh lục.
Giống L - 04 có màu sắc vỏ quả là màu xanh, các giống Chaiyo 937, giống Amata 765, giống Champ 937 có vỏ quả màu xanh vàng và giống TN 404 có màu vàng xanh.
6. Về năng suất
Giống có năng suất lý thuyết cao nhất là giống đối chứng Chaiyo 578, thấp nhất là giống Champ 937
Năng suất thực thu đạt cao nhất ở giống TN 404, thấp nhất ở giống L - 04,
7. Về hình thái, chất lượng quả
Chiều dài và đường kính quả đạt cao nhất ở giống đối chứng, thấp nhất là giống Champ 937.
Giống chiếm được thị hiếu người tiêu dùng cao nhất là giống đối chứng
* Kết luận chung
Giống TN 404 có nhiều ưu điểm hơn so với các giống khác, cả về sinh trưởng, phát triển và cho năng suất. Do đó có thể đưa vào sản xuất tại địa phương cũng như những vùng có điều kiện ngoại cảnh thời tiết khí hậu, đất đai tương tự với điều kiện mà chúng tôi tiến hành thí nghiệm.
5.2 Đề nghị
1. Cần tiến hành thí nghiệm này trong nhiều vụ, nhiều vùng có điều kiện khác nhau để có kết luận chính xác nhất về khả năng sinh trưởng, phát triển của các giống dưa chuột nói trên.
2. Cần tiến hành phân tích một số chỉ tiêu về sinh lý, sinh hóa, phẩm chất quả của các giống nhằm có những đánh giá toàn diện hơn về đặc tính, đặc trưng của các giống.
3. Có thể sử dụng giống TN 404 vào sản xuất trên diện hẹp.
4. Cần tiến hành nghiên cứu các biện pháp nhằm tăng tỷ lệ hoa cái, tỷ lệ thụ phấn, và tỷ lệ quả thương phẩm của một số giống có tiềm năng về các chỉ tiêu này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đánh giá khả năng sinh trưởng, phát triển và cho năng suất của một số giống dưa chuột có triển vọng trong vụ Xuân Hè 2009 tại Trung tâm Giống cây trồng Tứ Hạ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.doc