Tài liệu Đề tài Đánh giá kết quả sử dụng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của huyện Thọ Xuân-Thanh Hoá: Lời nói đầu
Trong nền kinh tế xã hội, bất kỳ một phương thức sản xuất nào cũng vậy, muồn tồn tại phát triển phải dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định rằng: “muốn chuyển một nền kinh tế từ sản xuất nhỏ sang nền kinh tế sản xuất lớn đòi hỏi phải có một cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh”.
Nước ta tiến lên CNXH tại một xuất phát điểm hết sức thấp, đó là nền công nghiệp lạc hậu, năng xuất thấp, kỹ thuật thủ công, vì vậy để xây dựng một nền sản xuất lớn với năng xuất lao động ngày càng cao Đảng ta đã xác định phải xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH ở Việt Nam thông qua con đường CNH – HĐH đất nước. Nhưng Đảng ta cũng nhận thức được rằng thời kỳ quá độ là lâu dài và ứng với mức độ công nghiệp hoá trong mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau.
Trong quá trình phát triển vai trò và tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng ngày càng tăng lên, nó là một yếu tố, một chỉ số của sự phát triển xã hội nói chung và của nông thôn nói riêng.
Nông nghiệp Nôn...
48 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá kết quả sử dụng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của huyện Thọ Xuân-Thanh Hoá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Trong nền kinh tế xã hội, bất kỳ một phương thức sản xuất nào cũng vậy, muồn tồn tại phát triển phải dựa trên cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định. Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định rằng: “muốn chuyển một nền kinh tế từ sản xuất nhỏ sang nền kinh tế sản xuất lớn đòi hỏi phải có một cơ sở vật chất - kỹ thuật đủ mạnh”.
Nước ta tiến lên CNXH tại một xuất phát điểm hết sức thấp, đó là nền công nghiệp lạc hậu, năng xuất thấp, kỹ thuật thủ công, vì vậy để xây dựng một nền sản xuất lớn với năng xuất lao động ngày càng cao Đảng ta đã xác định phải xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH ở Việt Nam thông qua con đường CNH – HĐH đất nước. Nhưng Đảng ta cũng nhận thức được rằng thời kỳ quá độ là lâu dài và ứng với mức độ công nghiệp hoá trong mỗi giai đoạn có một nhiệm vụ và mục tiêu khác nhau.
Trong quá trình phát triển vai trò và tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng ngày càng tăng lên, nó là một yếu tố, một chỉ số của sự phát triển xã hội nói chung và của nông thôn nói riêng.
Nông nghiệp Nông thôn nước ta hiện nay đang trong quá trình chuyển biến lên sản xuất lớn trên cơ sở CNH – HĐH, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, thực trạng kết cấu, cơ sở hạ tầng nông thôn lạc hậu đã cản trở lớn đến quá trình này.
Thọ Xuân là một huyện Nông thôn của tỉnh Thanh Hoá cũng nằm trong tình trạng chung của Nông thôn cả nước, là một huyện chuyển tiếp giữa đồng bằng và trung du Thanh Hoá, nền kinh tế chủ yếu là Nông nghiệp truyền thống, đó là một nền Nông nghiệp chủ yếu là tự cung tự cấp. Để thực hiện đường lối của Đảng, mục tiêu chung CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn. Thọ Xuân rất cần có một cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bước công nghiệp hoá nông nghiệp. Do vậy, vấn đề vốn đầu tư cho phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật là vô cùng cần thiết.
Do thời gian, trình độ chuyên môn có hạn nên đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề về vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng trong lĩnh vực kinh tế phục vụ cho các hoạt động kinh tế bao gồm: Hệ thống giao thông, thuỷ lợi, điện, hệ thống thông tin và bưu chính viễn thông… Đặc biệt là giao thông nông thôn đang đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế, như các chuyên gia ngân hàng thế giới đã cho rằng: “ Những trở ngại trong giao thông vận tải (không chỉ là chi phí vận tải) thường là trở ngại chính đối với sự phát triển khả năng chuyên môn hoá sản xuất tại từng khu vực có tiềm năng, lợi thế phát triển nhưng thị trường bị bó hẹp (không tiêu thụ được sản phẩm, không được cung cấp các dịch vụ một cách ổn định…) do những trở ngại trong giao thông vận tải.
Nhận thức tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng kinh tế trong nông thôn mà nhất là hệ thống giao thông trong nông thôn mà em chọn đề tài:
“Đánh giá kết quả sử dụng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của huyện
Thọ Xuân-Thanh Hoá”
Đề tài gồm 3 phần chính:
Phần I: Lý luận chung.
Phần II: Thực trạng sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng của Huyện từ 2000 – 2003.
Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Huyện.
Em xin chân thành cảm ơn tập thể cán bộ phòng Tài Chính – Kế Hoạch huyện Thọ Xuân, các phòng ban trực thuộc UBND huyện Thọ Xuân và thầy giáo Ts. Đào Duy Cầu đã nhiệt tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.
Phần I
Lý luận chung về vốn đầu tư và đầu tư
xây dựng cơ bản
Lý luận chung.
Khái niệm về đầu tư và vốn đầu tư.
1.1 Khái niệm đầu tư.
Hoạt động kinh tế ứng với việc sử dụng các nguồn lực trong một thời gian tương đối dài nhằm đem lại lợi ích kinh tế xã hội lớn hơn các chi phí về các nguồn lực đã sử dụng được gọi là hoạt động đầu tư.
Đầu tư theo nghĩa thứ nhất là sự bỏ vốn (chi tiêu vốn) cùng với các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó (tạo ra hoặc khai thác sử dụng một tài sản… ) nhằm thu về các kết quả có lợi cho nhà đầu tư trong tương lai.
Nguồn lực dùng để đầu tư bao gồm: Vốn, lao động, đất đai, công nghệ,… Các nguồn lực này được kết hợp với nhau để đưa vào trong quá trình sản xuất, kinh doanh dịch vụ nhằm tạo ra các tài sản phi vật chất. Kết quả của hoạt động đầu tư phải cao hơn chi phí bỏ ra.
Về mặt thời gian: hoạt động đầu tư diễn ra ở hiện tại và kết quả từ hoạt động này ở thời điểm tương lai. Đối tượng đầu tư thì rất rộng lớn bao gồm: cả tài sản vật chất, phi vật chất, tài sản cố định của xã hội, và tài sản lâu bền.
Ngoài ra còn rất nhiều khái niệm đầu tư khác tuỳ theo góc độ người xem xét, chẳng hạn ở góc độ tiêu dùng thì đầu tư là hình thức hạn chế tiêu dùng ở hiện tại nhằm thu hút được mức tiêu dùng lớn hơn trong tương lai, hoặc ở góc độ tài chính đầu tư là một chuỗi những hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận về một chuỗi các dòng thu nhằm hoàn vốn và sinh lời.
Đầu tư phát triển:
Là quá trình sử dụng vốn đầu tư để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế nói chung, của địa phương, của ngành và các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng.
Hoạt động đầu tư phát triển là một hoạt động có tính chất lâu dài, điều đó được thể hiện: Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi thành quả của nó thường kéo dài nhiều năm, tháng. Trong quá trình đó dưới tác động của môi trường đầu tư làm những dự toán của công cuộc đầu tư bị sai lệch, do vậy cần phải quản lý một cách nghiêm ngặt và có sự điều chỉnh kịp thời.
. Vốn đầu tư.
Vốn đầu tư là toàn bộ chi phí để đạt được mục đích hoạt động đầu tư, nó bao gồm tất cả các nguồn có thể (đầu tư từ nước ngoài, tiết kiệm của nền kinh tế…) phục vụ cho các hoạt động đầu tư.
Đầu tư xây dựng cơ bản.
Khái niệm.
Là một bộ phận của hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư phát triển nói riêng. Đó là việc bỏ vốn để tiến hành các hoạt động xây dựng cơ bản (từ việc khảo sát, quy hoạch đầu tư, thiết kế và xây dựng cho đến khi lắp đặt thiết bị, để hoàn thiện việc tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật…) nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng các tài sản cố định cho nền kinh tế.
Vai trò.
Đối với nền kinh tế, đầu tư xây dựng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra những cơ sở vật chất kỹ thuật chủ yếu và cần thiết cho nền kinh tế. Đầu tư xây dựng cơ bản là một biện pháp quan trọng trong kích cầu đầu tư. Đầu tư xây dựng cơ bản cũng ảnh hưởng đến tổng cung, tổng cầu của nền kinh tế, làm tăng khả năng khoa học công nghệ của nền kinh tế đất nước, thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Đầu tư xây dựng cơ bản có ảnh hưởng mạnh đến sự ổn định kinh tế.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Là một bộ phận của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là yêu cầu bắt buộc, cấp thiết trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Cơ sở hạ tầng là chỉ tiêu cơ bản, là chỉ tiêu đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế, tạo tiền đề thu hút vốn đầu tư phát triển và thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn bao gồm tổng thể những yếu tố vật chất, các cơ sở vật chất và thiết chế làm nền tảng cho sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn.
Cũng như hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật nói chung, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn nhằm hoàn thiện các yếu tố vật chất kỹ thuật phục vụ yêu cầu phát triển các ngành kinh tế nông thôn. Tạo tiền đề cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn và thúc đẩy nhanh quá trình CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật nông thôn.
Hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một bộ phận quan trọng trong hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn, nó là yếu tố quyết định tới sự phát triển kinh tế nông thôn. Hệ thống này bao gồm toàn bộ các cơ sở vật chất kỹ thuật đó là: Hệ thống thuỷ lợi, hệ thống điện, giao thông, thông tin và bưu chính viễn thông…
Hệ thống thuỷ lợi.
Hệ thống thuỷ lợi bao gồm toàn bộ hệ thống công trình phục vụ cho việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn nước (nước mặt và nước ngầm) và cho việc hạn chế những tác hại do nước gây ra đối với sản xuất, đời sống và môi trường sinh thái. Các công trình chủ yếu thuộc hệ thống thuỷ lợi gồm:
Hệ thống các hồ đập giữ nước.
Hệ thống các trạm bơm, tưới tiêu nước.
Hệ thống đê sông, đê biển.
Hệ thống kênh mương.
Hiện nay Huyện Thọ Xuân có nguồn mặt nước khá phong phú, ngoài các nguồn như sông Chu, sông Cầu Chày, sông Hoàng còn có một hệ thống kênh rạch, hồ chứa nước như hồ Cửa Trát, hồ Sao Vàng… nên việc tưới tiêu phục vụ sản xuất tương đối thuận lợi. Về nước ngầm của Thọ Xuân cũng nằm trong bối cảnh chung của Thanh Hoá, lớp nước trầm tích nghèo và phân bố không đồng đều.
Hệ thống giao thông.
Hệ thống giao thông là toàn bộ các phương tiện vật chất thích hợp với mỗi loại hình giao thông nhằm phục vụ cho việc vận chuyển để phục vụ sản xuất và nhu cầu đi lại của dân cư.
Hệ thống giao thông là hệ thống hạ tầng đặc biệt đối vơi sự phát triển kinh tế xã hội, nó là cầu nối giữa các vùng kinh tế và giữa các vùng kinh tế với các trung tâm kinh tế xã hội. Đặc biệt hệ thống giao thông có tầm quan trọng, tác động to lớn tới sự phát triển của các vùng nông thôn.
Hệ thống điện nông thôn.
Hệ thống điện nông thôn là toàn bộ các yếu tố cơ sở vật chất làm nền tảng cho việc cung cấp điện sử dụng vào tưới tiêu, các hoạt động sản xuất và phục vụ sinh hoạt nông thôn. Hệ thống này bao gồm mạng lưới đường dây tải điện từ nguồn cung cấp, hệ thống các trạm biến thế, mạng lưới phân phối.
ở một số xã vùng xa hệ thống này còn bao gồm cả các máy phát điện nhỏ bằng động cơ chạy dầu hoặc máy Tuabin nhỏ chạy bằng sức nước, sức gió...
Cho đến nay tổng lượng điện năng cung cấp cho nông thôn còn rất ít so với lượng điện sản xuất ra, ước tính chỉ chiếm 10 – 15%. Điện cung cấp cho nông thôn chủ yếu dùng để tưới tiêu nước (40-50%) còn lại dùng cho một số hoạt động khác và sinh hoạt.
Hệ thống thông tin và bưu chính viễn thông.
Hệ thống thông tin và bưu chính viễn thông nông thôn bao gồm toàn bộ các cơ sở vật chất các phương tiện phục vụ cho việc cung cấp thông tin, trao đổi thông tin đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống nông thôn. Hệ thống thông tin và bưu chính viễn thông bao gồm: mạng lưới bưu điện, điện thoại, Internet, mạng lưới truyền thanh, truyền hình của Trung ương, địa phương.
Trong điều kiện xã hội hiện đại, thông tin là yếu tố có vai trò to lớn và nhiều khi có ảnh hưởng quyết định tới sự phát triển kinh tế – xã hội và văn hoá. Xây dựng và phát triển hệ thống thông tin hoàn chỉnh và hiện đại là một nhiệm vụ trọng yếu trong việc xây dựng phát triển hạ tầng đáp ứng yêu cầu CNH – HĐH nông thôn.
Sự cần thiết (vai trò) của cơ sở hạ tầng nông thôn.
Trong từng giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Sự phát triển của nông nghiệp – nông thôn được dựa trên một cơ sở kết cấu hạ tầng có trình độ phát triển nhất định. Như vậy, sự phát triển của hệ thống cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng nông thôn có vai trò to lớn thể hiện trên các mặt chủ yếu sau:
Mức độ và trình độ phát triển cơ sở hạ tầng là một chỉ tiêu phản ánh và đánh giá trình độ phát triển nói chung của nông nghiệp – nông thôn.
Thường dùng các chỉ tiêu thể hiện mức độ và trình độ phát triển của từng yếu tố cơ sở hạ tầng như: Số km đường giao thông tính trên 1 km2, tính trên 1000 dân… Trong quá trình phát triển vai trò và tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng ngày càng tăng lên, nhất là trong xu hướng mở cửa, hội nhập kinh tế nếu thiếu các yếu tố Khoa học – công nghệ, cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động văn hoá xã hội thì sự phát triển là không thể hoặc không được như mong muốn. Như vậy, xây dựng cơ sở hạ tầng trở thành có tính quyết định cho sự phát triển nông nghiêp – nông thôn.
Cơ sở hạ tầng, nhất là những hạ tầng trong kinh tế, giữ vai trò quyết định trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Nông thôn nước ta hiện nay đang chuyển biến lên sản xuất lớn trên cơ sở thực hiện CNH – HĐH, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, thực trạng kết cấu hạ tầng nông thôn lạc hậu đã cản trở lớn tới quá trình này. Trong đó, những trở ngại trong giao thông vận tải (không chỉ là chi phí vận tải) thường là trở ngại chính đối với sự phát triển khả năng chuyên môn hoá tại từng khu vực có tiềm năng phát triển nhưng không tiêu thụ được sản phẩm hoặc không được cung cấp lương thực, dịch vụ một cách ổn định, nhất là vùng miền núi...
Cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển cân đối và toàn diện là một trong những điều kiện để phát triển nông thôn toàn diện hơn.
Nông thôn Việt Nam đã trải qua quá trình phát triển lâu dài, từ nông thôn truyền thống xưa kia đến thời kỳ xây dựng nông thôn mới ngày nay. Nông thôn truyền thống xưa kia dựa trên nền nông nghiệp nhỏ đặc canh cây lúa nước nên rất nghèo. Đến lượt mình trạng thái kém phát triển của nền kinh tế quyết định trạng thái kém phát triển của cơ sở hạ tầng.
Ngày nay, nông nghiệp – nông thôn đang trong quá trình phát triển ở giai đoạn mới, có sự tác động mạnh mẽ của đô thị hóa, hoạt động sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên cơ sở công nghiệp hoá. Như vậy, việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển toàn diện, tương ứng với nhu cầu và đáp ứng những đòi hỏi của việc phát triển nông thôn mới là yêu cầu bắt buộc trong quá trình CNH – HĐH nông thôn.
Đối với những vùng nông thôn chậm và kém phát triển, tập trung sức phát triển cơ sở hạ tầng còn là cách thức để xoá bỏ sự chênh lệch trong quá trình phát triển.
Bằng việc tập trung phát triển cơ sở hạ tầng, trước hết là hạ tầng giao thông vận tải, thông tin liên lạc… sẽ tạo cơ sở cho việc giao lưu kinh tế văn hoá phá vỡ sự khép kín của nông thôn truyền thống với toàn nền kinh tế, tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận với các nguồn lực phát triển, thúc đẩy sự hình thành và phát triển sản xuất hàng hoá. Phát triển cơ sở hạ tầng là cách thức phân bố rộng khắp những thành tựu của sự phát triển, xoá đi những chênh lệch trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội giữa các vùng trong nước.
Kinh nghiệm đầu tư của một số địa phương.
Tình hình đầu tư của huyện Hải hậu cho Xây dựng
cơ sở hạ tầng
Đơn vị: triệu đồng.
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1. Làm đường
2. Trường học
3. Trạm xá
4. Điện
5. Nghĩa trang liệt sĩ
6. Nhà trẻ
-
415
-
20
-
-
266
345
70
380
-
-
481
626
50
-
413
-
10.347
4.114
211
314
750
-
11.322
3.833
65
1.208
1.500
-
8.476
2.500
124
800
1.800
800
Tổng số
435
1.061
1.269
15.736
17.240
14.500
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở
xã đông hoá, kim bảng – hà nam
Đơn vị: 1000đ
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
Tổng kp
1. Điện
167.081
-
218000
-
14375
-
269639
252014
2. Đường
167081
141871
85990
144050
295383
840478
1011687
2785341
3. Trường học
316000
-
65314
87242
20143
180345
553589
1220633
4. Y tế
-
-
-
-
127954
-
-
127954
5. Công trình nước sạch
-
-
-
-
-
-
1425000
1425000
6. Trạm bơm mương máng
-
-
-
48352
-
14993
250114
313465
7. Sửa đài liệt sĩ
-
-
-
-
-
-
27980
27980
8. Sân vận động
-
-
-
-
-
-
32000
32000
9. Xoá nhà tranh
-
-
-
-
104480
-
-
104480
Tổng số
483082
141871
279104
279650
1140268
351009
3367024
6290867
Phương pháp đánh giá kết quả đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Xây dựng cơ sở hạ tầng là một bộ phận của đầu tư xây dựng cơ bản cũng tương tự như đánh giá kết quả đầu tư xây dựng cơ bản. Nó được thể hiện ở khối lượng vốn đầu tư đã được sử dụng và Tài sản cố định được huy động hoặc năng lực sản xuất kinh doanh dịch vụ tăng thêm.
Khối lượng vốn đầu tư thực hiện.
Khái niệm.
Khối lượng vốn đầu tư thực hiện (sử dụng) là tổng số tiền đã chi để tiến hành các hoạt động của các công cuộc đầu tư bao gồm các chi phí cho công tác chuẩn bị đầu tư, xây dựng nhà xưởng và cấu trúc hạ tầng mua sắm trang thiết bị máy móc để tiến hành công tác xây dựng cơ bản và chi phí khác theo quy định của thiết kế dự toán và được ghi trong dự án đầu tư được duyệt.
Phương pháp tính khối lượng vốn đầu tư thực hiện.
Đối với những công cuộc đầu tư quy mô lớn, thời gian thực hiện đầu tư dài thì vốn đầu tư được tính là thực hiện khi từng hoạt động hoặc từng giai đoạn của mỗi công cuộc đầu tư đã hoàn thành.
Đối với công cuộc đầu tư quy mô nhỏ, thời gian đầu tư ngắn thì số vốn đã chi được tính là thực hiện khi toàn bộ các công việc của quá trình thực hiện đầu tư kết thúc.
Đối với công cuộc đầu tư do ngân sách nhà nước tài trợ để số vốn bỏ ra được tính vào khối lượng vốn đầu tư thực hiện thì các kết cầu của quá trình đầu tư phải đạt được các tiêu chuẩn quy định và được tính theo.
+ Đối với vốn đầu tư của công tác xây dựng, vốn đầu tư thực hiện được tính theo phương pháp đơn giá và phải căn cứ theo đơn giá dự toán của nhà nước.
+ Đối với công tác mua sắm máy móc thiết bị, máy móc cần lắp, vốn thực hiện được tính theo giá mua + công chi phí vận chuyển – chi phí bình quân.
+ Đối với công tác xây dựng cơ bản và các chi phí khác, nếu có đơn giá thì áp dụng giống công tác xây lắp, chưa có đơn giá thì tính theo phương pháp thực thanh - thực chi.
+ Đối với những công cuộc đầu tư vốn vay tự có của dân thì chủ đầu tư căn cứ vào quy định, định mức đơn giá chung của nhà nước để tính.
Tài sản cố định huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm.
Khái niệm.
Tài sản cố định huy động là công trình hay hạng mục công trình, đối tượng xây dựng có khả năng phát huy tác dụng độc lập đã kết thúc quá trình xây dựng, mua sắm, đã làm xong thủ tục nghiệm thu để đưa vào sử dụng.
Năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là khả năng đáp ứng nhu cầu sản xuất phục vụ của các tài sản cố định đã được huy động vào sử dụng để sản xuất ra sản phẩm hoặc tiến hành các dịch vụ theo quy định được trong dự án đầu tư.
Phương pháp tính.
Các tài sản cố định được huy động và năng lực sản xuất phục vụ tăng thêm là sản phẩm cuối cùng của các công cuộc đầu tư xây dựng cơ bản, chúng có thể được thể hiện bằng hiện vật hoặc giá trị.
Các chỉ tiêu biểu hiện bằng hiện vật như số lượng các tài sản cố định được huy động (số máy biến thế, km đường, ha được tưới tiêu…) công suất hay năng lực phát huy tác dụng của các tài sản cố định được huy động, số kw giờ của các nhà máy điện, lượng xe lưu thông trên cầu, số ha lúa được tưới tiêu…
Phần II.
Thực trạng vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng
của huyện Thọ Xuân (2000-2003).
Điều kiện tự nhiên - kinh tế – xã hội ảnh hưởng tới việc sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng.
Điều kiện tự nhiên.
Vị trí địa lý - địa hình.
Thọ Xuân nằm về phía Tây Bắc TP- Thanh Hoá, có toạ độ địa lý vĩ độ Bắc khoảng 19050” đến 20000”, kinh độ Tây khoảng 105030”.
Phía Bắc giáp với huyện Ngọc Lặc.
Phía Nam giáp với huyện Triệu Sơn.
Phía Đông giáp với huyện Yên Định và Thiệu Hoá.
Phía Tây giáp với huyện Ngọc Lặc và Thường Xuân.
Thọ Xuân nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa đồng bằng và trung du Thanh Hoá. Địa hình thấp hơn trung du 50 – 100 m, nhưng lại cao hơn đồng bằng 4-6m. Có độ dốc lớn hơn đồng bằng và nhỏ hơn vùng trung du nên ảnh hưởng không nhỏ đến việc bố trí khu dân cư, đầu tư cơ sở hạ tầng, bố trí vùng chuyên canh và thâm canh lớn, phát triển công - nông nghiệp, tạo tiền đề cho phát triển kinh tế phong phú đa dạng.
Vùng trung du: gồm 13 xã= 18.283,18 ha chiếm 60,33% diện tích toàn huyện, nằm ở phía Tây Bắc và ở phía Tây Nam. Là vùng đồi thoải, có độ cao từ 15m đến 150m so với mực nước biển. Địa hình nơi đây dốc thoải gây trở ngại không nhỏ cho việc bố trí hệ thống giao thông, thuỷ lợi.
Vùng đồng bằng: Gồm 27 xã nằm dọc 2 phía tả và hữu ngạn sông Chu. Có độ cao khoảng 6-17m, diện tích tự nhiên 12.021,51 ha, chiếm 36,67% diện tích toàn huyện. Đây là vùng tương đối bằng phẳng rất tiện cho việc bố trí các tuyến đường giao thông và thuỷ lợi. Tuy vậy, do nằm dọc theo sông Chu nên thường xuyên phải tu bổ hệ thống đê chống lũ. Mặt khác do nằm về 2 phí sông Chu-một con sông có bề mặt rộng, bãi lớn nên giao thông giữa hai vùng tả và hữu ngạn sông Chu vẫn còn rất khó khăn.
Khí hậu thuỷ văn.
Khí hậu trên địa bàn nhìn chung tương đối thuận lợi, nhiệt độ không khí bình quân năm là 23,40C, độ ẩm 86%, lượng mưa trung bình 1.859mm/năm, lượng nước bốc hơi 707mm/năm. Mỗi năm có sương mù khoảng 21 -26 ngày. Thường xuất hiện vào các tháng cuối năm làm tăng thêm độ ẩm đất và không khí.
Ngoài ra, do có địa hình tương đối dốc phức tạp nên hàng năm Thọ Xuân phải chịu nhiều mưa bão, có lúc lại khô hanh, hạn hán.
Điều kiện khí hậu thuỷ văn như vậy cũng một phần ảnh hưởng tới công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Cụ thể là vào mùa mưa không thể hoặc rất ít thực hiện được các hoạt động xây dựng còn mùa khô lại thuận lợi cho hoạt động này. Như vậy, làm ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình tài chính nói chung của Huyện.
Điều kiện kinh tế - xã hội.
Dân số và lao động.
Đến năm 2000 số người sống ở nông thôn có khoảng 218.467 người và 51.689 hộ chiếm 94,75% dân số toàn huyện. Diện tích đất khu nông thôn mỗi hộ thường từ 200 – 500 m2. Việc sử dụng đất khu dân cư những năm gần đây đã có nhiều tiến bộ, một số xã đã hình thành khu trung tâm hoặc cụm dân cư, phát triển theo quy hoạch thuận lợi cho việc quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho giao lưu, trao đổi, phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội theo hướng CNH – HĐH nông thôn.
Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 10/2000 thì dân số toàn huyện là 230.563 người, với 55.024 hộ, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên có chiều hướng giảm dần từ 1,18%/năm (1995) còn 0,89%/năm (2001). Mật độ dân số bình quân là 761 người/km2. Số người trong độ tuổi lao động tăng dần, từ 99.198 người năm 1995 lên 103.638 người năm 2001.
Mật độ dân số là tương đối thưa, đặc biệt do có địa hình phức tạp nên phân bố không đồng đều, chỉ tập trung phần lớn ở vùng đồng bằng và các khu trung tâm nên làm giảm chất lượng phục vụ của hệ thống cơ sở hạ tầng.
Số người trong độ tuổi lao động ngày càng tăng, trong khi ở nông thôn đa số mang tính thời vụ nên lượng lao động dư thừa là rất lớn, đây là một trong những yếu tố có lợi cho việc tu bổ, xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung và cơ sở hạ tầng kỹ thuật nói riêng.
Cơ sở hạ tầng.
Thọ Xuân có các tuyến đường quốc lộ, tỉnh lộ chạy qua như:
Quốc lộ 15A, chiều dài 12 km, chạy qua các xã Xuân Lam, thị trấn Lam Sơn – Xuân Phú.
Quốc lộ 47 với chiều dài 15 km, từ thị trấn Lam Sơn qua thị trấn Sao Vàng và xã Xuân Thắng đã được trải nhựa chất lượng cao.
Quốc lộ 47B dài 28km, chạy qua các xã Thọ Lộc – Thị trấn Thọ Xuân-Bái Thượng đến nay cũng đã được trải nhựa 10 km, còn 18 km đường đá đang xuống cấp nghiêm trọng.
Tỉnh lộ Thọ Xuân – Kiểu chiều dài gần 20 km mới chỉ được rải đá, cần được nâng cấp.
Hệ thống giao thông nông thôn với tổng chiều dài khoảng 790 km.
Ngoài ra Thọ Xuân còn có hệ thống giao thông đường thuỷ trên sông Chu và sông Nông Giang. Tất cả các hệ thống giao thông trên địa bàn đã và đang phục vụ cho nhu cầu đi lại và giao lưu hàng hoá của nhân dân nhưng rất cần được cải tạo, tu bổ, nâng cấp để việc đi lại giao lưu kinh tế được thuận lợi.
Về thuỷ lợi:
Do địa bàn huyện có hệ thống sông Chu và sông Cầu Chày chảy qua nên hệ thống đê điều tương đối lớn.
Đê sông Chu dài 19,8 km, từ Xuân Châu xuống Thọ Trường với tổng diện tích 70,75 ha do Trung Ương quản lý.
Đê hữu sông Chu dài 27,8 km từ Xuân Bái – Xuân Khánh với tổng diện tích 69,43 ha do Trung ương quản lý.
Đê sông Cầu Chày (vùng Quảng Phú) dài 11,8 km diện tích 29,5 ha.
Ngoài ra còn có các đê sông tự nhiên nhỏ khác với tổng chiều dài hệ thống cho tiêu là 138 km, diện tích 379,19 ha. Nhìn chung hệ thống này bảo vệ tốt cho tiêu, bảo vệ sản xuất nông nghiệp, rất cần được nạo vét tu bổ thường xuyên.
Hệ thống tưới với tổng chiều dài 137,58 km diện tích 360,8 ha đã và đang phát huy phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên một số công trình đã xuống cấp đòi hỏi sự quan tâm đầu tư nâng cấp và cải tạo. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có cả hồ thuỷ lợi cung cấp nước tưới cho nội bộ vùng như hộ Cửa Trát (Xuân Phú); hồ Sao Vàng, hồ Đồng Trường (thị trấn Sao Vàng) và hàng ngàn km kênh mương phục vụ nội đồng.
Hệ thống phát thanh, truyền thanh từ huyện đến cơ sở được mở rộng, đến nay đã hoàn thiện hệ thống phát thanh. Ngoài ra ở hầu hết các xã đã và đang phát triển khai thác xây dựng Bưu điện văn hoá xã, cho đến nay đã có khoảng 30 xã có Bưu điện văn hoá.
Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội của Thọ Xuân (1996-2002).
1. Kinh tế :
Thực hiện đường lối của Đảng và nhà nước . Nghị quyết đại hội Đảng bộ lần thứ XXI và XXII cộng với sự cố gắng nỗ lực của Đảng bộ , nhân dân trong huyện , sự năng động trong lãnh đạo điều hành làm quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất . Trong những năm qua nền kinh tế Thọ Xuân đã đạt được nhịp độ phát triển kinh tế ổn định , toàn diện và tương đối cao .
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong huyện giai đoạn 1996 – 2000 đạt 12,5%/ năm ( tỉnh là 7,3%/ năm ) trong đó nông nghiệp tăng 7,4% ; công nghiệp XDCB tăng 11,00% ; dịch vụ thương mại tăng 15,7% . Mức thu nhập bình quân từ kinh tế lãnh thổ từ 270,6 USD/người/ năm ( 1995 ) tăng lên 472,6 USD/ người/ năm (2000 ), mức tăng bình quân 12,44%/năm.
Các sản phẩm chủ yếu như lương thực từ 75052 tấn năm 1996 tăng lên 106000 tấn năm 2000, mức tăng bình quân 8,25%/năm; sản xuất mía nhiên liệu 118250 tấn năm 1996 tăng lên 260000 tấn năm 2000 , mức tăng bình quân 23,97%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp từ 30,22 tỉ đồng năm 1996 lên 37 tỉ đồng năm 2000, mức tăng bình quân 8,97%/năm.
Cơ cấu chuyển dịch kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng các nghành dịch vụ, công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp, giảm tỉ trọng nghành nông – lâm nghiệp. Nghành nông – Lâm nghiệp chiếm tỉ trọng trong GDP từ 65,80% năm 1996 xuống 51,4% năm 2000; nghành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng chiếm tỉ trọng 12,40% năm 1996 lên 16,5% năm 2000; dịch vụ và du lịch chiếm tỉ trọng GDP từ 21,80 % năm 1996 lên 32,10% năm 2000.
Thực trạng phát triển các nghành
a.Về công nghiệp
Thọ Xuân có hai doanh nghiệp công nghiệp lớn của TW và Tỉnh ( Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn và công ty Cổ phần giấy Mục Sơn ) Đóng trên địa bàn, đây là một thuận lợi lớn tạo điều kiện cho kinh tế Thọ Xuân phát triển, nâng cao thu nhập cho nhân dân. Công ty đường đã có những phương án giúp cho nhân dân có điều kiện liên doanh, liên kết góp cổ phần, xây dựng vùng mía nguyên liệu, do vậy mức sống của nông dân, nhất là nông dân miền vùng núi Thọ Xuân không ngừng được nâng cao.
Công nghiệp và thủ công nghiệp địa phương thuộc huyện quản lý:
Sản xuất chủ yếu là các nghành nông – lâm sản và khai thác vật liệu xây dựng, nhưng nhìn chung chất lượng hàng hoá chưa cao, chưa có sức cạnh tranh. Ngành nghề hiện nay chưa có được sản phẩm hàng hoá lớn, tiêu thụ rộng rãi mà chỉ mới có vài cơ sở sản xuất Cót ép và hàng mộc dân dụng.
Về loại hình sản xuất: Số doanh nghiệp công nghiệp ở Thọ Xuân còn quá ít, trong 8 doanh nghiệp chỉ có 2 doanh nghiệp sản xuất có tính công nghiệp là: Doanh nghiệp Việt Hưng, sản xuất tăm tre, mành tre tại khu 3 thị trấn Lam Sơn ( mới thành lập ) và doanh nghiệp Hoà Hà sản xuất bột giấy tại xóm Minh Thành xã Xuân Bái , mỗi năm sản xuất được 1500 đến 2000 tấn bột giấy nguyên liệu có giá trị thu nhập từ 2,5 đến 3 tỉ VNĐ. Sáu doanh nghiệp còn lại thì 5 doanh nghiệp là thầu Xây dựng còn một là công ty Cổ phần thương mại. Tuy số doanh nghiệp công nghiệp của Thọ Xuân còn quá ít ỏi, gía trị sản xuất chưa cao, hiệu xuất chưa lớn, song nó là những doanh nghiệp đầu tiên đi vào sản xuất công nghiệp, có đủ tư cách pháp nhân để vươn ra thị trường trong và ngoài nước.
Nhìn chung công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp thời kỳ 1996 đến 2000 giá trị sản xuất có tăng song mức tăng trên thực tế vẫn còn chậm ( trong cả kỳ chỉ tăng 6 tỉ đồng ) chiếm tỉ trọng rất thấp trong cơ cấu thu nhập. Sản phẩm chủ yếu là từ chế biến nông – lâm sản, sản xuất và khai thác các loại vật liệu xây dựng… Các loại sản phẩm cơ khí chế tạo, công nghiệp kỹ thuật cao chưa được phát triển, sản xuất chủ yếu tiêu thụ ở thị trường nội địa, chất lượng sản phẩm chưa cao, thiếu đội ngũ thợ lành nghề…
Xác định phương hướng chiến lược cho phát triển ngành công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp còn nhiều vấn đề khó khăn, chưa có định hướng cụ thể cho từng vùng, từng địa phương, từng loại ngành nghề, vốn đầu tư phát triển cho các ngành nghề còn hạn chế, không đủ điều kiện trang bị kỹ thuật, các làng nghề truyền thống thiếu sự hỗ trợ, nâng cao chất lượng, sản xuất kinh doanh vẫn còn nhiều tồn tại và hiệu quả thấp
b.Dịch vụ Thương mại.
Dịch vụ – Thương mại tiếp tục được phát triển theo yêu cầu phát triển sản xuất, đời sống, các loại hình dịch vụ công ty, dịch vụ tập thể hộ liên doanh, dịch vụ tư nhân… Mở ra đa dạng, từng bước được đầu tư, nâng cao quy mô và chất lượng phục vụ.
Dịch vụ, kinh doanh trong sản xuất nông nghiệp của các loại hình hợp tác xã đang từng bước khẳng định vai trò đối với thị trường sản xuất nông thôn. Các tụ điểm thương mại, thị trấn, thị tứ… tiếp tục được hình thành và nhanh chóng tập trung kinh doanh sầm uất, đáp ứng được yêu cầu giao lưu hàng hoá trên tất cả các vùng. Tuy vậy tốc độ phát triển các loại hình dịch vụ thương mại đến thời điểm hiện nay có phần khiêm tốn, việc khai thác thị trường nội địa chưa được quan tâm đúng mức, thiếu các chính sách và biện pháp nâng cao sức trao đổi hàng hoá của nhân dân, nhìn chung sức mua ở các khu vực nông thôn đã có phần cải thiện…
Thương mại dịch vụ trong giai đoạn này đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 15,7 % /năm và đã chiếm vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế của huyện ( năm 2000 là 33,7% đạt giá trị 156 tỉ đồng )
Hoạt động thương mại được phát triển mạnh ở ba thị trấn, các thị tứ trung tâm cụm xã: Nam Giang, Tứ Trụ, Bái Thượng, Xuân Lam và dọc theo các tuyến đường quốc lộ. Mạng lưới dịch vụ mại - dịch vụ đã phát triển đến từng thôn xóm, khu dân cư, với nhiều mặt hàng phong phú đa dạng về chất lượng và chủng loại.
Cùng với dịch vụ thương mại nhà nước các loại hình dịch vụ tư nhân trong các khu vực nông thôn cũng được phát triển đa dạng và từng bước có xu hướng hợp tác, nâng cao quy mô kinh doanh dịch vụ. Khả năng thương mại còn tiềm ẩn nhiều yếu tố. Trong những năm qua tuy phát triển nhanh song vẫn mang nặng tính tự phát, chưa thực sự tạo điều kiện khai thác hỗ trợ đầu tư
c.sản xuất nông nghiệp:
Đã đạt hiệu quả được toàn diện trên các lĩnh vực sản xuất cây trồng, con nuôi. Hiệu xuất sản xuất hàng hoá trong các vùng thâm canh tiếp tục được phát triển, nâng cao chất lượng. Nông – lâm nghiệp là nghành sản xuất chính của Huyện, chiếm 69,79% tổng số lao động 44% cơ cấu kinh tế trong GDP. Năm 1995 giá trị tổng sản lượng nông – lâm nghiệp là 180,62 triệu đồng, đến năm 2000 là 240,70 triệu đồng. Sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá trên cơ sở chuyên canh gắn liền với thâm canh tăng vụ.
Tuy diện tích nông nghiệp có giảm từ 16394,1 ha ( năm 1990 ) xuống 16378,3 ( năm 1995 ) và 15347,75 ha ( năm 2000 ), nhưng nhờ thâm canh tăng vụ, ứng dụng đưa vào các loại giống lai nên diện tích gieo trồng và năng xuất vẫn có xu hướng tăng. Như cây lúa chiêm xuân từ 50,5 tạ/ha ( năm 1996 ) tăng lên 62 đến 63 tạ / ha ( năm 2000); cây Ngô từ 35,1 tạ/ha ( năm 1996 ) lên 46 tạ/ha ( năm 2000). Đến năm 2000 bình quân đầu người đạt 640 kg lương thực.
Vùng cây công nghiệp, cây ăn quả đã hình thành và tiếp tục khẳng định ưu thế trong khai thác tiềm năng kinh tế vùng đồi. Quá trình hình thành vùng mía nguyên liệu đến năm 2001 đã đạt được 4000 ha, năng xuất mía ngày càng tăng, từ 65,8 tấn/ ha ( năm 1995 ) lên 75 tấn/ ha ( năm 2000 ) qua đó đã tạo khả năng khai thác hiệu quả các tiềm năng đất đai, lao động góp phần thúc đẩy kinh tế trên địa bàn huyện làm thay đổi căn bản bộ mặt kinh tế, xã hội. Các xã trung du miền núi trong những năm gần đây:
Sản xuất lương thực: Là lĩnh vực đạt được kết quả cao, cả về chuyển đổi cơ cấu giống và thâm canh theo năng xuất, trong những năm qua đều được mùa trong cả ba vụ và có mức sản lượng đạt khá cao. Sản lượng lúa hàng năm đạt 95000 đến 100000 tấn, năng xuất tăng đều và cao hơn so với các năm trước đây. Trong đó: Lúa vụ chiêm – xuân hàng năm có diện tích cấy 7400 – 7500 ha, năng suất 60 – 65 tạ/ha, lúa lai đưa vào vụ xuân đề cho năng suất 72 – 75 tạ/ha; Lúa mùa cấy: 8000 – 8200 ha, năng suất 50 – 52 tạ/ha.
Sản xuất mía nguyên liệu: Diện tích vùng mía nguyên liệu được mở rộng, đạt diện tích quy hoạch ( 3500 – 3600 ha ), sản lượng trong năm đạt tới 42000 – 44000 tấn.
Chăn nuôi: Phát triển ổn định cơ cấu đàn gia súc gia cầm tiếp tục tăng, giá trị sản phẩm chăn nuôi tăng từ 78 tỉ đồng ( năm 1996 ) lên 101 tỉ đồng ( năm 2000 ). Quy mô loại hình chăn nuôi đa dạng theo hướng sản xuất hàng hoá, chăn nuôi công nghiệp, nâng cao chất lượng, hiệu quả kết hợp điều kiện lợi thế của từng vùng, từng địa phương, từng mùa vụ… Để phát triển các loại con nuôi thích hợp, đạt hiệu quả. Mô hình chăn nuôi tập trung quy mô lớn trong các hộ gia đình, chăn nuôi trang trại… Đã và đang được khuyến khích phát triển tốt. Giá trị thu nhập chăn nuôi hàng năm là 80 – 90 tỉ đồng ( giá cố định 1994 )
d.Cơ sở hạ tầng.
Thọ Xuân có các tuyến đường quốc lộ tỉnh lộ chạy qua như:
Quốc lộ 15A chiều dài 12 km, chạy qua các xã Xuân Lam, thị trấn Lam Sơn và xã Xuân Phú.
Quốc lộ 47 với chiều dài 15 km, từ thị trấn Lam Sơn qua thị trấn Sao Vàng và xã Xuân Thắng đã được trải nhựa chất lượng cao.
Quốc lộ 47B dài 28 km chạy qua các xã Thọ Lộc – Thị trấn Thọ Xuân- Bái Thượng đến nay cũng đã được trải nhựa nhưng vẫn còn một số đoạn đang xuống cấp nghiêm trọng.
Tỉnh lộ Thọ Xuân – chiều dài gần 20 km mới chỉ được rải đá cấp phối rất cần được cải tạo nâng cấp.
Hệ thống giao thông nông thôn với tổng chiều dài 790 km. Ngoài ra Thọ Xuân có hệ thống giao thông đường thuỷ trên sông Chu và sông Nông Giang. Tất cả các tuyến giao thông trên địa bàn đã và đang phục vụ cho nhu cầu đi lại và giao lưu hàng hoá của nhân dân nhưng rất cần được cải tạo, tu bổ nâng cấp để phục vụ nhu cầu đi lại, giao lưu kinh tế của nhân dân được thuận lợi.
Thuỷ lợi: Do địa bàn huyện có hệ thống sông Chu và sông Cầu Chày chảy qua nên hệ thống đê điều tương đối lớn:
Đê sông Chu dài 19,8 km, từ Xuân Châu xuống Thọ Trường với tổng diện tích 70,75 ha do trung ương quản lý.
Đê hữu sông Chu dài 27,8 km từ Xuân Bá xuống Xuân Khánh tổng diện tích 69,43 ha, do TW quản lý.
Đê vùng Quảng Phú ( Sông Cầu Chày ) dài 11,8 km diện tích 29,50 ha.
Ngoài ra còn có các đê thuộc sông tự nhiên nhỏ khác với tổng chiều dài cho tưới tiêu là 138 km, diện tích 379,19 ha. Nhìn chung hệ thống này bảo vệ tốt cho tưới tiêu, bảo vệ sản xuất nông nghiệp và rất cần được nạo vét và tu bổ thường xuyên. Tuy nhiên một số công trình đã xuống cấp đòi hỏi sự quan tâm, đầu tư, nâng cấp và cải tạo. Ngoài ra trên địa bàn huyện còn có các hồ thuỷ lợi cung cấp nước tưới cho nội bộ vùng như hồ Cửa Trát ( Xuân Phú ); hồ Sao Vàng, hồ Đồng Thường ( Thị trấn Sao Vàng ) và hàng ngàn km kênh mương phục vụ nội đồng.
e.Xây dựng kết cấu hạ tầng.
Khối lượng vốn đầu tư cho khu vực địa phương hàng năm đạt 65 – 70 tỉ đồng, trong đó: vốn nhà nước đầu tư từ 75 – 80 %, vốn nhân dân góp chứng khoản 20 – 25 %. Vốn đầu tư tập trung chủ yếu cho các công trình: Nâng cấp hệ thống đê điều, phát triển hệ thống thuỷ lợi tưới cho vùng mầu, tu bổ hệ thống tiêu úng cục bộ và các công trình kênh mương địa phương… Khảo sát thực tế và khởi công xây dựng cầu Hạnh Phúc là công trình mơ ước của nhân dân Thọ Xuân bao đời nay. Nâng cấp , tu bổ hệ thống giao thông nông thôn, xây dựng và tu bổ các công trình phúc lợi: Xây dựng các công trình bệnh viện cao tầng, trường học bằng nguồn vốn vay, vốn địa phương, sửa chữa nâng cấp hệ thống trạm y tế xã.
Công tác chuẩn bị đầu tư được quan tâm: Hoàn chỉnh các dự án phát triển hạ tầng giai đoạn một khu đô thị Lam Sơn – Sao Vàng kết hợp với Tỉnh triển khai quy hoạch chi tiết khu công nghiệp Lam Sơn, quy hoạch chi tiết khu đô thị Sao Vàng, tiến hành lập dự án các tuyến giao thông cận địa. Đây là sự cố gắng của đảng bộ, chính quyền và nhân dân Thọ Xuân trong việc triển khai công tác đầu tư cơ sở hạ tầng tạo nền móng cho tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn và phát triển thương mại dịch vụ và du lịch sau này.
f.Các lĩnh vực văn hoá xã hội.
- Về giáo dục: Quán triệt nghị quyết TW2 khoá VII về giáo dục và đào tạo ( GD&ĐT ) , thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ huyện lần thứ XXIII, nghị HĐND và UBND huyện. Trong những năm qua ngành giáo dục đã có những thành tựu đáng ghi nhận. Đến năm học 2000 – 2001 trên địa bàn huyện có 41 trường tiểu học với 26857 học sinh, 42 trường THCS với 22226 học sinh, 4 trường THPT với 6488 học sinh, ngoài ra còn nhiều học viên đang theo học các lớp tại trung tâm giáo dục thường xuyên và trường bổ túc văn hoá.
Huyện đã hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học, tỉ lệ các cháu vào mẫu giáo, tiểu học, THCS từ 87 – 98,5% năm 1996 tăng lên 96 – 99,5% năm 2001. Số học sinh giỏi các cấp, học sinh đậu vào các trường ĐH, CĐ, THCN tăng đáng kể. Đội ngũ giáo viên được tăng cường cả về chất lượng lẫn số lượng nhưng do tình hình thực tế ở cơ sở nên một số trường chưa đảm bảo cơ sở vật chất cho việc giảng dạy đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả giáo dục trên địa bàn.
Đến nay huyện vẫn tiếp tục duy trì giữ vững thành quả về phổ cập giáo dục tiểu học và PTTH trên toàn huyện, đồng thời chỉ đạo tốt hơn nữa công tác xã hội hoá giáo dục . Cũng cố kỷ cương , nề nếp các trường , xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh . hiện nay toàn huyện có 55 trường cao tầng ở cấp tiểu học và THCS , 16 xã , thị trấn có trường cho cả hai cấp , chỉ còn hai xã chưa có trường cao tầng . Trong những năm tới phải phấn đấu xây dựng trường cao tầng cho tất cả các xã trong huyện , đảm bảo cho HS có nơi học tập và đầy đủ phương tiện học tập.
Về y tế:
Huyện có một bệnh viện, 3 phân viện và 40 trạm xá xã với tổng 268 giường bệnh . Toàn huyện có 290 cán bộ y tế , trong đó có 244 y, bác sĩ, bình quân 1 vạn dân có 12,1 y bác sĩ phục vụ . Hệ thống bệnh viện từ huyện đến cơ sở được củng cố cơ sở vật chất , trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho việc khám chữa bệnh cho nhân dân . Công tác phòng chống dịch bệnh , vệ sinh môi trường được triển khai thực hiện có hiệu quả , tiêm chủng mở rộng được tiến hành thường xuyên , ngăn ngừa có hiệu quả một số loại dịch bệnh phát sinh trên địa bàn . Công tác chăm sóc bảo vệ trẻ em , giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng được quan tâm , công tác DS – KHH – GĐ được đưa vào nề nếp và trở thành ý thức tự giác trong nhân dân , chất lượng các dịch vụ kỹ thuật được nâng lên đã góp phần giảm tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên xuống còn 1,1%
Về văn hoá thông tin- TDTT:
Trong phong trào xây dựng nếp sống văn hoá mới Thọ Xuân đã có 19.000 gia đình đạt gia đình văn hoá,137 làng văn hoá 6 khu phố và một cơ quan văn hoá trong đó 30 làng đạt làng văn hoá cấp tỉnh và 86 làng đạt làng văn hoá cấp huyện.
Hoạt động thông tin phát thanh và ghi hình trực tiếp được đẩy mạnh với nhiều hình thức, nhằm thực hiện tốt công tác tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng , pháp luật của nhà nước . Tăng cường chỉ đạo để nâng cao chất lượng nội dung hoạt động của Làng văn hoá ; vận động nhân dân xây dựng nếp sống văn hoá trong cộng đồng dân cư, giữ gìn đạo đức truyền thống , tạo nên sự gắn bó mật thiết trong tình làng nghĩa xóm ; từng bước xoá bỏ các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan.
Các di tích lịch sử văn hoá , danh lam thắng cảnh trên địa bàn huyện được quản lý và đang từng bước được trùng tu , tôn tạo nhất là khu di tích Lam Kinh , đền Lê Hoàn để phục vụ nhu cầu tham quan , du lịch cho khách thập phương.
ở hầu hết các xã đều có sân vận động , nhà văn hoá, phong trào TDTT được phát triển nhiều dưới nhiều hình thức như gia đình thể thao , CLB thể thao …
Dân cư, dân số – lao động và việc làm:
Đến năm 2000 số người sống ở nông thôn có khoảng 218767 ngời và 51,689 hộ, chiếm 94,75% dân số toàn huyện. Diện tích đất khu dân cư nông thôn mỗi hộ thường từ 200 – 500 m2. Việc sử dụng đất khu dân cư nông thôn những năm gần đây đã có nhiều tiến bộ, đã thực hiện mô hình VAC góp phần nâng cao thu nhập. Một số xã đã hình thành khu trung tâm hoặc cụm dân cư, phát triển theo quy hoạch thuận lợi cho việc giao lưu, trao đổi, buôn bán, phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội theo hướng CNH – HĐH nông thôn.
Theo kết quả điều tra dân số đến tháng 10/2000 dân số toàn huyện là 230.563 người, với 55.024 hộ, dân tộc kinh chiếm 95,71% dân số. Tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên có chiều hướng giảm dần từ 1,18% năm 1995 còn 0,890% năm 2001. Mật độ dân số bình quân là 761 người / km2.
Số người trong độ tuổi lao động tăng dần, từ 99.198 người năm 1995 lên 103.638 người năm 2001. Tỷ lệ lao động trong ngành nông – lâm nghiệp chiếm 69,79% tổng số lao động.
Năm 2001
- Về phát triển kinh tế:
Mức tăng tổng sản phẩm xã hội GDP ước đạt 10,8%
Trong đó: Nông – Lâm nghiệp 6,25%; CN – TCN – XDCB 15,8%; Dịch vụ và các ngành khác 16,2%.
GDB bình quân đầu người ước đạt 331,4/người/năm, tăng 11,4% so với năm 2000.
Cơ cấu GDP ước tính: Nông Lâm nghiệp là 49,7%; CN-TCN-XDCB 17,2%; Dịch vụ và ngành khác 33,1%.
Sản lượng lương thực cả năm đạt 108,647 tấn, tăng 11% so với năm 2000. Sản lượng củ các cây lương thực chính như cây lúa cả năm đạt 87647 tấn trong đó lúa xuân ( với gần 56% lúa lai ) năng suất cao nhất đạt 65 tạ/ha; lúa mùa năng suất 45,3 tạ/ha.
Diện tích mía nguyên liệu 3,312 ha, sản lượng mía ước đạt 260000 tấn, năng suất mía đạt 78 – 80 tấn / ha, mía thâm canh theo công nghệ cao đạt 400 ha, năng suất đạt 140 – 150 tấn/ha hiện đang tiếp tục được nhân rộng phát triển ở các vùng nguyên liệu.
Chăn nuôi: Đàn lợn ước đạt 98000 con, tăng 4,5% sản lượng thịt lợn hơi ước đạt 7150 tấn, tăng 4,7%. Đàn bò được du nhập vào vùng mía nguyên liệu tăng 3,1 % và đang dần được Sinh hoá.
CT-TTCN-Dịch vụ đạt 40,0 tỷ đồng tăng 8% CK trong đó giá trị sản phẩm hàng hoá ước đạt 30,0 tỉ đồng.
Xây dựng kết cấu hạ tầng với khối lượng vốn đầu tư đạt 44 tỷ đồng, tăng 4,7% CK trong đó phần huy động từ vốn địa phương đạt trên 50% tống số vốn đầu tư. Vốn đầu tư được tập trung chủ yếu cho các công trình như đê điều, thuỷ lợi, giao thông nông thôn chiếm tỷ trọng gần 55%.
Tài chính – tín dụng: Thu ngân sách vượt mức 43% KH dự toán, thu – chi ngân sách xã đã thực sự đi vào nề nếp. Tín dụng đã huy động được tiền gửi địa phương tăng 12,4% , tổng dư nợ tăng 7,7%, doanh số cho vay tăng 10,7%, vốn vay được sử dụng đúng mục đích và đạt hiệu quả.
Tổ chức các loại hình HTX dịch vụ, ngành nghề, kinh doanh tổng hợp đã được coi trọng, thúc đẩy. Đến nay đã có 61 HTX được thành lập dưới nhiều hình thức và đang đi vào nề nếp, một số HTX đã trở thành điển hình trong tổ chức kinh doanh dịch vụ có hiêu quả, thể hiện được vai trò trong hỗ trợ sản xuất nông thôn.
Những lĩnh vực kinh tế lợi thế :
Thọ Xuân hiện nay có những điểm lợi thế trong lĩnh vực phát triển kinh tế như sau:
Là huyện có cả 3 vùng sinh thái tự nhiên: Đồng bằng, trung du, miền núi nên sản phẩm sản nông nghiệp xuất ra, đa dạng phong phú.
Là điểm giao lưu trung chuyển giữa các huyện miền núi và các huyện đồng bằng, ven biển nên là vị trí lý tưởng , hội tụ được đầu mối kinh tế.
Là đầu nguồn của hệ thống Nông Giang Bái Thượng, việc tưới tiêu khá thuận lợi, có lợi thế trong phát triển nông nghiệp.
Có công ty cổ phần đường Lam Sơn, giấy Mục Sơn là hai công ty có chiều hướng phát triển tốt; Có các chương trình, dự án liên doanh, liên kết với các hộ, các địa phương trong sản xuất, tạo điều kiện thúc đẩy nông nghiệp phát triển ( kể cả trồng trọt và chăn nuôi )
Thọ Xuân còn nằm trên 3 tuyến quốc lộ: 47, 15 xa lộ Hồ Chí Minh, rất thuận tiện cho việc giao lưu và phát triển kinh tế.
Có hai quần thể di tích lịch sử nổi tiếng là: Khu di tích Lam Kinh và đền thờ Lê Hoàn đang được nhà nước quan tâm tôn tạo sẽ là nơi phát triển du lịch lý tưởng.
2.Thực trạng vốn đầu tư cho XDCB và xây dựng cơ sở hạ tầng của huyện từ thời kỳ 2001 – 2003
III. Đánh giá chung hiệu quả việc đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng của huyện .
Kết quả đạt được:
Về đầu tư XDCB nói chung tính từ 1998 dến nay, mức tăng bình quân đạt 26,7%/năm, đến năm 2003 tổmg mức đầu tư đã đạt đến 90,76 tỷ đồng, tăng 38,5% so với năm 2002, tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2001, gấp hơn 6 lần so với năm 1998. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư cũng có sự thay đổi đáng kể: Vốn huy động từ các địa phương và nhân dân góp đến năm 2002, tăng gần gấp 2 lần so với năm 2001. Đầu tư cho các chương trình trọng điểm tăng nhanh: Đầu tư cho giao thông tăng gấp 3 lần so với năm 2002, tăng hơn 3 lần so với năm 2001. Đó là kết quả to lớn, tạo đà đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Huyện.
Cơ sở hạ tầng tiếp tục được đầu tư theo hướng trọng tâm, trọng điểm, với cơ cấu đầu tư hợp lý, tăng thêm năng lực phục vụ sản xuất và đời sống. Tổng số vốn đầu tư 5 năm (1996-2000) đạt gần 150 tỷ đồng, mức tăng bình quân hàng năm là 9,7%. Vốn đầu tư tập trung chủ yếu cho các công trình giao thông - thuỷ lợi, trường học, trung tâm y tế Huyện đến cơ sở, trung tâm bưu điện văn hoá xã… Nguồn vốn chủ yếu thông qua các chương trình dự án, vốn tài trợ. Các nguồn vốn từ ngân sách địa phương, vốn huy động đóng góp của nhân dân tiếp tục được huy động và tăng lên hàng năm, song vẫn chiếm tỷ trọng thấp.
Một số công trình trọng điểm có tiến độ nhanh là kiên cố hoá kênh mương. Đến năm 2000 toàn Huyện đã xây dựng mới gần 300 km kênh mương nội đồng, hoàn thành cơ bản lưới điện nông thôn, nâng cấp một số công trình trục giao thông chính, hoàn thành cơ bản hệ thống cơ sở vật chất, bệnh viện Huyện và các trạm y tế xã, thị trấn, xây dựng 27 điểm bưu điện văn hoá xã, tăng thêm năng lực phục vụ sản xuất, đời sống, làm thay đổi căn bản bộ mặt nông thôn theo hướng văn minh, tiến bộ, góp phần CNH – HĐH nông thôn.
Từ năm 2000 – 2003 về xây dựng cơ bản và xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế với phương châm khai thác tốt các nguồn nội lực, tranh thủ các nguồn ngoại lực, tập trung ưu tiên cho các chương trình trọng điểm phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế – văn hoá - xã hội, việc huy động vốn dân cư cho các công trình: Bê tông hoá đường làng ngõ xóm kiên cố hoá kênh mương đã được phát triển tích cực trong 2 năm 2000 – 2001 đã kiên cố hoá 270 km kênh mương nội đồng. Trong 2 năm 2002 – 2003 bê tông hoá 137 km đường thôn xóm, xây dựng 16 km đường nhựa liên xã và nhiều chương trình phúc lợi, công cộng: đường điện, bưu điện văn hoá xã… Hạn chế được tình trạng ỷ lại, trông chờ vào Nhà nước lâu nay. Đồng thời với việc đóng góp xây dựng công trình, quá trình đầu tư, xây dựng, thành toán công trình có sự giám sát chặt chẽ của nhân dân, hạn chế tối đa những tiêu cực thất thoát, công trình đảm bảo chất lượng và được gia cố, bảo quản theo quy định thường xuyên…
Hệ thống công trình hạ tầng được đầu tư xây dựng từ yêu cầu thiết thực, đạt được hiệu quả sử dụng, đáp ứng kịp thời các yêu cầu sản xuất, đời sống.
Hệ thống điện: Được tu bổ, nâng cấp,bổ xung thêm trạm điện theo quy hoạch, góp phần hạ giá thành mua điện trong nông thôn và tạo cho 90,5% hộ dân trên địa bàn Huyện được dùng điện (chỉ còn các hộ vùng sâu, vùng xa…).
Hệ thống tưới tiêu vùng đồng bằng đã tương đối hoàn chỉnh, góp phần thúc đẩy tăng năng suất cây trồng (năng suất lúa 4-5 năm gần đây tăng 2,5-3 tạ/ha/năm), hệ thống tưới mía, cây công nghiệp vùng Sao Vàng đang phát huy hiệu quả. Tu bổ đê điều, gia cố hệ thống tiêu úng hàng năm đã góp phần hạn chế tối đa thiệt hại trong mùa mưa lũ…
Hệ thống giao thông nông thôn: là Huyện có nhiều tuyến đường, là vùng trung chuyển giữa miền xuôi, miền ngược địa hình phức tạp… Việc tập trung nâng cấp các tuyến đường trong những năm qua (Bình quân hàng năm đầu tư từ 17-20 tỷ đồng) song chất lượng còn kém xuống cấp nhanh. Ba năm gần đây phát động phong trào nhựa hoá, bê tông hoá giao thông nông thôn, tập trung nâng cấp dứt điểm, có chất lượng từng tuyến và phân cấp đầu tư cụ thể, phong trào làm giao thông nông thôn đã và đang thu được những kết quả khả quan, nhiều địa phương (Nam Giang, Tây Hồ, Thọ Xương, Xuân Thiên, Thọ Nguyên…) đã có cách làm hay, làm tốt đang được nhân rộng.
* Nguyên nhân:
Để đạt được kết quả trên Ban thường vụ Huyện uỷ, Ban chấp hành Đảng bộ Huyện đã có những cố gắng tích cực, chủ trương về chuyển dịch cơ cấu đầu tư, thực hiện các chương trình đầu tư theo kế hoạch và quy hoạch đầu tư hàng năm. Điều đó được thể hiện trọng nghị quyết lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội của Huyện trong nhiệm kỳ và trong từng năm.
Các chương trình đầu tư cụ thể theo định hướng phát triển hàng năm được bàn bạc, thông qua và được Hội đồng nhân dân Huyện khoá XVI. Nghị quyết trong các kỳ họp đầu năm về nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội hàng năm, đề ra những trọng điểm đầu tư cần phấn đấu. Đồng thời với các chương trình đầu tư trọng điểm Hội đồng nhân dân Huyện còn có nghị quyết về thu quỹ giao thông nông thôn của cán bộ, công nhân viên trên địa bàn tập trung về Huyện để chi dùng cho các chương trình dự án giao thông liên xã (Nghị quyết số: 529/NQ – HĐND 2002 kỳ họp thứ VII HĐND huyện khoá XVI) và các nghị quyết về xây dựng các công trình cụ thể bằng nguồn vốn huy động hợp pháp của Huyện.
Có cơ chế và biện pháp tạo điều kiện cho các xã, các đơn vị phát triển các nguồn đầu tư hợp pháp: Bằng nguồn vốn huy động, vốn vay, vốn được hỗ trợ theo chương trình vốn liên kết với DN… giải quyết từng công trình trọng điểm phù hợp với điều kiện từng xã. Tổ chức hội nghị sơ kết ở các xã làm tốt, phổ biến, nhân rộng cách làm hay trong huy động các nguồn vốn đầu tư.
Thông qua các năm chắc nguồn thu – chi ngân sách xã thị thị trấn để nắm chắc các phương án đầu tư, phát huy được những phương án tốt, hạn chế được tình trạng đầu tư quá sức, phát sinh nợ kéo dài… đã có những biện pháp chỉ đạo tích cực và tạo cơ chế hợp pháp cho các đơn vị thanh toán nợ đọng từ năm 2001 trở về trước nhanh chóng ổn định tình hình phát triển chung.
Những hạn chế và nguyên nhân trong quá trình đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở địa bàn Huyện.
2.1. Hạn chế.
Đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn Huyện tăng nhanh trong những năm qua đã đạt được những hiệu quả thiết thực phục vụ kịp thời cho phát triển sản xuất, đời sống. Tuy vậy còn có những tồn tại cần khắc phục là:
Quy hoạch, kế hoạch định hướng đầu tư dài hạn theo quy hoạch phát triển còn hạn chế, đạt biệt các công trình nhỏ, lẻ cấp xã những năm trước còn nhiều công trình chủ yếu phát sinh do chủ yêu cầu, không được định hướng, quy hoạch từ trước, do cả thiết kế tiết kiệm vốn, chất lượng vật liệu xây dựng, bố trí mặt bằng cảnh quan, thiếu quy hoạch tổng thể cho từng công trình… Một số công trình mới sử dụng vài năm đã lạc hậu, hư hỏng…
Thanh, quyết toán công trình còn chậm, thậm chí có công trình còn kéo dài, biện pháp giải quyết nợ ở một số công trình thiếu tính khả thi. Phát sinh nợ tồn đọng ở một số xã trong đầu tư xây dựng cơ bản vẫn xẩy ra do yêu cầu bức xúc trong đầu tư, không lượng đúng khả năng huy động vốn do chuyển giao quản lý… dẫn đến dây dưa trong thanh toán nợ đầu tư. Tình trạng lợi dụng vốn Nhà nước, khoan sức dân, sử dụng sai mục đích vốn hỗ trợ Nhà nước còn xẩy ra ở một số xã, tuy đã được làm sáng rõ về trách nhiệm, đã xử lý song đã để lại hậu quả không tốt.
Tình trạng vi phạm nguyên tắc công khai, dân chủ trong đầu tư vẫn còn, dẫn đến những thắc mắc, khiếu kiện phải giải quyết.
Quản lý đầu tư xây dựng còn những mặt đơn giản chưa chặt chẽ, hiểu biết về trình tự thủ tục, quy chế đầu tư (đặc biệt ở cấp xã ) còn nhiều mặt hạn chế, trình tự thủ tục không đầy đủ, còn có biểu hiện tuỳ tiện, đặc biệt trong các công trình đầu tư bằng nguồn vốn địa phương.
Kiểm tra thường xuyên về chất lượng xây dựng , đôn đốc trong nghiệm thu thanh toán, quyết toán vẫn còn hạn chế, một số công trình còn hạn chế về chất lượng, mỹ quan.Vai trò chủ quản đầu tư , chủ đầu tư chưa được phát huy đầy đủ , trách nhiệm chưa cao, còn nhiều mặt ỷ lại cơ sở, dẫn đến nhiều mặt phát sinh sai phạm trong cả thủ tục và quản lý chất lượng công trình. Những phiền hà trong thủ tục, tiêu cực, thất thoát, thiếu trách nhiệm trong quản lý… Tuy đã có nhiều biện pháp tích cực hạn chế song vẫn chưa chấm dứt hẳn.
Nguyên nhân:
Những tồn tại trên xuất phát từ một số nguyên nhân sau:
- Là một huyện chủ yếu là nông nghiệp, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhiều mặt nghèo nàn, yêu cầu đầu tư lớn và trên tất cả các lĩnh vực, do nguồn vốn đầu tư vẫn còn hạn hẹp, nên không tránh khỏi có những lúc chưa tập trung được cho công trình trọng điểm , còn chắp vá, thiếu đồng bộ, chưa hình thành được định hướng đầu tư tổng thể theo quy hoạch.
- Trình độ quản lý đầu tư xây dựng còn hạn chế trong khi các loại văn bản hướng dẫn về quản lý XDCB nhiều, thường xuyên đổi mới, thủ tục còn phức tạp, phân cấp nhà nước trong đầu tư xây dựng chưa cụ thể, xét duyệt qua nhiều công đoạn… không tránh khỏi có nơi, có lúc phiền hà, hạn chế đầu tư và hiệu quả đầu tư.
- Chất lượng công tác quy hoạch, khảo sát xây dựng dự án đầu tư còn nhiều hạn chế việc thực hiện đầu tư theo quy hoạch còn quá chậm. Quy hoạch, bổ sung điều chỉnh nhiều lần. Các quy định trong quản lý quy hoạch, giải phóng mặt bằng… còn nhiều bất cập so với thực tế dẫn tới quá trình đầu tư kéo dài, kém hiệu quả.
Phần III
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng của huyện Thọ Xuân.
Quan điểm về đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng.
Phương châm đầu tư:
Đầu tư trên cơ sở quy hoạch hệ thống cơ sở hạ tầng của Huyện, quy định các tiêu chuẩn, phân cấp quản lý, phân cấp đầu tư cụ thể.
Đối với các công trình liên xã: Tập trung vào từng công trình trọng điểm, không phân tán giải mành, ưu tiên các công trình trọng điểm, ưu tiên vùng trọng điểm, vùng khó khăn. Bỏ việc đầu tư xây dựng tạm thời, nhỏ, lẻ tập trung tu bổ nâng cấp từng công trình. Thực hiện đúng tiêu chuẩn quy hoạch, tạo điều kiện huy động đồng bộ các nguồn vốn: Vốn đóng góp, vốn từ quy hoạch sử dụng đất, vốn hỗ trợ từ ngân sách, vốn vay… hoàn chỉnh từng công trình đúng tiêu chuẩn.
Đối với các công trình nội xã:
+ Chủ yếu là phát động nội lực, có biện pháp và cơ chế tạo nguồn cho các địa phương (từ quỹ đất, vốn vay, các biện pháp huy động sức dân.) để xây dựng các công trình theo tiêu chuẩn quy định.
+ Khuyến khích các hình thức tự chủ thôn, xóm, đóng góp vào xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng (tạo các hình thức vận động, tài trợ từ bên ngoài, con em có điều kiện từ bên ngoài hỗ trợ xây dựng các công trình phúc lợi công cộng…). Có biện pháp khen thưởng từ cấp trên (ngân sách, vốn vay kích cầu ) đối với các xã hoàn chỉnh tốt các công trình thuộc cơ sở hạ tầng kinh tế nhất là về giao thông nông thôn.
+ Có biện pháp xử lý kỹ thuật phù hợp với từng loại công trình, trên từng vùng, từng địa phương và tạo biện pháp giám sát kỹ thuật chặt chẽ trong quá trình thi công đảm bảo chất lượng. Quản lý tốt các công trình theo phân cấp, thường xuyên kiểm tra, chủ động kịp thời sửa chữa, tu bổ nâng cấp những hư hỏng.
Những thuận lợi cơ bản:
Nhận thức về tầm quan trọng của cơ sở hạ tầng trong điều kiện kinh tế đã được nâng lên, việc huy động vốn đầu tư bằng nhiều nguồn vốn đã thực hiện thực sự có hiệu quả.
Những vùng, điểm làm tốt đang được phát huy, nhân rộng có điều kiện thúc đẩy phong trào.
Cùng với cơ sở hạ tầng nông thôn, hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội nói chung của cả nước đang được quan tâm, tập trung đầu tư một cách thích đáng sẽ là nguồn kích cầu thực sự đối với hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn.
Định hướng của Huyện.
Phương hướng mục tiêu kinh tế xã hội 2001 – 2005.
Nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội 5 năm (2001 – 2005) của Huyện Thọ Xuân nằm trong chương trình phát triển kinh tế - xã hội mở đầu thiên niên kỷ mới của cả tỉnh, cả nước nhằm thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX. Nghị quyết đại hội Đảng bộ lần thứ XV và nghị quyết đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ XXIII, tạo cơ sở tiền đề thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xã hội 10 năm (2001 – 2010).
Bước vào thực hiện nhiệm vụ thời kỳ 2001-2005 Thọ Xuân có những thuận lợi cơ bản đó là: Sự nghiệp đổi mới của Đảng tiếp tục thu được những thành quả quan trọng. Những chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đã và đang là động lực thúc đẩy quá trình phát triển. Nền kinh tế xã hội có sự phát triển toàn diện và ổn định. Đời sống nhân dân trên nhiều mặt được cải thiện, tình hình xã hội, ổn định chính trị tiếp tục được giữ vững. Dân chủ được phát huy tính dân chủ và sáng tạo được nâng lên, kết hợp với những kinh nghiệm được đúc rút trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo... đó là những nhân tố quan trọng cần được tiếp tục đẩy mạnh trong thực hiện nhiệm vụ thời kỳ mới. Vì vậy định hướng trong những năm tới là: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới nâng cao ý thức tự lực tự cường, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, khai thác có hiệu quả các tiềm năng có lợi thế, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tập trung phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn với phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ thương mại và những ngành nghề có tiềm năng theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm tăng sức cạnh tranh, mở rộng thị trường, hình thành sự liên kết kinh tế nông – công nghiệp – dịch vụ. Gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đảm bảo sự ổn định từ cơ sở, tạo tiền đề phát triển cho những năm tiếp theo.
Những mục tiêu kinh tế trong những năm 2001 – 2005.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 11,1%/ năm. Trong đó:
+ Nông nghiệp 5,5%.
+ Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp 15,4%.
+ Dịch vụ 15,3%.
- Cơ cấu kinh tế đến 2005:
+ Tỷ trọng giá trị ngành nông nghiệp 39,8%.
+ Công nghiệp – TTCN & XDCB 21,1%.
+ Dịch vụ ngành khác 31,1%.
- Thu nhập GDP bình quân đầu người đến năm 2005 đạt 475 USD trở lên.
- Tổng sản lượng lương thực 110.000 tấn (ngũ cốc có hạt).
- Sản lượng mía nguyên liệu 330.000 – 350.000 tấn.
- Bình quân giá trị thu nhập/ha canh tác dến 2005 là 30 triệu đồng trở lên.
- Thu ngân sách tăng bình quân hàng năm là 5% trở lên.
1.2. Kế hoạch xây dựng một số công trình cơ sở hạ tầng của huyện 2004:
kế hoạch giao thông năm 2004.
đơn vị giá trị: tỷ đồng.
Tên công trình
Thực hiện 2002
ƯTH 2003
KH 2004
K.lg
G.trị
K.lg
G.trị
K.lg
G.trị
Cộng
1.522
52,6
61,6
Cầu Hạnh Phúc.
12
28
Đường Tây Hồ – Xuân Sơn.
21
Đường Xuân Lai – Lê Hoàn
3,1
Đường Thọ Xuân–Yên Định
2,5
Giao thông nông thôn.
14
14,4
Cầu Phong Lạc(Nam Giang)
1
Cầu Chợ Khu
2,2
Đường Thọ Xuân-Mục Sơn
16
50,1
Nhà nước.
3.400
12
44
Địa phương
11.820
38,1
15,4
kế hoạch thuỷ lợi năm 2004.
đơn vị giá trị: triệu đồng.
Tên công trình
Thực hiện 2002
ƯTH 2003
KH 2004
K.lg
G.trị
K.lg
G.trị
K.lg
G.trị
Cộng
5.247
5.084
4.325
A) Công trình đê điều
4.058,5
4.573
-
4.325
1. Đê Trung ương
2.350
-
3.580
-
3.800
a. Đắp đất
102000 m3
1.550
931.000 m3
1.583
90.000 m3
1.700
b. Đá các loại
4000 m3
800
4.560 m3
997
3.900 m3
800
c. Đổ bê tông
1.600 m3
1000
4.800 m3
3000
2. Đê địa phương
520
993
525
a. Đất đắp
15000 m3
400
48.208 m3
819,5
525
b. Bê tông
150 m3
120
99 m3
173,5
35 m3
B) Công trình kênh mương
1.188,5
1.250 m3
511
1. kiên cố hoá kênh mương bê tông + gạch
1040 m
1.188,5
1.250 m3
460
2. Đất đào đắp
3000 m3
51
Nhà nước
3.286
4.573
4.325
Địa phương
1.292,5
1.504
525
Một số biện pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản và xây dựng cơ sở hạ tầng huyện Thọ Xuân.
Biện pháp.
Thực hiện tốt công tác tập huấn cho cán bộ quản lý XDCB, đặc biệt cán bộ phụ trách và cán bộ chuyên môn cấp xã, thống nhất quy trình thủ tục từ cơ sở đến các phòng, ngành liên quan. Phân công cụ thể trách nhiệm giải quyết thủ tục của các phòng, ngành từ chủ trương đầu tư đến nghiệm thu, thanh toán. Cùng với quá trình cải cách hành chính, thực hiện chấn chỉnh lĩnh vực XDCB, quản lý đất đai theo đúng quy định. Rà soát, hệ thống lại các loại văn bản pháp quy dưới luật xây dựng, chấn chỉnh, kết hợp các phòng, ngành thường xuyên kiểm tra quy trình thủ tục từ khâu chủ trương đầu tư cho đến khâu thanh toán công trình, hoàn chỉnh thủ tục từng công trình đúng theo quy định của Nhà nước.
Thường xuyên tăng cường công tác kiểm tra các đơn vị, cơ sở, uốn nắn kịp thời những vi phạm, phát huy những cách làm hay, năng động đảm bảo nguyên tắc dân chủ công khai, nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng cường vai trò giám sát của nhân dân trong các chương trình đầu tư, tạo được sự thống nhất trong quản lý, giám sát quá trình đầu tư và xây dựng. Phối hợp các phòng, ngành, sớm phát hiện các vấn đề nảy sinh kịp thời, kiểm tra, thanh tra,... giải quyết dứt điểm các vụ việc không để phát sinh kéo dài.
Bám sát quy hoạch và dựa trên cơ sở quy hoạch, định hướng các mục tiêu đầu tư để xem xét, phê duyệt các chủ chương đầu tư. Đồng thời có quy định phân cấp cụ thể trong quản lý đầu tư xây dựng, để nâng cao tính chủ động, hạn chế tính trông chờ ỷ lại. Năng động trong các biện pháp tạo được các biện pháp hỗ trợ, kích cầu kịp thời, đúng lúc, đúng điểm trong đầu tư để khuyến khích các chương trình...
Tập trung, có biện pháp tích cực giải quyết những vấn đề tồn đọng cơ sở: nợ tồn đọng, một số vi phạm về thủ tục, việc giải ngân, trả nợ vốn vay, ... quyết toán dứt điểm các công trình. Kiên quyết xử lý những vi phạm đã có kết luận trong thanh, kiểm tra các công trình đầu tư.
Một số kiến nghị.
Trên cơ sở luật đầu tư và xây dựng được nhà nước ban hành tháng 12/2003, cán bộ, ngành, cơ quan cấp trên thống nhất các văn bản hướng dẫn quy trình thủ tục trong đầu tư và xây dựng. Phân cấp cụ thể về đầu tư và xây dựng, để các cấp, ngành chủ động trong việc xác định các chương trình đầu tư, tạo thuận lợi cho việc thực hiện các chương trình đầu tư và kiểm tra, thanh tra các quá trình đầu tư xây dựng.
Ban hành các quy định cụ thể để thực hiện ngiêm túc việc xây dựng dự án, trình duyệt, phê duyệt dự án trên cơ sở quy hoạch được duyệt, chấn chỉnh công tác đầu tư theo quy hoạch, từng bước tạo sự đồng bộ và tập trung trọng điểm trong đầu tư và xây dựng.
Quy hoạch Đô thị Lam Sơn – Sao Vàng đã được Chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hoá phê duyệt tháng 01/2001 và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là đô thị loại 3 ven đường Hồ Chí Minh. UBND huyện trên cơ sở quy hoạch đã xây dựng các dự án: xây dựng hạ tầng kỹ thuật Đô thị giai đoạn 1. Dự án cấp nước sạch đô thị, quy hoạch chi tiết khu trung tâm đô thị, khu công nghiệp tập trung tại đô thị... các dự án đã trình duyệt khá lâu, hiện nay chưa được phê duyệt, đề nghị UBND tỉnh xem xét, có chủ trương và ban hành cơ chế cụ thể trong việc khai thác các nguồn vốn đầu tư xây dựng tại khu vực đô thị, sớm hình thành khu đô thị động lực trong phát triển khu vực. Có biện pháp đầu tư việc cắm mốc giới theo quy hoạch để quản lý tốt đất đai khu vực đô thị theo quy hoạch.
Một số công trình trọng điểm:
+ Cầu Hạnh Phúc và công trình đường hai đầu cầu (do cơ sở GTVT làm chủ đầu tư) quá trình thi công đã lâu, cần sớm được bố trí vốn để hoàn chỉnh công trình, tạo điều kiện sớm nối liền vùng Hữu và Tả ngạn Thọ Xuân.
+ Các trục giao thông tỉnh lộ: 47B, 506 theo phân cấp do Tỉnh quản lý, tỉnh cần có chủ trương nâng cấp và tạo điều kiện hỗ trợ huyện một phần trong việc nâng cấp hệ thống giao thông liên xã, giao thông xã (bằng nguồn vốn vay kích cầu, vốn hỗ trợ bằng vật tư) để Huyện sớm hoàn chỉnh chương trình đầu tư phát triển giao thông.
+ Các xã khó khăn: xã miền núi, xã kinh tế mới, xã nghèo điều kiện hạ tầng còn khó khăn rất cần có chính sách hỗ trợ trong đầu tư phát triển, những năm vừa qua, Huyện đã có chủ trương hỗ trợ nhưng nguồn ngân sách hạn hẹp, cần được UBND Tỉnh xem xét có chính sách hỗ trợ như đối với các xã vùng miền núi, xã nghèo để tạo mặt bằng tương đối trong đầu tư phát triển, bình ổn sản xuất đời sống.
Trên đây là một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho XDCB & xây dựng cơ sở hạ tầng của huyện Thọ Xuân nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ cho sản xuất và đời sống, tạo cơ sở vững chắc đưa nền kinh tế Thọ Xuân phát triển cùng nhịp độ phát triển của tỉnh và đất nước
Tài liệu tham khảo
- Giáo trình lập dự án đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn
- Giáo trình kinh tế nông thôn
- Báo nông nghiệp việt nam
- Nghị định 52/CP về đầu tư XDCB
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12547.DOC