Tài liệu Đề tài Đánh giá kết quả điều trị ung thư thực quản 1/3 giữa - Dưới bằng phẫu thuật nội soi – Triệu Triều Dương: Y học thực hành (902) - số 1/2014
62
di động cũng sẽ kộm nờn trờn thực tế hầu như khụng
cú vai trũ trong thụ tinh vỡ vậy nờn tỏch riờng chỉ số vụ
định hỡnh ra khỏi cỏc bất thường khỏc của đầu TT.
Phõn tớch đặc điểm đầu TT ở cỏc nhúm TNSS,
kết quả ở bảng 4 cho thấy:
Tỷ lệ đầu vụ định hỡnh ở nhúm TNSS nguyờn phỏt
cao hơn nhúm TNSS thứ phỏt trong khi cỏc chỉ số
khỏc kể cả tỷ lệ hỡnh thỏi bỡnh thường ở 2 nhúm
TNSS khụng khỏc nhau gợi ý cho ta rất cú thể tỷ lệ
vụ định hỡnh cao liờn quan đến khả năng thụ thai của
một mẫu tinh dịch. Điều này cũng tương tự như khi ta
so sỏnh giữa nhúm chứng với nhúm TNSS. Như vậy
ở loại mẫu tinh dịch nào cú tỷ lệ vụ định hỡnh cao thỡ
tỷ lệ thụ thai sẽ thấp.
Phõn tớch mối liờn quan giữa tuổi và hỡnh thỏi đầu
TT trong đối tượng, kết quả ở bảng 5 cho thấy:
Tỷ lệ hỡnh thỏi đầu TT bỡnh thường ở nhúm tuổi
trẻ thấp hơn ở tuổi lớn hơn, tỷ lệ đầu vụ định hỡnh ở
nhúm tuổi trẻ cao hơn nhúm lớn tuổi cú lẽ do ở tuổi
càng trẻ tỷ lệ T...
5 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 12/07/2023 | Lượt xem: 274 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đánh giá kết quả điều trị ung thư thực quản 1/3 giữa - Dưới bằng phẫu thuật nội soi – Triệu Triều Dương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y häc thùc hµnh (902) - sè 1/2014
62
di động cũng sẽ kém nên trên thực tế hầu như không
có vai trò trong thụ tinh vì vậy nên tách riêng chỉ số vô
định hình ra khỏi các bất thường khác của đầu TT.
Phân tích đặc điểm đầu TT ở các nhóm TNSS,
kết quả ở bảng 4 cho thấy:
Tỷ lệ đầu vô định hình ở nhóm TNSS nguyên phát
cao hơn nhóm TNSS thứ phát trong khi các chỉ số
khác kể cả tỷ lệ hình thái bình thường ở 2 nhóm
TNSS không khác nhau gợi ý cho ta rất có thể tỷ lệ
vô định hình cao liên quan đến khả năng thụ thai của
một mẫu tinh dịch. Điều này cũng tương tự như khi ta
so sánh giữa nhóm chứng với nhóm TNSS. Như vậy
ở loại mẫu tinh dịch nào có tỷ lệ vô định hình cao thì
tỷ lệ thụ thai sẽ thấp.
Phân tích mối liên quan giữa tuổi và hình thái đầu
TT trong đối tượng, kết quả ở bảng 5 cho thấy:
Tỷ lệ hình thái đầu TT bình thường ở nhóm tuổi
trẻ thấp hơn ở tuổi lớn hơn, tỷ lệ đầu vô định hình ở
nhóm tuổi trẻ cao hơn nhóm lớn tuổi có lẽ do ở tuổi
càng trẻ tỷ lệ TNSS nguyên phát càng cao, TNSS thứ
phát thường là những bệnh nhân lớn tuổi vì vậy tuổi
càng cao đồng nghĩa với bệnh nhân TNSS thứ phát
càng cao. Kết quả này một lần nữa khẳng định TNSS
có tỷ lệ bất thường vô định hình cao, tỷ lệ hình thái
đầu TT bình thường thấp.
Nếu chia các độ tuổi ở nhóm TNSS nguyên phát
và TNSS thứ phát thì mỗi nhóm quá nhỏ nên chúng
tôi chưa không kết luận được với từng nhóm thì khi
tuổi cao lên, chất lượng hình thái TT thay đổi như thế
nào. Ở đây có lẽ tỷ lệ hình thái TT tăng lên theo độ
tuổi là do tuổi cao thì TNSS thứ phát tăng, nguyên
phát giảm chưa không phải là khi tuổi càng cao thì
chất lượng hình thái đầu TT tốt lên.
KẾT LUẬN
Trong các bệnh nhân TNSS, tỉ lệ độ tuổi từ 25-30
là cao nhất (48,1%) sau đó giảm dần ở các nhóm tuổi
cao hơn.
Những người đã từng có con đến xét nghiệm tinh
dịch có độ tuổi từ 25-30 chiếm tỉ lệ thấp nhất: 18,2%,
độ tuổi từ 41-48 chiếm tỉ lệ cao nhất: 34,1%.
Bệnh nhân TNSS nguyên phát chiếm 78,9%,
TNSS thứ phát 21,1%.
Tỉ lệ đầu TT bình thường ở nhóm chứng là 58,0%
cao hơn so với nhóm TNSS là 45,9%.
Tỉ lệ đầu TT vô định hình ở nhóm chứng là 25,3%
thấp hơn nhóm TNSS là 33,7%.
Tỉ lệ đầu TT bình thường ở nhóm TNSS NP là
45,8% thấp hơn so với nhóm TNSS TP là 46,6%.
Trong khi tỉ lệ đầu TT vô định hình ở nhóm TNSS NP
là 34,3% cao hơn so với nhóm TNSS TP là 31,7%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Quán Anh (2009), “Tinh trùng”, Bệnh học giới
tính nam. NXB Y học, tr. 72-122.
2. Trần Đức Phấn, Phan Thị Hoan, Nguyễn Xuân
Tùng (2010), Sử dụng máy CASA trong xét nghiệm tinh
dịch và những điểm cần lưu ý khi trả lời kết quả xét
nghiệm tinh dịch. Y học thực hành. 727 (7), tr. 56 - 61.
3. Trần Đức Phần, Trịnh Văn Bảo, Hoàng Thu Lan
(2002), “Đặc điểm tinh dịch của những người nam giới
trong các cặp vợ chồng thiểu năng sinh sản”, Y học thực
hành, 407(1), tr. 38-41.
4. Mai Đắc Việt, Trần Huy Ngọc, Mai Đức Thuận
(2000), “Nghiên cứu số lượng, chất lượng tinh trùng của
100 thanh niên khỏe mạnh”, Công trình nghiên cứu y
học quân sự, Học viên quân Y (2) tr. 6-11.
5. Gunalp S., Onculoglu C., Gurgan T., Kruger T. F.,
Lombard C. J. (2001), “A study of semen parameters
with emphasis on sperm morphology in a fertile
population: an attempt to develop clinical thresholds”
Hum. Reprod., 16(1), pp. 110-114.
6. Kidd S. A., Eskenazi B., Wyrobek A.J. (2001),
“Effects of age on semen quality anh fertility: a review of
the literature”, Fertil-Steril, 75(2), pp 237-248.
7. Kurpisz M., Szczygiel M. (2000), “Molekularne
podstawy teratozoospermia”, Ginekol-Pol,71(9),pp.
1036-1041.
8. WHO (1992), WHO laboratory manual for the
examination of human semen anh sperm-cervical mucus
interaction, third edition, United Kingdom.
9. WHO (1999), WHO laboratory manual for the
examination of human semen anh sperm-cervical mucus
interaction, fourth edition, United Kongdom.
10. WHO (2010), WHO laboratory manual for the
Examination and processing of human semen. Fifth
edition.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ THỰC QUẢN 1/3 GIỮA -
DƯỚI
BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI
TRIỆU TRIỀU DƯƠNG, TRẦN HỮU VINH
TÓM TẮT
UTTQ là bệnh lý ít gặp trong các bệnh ung thư
đường tiêu hoá, tỷ lệ Nam/ Nữ là 5,5/1 tần suất mắc
bệnh có liên quan đến thói quen ăn uống và sử dụng
thuốc lá... Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang
không đối chứng thực hiện trên 69 BN bị UTTQ 1/3
giữa dưới được PTNS thì ngực cắt bỏ đoạn thực
quản tổn thương và thay thế bằng ống cuốn dạ dầy
tự thân theo Akyama. Kết quả đánh giá sau phẫu
thuật cho thấy phương pháp an toàn và hiệu quả tốt:
không tử vong, thời gian phẫu thuật ngắn (116,8 ±
52,9 phút), tai biến trong mổ 5,8%, tỷ lệ biến chứng
sau mổ thấp (18,85%). Chất lượng sống sau mổ phụ
thuộc vào giai đoạn bệnh, 100% bệnh nhân UTTQ
giai đoạn T2 sau phẫu thuật có chất lượng cuộc sống
tốt (đánh giá theo chỉ số Karnofsky). Thời gian sống
Y häc thùc hµnh (902) - sè 1/2014
63
sau 5 năm là 11,76%.
Từ khóa: Ung thư thực quản, Phẫu thuật nội soi.
SUMMARY
ASSESSMENT RESULTS OF THORACOSCOPIC
RESECTION FOR MID - LOWER THORACIC
ESOPHAGEAL CANCER: A SURGEON’S EXPERIENCES
Background: Esophageal cancer is rare in
disgestive cancer, ratio of male to female was 5.5:1.
Prevalence is related to eating habits and smoking.
Methods: Prospective, cross-sectional descriptive and
uncontrolled study. Results: Sixty nine patients have
suffered from mid-lower thoracic esophageal cancer
performed by thoracoscopic esophagectomy. Operative
time was 116.8 ± 52.9 minutes), rate of in-operative
complications was 5.8%, postoperative complication
rate was 18.85% and immortality. Life quality of
postoperation depends on stages. 100% patients with
T2 stage live well (according to Karnofsky). 5- year
survival was 11.76%. Conclusions: Thoracoscopic
esophagectomy is safe and effective.
Keywords: Thoracoscopic, Esophageal cancer.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Ung thư thực quản là một bệnh lý ít gặp chiếm
khoảng 5% trong nhóm ung thư đường tiêu hóa và
khoảng 1% ung thư nói chung. Ung thư thực quản là
một bệnh lý ác tính, phương pháp điều trị chủ yếu
vẫn là phẫu thuật. Bệnh nhân thường đến viện ở giai
đoạn muộn nên điều trị vẫn còn gặp nhiều khó khăn,
thời gian sống sau điều trị ngắn.
Các phương pháp phẫu thuật mở thường để lại
những biến chứng nặng nề, nhiều biến chứng về hô
hấp, thời gian phục hồi sau mổ chậm, tỷ lệ xì rò và tử
vong cao. Ngày nay, phẫu thuật nội soi cắt thực quản
đã khắc phục đáng kể biến chứng và rút ngắn thời
gian nằm viện. Trong đó phẫu thuật nội soi thay thực
quản bằng ống cuốn dạ dày theo phương pháp
Akiyama là biện pháp có nhiều lợi điểm và được các
phẫu thuật viên lựa chọn.
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm đánh
giá kết quả điều trị UTTQ 1/3 giữa- dưới bằng phẫu
thuật nội soi ngực thay thực quản có sử dụng ống
cuốn dạ dày theo phương pháp Akiyama.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 69 bệnh nhân UTTQ 1/3 giữa – dưới được
PTNS đường ngực, cắt bỏ thực quản và thay thế
bằng ống cuốn dạ dày theo phương pháp Akiyama.
Số liệu thực hiện tại BVTW 108 và BV Bạch Mai từ
9/2004 đến 12/2012.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tiến cứu, mô tả cắt ngang không đối
chứng.
- Lập phiếu theo dõi đánh giá đặc điểm giai đoạn
bệnh, kết quả điều trị trước, trong và sau mổ.
- Lấy kết quả giải phẫu bệnh làm tiêu chuẩn vàng
để xác định giai đoạn bệnh.
KẾT QUẢ
1. Đặc điểm về tuổi- giới
Nghiên cứu 69 BN chúng tôi gặp tuổi người bệnh
trên 50 chiếm 69,4%, trung bình là 54,04 ± 8,12 (73
tuổi - 36 tuổi). Phù hợp với một số tác giả: Phạm Hữu
Thiện Chí trung bình 52,4 tuổi, Shmuel Avital là 59
tuổi (15-74).
Ung thư thực quản chủ yếu gặp ở nam giới, theo
một nghiên cứu của Hiromasa Fujita thì năm 2001 có
10667 người chết vì ung thư thực quản ở Nhật Bản
trong đó có 9026 là nam giới và 1651 là nữ giới, tỷ lệ
nam/nữ là 5,5/1. Trong 2 thập kỷ trở lại đây thì số
nam giới chết vì ung thư thực quản tăng gấp 2 lần
còn nữ giới tăng 1,3 lần. Tỷ lệ chết chung của ung
thư thực quản trong cộng đồng năm 2001 ở nam giới
là 14,7/100000 dân và nữ giới là 2,6/100000 dân.
Giải thích điều này có nhiều nguyên nhân như chế độ
ăn uống, thói quen xấu (hút thuốc, nghiện rượu) đây
là thói quen của nam giới. Chúng tôi gặp 66/69 BN là
nam (chiếm 95,65%), chỉ có có 3/69 BN là nữ chiếm
4,35%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p <
0,001). Nghiên cứu của chúng tôi tương đương với
các kết quả của các nghiên cứu trong nước. Theo Lê
Quang Nghĩa có 140/146 bệnh nhân là nam giới, nữ
giới có 6 bệnh nhân chiếm 4,11%. Nguyễn Minh Hải
nghiên cứu 53 bệnh nhân trong đó có 49/53 (92,5%)
nam và 4/53 (7,5%) nữ.
2. Đặc điểm giai đoạn bệnh
Bảng 1. Đặc điểm giai đoạn bệnh
Giai đoạn bệnh (theo kết quả giải
phẫu bệnh T, N, M)
Số
lượng
Tỷ lệ
% Tổng
I 0 0
IIa 5 7,25 17,39
% IIb 7 10,14
III 52 75,36 82,61
% IV 5 7,25
Tổng 69 100 100%
Bệnh nhân ung thư thực quản thường đến viện
muộn sau khi có triệu chứng nuốt vướng, nuốt
nghẹn, việc theo dõi và nội soi dạ dày sàng lọc của
Việt Nam chưa tốt nên kết quả điều trị và thời gian
sống sau mổ sẽ rất khác biệt ở các khu vực vùng
miền khác nhau trong mỗi nghiên cứu. Chất lượng
sống tỷ lệ các tai biến, biến chứng sau phẫu thuật
phụ thuộc chủ yếu vào giai đoạn bệnh. Thời gian mắc
bệnh càng muộn thì tỷ lệ biến chứng, thời gian sống
sau mổ và chất lượng sống càng giảm. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi thấy 82,61% b/n giai đoạn
III- IV. Khác biệt với Nguyễn Minh Hải [2] phẫu thuật
87 b/n K thực quản gặp 51,2% bệnh giai đoạn III- IV.
Phạm Đức Huấn [3] nghiên cứu trên 71 bệnh nhân
mổ mở cắt thực quản gặp giai đoạn III-IV là 61,3%.
Càng khác biệt so với tác giả nước ngoài như
Shmuel Avital [18] ung thư gặp giai đoạn I là 42%,
giai đoạn II 42% và giai đoạn III chỉ có 16%, không có
giai đoạn IV.
3. Kết quả sớm sau phẫu thuật
3.1. Thời gian phẫu thuật
Thời gian phẫu thuật thì nội soi ngực 48,6 ± 21,6
phút, ngắn nhất 30 phút, dài nhất 120 phút. Tổng thời
gian phẫu thuật trung bình 116,8 ± 52,9 phút, ngắn
nhất 80 phút, dài nhất 180 phút. Thấp hơn so với các
tác giả trong và ngoài nước như Nguyễn Minh Hải [2]
thực hiện phẫu thuật nội soi ngực và bụng cắt thực
Y häc thùc hµnh (902) - sè 1/2014
64
quản thay thực quản bằng ống cuốn dạ dày thời gian
trung bình là 359,77(phút). Akaishi và cộng sự [5]
thực hiện cắt thực quản bằng đường nội soi ngực kết
hợp với mở bụng, vét hạch triệt căn trên 39 bệnh
nhân ung thư thực quản thời gian phẫu thuật trung
bình là 200 ± 41 phút. Osugi khi nghiên cứu đánh giá
giữa 2 phương pháp phẫu thuật nội soi đường ngực
kết hợp mở bụng với phẫu thuật mở cả ngực bụng thì
thời gian của phẫu thuật nội soi trung bình là 227
phút. Thời gian phẫu thuật của chúng tôi thấp hơn
các tác giả khác có thể vì 69 bệnh nhân nghiên cứu
đều do một kíp phẫu thuật viên thực hiện và sau khi
kết thúc thì nội soi ngực, chúng tôi tiến hành mổ mở
thì bụng và cổ cùng một lúc.
3.2. Tai biến trong mổ
Bảng 2. Tai biến trong mổ
Tai biến Số lượng
Tỷ lệ
%
Giai đoạn
T3
Giai đoạn
T4
Rách động mạch
chủ 2 2,9 1 1
Rách phế quản
gốc phải 1 1,45 1 0
Tổn thương nhu
mô phổi 1 1,45 1 0
Tổng 4 5,8 3 1
Chuyển mổ mở 2 2,9
Có 4 tai biến trong mổ chiếm 5,8% (4/69) gồm: 2
bệnh nhân rách động mạch chủ ngực, 1 bệnh nhân
rách khí quản, 1 trường hợp tổn thương nhu mô phổi.
Bệnh nhân tổn thương động mạch chủ ngực thứ nhất
chúng tôi phải truyền tới 18 đơn vị máu, trường hợp
thứ 2 phải truyền 05 đơn vị máu và cả hai trường
hợp phải mở ngực để khâu lại động mạch chủ ngực.
Bệnh nhân rách khí quản do lỗi gây mê khi đặt ống
nội khí quản làm tổn thương rách khí quản. Bệnh
nhân này sau khi rút ống nội khí quản, đưa về phòng
hồi sức thì phát hiện có khí qua dẫn lưu màng phổi
và lập tức bệnh nhân đã đưa lại phòng mổ để khâu
khí quản. Có 1 bệnh nhân chủ động cắt vát phế quản
gốc phải do tổ chức u xâm lấn và được khâu lại bằng
nội soi. Bệnh nhân này không tính vào tai biến.
Không có bệnh nhân nào tử vong trong mổ và sau
mổ do nguyên nhân phẫu thuật. Nguyễn Minh Hải [2]
nhận xét trên 87 bệnh nhân tỷ lệ tai biến trong mổ là
6,89% (6/87). Kawahara và cộng sự [12] nghiên cứu
trên 23 b/n có 1/23 (4,3%) tổn thương khí quản trong
mổ bệnh nhân được khâu phục hồi bằng nội soi diễn
biến hậu phẫu ổn định. Tất cả các tai biến trong mổ
đều gặp ở giai đoạn T3 và giai đoạn T4. Tai biến
trong mổ của chúng tôi cao có thể là do mẫu nghiên
cứu chúng tôi lựa chọn bệnh ở giai đoạn muộn (giai
đoạn T3 - T4: 82,61%).
3.3. Biến chứng sau mổ
Bảng 3. Biến chứng sau mổ
Biến chứng sớm Số lượng
Tỷ lệ
%
Giai
đoạn T3
Giai
đoạn T4
Chảy máu 0 0 0 0
Tràn khí màng phổi 3 4,35 2 1
Rò miệng nối cổ 5 7,25 4 1
Tổn thương dây thần
kinh quặt ngược 2 2,9 1 1
Hẹp miệng nối 3 4,35 3 0
Tổng số 13 18,85 10 3
Trước đây phẫu thuật cắt thực quản điều trị bệnh lý
ung thư thực quản chủ yếu bằng phương pháp mổ mở
truyền thống gây nên nhiều biến chứng nặng nề. Một số
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tai biến, biến chứng tới 60-
80%, trong đó tử vong 5-10%. Hai thập niên gần đây,
sau công bố của De Paula có 12 bệnh nhân (1994), Mc
Anena (1994), rồi tiếp đến là nghiên cứu rất cơ bản của
Luketich (1998)[14] đến 2003 ông đã thực hiện được
222 trường hợp với kết quả rất khả dĩ làm thay đổi quan
niệm và chiến lược điều trị bệnh lý ung thư thực quản.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ biến chứng là
18,85%: trong đó rò miệng nối cổ gặp nhiều nhất
(7,25%), các trường hợp này gặp ở giai đoạn đầu mới
bắt đầu triển khai kỹ thuật và các trường hợp này điều
trị bảo tồn ổn định. Có 9 trường hợp (13,04%) tràn dịch
màng phổi phải chọc hút sau mổ. Kết quả sau chọc hút
bệnh nhân ổn định, kiểm tra không có mủ màng phổi,
dính màng phổi... các trường hợp tràn dịch màng phổi
này chúng tôi không coi là biến chứng vì trong quá trình
phẫu thuật chúng tôi vét hạch phẫu tích rộng làm cho
vùng mổ tiết dịch nhiều hơn là điều có thể chấp nhận
được. Tất cả các biến chứng trong nghiên cứu đều gặp
ở giai đoạn T3, T4. Theo Lucketich thì tỷ lệ tai biến sau
mổ là 31,6%, Bernard M và cộng sự [7] thì tỷ lệ tai biến
sau mổ là 41,5%
3.4. Thời gian nằm viện sau mổ
Thời gian hậu phẫu trung bình là 13,6 ± 4,9 ngày
(9 - 31 ngày), cao hơn so với các nghiên cứu khác.
Theo Nguyễn Minh Hải [2] thời gian nằm viện trung
bình là 10 ngày, Luketich [14] nằm viện trung bình là
7 ngày, Nguyễn Ninh T [16] báo cáo 46bn có thời
gian nằm viện là 8 ngày. Ngày điều trị sau mổ của
chúng tôi cao vì hầu hết bệnh nhân được mổ mở thì
bụng với mục đích giảm chi phí điều trị. Bên cạnh đó
02 bệnh nhân phải mở ngực làm kéo dài thời gian
điều trị của cả nhóm. Nhận xét chung phương pháp
mổ nội soi có thời gian nằm viện ngắn hơn nhiều so
với các phương pháp mổ mở. Nghiên cứu của Đoàn
Viết Giao [1] thời gian nằm viện trung bình sau mổ là
16,7 ngày.
4. Kết quả xa sau phẫu thuật
4.1. Chất lượng cuộc sống sau mổ
Bảng 4. Chất lượng cuộc sống sau mổ dựa theo
chỉ số Karnofsky
Xếp loại
chung N
Tỷ lệ
(%)
Giai đoạn
T2
Giai đoạn
T3
Giai đoạn
T4
Tốt 17 25,00 12 (70,59%)
5
(29,41%)
Trung bình 27 39,70 0 24 (88,89%)
3
(11,11%)
Xấu 24 35,3 0 13 (54,17%)
11
(45,83%)
Tổng 68 100 12 42 14
Chúng tôi xếp loại chất lượng cuộc sống sau phẫu
thuật cắt thực quản dựa vào chỉ số Karnofsky cho
thấy 25% bệnh nhân có kết quả tốt, 39,7% có kết quả
trung bình, 35,3% kết quả xấu. Trong đó chúng tôi
thấy bệnh nhân có chất lượng cuộc sống sau mổ xấu
Y häc thùc hµnh (902) - sè 1/2014
65
đều ở giai đoạn T3, T4. Tất cả các bệnh nhân ở giai
đoạn T2 đều có chất lượng cuộc sống sau mổ tốt.
4.2.Thời gian sống sau mổ.
01 bệnh nhân tử vong sau mổ không do nguyên
nhân phẫu thuật mà do bệnh lý kèm theo về tim
mạch, 68 bệnh nhân sống sau mổ được theo dõi để
đánh giá kết quả xa, ngắn nhất là 6 tháng, dài nhất là
70 tháng. Đến ngày (30 - 12 - 2012) có 42 bệnh nhân
đã tử vong (42/68 = 61,76%), 26 bệnh nhân còn sống
(26/68 = 38,24%), có 01 bệnh nhân bị mất thông tin
trong quá trình theo dõi do bệnh nhân chuyển địa chỉ
nơi ở, mất địa chỉ liên lạc (tại thời điểm mất liên lạc
được coi như bệnh nhân đã tử vong).
Thời gian sống sau mổ trung bình của 68 bệnh
nhân 29 ± 4 tháng (ngắn nhất là 2 tháng, dài nhất là
70 tháng). Xác suất sống thêm sau mổ: 1 năm, 2
năm, 3 năm và 5 năm tính theo phương pháp Kaplan
– Meier lần lượt là: 64,7%, 52,94%, 30,88% và
11,76%.
Thời gian sống sau mổ ung thư thực quản luôn là
vấn đề được các phẫu thuật viên quan tâm và cân
nhắc lựa chọn chỉ định mổ. Trong vài thập niên trở lại
đây phẫu thuật ung thư thực quản đã có nhiều tiến
bộ. Tỷ lệ tử vong sau mổ khoảng < 5% [9]. Tuy vậy
thời gian sống thêm vẫn chưa cải thiện nhiều. Thời
gian sống 5 năm sau mổ mới chỉ đạt được < 20%
[15]. Năm 1980 nghiên cứu đa trung tâm tập hợp
83783 bệnh nhân cắt ung thư thực quản được công
bố trên tạp chí, Earlam và cộng sự xác nhận thời gian
sống 5 năm sau mổ là 5%. Trong một nghiên cứu
khác 43043 bệnh nhân cắt ung thư thực quản giai
đoạn từ 1980 - 1990 của Muller [15], thời gian sống
sau 5 năm là 15%. Jamieson [11] nghiên cứu 11398
bệnh nhân cắt ung thư thực quản trong giai đoạn
1990 - 1995, có tỷ lệ sống sau 5 năm là 21,4%.
Nghiên cứu của chúng tôi có thời gian sống 5 năm
sau mổ là 11,76%, thấp hơn so với một số nghiên
cứu khác. Nguyên nhân có thể do mẫu nghiên cứu
nhỏ (69bn) và bệnh nhân đến viện chủ yếu ở giai
đoạn muộn (giai đoạn III và IV 82,61%). Theo chúng
tôi, thời gian sống thêm sau mổ phụ thuộc chủ yếu
vào giai đoạn bệnh, có hay không thực hiện được kỹ
thuật mổ triệt căn và các biện pháp điều trị bổ trợ như
xạ trị, hóa chất...
- Một số yếu tố ảnh hưởng đến thời gian sống sau
mổ.
+ Thời gian sống sau mổ theo hạch di căn.
Bảng 5: Thời gian sống theo di căn hạch
Hạch di
căn N TB (th) 1 năm 2 năm 3 năm 5 năm
N0 17 47 ± 7 100%
88,23
%
76,47
% 47,06%
N1 51 24 ± 5
52,94
%
58,33
%
15,68
% 0 %
Di căn hạch là một yếu tố có giá trị tiên lượng
bệnh và thời gian sống thêm sau phẫu thuật. Thời
gian sống 5 năm sau mổ của nhóm không có di căn
hạch là 47,06 %, nhóm có hạch di căn là 0% (P <
0,001). Ảnh hưởng của yếu tố hạch di căn tới thời
gian sống đã được nhiều tác giả công nhận [4], [5].
Phạm Đức Huấn [3] thấy rằng thời gian sống sau 5
năm của nhóm không có di căn hạch là 36,2%, không
có bệnh nhân nào trong nhóm có di căn hạch sống
quá 5 năm. Theo Akiyama nhóm không có hạch di
căn thì thời gian sống 5 năm là 56,2%, khi có hạch di
căn thì thời gian sống 5 năm chỉ còn 22,1% [4]. Theo
Nakamura, thời gian sống 5 năm của nhóm không có
hạch di căn là 64,8% và nhóm có hạch di căn là
17,77% [17].
+ Thời gian sống sau mổ theo giai đoạn bệnh.
Bảng 6: Thời gian sống sau mổ theo giai đoạn
bệnh
Giai đoạn
TNM N TB(th) 1 năm 2 năm 3 năm 5 năm
IIa 5 51 ± 8 100% 100% 80% 60%
IIb 7 47 ± 7 100% 71,43%
57,14
%
42,85
%
III 52 27 ± 5 59,61%
50,00
% 25% 3,84%
IV 5 10 ± 3 20,00% 0% 0% 0%
Theo một nghiên cứu phẫu thuật nội soi cắt thực
quản qua đường ngực trên 309 bệnh nhân của
Bernard M. Smithers [7] thì thời gian sống trung bình
giai đoạn IIA, IIB, III, IV tương ứng là 35 tháng, 29
tháng, 24 tháng và 9 tháng. Năm 2004, I. Braghetto
và cộng sự báo cáo tỷ lệ sống sau 3 năm đối với giai
đoạn I (93,8%), giai đoạn IIB (33,3%), giai đoạn
IIIA(22,2%)và giai đoạn IIIB là 3,1%[8]. Nghiên cứu
của chúng tôi ghi nhận thời gian sống 5 năm sau mổ
giai đoạn IIa là 60%, giai đoạn IIb là 42,85%, giai
đoạn III là 3,84%, giai đoạn IV là 0% (với P < 0,001).
KẾT LUẬN
- Phương pháp mổ nội soi thay thực quản bằng
ống cuốn dạ dày theo Akiyama là một phương pháp
an toàn và hiệu quả: không có tử vong, thời gian
phẫu thuật là 116,8 ± 52,9 phút, tỷ lệ tai biến thấp
5,8%, biến chứng sau mổ 18,85%.
- Chất lượng sống tốt sau mổ theo đánh giá
Karnofsky là 64,7%, có 35,3% chất lượng cuộc sống
xấu. Tất cả các bệnh nhân ở giai đoạn T2 đều có
chất lượng cuộc sống tốt sau mổ.
- Thời gian sống sau 5 năm là 11,76%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đoàn Viết Giao, Trịnh Viết Thông (2010), “Kết quả
điều trị ung thư thực quản tại Bệnh viện Việt Tiệp Hải
Phòng’’. Y học Việt Nam. Tập 368. tr 39 – 41.
2. Nguyễn Minh Hải, Trần Phùng Dũng Tiến, Lâm
Việt Trung, Trần Vũ Đức, Nguyễn Thị Minh Huê (2010),
“Phẫu thuật nội soi ngực bụng điều trị ung thư thực quản
1/3 giữa và dưới’’. Hội ngoại khoa Việt Nam. Số 4-5-6.
tr330 – 336.
3. Phạm Đức Huấn (2003), “Nghiên cứu điều trị phẫu
thuật ung thư thực quản ngực”. Luận án tiến sĩ y học. Hà
Nội.
4. Akiyama H, (1990), “Surgery for cancer of the
esophagus”. Baltimore Marylan: William and Wilskin, pp:
438 – 446.
5. Akaishi T, Kaneda I, Higuchi N, et.al.
“Thoracoscopic en bloc total esophagectomy with radical
mediastinal lymphadenectomy J thorac cardiovasc”;Surg
Y häc thùc hµnh (902) - sè 1/2014
66
1996; 112:1533-41. 34
6. Altorki N, Skiner D (2001): “Shoul en bloc
esophagectomy be the standard of care for esophageal
carcinoma? ” Ann surg, 234, 5, pp 581- 587.
7. Bernard M, Smithers, et.al, “Comparison of
outcome between open and minimally invasive
esophagectomy”. Ann surg 2007; 245: 232-240. 19.
8. Bhutani MS, Bard CJ, Marker RJ, et.al, “Length of
esophageal cancer and degree of luminal stenois during
upper endoscopy predict T stage by endoscpic
ultrasound”. Endoscopy 2002; 34: 461-463.17
9. Collard J.M, Otte J.B, Reyneart M, Michel L,Carlier
M. A, Kenstens P.J (1991). “Esophagel resection and by
– pass: A6 years experience with alow postoperative
mortality” World: J: Surg,15, pp:635 – 642
10. Earlam R, Cunha- Melo J (1980), “Esophageal
squamous cell carcinoma: A Critical review of surgery”.
Br. J Sung, 67, pp:457 – 461. 28
GI¸ TRÞ MIC CARBAPENEM CñA Acinetobacter baumannii
TRONG THùC HµNH L¢M SµNG ë BÖNH VIÖN THèNG NHÊT §åNG NAI
NguyÔn SÜ TuÊn1, 2, NguyÔn Ngäc Thanh2,
Lu TrÇn Linh §a2, NguyÔn Thóy H¬ng1
1 §H B¸ch Khoa Tp. HCM- §H Quèc Gia Tp
2 BÖnh viÖn §a khoa Thèng NhÊt §ång Nai
TÓM TẮT
Acinetobacter baumannii (AB) là 1 tác nhân gây
bệnh đáng quan tâm và ngày càng trở nên nghiêm
trọng. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm xác định
giá trị MIC của carbapenem khi kết hợp điểm gãy
pK/pD và mô hình tương quan giữa MIC Meropenem
và Imipenem ứng dụng trong điều trị cho bệnh nhiễm
trùng do Acinetobacter baumannii tại bệnh viện Đa
khoa Thống Nhất Đồng Nai. Khoảng gần 40% các
trường hợp có MIC < 8 µg/ml, có thể áp dụng 5 phác
đồ điều trị đường tiêm tĩnh mạch (500mg/q8h/3hr/IV;
500mg/q6h/30min/IV; 500mg/q6h/3hr/IV;
1000mg/q8h/3min/IV; 1000mg/q8h/3hr/IV). Các ca
bệnh có MIC = 8 µg/ml, có thể áp dụng phác đồ 1
ngày/3 lần, cách nhau 8 giờ/1g tiêm tĩnh mạch trong 3
tiếng = 1000mg/q8h/3hr/IV. Từ giá trị MICMEM có thể
dự đoán 79% giá trị của MICIMP, theo phương trình:
MICIMP = 3,92 + 0,9MICMEM.
Từ khóa: Acinetobacter baumannii (AB),
carbapenem, MIC, pK/pD.
SUMMARY
Acinetobacter baumannii (AB) is a troublesome
and increasingly problematic healthcare-associated
pathogen. The objective of this study was to
determine the value of carbapenem MIC when
combined with pK/PD break-points and correlation
between Meropenem and Imipenem MIC applied to
treat infectious diseases caused by Acinetobacter
baumannii in Thong Nhat Dong Nai General Hospital.
Nearly 40% of the cases had MIC <8 µg/ml, it can be
applied 5 regimens intravenously (500mg/q8h/3hr/IV;
500mg/q6h/30min/IV; 500mg/q6h/3hr / IV;
1000mg/q8h/3min/IV; 1000mg/q8h/3hr/IV). In the
cases have MIC = 8 µg/ml, it can be applied regimen
1000mg/q8h/3hr/IV. From MICMEM values can
predict 79% of the value of MICIMP, according to the
equation: MICIMP = 3.92 + 0.9 MICMEM.
Keywords: Acinetobacter baumannii (AB),
carbapenem, MIC, pK/pD.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Acinetobacter baumannii là một tác nhân gây
bệnh cơ hội có tỷ lệ gây nhiễm khuẩn bệnh viện gia
tăng trong suốt 15 năm trước. Vi khuẩn này gây ra
các nhiễm trùng lan rộng, bao gồm viêm phổi, nhiễm
trùng huyết, nhiễm trùng vết mổ, nhiễm trùng đường
tiết niệu và viêm màng não mủ sau phẫu thuật thần
kinh, đặc biệt ở các bệnh nhân giảm sức đề kháng
trong các đơn vị Hồi sức Cấp cứu (ICU). Việc sử
dụng kháng sinh tràn lan trong các bệnh viện đã làm
bùng phát các chủng AB đa kháng thuốc với khả
năng kháng phổ rộng các kháng sinh, bao gồm các
β-lactam phổ rộng thế hệ mới, aminoglycoside và
fluoroquinolon. Các carbapenem có khả năng tác
động kháng lại các Acinetobacter spp. và cho tới gần
đây, thường được sử dụng để điều trị các nhiễm
khuẩn gây ra bởi AB đa kháng thuốc. Tuy nhiên,
Acinetobacter spp. có thể trở nên giảm nhạy cảm và
kháng với các carbapenem bằng những cơ chế khác
nhau, bao gồm giảm tính thấm, biểu hiện quá mức
bơm thải kháng sinh và sản xuất enzyme
carbapenemase [5].
Kháng sinh đồ phương pháp khuếch tán cho một
kết quả định tính và chỉ là một kết quả từ thí nghiệm
chứ không phải là một kết quả có mối liên quan trực
tiếp đến kháng sinh sử dụng trên bệnh nhân. Lý do là
kết quả này không thể nói được liều và cách dùng
kháng sinh trên bệnh nhân là thật sự có hiệu quả hay
không. Kháng sinh đồ phương pháp tìm MIC (Minimal
Inhibitory Concentration) cho một kết quả định lượng.
MIC là nồng độ tối thiểu của kháng sinh ngăn chặn
được vi khuẩn.
Với kết quả MIC, bác sĩ lâm sàng có thể tiên đoán
hiệu quả điều trị của kháng sinh mà mình điều trị trên
bệnh nhân theo khuyến cáo bằng cách so sánh nồng
độ hữu dụng của kháng sinh đạt được trong dịch cơ
thể bệnh nhân (được gọi là điểm gãy pK/pD) với MIC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_danh_gia_ket_qua_dieu_tri_ung_thu_thuc_quan_13_giua_d.pdf