Đề tài Đánh giá hiệu quả hệ thống lọc tuần hoàn trong sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) toàn đực

Tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả hệ thống lọc tuần hoàn trong sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) toàn đực: Chương 1: MỞ ĐẦU Đặt vấn đề Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) là loài sống chủ yếu ở nước ngọt, có giá trị kinh tế cao bởi kích thước lớn, thịt thơm ngon và rất có giá trị xuất khẩu. Với diện tích nguồn nước mặt rộng lớn ở nước ta, khả năng nuôi trồng các loài thuỷ sản rất có triển vọng, đặc biệt là nuôi tôm. Việt Nam đã thực sự trở thành nước có khả năng xuất khẩu tôm mạnh trong khu vực và trên thế giới (Nguyễn Việt Thắng, 2003). Trên thế giới, việc sản xuất giống tôm càng xanh đã được thử nghiệm và đưa vào sản xuất bởi nhiều tác giả: Ling (1969), Liao (1980), Adisukressno (1980), Aquacop (1977 – 1980, 1983, 1984), Malecha (1982 – 1983),… (trích bởi Nguyễn Việt Thắng, 1993). Ở nước ta các nghiên cứu về sản xuất giống tôm càng xanh nhân tạo cũng được triển khai sớm. Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II – Trung Tâm Nghiên Cứu Sản Xuất Tôm Vũng Tàu đã cho tôm càng xanh sản xuất nhân tạo vào năm 1982 (Trần Thanh Phục và ctv, 2001). Một nghiên cứu khá đầy đủ của Nguyễn Việt T...

doc60 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả hệ thống lọc tuần hoàn trong sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) toàn đực, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1: MỞ ĐẦU Đặt vấn đề Tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) là loài sống chủ yếu ở nước ngọt, có giá trị kinh tế cao bởi kích thước lớn, thịt thơm ngon và rất có giá trị xuất khẩu. Với diện tích nguồn nước mặt rộng lớn ở nước ta, khả năng nuôi trồng các loài thuỷ sản rất có triển vọng, đặc biệt là nuôi tôm. Việt Nam đã thực sự trở thành nước có khả năng xuất khẩu tôm mạnh trong khu vực và trên thế giới (Nguyễn Việt Thắng, 2003). Trên thế giới, việc sản xuất giống tôm càng xanh đã được thử nghiệm và đưa vào sản xuất bởi nhiều tác giả: Ling (1969), Liao (1980), Adisukressno (1980), Aquacop (1977 – 1980, 1983, 1984), Malecha (1982 – 1983),… (trích bởi Nguyễn Việt Thắng, 1993). Ở nước ta các nghiên cứu về sản xuất giống tôm càng xanh nhân tạo cũng được triển khai sớm. Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II – Trung Tâm Nghiên Cứu Sản Xuất Tôm Vũng Tàu đã cho tôm càng xanh sản xuất nhân tạo vào năm 1982 (Trần Thanh Phục và ctv, 2001). Một nghiên cứu khá đầy đủ của Nguyễn Việt Thắng (1993) đã khảo nghiệm các đặc điểm sinh học, phân bố của tôm càng xanh ở Nam Bộ và một số qui trinh sản xuất giống tôm càng xanh đạt kết quả khả quan. Hiện nay, ở nước ta có 2 qui trình sản xuất giống được đưa vào sản xuất rộng rãi, qui trình nước trong - hở, qui trình nước xanh - hở. Trong khi đó qui trình nước trong tuần hoàn tỏ ra khá hiệu quả trong khống chế các yếu tố môi trường đặc biệt là ammonia và nitrite. Tuy nhiên sự hoạt động của hệ thống chưa ổn định, càng về cuối chu kỳ ương hệ lọc chưa giải quyết triệt để NH3-N và NO2-N (Nguyễn Việt Thắng, 1993) và hệ lọc hoạt động dưới mức yêu cầu trong khi đã theo các qui trình quản lý tốt (van Rijn và ctv, 2005). Với lý do kể trên, được sự chấp thuận của Bộ Môn Công Nghệ Sinh Học - Trường Đại Học Nông Lâm và Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản II, chúng tôi thực hiện đề tài: “Đánh giá hiệu quả hệ thống lọc tuần hoàn trong sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenergii) toàn đực”. Mục tiêu đề tài Đánh giá hiệu quả của hệ lọc tuần hoàn trong qui trình sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) toàn đực nhằm đề xuất các giải pháp kỹ thuật để ổn định và nâng cao tỷ lệ sống của ấu trùng tôm càng xanh. Nội dung nghiên cứu Khảo sát sự biến động của các yếu tố môi trường nước nuôi ấu trùng như: nhiệt độ, pH, ammonia (NH3-N), nitrite (NO2-N) và Vibrio tổng số. Kiểm tra các giai đoạn biến thái của ấu trùng để đánh giá sự phát triển của ấu trùng dưới sự quản lý chất lượng nước của hệ lọc sinh học tuần hoàn. Đánh giá yếu tố môi trường và tỷ lệ sống của hậu ấu trùng ở các mật độ ương khác nhau. Qua đó đánh giá hiệu quả của hệ lọc sinh học thông qua việc xử lý và ổn định của các yếu tố môi trường trong ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh. Đưa ra một số kiến nghị cải tiến đối với hệ thống ương tuần hoàn nằm ổn định và nâng cao tỷ lệ sống của hậu ấu trùng. Chương 2: TỔNG QUAN VỀ TÔM CÀNG XANH Phân bố Trên thế giới Các loài tôm càng xanh thuộc giống Macrobrachium, phân bố khắp các vùng nhiệt đới và Á nhiệt đới trên thế giới. Nhưng vùng chủ yếu là Nam và Đông Nam châu Á, một phần của Đại Tây Dương và một vài bán đảo ở Thái Bình Dương. Hiện nay được biết có trên 100 loài, hơn ¼ trong số này có ở châu Mỹ (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002). Chúng hầu như có mặt ở tất cả các vùng nước ngọt nội địa, hồ, đầm lầy, kênh dẫn nước, mương, ao và ở các lưu vực sông (Nguyễn Việt Thắng, 1993; Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002). Hầu hết các giống này đều cần có nước lợ cho các giai đoạn phát triển đầu tiên của chu kỳ sống (và do đó đã gặp chúng ở các vùng nước có liên hệ giữa nước ngọt và nước mặn). Một số mước trong tự nhiên không có tôm càng xanh như: Mỹ, Trung Quốc, Đài Loan, Israel,… nay cũng đã nuôi được tôm càng xanh trong điều kiện nhân tạo (Phạm Văn Tình, 2004a). Ở Việt Nam Ở nước ta, tôm càng xanh phân bố từ Nha Trang trở vào (Phạm Văn Tình, 2004b) nhưng phát triển thuận lợi nhất ở các tỉnh Nam Bộ (Nguyễn Việt Thắng, 1993), đặc biệt là Đồng Bằng Sông Cửu Long (Trần Thanh Phục và ctv, 2001). Là nước có sản lượng tôm càng xanh tự nhiên nhiều hơn cả. Ví dụ, trong năm 1980, Việt Nam khai thác ngoài tự nhiên khoảng 6000 tấn/năm, Campuchia 100 – 200 tấn/năm, Malaysia 120 tấn/năm, Thái Lan 400 – 500 tấn/năm (FAO 1979 được trích bởi Phạm Văn Tình 2004b). Phân loại Vị trí phân loại của tôm càng xanh theo Hothius (1950) trích bởi Nguyễn Việt Thắng (1993) như sau: Nghành tiết túc: Athropoda Lớp giáp xác: Crustacea Lớp phụ giáp xác bậc cao: Malacostraca Bộ mười chân: Decapoda Bộ phụ chân bơi: Nantatia Phân bộ: Caridea Họ: Palamonidae Họ phụ: Palamoninae Giống: Macrobrachium Loài: Macrobrachium rosenbergii de Man 1879. Hình thái tôm càng xanh Các đặc điểm của tôm càng xanh được New và Shingolka (1985) miêu tả khá chi tiết. Theo New và Shingolka (1985) thì tôm càng xanh là loài có kích cỡ lớn nhất trong các loài thuộc giống Macrobrachium. Tôm càng xanh con đã lớn và cỡ trưởng thành, thường có màu xanh dễ nhận (chúng không có màu đỏ trừ khi bị nấu chín). Trong số năm đôi chân bò, đôi chân thứ hai rất to, so với các chân khác và tận cùng là một kẹp lớn. Cả hai chân này đều dài bằng nhau (không như một số loài khác thuộc giống Macrobrachium). Tôm càng xanh đực thành thục, to hơn con cái một cách rõ rệt và đôi chân bò thứ hai cũng lớn và dày hơn. Tỷ lệ phần ngực (đầu) của tôm đực thì lớn hơn và phần bụng thì nhỏ hơn tôm cái. Các lỗ sinh dục nằm giữa gốc của đôi chân bò thứ năm. Đầu của tôm cái thành thục và đôi chân bò thứ hai của nó thì nhỏ hơn rất nhiều so với tôm đực. Lỗ sinh dục của con cái, nằm ở gốc của đôi chân bò thứ ba, các tấm vỏ bụng thì dài hơn và phần bụng cũng rộng hơn. Các tấm vỏ bụng tạo thành một buồng rộng và trứng được chứa ở đó trong khoảng thời gian từ lúc đẻ cho đến lúc trứng nở. Tôm cái thành thục hay mang trứng có thể nhận biết dễ dàng do buồng trứng là một khối to màu da cam chiếm một khoảng lớn ở mặt lưng và phía hai bên của phần đầu ngực. Tập tính sinh sản và vòng đời của tôm càng xanh Vòng đời của tôm càng xanh có 4 giai đoạn bao gồm trứng, ấu trùng, hậu ấu trùng và tôm trưởng thành (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002) và được mô tả như hình 2.2 Hình 2.2. Vòng đời của tôm Caridea. Hình vẽ của Foster và Wickins (1972). Nguồn lấy tại website: Tôm càng xanh sống chủ yếu ở nước ngọt nhưng ấu trùng lại phát triển trong nước lợ (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2003). Khi thành thục, tôm bắt cặp, đẻ trứng và trứng dính vào các chân bụng của tôm mẹ. Tôm mang trứng di chuyển sang vùng cửa sông nước lợ (7 – 18‰). Ấu trùng nở ra sống phù du và trãi qua 11 lần biến thái để trở thành hậu ấu trùng. Thời gian để hoàn tất giai đoạn ấu trùng có thể dài hay ngắn tuỳ theo điều kiện dinh dưỡng và môi trường, khoảng thời gian nhanh nhất là 16 ngày và chậm nhất là 40 ngày (Phạm Văn Tình, 2004b). Tôm có xu hướng tiến vào vùng nước ngọt như sông, rạch, ruộng, ao, hồ,…ở đó chúng sinh sống và lớn lên. Tôm có thể di cư rất xa, trong phạm vi hơn 200 km từ bờ biển vào vùng nội địa. Khi trưởng thành chúng lại di cư ra vùng có độ mặn thích hợp để sinh sản và vòng đời lại tiếp tục (Phạm Văn Tình, 2004b). Tôm càng xanh có đặc điểm mắn đẻ, gặp điều kiện thuận lợi, thức ăn đầy đủ, tôm có thể cho đẻ 4 – 6 lần trong năm. Khi tôm đang mang trứng, buồng trứng vẫn phát triển, phóng thích ấu trùng xong, sau 2 – 5 ngày lột xác, giao vỹ và đẻ tiếp. (Phạm Văn Tình, 2004b). Trứng thường nở vào ban đêm, sau 1 – 2 đêm mới nở xong (New và Shingolka, 1985), ấu trùng phải sống trong điều kiện nước lợ ở độ mặn từ 7 – 18‰, nếu được nở ở nước ngọt thì ấu trùng phải di chuyển sang môi trường nước lợ để sống và phát triển. Nếu không ấu trùng sẽ chết sau vài ngày (New và Shingolka, 1985; Phạm Văn Tình, 2004b). Tập tính bắt mồi và tăng trưởng Tôm càng xanh là loài ăn tạp thiên về động vật. Mức độ lựa chọn thức ăn không cao. Thành phần thức ăn hầu như không thay đổi theo giới tính. Tôm càng xanh có hàm răng nghiền khoẻ, ruột có cấu tạo ngắn nên khả năng tiêu hoá nhanh. Chúng ăn hầu hết các loài động vật nhỏ, các mảnh vụn hữu cơ. Chúng thường thích bắt mồi vào ban đêm hơn ban ngày (Phạm Văn Tình, 2004a). Tôm tìm thức ăn bằng cơ quan xúc giác, dùng râu quét ngang dọc phía trước đường đi của nó, đôi chân ngực thứ nhất như một cái kẹp để giữ và đưa thức ăn vào miệng (Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002). Trong quá trình lớn lên, tôm trãi qua nhiều lần lột xác. Chu kỳ lột xác của tôm phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kích cỡ của tôm, nhiệt độ, thức ăn, giới tính và điều kiện sinh lý của chúng (Nguyễn Thanh Phương, 2003). Sinh học ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh Biến thái của ấu trùng tôm càng xanh Sau đây là một khoá đơn giản để phân biệt các giai đoạn phát triển của ấu trùng tôm càng xanh theo miêu tả của Uno và Soo, 1969 (trích bởi New và Shingolka, 1985). Giai đoạn I: mắt chưa có cuống Giai đoạn II: mắt có cuống Giai đoạn III: chân đuôi xuất hiện Giai đoạn IV: chuỷ có 2 răng ở cạnh trên Giai đoạn V: đốt đuôi hẹp lại và kéo dài Giai đoạn VI: mầm chân bụng xuất hiện Giai đoạn VII: chân bụng có 2 nhánh và chưa có lông tơ Giai đoạn VIII: chân bụng có lông tơ Giai đoạn IX: nhánh trong của chân bụng có nhánh phụ trong Giai đoạn X: chuỷ có 3 hay 4 răng ở đầu cạnh trên Giai đoạn XI: chuỷ có răng ở nửa cạnh trên Giai đoạn XII: chuỷ có răng ở nửa cạnh dưới Giai đoạn I Giai đoạn II Giai đoạn III Giai đoạn IV Giai đoạn V Giai đoạn VI Giai đoạn VII Giai đoạn VIII Giai đoạn IX Giai đoạn X Giai đoạn XI Giai đoạn XII (PL) Hình 2.3. Khoá phân biệt các giai đoạn ấu trùng tôm càng xanh theo hình chụp của Fujimura. Nguồn lấy tại website Môi trường sống của ấu trùng Độ mặn Có nhiều ý kiến khác nhau về ngưỡng nồng độ muối ương ấu trùng tôm càng xanh, nhưng thường dao động từ 10 – 15‰ (New và Valenti, 2000). Nguyễn Việt Thắng (1993); Nguyễn Thị Thu Thuỷ (2002) đã chọn độ mặn là 12‰ trong suốt quá trình ương nuôi của mình. Nguyễn Thị Thu Thuỷ (2002) còn nhận thấy rằng một số ấu trùng ngẫu nhiên còn sống sót trong bể nuôi tôm bố mẹ có độ mặn thấp (4 – 6‰) vẫn biến thái thành hậu ấu trùng. Điều này cho thấy ấu trùng tôm càng xanh có khả năng chịu nồng độ mặn dao động lớn. New và Shingolka (1985) đề xuất nên giữ nồng độ mặn trong bể ương ấu trùng là 12‰ trong suốt từ giai đoạn I đến khi chuyển thành hậu ấu trùng hoàn toàn. Tác giả cũng cho rằng ấu trùng tôm càng xanh có khả năng chịu mặn tốt, trong điều kiện nuôi giống thì độ mặn có thể chênh lệch 12±2‰ không ảnh hưởng đến sự phát triển của ấu trùng. Độ pH Độ pH nước trong bể chịu ảnh hưởng bởi một số quá trình xảy ra trong nước bao gồm các hợp chất chứa nitơ, sự hoạt động hô hấp của ấu trùng, Artemia và các vi sinh vật hiếu khí khác (New và Valenti, 2000). Theo New và Valenti (2000) thì mức pH tối ưu cho phát triển của ấu trùng tôm càng xanh nằm trong khoảng (7,0 – 8,5). Mặt khác, để có nước ương ấu trùng thì người ta phải dùng nước biển được vận chuyển đến trại giống và pha với nguồn nước hiện có ở địa điểm sản xuất. Theo New và Shingolka (1985) nguồn nước biển thường có pH dao động từ 7,8 – 8,3 và pH của nước giếng ở các vùng ven biển thường dao động từ 7,1 – 7,5. Do vậy hai loại nước này nếu được pha vào nhau sẽ cho pH thích hợp. Nhiệt độ Nhiệt độ nước là một thông số rất quan trọng ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và sự phát triển của ấu trùng tôm càng xanh, vì vậy nó quyết định chiều dài giai đoạn phát triển ấu trùng (New và Valenti, 2000). Theo Nguyễn Việt Thắng (1993), ngưỡng nhiệt độ dưới của ấu trùng tôm càng xanh là 210C. Khi nhiệt độ tăng dần lên thì thời gian phát triển của ấu trùng càng rút ngắn. Theo nhiều tác giả; New (1982), Fujimura (1966, 1977), Adisurkressno (1977, 1980) xác định ngưỡng nhiệt độ trên là 33 – 340C. Các tác giả này đều thống nhất cho rằng nhiệt độ tối ưu cho ấu trùng tôm càng xanh là từ 26 – 310C. Dưới 24 – 260C thì ấu trùng phát triển không tốt (Nguyễn Việt Thắng, 1993). Trong khi đó Aquacop (1984) thì cho rằng nhiệt độ trên 300C thì ấu trùng có tỷ lệ sống thấp (Trần Thanh Phục và ctv, 2001). Oxy hoà tan Theo nhiều tác giả Ling (1969), Fujimura (1974), New (1982), Aquacop (1977, 1984) đều thống nhất lượng oxy hoà tan trong bể là 6 – 9 mg/l (trích bởi Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002). Trong điều kiện sản xuất giống và nếu đảm bảo sục khí đầy đủ thì không cần phải kiểm tra hàm lượng oxy hoà tan trong bể (New và Shingolka, 1985). Ánh sáng Ánh sáng mặt trời trực tiếp dường như có hại cho ấu trùng, đặc biệt là trong hệ thống nước trong (New và Shingolka, 1985), nhưng cũng không thể thiếu ánh sáng cho ấu trùng phát triển. Theo như tác giả đề xuất nên che 90% bề mặt bể để giảm tác hại của ánh sáng trực tiếp. Ấu trùng tôm càng xanh cũng như ấu trùng của các loài giáp xác khác đều có tính hướng sáng tốt, nếu trong bể cường độ ánh sáng lớn sẽ vô tình tạo điều kiện cho ấu trùng tập trung, bám nhau, cạnh tranh về thức ăn trong một không gian hẹp (Nguyễn Thị Thu Thuỷ, 2002). Điều này không tốt bởi vì tập tính của tôm càng xanh là ăn tạp và ăn thịt lẫn nhau (New và Valenti, 2000), con vừa lột xác còn yếu sẽ dễ làm mồi cho những con khác trong đàn. Tác động của ánh sáng đến ấu trùng còn liên quan đến màu sắc của bể ương bởi vì màu sắc bể phản chiếu ánh sáng truyền vào. Theo Phạm Văn Tình (2004a) nếu sơn bể màu trắng, ánh sáng chiếu vào bể sẽ bị phản chiếu trở lại làm cho ấu trùng bị lầm dẫn đế rối loạn sinh lý. Một nghiên cứu mới đây của Tidwell và ctv (2005) cho thấy dùng bể màu đỏ và màu xanh lá cây thì tỷ lệ sống của ấu trùng là 84% và 78% so với bể sơn màu trắng và màu xanh dương là 56% và 44%, bể sơn màu vàng và màu đen đều bằng 71%. Các báo cáo về nuôi ấu trùng tôm càng xanh thành công thì cường độ ánh sáng trong khoảng 250 – 6500 lux (New và Valenti, 2000). Hợp chất có chứa nitơ Các hợp chất nitơ hoà tan trong nước như: ammonia (NH3-N), nitrite (NO2-N), nitrate (NO3-N) là các thông số đánh giá chất lượng nước rất quan trọng trong hệ thống tuần hoàn. Điều khiển các hợp chất này cho biết điều kiện của lọc sinh học và hiệu quả của hệ thống (New và Valenti, 2000). Chất lượng nước trong bể ương rất dễ bị biến đổi chính do sản phẩm bài tiết của ấu trùng, Artermia và do sự phân huỹ của thức ăn thừa. Một vài biến đổi có thể rất có hại cho ấu trùng. Nguy hiểm nhất là sự tăng ammonia chưa ion hoá (NH3), chất này làm tăng pH và nitrite (New và Shingolka, 1985). Aquacop (1977, 1983), Griessinger (1986), Liao và Mayo (1972) đã xác định ngưỡng sinh lý của một số hợp chất nitơ đối với ấu trùng tôm càng xanh trong môi trường ương: NH4+ là 0,005 – 1,000 mg/l; NO2- là 0,002 – 0,350 mg/l; NO3- là 0,5 – 3,5 mg/l (Trích bởi Nguyễn Thị Thu Thuỷ, 2002). New và Shingolka (1985) cho rằng không nên lấy nước có hàm lượng nitrite (NO2-N) và nitrate (NO3-N) cao hơn 0,1 ppm và 20 ppm. Trong hệ thống ương tuần hoàn kín, hệ lọc sinh học có tác dụng làm giảm nồng độ các hợp chất độc này (van Rijn và ctv, 2005). Thông qua các vật liệu lọc sinh học nhằm gia tăng lượng vi sinh vật tham gia thực hiện quá trình khoáng hoá và nitrate hóa để chuyển đổi các dạng độc chất ammonia và nitrite thành dạng nitrate vô hại (Nguyễn Việt Thắng, 1996). Bảng 2.1. Một số chỉ tiêu môi trường đòi hỏi với nguồn nước sử dụng trong nuôi ấu trùng tôm càng xanh Chỉ tiêu (ppm) Nước ngọt Nước biển Nước lợ Rắn tổng số (như CaCO3) <120 ~ 2325 – 2715 Ca 12 – 24 390 – 450 175 – 195 Na 28 – 100 5950 – 10500 3500 – 4000 K 2 – 24 400 – 525 157 – 220 Mg 10 – 27 1250 – 1345 460 – 540 SiO2 41 – 53 3 – 14 5 – 30 Fe <0,2 0,05 – 0,15 <0,03 Zn 0,2 – 0,4 0,03 – 4,6 <3 Cr <0,01 <0,005 <0,01 Pb <0,02 <0,03 <0,03 Cl 40 – 225 19000 – 19600 6600 – 7900 SO4 3 – 8 ~ ~ PO4 <0,2 ~ ~ Chất rắn hòa tan tổng số 217 ~ ~ Oxy hòa tan >4 >5 >5 NH3-N ~ ~ <0.1 NO2-N ~ ~ <0.1 NO3-N ~ ~ <20 pH 6,5 – 8,5 7,0 – 8,5 7,0 – 8,5 Nhiệt độ ~ ~ 28 – 310C Ghi chú: “~”: không biết hay không cần thiết. Nguồn: New (2002) Vấn đề chăm sóc, quản lý Hầu hết các vấn đề phát sinh trong nhà giống đều do nguyên nhân quản lý kém (New và Shigolka, 2000). Cho ăn Một khía cạnh không kém phần quan trọng trong sản xuất giống tôm càng xanh đó là kỹ thuật cho ăn (New và Valenti, 2000) bởi vì thức ăn đóng vai trò quan trọng quyết định đến tỷ lệ sống, biến thái cũng như môi trường nước ương (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2003). Có 2 loại thức ăn được dùng, đó là nauplius Artemia và thức ăn chế biến (New và Shingolka, 1985). Thức ăn chế biến có nhiều công thức phối chế rất khác nhau, nhưng chủ yếu gồm các loại nguyên liệu sau: thịt tôm, thị mực, trứng cá, dầu cá, các vitamine và khoáng chất (New và Shingolka, 1985). Việc cho ăn nên đảm bảo đầy đủ để tránh ấu trùng đói, chúng sẽ ăn thịt lẫn nhau. Tuy nhiên nếu thừa nhiều thức ăn (nhất là thức ăn chế biến) sẽ làm nước bể ương bị dơ, làm cơ sở cho mầm bệnh tấn công (New và Shingolka, 1985). Vệ sinh Đảm bảo bệ sinh tốt sẽ góp phần ngăn ngừa dịch bệnh (New và Valenti, 2000). Nước thay được xử lý kém hay vệ sinh kém là nguyên nhân xuất hiện nấm (Zoothanium), ký sinh (Epistylis), hydroid (thuỷ tức) có ảnh hưởng bất lợi tới ấu trùng. (New và Valenti, 2000). Theo như đề xuất của New và Shingolka (1985) thì mỗi bể nên có dụng cụ vệ sinh riêng. Các bể nên được vệ sinh, khử trùng giữa hai chu kỳ ương theo quy trình. Cọ rữa bể, xử lý bằng 1,5 ppm chrorine. Phun 250 ppm formaline, phơi dưới ánh nắng mặt trời rồi rữa lại. Nếu không thực hiện tốt việc vệ sinh sẽ làm phát triển rộ các vi sinh vật trên. Tạo đàn tôm toàn đực bằng kỹ thuật vi phẩu Ưu thế của việc sản xuất đàn toàn đực Một trở ngại lớn trong nuôi tôm càng xanh thương phẩm là sự phân đàn khi nuôi chung tôm đực và tôm cái. Tôm đực thường lớn nhanh hơn tôm cái trong một quần đàn (Ra’anna và Sagi, 1986). Trở ngại này làm ảnh hưởng đáng kể đến kích cỡ và sản lượng tôm thương phẩm (Smith và ctv, 1978; Brody và ctv, 1980; Cohen và ctv, 1981; Sagi và ctv, 1986; Nguyễn Vệt Thắng, 1993) trích dẫn bởi Nguyễn Văn Hảo và ctv, 2004. Với sự cố gắng bước đầu trong sản xuất đàn tôm càng xanh toàn đực của Sagi, Ra’anan, Cohen và Wax (1986) trên quy mô nuôi nhỏ đã cho thấy khả năng sản xuất cao của đàn toàn đực sau 150 ngày nuôi. Năng suất đạt 473 g/m2 của đàn toàn đực so với 248 – 260 g/m2 của đàn tôm bình thường có hỗn hợp đực cái. Việc sản xuất đàn toàn đực cho năng suất cao và đạt kích cỡ thương mại nhanh hơn (Sagi và Aflalo, 2005). Sau đó Cohen, Sagi, Ra’anan và Zohar (1988) thực hiện việc thử nghiệm nuôi đàn toàn đực tập trung trong ao đất (Sagi và Aflalo, 2005) và cho thấy đàn toàn đực cho năng suất thương mại cao, gia tăng trọng lượng trung bình, lợi nhuận thu được cũng tăng 18% ở Israel. Vai trò của tuyến đực trong xác định giới tính ở tôm càng xanh Không giống như các loài động vật có xương sống, ở giáp xác đực chức năng nội tiết và sinh giao tử phân biệt thành 2 cơ quan rõ rệt: tuyến đực (androgenic gland) và sinh tinh trùng (testis) (Ginburger-Vogel & Charniaux – Cotton 1982; Charniaux – Cotton & Payen 1988) trích bởi Sagi và Aflalo (2005). Năm 1990, qua quá trình nghiên cứu, Sagi và ctv đã phát hiện ra tuyến đực có vai trò quan trọng đối với sự hình thành giới tính và các đặc điểm sinh dục phụ thứ cấp cũng như ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng ở giáp xác. Năm 2000, Phạm Anh Tuấn và ctv làm thí nghiệm cắt tuyến sinh dục của tôm càng xanh giống cỡ 3 – 5 cm đã làm thay đổi cấu trúc sinh dục của tôm càng xanh. Theo tác giả thì cồn 960 có thể tác dụng phá hũy cấu trúc của tuyến đực và làm thay đổi một số đặc điểm sinh dục phụ trên tôm càng xanh đực. Theo nhiều tác giả (Nagamine, Knight, Maggesnti và Pax, 1980) tôm càng xanh đực đã được biệt hoá ở giai đoạn phát triển còn non. Điều này chứng tỏ tôm càng xanh đực có mức thuộc cái cao, bao gồm sự phát triển của vòi trứng và ống dẫn trứng (Sagi và Aflalo, 2005) khi chưa được biệt hoá đực. Ở tôm càng xanh, theo Veith và Malecha (1983) tuyến đực gồm một sợi các tế bào bao quanh bởi một lớp mô liên kết hình thành nên một cụm liên kết lỏng lẽo nằm phía sau của ống dẫn tinh (Sagi và Aflalo, 2005). Theo tác giả có thể thao tác loại tuyến đực mà không làm hư hại tuyến sinh dục này để ảnh hưởng đến sự biệt hoá giới tính sớm của tôm càng xanh. Năm 1990, Sagi và ctv đã ghi nhận tôm càng xanh giống loại bỏ tuyến đực đã chuyển đổi giới tính hoàn toàn thành con cái và phát triển thành tôm cái thật sự có khả năng giao vỹ và sinh ra thế hệ con 100% đực. Cơ sở tạo đàn tôm toàn đực Nghiên cứu bộ gen trên tôm càng xanh của Malecha và ctv (1992) đã xác định được cặp nhiễm sắc thể giới tính của tôm càng xanh đực là đồng giao tử ZZ và của con cái là dị giao tử WZ (Sagi và Aflalo, 2005). Việc loại tuyến đực sẽ làm cho con đực có xu hướng cái hoá và có khả năng mang trứng. Khi đó tôm cái giả (kiểu gen ZZ) giao phối với tôm đực bình thường (kiểu gen ZZ) sẽ cho đàn toàn đực (kiểu gen ZZ). Ở Việt Nam, năm 2004, Nguyễn Văn Hảo và ctv đã nghiên cứu bước đầu sản xuất đàn toàn đực bằng kỹ thụât vi phẩu, tôm đực PL 30 – 60 ngày tuổi được chọn làm thí nghiệm, dùng kỹ thuật vi phẩu như mô tả của Sagi và Cohen (1990) để loại tuyến đực đạt được một số kết quả bước đầu. Trong 43 quần đàn phát hiện 7 quần đàn 100% toàn đực, 7 tôm cái giả có thể cho sản xuất toàn đực. Theo tác giả, sau vi phẩu tôm được thả nuôi và kiểm tra đàn con F1. Nếu F1 100% toàn đực thì ta kết luận vi phẩu thành công và con cái tạo ra được gọi là cái giả. Các qui trình nuôi tôm càng xanh trong sản xuất giống Hiện nay, các qui trình được sử dụng trong sản xuất giống tôm càng xanh (theo Nguyễn Việt Thắng, 1993) như: Qui trình nước xanh hệ hở (do Fujimura nghiên cứu vào năm 1974) Qui trình nước trong hệ hở (do Ling (1969) và Aquacop (1983)) Qui trình nước trong hệ kín (được nghiên cứu từ năm 1977 đến năm 1986) Qui trình nước trong hệ kín Giới thiệu Được nghiên cứu từ năm 1977 đến năm 1986 qui trình căn bản được hoàn thiện và đưa vào sử dụng. Theo Nguyễn Việt Thắng (1993) đây là hệ thống ở đó nước nuôi được tái xử lý bằng các biện pháp xử lý nước (lọc cơ học, lọc sinh học, hấp thụ vật lý, tẩy uế, sục khí…) để tái sử dụng nguồn nước này. Trong tuần hoàn kín, hệ thống lọc sinh học là một hệ thống quan trọng nhất. Lọc sinh học được sử dụng chủ yếu để loại bỏ chất thải nitơ, chủ yếu từ ammonia do ấu trùng và thức ăn tươi (Artemia…) trong quá trình bài tiết và từ sự phân hủy vật liệu hữu cơ. Sản phẩm độc Khoáng hoá Nitrate hoá Sản phẩm vô hại Vi sinh vật Nước nuôi Hình 2.4. Sơ đồ tác động của vi sinh vật trong hệ thống tuần hoàn. Nguồn: Nguyễn Việt Thắng (1996) Gây nuôi vi khuẩn Nitrosomonas Nitribacter Nước lợ 12‰ đã qua xử lý HỆ THỐNG BỂ ƯƠNG Post larvae Ngọt hóa 0‰ Ấu trùng Thức ăn Chăm sóc Phòng và kiểm soát bệnh THEO NHẬT KÝ SẢN XUẤT GIỐNG LỌC SINH HỌC CÂN BẰNG VỚI HỆ THỐNG ƯƠNG Hình 2.5. Sơ đồ qui trình nước tuần hoàn kín. Nguồn: Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2002) Về cơ bản việc ứng dụng qui trình nuôi tôm theo mô hình tuần hoàn kín mang lại một số ưu điểm là: tiết kiệm lượng nước nuôi, giảm thiểu tác hại của môi trường, tiết kiệm công sức lao động. Nhưng đây là qui trình khó, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao, trang thiết bị tốn kém và vốn đầu tư lớn (Nguyễn Việt Thắng, 1993; Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002). Và một trong các điểm yếu của qui trình này là nếu có sự cố xảy ra như bệnh trên một bể trong hệ thống thì nó sẽ lan truyền cho cả hệ thống nuôi. Một hạt hữu cơ rơi vào hệ lọc cũng có thể là nguyên nhân gây bệnh cho hệ thống (New và Shingolka, 1985). Các quá trình sinh hóa xảy ra trong lọc sinh học Quá trình khoáng hoá Là giai đoạn đầu tiên của quá trình lọc sinh hoc, các chất thải chứa nitơ được các vi khuẩn dị dưỡng hấp thụ và chuyển thành ammonia đơn giản. Sự khoáng hoá bằt đầu bằng việc phân giải các hợp chất protein và acid nucleic để tạo nên các acid amine và bazơ hữu cơ có chứa nitơ. Tiếp đó quá trình khoáng hoá sẽ khử amine bởi các vi khuẩn, trong đó một nhóm amino sẽ tách ra để hình thành ammonia. Quá trình nitrate hoá Sau đó, nhờ quá trình nitrate hóa, ammonia được chuyển thành dạng nitrate vô hại đối với ấu trùng của tôm (Spotte 1979). Kaiser, Wheatgon (1983) và Brock (1994) đã mô tả quá trình nitrate hóa ammonia bắt nguồn từ hoạt động của chuỗi vi khuẩn nitrate hóa. Nhóm đầu tiên oxi hóa ammonia thành NO2-, đại diện là giống Nitrosomonas và Nitrosococus. Nhóm thứ 2 oxi hóa NO2- thành NO3-, thuộc giống Nitrobacter, Nitrospira, Nitrococcus (Brock và ctv, 1994). Quá trình nitrate hóa liên quan đến cả sự oxi hóa và tổng hợp, kết quả dẫn đến việc tiêu thụ O2 và loại bỏ tính kiềm. Nhóm vi khuẩn Nitrosomonas và Nitrobacter là các nhóm chính của những vi khuẩn tự dưỡng thực hiện sự nitrate hóa ở cả môi trường nước ngọt, nước lợ, nước mặn. Phương trình của sự nitrate hóa như sau : NH4+ + OH- + O2 = H+ + NO2- + H20 (1) NO2- + O2 = NO3- (2) Quá trình khử nitrate Ngoài ra trong hệ lọc sinh học còn có quá trình khử nitrate. Đây là một quá trình kỵ khí xảy ra ở phần bể lọc thiếu oxy bởi vi khuẩn kỵ khí thật sự hoặc là các loài hiếu khí chuyển sang hô hấp kỵ khí khi điều kiện thiếu oxy. Kết quả sự khử nitrate là đã chuyển nitơ về dạng oxy hóa thấp hơn (N2O, N2…). Ở trạng thái oxy hóa hoàn toàn (N2), một số nitơ có thể tách khỏi dung dịch đi vào không khí, vì thế quá trình khử nitrate làm giảm lượng nitơ của dung dịch. Trong 3 quá trình sinh hóa quan trọng của sự lọc sinh học thì 2 quá trình khoáng hóa và nitrate hóa có ý nghĩa quan trọng cho việc ‘tái sinh nước’, giữ được chất lượng nước ổn định. Quá trình khử nitrate xảy ra ở những phần của bể lọc bị thiếu oxy và sản phẩm của quá trình này thường làm nhiễm bẩn môi trường. Vì vậy, hàm lượng oxy trong bể lọc rất có ý nghĩa. Nguồn : Nguyễn Việt Thắng (1996). Vi sinh vật trong lọc sinh học Hai nhóm vi khuẩn chủ yếu cần thiết trong hệ lọc sinh học thuộc hai nhóm sinh vật dị dưỡng và tự dưỡng đặc biệt là nhóm vi khuẩn tự dưỡng Nitrosomonas và Nitrobacter là 2 nhóm quan trọng thực hiện quá trình nitrate hoá. Các vi khuẩn Pseudomonas… có ý nghĩa cho việc khử nitrate. Ngoài ra nười ta cũng nhận thấy sự có mặt của Protozoa, Amoeba, Rotifer, và một số lượng lớn Mematodes… Các vi sinh vật trong hệ lọc sống lơ lửng hoặc tạo thành một màng nhầy như một quần thể sinh vật. Màng nhầy này có vai trò chuyển NH4+ và NO2- thành NO3- theo sơ đồ ở hình 2.6.  NO2 Màng nhầy NO3- O2 NO2 H+ HCO3- Alkalinity H2O O2 H2O CO2 H2O Hình 2.6. Quá trình nitrate hoá ở màng nhầy sinh học Kết quả của quá trình nitrate hoá sẽ acid hoá môi trường vì sự hình thành H+ (xem phương trình 1 và sơ đồ màng nhầy), vì vậy để ổn định pH môi trường, thường phải cung cấp vật liệu cho bể lọc các đá san hô, đá vôi tạo ra được Alkalinity (HCO3-) để trung hoà H+: H+ + HCO3- « CO2 ­ + H2O Người ta gọi đó là hệ thống đệm bicacbonate, nhờ đó mà môi trường nước nuôi giữ được độ kiềm ổn định. Nguồn: Nguyễn Việt Thắng (1996) Chương 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP Địa điểm nghiên cứu Thí nghiệm được thực hiện tại “Trại Thực Nghiêm Nuôi Thuỷ Sản Thủ Đức”- Phòng Sinh Học Thực Nghiệm (658 Kha Vạn Cân, Thủ Đức). Và “Trung Tâm Quan Trắc Môi Trường và Dịch Bệnh Thuỷ Sản” trực thuộc Viện Nghiên Cứu và Nuôi Trồng Thuỷ Sản II (116 Nguyễn Đình Chiểu, Quận 1) Thời gian nghiên cứu Đề tài được thực hiện từ 7/3/2005 – 7/8/2005. Vật liệu Nguồn nước Sử dụng nguồn nước lấy từ giếng khoan và nguồn nước máy làm nguồn nước ngọt, nước biển được mang về từ Vũng Tàu. Hai nguồn nước này được xử lý và pha trộn để có độ mặn 12‰. Ấu trùng Tôm mẹ mang trứng có nguồn gốc từ tôm đực đã được vi phẩu loại tuyến đực có khả năng mang trứng để sản xuất đàn ấu trùng dùng cho các thí nghiệm. Các tôm mẹ mang trứng xám được bắt từ bể nuôi tôm bố mẹ vào trong nhà giống để ấp. Ấu trùng nở ra sau 1 – 2 ngày được bố trí cho vào bể ương. Nhà giống Cấu trúc máy che bằng tole xi măng Vách làm bằng bạc nhựa nilông Nền được tráng xi măng Bể Có 20 bể composite thể tích 100 lít dùng cho các thí nghiệm ương ấu trùng. Ngoài các bể ương ấu trùng còn có các bể chứa nước biển (10 m3), bể xử lý nước 0,5 m3 và 1 m3. Các xô ấp cho tôm mẹ mang trứng để thu ấu trùng, keo thuỷ tinh 10 lít để ấp Artemia. Hệ lọc sinh học và hệ thống bể ương 4 bể lọc san hô dung tích 0,5m3/bể Máy tách đạm (fresh protein skimmer) Máy tạo khí Ozon (O3) Hệ thống đường ống và dây dẫn khí Hệ thống dường ống dẫn nước Hệ thống đèn tròn chiếu sáng Đá bọt sủi khí Máy nén khí Máy bơm Vợt Các vật liệu khác Các loại hoá chất dung cho việc vệ sinh và xử lý nước hàng ngày: formol, Chlorine, thuốc kháng sinh,… Kính hiển vi soi nổi với độ phóng đại quang học từ 10 – 100 lần Đĩa Petri nhựa và thuỷ tinh Môi trường TCBS Đèn cồn, que cấy Tủ ấm 370C Cồn 700 và 990,5 Lọ nhựa để thu mẫu nước Phương pháp nghiên cứu và bố trí thí nghiệm Việc bố trí thí nghiệm được thực hiện trên hệ tuần hoàn với 20 bể ương trong hệ thống. Chúng tôi thực hiện thí nghiệm để đánh giá hiệu quả của hệ lọc. Bố trí thí nghiệm Thí nghiệm có 3 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức có 5 bể ương. Nghiệm thức 1: mật độ dưới 50 ấu trùng/lít Nghiệm thức 2: mật độ 50 – 100 ấu trùng/lít Nghiệm thức 3: mật độ trên 100 ấu trùng/lít Thông qua kết quả có được của thí nghiệm trên cộng với khoả sát thêm của chúng tôi trên 7 bể ương khác, chúng tôi tiến hành đánh giá biến động môi trường nước ương dựa vào mật độ thả ấu trùng: <50 ấu trùng/lít, từ 50 – 100 ấu trùng/lít và trên 100 ấu trùng/lít. Trong mỗi mật độ ương chúng tôi tiến hành phân nhóm các bể có tỷ lệ sống khác nhau. Mỗi mật độ được phân thành 2 nhóm. Nhóm có tỷ lệ sống thấp và nhóm có tỷ lệ sống cao. Kết quả phân nhóm các nghiệm thức dựa vào tỷ lệ sống của thí nghiệm này như sau: Mật độ < 50 úng/l Mật độ 50-100 Mật độ > 100 Nhóm 1: 0% (n=3 bể) Nhóm 2: 11-25,2% (n=4 bể) Nhóm 1: 0-2% (n=5 bể) Nhóm 2: 5,8-21% (n=5 bể) Không phân nhóm: 0% (n=4 bể) Không phân nhóm: 21% (n=1 bể) Thí nghiệm ở các mật độ ương khác nhau: mật độ ương <50 ấu trùng/lít mật độ ương từ 50-100 ấu trùng/lít mật độ cao hơn 100 ấu trùng/lít Nguồn cấp và thoát của hệ thống pH NH3-N NO2 Vibrio tổng số Sự phát triển của ấu trùng tôm Biến thái của ấu trùng Tỷ lệ sống Môi trường bể ương Nhiệt độ pH NH3-N Đánh giá môi trường đầu vào và đầu ra của hệ lọc Ảnh hưởng của môi trường và tỷ lệ sống lên biến thái của ấu trùng Đánh giá biến động môi trường bể ương Hiệu quả của hệ thống sản xuất giống bằng phương pháp lọc tuần hoàn Kết luận và đề xuất Hình 3.1: Sơ đồ bố trí thí nghiệm Sơ đồ bố trí và vận hành hệ thống Bố trí hệ thống lọc tuần hoàn Hệ thống lọc tuần hoàn gồm 20 bể 100 lít được bố trí như hình vẽ. Nước tuần hoàn ra từ các bể ương được chuyển vào một bể chứa 2 m3 (NV) và bơm vào trong hệ lọc (nước vào hệ lọc). Nước được qua bộ phận tách đạm fresh protein skimmer (Sm) và xử lý ozon (O3), sau đó được qua bể có chứa than hoạt tính (Th) để khử lương Ozone dư thừa. Nước được lọc qua 4 bể lọc san hô (L1, L2, L3, L4) dung tích 0,5 m3 mỗi bể đóng vai trò như một hệ lọc sinh học. Sau khi nước được lọc qua hệ thống san hô, một phần nước được cấp lại cho bể ương, một phần được bơm trở lại bể chứa (NV) để duy trì sự hoạt động liên tục của hệ lọc. Nguồn nước mới cũng được cấp thường xuyên vào hệ lọc để bù lượng nước vệ sinh mất đi hàng ngày. L1 L2 L4 L3 NV NR Sm Ozon Th Hệ thống bể ương 19 12 18 17 16 20 13 14 15 11 10 1 9 8 7 6 2 3 4 5 Hệ thống lọc Chú thích: Đường ống dẫn nước từ bể ương qua hệ lọc Đường ống dẫn nước đã qua hệ lọc vào bể ương Hình 3.2: Sơ đồ bố trí hệ lọc tuần hoàn và hệ thống bể ương Cách vận hành hệ thống tuần hoàn Nước được tuần hoàn từ bể ương qua hệ lọc làm sạch rồi cấp trở lại cho bể ương. Ấu trùng nhỏ hơn 5 ngày tuổi, bể không chạy tuần hoàn, thay nước 20%/ngày. Sau 5 ngày tiến hành cho chạy tuần hoàn, thời gian chạy tuần hoàn khoảng 9 – 10 giờ sáng đến 3 – 4 giờ chiều (khoảng 4¸5 giờ). Kết thúc chạy tuần hoàn khi tiến hành làm vệ sinh bể ương. Qui trình ương ấu trùng Chế độ dinh dưỡng Ấu trùng còn nhỏ (10 ngày tuổi) cho ăn thêm 3 lần thức ăn chế biến: 9 giờ, 11 giờ, 2 giờ. Trứng Artemia được ấp trong 24 giờ bằng cách sục khí liên tục. Thức ăn chế biến được phối chế từ nhiều loại nguyên liệu: thịt tôm, thịt mực, dầu cá, trứng gà, các vitamin và khoáng chất. Xay nhuyễn hỗn hợp, hấp chín, phơi khô và chà nhỏ thức ăn qua một tấm lưới có kích thước lỗ phù hợp với từng giai đoạn của ấu trùng. Một ấu trùng cho một viên thức ăn chế biến. Chế độ chăm sóc sức khoẻ ấu trùng Thường xuyên theo dõi tình trạng sức khoẻ của ấu trùng, ngày 2 lần, phát hiện các ấu trùng yếu để có chế độ chăm sóc khác hay loại chúng khỏi bể ương. Kiểm tra dây sục khí, độ lớn của dòng khí. Những ngày mưa bão nhiệt độ giảm, thắp thêm các đèn để tăng nhiệt độ nước trong bể ương. Tiến hành siphone thức ăn thừa, tôm yếu ở đáy bể và vỏ Artemia ở thành bể vào lúc chiều (khoảng 4 – 5 giờ chiều). Phương pháp thu mẫu và phân tích số liệu Thu mẫu và phân tích mẫu nước Nhiệt độ Vị trí đo nhiệt độ: trong bể ương. Thời gian đo: 8 giờ sáng và 2 giờ chiều. Số lần đo: mỗi ngày 2 lần. Dụng cụ đo: dùng rượu kế treo ngâm vào trong bể nuôi. pH Vị trí lấy mẫu: nước trong bể ương, nước đầu vào và đầu ra hệ lọc. Thời gian lấy mẫu: 8 giờ sáng và 2 giờ chiều. Số lần lấy mẫu: mỗi ngày 2 lần Dụng cụ phân tích: máy đo pH Scanner Ammonia (NH3-N) Vị trí lấy mẫu: nước trong bể ương, nước đầu vào và đầu ra hệ lọc. Thời gian lấy mẫu: 2 giờ chiều Số lần lấy mẫu: 3 lần/tuần Dụng cụ phân tích: bộ test Zera cho kiểm tra NH4-/NH3 với bảng so màu. Nitrite (NO2-N) Vị trí lấy mẫu: nước trong bể ương, nước đầu vào và đầu ra hệ lọc. Thời gian lấy mẫu: 2 giờ chiều Số lần lấy mẫu: 3 lần/tuần. Dụng cụ phân tích: bộ test Zera cho kiểm tra NO3-/NO2 với bảng so màu. Vibrio tổng số Vị trí lấy mẫu: nước trong bể ương, nước đầu ra hệ lọc. Thời gian lấy mẫu: 1giờ 30 sau khi nước được tuần hoàn trở lại bể khoảng 3 giờ. Số lần lấy mẫu: 2 lần/tuần vào thứ hai và thứ năm hàng tuần cho đến khi thuần nước ngọt. Dụng cụ phân tích: mẫu được trãi đếm trên môi trường TCBS ở hai độ pha loãng; 100 và 10-1 ở hai thể tích cấy 50µl và 100µl mẫu. Thu mẫu ấu trùng Chọn một số bể xem hình thái ấu trùng ở các hệ thống ương. Thời gian xem: 10 giờ sáng mỗi 2 ngày cho đến khi ấu trùng chuyển thành hậu ấu trùng hoàn toàn. Số con xem: 20 ấu trùng/bể Tính chỉ số trung bình giai đoạn LSI (Larvae stage index) theo Nguyễn Việt Thắng, 1993: với: - n là số con xác định của từng giai đoạn. - 1, 2, 3 giai đoạn phát triển - N là tổng số con xem được. Thu thập số liệu và phân tích Số liệu thu thập được tiến hành phân tích và xử lý dựa vào phần mềm Excel, dùng trắc nghiệm t bắt cặp (t-test paired two samples for mean) để so sánh các chỉ tiêu trong các nghiệm thức. Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Đánh giá biến động môi trường ở đầu vào và đầu ra của hệ thống lọc tuần hoàn trong ương ấu trùng tôm càng xanh toàn đực Độ pH nước đầu vào và đầu ra hệ lọc So sánh chỉ số pH nước đầu vào và nước đầu ra của hệ lọc là khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,032 < 0,05). Độ pH trung bình giữa nước đầu vào và nước đầu ra của hệ lọc lần lượt là 8,09 ± 0,13; 8,05 ± 0,13. Độ pH nước ra (là nước cấp trực tiếp vào bể nuôi) nằm trong ngưỡng thích hợp của ấu trùng, theo đề xuất của New và Shingolka (1985) pH thích hợp cho tôm từ 7,0-8,5. Độ pH trung bình của nước đầu vào cao hơn nước đầu ra là do nước vào hệ lọc là nước thải từ bể nuôi. Một số quá trình xảy ra trong bể ương như sự hoạt động của ấu trùng, Artemia và chủ yếu là lượng thức ăn thừa và cặn ở đáy bể phân huỹ đã ảnh hưởng đến pH trong bể ương (New và Valenti, 2000). Biến động NH3-N đầu vào và đầu ra hệ lọc Biều đồ 1. So sánh chỉ tiêu NH3-N trung bình của nước đầu vào và đầu ra hệ lọc với NH3-N trung bình trong bể ương Tính toán của chúng tôi cho thấy sự khác biệt giữa hàm lượng NH3-N nước đầu vào và đầu ra hệ lọc là rất có ý nghĩa thống kê học (p = 1,66x10-28 << 0,05). Nước trong bể ương được thay hàng ngày bằng nước đầu ra của hệ lọc và nước đầu vào hệ lọc phản ánh chất lượng nước trong bể ương, do nước đầu vào hệ lọc là nước thải ra của tất cả các bể ương. Lượng NH3-N đầu ra hệ lọc so với đầu vào hệ lọc cho biết hệ lọc có khả năng xử lý NH3-N thể hiện cụ thể qua chỉ số NH3-N của nước đầu vào gấp 2 lần (0,2/0,1) nước đầu ra của hệ lọc (biểu đồ 1). Thực tế cho thấy lượng NH3-N trong bể cao hơn ngưỡng thích hợp, theo một số tác giả New (2002) và Lee & Wickins (1992) lượng NH3-N trong ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh phải nhỏ hơn 0,1 mg/l. Hệ lọc có khả năng xử lý được lượng NH3-N nhưng hiệu quả không cao, có thể do vi sinh vật chuyển hóa ammonia thấp, thiếu một số chủng vi khuẩn hoặc hệ lọc đã quá tải, sự hoạt động của Ozone kém hiệu quả. Và do đó khả năng xử lý NH3-N của hệ lọc chưa xử lý hết lượng NH3-N để tạo một môi trường sống tốt cho ấu trùng. Biến động NO2-N Biểu đồ 2. So sánh chỉ tiêu NO2-N của nước đầu vào và đầu ra hệ lọc với NO2-N trong bể ương Chất lượng nước đầu ra hệ lọc có lượng NO2-N khá thấp (0,044 mg/lít) trong khi đó lượng NO2-N này trong nước đầu vào hệ lọc lại ở mức rất cao (1,93 mg/lít). So sánh thống kê về sự khác biệt giữa hàm lượng NO2-N nước đầu vào và đầu ra hệ lọc là rất có ý nghĩa thống kê (p = 8,9x10-17 <<0,05). Do nước đầu vào hệ lọc chính là nước thải tập trung ở đáy của nhiều bể ương (do thức ăn thừa và xác Artemia và ấu trùng chết làm chất lượng môi trường bị ô nhiễm). Điều này cho thấy hàm lượng NO2-N trong các bể ương rất cao, sự hoạt động của ozone cũng như hệ lọc chưa giải quyết được lượng NO2-N trong bể ương. Theo New và Shingolka (1985) thì không nên lấy nước nuôi có lượng NO2-N cao hơn 0,1 mg/lít. Hàm lượng NO2-N trong bể ương đã cao gấp 3,2 lần (0,32/0,1) ngưỡng của New và Shingolka (1985). Thực tế cho thấy lượng NO2-N trong nước ra hệ lọc có những ngày tăng đến 0,2 mg/lít (Phụ lục) là cao hơn so với đề nghị của New và Shingolka (1985) đối với nguồn nước cấp vào bể ương. Thêm nữa lượng NO2-N trung bình của nước đầu vào hệ lọc chính là nước thải ra từ tầng đáy của các bể ương. Với mức NO2-N trung bình 1,93 mg/l là rất cao và ngưỡng trên của ấu trùng đối với NO2-N theo một số tác giả Aquacop (1977, 1983), Griessinger (1986), Liao và Mayo (1972) là 0,35 mg/l. Như vậy lượng NO2-N trung bình ở đáy bể ương đã cao hơn ngưỡng sinh lý của ấu trùng 5,5 lần (1,93/0,35). Chúng ta thấy rằng nếu có cơ hội trộn lẫn lượng NO2-N này vào bể ương sẽ làm cho lượng NO2-N bể ương tăng cao đến mức nguy hiểm cho ấu trùng. Đó là những lúc khi tiến hành làm vệ sinh đáy bể sẽ khuấy động đến lượng chất thải ở đáy. Những lúc như thế này có lẽ sẽ làm cho ấu trùng dễ bị stress với lượng NO2-N trong bể đột ngột tăng cao do lượng NO2-N trong bể cũng đã khá cao là 0,32 mg/l (biểu đồ 2). Tuy nhiên, nhìn nhận từ khía cạnh làm giảm tác hại của NO2-N thì hệ lọc đã có hiệu quả. Nếu so sánh lượng nước vào và ra hệ lọc thì sau khi qua hệ lọc NO2-N đã giảm được 1,93/0,044 = 43,8 lần (phụ lục 4), tuy nhiên sự góp phần của hệ lọc chưa tạo điều kiện tốt cho ấu trùng tôm càng xanh thể hiện qua việc chưa loại bỏ hết hàm lượng NO2-N trong bể ương. Biến động Vibrio Biểu đồ 3. So sánh hàm lượng Vibrio tổng số nước đầu ra hệ lọc với Vibrio tổng số của bể ương Qua kết quả khảo sát chất lượng Vibrio bằng cách nuôi cấy Vibrio trên môi trường thạch TCBS. Kết quả cho thấy lượng Vibrio trong bể ương biến động rất lớn, mật độ Vibrio trung bình trong bể là 22812 ± 24936 cfu/ml. Trong khi đó mật độ này ở nước đầu ra hệ lọc (nước cấp vào bể) là 3314 ± 3989 cfu/ml (biểu đồ 3). Theo tiêu chuẩn nghành (1995) của Bộ Thuỷ Sản đối với nước ương giống tôm càng xanh thì mật độ Vibrio tổng số trong bể ương phải thấp hơn 1000 cfu/ml. Nước đầu ra hệ lọc (là nước đầu vào bể ương) đã cao hơn tiêu chuẩn này 3,3 lần (3314/1000). Kết quả nghiên cứu của Hoa và ctv (2002) cho thấy ở mật độ Vibrio từ 105 – 107 cfu/ml ấu trùng tôm càng xanh chết 18 – 80% sau 48 giờ. Mức Vibrio trung bình trong bể ương (22812 » 2,3x104 cfu/ml) tuy chưa đạt đến ngưỡng gây chết của Hoa nhưng với mức Vibrio trung bình trong bể cao đả ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ ấu trùng. Nguyên nhân nước trong bể ương có mật độ Vibrio cao có thể là do môi trường nước trong hệ lọc bị nhiễm Vibrio, hiệu quả của ozone cùng với sự hoạt động của fresh protein skimmer không có khả năng diệt Vibrio được thể hiện qua chỉ tiêu Vibrio của nước đầu ra cao. Nhật xét Qua sự khảo sát biến động môi trường hệ lọc, chúng tôi có một số ghi nhận sau đây: Độ pH nước đầu ra hệ lọc phù hợp dùng để ương ấu trùng tôm càng xanh. Lượng NH3-N, NO2-N nước đầu ra hệ lọc thấp hơn nước đầu vào hệ lọc (2 lần) và (43,8 lần) cho thấy hệ lọc có khả năng xử lý được NH3-N và NO2-N. ® từ đó cho thấy hệ vi sinh vật trong hệ lọc và Ozone đã phát huy tác dụng tuy nhiên việc xử lý NH3-N và NO2-N chưa mang lại một môi trường sống tốt cho ấu trùng. Điều này cho thấy mức NO2-N và NH3-N trong bể ương đã vượt quá khả năng lọc của vi sinh vật và khả năng khử NH3-N, NO2-N của Ozone. Có sự nhiễm Vibrio trong bể ương (hàm lượng trung bình 22812 cfu/ml) và nước đầu ra hệ lọc (hàm lượng trung bình 3314 cfu/ml) chứng tỏ kỹ thuật quản lý chưa tốt, nhất là kỹ thuật chăm sóc và cho ăn hàng ngày. Vibrio cao trong bể ương chứng tỏ nước bể ương bị nhiễm bẩn và nước bể ương nhiễm bẩn là do thức ăn thừa trong bể ương. ® Kỹ thuật quản lý chưa tốt. Biến động các chỉ tiêu môi trường chính của bể ương ở các mật độ ương khác nhau Biến động nhiệt độ Bảng 4.1. Giá trị p của trắc nghiệm t đối với nhiệt độ sáng (trên đường chéo) và nhiệt độ chiều (dưới đường chéo) của các nghiệm thức trong thí nghiệm 1 (0C) Các nghiệm thức Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3 Nghiệm thức 1 1,25(4)±0,63 0,073 (30,16(1)±0,09; 30,34(2)±0,48) 0,019 (30,16(1)±0,09; 30,40(3)±0,52) Nghiệm thức 2 0,250 (31,75(1)±0,49; 31,61(2)±0,48) 1,1(4)±0,55 0,642 (30,34(2)±0,48; 30,40(3)±0,52 Nghiệm thức 3 0,039 (31,75(1)±0,49; 31,79(3)±0,66) 0,195 (31,61(2)±0,48; 31,79(3)±0,66) 1,35(4)±0,48 Chú thích: (1) nhiệt độ trung bình nghiệm thức 1, (2) nhiêt độ trung bình nghiệm thức 2, (3) nhiệt độ trung bình nghiệm thức 3, (4) độ lệch trung bình nhiệt độ trong ngày. Dao động nhiệt độ các nghiệm thức được trình bày trong bảng 4.1. So sánh sự khác biệt về nhiệt độ sáng và chiều trong các nghiệm thức cho thấy phần lớn không có sự khác biệt có ý nghĩa về mặt thống kê (p > 0,05) ngoại trừ nghiệm thức 1 và 3. Sự không khác biệt nhiệt độ giữa các nghiệm thức là do các nghiệm thức cùng được bố trí trong cùng một nhà giống nên ta thấy giá trị nhiệt trung bình cũng không chênh lệch nhiều (bảng 4.1). Thực tế cho thấy nghiệm thức 1 (mật độ ương thấp) thì việc duy trì mức nước thấp trong bể để giảm thể tích khi cho ấu trùng ăn Artemia, tạo điều kiện cho ấu trùng bắt mổi dễ dàng và cũng giảm chi phí Artemia nên đã làm cho mức nước trong bể ương xa nguồn đèn tròn chiếu sáng nên đã làm cho nhiệt độ trung bình sáng nhỏ hơn nghiệm thức 3 (30,40 so với 30,16 ở bảng 4.1). Tuy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nghiệm thức 1 và 3 nhưng giá trị nhiệt độ trung bình chênh lệch không đáng kể (30,4-30,16 = 0,240C vào buổi sáng và 31,79-31,75 = 0,040C vào buổi chiều). Theo New và Valenti (2000) thì khoảng nhiệt độ tối ưu cho ấu trùng tôm càng xanh là 26-310C. Nhiệt độ ở các nghiệm thức đã vượt qua khỏi ngưỡng giới hạn của hai tác giả trên là 310C (trung bình vào buổi chiều cao trên 31,50C ở bảng 4.1). Theo New và Shingolka (1985) thì sự biến động nhiệt độ 10C có thể làm chết ấu trùng nếu sự biến động nhanh. Aquacop (1984) thì cho rằng nếu nhiệt độ bể ương cao trên 300C thì ấu trùng có tỷ lệ sống thấp. Sự biến động nhiệt độ trong ngày của các nghiệm thức đều trên 10C (bảng 4.1) và nhiệt độ cao trên 31,50C (bảng 4.1) là không tốt cho sự phát triển của ấu trùng. Sư biến động của nhiệt độ có thể do dung tích bể ương nhỏ nên khi thời tiết thay đổi kéo theo nhiệt độ bể ương thay đổi, tuy nhiên cấu trúc nhà giống cũng góp phần đến sự biến động nhiệt độ trong bể ương, đó là cấu trúc vách bằng nilông hấp thụ và giữ nhiệt, thực tế cho thấy nhiệt độ trong nhà giống luôn cao hơn nhiệt độ môi trường ngoài. Biến động pH Bảng 4.2. Giá trị p của trắc nghiệm t đối với pH sáng (trên đường chéo) và pH chiều (dưới đường chéo) của các nghiệm thức trong thí nghiệm 1 Các nghiệm thức Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3 Nghiệm thức 1 0,201 (7,93(1)±0,09; 7,97(2)±0,12) 0,857 (7,93(1)±0,09; 7,94(3)±0,12) Nghiệm thức 2 0,259 (7,96(1)±0,09; 7,98(2)±0,09) 0,304 (7,97(2)±0,12; 7,94(3)±0,12) Nghiệm thức 3 0,781 (7,96(1)±0,09; 7,96(3)±0,10) 0,410 (7,98(2)±0,09; 7,96(3)±0,10) Ghi chú: (1) pH trung bình nghiệm thức 1, (2) pH trung bình nghiệm thức 2, (3) pH trung bình nghiệm thức 3 Ở các nghiệm thức sự khác biệt pH trong bể ương không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05) (bảng 4.2). Theo New (2002) khoảng pH tối ưu cho ấu trùng dao động từ 7,0-8,5. Khoảng dao động pH trong bể ương từ 7,4-8,5 (phụ lục) là nằm trong khoảng đề nghị của New. Biến động NH3-N Bảng 4.3. Giá trị p (in nghiêng) và giá trị trung bình (gạch dưới) của trắc nghiệm t đối với NH3-N giữa các nghiệm thức trong thí nghiệm 2 (mg/l) Các nghiệm thức Nghiệm thức 1 Nghiệm thức 2 Nghiệm thức 3 Nghiệm thức1 0,284±0,105 0,48 0,75 Nghiệm thức 2 0,259±0,130 0,67 Nghiệm thức 3 0,274±0,125 Mức NH3-N tối ưu cho ương nuôi ấu trùng tôm càng xanh theo New (2002), Lee và Wickins (1992) thì không được cao hơn 0,1 mg/l. Theo thực tế cho thấy lượng NH3-N trung bình của các nghiệm thức đã cao hơn mức đề nghị của 2 tác giả trên (0,284; 0,259; 0,67 lần lượt đối với nghiệm thức 1, 2 và 3 ở bảng 4.3) và như vậy NH3-N trong 3 nghiệm thức đã có ảnh hưởng tới sức khoẻ của ấu trùng thể hiện cụ thể qua tỷ lệ sống của 3 nghiệm thức đều chưa cao (biểu đồ 5). Mức NH3-N cao trong bể ương một phần do hiệu quả xứ lý yếu của hệ lọc và khi nước ra từ hệ lọc cấp vào bể ương đã có một lượng NH3-N (0,1 mg/l) cộng với sự trao đổi chất trong quá trình hoạt động của ấu trùng, Artemia, thức ăn dư thừa đã làm cho NH3-N bể ương cao. Nhận xét Qua sự khảo sát các yếu tố môi trường chính của các mật độ nuôi khác nhau chúng tôi có một số ghi nhận như sau: Nhiệt độ trung bình vào buổi chiều của các nghiệm thức khá lớn (trên 310C) và nhiệt độ lệch trung bình trong ngày cao trên 10C chưa tốt cho sự phát triển của ấu trùng. Khi đó mức pH trung bình trong các nghiệm thức lại rất thích hợp với ngưỡng sinh lý của ấu trùng Lượng NH3-N trung bình khá trong bể ương khá cao và đã vượt ngưỡng của New (2002), Lee và Wickins (1992) là điều kiện sống không tốt cho ấu trùng. Do lượng NH3-N đầu vào đã chưa tốt cộng với kỹ thuật quản lý kém đã ảnh hưởng đến lượng NH3-N trung bình của bể ương. Ảnh hưởng của các yếu tố môi trường lên tỷ lệ sống và biến thái của ấu trùng Biến thái của ấu trùng trong suốt chu kỳ ương Biểu đồ 4. Biến thái của ấu trùng trong suốt chu kỳ ương Qua theo dõi sự biến thái ấu trùng trên 3 nghiệm thức, chúng tôi ghi nhận được giai đoạn đầu (ngày 1-7) LSI tăng đều ở 3 nghiệm thức. Tuy nhiên, bắt đầu từ ngày 7 trở đi, LSI ở cả 3 nghiệm thức tăng không ổn định mà có chiều hướng chậm lại (biểu đồ 4). LSI nghiệm thức 1 tuy không có lúc tăng cao nhưng là nghiệm thức ổn định nhất, cũng là nghiệm thức cho tỷ lệ sống cao nhất (biểu đồ 5). Ở nghiệm thức 3 biến thái của ấu trùng chậm hơn nghiệm thức 1 và nghiệm thức 3 có thể do mật độ ấu trùng cao, dẫn đến cạnh tranh về dinh dưỡng. Ở đây ta thấy rằng LSI của nghiệm thức 1 là tăng đều và ổn định hơn các nghiệm thức còn lại (biểu đồ 4) và chính sự tăng đều này có lẽ làm cho nghiệm thức 1 có tỷ lệ sống cao nhất (15,8% so với 7,4% và 5,4% của nghiệm thức 2 và 3 ở biểu đồ 5). LSI của nghiệm thức 2 tuy có lúc là cao nhất (ngày tuổi từ 14-25), tuy nhiên là không ổn định. Sự không ổn định có thể được giải thích ở mục 4.2.3. LSI của nghiệm thức 3 thì lại quá thấp do sự phát triển yếu của đàn ấu trùng thể hiện cụ thể qua tỷ lệ sống thấp của hậu ấu trùng (5,4% ở biều đồ 5). Mối quan hệ giữa mật độ ương ấu trùng và tỷ lệ sống của hậu ấu trùng LSI nghiệm thức 1: là nghiệm thức có mật độ ương thấp và lại có tỷ lệ sống cao nhất nhưng LSI tăng chưa tốt, cao nhất ở ngày tuổi 1-14 và thấp hơn nghiệm thức 2 từ ngày 14 về cuối chu kỳ ương (ngày 25) bằng nghiệm thức 2. Như vậy có thể thấy rằng sự phát triển tốt của ấu trùng ở giai đoạn đầu đã tạo tiền đề tốt cho sự phát triển của ấu trùng ở giai đoạn sau và kết quả cho thấy là nghiệm thức 1 có tỷ lệ sống cao nhất. LSI nghiệm thức 2: tăng chậm từ ngày 7-14 nhưng sao đó lại tăng vọt lên cao nhất so với các nghiệm thức kia vào ngày 15-25. Sự tăng cao hơn các nghiệm thức còn lại có thể được giải thích ở sự quan sát của chúng tôi là nhiều ấu trùng yếu đã chết đi ở giai đoạn từ 7-14 ngày tuổi do yếu tố NH3-N cao đã ảnh hưởng bất lợi tới sự phát triển của ấu trùng. Mặc dù lượng NH3-N này đều cao ở 3 nghiệm thức nhưng do nghiệm thức 1 mật độ thưa hơn, ấu trùng có khoảng không gian rộng lớn nên khả năng thích ứng lượng NH3-N cao hơn ở nghiệm thức 2 và 3. LSI nghiệm thức 3: thể hiện sự biến thái chậm nhất, tuy nhiên vào ngày 27 lại bằng hai nghiệm thức kia. Điều này có thể được giải thích bằng quan sát thực tế của chúng tôi do trong bể ấu trùng chết đi rất nhiều, một số ấu trùng mạnh khoẻ còn sống sót trong khi mật độ bể ương đã thưa đi nhiều và các ấu trùng này có điều kiện sống tốt hơn. LSI trong giai đoạn này biểu thị sự phát triển của một số ấu trùng khoẻ mạnh. Biểu đồ 5. So sánh tương quan giữa mật độ và tỉ lệ sống Theo kết quả tỷ lệ sống của các nghiệm thức cho thấy có sự tương quan cao (r =1) giữa tỷ lệ sống và mật độ nuôi. Tỷ lệ sống càng giảm khi mật độ cao dần (biểu đồ 5). Nghiệm thức 1 tỷ lệ sống cao nhất 15,8% và đạt 5,6 hậu ấu trùng/lít. Tỷ lệ sống của nghiệm thức 1 (nghiệm thức cho tỷ lệ sống cao nhất) đạt được thấp hơn nhiều so với tỷ lệ sống hơn 60% của một số tác giả (Ra’anna & Cohen, 1982; Ong, 1983; Mallasen & Valenti, 1998 trích bởi New và Valenti, 2000) cũng sản xuất giống trên hệ tuần hoàn. Tỷ lệ hậu ấu trùng/lít cũng thấp hơn nhiều so với sản xuất giống thương mại của Aquacop (1983) và Carvalho & Mathias (1998) với tỷ lệ hậu ấu trùng trùng đạt được lần lượt là 50 và 70 hậu ấu trùng/lít (New và Valenti, 2000). Như vậy có thể thấy năng suất chuyển hậu ấu trùng/lít của 3 nghiệm thức khá gần nhau (biểu đồ 5). Tỷ lệ hậu ấu trùng/lít có thể xem là như nhau thì việc nuôi ấu trùng ở mật độ thấp sẽ mang lại một số thuận lợi hơn: ít tốn kém lượng thức ăn, dễ chăm sóc và quản lý trong khi đó kết quả đạt được lại cũng tốt như nuôi mật độ cao hơn. Tỷ lệ 35 ấu trùng/lít có lẽ thích hợp hơn trong điều kiện nghiên cứu thực nghiệm, trong điều kiện sản xuất giống thì tỷ lệ này chưa thể triển khai được. Nếu muốn nuôi ở mật độ cao hơn cần có nhiều biện pháp cải tiến khâu quản lí kỹ thuật để giảm thiểu các biến động môi trường. Mối quan hệ giữa các yếu tố môi trường, mật độ ương ấu trùng và tỷ lệ sống của hậu ấu trùng Mối tương quan giữa yếu tố môi trường và và tỷ lệ sống ở mật độ ương < 50 ấu trùng/lít Bảng 4.4. Giá trị p của trắc nghiệm t đối với nhiệt độ sáng (trên đường chéo) và nhiệt độ chiều (dưới đường chéo) của các kết quả về tỷ lệ sống (0C) Các nhóm Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 1 0,96(3) ±0,57 0,0046 30,6(1)±0,56 30,1(2)±0,28 Nhóm 2 0,44 31,5(1)±0,58 31,6(2)±0,45 1,51(3) ±0,4 Kết quả phân tích cho thấy sự biến động nhiệt độ vào buổi sáng của 2 nhóm có sự khác biệt ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Mức biến động của nhóm 2 cao hơn nhóm 1 (bảng 4.4) cụ thể là nhiệt độ trung bình cao hơn 0,50C (30,6-30,1) (bảng 4.4). Sự chênh lệch nhiệt độ trong ngày của nhóm 2 lại cao hơn nhóm 1. Tuy nhiên nhóm 2 lại có tỷ lệ sống tốt hơn. Điều này cho thấy mức biến động nhiệt độ trong 2 nhóm này chưa phải là yếu tố chính quyết định đến tỷ lệ sống của hậu ấu trùng ở 2 nhóm. Bảng 4.5. Giá trị p của trắc nghiệm t đối với pH sáng (trên đường chéo) và pH chiều (dưới đường chéo) của các kết quả vể tỷ lệ sống Các nhóm Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 1 0,0041 7,86(1)±0,09 7,94(2)±0,09 Nhóm 2 0,197 7,92(1)±0,12 7,96(2)±0,09 Biến động pH sáng giữa hai nhóm có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Chúng ta thấy rằng pH trung bình của nhóm 1 (7,86) thấp hơn pH trung bình nhóm 2 (7,94) vào buổi sáng. Sự khác biệt này do sự hoạt động bài thải của ấu trùng, Artemia và sự biến động của môi trường bể ương qua đêm. Buổi chiều thì nước trong bể được tuần hoàn và mức pH trong 2 nhóm là không thể hiện sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Trong khi đó biến động NH3-N trung bình của 2 nhóm là: 0,19(1)±0,07; 0,3(2)±0,12. Lượng NH3-N trung bình nhóm 2 (nhóm tỷ lệ sống cao hơn) có mức cao gấp 1,5 lần nhóm 1 (nhóm tỷ lệ sống rất thấp). Tuy nhiên ta thấy rằng với mức NH3-N này đều cao vượt quá ngưỡng của New (2002), Lee và Wichkins (1992) và với lượng NH3-N này trong nước bể ương đã tác động không nhỏ tới sức khoẻ của ấu trùng thể hiện cụ thể qua tỷ lệ sống của hậu ấu trùng của các bể ương tốt nhất vẫn chưa cao (đều nhỏ hơn 25,2% ở phần phụ lục). Mối tương quan giữa yếu tố môi trường và và tỷ lệ sống ở mật độ ương từ 50-100 ấu trùng/lít Bảng 4.6. Giá trị p của trắc nghiệm t đối với nhiệt độ sáng (trên đường chéo) và nhiệt độ chiều (dưới đường chéo) của các kết quả về tỷ lệ sống (0C) Các kết quả tỷ lệ sống Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 1 1,28 ±0,47 0,039 30,6(1)±0,41 30,3(2)±0,68 Nhóm 2 0,008 31,8(1)±0,53 31,4(2)±0,55 1,16 ±0,52 Biến động nhiệt độ sáng và chiều của 2 nhóm khác nhau có ý nghĩa về mặt thống kê (p < 0,05). Nhiệt độ trung bình sáng và chiều của nhóm 2 đều thấp hơn nhóm 1, buổi sáng thấp hơn 0,30C (30,6-30,3) và chiều thấp hơn 0,40C (31,8-31,4) (bảng 4.6), thêm vào đó biến động nhiệt độ trong ngày cũng thấp hơn nhóm 1 (bảng 4.6). Như vậy qua sự biến động nhiệt độ cho thấy nhóm 1 có sự biến động nhiệt độ cao hơn nhóm 2 và ấu trùng nhóm 2 có khoảng nhiệt độ phát triển tốt hơn so với nhóm 1. Tuy nhiên sự biến động nhiệt độ của 2 nhóm đều khá lớn cụ thể là chênh lệch nhiệt độ trung bình trong ngày đã vượt quá 10C (bảng 4.6), nhiệt độ trung bình vào buổi chiều của 2 nhóm cao trên 310C (bảng 4.6) là chưa tốt cho sự phát triển của ấu trùng Bảng 4.7. Giá trị p của trắc nghiệm t đối với pH sáng (trên đường chéo) và pH chiều (dưới đường chéo) của các kết quả vể tỷ lệ sống Các kết quả tỷ lệ sống Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 1 0,12 7,98±0,15 7,93±0,1 Nhóm 2 0,18 7,98±0,08 7,95±0,09 Sự biến động pH giữa 2 nhóm khác nhau là không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Độ pH luôn nằm trong khoảng thích hợp cho ấu trùng theo New và Shingolka (1985). Sự khác biệt nhau về tỷ lệ sống của 2 nhóm có lẽ không liên quan đến mức pH trung bình cùa 2 nhóm do pH trung bình 2 nhóm đếu rất tốt. Trong khi đó chỉ tiêu NH3-N trung bình lần lượt đối với nhóm 1và nhóm 2 là: 0,17±0,08; 0,24±0,11. Lượng NH3-N trung bình của nhóm 2 (nhóm có tỷ lệ sống tốt) cao hơn nhóm 1 (nhóm có tỷ lệ sống thấp). Điều này chứng tỏ thêm rằng mức NH3-N trung bình của 2 nhóm không là nhân tố chính quyết định kết quả ương, tuy nhiên theo các thảo luận ở trên thì mức NH3-N này cũng chưa tốt và chưa đảm bảo một môi trường sống tối ưu cho ấu trùng. Mối tương quan giữa yếu tố môi trường và và tỷ lệ sống ở mật độ ương > 100 ấu trùng/lít Ở mật độ ương này, chúng tôi tiến hành theo dõi đượ trên 5 bể ương: 4 bể đều có tỷ lệ sống của hậu ấu trùng là 0%, duy nhất một bể có tỷ lệ sống tốt 21% (phụ lục). Nhóm có 4 bể ương có tỷ lệ sống là 0% Kết quả tỷ lệ sống của nghiệm thức này là 0%. Quan sát sự thành công , thất bại của các thí nghiệm trước thì ta thấy nhân tố nhiệt độ đóng vai trò rất quan trọng đến tỷ lệ sống ấu trùng. Cũng như nghiệm thức này, sự chênh lệch nhiệt độ rất cao 1,61±0,630C đã nói lên nguyên nhân thất bại của các bể ương. Nhiệt độ trung bình sáng 30,4±0,49, nhiệt độ trung bình chiều 32,1±0,490C. Độ pH trung bình rất tốt và pH trung bình sáng và chiều là: 7,97±0,16; 7,97±0,12. NH3-N vẫn nằm trong 0,23±0,14 mg/lít cũng chưa đáp ứng môi trường sống tốt cho ấu trùng. Cụ thể là cao hơn mức đề nghị của New (2002) và Lee & Wickins (1992) là 2,3 lần (0,23/0,1). Nhóm có 1 bể ương có tỷ lệ sống 21% Là bể ương duy nhất ở mật độ > 100 ấu trùng/lít có tỷ lệ sống cao (21% ở phụ lục). Theo dõi các yếu tố môi trường như sau: Nhiệt độ trung bình sáng và chiều lần lượt là 30,3 ± 0,940C và 31,04 ± 1,10C. Độ pH trung bình sáng và chiều là 7,83 ± 0,08 và 7,91 ± 0,110C. So với 4 bể ương cũng ở mật độ này, ta thấy rằng nhiệt độ trung bình cũng như chênh lệch nhiệt độ trong ngày đều thấp hơn (nhiệt độ trung bình vào buổi chiều thấp hơn 10C; 32,1-30,040C, chênh lệch nhiệt độ trong ngày 0,87 ± 0,780C so với 1,61 ± 0,630C của 4 bể ương cùng mât độ. Rõ ràng nhiệt độ trong bể ương này thích hợp hơn và ấu trùng có điều kiện phát triển tốt hơn. Nhiệt độ cũng góp một phần ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ấu trùng trong bể ương này Nhận xét Qua sự phân tích các yếu tố môi trường chủ yếu trong bể ương theo tỷ lệ sống ở các mật độ khác nhau. Chúng tôi rút ra một số nhận định như sau: - Độ pH trong tất cả các nhóm mật độ đều rất tốt và nằm trong ngưỡng cho phép sự phát triển tối ưu của ấu trùng tôm càng xanh. - Trong khi đó nhiệt độ trong tất cả các bể ương đều khá cao, trung bình vào buổi sáng > 300C và trung bình vào buổi chiều thường > 31,50C. Chênh lệch nhiệt độ trong ngày cũng cao hơn 10C. Sự biến động nhiệt độ lớn như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ của ấu trùng. - Lượng NH3-N trung bình của các nhóm ương mật độ khác nhau đều vượt qua mức đề nghị của các tác giả New (2002), Lee & Wickins (1992) là 0,1 mg/l. Như vậy chỉ tiêu NH3-N trong nước cũng chưa đảm bảo điều kiệu sống tốt nhất cho ấu trùng. Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Kết luận Hiệu quả của hệ lọc Mức pH trung bình đầu vào (8,09) và đầu ra (8,05) nằm trong khoảng thích hợp cho ấu trùng tôm càng xanh. Tỷ lệ NH3-N và NO2-N trung bình của nước đầu vào so với nước đầu ra lần lượt là: 2 và 43,8 chứng tỏ hệ lọc và hệ thống Ozone hoạt động và có khả năng xử lý NH3-N và NO2-N. Tỷ lệ Vibrio tổng số nước đầu vào và đầu ra là 22812/3314 = 6,9 cũng cho thấy hệ thống Ozone hoạt động đã giết được Vibrio cùng với sự ức chế của các vi khuẩn trong hệ lọc. Tuy nhiên giá trị trung bình của các chỉ tiêu NH3-N, NO2-N và Vibrio tổng số trong bể ương cao, lần lượt là 0,2 mg/l, 0,32 mg/l và 22812 cfu/ml chưa đảm bảo một môi trường sống tốt cho ấu trùng. Điều này thể hiện ở kỹ thuật quản lý nhất là việc cho ăn dư thừa đã làm môi trường bể ương nhiễm bẩn tạo điều kiện cho các chỉ tiêu môi trường tăng cao và Vibrio phát triển. Về bản thân hệ lọc có thể đã vượt quá khả năng xử lý do hàm lượng các chỉ tiêu môi trường trong nước bể ương quá lớn, hệ vi sinh vật không thể nào chuyển hoá một lượng cơ chất lớn, trong khi Ozone cũng vượt quá khả năng xử lý của mình. Biến động môi trường ở các nghiệm thức có mật độ ương khác nhau Giá trị trung bình nhiệt độ sáng và chiều của các nghiệm thức không có sự chênh lệch lớn, tuy nhiên giá trị này đều cao (> 300C sáng và > 31,50C chiều) và trên ngưỡng phát triển tối ưu của ấu trùng tôm cnàg xanh. Độ pH trung bình sáng và chiều ở các mật độ ương khác nhau đều nằm trong khoảng thích hợp cho ấu trùng tôm càng xanh. Sức khác nhau giữa lượng NH3-N trung bình trong các nghiệm thức không có ý nghĩa thống kê (p > 0,5). Tuy nhiên mức này trong các nghiệm thức đều vượt ngưỡng phát triển tối ưu của ấu trùng tôm càng xanh. Mối quan hệ giữa biến thái và tỷ lệ sống LSI của các bể ương có mật độ ương thấp ( 50 ấu trùng/lít) Tỷ lệ sống của các bể ương có mật độ ương thấp (<50 ấu trùng/lít) là cao nhất (15,8%) và biến thái cũng thể hiện sự phát triển tốt nhất. Mối tương quan giữa biến thái, môi trường và tỷ lệ sống của hậu ấu trùng Độ pH trung bình của các bể ương có mật độ ương khác nhau đều nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển tối ưu của ấu trùng tôm càng xanh. Các chỉ tiêu (nhiệt độ, NH3-N) của các bể có mật độ ương khác nhau không thấy có sự chênh lệch lớn. Tuy nhiên giá trị trung bình của các chỉ tiêu này cho thấy đều vượt ngưỡng tối ưu cho sự phát triển của ấu trùng tôm càng xanh. Biến thái ở các mật độ ương khác nhau này đều chưa tốt, có thể nói đã bị ảnh hưởng do môi trường nước ương chưa tốt. Biến thái của ấu trùng ở mật độ ương thấp là tốt nhất và tỷ lệ sống là cao nhất. Không thấy rõ ràng mối quan hệ giữa mật độ ương và biến động môi trường do kỹ thuật quả lý chưa tốt đã làm cho môi trường bể ương bị ô nhiễm. Tương quan giữa tỷ lệ sống và mật độ ương rất cao (r=1). Đề xuất hướng khắc phục Cải tiến khâu quản lý kỹ thuật trong nhà giống đối với hệ thống ương tuần hoàn nhất là khâu cho ăn và quản lý mầm bệnh. Tăng dung tích bể lọc để giải quyết hệ lọc bị quá tải. Cần tiến hành các nghiên cứu kỹ hơn về hệ lọc: lưu tốc dòng chảy, hệ vi sinh vật, nồng độ Ozone, thể tích lọc,… để đánh giá sự hoạt động của hệ lọc chính xác hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Tuần, Hoàng Thị Thuỷ Tiên, Lâm Quyền, Nguyễn Đức Minh, Nguyễn Nhứt, Huỳnh Thị Hồng Châu, 2004. Kết quả bước đầu sản xuất giống tôm càng xanh toàn đực. Tuyển tập nghề cá sông Cửu Long. Nhà xuất bản Nông nghiệp. Tr 159 – 175. Trần Thị Thanh Hiền, Trần Ngọc Hải, Nguyễn Thanh Phương, Đỗ Thị Thanh Hương, Đặng Thị Hoàng Oanh, Macrcy N. Wilder, 2003. Kết quả nghiên cứu và ứng dụng kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii). Tuyển tập nghề cá sông Cửu Long (số đặc biệt). Nhà xuất bản Nông Nghiệp. Trang 230-237. New M.B và Shingolka.S., 1985. Sổ tay nuôi tôm càng xanh (người dịch Trương Quan Trí). Nhà xuất bản tổng hợp Hậu Giang, Khoa Thuỷ Sản - Trường Đại học cần Thơ. 140 trang Nguyễn Thanh Phương, Nguyễn Công Hậu, Trần Ngọc Hải, Trần Thị Thanh Hiền, Nguyễn Lê Hoàng Yến, Lê Bảo Ngọc, Đặng Thị hoàng Oanh, Trần Thị Tuyết Hoa, Triệu Thị Tươi, Trang Thị Kiêm Liên, 2001. Nghiên cứu sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii) theo mô hình nước xanh cải tiến. Trường Đại học Cần Thơ, Viện khoa học thuỷ sản. 38 trang. Nguyễn Thanh Phương, Trần Ngọc Hải, Trần Thị Thanh Hiền, Marcy N.Wilder, 2003. Nguyên lý và kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh. Nhà Xuất bản nông nghiệp. 127 trang. Nguyễn Việt Thắng, 1993. Một số đặc điểm sinh học và ứng dụng qui trình kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh (Macrobrachium rosenbergii De Man 1879) ở đồng bằng Nam Bộ. Luận án phó tiến sĩ khoa học Nông nghiệp. Trường đại học Thuỷ Sản Nha Trang. 175 trang. Nguyễn Việt Thắng, 1996. Lọc Sinh học - hướng dẫn sử dụng trong sản xuất giống và nuôi tôm. Nhà xuất bản nông nghiệp. 39 trang. Nguyễn Việt Thắng, 2003. Hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản ở các tỉnh phía Nam và nhu cầu nghiên cứu khoa học phục vụ cho công cuộc phát triển nuôi trồng thuỷ sản trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Tuyển tập nghề cá song Cửu Long (số đặc biệt). Nhà xuất bản nông nghiệp.Trang 11 – 14. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, 2002. Kỹ thuật sản xuất giống tôm càng xanh. Nhà xuất bản nông nghiệp. 67 trang. Phạm Văn Tình, 2004a. 46 câu hỏi đáp về sản xuất giống và nuôi tôm càng xanh thương phẩm. Nhà xuất bản nông nghiệp. 70 trang. Phạm Văn Tình, 2004b. Kỹ thuật nuôi tôm càng xanh. Nhà xuất bản Nông nghiệp. 46 Trang. Phạm Anh Tuấn, Phạm Minh Anh, Nguyễn Mộng Hùng, Nguyễn Lai Thành, 2000. Tổ chức học tuyến sinh dục, tuyến Androgenic và điều khiển giới tính tôm càng xanh Macrobrachium rosenbergii de Man. Tuyển tập báo cáo Viện nghiên cứu nuôi trồng thuỷ sản I. Trang 9 – 23. Tài liệu tiếng Anh Hoa T.T.T.,Oanh D.T.H. & Phương N.T., 2002. Study on Diseases in giant freshwater prawns (Macrobrachium rosenbergii). A review. Deparment of Fisheries Biology, College of Aquaculture anh Fisheries, Can Tho University (search from Lee D.O’C. & Wickins J.F., 1992. Crustacean farming. Blackwell Science, Oxford. New M.B. & Valenti W.C., 2000. Freshwater prawn culture. The farming of Macrobrachium rosenbegii. 435 pages. New M.B., 2002. Farming freshwater prawn. A manual for the culture of the giant river pawn (Macrobrachium rosenbergii). FAO fisheries technical 428. Food and Argiculture of the United Nations. 207 pages. Sagi.A. & Cohen.D., 1990. Growth, maturate and progeny of sex-reversed Macrobrachium rosenbergii males. World Aquculture Report: 87 – 90. Sagi. A, Cohen. D & Milner. Y., 1990. Effect of androgenic gland ablation on morphotypic differentiation and sexual characteristics of male freshwấu trùnger prawns, Macrobrachium rosenbergii. General and comparative endocrinology 77: 15 – 22. Sagi. A & Aflalo E.D., 2005. The androgenic gland and monosex culture of freshwater prawn Macrobrachium rosenbergii (De Man): a biotechnological perspective. Aquaculture research 36: 231 – 237. Tidwell J.H., D’Abramo L.D., Coyle S.D. and Yasharian D., 2005. Overview of recent research and development in temperate culture of the freshwater prawn (Macrobrachium rosenbergii De Man) in the South Central United States. Aquculture research 36: 246-277. van Raap J., Tal Y. & Shreier H.J., 2005. Denitrification in recirculation systems: Theory and applications. Aquaculture Engineering xxx-xx. Tài liệu từ các website – trang web tìm kiếm thông tin trên internet - tổ chức nông nghiệp và thực phẩm thế giới – trang web thông tin về tôm càng xanh – trang tìm kiếm các bài báo khoa học – trang web của bộ thuỷ sản Việt Nam PHỤ LỤC Bảng 1. Biến động môi trường bể 2, 12, 17, 13b Bể 2 (70 ấu trùng/l ít) Bể 12 (68 ấu trùng/lít) Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N NO2-N Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 31,7 33,1 8,1 8 0,3 1 ~ ~ ~ ~ ~ ~ 2 ~ ~ ~ ~ ~ 2 29,5 31,0 7,7 7,8 ~ 2,0 3 31 31,5 7,8 8 0,2 3 31,0 32,0 7,8 7,5 0,2 ~ 4 29,5 31,5 8 8 4 30,5 33,0 7,5 7,7 ~ 1,5 5 29 31 7,7 7,7 0,2 5 ~ ~ ~ ~ ~ ~ 6 30 31,4 7,7 7,6 ~ 6 31,0 33,0 8,0 7,8 0,3 ~ 7 29,5 31,5 7,7 7,8 0,1 7 30,0 31,5 7,8 7,9 ~ 1,0 8 30,3 32 8,1 8,2 0,1 8 30,0 32,0 8,1 7,9 0,2 ~ 9 ~ ~ ~ ~ ~ 9 31,0 32,0 7,9 8,0 ~ 0,5 10 29,5 31,7 8 8,1 0,1 10 30,8 32,0 8,4 8,2 0,3 ~ 11 30,5 32,3 8 7,9 ~ 11 30,0 32,0 8,6 8,2 ~ 0,2 12 Chết 12 30,0 32,0 8,2 8,2 0,1 ~ Bể 17 (110 ấu trùng/lít) 13 ~ ~ ~ ~ ~ ~ Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N 14 31,0 31,5 8,2 8,2 ~ 0,1 Sáng Chiều Sáng Chiều 15 30,8 31,5 8,1 8,0 0,1 ~ 1 30,0 31,5 8,4 8,1 0,3 16 30,0 32,0 8,3 8,2 ~ 0,0 2 30,0 32,0 8,5 8,1 ~ 17 32,0 33,0 7,8 7,8 0,1 ~ 3 30,6 32,0 8,3 8,1 0,1 18 chết 4 31,0 31,5 7,8 8,2 ~ Bể 13b (83 ấu trùng/lít) 5 30,5 31,5 8,2 8,0 0,1 Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N 6 29,5 32,0 8,2 8,3 0,2 Sáng Chiều Sáng Chiều 7 ~ ~ ~ ~ ~ 1 ~ ~ ~ ~ ~ 8 ~ ~ ~ ~ ~ 2 ~ ~ ~ ~ ~ 9 31,0 33,0 8,0 7,8 0,1 3 31,5 33,0 7,9 7,8 0,1 10 31,0 32,5 8,0 7,9 ~ 4 31,0 32,5 8,0 7,9 ~ 11 30,5 32,5 8,0 7,9 0,1 5 31,0 32,5 7,9 7,9 0,1 12 31,4 32,5 8,0 8,0 ~ 6 32,0 32,7 8,0 8,0 ~ 13 31,3 33,0 8,1 8,1 0,5 7 31,2 33,3 8,0 8,0 0,1 14 ~ ~ ~ ~ ~ 8 ~ ~ ~ ~ ~ 15 31,4 31,5 7,8 8,1 0,4 9 31,6 31,5 7,8 8,0 0,3 16 Chết 10 Chết Ghi chú: “~” không khảo sát chỉ tiêuBảng 2. Biến động môi trường bể 7, 13a Bể 7 (12 ấu trùng/lít) Bể 13a (140 ấu trùng/lít) Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 ~ ~ ~ ~ ~ 1 ~ ~ ~ ~ ~ 2 ~ ~ ~ ~ ~ 2 30,5 31,5 7,8 8,0 0,2 3 ~ ~ ~ ~ ~ 3 29,5 31,0 7,9 7,9 ~ 4 29,5 31,0 8,1 8,1 0,4 4 30,0 31,8 7,9 8,0 0,5 5 30,0 31,5 8,2 8,1 ~ 5 30,0 31,0 7,9 7,9 ~ 6 30,0 31,5 8,1 8,2 0,4 6 ~ ~ ~ ~ ~ 7 30,0 31,5 8,1 8,2 ~ 7 29,5 33,0 8,2 8,1 0,6 8 30,0 32,0 8,0 8,2 0,1 8 29,5 32,0 8,2 8,0 ~ 9 31,0 32,5 8,0 8,2 ~ 9 30,0 32,0 8,2 8,1 1,0 10 ~ ~ ~ ~ ~ 10 29,5 32,0 8,3 8,2 ~ 11 31,0 32,0 7,9 7,9 0,2 11 29,8 32,0 8,3 8,2 0,3 12 30,0 32,0 7,9 7,8 ~ 12 30,0 32,5 8,2 8,1 ~ 13 30,5 31,5 7,9 7,9 0,2 13 ~ ~ ~ ~ ~ 14 29,4 31,3 7,8 7,8 ~ 14 31,0 32,5 7,9 7,9 0,3 15 29,5 31,8 7,9 7,8 0,3 15 29,5 32,0 7,9 8,0 ~ 16 29,5 31,0 7,8 7,9 ~ 16 30,5 32,0 7,9 8,0 0,4 17 ~ ~ ~ ~ ~ 17 29,0 32,0 7,9 7,9 ~ 18 30,0 31,8 7,8 7,9 0,4 18 29,5 32,0 7,9 7,9 0,4 19 30,0 32,0 8,0 7,9 ~ 19 29,5 30,5 7,8 7,9 ~ 20 30,0 32,0 8,0 8,0 0,4 21 30,0 31,5 7,9 8,0 ~ 21 30,0 31,8 7,9 7,8 0,5 22 Chết 22 30,0 33,0 7,8 7,8 ~ 23 30,0 33,0 7,8 7,9 0,3 24 29,3 31,5 7,5 7,8 ~ 25 29,5 31,5 8,1 7,9 0,2 26 30,0 32,0 7,8 8,0 ~ 27 ~ ~ ~ ~ ~ 28 30,0 32,0 8,4 8,1 0,3 29 30,0 32,0 8,5 8,1 ~ 30 Chết Bảng 3. Biến động môi trường bể 18 và 19a Bể 18 (54 ấu trùng/lít) Bể 19a (60 ấu trùng/lít) Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 ~ ~ ~ ~ ~ 1 ~ ~ ~ ~ ~ 2 ~ ~ ~ ~ ~ 2 30 32 8 8,3 0,2 3 31 33 8,0 7,8 0,1 3 30 32,5 8,2 8,2 ~ 4 30,8 32,5 8,0 7,9 ~ 4 30,5 32 7,9 8,1 0,2 5 30,5 32,5 8,0 7,9 0,1 5 30 32 7,9 7,8 ~ 6 31,3 32,5 8,0 8,0 ~ 6 30,5 32 7,9 8 0,6 7 31,3 33 8,1 8,1 0,3 7 29 31,5 7,9 7,9 ~ 8 ~ ~ ~ ~ ~ 8 29,5 32 8,1 7,9 0,3 9 31,4 31,5 7,8 8,1 0,2 9 29,3 30,5 7,8 7,9 ~ 10 29,5 31,5 8 8 10 ~ ~ ~ ~ ~ 11 29 31 7,8 7,6 0,2 11 30 31,5 8 7,9 0,3 12 30 31,5 7,7 7,6 ~ 12 30 32,5 7,8 7,9 ~ 13 29,8 31,5 7,6 7,8 0,1 13 30 32 8 8 0,3 14 30,5 32 7,9 8,2 0,1 14 30 31,5 7,8 7,8 ~ 15 ~ ~ ~ ~ ~ 15 29,5 31,5 8,1 7,7 0,2 16 30 31,7 7,9 7,9 0,1 16 29,7 31,5 7,9 8 ~ 17 30,5 32,5 8,0 7,9 ~ 17 ~ ~ ~ ~ ~ 18 31 32,5 8,0 8,0 0,1 18 30 31,5 8,4 8,1 0,2 19 30 32,5 8,1 7,9 ~ 19 30 32 8,4 8,1 ~ 20 29,5 31 8,2 7,8 0,1 20 30,5 32 8,3 8,2 0,4 21 30,3 30 8,0 8,0 ~ 21 30,5 31,5 8 8 ~ 22 Chết 22 30,5 31 8 8 0,2 23 29,5 32 8,2 8,2 0,2 24 ~ ~ ~ ~ ~ 25 Chết Bảng 4. Biến động môi trường bể 1a, 1b Bể 1a (72 ấu trùng/lít) Bể 1b (10 ấu trùng) Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 30,5 31,5 8,1 8 ~ 1 30 31,5 7,8 8 0,2 2 30,5 31,5 7,9 8 0,1 2 31 31 7,8 8 ~ 3 29,5 31,5 8,2 8,1 0,2 3 30,8 31 7,8 7,8 0,2 4 ~ ~ ~ ~ ~ 4 30 31 7,8 7,9 ~ 5 ~ ~ ~ ~ ~ 5 30,5 31 7,8 7,8 0,3 6 31 33 7,9 7,7 0,1 6 ~ ~ ~ ~ ~ 7 30,5 32,5 8,1 7,8 ~ 7 30,3 31,5 7,73 7,66 ~ 8 30,5 32,5 8 7,9 0,1 8 29 30,5 7,9 8,12 0,3 9 31 32,5 8 8 ~ 9 30,8 30,5 7,85 7,92 ~ 10 31,4 33,2 8 8 0,1 10 28 28,5 7,87 7,88 0,2 11 ~ ~ ~ ~ ~ 11 29 31,5 7,91 7,9 ~ 12 31 31,5 7,8 8,1 0,1 12 ~ ~ ~ ~ ~ 13 29,5 31,5 8 8 ~ 13 30 31 7,8 7,8 0,2 14 29 31 7,7 7,7 0,1 14 31,5 32,5 7,74 7,81 ~ 15 30 31,4 7,6 7,6 ~ 15 30,5 33,0 7,8 7,9 0,1 16 29,5 31,3 7,7 7,8 0,1 16 30,5 31,5 7,8 7,8 ~ 17 30,3 32 8,1 8,2 0,1 17 30,8 31,2 7,8 8,0 0,1 18 ~ ~ ~ ~ ~ 18 29,5 29,0 7,9 8,0 ~ 19 29,5 31,5 7,9 8,1 0,1 19 ~ ~ ~ ~ ~ 20 30,5 32,3 8 7,9 ~ 20 31,0 31,5 7,8 7,8 0,1 21 31 32 7,9 8 0,1 21 30,5 31,0 7,8 7,9 ~ 22 29,8 32 7,7 7,9 ~ 22 30,5 31,0 7,9 8,0 0,3 23 29,5 31 8,2 7,8 0,1 23 29,0 29,5 7,8 7,8 ~ 24 30 31 8 8,1 ~ 24 30,0 30,0 7,9 8,0 0,5 25 ~ ~ ~ ~ ~ 25 29,0 29,0 7,8 7,9 ~ 26 30 31 7,9 8,1 0,1 26 29,5 31,0 7,8 7,8 0,4 27 31 32 7,8 7,8 ~ 27 30,0 31,5 7,9 8,1 0,1 28 31 32,5 8 8,1 0,2 28 30,5 32,5 8,0 7,9 ~ 29 31 32 7,8 8,1 ~ 29 32,0 32,5 8,0 8,0 0,1 30 31 31 7,8 7,9 0,2 30 30,0 32,5 8,1 7,9 ~ 31 30,5 31 7,9 8,1 ~ 31 29,5 31,0 8,2 8,1 0,1 32 30,8 31 7,9 8 0,1 32 30,5 30,0 8,0 8,1 ~ 33 30,5 31,2 7,9 8,1 ~ 33 30,2 31,0 8,0 8,1 0,2 34 Chết 34 31,5 32,8 7,9 8,1 0,1 35 30,0 32,5 7,8 8,0 ~ 36 PL 25% Bảng 5. Biến động môi trường bể 3 và 4 Bể 3 (70 ấu trùng/lít) Bể 4 (70 ấu trùng/lít) Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 ~ ~ ~ ~ ~ 1 ~ ~ ~ ~ ~ 2 ~ ~ ~ ~ ~ 2 29,5 31,5 8,1 8,1 0,1 3 ~ ~ ~ ~ ~ 3 30,0 31,5 8,2 8,1 ~ 4 30,0 30,5 8,1 8,1 0,6 4 30,0 31,5 8,2 8,1 1,0 5 30,0 31,5 8,2 8,1 ~ 5 29,5 31,5 8,3 8,2 ~ 6 30,0 31,0 8,2 8,1 1,0 6 30,0 32,0 8,1 8,2 0,6 7 29,5 31,5 8,2 8,2 ~ 7 30,5 32,5 8,2 8,1 ~ 8 30,5 32,0 8,1 8,2 0,9 8 ~ ~ ~ ~ ~ 9 30,5 32,5 8,1 8,2 ~ 9 31,0 32,0 7,7 7,8 0,2 10 ~ ~ ~ ~ ~ 10 30,0 32,0 7,8 7,9 ~ 11 30,5 32,0 7,7 8,0 0,5 11 30,5 32,0 7,7 8,0 0,4 12 30,0 32,0 8,0 8,0 ~ 12 29,5 31,5 7,9 7,9 ~ 13 30,5 32,0 7,9 8,0 0,4 13 29,7 31,5 7,9 7,9 0,5 14 29,7 31,5 7,9 7,9 ~ 14 29,5 30,5 7,7 7,8 ~ 15 30,0 31,5 7,5 7,9 0,3 15 ~ ~ ~ ~ ~ 16 30,0 30,5 7,8 7,8 ~ 16 30,5 31,8 7,9 8,0 0,6 17 ~ ~ ~ ~ ~ 17 30,3 32,0 7,9 8,0 ~ 18 30,5 32,0 8,0 8,0 0,2 18 30,0 32,0 7,8 8,0 0,4 19 30,0 32,0 8,0 8,0 ~ 19 29,8 31,5 7,8 7,9 ~ 20 30,3 32,0 7,9 8,0 0,4 20 30,0 31,5 8,0 7,8 0,2 21 29,8 31,5 7,8 7,8 ~ 21 30,0 31,5 8,0 7,8 ~ 22 30,0 31,5 8,1 7,8 0,2 22 ~ ~ ~ ~ ~ 23 30,0 31,5 8,0 7,8 ~ 23 30,5 31,5 8,4 8,2 0,4 24 ~ ~ ~ ~ ~ 24 30,2 32,0 8,5 8,1 ~ 25 30,5 32,0 8,4 8,2 0,3 25 30,5 31,5 7,8 8,2 0,1 26 30,4 31,5 8,1 8,2 ~ 26 30,5 31,5 7,8 8,1 ~ 27 30,8 31,5 8,2 8,2 0,1 27 30,8 31,5 8,1 8,0 0,1 28 30,5 31,5 8,0 8,1 ~ 28 29,5 31,5 8,3 8,3 0,2 29 30,8 31,5 8,0 8,0 0,1 29 ~ ~ ~ ~ ~ 30 29,5 31,5 8,2 8,2 0,2 30 ~ ~ ~ ~ ~ 31 ~ ~ ~ ~ ~ 31 31,0 33,0 8,0 7,8 0,1 32 ~ ~ ~ ~ ~ 32 30,7 32,5 8,1 7,9 ~ 33 Chết 33 30,5 32,5 8,0 8,0 0,1 ~ ~ ~ ~ ~ ~ 34 31,3 32,5 8,0 8,0 ~ ~ ~ ~ ~ ~ ~ 35 31,7 33,0 8,1 8,1 0,3 ~ ~ ~ ~ ~ ~ 37 PL 7,3% Bảng 6. Biến động nhiệt độ bể 5 và 8 Bể 5 (46 ấu trùng/lít) Bể 8 (77 ấu trùng/lít) Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 30,0 31,5 8,1 7,8 0,3  1 ~  ~  ~   ~  ~ 2 30,0 31,0 8,2 8,1 ~ 2 30 31 8,2 8,1 0,2 3 30,5 31,0 8,2 8,1 0,5 3 30 31,5 8,2 8,1 ~ 4 30,0 31,5 8,2 8,2 ~ 4 30 31,5 8,2 8,2 0,6 5 30,5 32,0 8,1 8,2 0,5 5 29,5 31,5 8,3 8,2 ~ 6 30,5 32,5 8,0 8,1 ~ 6 30 32 8,1 8,2 0,4 7 ~ ~ ~ ~ ~ 7 31 32 8,1 8,1 ~ 8 31,0 32,0 7,8 7,8 0,5 8 ~ ~ ~ ~ ~ 9 30,0 32,0 7,9 8,0 ~ 9 30,5 32 7,7 7,9 0,5 10 30,5 32,0 7,9 8,0 0,5 10 30 32 7,9 7,8 ~ 11 30,0 31,8 7,9 7,9 ~ 11 30,5 31,5 7,8 7,9 0,2 12 30,0 32,0 7,9 7,9 0,6 12 29,3 31 7,8 7,8 ~ 13 30,0 30,5 7,8 7,9 ~ 13 ~ ~ ~ ~ ~ 14 ~ ~ ~ ~ ~ 14 29,5 31 7,8 7,9 0,1 15 31,0 32,0 7,9 7,8 0,1 15 ~ ~ ~ ~ ~ 16 30,5 32,0 7,8 8,0 ~ 16 30 31,5 7,9 7,8 0,4 17 30,5 32,0 7,8 8,0 0,4 17 30 32 8,0 8,0 ~ 18 30,0 31,5 7,8 7,9 ~ 18 29,8 32 7,8 8,0 0,3 19 30,0 31,5 7,9 7,8 0,2 19 29,8 31,2 7,8 7,9 ~ 20 30,2 32,5 8,0 7,8 ~ 20 29,5 31,5 7,9 7,8 0,2 21 ~ ~ ~ ~ ~ 21 30 31,5 7,9 7,9 ~ 22 30,5 31,5 8,4 8,2 0,4 22 ~ ~ ~ ~ ~ 23 30,5 32,0 8,5 8,1 ~ 23 30,5 31,5 8,4 8,2 0,3 24 31,0 32,0 8,0 8,2 0,1 24 30 32 8,4 8,1 ~ 25 30,5 31,5 8,0 8,1 ~ 25 30,5 31,5 8,3 8,2 0,1 26 30,5 31,5 8,1 8,0 0,1 26 30,5 31,5 8,0 8,0 ~ 27 29,5 31,5 8,3 8,3 0,2 27 30,5 31 8 8 0,3 28 ~ ~ ~ ~ ~ 28 29,5 31,5 8,3 8,2 0,2 29 ~ ~ ~ ~ ~ 29 30 31,0 33,0 8,0 7,8 0,1 30 31 30,7 32,4 8,1 7,9 ~ 31 PL 16,8% 32 31,0 32,5 8,0 7,9 0,1 33 31,7 32,5 8,0 8,0 ~ 34 31,6 33,0 7,9 8,0 ~ 35 ~ ~ ~ ~ ~ 36 PL 11% Bảng 7. Biến động môi trường bể 10 và 13c Bể 10 (45 ấu trùng/lít) Bể 13c (63 ấu trùng/lít) Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N NO2-N Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 ~ ~ ~ ~ ~ 1,0 ~ ~ ~ ~ ~ ~ 2 30,5 32 8,2 8,1 0,7 2 31,5 32,8 7,9 8,1 0,1 0,0 3 30 31 8,2 8,1 ~ 3 30,0 32,5 7,8 8,0 ~ ~ 4 30 32 8,1 8,2 1,0 4 31,5 31,0 7,7 7,7 0,2 0,1 5 30,5 31,5 8,2 8,2 ~ 5 29,0 31,0 7,8 8,0 ~ ~ 6 30 32 8,1 8,2 0,5 6 7 30,5 33 8,0 8,1 ~ 7 31,0 31,5 8,0 8,0 0,2 0,2 8 8 29,5 31,0 7,8 8,0 ~ ~ 9 31 32 7,9 7,9 0,6 9 30,5 31,5 7,9 8,0 0,3 0,0 10 30 32 7,9 7,9 ~ 10 31,5 31,0 7,7 7,8 ~ ~ 11 30,5 32 7,9 7,9 0,6 11 31,0 31,0 7,8 7,8 0,1 0,0 12 29,7 31,5 8,0 8,0 ~ 12 30,0 31,5 7,8 7,9 ~ ~ 13 30 32 7,9 7,9 0,5 13 ~ ~ ~ ~ ~ ~ 14 30 30,6 7,9 7,9 ~ 14 31,0 31,0 7,9 7,8 0,5 0,0 15 ~ ~ ~ ~ 15 30,8 32,0 7,8 7,8 ~ ~ 16 29,5 31,5 8,2 8,2 0,2 16 29,0 30,5 8,0 7,9 0,3 0,3 17 29,5 31,5 8,2 8,1 ~ 17 30,5 30,5 7,7 8,1 0,2 0,0 18 30,0 31,0 8,2 8,0 0,5 18 28,0 28,5 7,9 7,8 ~ ~ 19 29,5 32,0 8,2 8,2 ~ 19 29,0 31,5 7,9 8,0 0,5 5,0 20 30,0 32,0 8,0 8,2 0,1 20 ~ ~ ~ ~ ~ ~ 21 30,5 32,5 8,2 8,1 ~ 21 30,5 31,0 7,8 7,8 0,5 0,5 22 ~ ~ ~ ~ ~ 22 31,5 32,7 7,8 7,8 ~ ~ 23 30,5 32,0 7,9 8,0 0,3 23 30,5 33,0 7,8 7,9 0,1 0,2 24 30,0 32,0 7,9 7,7 ~ 24 30,5 31,5 7,8 7,8 ~ ~ 25 30,5 31,5 7,9 8,0 0,3 25 30,8 31,2 7,8 8,0 0,1 0,1 26 29,0 31,0 7,9 7,9 ~ 26 29,5 29,0 7,9 8,0 ~ ~ 27 30,0 31,5 7,9 7,9 0,2 28 30,0 31,0 7,9 7,9 ~ 28 31,0 31,5 7,8 7,8 0,1 0,2 29 ~ ~ ~ ~ ~ 29 30,5 31,0 7,8 7,9 ~ ~ 30 30,0 31,5 7,9 8,0 0,4 30 30,5 31,0 7,9 8,0 0,3 0,1 31 29,8 31,0 8,0 8,0 ~ 31 29,0 29,5 7,8 7,8 ~ ~ 32 29,5 32,0 7,5 8,0 0,3 32 30,0 30,0 7,9 8,0 0,5 0,1 33 29,5 31,5 7,9 8,0 ~ 33 29,0 29,0 7,8 7,9 ~ ~ 34 PL 17,76% 34 29,5 31,0 7,8 7,8 0,4 0,0 35 PL 23% Bảng 8. Biến động môi trường bể 14 và 17 Bể 14 (87 ấu trùng/lít) Bể 15 (110 ấu trùng/lít) Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 30,5 32,0 8,1 8,1 0,1 1 32,0 33,0 7,7 8,1 0,5 2 31,0 31,5 8,2 8,2 ~ 2 30,0 33,0 7,9 8,1 ~ 3 30,5 31,5 8,1 8,0 0,1 3 31,5 33,0 7,9 8,0 0,8 4 30,0 32,0 8,3 8,3 0,2 4 30,5 33,0 7,9 7,9 ~ 5 ~ ~ ~ ~ ~ 5 30,5 33,0 8,0 7,9 0,5 6 ~ ~ ~ ~ ~ 6 29,8 31,0 7,7 7,9 ~ 7 32,0 33,0 7,9 7,8 0,1 7 ~ ~ ~ ~ ~ 8 31,0 32,6 8,1 7,9 ~ 8 31,0 32,0 7,8 7,8 0,4 9 31,3 32,5 8,0 8,0 0,1 9 31,0 33,0 7,6 7,8 ~ 10 32,0 33,0 8,1 8,0 ~ 10 30,3 33,0 7,9 7,8 0,3 11 31,6 33,0 8,0 8,0 0,3 11 30,0 31,5 7,7 7,8 ~ 12 ~ ~ ~ ~ ~ 12 30,5 31,8 8,1 7,9 0,2 13 31,5 31,5 7,8 8,2 0,2 13 30,2 31,4 7,9 8,0 ~ 14 30,5 31,5 8,0 8,0 ~ 14 ~ ~ ~ ~ ~ 15 29,0 31,0 7,7 7,6 0,4 15 30,0 32,0 8,4 7,9 0,2 16 30,0 31,5 7,7 7,6 ~ 16 30,5 32,0 8,1 8,3 ~ 17 30,0 32,0 7,6 7,8 0,1 17 30,5 32,0 8,0 8,1 0,1 18 30,5 32,0 8,1 8,3 0,1 18 31,0 31,5 8,2 8,3 ~ 19 ~ ~ ~ ~ ~ 19 30,5 31,5 8,1 8,0 0,1 20 30,0 31,5 7,9 8,1 0,1 20 30,0 32,0 8,3 8,3 0,2 21 30,5 32,5 8,0 7,9 ~ 21 ~ ~ ~ ~ ~ 22 32,0 32,5 8,0 8,0 0,1 22 ~ ~ ~ ~ ~ 23 30,0 32,5 8,1 7,9 ~ 23 32,0 33,0 7,9 7,7 0,1 24 29,5 31,0 8,2 8,1 0,1 24 31,5 32,5 8,1 7,9 ~ 25 30,5 30,0 8,0 8,1 ~ 25 31,3 32,5 8,0 8,0 0,1 26 30,2 31,0 8,0 8,1 0,2 26 32,0 32,6 8,1 8,0 ~ 27 31,5 32,8 7,9 8,1 0,1 27 32,0 33,0 8,1 8,1 0,3 28 30,0 32,5 7,8 8,0 ~ 28 ~ ~ ~ ~ ~ 29 ~ ~ ~ ~ ~ 29 31,5 31,5 7,9 8,0 0,2 30 31,5 31,0 7,7 7,7 0,2 30 30,5 31,5 8,0 8,0 ~ 31 29,0 31,0 7,8 8,0 ~ 31 29,0 31,0 7,7 7,7 0,1 32 31,0 31,5 8,0 8,0 0,2 32 30,5 31,5 7,7 7,9 ~ 33 PL 5,8% 33 30,0 31,5 7,6 7,8 0,1 34 30,5 32,0 7,9 7,9 0,1 35 ~ ~ ~ ~ ~ 36 30,0 31,6 7,8 7,9 0,1 37 30,5 32,5 7,8 8,0 ~ 37 PL 1,36% Bảng 9. Biến động môi trường bể 20a, 19b va 20b Bể 20a (45 ấu trùng/lít) Bể 19b (40 ấu trùng/lít) Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều Sáng Chiều 1 30 32 7,9 7,8 0,4 1 ~ ~ ~ ~ ~ 2 30 32,5 7,8 7,9 ~ 2 ~ ~ ~ ~ ~ 3 30 32 7,8 7,9 0,3 3 31 33 8 7,8 0,1 4 30 31 7,8 7,8 ~ 4 30,7 32,5 8 7,9 ~ 5 ~ ~ ~ ~ ~ 5 30,8 32,5 8 8 0,1 6 29,5 31,5 8,1 8,1 0,1 6 31,5 32,5 7,9 8 ~ 7 29,5 31,5 8,1 8,1 ~ 7 31,4 31,9 8 8 0,1 8 29,5 31,5 8,0 8,1 0,3 8 ~ ~ ~ ~ ~ 9 29,5 31,8 8,1 8,3 ~ 9 31 31,5 7,8 8,1 0,2 10 31 32 8,1 8,2 0,1 10 29,5 31,5 8 8 ~ 11 30 32,5 8,0 8,2 ~ 11 29 31 7,8 7,6 0,3 12 ~ ~ ~ ~ ~ 12 30 31,5 7,7 7,6 ~ 13 30,5 32 7,8 8,0 0,2 13 29,8 31,5 7,6 7,8 0,1 14 29,5 31,5 7,9 8,0 ~ 14 30,5 30 8 8,2 0,1 15 30,5 32 7,9 8,0 0,3 Bể 20b (60 ấu trùng/lít) 16 29,5 31,5 7,9 7,9 ~ Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N NO2-N 17 29,5 31,8 8,1 7,9 0,4 Sáng Chiều Sáng Chiều 18 29,3 30,5 7,8 7,8 ~ 1 30,3 31,5 7,9 8,0 0,1 ~ 19 ~ ~ ~ ~ ~ 2 30,5 31,5 7,8 8,0 ~ ~ 20 29,5 31,5 8,1 8,1 0,4 3 31,3 32 8,0 8,2 0,2 0 21 29,5 31,5 8,1 8,1 ~ 4 31 32 7,9 7,8 ~ ~ 22 29,5 31 8,1 8,1 0,5 5 31,3 32,5 8,0 8,1 0,1 0 23 29,5 32 8,2 8,2 ~ 6 31 32,2 7,8 8,0 ~ ~ 24 30,8 32 8,1 8,3 0,2 7 31,3 31 7,7 7,8 0,3 0,1 25 30 32,5 8,0 7,8 ~ 8 31 31,5 7,8 7,9 ~ ~ 26 ~ ~ ~ ~ ~ 9 ~ ~ ~ ~ ~ ~ 27 31 33 7,8 7,9 0,5 10 30 31,5 8,0 8,0 0,2 0,2 28 29,5 32 7,9 7,9 ~ 11 29,5 31,5 8,0 7,8 ~ ~ 29 30,5 32 7,9 7,9 0,3 12 30 31,5 7,8 8,0 0,2 0 30 29 31,8 7,9 7,8 ~ 13 31 31 7,8 7,8 ~ ~ 31 29,5 32 7,9 7,9 0,4 14 30,8 31 7,8 7,8 0,1 0 32 29 31 7,8 7,9 ~ 15 30 31 7,8 7,9 ~ ~ 33 ~ ~ ~ ~ ~ 16 ~ ~ ~ ~ ~ ~ 34 30 31,8 7,9 7,8 0,6 17 30,4 31 7,8 7,8 0,3 0 35 30 33 7,7 7,2 ~ 18 30,4 31,5 7,8 7,7 ~ ~ 36 30 32 7,8 7,8 0,4 19 29 30,5 8,0 8,1 0,3 0,2 37 29,5 30,5 7,8 7,9 ~ 20 30,5 30,5 7,8 8,0 0,3 0 38 PL 25,2% 21 Chết Bảng 10. Biến động môi trường bể 11 Bể 11 (126 ấu trùng/lít) Ngày tuổi Nhiệt độ pH NH3-N NO2-N Sáng Chiều Sáng Chiều 1,0 ~ ~ ~ ~ ~ ~ 2 31,5 32,8 7,9 8,1 0,1 0,0 3 30,0 32,5 7,8 8,0 ~ ~ 4 31,5 31,0 7,7 7,7 0,2 0,1 5 29,0 31,0 7,8 8,0 ~ ~ 6 7 31,0 31,5 8,0 8,0 0,2 0,2 8 29,5 31,0 7,8 8,0 ~ ~ 9 30,5 31,5 7,9 8,0 0,3 0,0 10 31,5 31,0 7,7 7,8 ~ ~ 11 31,0 31,0 7,8 7,8 0,1 0,0 12 30,0 31,5 7,8 7,9 ~ ~ 13 ~ ~ ~ ~ ~ ~ 14 31,0 31,0 7,9 7,8 0,5 0,0 15 30,8 32,0 7,8 7,8 ~ ~ 16 29,0 30,5 8,0 7,9 0,3 0,3 17 30,5 30,5 7,7 8,1 0,2 0,0 18 28,0 28,5 7,9 7,8 ~ ~ 19 29,0 31,5 7,9 8,0 0,5 5,0 20 ~ ~ ~ ~ ~ ~ 21 30,5 31,0 7,8 7,8 0,5 0,5 22 31,5 32,7 7,8 7,8 ~ ~ 23 30,5 33,0 7,8 7,9 0,1 0,2 24 30,5 31,5 7,8 7,8 ~ ~ 25 30,8 31,2 7,8 8,0 0,1 0,1 26 29,5 29,0 7,9 8,0 ~ ~  27 ~ ~  ~  ~  ~  ~  28 31,0 31,5 7,8 7,8 0,1 0,2 29 30,5 31,0 7,8 7,9 ~ ~ 30 30,5 31,0 7,9 8,0 0,3 0,1 31 29,0 29,5 7,8 7,8 ~ ~ 32 30,0 30,0 7,9 8,0 0,5 0,1 33 29,0 29,0 7,8 7,9 ~ ~ 34 29,5 31,0 7,8 7,8 0,4 0,0 35 PL 21% Bảng 11. Biến động môi trường nước hệ lọc tuần hoàn Ngày Nước ra hệ lọc Nước vào hệ lọc Ngày Nước ra hệ lọc Nước vào hệ lọc NH3-N NO2-N pH NH3-N NO2-N pH NH3-N NO2-N pH NH3-N NO2-N pH 16/03 0,0 8,1 0,2 8,1 13/05 0,0 0,2 8,0 0,2 3,0 8,0 17/03 0,0 8,1 0,2 8,1 14/05 0,0 0,2 8,0 0,1 4,0 8,0 18/03 0,0 8,0 0,2 8,1 16/05 0,0 0,1 7,9 0,2 1,0 7,9 19/03 0,0 8,1 0,2 8,0 17/05 0,0 0,1 8,0 0,2 0,5 8,0 21/03 0,0 8,0 0,1 7,9 18/05 0,0 0,0 7,9 0,2 2,0 8,0 22/03 0,0 8,0 0,1 8,1 19/05 0,0 0,1 8,0 0,2 2,0 7,9 23/03 0,0 7,9 0,2 7,9 20/05 0,0 0,0 8,4 0,1 0,5 8,0 24/03 0,0 8,0 0,2 8,1 21/05 0,0 0,1 8,1 0,1 0,6 8,4 25/03 0,0 8,4 0,1 8,1 23/05 0,0 0,1 8,2 0,2 0,4 8,1 26/03 0,0 8,1 0,2 8,4 24/05 0,0 0,0 8,2 0,2 0,3 8,2 28/03 0,0 8,2 0,2 8,2 25/05 0,0 0,1 8,3 0,1 0,5 8,2 29/03 0,0 8,1 0,2 8,3 26/05 0,0 0,0 7,8 0,2 0,6 8,3 30/03 0,0 8,2 0,2 8,2 27/05 0,0 0,0 8,0 0,2 0,6 7,8 31/03 0,0 7,8 0,2 8,3 28/05 0,0 0,1 8,1 0,2 0,4 8,0 01/04 0,0 8,0 0,2 8,1 30/05 0,0 0,1 8,0 0,2 1,0 8,0 02/04 0,0 8,0 0,2 8,0 31/05 0,0 0,0 8,0 0,2 2,0 8,0 04/04 0,0 8,0 0,2 8,2 01/06 0,0 0,1 7,8 0,2 2,0 8,0 05/04 0,0 8,2 0,2 8,0 02/06 0,0 0,1 8,0 0,2 2,5 7,8 06/04 0,0 7,8 0,2 8,0 03/06 0,0 0,0 8,3 0,2 3,0 8,0 07/04 0,0 7,8 0,2 7,8 04/06 0,0 0,0 8,3 0,2 4,0 8,3 08/04 0,0 8,1 0,2 7,8 06/06 0,0 0,1 8,0 0,2 3,0 7,9 09/04 0,0 8,1 0,2 7,9 07/06 0,0 0,0 8,0 0,2 2,6 8,0 11/04 0,0 8,0 0,1 8,0 08/06 0,0 0,2 8,2 0,2 4,0 8,0 12/04 0,0 8,0 0,2 8,2 09/06 0,0 0,0 8,0 0,2 3,0 8,2 13/04 0,0 8,2 0,3 8,1 10/06 0,0 0,1 8,0 0,1 3,0 8,0 14/04 0,0 7,8 0,2 8,2 11/06 0,0 0,0 8,2 0,1 2,0 8,0 15/04 0,0 8,0 0,3 7,9 13/06 0,0 0,0 8,1 0,1 3,0 8,0 16/04 0,0 8,0 0,3 8,0 14/06 0,0 0,0 7,9 0,1 3,0 8,1 18/04 0,0 8,1 0,2 8,2 15/06 0,0 0,0 8,0 0,2 2,5 8,2 19/04 0,0 8,2 0,3 8,2 16/06 0,0 0,1 8,0 0,2 3,0 8,1 20/04 0,0 8,1 0,4 8,1 17/06 0,0 0,0 8,1 0,2 3,0 8,0 21/04 0,0 8,0 0,5 8,1 18/06 0,0 0,0 7,9 0,1 2,0 8,1 22/04 0,0 8,1 0,2 8,2 20/06 0,0 0,1 8,1 0,2 2,0 8,2 23/04 0,0 8,1 0,2 8,1 21/06 0,0 0,0 7,9 0,2 1,5 8,0 25/04 0,0 8,0 0,2 8,0 22/06 0,0 0,0 8,0 0,2 2,0 8,1 26/04 0,0 8,0 0,2 8,1 23/06 0,0 0,0 8,0 0,2 2,0 8,1 27/04 0,0 8,0 0,3 8,1 24/06 0,0 0,0 8,1 0,2 2,0 8,0 28/04 0,0 8,1 0,2 8,1 26/06 0,0 0,0 7,9 0,2 1,0 8,1 29/04 0,0 8,0 0,2 8,1 27/06 0,0 0,0 8,0 0,2 1,5 8,2 30/04 0,0 7,9 0,3 8,1 28/06 0,0 0,0 8,1 0,2 2,0 8,1 03/05 0,0 8,1 0,3 8,1 29/06 0,0 0,0 8,0 0,2 2,5 8,0 04/05 0,0 8,1 0,2 8,2 30/06 0,0 0,0 8,1 0,2 1,0 8,2 05/05 0,0 ~ 8,3 0,2 ~ 8,3 01/07 0,0 0,0 8,0 0,2 1,0 8,2 06/05 0,0 ~ 8,3 0,2 ~ 8,3 02/07 0,0 0,0 7,9 0,2 1,2 8,3 07/05 0,0 ~ 8,3 0,2 ~ 8,3 03/07 0,0 0,0 7,9 0,2 1,5 8,1 09/05 0,0 ~ 8,3 0,1 ~ 8,3 04/07 0,0 0,0 8,1 0,2 2,1 8,2 10/05 0,0 ~ 8,0 0,2 ~ 8,0 05/07 0,0 0,0 8,1 0,2 0,9 8,1 11/05 0,0 ~ 8,1 0,2 ~ 8,1 06/07 0,0 0,0 8,1 0,2 1,3 8,1 12/05 0,0 0,2 8,1 0,1 4,0 8,1

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN HOAN CHINH.doc