Tài liệu Đề tài Đánh giá hiện trạng khai thác rừng ngập mặn để phục vụ cho mục đích nuôi tôm trên cơ sở đó sẽ đề xuất giải pháp sử dụng hợp lý tại xã Tam Hải - Núi Thành - Quảng Nam: LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy Phạm Tài Minh người đã hướng dẫn và tận tình chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình hoàn thiện luận văn này, ngoài ra còn có các Thầy Cô khoa Công nghệ Sinh học và Môi trường , trường Cao Đẳng Đức Trí thành phố Đà Nẵng.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn các Anh Chị tại phòng Chi Cục Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường huyện Núi Thành – tỉnh Quảng Nam. Và chú Lê Văn Hiệp và chú Nguyễn Đình Sơn tại Phòng Nông nghiệp – Phát triển Nông thôn đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian vừa qua trong quá trình thực hiện bài khóa luận này.
Và cuối cùng tôi xin cảm ơn sự quan tâm, động viên chia sẽ của gia đình và bạn bè .
Đà Nẵng, ngày 07/05/2009
Người thực hiện
Phạm Đăng Lâm
MỤC LỤC
Phần 1.ĐẶT VẤN ĐỀ
Phần 2.TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. VAI TRÒ CỦA RỪNG NGẬP MẶN
2.1.1. Đối với tự nhiên
2.1.2. Đối với con người
2.2. TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ ...
80 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1306 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá hiện trạng khai thác rừng ngập mặn để phục vụ cho mục đích nuôi tôm trên cơ sở đó sẽ đề xuất giải pháp sử dụng hợp lý tại xã Tam Hải - Núi Thành - Quảng Nam, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thầy Phạm Tài Minh người đã hướng dẫn và tận tình chỉ bảo cho tôi trong suốt quá trình hoàn thiện luận văn này, ngoài ra còn có các Thầy Cô khoa Công nghệ Sinh học và Môi trường , trường Cao Đẳng Đức Trí thành phố Đà Nẵng.
Đồng thời tôi xin chân thành cảm ơn các Anh Chị tại phòng Chi Cục Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường huyện Núi Thành – tỉnh Quảng Nam. Và chú Lê Văn Hiệp và chú Nguyễn Đình Sơn tại Phòng Nông nghiệp – Phát triển Nông thôn đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian vừa qua trong quá trình thực hiện bài khóa luận này.
Và cuối cùng tôi xin cảm ơn sự quan tâm, động viên chia sẽ của gia đình và bạn bè .
Đà Nẵng, ngày 07/05/2009
Người thực hiện
Phạm Đăng Lâm
MỤC LỤC
Phần 1.ĐẶT VẤN ĐỀ
Phần 2.TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. VAI TRÒ CỦA RỪNG NGẬP MẶN
2.1.1. Đối với tự nhiên
2.1.2. Đối với con người
2.2. TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG RNM TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.2.1. Tình hình khai thác và sử dụng RNM trên Thế Giới
2.2.2. Tình hình khai thác và sử dụng RNM tại Việt Nam
2.3. TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP PRA (ĐÁNH GIÁ NÔNG THÔN CÓ SỰ THAM GIA NGƯỜI DÂN)
2.4. TỔNG QUAN VỀ HUYỆN NÚI THÀNH - TỈNH QUẢNG NAM
2.4.1. Các nhân tố tự nhiên
2.4.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.5. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG RNM NÚI THÀNH - QUẢNG NAM
Phần 3.ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.2. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.4.1. Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa
3.4.2. Phương pháp thống kê
3.4.3. Phương pháp PRA
3.4.4. Phương pháp thu thập thông tin
3.4.5. Phương pháp xử lý số liệu
Phần 4.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BIỆN LUẬN
4.1. Đặc điểm tự nhiên của xã Tam Hải - Núi Thành – Quảng Nam
4.1.1. Vị trí địa lý
4.1.2. Địa hình
4.1.3. Khí hậu và thuỷ văn
4.2. Hiện trạng rừng ngập mặn xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam
4.2.1. Diện tích rừng ngập mặn tại xã Tam Hải
4.2.2. Sự phân bố cây ngập mặn tại xã Tam Hải
4.2.3. Thành phần loài cây ngập mặn tại xã Tam Hải
4.2.4. Hiện trạng nuôi tôm xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam.
4.2.5. Nguyên nhân làm rừng ngập mặn bị suy giảm
4.2.6. Đề xuất giải pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
KIẾN NGHỊ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phần 1.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hoá, thời kỳ đang đẩy mạnh phát triển nền kinh tế, đặc biệt là phát triển nhanh khu vực nông thôn. Để làm được điều này đòi hỏi chúng ta phải có một chiến lược phát triển đúng đắn, kết hợp với việc khai thác và sử dụng các dạng tài nguyên có hiệu quả, trong đó bao gồm cả diện tích mặt nước.
Việt Nam có đường bờ biển dài trên 3260 km, 12 đầm phá. Trong hệ đầm phá thì dải rừng ngập mặn ven biển có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng về kinh tế và xã hội. Nó được đánh giá như là bức tường xanh vững chắc bảo vệ bờ biển, đê biển, hạn chế xói lở và các tác hại của bão lụt. Do vậy, rừng ngập mặn đóng một vai trò quan trọng đối với cuộc sống của hàng triệu người dân nghèo ven biển Việt Nam.
Tuy nhiên, dưới sức ép của việc phát triển đô thị và công nghiệp, dân sinh, hơn 50% diện tích rừng ngập mặn ở Việt Nam mất đi vì những nguyên nhân do con người gây ra. Rừng ngập mặn đã bị khai thác quá mức hoặc chuyển sang nhiều dạng sử dụng đất khác trong đó có nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, trồng rừng trên cạn,…Điển hình là phá rừng để nuôi tôm nên rừng ngập mặn của Việt Nam có 400.000 ha, hiện nay còn lại trên 175.000 ha [8].
Tại Trung Bộ có diện tích rừng ngập mặn 3000 ha chiếm 2% diện tích rừng cả nước. Trong đó, rừng ngập mặn xã Tam Hải huyện Núi Thành tỉnh Quảng Nam trước đây có diện tích khá lớn ( 22,7 ha) và rất đa dạng về chủng loại. Nhưng những năm gần đây do nhiều lý do và chưa hiểu hết giá trị nhiều mặt của hệ sinh thái rừng ngập mặn, hoặc do những lợi ích kinh tế trước mắt, đặc biệt là nguồn lợi từ tôm nuôi xuất khẩu nên diện tích rừng ngập mặn suy giảm mạnh gây ra nhiều đột biến bất lợi cho môi trường sinh thái về kinh tế - xã hội của xã Tam Hải nói riêng và huyện Núi Thành nói chung.
Để chấm dứt tình trạng phá rừng như hiện nay đồng thời, bảo vệ và khôi phục diện tích RNM là một việc làm khó khăn, tốn kém, mất thời gian. Đòi hỏi phải có nhiều nghành, nhiều cấp nhiều người tham gia theo một chương trình thống nhất mới giải quyết được vấn đề bức xúc này.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên và cùng với lòng mong muốn góp phần trí tuệ nhỏ bé của mình nhằm khôi phục hiện trạng rừng ngập mặn của địa phương nên chúng tôi chọn đề tài: "Đánh giá hiện trạng khai thác rừng ngập mặn để phục vụ cho mục đích nuôi tôm trên cơ sở đó sẽ đề xuất giải pháp sử dụng hợp lý tại xã Tam Hải - Núi Thành - Quảng Nam” nhằm đánh giá hiện trạng khai thác diện tích rừng ngập mặn và đề xuất giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả rừng ngập mặn trong việc phát triển nghề nuôi tôm.
Phần 2.
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. VAI TRÒ CỦA RỪNG NGẬP MẶN
2.1.1. Đối với tự nhiên
Rừng ngập mặn (RNM) là rừng nhiệt đới ven biển, có vai trò bảo vệ bờ biển chống lại xói mòn do gió bão thường xảy ra ở vùng ven biển nhiệt đới. Những nghiên cứu gần đây nhất cho thấy rằng RNM góp phần gia tăng sản lượng của nhiều quần thể thủy sinh vật sống gần dãy san hô ngầm (Mumby et al., 2004). RNM còn cung cấp chất hữu cơ và dinh dưỡng như chất đạm và lân cho vùng ven biển từ sự phân hủy của vật rụng, từ đây hình thành chuỗi thức ăn từ những mảnh vỡ vụn của vật rụng, và chuỗi thức ăn này là nguồn dinh dưỡng quan trọng cho các loài thủy sản ven biển (Alongi, 1990; Alongi et al.,1989). Do vậy, vai trò của rừng ngập mặn đối với hệ sinh thái ven biển chính là nơi cung cấp thức ăn cho các loài thủy sản nhất là tôm và cá, và chắc chắn rằng sản lượng khai thác thủy sản tại đây phụ thuộc vào diện tích rừng ngập mặn trong vùng. Ngoài ra RNM còn có những vai trò quan trọng khác như :
RNM là “lá phổi xanh” rất quan trọng trong việc làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nó giúp tiêu thụ một lượng đáng kể các khí thải độc hại và làm tăng lượng Oxi cho chúng ta. Nhằm giúp giảm bớt hiện tượng nóng lên của trái đất và ngăn ngừa tình trạng dâng lên của nước biển gây ảnh hưởng đến đời sống của những người dân ven biển.
RNM đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, cung cấp chất hữu cơ để tăng năng suất nuôi trồng, phát triển kinh tế vùng ven biển.
Rừng ngập mặn ổn định bờ biển và thúc đẩy quá trình bồi đắp phù sa, phân tán bớt năng lượng của sóng, gió và thuỷ triều. Giúp bảo vệ động vật khi nước triều lên cao và sóng lớn ví dụ nhiều loài động vật sống trong hang hoặc trên mặt bùn khi điều kiện thời tiết bất lợi, nước triều cao, sóng lớn đã trèo lên cây để tránh sóng như cá Lác, các loại Còng, Cáy, Ốc. Giúp cho tính đa dạng trong hệ sinh thái rừng ngập mặn tương đối ổn định.
Nhờ bộ rễ nó còn giúp cản các loài trầm tích lắng đọng, giữ hoa lá, cành rụng trên mặt bùn và phân hủy tại chỗ giúp tăng chất dinh dưỡng cho đất.
Tóm lại, rừng ngập mặn có vai trò hết sức to lớn đối với tự nhiên. Vì vậy, bảo vệ rừng ngập mặn là nhiệm vụ quan trọng trong mỗi con người chúng ta.
2.1.2. Đối với con người
Rừng ngập mặn đóng một vai trò quan trọng đối với cuộc sống của hàng triệu người dân nghèo ven biển Việt Nam. Rừng ngập mặn (RNM) cung cấp cho con người rất nhiều hàng hoá và dịch vụ môi trường. RNM được sử dụng làm củi đốt, vật liệu làm nhà ở nông thôn, và quan trọng đây chính là nơi sinh sản, nuôi dưỡng, và nó đem lại lợi nhuận kinh tế rất cao, cung cấp nguồn hải sản phong phú để sử dụng trong nước và xuất khẩu (Lee, 1995; Rasolofo, 1997; Slim et al., 1997; Athithan & Ramadhas, 2000).
Ngoài ra, ta có thể thu nhập từ các nguồn khác như : nuôi ong lấy mật, bán cây giống, khai thác măng tre, khai thác gỗ cốp pha từ cây phi lao và số lượng lớn than củi… Trong số 51 loại cây rừng có 30 loài cung cấp gỗ, củi, than, 14 loại cung cấp tannin, 24 loài có thể sử dụng làm phân xanh nông nghiệp, 15 loài có thể lam thuốc nam, 21 loài có thể dùng nuôi ong và 1 loài có thể dùng làm đường, sáp ( Phan Nguyên Hồng, 1999).
Mặt khác, RNM là nguồn tài nguyên du lịch sinh thái hết sức quý giá. Tại Việt Nam, những năm gần đây khách du lịch ngày càng có xu hướng tìm đến tham quan, nghiên cứu các khu RNM, theo đó, nguồn lợi ngành Du lịch thu được từ hệ sinh thái này cũng tăng lên. RNM thực sự trở thành đối tượng tiềm năng đối với hoạt động khai thác phát triển du lịch nói riêng, kinh tế - xã hội nói chung.
Sau đây là một số nguyên cứu nói lên vai trò RNM trên :
Theo báo cáo của Ủy ban Liên quốc gia (IPCC) thuộc Liên hợp quốc sự nóng lên toàn cầu cho biết nhờ vai trò quan trọng của RNM như việc lọc sinh học trong việc xử lý chất thải. Ngoài ra nó còn có tác dụng xử lý chất dinh dưỡng từ đất liền và giữ vai trò vùng đệm chống lại các dòng chảy ô nhiễm, vì thế cho đến nay các hiện tuợng biến đổi khí hậu như hiệu ứng nhà kính, băng tan đã giảm đi một phần đáng kể .
Theo nhóm khảo sát của GS-TSKH Phan Nguyên Hồng (Trung tâm Nghiên cứu hệ sinh thái RNM, ĐH Sư Phạm Hà Nội) cho thấy độ cao sóng biển giảm mạnh khi đi qua dải RNM với mực biến đổi từ 75% đến 85% từ 1,3m xuống 0,2m - 0,3m. Tương tự, đợt sóng thần khủng khiếp ngày 26-12-2004 hơn 2 triệu người ở 13 quốc gia Châu Á và Châu Phi bị thiệt mạng, môi trường bị tàn phá nặng nề, nhưng kết quả khảo sát của IUCN ( Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên thế giới) và UNEP ( Chương trình Môi trường thế giới) cùng các nhà khoa học cho thấy, những làng xóm ở phía sau “bức tường xanh” RNM với băng rừng rộng gần như còn nguyên vẹn vì năng lượng sóng đã được giảm từ 50% đến 90%, nên thiệt hại về người rất thấp hoặc không bị tổn thất… Cụ thể như RNM ở Ấn Độ, khoảng từ làng xóm ra bờ biển 1km so với nơi không có rừng ngập mặn thiệt hại giảm 50%-80%.
Theo số liệu của Chi cục bảo vệ đê điều và phòng chống lụt bão thành phố Hải Phòng, trước đây chi phí tu bổ đê điều trung bình hằng năm là 5 triệu đồng/ mét dài nhưng kể từ khi có rừng ngập mặn bảo vệ phía ngoài đê chi phí này đã giảm xuống còn 1,2 triệu đồng/mét dài.
Tóm lại, qua những nguyên cứu trên ta thấy được vai trò quan trọng của hệ sinh thái rừng ngập mặn. Vì vậy bảo vệ được hệ sinh thái này là bảo vệ được độ ổn định, cân bằng của cả hệ thống kinh tế và hệ thống môi trường trong quá trình phát triển khu vực .
2.2. TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG RNM TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.2.1. Tình hình khai thác và sử dụng RNM trên Thế Giới
Rừng ngập mặn là một trong những hệ sinh thái rất quan trọng ở vùng ven biển nhiệt đới và á nhiệt đới. Thế giới có khoảng 18 triệu ha, các nước Đông Nam Á chiếm 35% diện tích (Spalding, 1997). Trong đó, vùng Ấn Độ Dương có rừng
ngập mặn đa dạng nhất với trên 50 loài cây.
Rừng ngập mặn đã và đang đối mặt với nhiều thách thức như diện tích rừng ngập mặn trên thế giới liên tục suy giảm. Trong 5 năm 1990 đến 1995, đã có 13,7 triệu ha rừng bị mất đi (FAO (1997). Rừng mất do các yếu tố thiên nhiên, tác động của con người (nuôi thuỷ sản, nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, đô thị hoá…… ,)
Trong vài thập kỷ gần đây, rất nhiều khu vực ven biển này đã chịu sức ép ngày càng tăng của việc phát triển đô thị và công nghiệp. Hơn 50% diện tích rừng ngập mặn đã mất đi vì những nguyên nhân do con người gây ra. Rừng ngập mặn đã bị khai thác quá mức hoặc chuyển sang nhiều dạng sử dụng đất khác trong đó có nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối, trồng rừng trên cạn, phát triển đô thị và công nghiệp. Đó là còn chưa kể hết rừng bị phá để làm đường xây dựng đê, mương. Diện tích rừng ngập mặn đã bị giảm từ 20 đến 75% ở nhiều nước châu Á
đang phát triển và vùng biển Caribê [10].
Dựa vào việc tính toán trên bản đồ ảnh vệ tinh và các số liệu thu thập được gần đây Spalding và cs (1997) đã lập bảng thóng kê tổng diện tích rừng ngập mặn các vùng trên thế giới là 181.077 km2.
Bảng 2.1: Diện tích RNM trên thế giới
Vùng
Diện tích rừng ngập mặn(km2)
Tỷ lệ (%)
Nam và Đông Nam Á
75.173
41.5
Austrailia
18.789
10.4
Châu Mỹ
49.096
27.1
Tây Phi
27.999.5
15.5
Đông Phi và Trung Đông
10.024
5.5
Tổng cộng
181.077
100
(Nguồn: Spalding, Blasco, Field, 1997)
Qua bảng 2.2 ta thấy diện tích RNM ở mỗi vùng đều khác nhau. Trong đó, diện tích ở vùng Nam và Đông Nam Á chiếm diện tích cao nhất. Sau đó, là Châu Mỹ và Tây Phi.
Chỉ riêng khu vực Ấn Độ - Tây Thái Bình Dương, cho đến năm 1991 đã có 1,2 triệu ha rừng ngập mặn chuyển thành ao nuôi tôm [21].
Ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, người ta ước tính tốc độ suy giảm rừng ngập mặn khoảng 1%/năm (Ong, 1995). Trong đó, nguyên nhân chủ yếu là do việc khai thác diện tích RNM để phục vụ cho mục đích nuôi tôm [21].
Ở Philippines, khoảng 50 % trong số 279.000 ha rừng ngập mặn bị mất đi trong giai đoạn từ năm 1951 đến 1988 do phá rừng làm ao nuôi tôm và 95% các ao nuôi tôm ở nước này trước đó là rừng ngập mặn (Primavera (1995)) [21].
Ở Thái Lan, trong giai đoạn 1961 đến 1993, có đến 54,7 % diện tích rừng ngập mặn bị mất đi do nghề nuôi tôm ( Menasveta, 1997) [21].
Tương tự ở Malaysia, 12% diện tích rừng bị mất trong 10 năm (1980-1990) [21].
Ở cấp quốc gia, Madagascar, Indonesia, Mexico, Pakistan, Papua New Guinea và Panama là những nước có diện tích rừng bị mất lớn nhất trong những năm 1980. Tổng diện tích rừng bị mất ở năm nước này là khoảng 1 triệu ha, tương đương với diện tích Jamaica. Nhưng trong những năm 1990, Pakistan và Panama đã thành công trong việc giảm tỷ lệ mất rừng ngập mặn. Ngược lại, Madagasca, Việt Nam và Malaysia lại trải qua thời kỳ phá rừng tăng lên và nằm trong số năm quốc gia đứng đầu về diện tích rừng bị mất trong thập niên 1990 và giai đoạn 2000-2005. FAO (Tổ chức nông lương thế giới) chỉ ra rằng áp lực dân số cao, sự chuyển đổi quy mô lớn một diện tích rừng ngập mặn sang nuôi trồng tôm cá, nông nghiệp, cơ sở hạ tầng và du lịch, cũng như ô nhiễm và các thảm họa tự nhiên là những nguyên nhân chính dẫn đến tàn phá rừng ngập mặn [20].
Như vậy, do áp lực vấn đề dân số và quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá con người đang ngày càng tác động đến RNM. Vì vậy, diện tích RNM suy giảm đáng kể.
2.2.2. Tình hình khai thác và sử dụng RNM tại Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có đường bờ biển kéo dài, có điều kiện tự nhiên phù hợp cho sự sinh trưởng và phát triển của các loài cây ngập mặn. Tổng diện tích rừng ngập mặn của nước ta là 400.000 ha. Tuy nhiên, trong những năm qua do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan đã tác động vào hệ sinh thái RNM làm cho diện tích RNM của nước ta bị suy giảm đáng kể.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp&Phát triển Nông thôn (NN - PTNT) cho thấy, năm 1943 diện tích RNM Việt Nam trên 400.000 ha, đến năm 1996 giảm còn 290.000 ha và 279.000 ha vào năm 2006. Như vậy, diện tích RNM nước ta bị suy
giảm rất lớn gần 50 %.
Bảng 2.2: Diện tích RNM trên lãnh thổ Việt Nam
Phân bố các tỉnh,thành phố
Diện tích RNM
Tỷ lệ (%)
Ven biển Bắc Bộ
43.811 ha
28.1%
Ven biển Trung Bộ
3.000 ha
2%
Ven biển Nam Bộ
82.387 ha
53%
(Nguồn: Paul Maurand, 1943; Rollet, 1962; Viện điều tra Quy hoạch rừng, 1982, 1999)
Qua bảng 2.2 ta thấy lượng rừng ngập mặn tại ven biển Nam Bộ là rất lớn và lớn hơn rất nhiều so với rừng ngập mặn ven biển Trung Bộ, trong khi đó rừng ngập mặn tại ven biển Bắc Bộ bằng một phần hai diện tích rừng ngập mặn tại ven biển Nam Bộ.
Diện tích rừng ngập mặn ở nước ta suy giảm là do sự phát triển ồ ạt của các khu sản xuất nông nghiệp, khu dân cư, khu nuôi tôm ven biển, ven sông. Mặt khác, do sức ép về gia tăng dân số, lạm phát tình trạng khai thác gỗ củi, phá rừng ngập mặn làm đầm nuôi tôm khiến diện tích rừng ngập mặn bị thu hẹp.
Dưới đây là một số nghiên cứu về diện tích rừng ngập mặn ở các tỉnh thành phố nước ta:
Hiện nay, Theo PGS-TS. Nguyễn Tác An, nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang cho biết, rừng ngập mặn huyện Núi Thành – tỉnh Quảng Nam trước đây rộng khoảng trên 220 ha với các loài thực vật bậc cao như mắm, bần, đước, dừa nước...Do phong trào nuôi tôm phát triển mạnh, nên rừng ngập mặn đã bị người dân chặt phá làm ao nuôi tôm. Đến năm 1997 chỉ còn lại khoảng 63 ha và hiện nay chỉ còn khoảng 10 ha. Đặc biệt vẫn còn giữ được khoảng gần 5 ha rừng dừa nước ở lưu vực sông Bến Đình, xã Tam Nghĩa. Rừng dừa nước này xã đã giao cho các hộ gia đình quản lý và chỉ được phép khai thác lá dừa và các loài thủy sản ở khu vực liền kề và có trách nhiệm bảo vệ và trồng phục hồi rừng dừa nước [14].
Theo thống kê của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Ninh, tổng diện tích rừng ngập mặn hơn 22.810 ha vào năm 1998 đến năm 2004. Do sự ô nhiễm môi trường nước từ việc thải trực tiếp xuống biển các chất thải rắn, nước thải của các mỏ than đang khai thác chưa qua xử lý và rác thải của nhiều tàu du lịch, lồng bè thuỷ sản, các điểm kinh doanh hải sản, các khu dân cư.. nên diện tích rừng ngập mặn trên địa bàn tỉnh suy giảm chỉ còn hơn 19.000 ha..[20].
Trên toàn tỉnh Nghệ An, diện tích rừng ngập mặn hiện có là 819,6 ha do hiện tượng dắp bờ nhằm tăng diện tích đất sản xuất nông nghiệp và phong trào nuôi tôm nổi lên rầm rộ khắp mọi nơi, nhiều cánh rừng ngập mặn bị tàn phá nặng nề. Đến năm 1985 hầu như rừng ngập mặn bị phá gần hết và chỉ còn sót lại cảnh rừng bần ở xã Hưng Hòa với diện tích khoảng gần 10 ha [19].
Rừng ngập mặn Cồn Chim nằm giữa đầm Thị Nại (Bình Định) trước đây có tổng diện tích trên 480 ha, trước đây là một vùng có hệ sinh thái động, thực vật phong phú và giàu tiềm năng nhưng trong nhiều năm qua, do việc khai thác thiếu kế hoạch và khoa học đã làm cho hệ sinh thái ở đây đã bị phá vỡ và suy giảm nghiêm trọng ... , gần đây đã bị gần 100 gia đình phá rừng để làm đầm tôm nên diện tích rừng ngập mặn hiện nay chỉ còn 5ha [16].
Theo số liệu của ngành Nông nghiệp, đến năm 2000, toàn tỉnh Khánh Hoà
chỉ còn 11,5 ha rừng ngập mặn, trong đó huyện Vạn Ninh còn 11 ha, Cam Ranh 0,5 ha. Hiện nay, diện tích rừng ngập mặn ở Khánh Hoà đã thu hẹp rất nhiều. Chính tình trạng đào đất, thay đổi diện mạo địa hình, ngăn dòng chảy đã triệt hạ hàng loạt khu rừng ngập mặn mà khả năng tái tạo cực kỳ khó. Sự việc càng bi đát hơn khi việc nuôi tôm thất bát, hàng nghìn ha đất đìa bị bỏ hoang khiến cả một vùng ven biển trước đây xanh tươi, trù phú bây giờ tiêu điều [17].
Ở Đầm Nại (Ninh Thuận) hơn 200ha rừng ngập mặn tạo vành đai rộng hàng trăm mét bảo vệ cho đầm không bị xói lở, nay đã thay thế bằng các đầm tôm bán thâm canh, chỉ còn lại vài vệt đước và mắm chưa đầy 2ha [15].
Rừng ngập mặn ở Cần Giờ thuộc huyện Cần Giờ thành phố Hồ Chí Minh. Từ một vùng rừng ngập mặn trù phú với diện tích gần 40.000ha vào những năm 1940, do bị phá huỷ bằng thuốc diệt cỏ và chất làm rụng lá trong chiến tranh đã trở thành một vùng đất hoang có diện tích 35.000ha và 4.500 ha chỉ toàn cây dương xỉ (Acrostichum) sau năm 1970 (Dao. P.T.A. 2000).Bắt đầu từ năm 1978, đã tiến hành trồng lại 20.000 ha rừng ngập mặn ở Cần Giờ và đến năm 1988 rừng ngập mặn ở đây đã phát triển tốt và có thể khai thác được. Tiếp đó, từ năm 1993 đến năm 2000, khoảng 64.000 ha rừng ngập mặn đã được trồng tại châu thổ sông Hồng, chủ yếu là vùng ven biển các tỉnh Thái Bình, Nam Định và Hải Phòng. Kết quả là đến năm 2000, UNESCO đã công nhận Rừng ngập mặn Cần Giờ là Khu dự trữ sinh quyển, và đây cũng là Khu dự trữ sinh quyển đầu tiên ở nước ta [13].
Ở Cà Mau, trong vòng 12 năm (1983-1995), đã có 66.000 ha rừng bị chặt phá để chuyển sang nuôi tôm (Hồng, 1999). Năm 1998, có đến 120.000 ha ao nuôi nằm trong khu vực đất rừng (Bửu, 2000). Năm 1999, Cà Mau có 130.000 ha đất rừng, tuy nhiên chỉ có 58.285 ha đất được phủ rừng (Bình, 1999)[12].
Tóm lại, diện tích rừng ngập mặn Việt Nam suy giảm rất đáng kể, hiện nay rừng ngập mặn chỉ còn rải rác ở một số nơi như Huyện Cần Giờ - Thành phố Hồ Chí Minh, Tỉnh Cà Mau. Do ý thức chủ quan và khách quan của người dân Việt Nam và do lợi ích kinh tế trước mắt mà hàng ngàn diện tích rừng ngập mặn Việt Nam suy giảm trầm trọng.
2.3. TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG PHÁP PRA (ĐÁNH GIÁ NÔNG THÔN CÓ SỰ THAM GIA NGƯỜI DÂN)
PRA là quá trình liên tục, là phương pháp khuyến khích, lôi cuốn người dân nông thôn cùng tham gia chia sẻ, thảo luận và phân tích kiến thức của họ về đời sống và điều kiện thực tế của họ để họ lập kế hoạch hành động và thực hiện.
PRA là một cách làm việc mới, sẽ khắc phục được cách làm việc cũ đồng thời cách làm này không những được dùng trong quá trình thu thập, xử lý thông tin mà được thực hiện xuyên suốt dự án hay chương trình.
PRA bao gồm những đặc điểm như sự bỏ qua tối ưu, mô hình tam giác, nhóm liên nghành, phối hợp các kỹ thuật, tính linh hoạt và không bắt buộc, tham gia của cộng đồng, cân bằng định kiến. Trong đó, 2 đặc điểm trọng tâm của phương pháp PRA đó là sự bỏ qua tối ưu và mô hình tam giác.
Sự bỏ qua tối ưu tức là nhóm PRA tránh những chi tiết và độ chính xác không cần thiết, cũng như việc thu thập quá nhiều số liệu không thật sự cần cho mục đích của PRA.
Mô hình tam giác là một hình thức kiểm tra chéo. Tính chính xác có được thông qua các thông tin đa dạng và các nguồn thông tin khác nhau, sử dụng thông tin thứ cấp, quan sát trực tiếp, phỏng vấn, v.v…Tam giác được xây dựng trong mối quan hệ với : cơ cấu nhóm công tác; các nguồn thông tin ( con người, đia điểm,…); và phối hợp các kỹ thuật.
Mặt khác, vai trò của tác viên cộng đồng khi sử dụng PRA là thực hiện chức năng thúc đẩy và tạo điều kiện nâng cao năng lực cho người dân địa phương trong thu thập thông tin, phân tích vấn đề, lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch. Vì vậy tác viên cần hiểu rõ và thấm nhuần các nguyên tắc sau đây khi sử dụng công cụ PRA:
Học hỏi trực tiếp từ người dân địa phương về kiến thức, kinh nghiệm, điều kiện sống và lao động của họ.
Học hỏi nhanh và tích cực bằng sự khám phá, sử dụng mềm dẻo các kỹ thuật PRA, tạo cơ hội tham gia, tạo mối quan hệ tương tác và kiểm tra chéo.
Loại bỏ thành kiến bằng sự lắng nghe chứ không giảng dạy, bằng sự thăm dò thay cho sự bất cần, quan tâm đến người nghèo, người bị thiệt thòi, phụ nữ và học hỏi từ họ về những quan tâm và ưu tiên.
Sử dụng tối ưu các kỹ thuật và công cụ tức là phải cân nhắc giữa số lượng, sự hợp lý, sự chính xác và thời gian.
Sử dụng phép kiểm tra chéo các thông tin.
Luôn tìm kiếm mọi mặt từ người dân, nghĩa là tìm tòi, học hỏi từ những điểm không hợp lý, những người không ủng hộ, những người đứng ngoài cuộc …ở mọi tình huống.
Hãy để cho dân tự làm, nghĩa là tạo điều kiện cho người dân tự điều tra, tự đánh giá, tự phân tích, trình bày và học hỏi từ đó họ tự đưa ra kết quả và là chủ sở hữu của các kết quả đó, vai trò của tác viên chỉ là hướng dẫn người dân cách làm, thúc đẩy và tạo điều kiện cho họ tự làm, tự phân tích…
Hãy luôn tự vấn mình, nghĩa là tác viên cộng đồng hãy luôn tự kiểm tra mình và tự phê bình về thái độ, phong cách, cách ứng xử khi cùng làm việc với người dân.
Hãy chịu trách nhiệm cá nhân, nghĩa là mỗi tác viên cộng đồng phải tự chịu trách nhiệm với chính công việc của mình làm, không đổ lỗi cho người khác.
Cùng chia sẻ, nghĩa là tạo cơ hội cùng làm việc, cùng chung sống, chia sẻ suy nghĩ, tình cảm, tâm tư giữa người dân với nhau, giữa người dân với tác viên cộng đồng.
Sử dụng các công cụ PRA một cách mềm dẻo, linh hoạt và sáng tạo, nghĩa là không lựa chọn, sử dụng một cách máy móc tùy theo bối cảnh, điều kiện, đặc tính con người của địa phương.
Dưới đây là những công cụ được áp dụng điều tra trong phương pháp PRA :
Quan sát trực tiếp
Quan sát trực tiếp được vận trong kỷ thuật PRA là quan sát một cách có hệ thống các sự vật, sự kiện với các mối quan hệ và trong một bối cảnh tồn tại của nó và là một phương cách tốt để kiểm tra chéo những câu trả lời của người được phỏng vấn, ghi nhận những gì quan sát được ở thời điểm khảo sát, có thể sử dụng những phương tiện để đo đếm trực tiếp, sử dụng vật chỉ thị, ghi chép và lựa chọn những thời điểm, vị trí thích hợp để quan sát.
Vẽ bản đồ
Vẽ bản đồ là công cụ khởi điểm cho bước thu thập thông tin ở thực địa của PRA, và những thông tin này được dùng để liên hệ trong thu thập và phân tích suốt cuộc PRA. Phương pháp này linh hoạt và năng động, nó tạo cơ hội cho nhóm PRA và các thành viên cộng đồng làm quen với công việc, hiểu rõ đề tài đang cùng nghiên cứu, có cái nhìn chung vẽ bức tranh chung và chuẩn bị cho những công việc tiếp theo. Bản đồ của điểm nguyên cứu thể hiện vị trí, nơi đâu là các nguồn tài nguyên, các hoạt động sản xuất, những khó khăn và cơ hội cũng như giới hạn của chủ đề cần điều tra. Nó giúp nhóm PRA và chính các thành viên cộng đồng để hiểu rõ ranh giới và những đặc tính của cộng đồng được bao gồm của cuộc điều tra.
Lát cắt
Đây là công cụ được sử dụng để định nghĩa rõ những ranh giới của tiểu vùng sinh thái nông nghiệp ở một vùng cụ thể. Bản đồ mặt cắt là bản vẽ một mặt cắt ngang xuyên qua một vùng hay một khu đất trên đó được thể hiện những đặc điểm quan trọng của địa phương đất đai, như độ dốc, sông rạch và nông dân có thể sử dụng những biểu tượng cho các loại cây trồng vật nuôi, những hoạt động thực hiện trên đó. Bản đồ mặt cắt rất thông dụng trong việc mô tả hệ sinh thái nông nghiệp cũng như giúp hiểu được các hoạt động sản xuất chủ yếu trong vùng hay trong nông trại riêng lẽ.
Sơ đồ venn
Sơ đồ venn hay phân tích yếu tố tổ chức giúp nhóm PRA nhận biết được các hoạt động của các nhóm người và tổ chức khác nhau trong cộng đồng / địa phương một cách nhanh chóng; đánh giá mối quan hệ giữa những tổ chức này thông qua biểu đồ.
Phân tích SWOT
SWOT là một công cụ để giúp cộng đồng xác định những thuận lợi và bất lợi bằng cách phân tích những ảnh hưởng “bên trong” ( mặt mạnh, mặt yếu ) và những ảnh hưởng “bên ngoài” (cơ hội, rủi ro) mà nó gây tác động đến tiến trình phát triển.
Cây vấn đề
Cây vấn đề có thể được dùng để xác định cảm nhận của người dân về nguyên nhân của các vấn đề / khó khăn mà người dân trong thôn gặp phải, cảm nhận của người dân về tác động của các vấn đề / khó khăn mà người dân gặp phải, mối liên kết giữa những nguyên nhân và tác động khác nhau của vấn đề / khó khăn.
Bảng hỏi
Bảng hỏi được dùng để lấy thông tin trực tiếp từ một cá nhân hoặc một nhóm nhỏ, sử dụng những bộ câu hỏi có phạm vi rộng để hướng dẫn các cuộc trao đổi, cho phép đưa ra những câu hỏi mới như là kết quả của cuộc thảo luận. Các cuộc phỏng vấn bán cấu trúc có vai trò quan trọng, đặc biệt trong việc tăng cường sự hiểu biết sâu về những vấn đề định tính. Vì những cuộc phỏng vấn có tính mở (mặc dù được dẫn hướng thông qua một danh sách những điểm cần kiểm tra), nên các cuộc phỏng vấn này rất hữu ích đối với việc đánh giá.
2.4. TỔNG QUAN VỀ HUYỆN NÚI THÀNH - TỈNH QUẢNG NAM
Hình 2.1 : Bản đồ huyện Núi Thành - Tỉnh Quảng Nam
2.4.1. Các nhân tố tự nhiên
2.4.1.1 Vị trí địa lý
Núi Thành là huyện nằm phía Nam của tỉnh Quảng Nam, được thành lập năm 1984 trên cơ sở tách ra từ huyện Tam Kỳ. Toạ độ địa lý của huyện Núi Thành trải dài từ 15033’ đến 15o36’ vĩ độ Bắc và từ 108034’ đến 108037’ kinh độ Đông.
Phía Bắc giáp thành phố Tam Kỳ.
Phía Nam giáp huyện Bình Sơn và huyện Trà Bồng tỉnh Quảng Ngãi.
Phía Tây giáp huyện Nam Trà My.
Phía Đông giáp Biển Đông.
Toàn huyện có 17 đơn vị hành chính cấp xã và 01 thị trấn với tổng diện tích tự nhiên khoảng 53.396,07 ha, chiếm hơn 5,1% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh Quảng Nam (1.040.747 ha). Trong đó, thị trấn Núi Thành là trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội của Huyện, nằm sát quốc lộ 1A, cách trung tâm tỉnh – thành phố Tam Kỳ khoảng 25 km, cách thành phố Đà Nẵng khoảng 95 km về hướng Bắc và cách khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi) khoảng 4km về hướng Nam. Với vị trí này, Núi thành có cơ hội hòa nhập với khu vực, tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật, thông tin kinh tế, thuận lợi trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế, theo hướng công nghiệp hóa và trao đổi sản phẩm.
Là huyện ven biển với chiều dài ờ biển 43 km với hai cửa An Hòa và của Lở, thuộc vùng hạ lưu sông có trên 5.000 ha mặt nước sông hồ và là một trong những đầm phá có quy mô lớn thuộc ven biển miền Trung, thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản, cũng là nơi hội tụ tàu thuyền ra vào đánh bắt hải sản, tạo điều kiện cho các ngành công nghiệp chế biến và ngư nghiệp phát triển và giao lưu với các vùng lân cận.
Đồng thời huyện Núi Thành có tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua và các tỉnh lộ thông suốt khác, giao thông đường biển cũng khá thuận lợi với một cảng tương đối lớn là cảng Kỳ Hà, lại có thêm sân bay Chu Lai và khu kinh tế mở Chu Lai thuận lợi cho việc thu hút đầu tư và xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng đầy đủ. Do đó, vị trí của huyện đã hội tụ đủ các điều kiện về tự nhiên cũng như kinh tế - xã hội thuận lợi chi việc nuôi trồng nhiều loài thủy sản và dễ dàng giao lưu buôn bán với các khu vực lân cận. Đó là một tiền đề quan trọng để phát triển một Núi Thành trong tương lai.
Tuy nhiên vị trí của huyện Núi Thành lại nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa, khí hậu nóng ẩm mưa nhiều và mưa theo mùa. Lưu vực các sông thường nhỏ (50 – 100 km2) và độ dốc lớn, hằng năm thường bị ảnh hưởng bởi những trận bão lớn kết hợp với lũ lụt gây xói lở, đất đai bị bào mòn, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và dân cư sinh sống trên địa bàn [1; 2; 4].
2.4.1.2. Địa chất
Khu vực nghiên cứu có hai hệ địa tầng:
Hệ tầng đá biến chất Cambri sớm: Đây là loại đá phiến kết tinh màu xám sẫm phớt xanh. Loại đá này phân bố ở rìa Đông Bắc mũi An Hòa, rìa đảo Hòn Dứa. Mặc dù hiện nay chưa tìm được hóa thạch và không có tài liệu định tuổi nhưng các đặc điểm của loại đá này tương tự như đá của hệ tầng A Vương có tuổi Cambri cho nên tuổi của đá này được giả định là tương đương với tuổi của hệ tầng A Vương.
Hệ tầng đá phun trào bazan và đá trầm tích núi lửa Pliocen – Pleixtocen hạ: Đây là đá bazan đã bị phong hóa. Phần trên đã bị biến thành đất sét alit – feralit màu vàng loang lỗ. Bề dày của lớp đất phong hóa này có nơi tới gần 40 m. Dưới lớp đá phong hóa này là đá laterit với sỏi sạn màu nâu sẫm gắn kết chắc. Lớp laterit này tại nhiều nơi lộ ra trên bề mặt do hoạt động của nước biển mài mòn lớp đất phong hóa ở trên. Bề dày của lớp đá laterit này cho đến nay vẫn chưa được xác định. Loại đá này phân bố ở mũi An Hòa, đảo Hòn Dứa và mũi phía Nam vụng An Hòa. Với mức độ phong hóa cao, đá bazan này đã được các nhà địa chất xếp vào tuổi Pliocen – Pleixtocen hạ (Theo bản đồ Địa chất Việt Nam, Phần lục địa, tỉ lệ 1:500.000 do Trần Đức Lương, Nguyễn Xuân Bao, chủ biên, 1986).
Hệ tầng trầm tích Đệ Tứ: Trầm tích Pleixtocen (Q12-3). Trầm tích này phân bổ những dãi hẹp, kéo dài dọc theo sông, suối nhỏ, thành tạo này chủ yếu là cát pha màu trắng xám, xám đen do có lẫn nhiều tạp chất hữu cơ có lẫn bột sét. Đây là loại cát màu vàng nghệ, nguyên là đồi cát, đê cát cổ hiện nay do tác động của gió, sóng biển gia công và được tích tụ lại và phân bố nhiều nhất ở khu vực xã Tam Hải. Theo Trần Nghi (1997) thì cát này có nguồn gốc tại chỗ và do hệ thống sông Tam Kỳ - sông Trầu tải ra vào thời gian khoảng Pleixtocen (Q12-3). Thành phần khoáng vật chủ yếu là cát thạch anh, felspat, mica, urmalin, bùn, sét, tính phân lớp không rõ ràng bề dày từ 3 - 4m. Những khu vực này rất thích hợp cho các mô hình nuôi trồng thủy sản dọc theo các sông [2] .
2.4.1.3. Địa hình
Địa hình huyện Núi Thành có độ nghiêng lớn từ tây nam sang đông bắc, có đầy đủ các dạng địa hình như:
Dạng địa hình trung du và miền núi : Gồm các xã Tam Trà, Tam Sơn, Tam Thạnh, Tam Mỹ Đông, Tam Mỹ Tây, một phần xã Tam Nghĩa và Tam Anh Nam, Tam Anh Bắc. Phía cực tây có nhiều núi cao, nơi cao nhất là núi Hú, Tam Trà có độ cao 1.132 m.
Dạng địa hình đồng bằng : Gồm các xã Tam Xuân 1, Tam Xuân 2, Tam Anh Nam, Tam Anh Bắc, Tam Hiệp, thị trấn Núi Thành, Tam Nghĩa. Vùng này địa hình tương đối bằng phẳng, có một số đồi gò có độ dốc nhỏ. Nơi cao nhất chỉ cao 69 m so với mặt biển.
Dạng địa hình ven biển : Gồm các xã Tam Tiến, Tam Hòa, Tam Giang, Tam Hải, Tam Quang và một phần Tam Nghĩa. Vùng này địa hình bằng và thấp, có nhiều cồn cát ổn định; một phần đồng bằng do các sông ngòi bồi đắp trên nền cát biển. Đây là vùng hạ lưu có nhiều đầm phá. Ngoài ra, vùng này còn có nhiều bãi đá trầm tích nhô lên khỏi mặt biển từ 10 đến 12 m thuộc xã Tam Tiến, Tam Hải, Tam Quang như đảo hòn Ngang, Hòn Dứa, Bàn Than...
Hệ thống sông ngòi chảy qua huyện gồm sông Tam Kỳ, sông Trường Giang, sông Ba Túc, sông An Tân, sông Trâu. Các con sông này đều bắt nguồn từ phía tây, tây bắc chảy về phía đông đỏ ra biển qua cửa An Hòa và cửa Lỡ.
Các sông đều có lưu vực nhỏ từ 50 đến 100km2, độ dốc lớn, chiều dài từ 20 đến 40 km, lưu lượng nước thay đổi theo mùa. Một số con sông được ngăn lại ở thượng nguồn làm hồ chứa nước như : hồ Phú Ninh trên sông Tam Kỳ, hố Thái Xuân trên sông Trầu. Các dòng sông của huyện đều hội tụ về phía đông tạo nên những vùng xoáy bồi đắp nên những cồn cát và tạo ra các đầm phá ở các xã Tam Quang, Tam Anh Nam, Tam Anh Bắc, Tam Hòa, Tam Giang, Tam Hải, Tam Tiến.
Địa hình ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành các loại đất, các thảm thực vật, các tiểu vùng khí hậu, chế độ nước, độ ẩm, thành phần cơ giới đất. Ngoài ra yếu tố địa hình còn ảnh hưởng đến chế độ dòng chảy bề mặt gây nên bồi lắng hay xói mòn rửa trôi. Vì vậy, địa hình có vai trò hết sức quan trọng trong việc hình thành các vùng kinh tế.
Do đặc điểm địa hình của Huyện cao theo hướng Tây Nam, thấp dần về hướng Đông Bắc nên hầu hết sông ngòi đều bắt nguồn từ phía Tây và Tây Bắc. Địa hình chia cắt mạnh từ đó hình thành nên các vùng sản xuất theo những cơ cấu nhất định.
Vùng sản xuất nông – lâm ở phá Tây gồm các xã Tâm Thạnh, Tam trà, Tam Sơn, Tam Mỹ Đông, Tam Mỹ tây, Tam Thạnh.
Vùng sản xuất nông nghiệp và kết hợp nuôi thủy sản ở khu vực đồng bằng gồm các xã Tam Xuân 1, Tam Xuân 2, Tam Anh Bắc, Tam Anh Nam, Tam Hiệp, Tam Nghĩa. Khu vực này tương đối bằng, chủ yếu là các cánh đồng phù sa.
Vùng sản xuất nông, nuôi trồng thủy sản và ngư nghiệp thuộc khu vực đầm phá và vùng ven biển gồm các xã Tam Tiến, Tam Hòa, Tam Hải, Tam Quang, Tam Giang. Khu vực này nằm trong vùng đầm phá và của sông ven biển nên có địa hình thấp hơn.
Vùng sản công- nông- thương mại-dịch vụ ở khu vực trung tâm huyện là cảng Kỳ Hà gồm các xã Tam Quang thị trấn Núi Thành và Tam Nghĩa. Đây là khu vực giao lưu văn hóa, nơi hôi tụ các đầu mối giao thông, địa hình bằng phẳng, phần lớn là các bãi cát rộng.
Vì vậy việc hình thành các vùng sản xuất luôn gắn liền với sự phân bố địa hình tạo nên một tổng thể cơ bản trong quá trình quy hoạch bố trí các vùng sản xuất
Do đặc điểm địa hình huyện Núi Thành nên vùng hạ lưu các sông tồn tại nhiều ô trũng, đầm phá. Đây là ưu thế của Huyện trong việc phát triển ngành nuôi trồng thủy sản [2; 4].
2.4.1.4. Khí hậu
Khí hậu nước ta là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Quảng Nam nói chung và huyện Núi Thành nói riêng nằm phía Đông dãy Trường Sơn và phía Nam đèo Hải Vân nên thuộc vùng khí hậu chuyển tiếp giữa khí hậu miền Bắc và khí hậu miền Nam, nhưng lại mang tính chất á xích đạo nhiều hơn. Đồng thời khí hậu huyện Núi Thành còn có những đặc thù riêng do sự chi phối của yếu tố địa hình.
Huyện Núi Thành có 17 xã, thị trấn thì có đến 8 xã giáp biển nên chịu ảnh hưởng của khí hậu biển và lục địa. Theo tài liệu trạm Khí tượng - Thủy văn tỉnh Quảng Nam, khí hậu huyện Núi Thành có những đặc điểm sau:
a. Nhiệt độ
Nhiệt độ trung bình năm tại khu vực khoảng 27,60C, cao nhất là tháng VII với nhiệt độ trung bình tháng lên đến 31,60C và thấp nhất là tháng XII, nhiệt độ trung bình tháng chỉ 22,80C. Mùa nóng bắt đầu từ tháng IV và kết thúc vào tháng VIII. Vào những ngày có gió Tây Nam khô nóng (VI đến tháng VIII), nhiệt độ không khí tăng cao. Mùa lạnh kéo dài từ cuối tháng XII năm trước đến tháng III năm sau. Biên độ nhiệt ngày lớn nhất vào mùa nóng và nhỏ nhất vào mùa lạnh. Trị số biên độ nhiệt ngày lớn nhất vào tháng IV, có khi tới 100C.
Nhiệt độ không khí tương đối cao nhưng khá ổn định là điều kiện tương đối thuận lợi cho việc nuôi tôm nước lợ, tránh được các bệnh phát sinh do thời tiết thay đổi. Tuy nhiên, những ngày có gió Tây Nam khô nóng cần phải chú ý gây màu nước để làm giảm nhiệt độ trong hồ do lúc này nhiệt độ không khí thường tăng cao.
b. Số giờ nắng
Tổng số giờ nắng trong năm là 2203 giờ, tập trung từ tháng II đến tháng VIII hằng năm Tháng có nắng ít nhất là tháng X, XI, XII và tháng có nhiều nắng nhất là tháng V, VI, VII, XIII. Tháng có độ ẩm cao nhất là tháng XII (độ ẩm tương đối 90%). Tháng có độ ẩm thấp nhất là tháng VII (độ ẩm tương đối 76%).
Tổng lượt bốc hơi trung bình năm là 1.361 mm. Những tháng có lượng bốc hơi cao nhất là tháng V, VI, VII, VIII, tháng có lượng bốc hơi thấp nhất là tháng XI, XII, I.
c. Chế độ mưa
Mùa mưa kéo dài từ tháng IX đến tháng XII, tháng X có lượng mưa cao nhất (720 mm). Tổng lượng mưa trung bình năm 2531,5 mm. Số ngày mưa trung bình trong năm là 140 ngày, lượng mưa tháng X và tháng XI chiếm đếm 50,4% lượng mưa cả năm. Trong một năm trung bình có 140 - 145 ngày mưa, tháng có số ngày mưa nhiều nhất là tháng X, XI và XII, mỗi tháng có từ 20 - 21 ngày mưa. Tháng có số ngày mưa ít nhất là các tháng III, IV, mỗi tháng có 5 - 6 ngày mưa.
Mùa khô kéo dài từ tháng I đến tháng VIII, lượng mưa thấp nhất là vào tháng III (trung bình 38 mm). Tổng lượng mưa vào mùa khô chỉ chiếm 30 đến 35% lượng mưa năm. Trong mùa khô vào các tháng V, tháng VI thường có những đợt mưa tiểu mãn, bổ sung lượng nước đáng kể cho mùa khô.
Lượng mưa năm lớn lại tập trung dẫn đến hiện tượng lũ, lụt vào mùa mưa nên vào thời điểm này cần đặc biệt chú ý đến mùa vụ nuôi tôm đặc biệt là ở các xã nằm ở hạ lưu các con sông.
Bảng 2.3: Các yếu đặc trưng cho chế độ khí hậu ở huyện Núi Thành
Tháng
Số giờ nắng
(giờ)
Nhiệt độ TB
(0C)
Nhiệt độ tối cao TB(0C)
Nhiệt độ tối thấp TB(0C)
Lượng mưa TB
(mm)
Độ ẩm TB
(%)
I
135
23,15
24.8
19.3
105
89
II
150
24,4
26.3
20.2
40
88
III
210
26,75
28.8
21.6
38
86
IV
225
29,15
31.6
23.7
55
84
V
225
28,2
33.2
24.9
100
80
VI
237
31,45
34.0
25.4
106
77
VII
251
31,65
34.2
25.3
50
66
VIII
233
31,55
33.8
25.2
95
77
IX
191
29,35
31.4
24.4
290
85
X
154
27,25
28.8
23.2
720
88
XI
109
25,3
26.7
21.9
600
88
XII
83
22,8
24.4
19.8
360
90
TB Năm
183,6
27,6
29.8
22.9
213,3
83,2
(Nguồn: báo cáo quy hoạch chi tiết vùng nuôi tôm huyện Núi Thành- tỉnh Quảng Nam)
Hình 2.2: Đặc trưng của chế độ khí hậu ở huyện Núi Thành
d. Chế độ gió
Chế độ gió ở huyện Núi Thành phân thành 2 mùa rõ rệt:
- Mùa gió Tây Nam: Hoạt động từ tháng III đến tháng VII, có năm mùa gió Tây Nam bắt đầu sớm hơn và kết thúc muộn hơn bình thường. Hướng gió thịnh hành là Tây, Tây Nam.
- Mùa gió Đông Bắc: Hoạt động từ tháng X đến tháng II năm sau, có khi kéo dài đến tháng III nhưng ổn định nhất là từ tháng XII đến tháng II năm sau. Hướng gió thịnh hành là Bắc và Tây Bắc.
Ngoài ra, xen giữa hai hướng gió thịnh hành trên là gió Đông, Đông Nam. Còn tùy theo địa hình mà gió phân bố thêm một số hướng khác nhưng tần suất không lớn.
Tốc độ gió trung bình năm ở khu vực dự án trung bình từ 1,6 – 2,0 m/s, gió lớn thường xuất hiện trong bão, áp thấp nhiệt đới hoặc khi có gió lốc.
Ngoài ra trong năm còn có gió Tây Nam hoạt động gây khô nóng trong khu vực. Trong ngày đêm cũng có sự thay đổi hướng gió do quá trình hấp thụ và bức xạ tạo nên chênh lệch áp suất ở khu vực đồng bằng và ven biển. Song yếu tố này không ảnh hưởng lớn đến việc bố trí sản xuất.
e. Thời tiết đặc biệt
Dông: Dông xuất hiện sớm nhất vào cuối tháng III, muộn nhất vào cuối tháng XI. Dông thường xảy ra nhiều nhất từ tháng V đến tháng IX. Đáng chú ý là các cơn dông trong những tháng này thường gây nên gió giật mạnh (có khi lên đến cấp 10 cấp 11) và mưa dữ dội. Hàng năm có khoảng 75 - 80 ngày có dông.
Bão: Bão thường xuất hiện từ tháng IX đến tháng XII, xuất hiện nhiều nhất vào tháng X và tháng XI thường kèm theo mưa lớn gây ra hiện tượng lũ lụt. Trung bình hằng năm thường xuất hiện 1 - 2 cơn bão đổ bộ trực tiếp và 2 - 3 cơn bão hoặc áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến khu vực. Loại thời tiết này đặc biệt ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất của huyện đặc biệt là hoạt động nuôi thủy sản nói chung và nuôi tôm nói riêng. Do diễn biến bất thường của thời tiết, có những năm xuất hiện bão và và áp thấp nhiệt đới trái mùa ảnh hưởng đến khu vực từ rất sớm vào các tháng V, tháng VI. Những cơn bão hay những trận lụt lớn đến sớm sẽ gây ra thiệt hại rất lớn về tài sản cho người dân, đặc biệt nghiêm trọng hơn nữa là lũ lụt sẽ gây ra ngập lụt hầu hết các diện tích nuôi tôm chưa kịp thu hoạch, làm cho người dân bị thất thu, đồng thời dòng chảy cuộn gây xói lở hư hại hệ thống bờ ao. Vì vậy hằng năm người nuôi tôm phải bỏ ra lượng chi phí lớn để tu bổ, sửa chữa.
Sương mù: Sương mù thường xuất hiện trong khoảng thời gian từ tháng XII đến tháng II năm sau, không có chu kỳ nhất định.
Nhìn chung, chế độ khí hậu ở huyện Núi Thành tương đối thuận lợi cho việc sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, thuận lợi cho nhiều loài sinh vật biển phát triển. Tuy nhiên, đối với nuôi trồng thủy sản nước lợ, điều kiện khí hậu chỉ thích hợp trong khoảng thời gian từ tháng III đến tháng IX, các tháng còn lại thường xảy ra thiên tai như, bão, lụt nên khó có thể nuôi được hoặc là tạo điều kiện thích hợp cho các loại vi rút phát triển dễ gây ra tình trạng dịch bệnh xảy ra hàng loạt. Vì thế, đặc điểm khí hậu đóng vai trò quyết định đến mùa vụ nuôi thủy sản ở huyện Núi Thành [2; 4; 18].
2.4.1.5. Thủy văn
Hệ thống sông ngòi chảy qua huyện gồm sông Tam Kỳ, sông Trường Giang, sông Ba Túc, sông Trầu, sông Quán, sông Mùi, sông Bến Đình, Sông Chợ. Các con sông này đều bắt nguồn từ phía Tây, Tây Bắc chảy về phía Đông đổ ra biển qua cửa An Hòa và cửa Lỡ. Các sông đều có lưu vực nhỏ từ 50 đến 100 km2, độ dốc lớn, chiều dài từ 20 đến 40 km, lưu lượng nước thay đổi theo mùa. Hiện nay, các sông này được ngăn lại ở khu vực thượng nguồn để xây dựng các hồ chứa nước như: hồ Phú Ninh trên sông Tam Kỳ, hồ Thái Xuân trên sông Trầu.
Trong đó hai sông lớn nhất chảy qua huyện Núi Thành là:
Sông Trường Giang: Là con sông chạy dọc theo bờ biển thuộc tỉnh Quảng Nam chảy sát biển qua các xã Tam Xuân 1, Tam Xuân 2, Tam Anh, Tam Tiến, Tam Hòa, Tam Hiệp, Tam Giang, thị trấn Núi Thành nối cửa An Hòa với cửa Đại, Hội An. Vùng hạ lưu của những con sông này tương đối rộng. Đây cũng là khu vực diễn ra nuôi trồng thủy sản nước lợ trọng điểm của huyện Núi Thành.
Sông Tam Kỳ: Là hợp lưu của 10 con suối nhỏ, bắt nguồn từ phía Tây, chảy theo hướng Tây sang Đông xuống dòng chính tại Xuân Bình – Phú Thọ, xã Tam Trà huyện Núi Thành, rồi theo hướng Tây Bắc – Đông Nam chảy ra cửa An Hòa. Diện tích lưu vực khoảng 800 km 2. Do trong năm, vùng này có nhiều mưa nhưng rừng đầu nguồn ít bị tàn phá nên dòng chảy tương đối điều hòa theo mùa. Lưu lượng lớn nhất của sông Tam Kỳ là 20,7 m3/s.
Các dòng sông của huyện đều hội tụ về phía Đông tạo nên những vùng xoáy bồi đắp nên những cồn cát và tạo ra các đầm ở các xã Tam Quang, Tam Anh Nam, Tam Anh Bắc, Tam Hòa, Tam Giang, Tam Hải, Tam Tiến. Nhật triều xảy ra trong tháng X khoảng 15 ngày, còn lại đều là bán nhật triều không đều. Mức nước trung bình 1,2 m, cường độ triều lớn là 1,2 – 2 m, triều kém là 0,5 m. Tốc độ dòng chảy trung bình 0,2 - 0,3 m/s, tốc độ cực đại 2,5 m/s. Nước dâng khi có gió bão lên tới 1,5 - 3m.
Do đặc điểm của khí hậu khu vực nên lượng nước của các sông thay đổi theo mùa và được ngăn lại ở thượng nguồn làm cho lượng nước ở hạ lưu bị hạ thấp, đồng thời chịu tác động của thủy triều gây nhiễm mặn ở vùng cửa sông và đầm phá.
Các sông trong huyện nối với nhau và đổ ra biển. Chính vì vậy mà các sông này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ thủy triều, hàng năm triều ảnh hưởng rất sâu vào các sông mang theo một lượng muối rất lớn đã tạo cho các sông đi qua huyện có độ mặn tương đối thích hợp cho nuôi trồng thủy sản nước lợ.
Chế độ thủy triều ở huyện Núi Thành là bán nhật triều không đều. Mỗi ngày có hai lần nước lên xuống với hai đỉnh triều: một đỉnh cao và một đỉnh thấp. Mỗi tháng có hai lượt triều cường và thời điểm đầu và giữa tháng âm lịch. Đỉnh triều cao nhất khoảng 1,5 m, biên độ triều cao nhất là 0,8 m, số ngày có con nước cường trong tháng trung bình khoảng 7 – 10 ngày. Tuy nhiên chế độ bán nhật triều không đều gây ảnh hưởng không tốt đến quá trình cấp thoát nước trong ao nuôi, làm cho người nuôi khó dự đoán được chế độ nước để có thể quyết định xả nước trong ao ra hay lấy thêm nước vào sao cho vừa có đủ lượng nước cần thiết lại vừa không gây ô nhiễm môi trường. Bởi vì nếu lúc xả nước mà triều lên thì các chất bẩn từ trong ao sẽ không được chuyển đi xa vậy thì hiệu quả xả nước sẽ không đạt. Vì vậy, người nuôi tôm cần chú ý đến sự thất thường của thủy triều.
Toàn huyện có 1.290 ha mặt nước ao hồ, đầm (không kể mặt nước sông suối và hồ chứa nước). Trong đó diện tích nuôi trồng thủy sản là 1500 ha và chưa sử dụng là 406 ha, có cả nước ngọt và lợ.
Riêng đối với khu vực cửa sông có rừng sú, vẹt, đước xanh tốt, khu vực này có môi trường sinh thái mặn lợ rất thích hợp cho việc phát triển nuôi trồng thủy sản. Nhưng đến nay diện tích rừng này gần như đã bị biến mất do quá trình nuôi trồng thuỷ sản tự phát không quy qua hoạch [4; 5].
2.4.1.6. Tài nguyên đất
Theo kết quả điều tra của viện quy hoạch và thiết kế nông nghiệp năm 1984 và đã chỉnh lý bổ sung năm 1990, toàn huyện có 53.396,07 ha đất gồm các nhóm đất sau:
Nhóm đất đỏ vàng: Phần lớn diện tích đất của huyện thuộc loại nhóm đất này (72,08%) Đây là loại đất được hình thành từ sản phẩm phong hóa của đá granit và phiến sét, tập trung ở vùng đồi núi, độ dốc lớn tỷ lệ thạch anh cao. Tầng mặt mỏng, ít chất hữu cơ, nghèo dinh dưỡng, bị rủa trôi xói mòn mạnh. Loại đất này chỉ thích hợp cho các loại cây trồng có rễ mọc sâu, chịu được khí hậu khắc nghiệt dùng cho ngành lâm nghiệp là chủ yếu.
Thuộc nhóm này gồm có hai loại chính là: đất đỏ vàng trên đá mamaz acid (Fa) và đất đỏ vàng trên đá biến chất (Fs).
Nhóm đất dốc tụ (D): Đất dốc tụ là sản phẩm tích tụ của quá trình bào mòn được di chuyển không xa, phẩm chất và màu sắc phụ thuộc vào đá mẹ của vùng lân cận. Nhóm đất này có tầng dày từ 50 – 100 cm, hàm lượng dinh dưỡng lớn và thường tạo thành tầng lắng đọng mùn hữu cơ trên bề mặt sau mỗi mùa mưa, cho năng suất cây trồng cao. Phân bố ở thung lũng đồi núi nhiều khi là bãi thoải lớn ở chân đồi hoặc địa hình trũng vùng đồi. Nhóm đất này đã được khai thác triệt để chỉ còn khoảng 0,2% phân bố rải rác ở các địa hình phức tạp, đi lại khó khăn và chưa có thủy lợi.
Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp được thể hiện qua biểu đồ sau:
Hình 2.3: Cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp
Tính trên tổng diện tích đất tự nhiên của toàn huyện là 53.396,07 ha, đất nông nghiệp chiếm tỉ lệ khá lớn (65,4 %). Tuy nhiên, nếu tính diện tích đất nông nghiệp bình quân cho một hộ thì lại quá thấp chỉ khoảng 1,04 ha/hộ. Mặt khác, đất ở đây chủ yếu là đất cát pha, đất bạc màu nghèo dinh dưỡng, tỉ lệ mùn trong đất thấp nên rất không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trồng cây lúa nước. Phần lớn các nhóm đất được hình thành ven sông, biển điều thích hợp cho nuôi tôm nước lợ.
Diện tích đất mặt nước nuôi trồng thủy sản là 1.885,41 ha chiếm gần 5,4% đất nông nghiệp. Trong đó, hơn 92,6% được dùng cho nuôi thủy sản nước lợ. Diện tích đất chưa sử dụng toàn huyện là 7.313,06 ha chiếm 13,7% diện tích đất tự nhiên. Diện tích này chủ yếu là đất hoang hóa, đất ngập mặn, đất kém dinh dưỡng.
Ngoài ra đất trong khu vực này là đất chua mặn có thành phần sét vật lý thấp nên độ thấm nước cao, kết cấu rời rạc do đó khi cải tạo thành hồ nuôi tôm cần gia cố xử lý chống thấm nước lỡ bờ cũng như bón vôi, cải tạo pH đất trước khi đưa vào sử dụng. Với cơ cấu và đặc điểm đất đai Huyện như vậy, để nâng cao hiệu quả sử dụng đất thì chính quyền địa phương cần phải có những phương án cụ thể như: phối hợp với nhân dân nghiên cứu chuyển đổi một số diện tích đất trồng trọt kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản hoặc các mục đích khác có hiệu quả hơn. Cần nghiên cứu sử dụng triệt để diện tích đất chưa sử dụng, đầu tư đất đai theo chiều sâu.
Nhóm đất phù sa: Nhóm đất này chiếm 3,59% diện tích các loại đất. Đất phù sa được hình thành ven sông suối do quá trình bồi đắp sản phẩm từ đồi núi cao đưa xuống phủ lên nền mà trước đây là cát biển có dạng hình lượn sóng do đó độ dày mỏng phụ thuộc vào lượn sóng ấy. Thuộc nhóm này gồm có: Đất phù sa loang lỗ đỏ vàng có glây (Pg), đất phù sa sông suối (Py), đất phù sa cổ (Pc). Nhóm đất này được khai thác chủ yếu cho mục đích lâm nghiệp và lâm nghiệp.
Nhóm đất cát biển (Cc): Nhóm đất này chiếm diện tích khá lớn (22,23%) diện tích các loại đất được hình thành ở ven biển và cửa sông, do hoạt động cửa biển tạo thành các dải cát chạy dọc bờ biển. Có nơi được gió vun lên thành cồn cát nổi ổn định. Đất này thường nghèo dinh dưỡng, giữ nước kém, khó sử dụng vào mục đích nông nghiệp. Nhóm đất này phân bố chủ yếu dọc theo quốc lộ 1A về phía đông nên thuận lợi cho việc xây dựng các công trình công nghiệp, dân dụng và văn hóa phúc lợi.
Nhóm đất phèn mặn: Nhóm đất này được hình thành ở ven sông và vùng hạ lưu sông có quan hệ với sự xâm nhập của thủy triều gây mặn bề mặt hay mạch ngầm. Đặc điểm nhóm này có độ phì cao, các phản ứng trao đổi trong đất xảy ra mạnh, nhưng yếu tố hạn chế là phèn và mặn.Thuộc nhóm đất này gồm có: đất mặn và cát mặn (M, Mc), đất phèn mặn và cát phèn mặn (SM, SMc).
Đất đai ở huyện Núi Thành được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau được thể hiện ở bảng 4.2:
Bảng 2.4: Diện tích đất sử dụng theo các mục đích khác nhau
Loại hình sử dụng đất
Diện tích (ha)
%
1. Đất nông nghiệp
34.917,29
65,4
1.1. Đất trồng cây hàng năm
6.485,20
18,6 %
1.2. Đất trồng cây lâu năm
2.099,75
6,0 %
1.3. Đất lâm nghiệp
24.413,28
69,9 %
1.4. Đất nuôi trồng thủy sản
1.885,41
5,4 %
1.5. Đất nông nghiệp khác
32,84
1 %
2. Đất phi nông nghiệp
11.165,71
20,9
3. Đất chưa sử dụng
7.313,06
13,7
Tổng
53.396,07
100
Nguồn : Báo cáo hiện trạng môi trường năm 2008 của huyện Núi Thành
Huyện Núi Thành là huyện có diện tích nuôi trồng thủy sản lớn nhất so với các huyện khác trong tỉnh trong đó chủ yếu là diện tích cho nuôi tôm sú và hiện nay thêm đối tượng nuôi mới là tôm thẻ chân trắng. Diện tích rộng lớn này là do Huyện có bờ biển dài 37 km, với 2 cửa biển là cửa Lỡ, cửa An Hòa và lưu vực sông Trường Giang chạy dọc theo bờ biển cùng với vùng hạ lưu của hệ thống các con sông lớn Tam Kỳ, Vĩnh An, sông Trầu thành một vùng đầm nước lợ rộng khoảng trên 3.000 ha. Chính điều kiện tự nhiên trên đã tạo cho Núi Thành có vùng đất ngập nước ven biển khá rộng lớn. Toàn huyện có 13/17 xã, thị trấn 75/136 thôn có vùng đất ngập nước ven biển. Đặc biệt, tất cả các thôn của 5 xã vùng biển đều có vùng đất ngập nước ven biển là Tam Tiến, Tam Hòa, Tam Giang, Tam Quang, Tam Hải.
Tổng diện tích tự nhiên của 13 xã, thị trấn có vùng đất ngập nước là 27.628 ha, chiếm tỷ lệ 51,83% tổng diện tích tự nhiên của toàn huyện, dân số 128.578 người chiếm 88,1% dân số của huyện, có 61.209 nhân khẩu trong độ tuổi lao động, chiếm 88,11% tổng nhân khẩu trong độ tuổi lao động của toàn huyện.
Đất ngập nước ven biển Núi Thành cũng rất đa dạng bao gồm vùng nuôi trồng thủy sản, bãi cát, sỏi, cuội, ruộng muối, bãi bùn, bãi lầy ngập triều, đầm phá, cửa sông, đồng bằng ven sông có ảnh hưởng của thủy triều, rừng ngập mặn, thảm thực vật, quần thể san hô chiếm diện tích trên 10.489,72 ha. Trong thời gian qua, vùng đất ngập nước ven biển của huyện đã được cộng đồng cư dân địa phương đầu tư khai thác, sử dụng để phát triển sản xuất như làm muối, đào đắp ao nuôi trồng thủy sản, trồng lúa màu, đánh bắt thủy sản, du lịch, giao thông...Đây là tiềm năng lớn để mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản.
Nhìn chung các hoạt động sản xuất trên vùng đất ngập nước ven biển đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương như giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện cho một số hộ vươn lên làm giàu chính đáng làm thay đổi bộ mặt nông thôn vùng sông nước [2; 4].
2.4.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội
2.4.2.1. Đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của huyện Núi Thành
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của đất nước, nền kinh tế của huyện Núi Thành đã dần đi vào ổn định, từng bước tăng trưởng và hòa nhập và nền kinh tế thị trường, đã tạo điều kiện để phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích mọi thành phần, mọi cá nhân đầu tư sản xuất kinh doanh. Trong đó, một số lĩnh vực có chuyển biến tích cực. Tổng giá trị sản xuất các ngành kinh tế trên địa bàn huyện trong năm 2008 đạt 1.635 tỷ đồng tăng 27,58 % so với năm 2007, đây là mức tăng cao nhất trong 10 năm qua. Tổng giá trị sản xuất trên địa bàn theo giá thực tế đạt 4.041 tỷ đồng. Trong đó, công nghiệp- xây dựng chiếm 58,60%, dịch vụ chiếm 14,25%; nông lâm thủy sản chiếm 27,15% [5].
2.4.2.2. Dân cư và nguồn lao động
Dân số và lao động là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến cơ cấu ngành cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của một lãnh thổ.
Bảng 2.5: Tình hình dân số và lao động của huyện Núi Thành
STT
Đặc điểm dân cư
Đơn vị tính
Số lượng
1
1. Tổng số hộ
Hộ
34.280
2
2. Tổng số nhân khẩu
Người
145.349
3
2.1. Nam
70.653
4
2.2.Nữ
74.696
5
3. Tổng số lao động
Người
63.833
6
3.1. Nông nghiệp
37.996
7
3.2. Lâm nghiệp
332
8
3.3. Thủy sản
10.250
9
3.4. Công nghiệp
7.351
10
3.5. Thương nghiệp Dịch vụ
7.479
11
3.6. Ngành nghề khác
425
12
4. Tốc độ tăng dân số
%
1,3
13
5. Mật độ dân số
Người/km2
273
14
6. Lao động bình quân/hộ
Người/hộ
2,02
15
7. Nhân khẩu bình quân /hộ
Người/hộ
4,33
Nguồn: Niên giám thống kê huyện Núi Thành năm 2007
Hiện nay, toàn huyện có 16 đơn vị hành chính cấp xã và 1 thị trấn tổng cộng có 34.286 hộ với tổng số nhân khẩu là 145.349 người. Tỷ lệ gia tăng tự nhiên khoảng 1,3% (năm 2007). Mật độ dân số là 273 người/km2 được phân bố nằm rải rác trong toàn huyện, tuy nhiên giữa các xã đồng bằng và miền núi sự phân bố dân cư cũng có sự chênh lệch rất lớn, dân cư tập trung nhiều hơn ở các xã đồng bằng (thị trấn Núi Thành, Tam Xuân 1, Tam Xuân 3, Tam Anh Nam, Tam Anh Bắc, Tam Hiệp, Tam Nghĩa) và các xã miền biển (Tam Tiến, Tam Hòa, Tam Quang, Tam Giang, Tam Hải) mà đông nhất là ở thị trấn Núi Thành là 2.228 người/km2, xã Tam Quang là 1.175 người/ km2. Trong khi đó, các xã miền núi dân cư thưa thớt hơn với mật độ dưới 110 người/km2 (trừ Tam Mỹ Đông 403 người/km2 ) có nơi chỉ 31 người/km2 như Tam Trà.
Về thành phần dân tộc: trên địa bàn Huyện có hai thành phần dân tộc, trong đó, chủ yếu là người Kinh và một số lượng ít người Cor (850 người, hộ, sống tại các thôn 4, 6 và 8 xã Tam Trà).
Với đặc điểm dân số như vậy đã tạo ra một trong những yếu tố thuận lợi nhất định trong sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện là: trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội Núi Thành ít chịu sức ép bởi sự gia tăng dân số hàng năm. Với mức độ tăng dân số như vậy, hàng năm lực lượng lao động của huyện được được bổ sung khoảng 1890 lao động. Điều này rất phù hợp với nhu cầu thực tế phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Tổng số lao động của toàn huyện là 68.896 lao động, số lao động bình quân trên hộ là 2,06 người/hộ. Lao động nam là 31.278 người chiếm 45,4% trong tổng số lao động, lao động nữ chiếm 54,6%. Với cơ cấu lao động trong các ngành nghề như sau:
Nông - Lâm - Thủy sản : 50.478 người chiếm 73,26%, gồm:
Nông nghiệp: 37.996 người, chiếm 75,27%.
Lâm nghiệp: 332 người, chiếm 0,87 %.
Thủy sản: 10.250 người, chiếm 20,30%.
Công nghiệp, xây dựng: 7.351 người, chiếm 10,6%
Thương nghiệp dịch vụ: 7.479 người, chiếm 11,07 %.
Ngành nghề khác: 425 người, chiếm 0,63%.
Đa số lao động ở đây là lao động nông thôn, mặc dù có trình độ văn hóa không cao cũng như trình độ kỹ thuật trong các lĩnh vực sản xuất còn thấp, nhưng người dân ở đây lại rất chăm chỉ, cần cù lại tích lũy được nhiều kinh nghiệm sản xuất qua nhiều thế hệ, đặc biệt, có một bộ phận lớn dân cư ở các xã ven biển trước đây có nguồn gốc là dân vạn đò hoặc sống nhiều năm gần miền sông nước nên họ đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm về chế độ nước cũng như đặc điểm của những con sông, những mảnh đất nơi họ sinh sống. Có thể thấy lao động trong ngành thủy sản chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu lao động của toàn bộ nền kinh tế huyện chỉ sau ngành nông nghiệp truyền thống của người dân vốn đã có từ lâu đời. Điều này cho thấy nuôi trồng và khai thác thủy sản cũng là một ngành nghề chủ yếu của người dân trong huyện, trong đó nghề nuôi tôm giữ một vị trí quan trọng bởi những đóng góp của nó trong việc nâng cao đời sống người dân nơi đây [5].
2.4.2.3. Giáo dục, y tế
Thực hiện phương châm kết hợp tuyên truyền giáo dục thông qua các hình thức tập huấn, mỗi năm trung tâm khuyến ngư cùng bộ phận thủy sản của huyện Núi Thành đã tổ chức được 12 lớp tập huấn, hội thảo kỹ thuật nuôi thủy sản cho người 553 người tham dự. Trong đó có 2 lớp kỹ thuật nuôi tôm thẻ chân trắng. một lớp thú y thủy sản, 4 lớp về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Huyện cũng đã tổ chức hội thảo phân tích các lợi ích của việc thành lập các tổ nuôi tôm cộng đồng cho người dân và đã thành lập được 12 tổ nuôi tôm nước lợ theo hướng quản lý cộng đồng, với 347 hội viên ở xã Tam Xuân 2. Điều này giúp cho các khu vực nuôi tôm có trách nhiệm trước cộng đồng trong việc phòng chống dịch bệnh, bảo vệ môi trường nuôi nhằm mang lại hiệu quả cao trong sản xuất.
2.4.2.4. Các hoạt động kinh tế
Năm 2006, tổng giá trị sản xuất của huyện đạt 1.071,68 tỷ đồng, tăng 14,26 % so với năm 2005. Cơ cấu kinh tế: Công nghiệp -Xây dựng 47,02%, Nông nghiệp 34,07%, Thương mại – Dịch Vụ 18,91; (Nghị quyết: Công nghiệp - Xây dựng: 48,35%; Nông – Lâm –Ngư nghiệp: 29,49%; Thương mại – Dịch vụ: 22,16%).
a. Về công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp xây dựng trên địa bàn 503,95 tỷ đồng tăng 21,98 % so với năm 2005. Giá trị công nghiệp ngoài quốc doanh 304,4 tỷ đồng, tăng 35,52% so cùng kỳ, đạt 95,12 %; công nghiệp quốc doanh đạt 100,74 tỷ đồng tăng 3,6% so năm 2005 (doanh nghiệp quốc doanh trung ương quản lý 67,62 tỷ đồng, quốc doanh địa phương quản lý 33,12 tỷ đồng); khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 69,77 tỷ đồng tăng 3,59 %.
b.Về nông nghiệp – lâm ngư nghiệp
Giá trị sản xuất nông-lâm- ngư nghiệp (giá cố định 1994) 365,2 tỷ đồng, tăng 5,74% so với năm 2005, trong đó nông nghiệp 114,2 tỷ đồng, tăng 5,07 %; lâm nghiệp 4,5 tỷ đồng, tăng 1,15%; thuỷ sản 246,3 tỷ đồng, tăng 6,14%. Sản lượng cây lương thực có hạt 32.929 tấn.
c.Về thủy sản
Tổng số phương tiện tham gia đánh bắt 1.576 chiếc, trong đó 1.191 phương tiện gắn máy. Sản lượng khai thác hải sản 19.840 tấn; sản lượng có giá trị xuất khẩu 8.170 tấn. Nuôi trồng thuỷ sản: diện tích 1.980 ha. Sản lượng tôm thu hoạch 1.897 tấn.
d. Về dịch vụ
Thương mại, dịch vụ giá trị đạt 202,7 tỷ đồng; Trong đó ngành thương mại đạt: 171,68 tỷ đồng, tài chính tín dụng: 10,82 tỷ đồng, bưu chính viễn thông: 21,5 tỷ đồng. Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 10,99 triệu USD. Tổng thu ngân sách trên địa bàn 51,84 tỷ đồng, đạt 115,58%, tăng 135,69% so với năm 2005. Tổng chi ngân sách Nhà nước huyện :136,25 tỷ đồng, đạt 152,8% , tăng 39,9% so với năm 2005. Tỷ lệ hộ nghèo: 23,93% ;Tỷ lệ giảm sinh: 1,18 % ;Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng: 21,47% .
2.5. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG RNM NÚI THÀNH - QUẢNG NAM
Huyện Núi thành có bờ biển dài 37 km, với 2 cửa biển là cửa Lỡ, cửa An Hòa và lưu vực sông Trường Giang chạy dọc theo bờ biển cùng với vùng hạ lưu của hệ thống các con sông lớn Tam Kỳ, Vĩnh An, Trâu, Trầu tạo thành một vùng đầm phá nước lợ rộng khoảng trên 3.000 ha. Chính điều kiện tự nhiên trên đã tạo cho Núi Thành có vùng đất ngập nước ven biển khá rộng lớn. Toàn huyện có 13/17 xã, thị trấn, 75/136 thôn có vùng đất ngập nước ven biển. Đặc biệt, tất cả các thôn của 5 xã vùng biển đều có vùng đất ngập nước ven biển.
Đất ngập nước ven biển Núi Thành cũng rất đa dạng bao gồm vùng nuôi trồng thủy sản, bãi cát, sỏi, cuội, ruộng muối, bãi bùn, bãi lầy ngập triều, đầm phá, cửa sông, đồng bằng ven sông có ảnh hưởng của thủy triều, rừng ngập mặn, thảm thực vật, quần thể san hô.
Trong thời gian qua, vùng đất ngập nước ven biển của huyện đã được cộng đồng cư dân địa phương đầu tư khai thác, sử dụng để phát triển sản xuất như làm muối, đào đắp ao nuôi trồng thủy sản, trồng lúa màu, đánh bắt thủy sản, du lịch, giao thông...
Nhìn chung các hoạt động sản xuất trên vùng đất ngập nước ven biển đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương như giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện cho một số hộ vươn lên làm giàu chính đáng làm thay đổi bộ mặt nông thôn vùng sông nước.
Hệ sinh thái vùng đất ngập nước ven biển Núi Thành cũng rất đa dạng với các hệ sinh thái rừng ngập mặn, thảm cỏ biển, rạn san hô,...
Rừng ngập mặn Núi Thành trước đây rộng khoảng trên 220 ha với các loài thực vật bậc cao như mắm, bần, đước, dừa nước...Do phong trào nuôi tôm phát triển mạnh, nên rừng ngập mặn đã bị người dân chặt phá làm muối, đào đắp ao nuôi tôm. Đến năm 1997 chỉ còn lại khoảng 63 ha và hiện nay chỉ còn khoảng 10 ha. Đặc biệt vẫn còn giữ được khoảng gần 5 ha rừng dừa nước ở lưu vực sông Bến Đình, xã Tam Nghĩa. Rừng dừa nước này xã đã giao cho các hộ gia đình quản lý và chỉ được phép khai thác lá dừa và các loài thủy sản ở khu vực liền kề và có trách nhiệm bảo vệ và trồng phục hồi rừng dừa nước.
Chất lượng nước trên đầm phá Trường Giang, vùng biển ven bờ ngày càng xấu đi do sự ô nhiễm từ các hoạt động như thải dầu của tàu thuyền, nước thải từ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản có các hóa chất độc hại, chất thải sinh hoạt của cộng đồng cư dân vùng đất ngập nước và các chất thải công nghiệp khác...
Đất ngập nước nói chung và đất ngập nước ven biển nói riêng không những đem lại lợi ích kinh tế mà ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường bởi các chức năng đa dạng của nó như điều tiết và làm sạch nước, khống chế lũ bão, chống xói mòn đất, lưu giữ phù sa, cung cấp dinh dưỡng, năng suất sinh khối cao, nơi trú ngụ của các loài sinh vật, ổn định khí hậu, đất, phục vụ giao thông thủy lợi cũng như tạo cảnh quan sinh thái cho du lịch giải trí và nghiên cứu khoa học. Nhiều chức năng này còn có ý nghĩa quan trọng ở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế. Nếu thay đổi đất ngập nước mà không tính đến các chức năng quan trọng của chúng, hậu quả có thể nghiêm trọng ngay tức khắc đối với đời sống của con người.
Thế nhưng các hoạt động của con người khai thác tài nguyên đất ngập nước trên đia bàn huyện Núi Thành đã và đang diễn ra theo chiều hướng bất lợi cho phát triển, làm tổn hại tới các hệ sinh thái, nguồn lợi thủy sản...Hy vọng rằng trong thời gian tới với sự quan tâm giúp đỡ của các nhà khoa học, các ngành, các cấp chính quyền địa phương sẽ có những giải pháp hửu hiệu để tài nguyên đất ngập nước Núi Thành được khai thác, sử dụng một cách khoa học góp phần phát triển bền vững kinh tế biển.
Diện tích rừng ngập mặn và đất có khả năng trồng rừng ngập mặn của huyện Núi Thành được phân bố như sau:
Bảng 2.6. Diện tích rừng ngập mặn rừng ngập mặn của huyện Núi Thành
TT
Đơn vị xã
Diện tích rừng ngập mặn
Diện tích rừng hiện còn chia theo mật độ
Ghi chú
Tổng
(ha)
Đất không có rừng
Đất có rừng
< 500 cây/ha
500-1000
1000-1500
> 1500
1
Tam giang
24.0
10.0
14
12.0
2.0
2
Tam quang
2.2
0.9
1.3
1.3
3
Tam hải
22.7
4.9
17.8
17.8
4
Tam hoà
74.7
62.3
12.4
4.5
7.9
5
Tam tiến
16.5
15.2
1.3
1.3
6
Tam xuân1
2.5
2.5
7
Tam xuân2
13.45
11.52
1.93
1.6
0.3
0.03
8
Tam anh
23.1
16.7
6.4
1.9
4.5
9
Tam hiệp
30.6
25.1
5.5
5.5
10
Thị trấnNT
3.7
2.2
1.5
1.5
11
Tam nghĩa
6.8
5.3
1.5
1.5
12
Tam mỹ
3.8
2.6
1.2
1.2
13
Tổng cộng
224.5
159.22
64.83
4.5
33.0
24.6
2.73
Nguồn: Quy hoạch đất nuôi trồng thuỷ sản nước lợ giai đoạn 2008-2015
Qua bảng 4.7 chúng ta thấy rằng xã Tam Hoà là xã có diện tích lớn nhất so với các xã và thị trấn. Trong đó, xã Tam Hải có diện tích rừng đứng thứ 5 chiếm 22,7 % mà Tam Hải là xã mà được bao bọc bởi con sông Trường Giang, phía đông giáp biển tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và sinh trưởng cây ngập mặn nhưng trước năm 1990 do phong trào nuôi tôm phát triển tự phát diễn ra mạnh mẽ nên xảy ra tình trạng khai hoang những bãi bồi ven sông, khai thác rừng ngập mặn và tự chuyển đổi đất màu sang đất nuôi trồng thuỷ sản. Vì vậy, diện tích RNM của xã Tam Hải bị suy giảm nghiêm trọng.
Phần 3.
ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu là hiện trạng rừng ngập mặn tại xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam
Hình 3.1: Rừng ngập mặn tại xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam
Quá trình khai thác RNM để phục vụ cho việc nuôi tôm.
3.2. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Địa điểm nghiên cứu tại các dãi rừng ngập mặn tại xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam.
Phòng tài nguyên môi trường huyện Núi Thành – Quảng Nam.
3.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu một số nội dung sau:
Tiến hành điều tra, khảo sát, thu thập số liệu về điều kiện tự nhiên có liên quan đến hiện trạng RNM để phục vụ cho mục đích nuôi tôm tại xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam.
Tiến hành điều tra, khảo sát, thu thập số liệu về diện tích, sự phân bố, thành phần loài của các cây ngập mặn tại xã Tam Hải – Núi Thành - Quảng Nam
Tiến hành điều tra, khảo sát, thu thập số liệu về hiện trạng rừng ngập mặn bị khai thác để phục vụ mục đích nuôi tôm tại xã Tam Hải – Núi Thành - Quảng Nam.
Tiến hành điều tra, khảo sát, thu thập số liệu về hiện trạng nuôi tôm trên diện tích rừng ngập mặn bị khai thác tại xã Tam Hải – Núi Thành - Quảng Nam.
Điều tra nguyên nhân phá rừng ngập mặn để nuôi tôm tại 3 xã Tam Giang – Tam Hải – Tam Hiệp – Núi Thành - Quảng Nam.
Đề xuất các giải pháp quản lý và sử dụng hiệu quả rừng ngập mặn trong việc phát triển nghề nuôi tôm.
3.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.4.1. Phương pháp điều tra, khảo sát thực địa
Đây là một phương pháp cần thiết và rất quan trọng, nhằm bổ sung và kiểm chứng lại toàn diện các số liệu, các thông tin đã tiến hành thu thập, đồng thời còn giúp chúng ta trực tiếp thu thập được các số liệu để từ đó tính toán được diện tích rừng ngập mặn tại địa phương.
Công tác khảo sát thực địa được tiến hành chủ yếu tại xã Tam Hải nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng rừng ngập mặn của toàn huyện và xem xét tình hình khai thác và sử dụng của xã, từng khu vực riêng biệt.
Tham quan, tìm hiểu các giải pháp hữu hiệu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng rừng ngập mặn trong việc phát triển nghề nuôi tôm.
3.4.2. Phương pháp thống kê
Đây là phương được sử dụng nhằm thu nhập các số liệu có liên quan đến đề tài, đến các khu vực nghiên cứu về các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội. Các số liệu nói trên cung cấp cho người nghiên cứu có cái nhìn khái quát về lãnh thổ từ đó thực hiện các phương pháp tiếp theo . Ngoài ra, khi sử dụng phương pháp này cần phải dựa vào đề cương đã vạch sẵn để tránh dư thừa các số liệu không cần thiết cũng như thiếu các số liệu không cần thiết cũng như thiếu các số liệu theo yêu cầu nghiên cứu.
Nguồn tài liệu được thống kê bao gồm :
Báo cáo về diện tích rừng ngập mặn để phục vụ mục đích nuôi tôm.
Các tài liệu khảo sát ngoài thực địa có liên quan đến rừng ngập mặn.
Các dữ liệu thống kê của khu vực nghiên cứu trong các năm .
Các bản đồ và các số liệu tổng hợp từ các bản đồ.
3.4.3. Phương pháp PRA
Đợt điều tra nghiên cứu này sử dụng phương pháp đánh giá nhanh nông thôn (RRA) và đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA). Công cụ và phương pháp dựa vào tài liệu của Cục Khuyến nông Khuyến lâm năm 1998 có cải tiến. Vai trò tham gia tích cực của người dân địa phương được khuyến khích. Nhóm điều tra lắng nghe và đưa ra các câu hỏi gợi ý tìm hiểu thực tế thông qua việc người dân tự đánh giá tình hình đời sống của mình, nêu ra được các khó khăn cũng như cơ hội phát triển của địa phương, từ đó đề xuất hướng giải quyết.
Công cụ
Các công cụ được sử dụng bao gồm bảng biểu chuẩn bị trên giấy khổ lớn A0, bút màu, bìa màu, kéo, sổ tay, bút.
Thông tin cần thu thập
Thông tin cần thu thập bao gồm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, các số liệu về diện tích rừng ngập mặn của 3 xã, đặc điểm phân bố cây ngập mặn, các tài liệu liên quan đến hiện trạng sử dụng rừng ngập mặn phục vụ cho mục đích nuôi tôm, các giải pháp sử dụng hợp lý rừng ngập mặn.
Lựa chọn thông tin viên
Tiêu chuẩn lựa chọn là số lượng thành viên trong nhóm không quá đông cũng không quá ít, có tính đại diện, cân bằng về giới và tuổi tác, cụ thể như sau:
Cán bộ lãnh đạo thôn, hay các nhóm, hội, tổ ở thôn
Người nhiều tuổi, có nhiều kinh nghiệm khai thác rừng ngập mặn.
Nông dân có nhiều kinh nghiệm
Người hiểu biết rộng, đã từng đi nhiều
Có tinh thần xây dựng, mạnh dạn, cởi mở
Có cả trẻ, già, nam, nữ
Nhóm 3 thông tin viên (2 nam và 1 nữ) được lựa chọn làm đại diện cho mỗi thôn chia thành 3 tổ làm việc với nhóm nghiên cứu đa ngành gồm 8 chuyên gia (Cố vấn trưởng dự án, các nhà thực vật học, sinh thái học, lâm học, xã hội học, nông học, thổ nhưỡng) thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường của huyện Núi Thành.
Chọn địa điểm
Các thôn lựa chọn để điều tra dựa trên các tiêu chí đã được thống nhất:
Có nhiều hộ gia đình khai thác các sản phẩm rừng, do đó phụ thuộc nhiều vào rừng.
Có nhiều tác động lên các nguồn tài nguyên rừng
Có sự chênh lệch về điều kiện kinh tế (nghèo, trung bình, khá)
Mỗi thôn chọn 3 thông tin viên (2 nam, 1 nữ)
Chương trình làm việc
Từ 8/3 đến 1/5, thời gian làm việc tại mỗi thôn là một ngày, tuy ngắn nhưng nhờ có sự nỗ lực và phối hợp nhịp nhàng của các cán bộ hiện trường nên đã đáp ứng tốt kế hoạch đề ra. Sau khi điều tra mỗi thôn, đoàn tổ chức họp 1 ngày để rút kinh nghiệm. Nhờ vậy các sáng kiến được phát huy và có thể hạn chế bớt thiếu sót cho những đợt điều tra sau.
Kết quả mong đợi
Thu thập toàn bộ các thông tin đã dự kiến. Đưa ra được một số các phương pháp sử dụng hợp lý rừng ngập mặn cho mỗi thôn. Các cán bộ dự án và đặc biệt cán bộ hiện trường Núi Thành được trang bị thêm kiến thức và kinh nghiệm làm việc có sự tham gia của người dân.
Hạn chế
Quá trình điều tra được tiến hành trong một thời gian tương đối ngắn nên còn có những thông tin bị sót hoặc không thống nhất. Một số biểu mẫu điều tra còn mang tính thông tin thấp hoặc chưa rõ ràng và đôi khi trùng lặp.
3.4.4. Phương pháp thu thập thông tin
Sau khi tìm hiểu thực địa để có những đánh giá khách quan, chính xác phải thu thập những thông tin cần thiết liên quan đến nội dung nghiên cứu. Những thông tin tổng hợp này đã được lưu trữ khá đầy đủ ở Phòng tài nguyên huyện Núi Thành, Phòng nông nghiệp nông thôn của huyện dưới các dạng sau:
Trình bày bằng văn bản (sách, tạp chí, đề tài nghiên cứu có liên quan…)
Số liệu thống kê
Các dạng khác (thực địa, điều tra khảo sát, trên mạng…)
Tuy nhiên để có được những thông tin thực tiễn có giá trị từ những cơ sở trên cần phải lập kế hoạch cụ thể, tỉ mỹ:
Xác định đối tượng, mục đích, nhiệm vụ cụ thể phải đạt được.
Tiến hành thực địa, thu thập tài liệu theo chương trình.
Ghi chép kết quả quan sát theo các cách: ghi vắn tắt, ghi theo phiếu in sẵn, ghi biên bản, ghi nhật ký theo thời gian, không gian…
Kiểm tra kết quả quan sát được bằng nhiều cách: trò chuyện, sử dụng các tài liệu khác để đối chiếu, quan sát lại lần hai…
3.4.5. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu sau khi thu thập được tiến hành tổng hợp và xử lí bằng phần mềm excel 2003.
Phần 4.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BIỆN LUẬN
Để đánh giá hiện trạng khai thác RNM phục vụ cho mục đích nuôi tôm tại xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam chúng tôi tiến hành khảo sát thực tế và sử dụng các công cụ của phương pháp PRA để điều tra về đặc điểm tự nhiên, hiện trạng nuôi tôm và các nguyên nhân làm suy giảm diện tích rừng ngập mặn và từ đó đề xuất các giải pháp sử dụng hợp lý cho việc khôi phục rừng ngập mặn để phục vụ cho mục đích nuôi tôm tại xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam đạt hiệu quả.
4.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN XÃ TAM HẢI – HUYỆN NÚI THÀNH – TỈNH QUẢNG NAM
4.1.1. Vị trí địa lý
Để đánh giá hiện trạng khai thác rừng ngập mặn phục vụ cho mục đích nuôi tôm của xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam, chúng tôi tiến hành nguyên cứu đặc điểm tự nhiên và đặc điểm kinh tế của xã Tam Hải nhằm thu thập thông tin cho quá trình đánh giá đạt hiệu quả. Đặc điểm tự nhiên và hoạt động kinh tế là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của rừng ngập mặn và là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển tình hình kinh tế nuôi tôm. Để đánh giá điều kiện tự nhiên của xã Tam Hải, chúng tôi tiến hành sử dụng công cụ bản đồ, bảng hỏi và phỏng vấn nhanh người dân. Kết quả nguyên cứu được thể hiện như sau:
Tam Hải là một xã đảo nằm ở vùng ven biển của huyện Núi Thành, cách trung tâm huyện 12 km, bị chia cắt bởi sông Trường Giang và có 2 cửa biển An Hoà và Cửa Lở.
Phía đông giáp : Biển Đông
Phía Tây giáp : Xã Tam Hiệp
Phía Bắc giáp : Xã Tam Hoà
Phía Nam giáp : Xã Tam Giang – Tam Giang.
Hiện nay tại địa phương chưa có bản đồ cụ thể về vị trí địa lý. Vì vậy, để có cơ sở cho việc xác định vị trí địa lý của xã Tam Hải thì chúng tôi lựa chọn công cụ bản đồ trong phương pháp PRA, dựa trên việc hồi cứu số liệu tại phòng địa chính của xã, và phỏng vấn lấy ý kiến của người dân trong vùng nên chúng tôi đã phác hoạ bản đồ này. Công cụ bản đồ đó được thể hiện ở hình 4.1như sau:
BẾN PHÀ
SÔNG
TRƯỜNG GIANG
XÃ TAM HOÀ
Thôn 7
Thôn 2
Thôn 3
Thôn 4
Thôn 1
XÃ TAM
QUANG
XÃ TAM GIANG
BIỂN ĐÔNG
Thôn 5
Thôn 6
+
UBND
BIỂN ĐÔNG
XÃ TAM HIỆP
Chú thích:
UBND
+
-----
Hồ nuôi tôm
Vườn tạp
Trường học
Nhà cửa
Uỷ ban nhân dân Xã Tam Hải
Đường xá
Ranh giới các thôn trong xã
Ranh giới các xã
Trạm y tế Xã Tam Hải
Hình 4.1: Bản đồ xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam
Qua bản đồ 4.1 chúng tôi nhận thấy rằng phía đông của xã giáp biển đông nên hàm luợng muối ở đây cao nên thuận lợi cho rừng ngập mặn ở đây phát triển tốt. Mặt khác, các phía tây, bắc, nam của xã Tam Hải được bao bọc bởi con sông Trường Giang và có chế độ bán nhật triều, với những điều kiện này thuận lợi cho rừng ngập mặn ở đây sinh trưởng và phát triển tốt và là điều kiện cho việc phát triển nghề nuôi tôm của xã. Như vậy, vị trí địa lý của xã Tam Hải là điều kiện quan trọng thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển cây ngập mặn cũng như đáp ứng nhu cầu nuôi tôm tại địa phương.
4.1.2. Địa hình
Địa hình là một trong những yếu tố thể hiện sự cao độ có ảnh hưởng đến sự phân bố của các cây ngập mặn và các thành phần tự nhiên như núi, sông, biển, vùng đất ngập nước liên tục, vùng đất ngập nước theo mùa, …..Do đặc thù về địa hình xã đảo, chia cắt gồm 4 khu vực, xã gồm 7 thôn, trong đó 5 thôn đất liền và 2 thôn tách rời do chia cắt bởi sông Trường Giang. Do đó đất đai nuôi trồng thuỷ sản gồm 3 khu vực, vị trí nằm ở bãi bồi ven sông phù hợp cho việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Để xác định địa hình của xã Tam Hải trong việc phục vụ cho quá trình đánh giá hiện trạng rừng ngập mặn để phục vụ cho mục đích nuôi tôm thì chúng tôi tiến hành sử dụng công cụ lát cắt trong phương pháp PRA. Kết quả nguyên cứu được thể hiện hình 4.2 và hình 4.3 như sau:
Vườn nhà
Đường xã
Đất trống, đồi trọc
Hồ nuôi tôm
Rừng ngập mặn
Bãi bồi
Trồng trọt
Dừa, cà tím, ớt, ổi, vú sữa
Trứng cá
Bạch đàn, keo lá tràm
Đước,bần, mắm.
Đước, bần, mắm, ôrô.
Mắm
Chăn nuôi
Trâu, bò, chó, mèo, gà, vịt…
Bò
Tôm, cá, cua.
Cá, cua, ốc, hến..
Cá, cua, vịt.
Trở ngại, khó khăn
Thiếu cây giống mới năng suất cao; vườn tạp năng suất kém; chưa có quy hoạch.Về chăn nuôi số lượng ít chưa đủ đáp ứng nhu cầu của người dân.
Thiếu vốn; chưa đầu tư
Đất bị nhiễm mặn không thể trồng trọt được.
Các cây ngập mặn chỉ còn vài cây, mọc rãi rác trên bờ đìa.Các hồ tôm bỏ hoang chuyển sang nuôi cá, cua.
Cây ngập mặn suy giảm nghiêm trọng do khai thác quá mức. Các loại động vật quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng.
Còn 1 vài cây mọc rãi rác.
Giải
Pháp
Tìm giống mới có giá trị (cam hồ tiêu, hồng); quy hoạch thiết kế hợp lý.
Vay vốn để trồng cây; tổ chức thực hiện trồng cây
Sớm có chính sách từ huyện đến cơ sở; đề nghị ưu tiên các dự án cải tạo lại đất để trồng lúa, trồng đậu.
Đầu tư hỗ trợ giống và vốn để trồng cây ngập mặn. Lấy lại đất để trồng lại rừng ngập mặn.
Nghiêm cấm các hoạt động khai thác một cách chặt chẽ, Quy hoạch đất trồng rừng cho phù hợp..
Hỗ trợ và đầu tư tìm giống mới
Hình 4.2 : Sơ đồ lát cắt thôn 4 – xã Tam Hải
Qua hình 4.2 chúng ta thấy rằng địa hình thôn 4 thuận lợi cho sự phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn ở đây đồng thời cũng phát triển kinh tế trong việc nuôi tôm. Tuy nhiên, đia hình ở đây vẫn còn tồn tại những khó khăn cần phải giải quyết nhất là trong vấn đề khai thác rừng ngập mặn để phục vụ cho mục đích nuôi tôm. Vì thế, cần có những giải pháp hỗ trợ kịp thời để đảm bảo hệ sinh thái rừng ngập mặn phát triển ổn định như cần nghiêm cấm các hoạt động khai thác, quy hoạch lại rừng.
Vườn nhà
Đường xá
Hồ nuôi tôm
Rừng ngập mặn
Bãi bồi
Trồng trọt
Dừa, thơm dứa, vú sữa
Đước, mắm.
Đước, mắm, bần.
Mắm
Chăn nuôi
Chó, mèo, vịt, gà, heo.
Tôm, cá
Cá, cua, ốc, sò..
Ốc, cá, nghêu..
Trở ngại, khó khăn
Chỉ trồng những loại cây chịu mặn.
Thiếu vốn; chưa đầu tư
Mọc rãi rác trên bờ đìa.
Ao hồ nuôi tôm bỏ hoang nhiều.
Thiếu giống, chưa đầu tư, chưa có sự quan tâm của các cấp chính quyền.
Cây ngập mặn mọc rãi rác, các loài động vật ở đây bị đánh bắt quá mức.
Giải
pháp
Tìm giống mới, quy hoạch cho phù hợp, cải tạo đất sao cho phù hợp các loại cây chịu mặn.
Vay vốn đẻ trồng cây; tổ chức thực hiện trồng cây
Đầu tư hỗ trợ giống và vốn để trồng cây ngập mặn. Chuyển đổi nghành nghề sao cho phù hợp người dân, lấy đất trồng lại rừng.
Cần có sự phối hợp với các cấp lãnh đạo, chính quyền.
Cần có những chính sách và quy chế bảo vệ rừng nghiêm ngặt và chặt chẽ.
Hình 4.3: Sơ đồ lát cắt thôn 5 và 6 tại xã Tam Hải
Qua hình 4.3 chúng ta thấy rằng địa hình ở đây được bao quanh bởi sông Trường Giang và cả 2 thôn có đất ngập nước liên tục dẫn đến hàm lượng muối cao nên các loài cây ngập mặn thích nghi và phát triển tốt và phân bố đồng đều. Vì vậy, địa hình ở đây rất thuận lợi cho việc phát triển và phân bố cây ngập mặn. So sánh gĩưa thôn 5, 6 và thôn 4 thì địa hình của thôn 5 và 6 thuận lợi hơn cho việc phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn cũng như thuận lợi cho việc phát triển kinh tế nghề nuôi tôm.
Tóm lại, địa hình thôn 4 và thôn 5,6 là những thôn có điều kiện thuân lợi cho việc phát triển rừng ngập mặn lâu dài cũng như làm nâng cao hiệu quả nghề nuôi tôm của xã Tam Hải.
4.1.3. Khí hậu và thuỷ văn
Khí hậu có nhiều thành phần, mỗi thành phần có ảnh hưởng nhất định đến sự sinh trưởng, phân bố của các loài và giữa các thành phần có tác động lẫn nhau. Trong các yếu tố khí hậu thì nhiệt độ, lượng mưa và gió có tác động lớn nhất đối với hệ sinh thái rừng ngập mặn. Trong đó, khí hậu xã Tam Hải nằm trong vùng đồng bằng duyên hải nên có khí hậu nhiệt đới gió mùa, một năm có 2 mùa rõ rệt. Mùa khô từ tháng 2 à tháng 8 và mùa mưa từ tháng 9 à tháng 1 năm sau, nhiệt độ trung bình trong năm 270C, nhiệt độ cao nhất 390C, nhiệt độ thấp nhất 160C thuận lợi cho cây ngập mặn phát triển thuận lợi.
Để xác định chế độ khí hậu và thuỷ văn trong quá trình đánh giá hiện trạng rừng ngập mặn để phục vụ cho mục đích nuôi tôm, chúng tôi sử dụng phương pháp thu thập số liệu tại uỷ ban nhân dân xã Tam Hải và công cụ bảng hỏi trong phương pháp PRA thông qua câu 8 (phần phụ lục) . Kết quả thu được thể hiện bảng 4.1 và hình 4.4 như sau:
Bảng 4.1: Chế độ thuỷ văn của xã Tam Hải
Chế độ triều
Số người trả lời
Tỉ lệ %
Bán nhật triều
45/50
90%
Nhật triều
5/50
10%
Hình 4.4 : Biểu đồ về chế độ thuỷ văn của xã Tam Hải
Qua bảng 4.1 và hình 4.4 cho chúng ta thấy rằng xã Tam Hải có chế độ bán nhật triều chiếm 90% so với chế độ nhật triều thuận lợi cho việc cấp nước và thải nước trong thời gian nuôi trồng thuỷ sản khi thuỷ triều lên xuống.
Nói tóm lại, các điều kiện tự nhiên như vị trí địa lý, địa hình, khí hậu và thuỷ văn là những nhân tố đóng vai trò quan trọng quyết định sự sinh trưởng và phân bố của thảm thực vật rừng ngập mặn của xã Tam Hải nói riêng và huyện Núi Thành nói chung.
4.2. HIỆN TRẠNG RỪNG NGẬP MẶN XÃ TAM HẢI – HUYỆN NÚI THÀNH – TỈNH QUẢNG NAM
Tam Hải là một vùng biển, là xã đảo được bao bọc bởi con sông Trường Giang, phía đông giáp biển. Trong những năm qua, việc đầu tư phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản cho hiệu quả kinh tế khá cao, do đó việc đắp đập nuôi tôm phát triển tự phát diễn ra mạnh mẽ và trở thành nghành kinh tế quan trọng của địa phương, góp phần giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, cải thiện đời sống, tạo cơ sở cho nhiều hộ vươn lên thoát nghèo từ nghề nuôi tôm. Do việc phát triển tự phát, cho nên xảy ra tình trạng khai hoang những bãi bồi ven sông, khai thác rừng ngập mặn và tự chuyển đổi đất màu sang đất nuôi trồng thuỷ sản.
Để đánh giá hiện trạng rừng ngập mặn, chúng tôi tiến hành thu thập số liệu sơ cấp tại phòng tài nguyên môi trường của huyện và sử dụng các công cụ trong phương pháp PRA như bản đồ, lát cắt, sơ đồ venn, bảng hỏi, cây vấn đề nhằm xác định diện tích, sự phân bố, thành phần loài cây ngập mặn tại xã Tam Hải. Kết quả nguyên cứư được thể hiện như sau:
4.2.1. Diện tích rừng ngập mặn tại xã Tam Hải
Để xác định diện tích rừng ngập mặn tại xã Tam Hải, chúng tôi sử dụng bảng hỏi phỏng vấn các cán bộ và người dân địa phương thông qua câu1(phần phụ lục). Kết quả nguyên cứu thể hiện như sau:
Bảng 4.2 : Diện tích rừng ngập mặn tại xã Tam Hải trước năm 1990 ( N = 50 )
Diện tích rừng ngập mặn (ha) trước năm1990
Số người trả lời
Tỉ lệ %
0 đến 5
0 / 50
0 %
5 đến15
0 / 50
0 %
15 đến 30
5 / 50
10%
Lớn hơn 30
45 / 50
90%
Hình 4.5 : Biểu đồ tỉ lệ diện tích rừng ngập mặn trước năm 1990
Qua bảng 4.2 và hình 4.5 chúng ta thấy rằng diện tích rừng ngập mặn trước năm 1990 có lớn hơn 30 ha chiếm đến 90% diện tích so với các diện tích còn lại. Vì trước năm 1990 là những năm chưa có phong trào nuôi tôm mà chỉ có các hoạt động khai thác rừng ngập mặn để làm muối, lấy củi nên diện tích cây ngập mặn giảm không đáng kể . Vì vậy, trước năm 1990 là những năm rừng ngập mặn sinh trưởng và phát triển tốt nhất tại xã Tam Hải.
Dưới đây là những hình ảnh rừng ngập mặn từ năm 1990 mà chúng tôi chụp được từ vệ tinh :
Hình 4.6: Rừng ngập mặn xã Tam Hải năm 1990
Tuy nhiên, trong những năm gần đây do nhiều lý do mà diện tích này bị suy giảm như khai thác rừng ngập mặn để lấy củi, xây dựng nhà cửa đê muơng, phá rừng để làm muối, phá rừng để nuôi tôm quảng canh. Trong đó, nguyên nhân làm suy giảm diện tích rừng ngập mặn nặng nhất là phá rừng để lấy đất nuôi tôm quảng canh. Để xác định diện tích rừng ngập mặn hiện nay tại xã Tam Hải, chúng tôi sử dụng công cụ bảng hỏi phỏng vấn các cán bộ và người dân địa phương thông qua câu 2 (phần phụ lục). Kết quả nguyên cứu thể hiện qua bảng 4.3 và hình 4.7 như sau:
Bảng 4.3: Diện tích rừng ngập mặn tại xã Tam Hải hiện nay ( N = 50 )
Diện tích rừng ngập mặn hiện nay (ha)
Số người trả lời
Tỉ lệ %
0 đến 5
3 / 50
6 %
5 đến15
40 / 50
80 %
15 đến 30
7 / 50
14 %
Lớn hơn 30
0 / 50
0 %
Hình 4.7: Biểu đồ tỉ lệ diện tích rừng ngập mặn hiện nay
Qua bảng 4.2 và hình 4.6 cho chúng ta thấy rằng diện tích cây ngập mặn năm 2009 có 5 -15 ha chiếm 80 % diện tích so với các diện tích còn lại. Nếu so sánh những năm trước 1990 thì diện tích tại xã Tam Hải bị suy giảm nghiêm trọng chỉ còn lại khoảng 10 ha. Vì do phong trào nuôi tôm từ sau năm 1990 phát triển rầm rộ dẫn đến tình trạng phá rừng bữa bãi diễn ra khắp nơi đặt biệt là thôn 4, thôn 5 và 6 của xã Tam Hải. Vì vậy, hiện nay diện tích rừng ngập mặn tại xã Tam Hải bị suy giảm nghiêm trọng.
Dưới đây là những hình ảnh mà chúng tôi chụp lại từ vệ tinh và trong quá trình đi thực tế:
Hình 4.8 : Phá rừng ngập mặn để nuôi tôm tại xã Tam Hải (hình ảnh chụp từ vệ tinh)
Hình 4.9: Phá rừng ngập mặn để lấy đất nuôi tôm quảng canh.
( hình ảnh chụp từ quá trình thực tế)
4.2.2. Sự phân bố cây ngập mặn tại xã Tam Hải
XÃ TAM HIỆP
Để xác định sự phân bố cây ngập mặn trong việc đánh giá hiện trạng rừng ngập mặn tại xã Tam Hải để phục vụ cho mục đích nuôi tôm, chúng tôi tiến hành sử dụng công cụ bản đồ và sơ đồ lát cắt trong phương pháp PRA. Kết quả nguyên cứu được thể hiện như sau:
Ghi chú :
Rừng ngập mặn
Hình 4.10: Bản đồ phân bố rừng ngập mặn tại các thôn trong xã Tam Hải
Qua hình 4.10 cho ta thấy rằng rừng ngập mặn đều được phân bố rộng rãi tại các thôn của xã Tam Hải. Rừng ngập mặn phân bố nhiều nhất là các thôn 4 và thôn 5, 6 với mật độ diện tích cao trong đó hệ thực vật chiếm nhiều nhất là quần xã mắm. Vì tại 3 thôn này đều là những khu vực có đất ngập nước và có chế độ thuỷ triều ổn định nên thuận lợi cho hệ sinh thái rừng ngập mặn phát triển ổn định và phân bố đồng đều. Các thôn khác rừng ngập mặn chỉ còn rải rác tại những khu vực ven biển vì do những lợi ích kinh tế trước mắt không thấy hậu quả sau này nên tại những khu vực này người dân khai thác rừng ngập mặn để lấy đất làm nhà và lấy đất để làm hồ nuôi tôm quảng canh dẫn đến rừng ngập mặn bị suy giảm nghiêm trọng.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng công cụ lát cắt trong phương pháp PRA để xác định sự phân bố rừng ngập mặn của xã Tam Hải theo chế độ triều cường và độ mặn để phục vụ cho mục đích nuôi tôm. Kết quả được thể hiện qua hình 4.11 và 4.12 như sau
Đặc điểm
Chế độ ngập triều
Đất bị lấy đi đắp đê
Chỉ ngập triều có triều cường
Vùng đất ngập triều gần cửa sông
Đất ngập triều hằng ngày
Bãi bồi
Độ mặn lúc triều cường
30 ‰
30 ‰
30 ‰
30 ‰
30 ‰
Độ mặn lúc triều lên
30 0/00
30 0/00
> 30 0/00
< 5 0/00
30 ‰
Độ mặn lúc triều hạ
7 – 25 0/00
30 0/00
7 – 25 0/00
3-4 0/00
19 0/00
Đặc điểm nền
Bùn rắn
Bùn rắn
Bùn chặt
Có dãi cát pha bùn
Bùn chặt
Thành phần loài
Sú
Giá
Bần
Đước vòi, vẹt
Mắm quắn
Hình 4.11 : Sơ đồ lát cắt sự phân bố rừng ngập mặn tại Thôn 4 – xã Tam Hải
Đặc điểm
Vị trí
Xa cửa sông
Gần cửa sông
Chế độ ngập triều
Vùng đất ngập triều cao
Vùng đất cao ít ngập triều
Độ mặn lúc triều lên
> 30 0/00
< 5 0/00
Độ mặn lúc triều hạ
7 – 25 0/00
3-4 0/00
Đặc điểm nền
Bùn chặt
Có dãi cát pha bùn
Thành phần loài
Đước, mắm
Bần
Hình 4.12: Sơ đồ lát cắt sự phân bố rừng ngập mặn tại thôn 5, 6 – xã Tam Hải
Qua kết quả hình 4.11 và 4.12 cho ta thấy rằng rừng ngập mặn ở đây chỉ có sự hiện diện của 5 loài cây đó là sú, vẹt, bần, đước, mắm biển, giá. Trong đó, loài cây chiếm số lượng nhiều nhất là mắm biển, đước, bần. Mặt khác, với đặc điểm thích nghi của cây đước, mắm, vẹt có khả năng chịu được vùng nước có độ mặn cao nên chúng được phân bố ở vùng đất ngập triều cao. Còn cây bần và giá, sú thì đặc điểm thích nghi chịu độ mặn thấp nên sống được vùng đất ít ngập triều. Vì vậy, có thể kết luận rằng sự phân bố thành phần thực vật ngập mặn có sự khác nhau theo vùng đất có chế độ ngập triều và độ mặn khác nhau. Ứng với vùng đất có chế độ ngập triều khác và độ mặn khác nhau thì sự phân bố loài ưu thế cũng khác nhau.
4.2.3. Thành phần loài cây ngập mặn tại xã Tam Hải
Thành phần các loài cây ngập mặn là một yếu tố quan trọng quyết định đến sự phân bố và phát triển hệ sinh thái RNM. Vì vậy, để đánh giá hiện trạng RNM phục vụ cho mục đích nuôi tôm chúng tôi tiến hành xác định thành phần các loài cây tại xã Tam Hải bằng công cụ bảng hỏi trong phương pháp PRA. Kết quả nguyên cứu được thể hiện qua bảng 4.4 như sau:
Bảng 4.4. Danh lục các loài thực vật RNM vùng cửa sông Xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam.
STT
Tên họ
STT
Tên loài
Dạng sống
Nhóm TV
Tên khoa học
Tên Việt
Nam
Tên khoa học
Tên Việt Nam
1
AVICENNIACEAE
Họ Mắm
1
Avicenia
marina
Mắm biển
G
TVC
2
Avicenia
latama
Mắn quăn
G
TVC
3
RHIZOPHORACEAE
Họ Đước
5
Rhizophora
stylosa
Đước vòi
G
TVC
6
Bruguiera
gymnorrhiza
Vẹt dù
G
TVC
4
SONNERATIACEAE
Họ Bần
7
Sonneratia
caseolaris
Bần chua
G
TVC
5
EUPHRBIACEAE
Họ Thầu Dầu
8
Excoecaria agallocha L.
Giá
GB
TVTG
6
MYRSINACEAE
Họ
Đơn Nem
9
Aegiceras comiculatum (L.) Blco.
Sú
GB
TVC
Chú thích:
TVTG : Thực vật tham gia
TVC : Thực vật ngập mặn chính thức
G : Cây gỗ
GB : Cây gỗ dạng bụi
Bảng 4.5. Tỷ lệ nhóm thực vật Ngập mặn chính thức và thực vật tham gia vào RNM
STT
Nhóm thực vật
Ký hiệu
Số lượng loài
Tỷ lệ %
1
Thực vật ngập mặn chính thức
TVC
6 / 7
85 %
2
Thực vật ngập tham gia vào
RNM
TVTG
1 / 7
15 %
Biểu đồ 4.1. Tỷ lệ nhóm thực vật Ngập mặn chính thức và thực vật
Qua bảng 4.5 và biểu đồ 4.1 ta nhận thấy số lượng loài thực vật bắt gặp tại RNM là 7 loài. Trong số 7 loài thực vật ngập mặn đó có 6 loài thực vật ngập mặn chính thức và 1loài thực vật tham gia rừng ngập mặn, thuộc 6 họ đã được tìm thấy ở RNM cửa sông của xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam.
Qua bảng 4.4 ta cũng thấy được độ đa dạng dạng sống thực vật trong RNM. Độ đa dạng dạng sống được thể hiện qua bảng 4.6 như sau :
Bảng 4.6. Tỷ lệ Thực vật ngập mặn theo dạng sống
STT
Dạng sống
Ký hiệu
Số lượng loài
Tỷ lệ %
1
Cây gỗ
G
5 / 7
71 %
2
Cây gỗ dạng bụi
GB
2/ 7
29 %
Biểu đồ 4.2. Tỷ lệ Thực vật ngập mặn theo dạng sống
Qua bảng 4.6 và biểu đồ 4.2 có thể thấy, dạng sống cây gỗ chiếm số lượng
lớn nhất với 5 loài chiếm 71 %. Tiếp theo là cây gỗ dạng bụi với 2 loài chiếm 29 %.
Dưới đây là một số hình ảnh thành phần loài được chụp lại trong quá trình đi thực tế:
Hình 4.13: Cây đước tại thôn 4
Hình 4.14: Cây mắm biển tại thôn 5
Hình 4.15 : Cây Sú tại thôn 4
Hình 4.16: Cây Giá tại thôn 5
Hình 4.17 : Cây bần tại thôn 4
Hình 4.18 : Cây vẹt tại thôn 4
Nói tóm lại, thành phần loài rừng ngập mặn tại xã Tam Hải đóng vai trò quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn tại xã. Nhưng qua kết quả nguyên cứu cho thấy hệ sinh thái này chỉ còn 3 quần xã đặc trưng nhất đó là bần, mắm, đước nhưng các loài này chiếm số luợng không nhiều. Vì vậy, để phát triển và nâng cấp hệ sinh thái rừng ngập mặn ở đây thì cần có sự phối hợp đồng bộ của các cấp chính quyền địa phương, từ đó đưa ra những chính sách phù hợp cho việc bảo vệ rừng ngập mặn.
4.2.4. Hiện trạng nuôi tôm xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam.
Để đánh giá hiện trạng nuôi tôm, chúng tôi tiến hành thu thập số liệu sơ cấp tại phòng Nông nghiệp – Nông thôn của huyện và sử dụng các công cụ trong phương pháp PRA như bản đồ, lịch thời vụ nhằm xác định hiện trạng rừng ngập mặn trong việc phục vụ mục đích nuôi tôm tại xã Tam Hải. Kết quả nguyên cứu được thể hiện như sau:
BẾN PHÀ
SÔNG
TRƯỜNG GIANG
XÃ TAM HOÀ
Thôn 7
Thôn 2
Thôn 3
Thôn 4
Thôn 1
XÃ TAM
QUANG
XÃ TAM GIANG
BIỂN ĐÔNG
Thôn 5
Thôn 6
+
UBND
BIỂN ĐÔNG
XÃ TAM HIỆP
Ghi chú :
Hồ nuôi tôm
Hình 4.19: Bản đồ phân bố đầm nuôi tôm tại xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam
Qua hình 4.15 cho chúng ta nhận thấy rằng các hồ nuôi tôm chỉ phân bố tại các thôn 4 và thôn 5, 6. Mặt khác, trong những năm gần đây tình hình nuôi tôm của xã Tam Hải có sự suy giảm về sản lượng trong khi đó thì diện tích lại tăng. Nhưng đến năm 2009-2010 thì diện tích lại giảm xuống. Kết quả đó được thể hiện ở bảng 4.4 như sau :
Bảng 4.7. Tình hình nuôi tôm tại xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam
Khoản mục
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
Diện tích (ha)
28
40
72
72
158
158
158
130
130
10
100
Sản lượng (tấn/ha)
26.5
21
16.9
52
107
164
100
105
35
27
0
Số hộ
70
150
150
150
185
185
185
300
300
300
250
Nguồn : Phòng Nông nghiệp – Nông thôn huyện Núi Thành – tỉnh Quảng Nam
Qua bảng 4.4 cho chúng ta thấy rằng cùng với sự phát triển về diện tích và số hộ nuôi tôm cũng có những biển đổi qua các năm. Sản lượng tôm có sự giảm sút từ năm 2000 à 2002, đặc biệt giảm mạnh gần một nửa từ năm 2005 à 2006 gắn liền với thời kỳ tôm bị dịch bệnh chết hàng loạt ở xã, sản lượng từ 164 tấn chỉ còn 100 tấn. Đây là thời kỳ khó khăn đối với nghề nuôi tôm của xã Tam Hải. Còn riêng năm 2010 diện tích ao nuôi tăng lên và số hộ nuôi cũng cao nhưng sản luợng thì không đạt 1 tấn nào. Đó là do thời tiết diễn biến phức tạp, nguồn nước bị ô nhiễm, con giống không đạt yêu cầu, người nuôi tôm đã thả sớm hơn thời gian qui định và diện tích rừng ngập mặn giảm sút.
Tuy nhiên, hiện nay hầu hết người dân trong xã bắt đầu chuyển sang nghề nuôi tôm thẻ chân trắng vào năm 2007. Đến năm 2008 loại tôm này mới được đưa vào nuôi và được coi là đối tượng chính của xã. Nuôi tôm thẻ chân trắng đã đem lại hiệu quả kinh tế cao góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống người dân trong xã. Dưới đây là những hình ảnh về tình hình nuôi tôm của xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam mà chúng tôi đã chụp lại trong quá trình đi thực tế .
Hình 4.20: Mô hình nuôi tôm sú ở theo hình thức quảng canh tại thôn 4
Hình 4.21: Hệ thống lấy nước cho ao nuôi tôm
Hình 4.22: Tôm thẻ chân trắng
Hình 4.23 : Tôm sú
Tóm lại, tình hình nuôi tôm của xã Tam Hải trong những năm gần đây phát triển không ổn định dẫn đến nhiều diện tích nuôi tôm ở đây bị bỏ hoang. Vì vậy, chính quyền xã cần phải có hướng đi đúng đắn lấy lại những khu đất bị bỏ hoang trồng lại rừng ngập mặn.
4.2.5. Nguyên nhân làm rừng ngập mặn bị suy giảm
Căn cứ trên kết quả nguyên cứu về diện tích và sự phân bố rừng ngập mặn tại xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam, chúng tôi nhận thấy từ năm 1990 – 2009 thì diện tích rừng ngập mặn suy giảm đáng kể giảm 50 %. Vì vậy, để xác định nguyên nhân gây ra tình trạng trên đồng thời làm cơ sở cho việc đề xuất giải pháp đạt hiệu quả chúng tôi đã sử dụng công cụ cây vấn đề và xác định được một số nguyên nhân cơ bản. Kết quả được thể hiện như sơ đồ 4.1 như sau:
Làm đường, khu đô thị
Chặt phá làm nhà ở
Mất RNM, diện tích rừng ngày càng bị
thu hẹp
RNM suy giảm
Sản xuất nông nghiệp
Ô nhiễm môi trường
Đô thị hoá
Dân số tăng
Môi trường bị suy thoái
Đất bị hoang hoá và chuyển sang nuôi tôm nhưng năng suất đạt không cao.
Năng suất tôm giảm, CNM và các động vật bị chết dần
Làm ngăn cản chế độ triều, ảnh hưởng CNM.
Hậu quả
Lợi
Nhuận
Áp lực gia tăng dân số
Thiếu đất canh tác, đất cằn cỗi
Nước thải nuôi tôm, công nghiệp
Quản lý yếu kém
Nuôi tôm, làm muối
Nguyên nhân
Vấn đề
Sơ đồ 4.1: Cây vấn đề về diện tích RNM tại xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam
Qua sơ đồ 4.1, chúng tôi thấy rằng các nguyên nhân làm suy giảm diện tích rừng ngập mặn sẽ đem lại những hậu quả nghiêm trọng về mặt sinh thái. Trong những nguyên nhân đó, phá rừng ngập mặn để nuôi tôm quảng canh thô sơ là một trong những nguyên nhân chính đã gây ra những hậu quả nặng nề nhất trong việc làm suy giảm rừng ngập mặn tại xã Tam Hải – Núi Thành – Quảng Nam
Phá rừng ngập mặn làm nuôi tôm quảng canh
Do nhu cầu về tôm xuất khẩu rất lớn trong lúc sản lượng đánh bắt giảm sút vào những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ 90 hầu hết vùng ven biển, cửa sông nước ta, nhân dân và các cơ quan đã phá các khu RNM xanh tốt và các khu rừng phòng hộ tự nhiên hoặc trồng để làm đầm nuôi tôm quảng canh thô sơ. Ở nhiều địa phương RNM đã biến mất còn lại là các đầm tôm và đất hoang hoá.
Hình 4.24: Các khu rừng ngập mặn bị phá làm hồ nuôi tôm
Qua quá trình nguyên cứu và khảo sát chúng tôi đã sử dụng công cụ lịch thời vụ để xác định những ảnh hưởng của việc nuôi tôm cũng như những hậu quả mang đến trong hoạt động này.
Các hoạt động
Các tháng trong năm
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Nhiệt độ
Thuỷ văn
Cải tạo ao nuôi
Mua giống tôm
Thời gian thả tôm vụ 1
Thời gian thả tôm vụ 2
Kiểm tra, xét nghiệm tôm nuôi
Thời gian lấy nước
Dịch bệnh
Thực hiện chương trình giám sát, khắc phục dịch bệnh
Thu hoạch
Sơ đồ 4.2 : Lịch thời vụ nuôi tôm xã Tam Hải - huyện Núi Thành - tỉnh Quảng Nam
Qua sơ đồ 4.2 chúng tôi thấy rằng các hoạt động nuôi tôm đã được phân bố thời gian cụ thể và phù hợp. Vì vậy, tình hình nuôi tôm ở đây trong những năm gần đây đạt hiệu quả cao dẫn đến tình trạng gây ô nhiễm môi trường trầm trọng ảnh hưởng đến sự phân bố và phát triển hệ sinh thái rừng ngập mặn của xã .
Việc phá rừng làm đầm nuôi tôm theo lối quảng canh thô sơ đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng như:
Biến đổi tính chất hoá lý của đất.
Do việc đắp các đầm với diện tích quá lớn, ít cống nên nước triều trao đổi trong đầm với môi trường ngoài rất kém, khiến cho môi trường thoái hoá nhanh.
Khi đào đất đắp bờ và làm các luống ( líp) giữa các mương thì tầng Pyrite (FeS2) tìm tàng trong lớp đất có xác cây ngập mặn về mùa khô thiếu nước, lại bị ánh sáng mặt trời thêu đốt đã bị oxy hoá thánh lớp Oxy hoá thành đất sulphate acide. Tỉ số Fe2O3/FeO tăng lên rất nhanh, đặt biệt là ở tầng mặt. So sánh hàm lượng Fe2O3, FeO ở trong đầm dễ hoà tan trong môi trường bãi lầy còn rừng ngập mặn với môi trường đầm tôm do phá rừng, đất thoái hoá thì lượng Fe2O3 cao gấp 7-10 lần và tỷ số Fe2O3/FeO cao gấp 4-5 lần, kèm theo là lượng SO4 cũng rất cao. Tỉ lệ Cl-/ SO4 rất thấp do sunful bị oxy hoá thành SO4; Ở tầng mặt và tầng đáy có rất nhiều Fe và Mn kết tủa. Kết quả là từ loại đất RNM trung tính, giàu chất dinh dưỡng thuận lợi cho nhiều loại động vật vùng triều sinh sống đã chuyển sang loại đất sunfate acide vừa chua vừa mặn không thích hợp với các loại vật nuôi (tôm, cua, cá) cũng như các loại thuỷ sinh khác. Qúa trình oxy hoá này còn làm cho nền đáy đầm rắn chắc, không phù hợp với đời sống động vật đáy, tôm không thể vùi mình để tránh kẻ địch, một số bị chết, một số di chuyển đi nơi khác.
Vào mùa mưa, nước mưa gây xói lỡ sườn bờ, đưa đất chua từ các luống giữa đầm và bờ xuống đầm, nhất là những đầm khó trao đổi nước làm cho độ pH giảm nhanh. Nhiều động vật trong đầm không thích nghi kịp nên bị sốc và chết. Khi PH giảm xuống 5, tôm không hoạt động, khi PH còn 4, tôm chết dần.
Độ chua của nước trong đầm ảnh hưởng đến sự phát triển của vi sinh vật (nấm, vi khuẩn), kể cả động vật, thực vật nổi nguyên sinh là thức ăn quan trọng của các loái hải sản nuôi. Độ PH còn thấp còn ảnh hưởng đến sự trao đổi chất của các loài tảo và động vật nhỏ. Các quá trình hoạt động sinh hoá, sinh tổng hợp rất nhạy với độ PH. Độ PH giảm sẽ làm mất cân bằng trong cácbônat; Các kim loại nặng, độc được giải phóng hại cho các loài động vật thuỷ sinh, còn ion phospho cần thiết cho sự sinh trưởng của tảo nổi lại không ở trạng thái tự do.(Hamilton và Snedaker, 1984).
Biến đổi lượng sinh vật
Trên bãi triều có nhiều loài sinh vùng triều điển hình thích nghi với nền đáy khi bị phơi nắng do nước triều rút và ngập nước triều lên. Đáng kể là các loài cua thuộc 2 họ Grápidae và Ocypodidae.Các loài tảo silic, (một nguồn thức ăn quan trọng của tôm, cá và ấu trùng của chúng ) có số lượng lớn ở trong các kênh rạch. Còn các loài tảo khác như tảo mắt, tảo lục và tảo lam số lượng ít hơn trong đầm nhiều. Nhiều tảo mắt đặc biệt là tảo lam ưa sống trong môi trường nước tù đọng, gây hại cho hải sản có số lượng lớn ở trong đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L7900I C7842M 416N.doc