Đề tài Đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông phục vụ kế hoạch sử dụng đất 2006 - 2010 huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương

Tài liệu Đề tài Đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông phục vụ kế hoạch sử dụng đất 2006 - 2010 huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương: 1. MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Đất và nước là hai nguồn tài nguyên quý giá của nhân loại vì nó là cội nguồn của sự tồn tại, nguồn gốc của mọi sự sống trên trái đất. Đối với nông nghiệp đất là tư liệu sản xuất đặc biệt. Cùng với đất, nước là yếu tố hàng đầu để sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp ông cha ta đã có câu “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Mối quan hệ giữa đất, nước và cây trồng luôn mật thiết với nhau. Cây trồng sinh trưởng, phát triển được là nhờ các yếu tố nước, chất dinh dưỡng, nhiệt độ, ánh sáng, không khí, trong đó nước có vai trò đặc biệt ở chỗ nó vừa có khả năng điều hoà các yếu tố còn lại vừa phát huy tác dụng của chúng làm cho cây trồng phát triển. Tuy nhiên tài nguyên nước phân bố không đồng đều trong không gian và thời gian, chưa đáp ứng với yêu cầu nước của cây trồng trong hệ thống luân canh, chưa phù hợp với tốc độ phát triển của sản xuất nông nghiệp. Vì vậy việc tưới, tiêu nước là biện pháp kỹ thuật nhằm phát huy tốt nhất hiệu ...

doc121 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1178 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông phục vụ kế hoạch sử dụng đất 2006 - 2010 huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. MỞ ĐẦU 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Đất và nước là hai nguồn tài nguyên quý giá của nhân loại vì nó là cội nguồn của sự tồn tại, nguồn gốc của mọi sự sống trên trái đất. Đối với nông nghiệp đất là tư liệu sản xuất đặc biệt. Cùng với đất, nước là yếu tố hàng đầu để sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp ông cha ta đã có câu “Nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Mối quan hệ giữa đất, nước và cây trồng luôn mật thiết với nhau. Cây trồng sinh trưởng, phát triển được là nhờ các yếu tố nước, chất dinh dưỡng, nhiệt độ, ánh sáng, không khí, trong đó nước có vai trò đặc biệt ở chỗ nó vừa có khả năng điều hoà các yếu tố còn lại vừa phát huy tác dụng của chúng làm cho cây trồng phát triển. Tuy nhiên tài nguyên nước phân bố không đồng đều trong không gian và thời gian, chưa đáp ứng với yêu cầu nước của cây trồng trong hệ thống luân canh, chưa phù hợp với tốc độ phát triển của sản xuất nông nghiệp. Vì vậy việc tưới, tiêu nước là biện pháp kỹ thuật nhằm phát huy tốt nhất hiệu quả việc sử dụng nguồn tài nguyên đất. Hơn nữa, ngày nay khoa học kỹ thuật ngày càng được áp dụng rộng rãi trên đồng ruộng, cơ cấu cây trồng thay đổi theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn, nhiều giống mới có yêu cầu thâm canh cao, lượng nước yêu cầu lớn, nhiều loại cây trồng có giá trị hàng hoá cao được đưa vào sản xuất dẫn đến nhu cầu nước của từng hệ thống cây trồng, từng công thức luân canh cũng thay đổi so với trước. Để đáp ứng đủ nước theo yêu cầu thâm canh tăng vụ các công trình thuỷ nông phục vụ tưới, tiêu chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu trên. Hay nói cách khác là áp lực về năng xuất cây trồng lên một đơn vị diện tích canh tác phụ thuộc vào việc tưới, tiêu chủ động hay không. Hiện nay cả nước hiện có 75 hệ thống thuỷ nông lớn, gần 1.970 hồ chứa nước lớn và một lượng tương tự như vậy là hồ chứa, đập nhỏ, trên 10.000 trạm bơm và 1000 km kênh trục lớn với tổng giá trị quy ra tiền tới 100.000 tỷ đồng. Nhưng do hệ thống thuỷ lợi qua quá trình sử dụng, khai thác từ lâu đã xuống cấp, cộng với công tác quản lý và sử dụng nước tưới không tốt (cả trên kênh và trên mặt ruộng) đã làm cho lượng nước sử dụng cho một ha gieo trồng rất lớn, dẫn đến thuỷ lợi phí nông dân phải trả cho các công ty trong vụ xuân là 300 kg thóc/ha và vụ mùa 250 kg thóc/ha. Ngoài ra nông dân phải trả thêm cho hợp tác xã trong vụ xuân là 90 kg thóc/ha và vụ mùa là 70 kg thóc/ha (Đoàn Doãn Tuấn và đồng nghiệp năm 1996). Đặc biệt sau nghị định 64 CP, trên một thửa ruộng của hợp tác xã trước kia, nay đã có nhiều hộ nông dân cùng canh tác với nhiều giống và thời vụ khác nhau đã làm cho việc sử dụng nước ngày càng lãng phí, mặc dù nhu cầu nước của cây lúa chỉ khoảng 3.600-3.800 m3/ha, mà nước tưới thực tế biến động 3.570 - 5.246 m3/ha tuỳ theo lượng mưa của từng vụ [3]. Bên cạnh đó, hầu hết các công trình thuỷ nông có quá trình khai thác kém hiệu quả và hệ số dẫn nước kênh mương ở mức thấp nên việc sử dụng nước ngày càng lãng phí, sự mất cân đối trong thu chi của các công ty, xí nghiệp thuỷ nông khiến nhà nước phải trợ cấp một lượng kinh phí đáng kể. Do vậy, việc đánh giá hoạt động của hệ thống thuỷ nông là rất cần thiết, giúp cho việc quản lý nguồn tài nguyên đất và tài nguyên nước một cách có hiệu quả. Ninh Giang là huyện nằm trong vùng lúa trọng điểm của tỉnh Hải Dương, kết quả chuyển đổi ruộng đất từ ô thửa nhỏ sang ô thửa lớn đã tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Là huyện thuần nông nên công tác thuỷ nông có vai trò quan trọng trong việc khai thác tiềm năng đất đai. Mặc dù hệ thống thuỷ nông đã được đầu tư xây dựng và tu bổ thường xuyên nhưng vẫn còn một số tồn tại và bất cập. Khả năng chống úng, hạn chưa cao, đa số công trình đã xây dựng từ năm 1963, tiến độ thực hiện kiên cố hoá kênh mương đạt ở mức thấp. Những tồn tại này đã gây khó khăn cho công tác tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, chưa đáp ứng được nhu cầu thâm canh tăng vụ. Đánh giá sự hoạt động của hệ thống, đưa ra các giải pháp cải tạo nâng cấp giúp cho việc thực hiện tốt kế hoạch sử dụng đất là việc làm cần thiết. Xuất phát từ nhận thức những vấn đề bất cập trên, được sự hướng dẫn trực tiếp của thầy giáo, PGS. Ts Nguyễn Văn Dung, giảng viên khoa Đất và Môi trường - Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông phục vụ kế hoạch sử dụng đất 2006 - 2010 huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương” 1.2. Mục đích và yêu cầu 1.2.1. Mục đích Nghiên cứu, phân tích, đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương. Phát hiện những tồn tại và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ của hệ thống đối với công tác kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010. 1.2.2. Yêu cầu Các tài liệu, số liệu và thông tin trong công tác điều tra phải đầy đủ, chính xác, trung thực phản ánh đúng thực trạng hoạt động của hệ thống thuỷ nông huyện Ninh Giang. Đánh giá hiện trạng phải dựa trên cơ sở định tính, định lượng và khoa học. Đề xuất những giải pháp, kiến nghị trên cơ sở thực trạng hệ thống, phù hợp với điều kiện địa phương, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống phục vụ tốt cho kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010. 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU Hệ thống thuỷ nông được hiểu là tập hợp các công trình thuỷ lợi có liên quan với nhau để tưới và tiêu cho các loại cây trồng trong lưu vực phục vụ của hệ thống. Công trình thuỷ lợi bao gồm hồ chứa nước, trạm bơm, đập, cống, kênh mương, kè đê. Như vậy thuỷ nông được hiểu là thuỷ lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, thuật ngữ thuỷ nông hiện nay được hiểu rộng hơn, không chỉ là tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp mà còn cấp nước cho cả sinh hoạt, công nghiệp, thuỷ sản v.v... nhưng nhiệm vụ tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp phải là nhiệm vụ chính. 2.1. Tình hình sử dụng nước 2.1.1. Tình hình sử dụng nước trên thế giới Nước bao phủ ba phần tư bề mặt trái đất, nước cũng chiếm ba phần tư cấu tạo các mô sinh vật. Trữ lượng nước trên trái đất có hạn và chu trình nước tiếp diễn liên tục từ dạng đặc sang dạng lỏng, chuyển sang dạng khí và ngược lại. Trong tổng lượng nước của trái đất chỉ có 3% là nước ngọt, trong đó chỉ có 0,3% là sẵn sàng dùng được cho chúng ta. Hiện nay, ở nhiều vùng trên thế giới vào những thời điểm nhất định, có tình trạng thiếu nước vì con người không chỉ cần có nước mà nước phải đủ, đảm bảo về chất lượng, đúng lúc và đúng chỗ. Trong tự nhiên nước được luân chuyển theo một chu trình bay hơi và ngưng tụ liên tục gọi là chu trình thuỷ văn, nhờ đó mà nước tham gia vào chu trình phát triển của tất cả các hệ sinh thái. Theo tính toán lượng nước mưa hàng năm trên trái đất khoảng 105.000 km3, trong dó khoảng 1/3 thấm vào đất, tích đọng ở ao hồ và hình thành dòng chảy ra sông, 2/3 còn lại trở lại khí quyển. Tổng lượng nước trên trái đất khoảng 1,4 tỷ km3 nhưng 96,5% là nằm ở đại dương. Nguồn nước ngọt mà con người có thể dùng được chỉ khoảng 2,53% tổng lượng nước toàn trái đất, còn lại đóng băng ở hai cực trái đất. Trong khi lượng mưa chủ yếu lại rơi trên đại dương, trung bình năm khoảng 990 mm, lục địa trung bình năm chỉ khoảng 650 - 670 mm, trên lục địa lượng mưa phân bố rất không đều nó phụ thuộc vào khí hậu và địa hình, vùng nhiệt đới từ 2000 - 5000 mm/năm, vùng hoang mạc dưới 120 mm/năm [5]. Từ đó cho thấy nước là một thứ tài nguyên phân bố không đều, nhìn chung trên toàn thế giới từ một xứ khô cằn sang một vùng nhiệt đới lượng nước có thể biến đổi từ 1 - 1000. Nguồn nước trên trái đất chúng ta không phải là vô tận. Vì vậy từ xa xưa tổ tiên loài người đã thấy được tầm quan trọng của nước và tìm cách cải tạo dòng nước tự nhiên, sử dụng chúng một cách hiệu quả nhất: ở Ai Cập 5000 năm trước công nguyên con người đã xây dựng những đập giữ nước trên sông Nile, Trung Quốc 4000 năm trước đã xây dựng kênh đào tới 700 dặm, Ấn Độ cách chúng ta 20 thế kỷ đã có nhiều công trình chứa nước tưới cho lưu vực sông Indus. Cho đến vài thập kỷ gần đây, nhờ hệ thống thuỷ nông mà diện tích đất được tưới tăng tương đối ổn định. Năm 1972 diện tích đất được tưới của thế giới là 176.420.000 ha, năm 1982 tăng lên là 215.253.000 ha, năm 1987 là 227.108.000 ha. Trong đó chỉ riêng khu vực Châu Á diện tích đất được tưới năm 1972 là 113.888.000 ha, năm 1982 là 135.297.000 ha, năm 1987 là 142.301.000 ha, năm 1992 là 181.533.000 ha và Trung Quốc là nước có diện tích đất được tưới lớn nhất trong khu vực và trên thế giới, diện tích đất được tưới năm 1992 là 49.030.000 ha, đến nay con số này là trên 5 triệu ha. Cùng với sự tiến bộ về khoa học kỹ thuật và áp lực về an ninh lương thực của toàn nhân loại, diện tích đất được tưới không ngừng tăng, đây là điều đáng mừng cho ngành nông nghiệp thế giới. Ngày nay việc sử dụng nước của con người không ngừng tăng lên do dân số tăng, đầu thế kỷ 20 dân số toàn cầu là 1,6 tỷ người nhưng đến cuối năm 1999 đã đạt 6 tỷ, tăng 3,75 lần, điều này đã khiến cho nước dùng cho công nghiệp tăng 20 lần, nước dùng cho nông nghiệp tăng 7 lần, nước cho sinh hoạt tăng 10 lần. Ngoài sự gia tăng dân số khiến nhu cầu sử dụng nước gia tăng còn có các nguyên nhân khác như cách sống của con người thay đổi cần sử dụng nhiều nước hơn, nhất là nhu cầu nước sạch cung cấp cho các thành phố lớn. Trên thế giới có hơn 100 quốc gia và khu vực bị thiếu nước với mức độ khác nhau, trong đó có 4 quốc gia bị thiếu nước nghiêm trọng. Vùng thiếu nước trên trái đất chiếm tới 60% diện tích châu lục, trong các nước đang phát triển có tới 60% số người thiếu nước sạch trong sinh hoạt, 80% bị bệnh tật có liên quan đến ô nhiễm nước. Có thể nhận thấy rằng trong những năm gần đây, để phát triển ngành nông nghiệp hầu hết Chính phủ các nước trên thế giới đều rất chú trọng đến công tác thuỷ lợi, cả về đầu tư xây dựng hệ thống và tổ chức quản lý khai thác, sử dụng các công trình. Ở những nước phát triển đầu tư các công trình thuỷ lợi hoàn chỉnh, (tưới, tiêu chủ động), các nước đang phát triển xây dựng các công trình thuỷ lợi đầu mối có tính chất trọng điểm, các công trình có sự tham gia của cộng đồng, tư nhân tự bỏ vốn xây dựng công trình. Đa dạng hoá các hình thức đầu tư và quản lý các công trình thuỷ lợi tất cả phục vụ nền nông nghiệp phát triển bền vững. 2.1.2 Tình hình sử dụng nước ở Việt Nam Lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam gắn liền với sự hình thành của hệ thống đê điều, hệ thống kênh rạch chống lũ, hàng ngàn năm mở mang vùng đất mới, phát huy mặt lợi, hạn chế mặt hại của nước để tồn tại và phát triển. Cũng nhờ lợi thế đó, một nền văn minh lúa nước đã hình thành từ hàng nghìn năm trước ở vùng đồng bằng Sông Hồng và di cư vào đồng bằng Sông Cửu Long 300 năm trước đây. Là một quốc gia có nguồn tài nguyên nước phong phú với mức bình quân trên đầu người hiện nay là 12.000m3/năm, nhưng 2/3 lượng nước nói trên lại phát sinh từ lãnh thổ các nước khác ở thượng lưu, như thượng lưu khu vực sông Hồng, trung và thượng lưu khu vực sông MêKông. Vì thế lượng nước qua lãnh thổ Việt Nam phụ thuộc một phần vào tình hình khai thác và sử dụng nước của các nước trên. Do địa hình bị chia cắt bởi nhiều dãy núi song song và do chế độ mưa không đồng nhất nên dòng chảy phân bố không đều trên lãnh thổ. Vùng đồng bằng sông Cửu Long có tổng lượng dòng chảy là 507,8 tỷ m3, trong đó 95% lượng nước từ bên ngoài lãnh thổ chảy vào, lượng nước qua vùng chiếm 61% quỹ nước mặt của toàn lãnh thổ. Tuy lượng nước phong phú nhưng vẫn còn hai hạn chế cho sự phát triển của một số vùng thuộc đồng bằng sông Cửu Long đó là “ngập lụt về mùa mưa và hạn hán về mùa khô”[14]. Vùng đồng bằng Bắc Bộ là vùng có tiềm năng nước đứng thứ hai trong cả nước với tổng lượng dòng chảy bình quân nhiều năm là 159 tỷ m3, chiếm 19% quỹ nước của quốc gia. Bình quân ở Bắc Bộ mỗi ha hàng năm có 13.900 m3 nước trong đó 8.940 m3 được phát sinh trong lãnh thổ (64%). Dung tích các hồ chứa ở Bắc Bộ đã đạt trên 8 tỷ m3 nước. Hầu như trên các sông vừa và nhỏ trong vùng đều đã có các hồ chứa hoặc các công trình cấp nước làm tăng dòng chảy và lượng dòng chảy trong mùa kiệt [14]. Vùng Bắc Trung Bộ là vùng đứng thứ 3 về tiềm năng nguồn nước với lượng nước trung bình nhiều năm là 83,4 tỷ m3 chiếm 9,4% quỹ nước quốc gia trong đó có 11,9 tỷ m3 từ bên ngoài đổ vào. Lượng dòng chảy tháng kiệt nhất chỉ chiếm 1,3% lượng dòng chảy cả năm nên ở Bắc Trung Bộ cũng được xây dựng nhiều hồ chứa nhỏ để tăng cường lượng dòng chảy vào mùa kiệt [14]. Vùng Nam Trung Bộ có tiềm năng nước mặt 59,5 tỷ m3, bình quân có 12.000m3/ha trong năm. Do chiều dài sông ngắn và dốc, các sông có nguồn từ Đông Trường Sơn chảy thẳng ra biển nên trong vùng này khó có điều kiện xây dựng các hồ vừa và lớn [14]. Vùng Tây Nguyên chủ yếu là sông Sêsan và sông Serepok có tổng dòng chảy của cả hai sông là 27,8 tỷ m3 trong đó lưu vực sông Sesan có tiềm năng nguồn nước mặt là 12.000 m3/ha/năm, cao hơn lưu vực sông Serepork (7.540 m3/ha/năm). Hiện trên sông Sesan đã xây dựng thuỷ điện Yaly có dung tích điều tiết 700 triệu m3. Trên sông Serepok chưa có hồ chứa nước lớn nhưng có rất nhiều hồ chứa nhỏ tưới cho lúa và cây công nghiệp như cà phê, tiêu, cao su [14]. Vùng Đông Nam Bộ có lượng nước đến hàng năm là 36,6 tỷ m3, trong đó chỉ có 4 tỷ m3 chảy vào lãnh thổ Campuchia. Lượng dòng chảy đến trung bình năm là 10.200 m3/ha, trong đó 9.100 m3/ha là do phát sinh tại chỗ. Do lượng mưa càng giảm theo độ cao bề mặt lưu vực nên càng về phía ven biển và phía Nam của vùng thì lượng dòng chảy do mưa tại chỗ giảm. Hiện nay trong vùng đã có nhiều hồ chứa với dung tích 4.800 triệu m3 để điều tiết nước tưới và cung cấp cho sinh hoạt, công nghiệp. Nhờ nguồn nước phong phú, tổ tiên chúng ta từ xa xưa đã nhận thức được tầm quan trọng của thuỷ lợi đối với đời sống và phát triển sản xuất nông nghiệp. Tuỳ thuộc vào quá trình phát triển xã hội trong từng giai đoạn mà các phương tiện, biện pháp khai thác tài nguyên nước cũng khác nhau. Thời gian đầu người ta chỉ biết sử dụng nguồn nước có sẵn của tự nhiên, sau đó biết đào giếng, đào ao để lấy nước sử dụng cho sản xuất và đời sống. Cùng với quá trình phát triển của xã hội, khoa học công nghệ với các phương thức khai thác tài nguyên nước cũng được phát triển theo hướng hiện đại và hiệu quả. Quá trình khai thác tài nguyên nước gắn liền với quá trình hình thành và phát triển hệ thống công trình các cấp và hình thức quản lý tương ứng qua từng thời kỳ. * Thời kỳ phong kiến Thế kỷ IX, nhân dân ta đã xây dựng được công trình kiên cố là đê bao thành Đại La với chiều dài 8.500 m, cao 6 m. Thế kỷ X (983), nhân dân Thanh Hoá đã đào đắp sông Đồng Cỏ, Thái Hoà, dưới thời Lý Thái Tôn đào sông Đan Nãi. Thời Trần Thái Tông (năm 1231) đào sông Hào và sông Trầm. Năm 1390 đào sông Thiên Đức (sông Đuống ngày nay). Khi xã hội phong kiến nước ta bước vào thời kỳ suy tàn, các công trình thuỷ nông ít được xây dựng, hạn hán lũ lụt xảy ra liên tục [21]. * Thời kỳ Pháp thuộc Thời kỳ này, thực dân Pháp xây dựng hơn 10 công trình thuỷ nông, các công trình này chủ yếu phục vụ các đồn điền của Pháp như hệ thống sông Cầu, hệ thống sông Liễu Sơn...[21]. * Sau năm 1954, dưới sự lãnh đạo của Đảng các công trình thuỷ nông đã được phục hồi nhanh chóng. Đến năm 1956, nhân dân ta đã đào đắp công trình 27 triệu 90 vạn m3 để tưới cho 1 triệu 56 vạn ha. Đến năm 1959 đã tiếp tục đào đắp 84 triệu 86 vạn m3 để tưới cho 1 triệu 90 vạn ha. Đáng chú ý, hệ thống đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải ra đời đã góp phần làm thay đổi nước trên đồng ruộng của tỉnh Hải Hưng cũ. Năm 1958, khi chưa có hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải, Hưng Yên cấy hai vụ với diện tích 209.925 ha, thu hoạch được 162.885 tấn thóc. Năm 1959, nhờ có hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải, Hưng Yên cấy hai vụ với diện tích 246.807 ha đạt 208.860 tấn thóc (tăng 95.975 tấn so với năm 1958) [23]. Nhờ có hệ thống công trình này, các tỉnh đồng bằng Sông Hồng đã sản xuất thêm được vụ đông và dần trở thành vụ sản xuất chính. Các công trình thủy lợi đã tạo điều kiện và khả năng thâm canh cao trong sản xuất, kết quả thể hiện rõ nhất là năng suất, sản lượng cây trồng đã được tăng lên không ngừng qua các năm [11]. Trong ba năm phát triển kinh tế (1958 - 1960), ngoài việc xây dựng hệ thống đại thuỷ nông Bắc Hưng Hải, Nhà nước còn xây dựng một số trạm bơm loại vừa như Thuỵ Phương, Gia Thượng Hà Nội, Tây và Nam Nghệ An [21]. Dưới ánh sáng Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IV, Nhà nước và nhân dân đầu tư vốn và sức lực vào xây dựng các công trình thuỷ nông như Trịnh Xá, Kim Đôi Hà Bắc, HTTN Nam Sông Mã - Thanh Hóa; Các hồ chứa nước suối Hai, Đại Lãi, Cẩm Ly; Các trạm bơm như La Khê (Hà Tây), Hồng Vân... Phong trào thi đua làm thuỷ lợi nhỏ năm 1964 - 1965 đã động viên đông đảo quần chúng nhân dân xây dựng mạng lưới công trình tưới, tiêu rộng khắp đồng ruộng [21]. Những công trình xây dựng từ những năm 1955 - 1970, có năng lực thiết kế tưới nước hơn gấp ba lần so với năng lực của các công trình xây dựng dưới thời Pháp thuộc, bị phá hoại do chiến tranh mà Nhà nước đã khôi phục lại. Đến năm 1970, 60% diện tích đất canh tác đã có công trình thuỷ lợi. Trong đó, đồng bằng Bắc Bộ khoảng 80%, Trung du và khu 4 cũ gần 60%, miền núi gần 30%. Các công trình thuỷ lợi ra đời với việc tưới, tiêu chủ động nên năng suất lúa trong thời gian này đạt 2 - 3 tấn/ha/vụ. Đến nay thuỷ lợi Việt Nam đã hình thành 75 hệ thống thuỷ lợi lớn và vừa, 750 hồ chứa nước lớn và vừa, trên 10.000 hồ chứa nhỏ, 2.000 trạm bơm điện lớn và vừa, có công suất 450 MW, 30 vạn máy bơm với năng lực thiết kế tưới cho 3 triệu ha đất canh tác; Tiêu cho trên 1,4 triệu ha đất tự nhiên ở các tỉnh Bắc Bộ; Ngăn mặn 70 vạn ha, cải tạo 1,6 triệu ha đất chua phèn ở đồng bằng Sông Cửu Long. Riêng diện tích trồng lúa được tưới chiếm 80% tổng diện tích lúa trong cả nước. Năm 2000, diện tích lúa được tưới cả năm gần 7 triệu ha, trong đó: - Lúa Đông Xuân: 2.860.000 ha - Lúa Hè Thu: 2.190.000 ha - Lúa mùa: 1.640.000 ha; Các hệ thống thuỷ lợi còn tưới trên 1 triệu ha cây rau màu, cây công nghiệp và cây ăn quả. 2.2. Vai trò thủy nông đối với sản xuất nông nghiệp Trong “Luật Tài nguyên nước” được Quốc hội thông qua năm 1998, việc bảo vệ tài nguyên nước đã được khẳng định, điều đó chứng tỏ nước có vai trò quan trọng trong đời sống và sản xuất. Nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống sinh vật, đối với cây trồng nó là yếu tố quyết định sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Trong cây nước chiếm tới 3/4 trọng lượng, trong chất nguyên sinh hàm lượng nước chiếm tới 90%. Nước tham gia các quá trình trao đổi chất, là nguyên liệu để thực hiện quá trình quang hợp, nước là phương tiện vận chuyển các chất trong cây, đảm bảo trạng thái có lợi cho sự sinh trưởng. Nói cách khác nước vừa tham gia cấu trúc nên cơ thể thực vật, vừa quyết định các biến đổi sinh hoá và các hoạt động sinh lý trong cây cũng như quyết định sự sinh trưởng, phát triển của cây. Chính vì vậy nước được xem là yếu tố sinh thái quan trọng nhất đảm bảo và quyết định năng xuất cây trồng. Trong suốt đời sống của cây, nước lúc nào cũng cần thiết để thay thế lượng nước mất đi. Nhưng ở những thời kỳ khác nhau thì cây cần lượng nước không giống nhau. Ở bất kỳ thời kỳ sinh trưởng nào của cây nếu thiếu nước đều gây ảnh hưởng xấu, nhưng có một thời kỳ thiếu nước sẽ gây tác hại nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng sản phẩm thu hoạch của cây - thời kỳ đó gọi là thời kỳ khủng hoảng nước của cây hay thời kỳ nhạy cảm với sự thiếu hụt nước [12]. Ở thời kỳ này cây tiêu thụ nước với hiệu suất tích luỹ chất khô cao nhất và nước đóng vai trò quyết định năng suất cuối cùng. Ví dụ đối với cây lúa giai đoạn làm đòng, trổ bông và phát triển hạt cho đến khi lúa chín tức là thời kỳ tích luỹ chất khô, nếu ở giai đoạn này thiếu nước sẽ gây nên hiện tượng lem lép hạt. Ngoài ra chúng ta còn thấy rõ tác dụng của nước đối với việc cải tạo các loại đất mặn, đất chua, đất lầy thụt, đất bạc màu v.v... Trong công tác cải tạo các loại đất này thì thuỷ lợi luôn đi trước một bước, tạo nên các loại đất thích hợp cho cây trồng, góp phần giữ vững và ổn định sản xuất. Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả của tưới, tiêu mang lại không thể phủ nhận. Tổng kết thực tế của Vụ quản lý và khai thác công trình thuỷ lợi cho biết: ở nước ta tưới, tiêu cho lúa có thể tăng sản lượng lên 20%- 30%. Nhờ có các công trình thuỷ lợi, chúng ta đã chế ngự được thiên nhiên, hạn chế được những tác hại do thiên tai như lũ lụt, hạn hán. Từ xa xưa ông cha ta đã biết làm thuỷ lợi như quai đê lấn biển, thau chua, rửa mặn, tạo nên những làng, xã, những huyện mới như: Tiền Hải - Thái Bình, Kim Sơn - Ninh Bình. Nhờ sử dụng nước tưới từ các công trình thuỷ lợi, các sản phẩm nông nghiệp được sản xuất với chi phí thấp, khả năng cạnh tranh cao, sản xuất trên diện tích lớn; Tăng trưởng sản xuất ổn định, nguồn lực sản xuất nông nghiệp như lao động, đất đai được khai thác và sử dụng một cách hợp lý; Đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, phát triển nông nghiệp cân đối và bền vững. Nhiều công trình thuỷ lợi được xây dựng ngoài việc cung cấp nước cho nông nghiệp còn cấp nước đầy đủ và ổn định cho sinh hoạt và phát triển tiểu thủ công nghiệp, các khu công nghiệp ở thị xã, thành phố. Nhiều công trình thuỷ lợi, hồ đập chứa nước tạo ra cảnh quan môi trường rất lý tưởng để khai thác nuôi trồng thuỷ sản, phát triển du lịch. Có công trình thuỷ lợi sử dụng nước rất độc đáo đã góp phần tạo nên kỳ quan thế giới như vườn treo Babilon. Nhu cầu về nước là rất lớn và không thể thay thế, đặc biệt đối với các quốc gia, các vùng sản xuất nông nghiệp. Trong nền kinh tế mở hiện nay, nông nghiệp nông thôn đang có nhiều đổi mới, đời sống nhân dân ổn định và từng bước nâng cao, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao trong quá trình sản xuất của nhân dân thì công tác thuỷ lợi ngày càng trở nên quan trọng và thường xuyên được quan tâm.. Ở Việt Nam, yêu cầu nước tưới phục vụ sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng 80-90% tổng lượng nước dùng, có vai trò quyết định đối với năng suất, sản lượng cây trồng, nhất là lúa nước [7]. Vai trò của nước đối với cây trồng được xếp ngang hàng với 3 yếu tố quan trọng là phân - cần - giống. Ông cha ta cũng đã khẳng định vai trò của nước qua câu “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”. Theo Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc tưới tiêu nước cho lúa hợp lý góp phần làm tăng năng suất từ 17-25% [15]. Kết quả nghiên cứu của Cục quản lý và Khai thác công trình thủy lợi ở nước ta đã chỉ ra tưới, tiêu cho lúa góp phần làm tăng năng suất từ 20-30%. Ở Trung Quốc, kết quả nghiên cứu cho thấy nếu đảm bảo đủ nước tưới cho lúa sẽ làm tăng sản lượng 30% [18]. Theo nghiên cứu của bộ môn Thuỷ nông - Trường Đại học Nông nghiệp I - Hà Nội, yêu cầu nước cho tưới ải vùng Gia Lâm - Hà Nội thay đổi từ 1.700 đến 2.500 m3/ha. Theo Hoàng Anh Đức - 1994 [6], lượng nước cần cho tưới ải và tưới dưỡng vụ lúa xuân 1994 của hệ thống kênh tưới Kênh Đông - Trạm bơm Văn Giang - Hải Dương: Lượng nước bình quân: Tưới ải: 2.600 m3/ha, tưới dưỡng: 4.700 m3/ha. Theo Nguyễn Văn Dung - 1998 [3], thời kỳ tưới ải và tưới dưỡng 3 năm (1996 - 1998) ở trạm bơm La Khê - Hà Tây: Vụ Mùa: - Tưới ải: 2.038 - 2.657 m3/ha. - Tưới dưỡng: 1.619 - 1.787 m3/ha. Vụ Xuân: - Tưới ải: 3.582 - 5.133 m3/ha. - Tưới dưỡng: 4.117 - 5.246 m3/ha. Ở nước ta, do địa hình phức tạp, khí hậu thay đổi theo mùa nên hàng năm lượng dòng chảy 80% tập trung vào mùa mưa, còn lại 20% tập trung vào mùa khô, nhưng nhu cầu dùng nước trong nông nghiệp thì ngược lại, mùa mưa yêu cầu nước tưới 20%, mùa khô yêu cầu 80% [25], [1]. Ngoài ra nước tưới làm thay đổi môi trường sinh thái và có tác động không nhỏ đến hoạt động của con người. Nước tưới phục vụ cho sản xuất nông nghiệp được cung cấp từ nguồn tự nhiên thông qua hệ thống công trình thủy lợi. Để khai thác tốt công trình thuỷ lợi cần phải có một cơ chế tổ chức quản lý hệ thống phù hợp. Tình trạng khô hạn, lũ lụt xảy ra và tác hại của nó đối với con người đã thể hiện tác động hai mặt của nước đối với sản xuất và đời sống xã hội. Con người với vai trò chủ thể, cần phải nhận thức rõ tác động xấu của nước để có biện pháp điều chỉnh và hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng xấu đối với sản xuất và đời sống. Thủy lợi được hiểu là những hoạt động liên quan đến ý thức của con người trong quá trình khai thác sử dụng tài nguyên nước để phục vụ cho lợi ích của mình. Để đảm bảo việc khai thác sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên nước, cần phải có nhân, vật, lực để xây dựng, quản lý, khai thác các công trình thủy lợi nhằm đạt được nhiều lợi ích khác nhau. Tuy nhiên, mục đích bao trùm của các công trình thủy lợi là phục vụ cho phát triển sản xuất nông nghiệp, cung cấp nước sinh hoạt, cải tạo môi trường sinh thái và hạn chế sự tác động bất lợi của nước đối với sản xuất và đời sống. Các công trình thủy lợi có tác dụng ngăn nước, giữ nước, điều tiết dòng chảy theo ý đồ của con người. Đối với nông nghiệp, tác dụng của thủy lợi thể hiện thông qua hoạt động tưới, tiêu nhằm đáp ứng nhu cầu sinh trưởng, phát triển của cây trồng, vật nuôi và là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến năng suất cây trồng. Ngoài những tác dụng đối với sản xuất và đời sống, các công trình thủy lợi còn có tác dụng trong việc bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái và mở ra những điều kiện cho phát triển một số ngành kinh tế mới như du lịch, nuôi trồng thủy sản, giao thông... Như vậy, có thể thấy rằng ngoài vai trò đối với cây trồng, các công trình thủy lợi xét trên các phương diện khai thác khác nhau còn có tác dụng nhiều mặt và hiệu quả ngày càng khả quan. 2.3. Hiện trạng hoạt động của một số hệ thống thuỷ nông ở nước ta 2.3.1. Hiện trạng hoạt động Ở nước ta, hầu hết các công trình thuỷ nông được đầu tư xây dựng từ những năm 60 của thế kỷ trước, trải qua nhiều năm sử dụng đã xuống cấp, công suất thực tế không đảm bảo so với yêu cầu, đó là điều dễ nhận thấy. Theo thống kê trong 15 năm trở lại đây, hiệu quả phục vụ tưới, tiêu của hệ thống thủy lợi đạt kết quả thấp. Trong phạm vi toàn quốc, hệ thống tưới mới chỉ đạt được 1.261.901 ha trong tổng số 2.065.062 ha, đạt 62,7 % năng lực thiết kế. Trong rất nhiều nguyên nhân dẫn tới kết quả hoạt động của hệ thống tưới thấp có nguyên nhân quản lý nước mặt ruộng không khoa học [22]. Hơn nữa vụ đông xuân năm 2005, cả nước có kế hoạch gieo cấy 2,9 triệu ha lúa, nhưng khi cân đối khả năng nguồn nước và năng lực các công trình thủy lợi hiện có chỉ đảm bảo tưới cho 2,7 triệu ha lúa. Đây là vấn đề cần được các ngành, các cấp quan tâm, chủ động tìm giải pháp đối phó nhằm hạn chế thiệt hại ở mức thấp nhất do hạn hán gây ra (Nông nghiệp nông thôn Việt Nam 28/3/2005). Theo ông Ngô Văn Toán giám đốc công ty khai thác công trình thuỷ lợi Bắc Nam Hà, toàn công ty có 8 trạm bơm lớn đặt dọc sông Hồng và sông Đà thì trừ hai trạm mới xây, trạm Như Trác mới nâng cấp, năm trạm còn lại đều được lắp đặt từ những năm 1960-1970. Các máy bơm do Liên Xô cũ và một số nước Đông Âu chế tạo nay đã hết hạn sử dụng. “Các bảng điện, tủ điều khiển, động cơ của máy đều lão hóa. Trục bơm nước lạc hậu đến nỗi chẳng tìm ra thiết bị thay thế, buộc chúng tôi phải hàn vá chắp nối trục cũ rất thủ công”. Ông Toán đánh giá hệ thống này chỉ tận dụng 60% nguồn nước thủy triều và nước xả từ hồ Hòa Bình, còn lại đành để trôi ra biển. Trong hệ thống thủy lợi Bắc bộ, ngoại trừ sông Hồng và Thái Bình, các sông còn lại đều bị bồi lắng. Đầu tháng 2-2006 khi mực nước sông Hồng tại Hà Nội xuống 1,6m thì các sông nhỏ gần như biến thành mặt ruộng, dòng chảy không hề tồn tại. Đơn cử sông Sắt, sông Châu Giang (chảy qua hai tỉnh Hà Nam, Nam Định) bị bồi lắng với độ dày từ 0,8-1,3 m. Theo ông Phạm Xuân Sử, cục trưởng Cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, thừa nhận tất cả công trình thủy lợi ở đồng bằng sông Hồng đều xuống cấp. Hằng năm, ngành thủy lợi thu thủy lợi phí được 500 tỷ đồng nhưng phải trả cho ngành điện, trả lương gần 20.000 công nhân quản lý, vận hành. Số kinh phí dành cho duy tu, cải tạo, nâng cấp công trình còn lại rất ít. Theo đánh giá, các công trình thuỷ lợi phục vụ nông nghiệp mới khai thác được 60 - 65% năng lực thiết kế. Cá biệt có công trình mới khai thác được trên 30% năng lực, việc nâng cao hiệu quả khai thác các công trình thêm 20% sẽ tạo ra một tiềm năng mới với công suất tưới khoảng 600.000 ha. Bảng 2.1. Năng lực phục vụ thực tế của một số hệ thống thuỷ nông STT Tên CTKTCTTL Tên hệ thống Loại hình công trình Năng lực phục vụ (ha) % so với thiết kế 1 Sông Cầu Sông Cầu Đập dâng 25.100 98 2 Thái Nguyên Núi Cốc Hồ chứa 6.500 54 3 Đông Anh Đông Anh Trạm bơm 6.047 97 4 Bắc Hưng Hải Bắc Hưng Hải Tự chảy 77.298 52 5 Nam Thái Bình Nam Thái Bình Tự chảy 44.973 88 6 Kẻ Gỗ Kẻ Gỗ Hồ chứa 19.529 93 7 Quảng Nam Phù Ninh Hồ chứa 14.500 63 (Nguồn: thống kê của Trần Phương Diễm - tạp chí viện Thủy Lợi năm 2000) Theo thống kê của Trần Phương Diễm - 2000 [2], năng lực phục vụ nông nghiệp của một số hệ thống thuỷ nông khác nhau, có công trình đạt trên 80% so với thiết kế tưới như công trình Sông Cầu, Kẻ Gỗ; Công trình đạt hiệu quả thấp 50 - 60% như Bắc Hưng Hải, Phù Ninh, Núi Cốc (Bảng 2.1). Theo thống kê của Viện Khoa học thuỷ lợi - 1995 [16], diện tích đất được tưới trên các khu vực ở nước ta vẫn đạt thấp. Bên cạnh đó, do đặc điểm thời tiết, khí hậu của các khu vực khác nhau làm ảnh hưởng rất lớn đến nông nghiệp. Khu vực Bắc Trung Bộ diện tích tưới đạt thấp nhất chỉ 36,7%, trong khi đó đồng bằng Sông Hồng đạt gần 80% diện tích so với thiết kế. Một trong những chỉ tiêu đánh giá hoạt động của hệ thống thủy nông là lượng nước tưới cho cây trồng (chủ yếu là lúa) mà hệ thống có khả năng cung cấp. Như vậy, các công trình thuỷ lợi phục vụ nông nghiệp mới chỉ khai thác được 52 - 98% năng lực thiết kế. Cá biệt công trình thuỷ nông Bắc Hưng Hải với loại hình công trình tưới tự chảy mới khai thác được 52% năng lực. Ngoài ra có các công trình hoạt động rất tốt như hồ Kẻ Gỗ loại hình công trình hồ chứa đạt 93% năng lực, hệ thống thuỷ lợi Đông Anh đạt 97%, hệ thống thuỷ nông Sông Cầu đạt 98%. Bảng 2.2. Thực tế khai thác và thiết kế về tưới của các hệ thống thuỷ nông phục vụ vụ Đông Xuân 1994 - 1995 Khu vực Diện tích tưới thiết kế (A) Diện tích tưới thực tế (B) % (B/A) Đồng bằng Sông Hồng 661.000 524.000 79,2 Khu vực Bắc Trung Bộ 339.900 124.800 36,7 Đồng bằng Sông Cửu Long 1.128.000 781.000 69,2 (Nguồn: Tuyển tập kết quả khoa học và công nghệ 1994 - 1999, (tập 2), NXB Nông nghiệp, Hà Nội) Theo thống kê của viện thuỷ lợi, thực tế khai thác về tưới cho sản xuất nông nghiệp khác nhau giữa các vùng: Đồng bằng sông Cửu Long có diện tích tưới thiết kế là 1.128.000 ha, diện tích thực tưới 781.000 ha, năng lực phục vụ thực tế đạt 69,2%. Đồng bằng sông Hồng có diện tích tưới thiết kế là 661.000 ha, diện tích thực tưới là 524.000 ha năng lực phục vụ thực tế đạt 79,2%, cao hơn so với vùng Đồng bằng sông Cửu Long và Bắc Trung Bộ (36,7%). Nguyễn Văn Dung - 1999 [3]: Hệ thống tưới La Khê - Hà Tây là hệ thống tưới, tiêu bằng trạm bơm điện, hệ thống được đưa vào sử dụng năm 1963. Theo nhiệm vụ thiết kế, hệ thống phải đảm bảo tưới, tiêu cho 4 huyện thị với tổng chiều dài kênh chính là 33 km. - Diện tích được tưới của hệ thống: + Vụ mùa năm 1997 diện tích được tưới là 5.595 ha trong đó tưới chủ động là 2.294 ha chiếm 44%, bán chủ động là 1.231 ha chiếm 19% và tạo nguồn là 2.070 ha chiếm 37%. + Vụ xuân năm 1998 diện tích tưới là 5.617 ha trong đó tưới, tiêu chủ động là 2.581 ha chiếm 45,95%, bán chủ động là 1.123 ha chiếm 19,99%, tạo nguồn là 1.913 ha chiếm 34,06%. - Lượng điện tiêu thụ của hệ thống: Đối với chủ động toàn vụ năm 1997 là 318,54 kwh/ha, bán chủ động là 509,67 kwh/ha, tạo nguồn là 637,08 kwh/ha. Vụ mùa năm 1998 chủ động toàn vụ là 230,50 kwh/ha, bán chủ động là 368,08 kwh/ha, tạo nguồn là 461,0 kwh/ha. Nguyễn Đức Tình [24 ] - hệ thống thuỷ lợi hồ EAKAO, diện tích tưới thiết kế của hệ thống là 1.900 ha, diện tích thực tưới của hệ thống chỉ đạt 42,68% so với nhiệm vụ thiết kế và 69,67% so với khả năng đảm nhiệm tưới (1.164 ha) của công trình. Diện tích tưới nghiệm thu của công trình là 688 ha, đạt 84,83% so với diện tích thực tưới 811 ha, 59% so với khả năng đảm nhiệm tưới của công trình. Kết quả thu thuỷ lợi phí của hệ thống tương đối thấp chỉ đạt 43,9% - 47,4% so với kế hoạch thu. Chi phí hàng năm của hệ thống luôn ở mức cao hơn so với tổng doanh thu, tỷ lệ thu chi ở mức thấp nhất và không ổn định. Năm 2001 tỷ lệ thu chi của hệ thống là 55,6% và năm 2002 là 64,9%. Hoàng Anh Đức [6] - hệ thống tưới kênh Đông (trạm bơm Văn Giang). Công trình đầu mối của trạm bơm gồm 2 cụm máy bơm. Cụm máy bơm kênh Tây gồm 4 máy, công suất mỗi máy là 250 kw với lưu lượng là 8.100 m3/h, tưới cho 4.477 ha. Cụm máy kênh Đông có 3 máy, công suất mỗi máy là 200 kw với lưu lượng là 7.000 m3/h, tưới cho 3.290 ha. Thời kỳ tưới ải với số giờ bơm là 1.441h, lượng điện tiêu thụ của hệ thống là 223.286 kwh và tổng lượng nước đạt 6.508.632 m3, tưới tự chảy qua trạm bơm di động cấp 2 tổng lượng nước là 2.559.103,08 m3, lượng điện tiêu thụ là 17.654,886 kwh. Thời kỳ tưới dưỡng với thời gian bơm là 1.454h, lượng điện tiêu thụ là 228.155 kwh, tổng lượng nước cung cấp là 10.936.181 m3 và 4.399.874,80 m3 nước tương ứng với lượng điện tiêu thụ là 109.996,870 kwh đối với tưới tự chảy qua trạm bơm di động cấp 2. Hàng năm, sau khi xí nghiệp quyết toán thu chi, tổng chi luôn vượt so với tổng thu do đó Nhà nước vẫn phải bù lỗ. Tỷ lệ thu chi của hệ thống chỉ đạt 74,8% năm 1993 và 77,3% năm 1994. Hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải nằm giữa đồng bằng Sông Hồng có diện tích tự nhiên 200.230 ha, bao gồm địa giới của 4 tỉnh Hưng Yên, Hải Dương (thành phố Hải Dương, Bình Giang, Thanh Miện, Cẩm Giàng, Gia Lộc, Ninh Giang, Tứ Kỳ), Bắc Ninh (Thuận Thành, Gia Bình, Lương Tài), Hà Nội (Gia Lâm, Long Biên). Hệ thống được bao bọc bởi 4 con sông lớn với chiều dài chảy qua hệ thống khá dài, Sông Đuống ở phía Bắc (67km), Sông luộc ở phía Nam (72 km), Sông Thái Bình phía Đông (73 km), Sông Hồng ở phía Tây (57 km). Hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải là hệ thống thuỷ nông liên tỉnh lớn ở miền Bắc, đa số diện tích trong vùng phải tiêu bằng bơm: Về tưới: Nguồn nước thời kỳ căng thẳng nhất là thời kỳ lấy nước đổ ải vụ chiêm xuân, từ 20 tháng 1 đến 10 tháng 2 nếu mực nước sông Hồng tại cống Xuân Quan bình quân đạt +1,94 m kết hợp với việc lấy nước trữ sớm từ ngày 05 tháng 1, lấy nước ngược qua Cầu Cất - Cầu Xe - An Thổ, đồng thời nạo vét khơi thông dòng chảy các kênh dẫn cấp 2 theo thiết kế thì đảm bảo đủ nước phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nếu vào tháng 1, tháng 2 mực nước tại Xuân Quan thấp hơn 1,94 m thì tình hình cung cấp nước gặp khó khăn, cụ thể hạn vụ chiêm xuân các năm 1998, 2003, 2004 phải lấy nước ngược qua cống Cầu Cất - Cầu Xe - An Thổ chiếm đến 40 - 50 % tổng lượng nước yêu cầu do mực nước tại Xuân Quan chỉ đạt +1,54 m. Mực nước thấp nhất tại Xuân Quan ngày 30/01/2005 chỉ đạt +1,26 m, Kênh Cầu +0.86 m, Bá Thuỷ +0,66 m, tại Neo +0,58 m thấp hơn mực nước trung bình nhiều năm từ 30 - 40cm nên các trạm bơm hoạt động không đạt hiệu quả. Hiện nay do hệ thống kênh mương bị bồi lắng, các trạm bơm bị xuống cấp nên việc cung cấp nước thường không kịp thời vụ, đặc bệt những năm gần đây do sự điều tiết của hồ Hoà Bình. Năm 2005 và 2006 việc cung cấp nước cho vụ Đông Xuân gặp rất nhiều khó khăn. Theo thống kê diện tích hạn trong vùng hàng năm khoảng 33.000 - 36.000 ha, tuy toàn bộ diện tích được gieo cấy nhưng phải kéo dài thời gian gieo cấy, chậm thời vụ nên ảnh hưởng đến năng suất cây trồng và ảnh hưởng đến các vụ khác. Về tiêu: Hiện nay diện tích lưu vực là 192.045 ha được phân thành hai vùng đó là vùng bơm trực tiếp ra sông ngoài 51.800 ha (tiêu ra sông luộc 20.677 ha, tiêu ra sông Đuống 1.500 ha, tiêu ra sông Thái Bình 29.410 ha), vùng tiêu qua Cầu Xe - An Thổ 140.245 ha trong đó tiêu bằng động lực 77.550 ha, tiêu tự chảy 62.695 ha. Hiện nay do sự biến động và thay đổi của khí tượng thuỷ văn, sự xuống cấp của công trình, sự hạn chế trong đầu tư và quản lý khai thác, sự tăng mực nước ở các cửa tiêu Cầu Xe - An Thổ nên một số diện tích bị úng, một số vùng tiêu tự chảy nay phải tiêu bằng động lực, diện tích úng trong vùng lớn nhất là năm 2004 với 62.062 ha, năm 2003 là 13.365 ha, năm 2005 là 7.032 ha. Hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải cũng như các hệ thống thuỷ nông khác của nước ta đã được xây dựng từ nhiều năm trước, hiện nay nhiều công trình đã xuống cấp, kênh mương bị bồi lắng, các trạm bơm sử dụng đã lâu bị hư hỏng... cần phải nâng cấp, sửa chữa, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong tình hình mới. 2.3.2. Tài chính trong quản lý thủy nông Nhìn chung, thủy lợi phí có thể đủ khôi phục chi phí về hoạt động và vận hành. Hầu hết các nước trong những năm gần đây mới tiến hành thu thuỷ lợi phí, chủ yếu ở vùng thiếu nước. Ví dụ, Indonexia đưa ra phí dịch vụ thủy lợi (ISF) mãi tới năm 1987 để khôi phục chi phí hoạt động và bảo hành những cơ sở hạ tầng, mặc dù khôi phục tiền vốn cũng dần dần được đưa vào giá tiền nước. Ở Philippin chủ yếu là để cấp cho việc hoạt động và bảo hành các hệ thống thủy lợi. Giá tiền ở mùa khô cao hơn giá tiền vào mùa mưa do lượng nước cấp vào mùa khô không đủ. Tuy nhiên, chỉ có những cánh đồng có năng suất ít nhất là 40 cavan/ha một vụ mới phải trả tiền thủy lợi phí (1 cavan = 50 kg). Những cánh đồng có năng suất dưới 40 cavan/ha thì được miễn phí. Người nông dân có thể trả thủy lợi phí bằng tiền mặt hoặc bằng hiện vật. Việc quy ra tiền mặt là dựa trên giá hỗ trợ của Chính phủ đối với lúa tại thời điểm trả tiền. Giá đối với các loại cây trồng khác bằng 60% giá của lúa. Giá đối với các hệ thống trạm bơm là cao hơn do phải chi phí trả tiền điện [17]. Nguồn thu của các công ty thuỷ nông là thuỷ lợi phí. Mặc dù, trong 1 vụ sản xuất nước tưới cung cấp cho 1 ha đất canh tác là như nhau nhưng mức thu thuỷ lợi phí khác nhau. Theo Nghị định 122/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành ngày 25/08/1984 về việc thu chi thuỷ lợi phí của các công ty khai thác công trình thuỷ nông. Quy định mức thu thủy lợi phí như sau: - Tưới, tiêu chủ động phải nộp: 100% mức tính toán. - Tưới, tiêu bán chủ động phải nộp: 80% mức tính toán. - Tưới tạo nguồn phải nộp: 60 - 70% mức tính toán. Hiện nay ở Việt Nam thủy lợi phí vẫn thu theo Nghị định số 143/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều của pháp lệnh. Các chính sách về thủy lợi phí, chính sách hỗ trợ tài chính, đặc biệt về phát triển tổ chức quản lý thủy nông cơ sở hay các điều kiện để thực hiện chuyển giao công trình cho tổ chức hợp tác dùng nước quản lý được quy định trong Nghị định này. Một số văn bản pháp lý có liên quan cũng góp phần khẳng định chủ trương của Nhà nước trong việc phát triển tổ chức quản lý thủy nông cơ sở và khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào công tác quản lý thủy nông. Nghị định của Chính phủ số 29/1998/NĐ-CP ngày 15/11/1998 khẳng định tính dân chủ là cơ sở đảm bảo tính bền vững của tổ chức quản lý thủy nông cơ sở.... Thủy lợi phí gắn liền với quá trình xây dựng công trình từ bước quy hoạch đến khâu quản lý. Định giá thủy lợi phí và thu thủy lợi phí gắn bó chặt chẽ với tất cả các yếu tố trong quá trình đó. Trong quy hoạch công trình, người ta phải xác định được nhiệm vụ cụ thể của công trình đó trên cơ sở điều kiện tự nhiên và xã hội. Khi mà cả một cộng đồng những người hưởng lợi đều có nguyện vọng và nhất trí để xây dựng thì vấn đề tài chính cho xây dựng sẽ thuận lợi hơn (so với tự tổ chức để xây dựng). Mức đóng góp của người dân sẽ là cao nhất để cùng với Chính phủ xây dựng (ngay ở Nhật chỉ khi nào có tối thiểu 75% số người hưởng lợi nhất trí thì công trình mới được Nhà nước tài trợ xây dựng chứ không phải loại bỏ). Trên cơ sở đó việc thu các khoản tiền cho quá trình vận hành quản lý sẽ thực sự dễ dàng hơn. Trong giai đoạn xây dựng: Sự tham gia và giám sát chặt chẽ của đại diện cộng đồng người hưởng lợi sẽ tạo ra cho họ một niềm tin rằng công trình của họ sẽ bền vững. Số tiền Nhà nước và sự đóng góp của họ được đầu tư toàn bộ cho công trình, và điều quan trọng họ tự thấy mình là chủ thực sự. Trong quá trình quản lý vận hành: Thông thường chỉ đến giai đoạn này người ta mới nghĩ đến thủy lợi phí. Nếu chỉ là định mức được ban bố trên cơ sở pháp lệnh thì việc thu còn tương đối dễ dàng, nhưng nó sẽ không dễ đối với vùng miền núi. Còn nếu là định mức của cơ sở đặt ra, không có sự tham gia của người hưởng lợi thì thực sự là khó. Tách rời các giai đoạn trên, người hưởng lợi cảm thấy bị “đòi” nhiều hơn là họ tự nghĩ phải “bỏ ra” hoặc “đóng góp” cho quản lý vận hành. Mức thu thủy lợi phí giúp các công ty thủy nông hạch toán kinh doanh, phải đảm bảo đủ đầu tư sửa chữa các công trình phục vụ trong hệ thống. Chi phí của các hệ thống ảnh hưởng lớn đến hoạt động của hệ thống. Đặc biệt việc chi trả tiền điện chiếm tỷ lệ cao trong chi phí của hệ thống. Một trong những nguyên nhân khiến các công trình thuỷ nông hoạt động chưa hết năng suất là do thiếu kinh phí. Thủy lợi phí hiện là nguồn thu chủ yếu của các doanh nghiệp khai thác công trình thuỷ nông. Hàng năm, cả nước thu được khoảng 500-600 tỷ đồng từ các công trình này, đạt 70-80% kế hoạch. Số tiền này để đầu tư cho công tác quản lý vận hành và duy tu, bảo dưỡng công trình. Song chi phí sửa chữa thường xuyên các công trình thuỷ nông lại chưa đảm bảo, chỉ đạt 10-15% tổng chi phí hoạt động tưới, tiêu. Chi phí tiền điện khá lớn, chiếm tới 30-50% tổng chi phí. Ngành thủy lợi còn "đứng ngồi không yên" khi giá điện tăng, nhất là theo các phương án tăng tới 20% vào giờ cao điểm. Theo ông Phạm Xuân Sử, cục trưởng Cục Thủy lợi, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, để phục vụ hoạt động sản xuất nông nghiệp thì ngay cả giờ cao điểm các trạm bơm cũng phải vận hành, do vậy thời gian tới chi phí của ngành thủy lợi lại đội thêm 20%. Gánh nặng này đè lên vai ngành thủy lợi vì chỉ 19% các doanh nghiệp khai thác các công trình thuỷ nông có doanh thu đủ bù đắp chi phí, còn lại 81% là thu không đủ bù chi. Theo Yasuyuki Kono, năm 2000, thủy lợi phí ở hệ thống tưới Nam Hà1 rất khác nhau giữa các vị trí đầu kênh và cuối kênh. Trung bình là 206 kg/ha (3,9 % năng suất lúa trung bình),161 kg/ha (3,4 %) và 98 kg/ha (2,2 %), cho vụ đông xuân, 123 kg/ha ( 2,8%), 101 kg/ha và 60 kg/ha (1,7%) vụ mùa tương ứng ở đầu, giữa và cuối kênh. Trong khi năng lực thực tế của thống này chỉ đạt trung bình từ 60 - 75 % [27]. Theo Nguyễn Thế Kỷ - 1994, thống kê nhiều năm ở trạm bơm La Khê - Hà Tây chi phí tiền điện để bơm nước năm thấp nhất là 35% tổng chi phí, năm cao nhất là 50% tổng chi phí [12]. Hoàng Anh Đức - 1994, hạch toán kinh doanh ở xí nghiệp Văn Giang cho thấy tiền điện chiếm 34% tổng chi phí [6]. Hoặc hệ thống thuỷ lợi huyện Hoa Lư - Ninh Bình diện tích tưới thực tế chỉ đạt 70,15%, tiêu đạt 68,31% so với nhiệm vụ thiết kế và đây là nguyên nhân chính, tổng thu/tổng chi chỉ đạt 62,91%, trong đó tiền điện chiếm cao nhất tới 67,68% tổng chi phí [4]. Như vậy, hệ thống thủy lợi có vai trò to lớn đối với sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn và là một trong những công trình thuộc cơ sở hạ tầng trọng yếu trong nông nghiệp. Ở Việt Nam cũng như các nước trong khu vực, tình trạng công trình xuống cấp và hoạt động đạt hiệu quả thấp là nguyên nhân làm cho sử dụng nước lãng phí và cũng là nguyên nhân trực tiếp làm cho nhiều công trình gặp khó khăn về vấn đề tài chính, không đáp ứng được nhu cầu duy tu bảo dưỡng để nâng cao hiệu quả hoạt động của công trình. Do vậy, vấn đề quản lý thủy nông không chỉ là kỹ thuật mà còn là vấn đề xã hội, thể chế tổ chức trong đó nhấn mạnh đến sự tham gia của người dân. Ngoài ra, việc tiếp tục đánh giá thực trạng hoạt động của hệ thống là cần thiết, để chỉ rõ những tồn tại, từ đó sẽ có cơ sở để giúp hệ thống khắc phục tình trạng lãng phí nước và dần tiến đến diện tích tưới thực tế sẽ bằng diện tích tưới thiết kế, điều đó có nghĩa hệ thống sử dụng nước ngày càng hiệu quả. 3. ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đánh giá hiện trạng hoạt động của hệ thống thủy nông phục vụ kế hoạch sử dụng đất 2006 - 2010 huyện Ninh Giang - tỉnh Hải Dương. 3.2. Nội dung nghiên cứu 3.2.1. Đánh giá điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội liên quan đến hệ thống thủy nông 3.2.1.1. Điều kiện tự nhiên 3.2.1.2. Điều kiện kinh tế 3.2.1.3. Điều kiện xã hội 3.2.2. Hiện trạng sử dụng đất năm 2006 và KHSDĐ đến năm 2010 3.2.3. Hiện trạng hệ thống thuỷ nông 3.2.3.1. Phân chia khu vực tưới tiêu trong hệ thống 3.2.3.2. Hiện trạng hệ thống các công trình của hệ thống 3.2.3.3. Tình hình úng hạn và hiệu quả của hệ thống 3.2.3.4. Tình hình tổ chức quản lý hệ thống 3.2.4. Đề xuất phương hướng giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thủy nông phục vụ kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010 3.3. Phương pháp nghiên cứu 3.3.1. Phương pháp thu thập tài liệu * Số liệu thứ cấp (số liệu đã công bố): Các số liệu đã công bố như đất đai, dân số, lao động, tình hình sản xuất nông nghiệp, hoạt động hệ thống thủy nông... * Số liệu sơ cấp (số liệu mới thu thập): Các số liệu về thực trạng hoạt động hệ thống như diện tích tưới tiêu, công suất máy, điện năng tiêu thụ, thủy lợi phí. Các số liệu được thu thập từ các phòng ban chức năng, các đơn vị cụm thông qua phỏng vấn trực tiếp và điều tra quan sát hệ thống. 3.3.2. Phương pháp phân tích số liệu * Phương pháp phân tích số liệu: Sử dụng phần mềm như Microsoft excel để phân tích số liệu, Mapinfo, Microstation... để biên tập bản đồ. * Phương pháp so sánh: Các chỉ tiêu số liệu cần thiết sau khi được chọn lọc và mô tả thống kê sẽ được tiến hành so sánh trong quá trình phân tích. 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 4.1. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường 4.1.1. Điều kiện tự nhiên 4.1.1.1. Vị trí địa lý Ninh Giang là huyện nằm ở phía Đông Nam của tỉnh Hải Dương, cách trung tâm thành phố Hải Dương khoảng 30 km theo quốc lộ 37A. Địa bàn huyện nằm trong toạ độ địa lý: Từ 21047’ đến 21049’ vĩ độ Bắc và 106016’ đến 106020’ kinh độ Đông. Địa giới hành chính của huyện như sau: - Phía Bắc giáp huyện Tứ Kỳ và Gia Lộc; - Phía Tây giáp huyện Thanh Miện; - Phía Đông giáp huyện Tứ Kỳ và huyện Vĩnh Bảo- Hải Phòng; - Phía Nam tiếp giáp với tỉnh Thái Bình. Là huyện nằm ở cuối tỉnh Hải Dương nhưng Ninh Giang có hệ thống giao thông khá thuận lợi như: Đường QL37A nối QL5 với QL10 thông ra QL1; Tỉnh lộ 20 qua Thanh Miện ra Kẻ Sặt và QL5. Đó là những tuyến giao thông quan trọng trong giao lưu kinh tế giữa huyện với thành phố Hải Dương, Hải Phòng, Thái Bình và các địa phương khác trong vùng. Về đường thuỷ, huyện có 3 con sông bao bọc: Sông Luộc, sông Đình Đào và sông Cửu An - là những tuyến giao thông thuỷ thuận lợi nối huyện với các vùng lân cận. Toàn huyện có 28 đơn vị hành chính (27 xã và 1 thị trấn), thị trấn huyện lỵ Ninh Giang nằm ở tận cùng phía Nam của huyện, tiếp giáp với Hải Phòng và Thái Bình. Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 13.540,49 ha, với số dân 150.153 người. Mật độ dân số bình quân 1.120 người/km2, là huyện có mật độ bình quân cao hơn toàn tỉnh (mật độ trung bình toàn tỉnh là 1.035 người/km2). 4.1.1.2. Địa hình, địa mạo Là vùng đồng bằng chiêm trũng, địa hình phức tạp, cao thấp xen kẽ, có hướng nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam, Ninh Giang thuộc vùng có địa hình thấp của tỉnh Hải Dương. Sự chênh lệch địa hình từ +0,6 đến +2,6 m, nơi thấp nhất +0,3 m so với mực nước biển. Dựa vào đặc điểm địa hình huyện Ninh Giang có sông Cửu An chia đôi huyện thành hai khu vực: Phía Bắc và phía Nam sông Cửu An, hai khu vực này còn được gọi là tiểu khu Bình Giang Bắc Thanh Miện và tiểu khu Đông Nam sông Cửu An. Các xã ở phía Bắc huyện có địa hình cao hơn các xã phía Nam. Tuy nhiên địa hình trong đồng cũng đa dạng, cao thấp xen kẽ. 4.1.1.3. Khí hậu Ninh Giang nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, khí hậu chia làm 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Theo số liệu quan trắc nhiều năm của Trung tâm khí tượng thuỷ văn cho thấy: - Nhiệt độ trung bình năm 24,920C; Nhiệt độ cao nhất vào các tháng 6 và tháng 7, từ 320C đến 350C; Tháng có nhiệt độ thấp nhất là tháng 12 là 14,70C, có ngày xuống tới 6 - 70C. Biên độ nhiệt trong ngày nhỏ hơn 100C. Lượng bức xạ mặt trời trung bình là 900 Kcal/cm2. Tổng tích ôn khoảng 85000 - 88000, độ ẩm trung bình 85%. - Độ ẩm không khí: Trung bình trong năm dao động trong khoảng từ 73% - 91 %, các tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 2 và tháng 3, thấp nhất vào tháng 6, 7. - Chế độ gió: Tốc độ gió trung bình từ 1,8 - 2,0 m/s. Trong vùng thịnh hành hai hướng gió chính là: Gió Đông nam (tháng 5 đến tháng 10) mang nhiều hơi nước, thường gây ra mưa lớn. Vào khoảng tháng 7, 8 thường xuất hiện khoảng 2 đến 4 cơn bão, ảnh hưởng xấu đến sản xuất. Gió Đông bắc (từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau) khô hanh, thường gây ra lạnh đột ngột. Bảng 4.1. Đặc điểm khí hậu huyện Ninh Giang năm 2006 Tháng ĐVT 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Số giờ nắng Giờ 47,3 58,4 86,2 104,5 125,9 198,5 174,5 178,2 198,3 118,4 92,3 60,5 29 Nhiệt độ 0C 18,3 20,5 22,2 25,1 27,4 32,2 35,3 32,3 27,8 24,7 18,6 14,7 Lượng mưa mm 0,0 24,6 32,2 71,3 88,2 166,4 327,0 360,2 82,0 6,0 81,0 0,0 Độ ẩm không khí % 84,0 89,0 91,0 86,0 87,0 84,0 73,0 83,0 84,0 84,0 85,0 81,0 Lượng bốc hơi mm 37,8 29,7 30,6 38,3 57,8 73,2 72,3 59,7 50,6 61,3 56,7 46,6 Biểu đồ 4.1. Diễn biến lượng mưa và lượng bốc hơi 12 tháng năm 2006 - Tổng lượng mưa đo được từ năm 2000 trở lại đây tại trạm đo Ninh Giang là: 1.594,3 mm (2001); 1.147,5 mm (2002); 1.231,58 mm (2003); 1.414,2 mm (2004); 1.423,9 mm (2005); 1.238,9 mm (2006). Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.227 mm. Tuy nhiên lượng mưa phân bố không đồng đều giữa các tháng trong năm và thường tập trung đến 80% vào mùa mưa (tháng 5 đến tháng 10). Nhìn chung khí hậu của Ninh Giang tương đối thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp, thâm canh, tăng vụ đối với cây trồng hàng năm. Tuy nhiên là một huyện có địa hình thấp, trũng, hạ lưu của các con sông trong vùng, chịu sự biến động mạnh của bão, dông, lượng mưa tập trung theo mùa và chịu ảnh hưởng một phần của triều cường... Nên thường xảy ra hiện tượng lũ lụt, úng cục bộ, đòi hỏi phải có biện pháp phòng chống kịp thời, nhất là trong mùa mưa bão. 4.1.1.3. Thuỷ văn, sông ngòi Toàn huyện có 3 con sông lớn chảy qua: Sông Đình Đào, sông Cửu An ở phía bắc huyện, Sông Luộc ở phía nam huyện với tổng chiều dài là 46,11 km: - Sông Luộc chảy từ huyện Thanh Miện có chiều dài 18,71 km, chạy dọc theo ranh giới phía nam huyện với tỉnh Thái Bình. - Sông Cửu An chảy từ huyện Gia Lộc có chiều dài 13,4 km, chia huyện thành hai vùng đất chính là phía bắc và phía nam sông Cửa An. - Sông Đình Đào chảy từ huyện Gia Lộc có chiều dài 14 km, là ranh giới tự nhiên phía bắc với Huyện Gia Lộc - Ngoài các sông chính còn có các sông nhỏ: Phía đông là sông Rùa nối 3 sông Đình Đào, Cửu An tại cống An Cư to, với sông Luộc tại khu vực cống Sao. Sông Dầm nối sông Cửu An và sông Luộc. Các ao, hồ, đầm là nguồn bổ sung và dự trữ nước quan trọng khi mực nước các sông chính xuống thấp, đặc biệt vào mùa khô hạn. Hệ thống sông ngòi trong vùng có nguồn nước dồi dào, đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của toàn huyện. Ngoài ra, thông qua hệ thống cống lấy nước của các trạm bơm trên sông Luộc, mỗi năm bồi đắp thêm một lượng phù sa làm cho đất đai khu Đông nam Cửu An thêm màu mỡ, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Hệ thống thuỷ văn đã chia địa giới hành chính của huyện ra làm 02 tiểu khu (Bảng 4.2): - Tiểu khu Bình Giang bắc Thanh Miện gồm 7 xã, đất có độ dốc theo hướng từ bắc xuống nam (sông Cửu An). Tổng diện tích lưu vực là 3.452,33 ha và diện tích đất trồng lúa là 1.874 ha, chiếm 13,84 % tổng diện tích tự nhiên toàn huyện. - Tiểu khu đông nam sông Cửu An: Tiểu khu này có 20 xã và 01 thị trấn - Ninh Giang, mặt đất dốc dần xuống phía sông Luộc. Tổng diện tích lưu vực là 10.088,16 ha, trong đó có 5.586,96 ha đất trồng lúa, đây là vùng sản xuất nông nghiệp chính của toàn huyện. Bảng 4.2. Phân vùng lưu vực theo địa hình STT Tên tiểu khu (xã) Diện tích lưu vực (ha) Diện tích đất lúa (ha) Tiểu khu BGBTM 3452,33 1874,28 1 Xã An Đức 538,12 246,19 2 Xã Hồng Đức 592,86 339,09 3 Xã Vạn Phúc 507,63 254,87 4 Xã Ứng Hoè 414,07 247,17 5 Xã Nghĩa An 756,00 437,90 6 Xã Ninh Hoà 295,00 169,31 7 Xã Quyết Thắng 348,65 179,75 Tiểu khu ĐNCA 10.088,16 5.586,96 8 TT Ninh Giang 166,37 37,21 9 Xã Tân Hương 452,33 261,73 10 Xã Ninh Thành 337,55 182,73 11 Xã Vĩnh Hoà 734,66 436,02 12 Xã Đông Xuyên 556,41 359,23 13 Xã Hoàng Hanh 434,76 238,94 14 Xã Quang Hưng 390,43 224,62 15 Xã Tân Phong 845,25 467,70 16 Xã Ninh Hải 538,62 321,91 17 Xã Đồng Tâm 470,09 255,45 18 Xã Tân Quang 404,80 263,47 19 Xã Kiến Quốc 557,40 320,84 20 Xã Hồng Thái 435,32 266,58 21 Xã Hồng Dụ 336,27 170,33 22 Xã Văn Hội 441,35 241,47 23 Xã Hưng Thái 435,60 281,05 24 Xã Hồng Phong 674,27 319,24 25 Xã Hiệp Lực 514,64 274,91 26 Xã Hồng Phúc 517,23 287,61 27 Xã Hưng Long 409,89 225,00 28 Xã Văn Giang 434,92 150,92 Toàn huyện 13.540,49 7.461,24 Nhìn chung, Ninh Giang chịu ảnh hưởng chế độ thuỷ văn của sông Đình Đào, sông Cửu An ở phía bắc huyện, Sông Luộc ở phía nam huyện. Hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải (sông đào) lấy nước từ sông Hồng qua cống Xuân Quan cung cấp nước cho hệ thống thuỷ nông nội đồng của huyện. Vào mùa mưa khi cường độ mưa lớn và tập trung, nước trong đồng và ngoài đê dâng cao, thời gian duy trì mực nước cao kéo dài, sự tăng mực nước ở các trục cửa tiêu Cầu Xe, An Thổ, khả năng tiêu úng chậm, đã gây ra ngập úng cục bộ cho các vùng thấp trũng, gây ảnh hưởng đến kết quả sản xuất nông nghiệp và đời sống sinh hoạt của người dân. 4.1.2. Các nguồn tài nguyên và cảnh quan môi trường 4.1.2.1. Tài nguyên đất Ninh Giang là huyện đồng bằng phía nam của tỉnh Hải Dương, với tổng diện tích tự nhiên là 13.540,49 ha; Bao gồm chủ yếu là đất phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình. Có thể phân ra 3 nhóm đất chính (Bảng 4.3): Bảng 4.3. Thống kê diện tích đất sản xuất nông nghiệp theo tính chất phát sinh Tên loại đất Diện tích (ha) Tỷ lệ (%) Tổng diện tích sản xuất nông nghiệp 8.056,64 1. Đất phù sa được bồi 2.173,64 27,0 - Đất phù sa được bồi hàng năm, trung tính ít chua 2.068,04 - Đất phù sa ít được bồi 105,60 2. Đất phù sa không được bồi, không glây 3.761,38 46,7 - Đất phù sa không được bồi, trung tính, ít chua 2.151,06 - Đất phù sa không được bồi, chua 1.610,32 3. Đất phù sa không được bồi có glây 2.121,62 26,3 (Nguồn: Phòng tài nguyên và Môi trường huyện Ninh Giang) a. Đất phù sa được bồi hàng năm trung tính, ít chua Đặc điểm: Giàu dinh dưỡng, hàm lượng mùn và lân tổng số, lân dễ tiêu từ trung bình đến giàu, pHkcl từ 7,2 - 7,4. Loại đất này nằm ở ngoài đê, thích hợp cho trồng rau, màu và cây công nghiệp ngắn ngày, chiếm 27% diện tích đất sản xuất nông nghiệp. b. Đất phù sa không được bồi, không glây Đây là loại đất chính của huyện, chiếm gần một nửa diện tích canh tác hàng năm. Đặc điểm: Nhóm đất này thường phân bố trên chân cao, vàn cao và vàn. Đất có thành phần cơ giới thịt trung bình, hàm lượng mùn từ trung bình đến khá, lân tổng số trung bình, lân dễ tiêu khá, pHkcl từ 5,0 - 6,5. Đất này thường được sử dụng trồng 2 vụ lúa hoặc 2 vụ lúa 1 vụ màu, có khả năng thâm canh cao, chiếm 46,70% diện tích đất sản xuất nông nghiệp. c. Đất phù sa không được bồi, có glây Đặc điểm: Phân bố chủ yếu địa hình vàn thấp và trũng, khả năng tiêu nước chậm, thành phần cơ giới thịt nặng, đất chua và nghèo lân dễ tiêu, pHkcl từ 4,0 -5,0. Đây là loại đất chuyên cấy 2 vụ lúa, cá biệt có một số diện tích chỉ trồng được 1 vụ lúa xuân, chiếm 26,30% diện tích đất sản xuất nông nghiệp. 4.1.2.2. Tài nguyên nước Nguồn nước trên địa bàn huyện khá phong phú: + Nước mặt: Hệ thống sông ngòi và ao hồ trên địa bàn huyện có khả năng cung cấp đủ nước cho sản xuất nông nghiệp của huyện. Tuy nhiên, do huyện nằm ở cuối hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải, lại là vùng trũng nhất tỉnh nên hàng năm thường bị úng ngập cục bộ vào mùa mưa. Diện tích mặt nước ao, hồ, đầm ngoài khả năng cung cấp nước còn có tiềm năng cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản, kể cả những chân ruộng trũng. + Nước ngầm: Nguồn nước ngầm khá dồi dào, mạch nông, hiện đã được khai thác phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của dân cư và sản xuất công nghiệp. Tuy nhiên chưa có công trình khảo sát nghiên cứu và đánh giá cụ thể về trữ lượng cũng như chất lượng nguồn nước. 4.1.2.3. Tài nguyên nhân văn, cảnh quan môi trường Ninh Giang hiện có trên 150 nghìn người sinh sống, mang đậm nét văn hoá của vùng đồng bằng với nền văn minh lúa nước được hình thành và phát triển qua nhiều thế kỷ. Các di sản văn hoá như Đền Tranh, đền Khúc Thừa Dụ, chùa Trông đã khắc sâu niềm tự hào dân tộc, khơi dậy tinh thần lao động cần cù sáng tạo của người dân. Những làng nghề truyền thống với nhiều sản phẩm độc đáo. Về cảnh quan thiên nhiên và môi trường: Huyện có nhiều sông và ao hồ tự nhiên cũng tạo cho cảnh quan thêm sinh động. Tuy nhiên do mật độ dân số cao, đất đai được khai thác với cường độ mạnh (kể cả cho nông nghiệp và phi nông nghiệp) nên đã ảnh hưởng xấu đến môi trường. 4.2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 4.2.1. Tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Ninh Giang là vùng đông dân cư, mật độ dân số cao, nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp. Tổng sản phẩm nội huyện liên tục tăng với tốc độ tăng trưởng bình quân 7 - 9%/năm. Giá trị sản xuất toàn huyện năm 2006 cao gấp 1,7 lần so với năm 2000. Bảng 4.4. Chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế huyện Ninh Giang. Chỉ tiêu ĐVT 2000 2003 2006 1. Tổng thu nhập tỷ đồng 472,80 593,49 771,95 2. Tốc độ tăng trưởng %/năm 7,50 7,67 9,6135 3. Tổng dân số người 146.322 148.26 150.153 4. Thu nhập BQ đầu người tr.đồng 3,20 3,94 5,08 5. Cơ cấu kinh tế % 100,00 100,00 100,00 - Nông nghiệp, Thuỷ sản % 59,10 53,20 46,20 - Công nghiệp % 16,20 17,55 22,40 - Dịch vụ % 24,70 29,25 31,40 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện Ninh Giang) Ninh Giang là một huyện thuần nông nên tốc độ chuyển dịch còn rất chậm. Nhìn chung kinh tế nông nghiệp đã giảm dần tỷ trọng trong thu nhập nội huyện (59,1% năm 2000 xuống 53,2% năm 2003 và 46,2% năm 2006), dịch vụ tăng dần (24,7% năm 2000 lên 31,4% vào năm 2006), tuy nhiên sự chuyển dịch cơ cấu của lĩnh vực công nghiệp còn rất chậm và chưa ổn định (16,2% năm 2000, 17,55 % năm 2003 và năm 2006 là 22,4%). 4.2.2. Thực trạng phát triển các ngành kinh tế 4.2.2.1. Nông nghiệp, thuỷ sản a. Trồng trọt Năm 2006 diện tích đất trồng cây hàng năm toàn huyện có 7.611,93 ha. Tổng diện tích gieo trồng đạt 17.351 ha, trong đó diện tích lúa là 14.469 ha, cây lương thực khác là 592 ha, diện tích cây rau màu vụ đông xuân và vụ hè thu là 2.290 ha. Hệ số sử dụng đất đạt 2,3 lần. Năng suất lúa bình quân vụ chiêm xuân đạt 66,2 tạ/ha, vụ mùa đạt 52,8 tạ/ha. Tổng sản lượng thóc đạt 86.103 tấn, bình quân lương thực đầu người đạt 588 kg/năm. Rau màu thực phẩm phát triển mạnh với các cây trồng chính là: Ngô, khoai lang, đậu tương, ớt, dưa chuột, đậu đỗ, bí đỏ, bí xanh, dưa lê và các rau màu khác. Cây vụ đông cho thu nhập khá cao, bình quân đạt 19,5 triệu đồng/ha. Cây lâu năm phát triển tương đối mạnh với các loại cây ăn quả, cây cảnh, kết hợp trồng cây hàng hoá: Diện tích trồng cây ăn quả là 887 ha gồm nhãn, vải, chuối...; Các mô hình trồng hoa, cây cảnh đang phát triển mạnh ở các xã: Hiệp Lực, Hồng Dụ, Đồng Tâm, Văn Giang... Cải tạo vườn tạp trong khu dân cư, trồng tre lấy măng, chắn sóng ven đê và quy hoạch chuyển đổi cơ cấu từ các chân ruộng trũng cấy lúa hiệu quả thấp sang nuôi trồng thuỷ sản với diện tích 600 ha. Giá trị sản xuất trên 1 ha đất nông nghiệp đạt bình quân 34 triệu đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt 4,6 triệu đồng/năm. b. Chăn nuôi và thuỷ sản Ngành chăn nuôi trong những năm qua đã mở rộng việc áp dụng một số thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là việc phát huy ưu thế giống lai và thức ăn chăn nuôi. Cơ cấu đàn gia súc, gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản năm 2006 thể hiện như sau: Bảng 4.5. Kết quả sản xuất chăn nuôi và thuỷ sản năm 2006 Hạng mục ĐVT Số lượng 1. Đàn lợn con 73.236,0 Sản lượng thịt xuất chuồng tấn 5.509,0 2. Đàn trâu con 1.845,0 Sản lượng thịt xuất chuồng tấn 46,50 3. Đàn bò con 5.713,0 Sản lượng thịt xuất chuồng tấn 119,0 4. Đàn gia cầm con 664.217,0 Sản lượng thịt xuất chuồng tấn 1.248,0 5. DT nuôi trồng thuỷ sản ha 886,93 Sản lượng thuỷ sản tấn 2.940,0 (Nguồn: Số liệu thống kê phòng Nông nghiệp và PTNT) + Đàn trâu bò: Đang được chuyển hướng sang nuôi thịt. Theo thống kê năm 2006 trong toàn huyện có 7.558 con với sản lượng thịt xuất chuồng là 165,50 tấn. + Đàn lợn: Đang được chuyển hướng sang mô hình nuôi tập trung (trang trại). Năm 2006 có 73.236 con với sản lượng thịt xuất chuồng là 5.509 tấn. + Đàn gia cầm: Trong những năm qua đàn gia cầm bị bệnh dịch tấn công nhiều. Theo thống kê năm 2006 tổng số đàn gia cầm có 664.217 con với sản lượng thịt xuất chuồng là 1.248 tấn. + Thuỷ sản: Đang được chuyển hướng sang mô hình trang trại, diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm 2006 là 886,97 ha. Sản lượng đạt 2.940 tấn. Cơ cấu giá trị ngành nông nghiệp đang có sự chuyển hướng trong những năm qua: Tăng cơ cấu giá trị ngành chăn nuôi từ 18,6 % năm 2000 lên 29,4 % năm 2006, giảm cơ cấu giá trị ngành trồng trọt từ 76,4 % năm 2000 xuống 64,3% năm 2006. Ngành dịch vụ nông nghiệp tăng không ổn định (Bảng 4.6). Bảng 4.6. Cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp giai đoạn 2000 - 2006 Đơn vị tính: (%) Hạng mục Năm 2000 Năm 2003 Năm 2006 Tổng số 100 100 100 - Trồng trọt 76,4 68,5 64,3 - Chăn nuôi và thuỷ sản 18,6 20,4 29,4 - Dịch vụ nông nghiệp 5,0 11,1 6,3 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện Ninh Giang 2000- 2006) 4.2.2.2. Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản a. Ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp Ngành này chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng thu nhập nội huyện, nhưng đã phát triển tương đối nhanh trong thời gian qua. Trên địa bàn huyện chủ yếu là công nghiệp ngoài quốc doanh. Nhịp độ tăng trưởng CN-TTCN giai đoạn 2000 - 2006 bình quân đạt 11 %/năm. Toàn huyện các cơ sở tham gia sản xuất CN-TTCN bao gồm doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã và hộ gia đình, thu hút hàng vạn lao động. Đặc biệt là các ngành nghề ở nông thôn đã góp phần đáng kể giải quyết công ăn việc làm cho lực lượng lao động dư thừa và nông nhàn, tăng thu nhập cho kinh tế hộ. Một số ngành nghề đã và đang phát triển mạnh như: Nghề mộc dân dụng ở Kiến Quốc; Nghề thêu ren ở Ứng Hoè, Quyết Thắng; Nghề đan lát mây tre ở An Đức, Quang Hưng, Ninh Thành, Hồng Thái; Cơ khí sản xuất công cụ nhỏ phục vụ nông nghiệp ở hầu khắp các địa phương; Chế biến nông sản thực phẩm, làm bánh gai, đậu đỗ, sản xuất chế biến lợn con đông lạnh... Ngoài ra trên địa bàn huyện có nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất hàng tiêu dùng, giày da, bao bì,... đã thu hút hàng ngàn lao động trong nông thôn. Trong giai đoạn 2000 - 2006, hoạt động của ngành CN-TTCN đã tập trung vào việc khôi phục các làng nghề, các cơ sở sản xuất cơ khí nhỏ phục vụ nông nghiệp, chế biến nông sản thực phẩm. Những sản phẩm chủ yếu gồm: Lợn con đông lạnh xuất khẩu, dưa chuột muối, ớt xuất khẩu, xay xát, làm đậu phụ, làm bánh gai... Tuy nhiên hoạt động của công nghiệp còn quá nhỏ lẻ, chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư, sản phẩm chưa có thị trường tiêu thụ ổn định. Hiện nay việc quy hoạch một số cụm công nghiệp tập trung đã được UBND tỉnh phê duyệt như cụm công nghiệp Đồng Tâm - Vĩnh Hoà với 42,6 ha, cụm công nghiệp Nghĩa An đang lập quy hoạch với quy mô 44,2 ha. Nhưng việc kêu gọi các nhà đầu tư đang gặp nhiều khó khăn nên hoạt động chưa hiệu quả. b. Xây dựng cơ bản Những năm qua công tác xây dựng cơ bản cũng được xúc tiến mạnh mẽ. Các công trình công cộng ở các địa phương như y tế, giáo dục, văn hoá, thể thao... luôn được quan tâm đầu tư đúng mức. Cơ sở hạ tầng nông thôn đang từng bước được hoàn thiện với nguồn đầu tư chủ yếu là huy động vốn tự có trong dân cùng với một phần hỗ trợ của nhà nước. 4.2.2.3. Ngành dịch vụ - Dịch vụ thương mại đã phát triển theo hướng thị trường. Giá trị sản xuất ngành thương mại dịch vụ năm 2000 đạt 116,78 tỷ đồng, năm 2003 đạt 173,60 tỷ đồng, năm 2006 đạt 242,39 tỷ đồng. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 12%/năm. Số doanh nghiệp tham gia hoạt động dịch vụ thuộc thành phần cá thể là chủ yếu. Hiện nay có trên 3.000 hộ tham gia kinh doanh hàng tạp hoá, cung ứng vật tư, nhà hàng, tiêu thụ sản phẩm... - Dịch vụ vận tải: Chủ yếu do tư nhân đảm trách. Nhờ hệ thống giao thông được cải thiện nên dịch vụ vận tải cũng phát triển mạnh hơn, trong đó vận tải bằng các phương tiện nhỏ tăng nhanh. Toàn huyện có 1 bến xe khách ở thị trấn Ninh Giang rộng trên 1.000 m2, có 3 bến xếp dỡ hàng hoá đường sông (bến Cầu Ràm, bến thị trấn, bến Kiến Quốc). Hiện nay các bến bãi này chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại và giao lưu kinh tế. Trong tương lai, cần được mở rộng về quỹ đất và quy hoạch lại vị trí cho phù hợp với tình hình phát triển mới. - Dịch vụ nông nghiệp: Công tác dịch vụ nông nghiệp đã được đẩy mạnh bao gồm công tác khuyến nông, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, cung cấp giống, phân bón, bảo vệ thực vật, dịch vụ tưới tiêu... Nhờ vậy đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh trong thời gian qua. - Dịch vụ tài chính, ngân hàng: Hoạt động tín dụng, ngân hàng đã có nhiều cố gắng, hệ thống ngân hàng đã chuyển sang hạch toán kinh doanh. Tiền tín dụng cho vay tăng nhanh theo các dự án giải quyết việc làm, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chương trình xoá đói giảm nghèo... Hoạt động tín dụng đã phát huy hiệu quả trong việc thúc đẩy sản xuất phát triển. 4.3. Tình hình dân số, lao động, việc làm và mức đống dân cư 4.3.1. Dân số Theo số liệu niên giám thống kê dân số trung bình toàn huyện năm 2006 có 150.153 người, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên bình quân trong giai đoạn 2000 - 2006 là 0,8 %/ năm. Dân cư phân bố không đồng đều, mật độ dân cư bình quân của huyện là 1.109 người/km2, những đơn vị có mật độ dân cư cao là: thị trấn Ninh Giang 4.400 người/km2; xã Tân Hương 1.850 người/km2. Xã có mật độ dân cư thấp nhất là xã Vạn Phúc có 774 người/km2. Theo số liệu điều tra tại thời điểm tháng 6 năm 2006 toàn huyện có 150.702 người, tăng so với năm 2005 là 1.196 người. Dân số đô thị có 7.364 người, chiếm xấp xỉ 5%, còn lại là dân số nông thôn, tỷ lệ dân số đô thị thấp nhất tỉnh. Trong huyện có khoảng 10% dân cư theo đạo Thiên chúa, nhân dân luôn đoàn kết xây dựng quê hương. Bảng 4.7. Dân số trung bình huyện Ninh Giang giai đoạn 2000 - 2006 Chỉ tiêu Năm 2000 (người) Tỷ lệ (%) Năm 2006 (người) Tỷ lệ (%) 1. Dân số trung bình 146.322 100,00 150.153 100,00 Phân theo khu vực: - Thành thị 7.170 4,9 7.364 5,0 - Nông thôn 139.152 95,1 142.789 95,0 Phân theo giới tính: - Nam 70.820 48,4 72.337 48,2 - Nữ 75.502 51,6  77.816 51,8 2.Tốc độ tăng dân số tự nhiên (%) 0,85 0,80 3. Dân số trong độ tuổi lao động (% 79.015 54,0 79.872 53,0 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện 2000 - 2006) 4.3.2. Lao động và việc làm Năm 2006 toàn huyện có 79.872 lao động trong độ tuổi, chiếm tỷ lệ 53% dân số. Số lao động làm việc trong các ngành kinh tế có 78.035 người, số lao động chưa có việc làm còn 1.837 người, chiếm 2,3% tổng số lao động trong độ tuổi. Bảng 4.8. Phân bố lao động trong các ngành kinh tế Chỉ tiêu Năm 2000 (người) Tỷ lệ (%) Năm 2006 (người) Tỷ lệ (%) 1.Tổng số lao động đang làm việc 76.620 100 79.872 100 a. Lao động nông nghiệp, Thuỷ sản 66.560 87,0 67.904 85,0 b. Lao động công nghiệp, xây dựng 2.280 3,0 4.253 5,3 c. Lao động dịch vụ 7.690 10,0 7.715 9,7 2. Lao động chưa có việc làm 2.395 1.837 (Nguồn: Niên giám thống kê huyện 2000 - 2006) Nguồn lao động dồi dào nhưng chủ yếu là lao động giản đơn, tỷ lệ lao động nông nghiệp chiếm phần lớn, tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động rất chậm, do công nghiệp và dịch vụ chậm phát triển trong thời gian qua, hơn nữa trình độ của người lao động nhìn chung là thấp, chưa qua đào tạo. Hiện vẫn còn trên 2% lao động chưa có việc làm. 4.3.3. Thu nhập và mức sống dân cư Thực hiện đường lối đổi mới, kinh tế Ninh Giang có những bước phát triển. Tuy nhiên, do là một huyện thuần nông nên thu nhập bình quân đầu người đạt khoảng 4,6 triệu đ/năm, trong đó thu nhập từ nông nghiệp chiếm 80% kinh tế hộ. Năng suất, sản lượng lúa tăng nhanh, bình quân lương thực trên đầu người đạt 588 kg/năm năm 2006, cao hơn nhiều địa phương khác trong tỉnh về sản xuất lương thực. Trong nông thôn tỷ lệ hộ có nhà mái ngói, mái bằng kiên cố cao tầng đạt 98,7% năm 2006. Tiện nghi sinh hoạt của hộ gia đình cũng được cải thiện đáng kể, bộ mặt làng quê không ngừng được đổi mới. 4.4. Hiện trạng sử dụng đất năm 2006 4.4.1. Hiện trạng và cơ cấu sử dụng các loại đất Theo số liệu thống kê đất đai năm 2006 (số liệu tính đến 01/01/2007), tổng diện tích tự nhiên của huyện Ninh Giang là 13.540,49 ha, chiếm 8,2% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Bình quân diện tích tự nhiên trên đầu người là 905 m2. Đơn vị có diện tích lớn nhất là xã Tân Phong 845,25 ha; Đơn vị có diện tích nhỏ nhất là thị trấn Ninh Giang 166,37 ha. Bảng 4.9. Hiện trạng sử dụng 3 nhóm đất chính Loại đất Diện tích (ha) Cơ cấu (%) Tổng diện tích tự nhiên 13.540,49 100,00 1. Đất nông nghiệp 8.943,57 66,05 2. Đất phi nông nghiệp 4.596,92 33,95 3. Đất chưa sử dụng 0,00 0,00 Biểu đồ 4.2. Cơ cấu sử dụng đất huyện Ninh Giang năm 2006 4.4.2. Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp Bảng 4.10. Diện tích, cơ cấu đất nông nghiệp năm 2006 STT Tên loại đất Mã đất Diện tích (ha) Cơ cấu (%) 1 Đất nông nghiệp NNP 8.943,57 100 1.1 Đất sản xuất nông nghiệp SXN 8.056,64 90,08 1.1.1 Đất trồng cây hàng năm CHN 7.611,93 85,11 1.1.1.1 Đất trồng lúa LUA 7.461,24 83,43 1.1.1.1.1 - Đất chuyên trồng lúa nước LUC 7.337,21 82,04 1.1.1.1.2 - Đất trồng lúa nước còn lại LUK 124,03 1,39 1.1.1.2 Đất trồng cây hàng năm còn lại HNC 150,69 1,68 1.1.2 Đất trồng cây lâu năm CLN 444,71 4,97 1.2 Đất nuôi trồng thuỷ sản NTS 886,93 9,92 (Nguồn: Số liệu thống kê đất năm 2006) Theo số liệu thống kê đất đai năm 2006, tổng diện tích đất nông nghiệp của huyện là 8.943,57 ha, chiếm 66,05% diện tích tự nhiên, bao gồm: Đất sản xuất nông nghiệp và đất nuôi trồng thủy sản (Bảng 4.12; phụ biểu 01): * Đất sản xuất nông nghiệp có 8.056,64 ha, chiếm tỷ lệ 90,08% diện tích đất nông nghiệp, trong đó: - Đất trồng cây hàng năm là 7.611,93 ha, chiếm tỷ lệ tuyệt đối 94,48% diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Trong đó chủ yếu là đất trồng lúa (7.461,24 ha) phân bố trên toàn huyện, đất trồng cây hàng năm khác còn lại 150,69 ha, chiếm tỷ lệ nhỏ 1,68 %. Ninh Giang là vùng chuyên canh lúa của Hải Dương, năng suất lúa cả năm bình quân đạt 11,9 tấn/ha; Sản lượng lúa bình quân đầu người đạt 588 kg, cao hơn mức bình quân của tỉnh là 25%. - Đất trồng cây lâu năm có 444,71 ha, chiếm 5,52% diện tích đất sản xuất nông nghiệp. Đây là diện tích trồng cây ăn quả trong các khu dân cư và một số diện tích đã được chuyển đổi mục đích từ ruộng trũng sang đào ao lập vườn trồng cây ăn quả. * Đất nuôi trồng thuỷ sản 886,93 ha, chiếm 9,92% diện tích đất nông nghiệp. Trong những năm gần đây có sự chuyển đổi mạnh từ đất sản xuất lúa vùng trũng sang nuôi trồng thủy sản ở khắp các xã trong huyện. Hiện tại đang có những dự án lớn của tỉnh triển khai về chuyển đổi nuôi trồng thủy sản với diện tích hàng trăm ha. Đây là mô hình được sự ủng hộ nhiệt tình của nhân dân vì lợi nhuận mà nó mang lại. Diện tích đất nông nghiệp trồng cây hàng năm chủ yếu là đất lúa 2 vụ, trong những năm qua cây trồng vụ đông được nhiều xã chú trọng mở rộng diện tích, nâng hệ số quay vòng lên 3 vụ trong năm, tạo điều kiện tăng thu nhập từ sản xuất nông nghiệp. Với những đặc trưng về sử dụng đất vùng chuyên canh lúa đồng bằng sông Hồng, yêu cầu hệ thống tưới tiêu phải chủ động hoàn toàn. Đây là nhiệm vụ trọng tâm đặt ra với công tác thủy nông huyện trong việc phát triển kinh tế xã hội. 4.5. Hiện trạng hệ thống thuỷ nông huyện Ninh Giang Từ khi hoà bình lập lại đến nay hệ thống thuỷ nông Ninh Giang trải qua nhiều giai đoạn quy hoạch đã được thực thi như sau: Quy hoạch hệ thống thủy nông Bắc Hưng Hải 1956 - 1975 do Chính phủ phê chuẩn trong đó có Ninh Giang, hệ thống đã cung cấp nước tưới cho huyện theo hai đường kênh trục là kênh Đại Phú Giang và kênh Hồng Đức, đồng thời định hướng tiêu úng chủ động bằng hệ thống trạm bơm điện (trạm bơm Cống Sao I, Hiệp Lễ I, Cổ Ngựa đổ ra sông Luộc, trạm bơm Dốc Bùng I, ứng Hòe, Nghĩa An, Hồng Đức đổ ra sông Cửu An và sông Đĩnh Đào). Các trạm bơm Kiến Quốc, Bùi Hoà, Ninh Hoà, Hồng Thái, Đông Cao được xây dựng trong thời kỳ này. Quy hoạch hoàn chỉnh hệ thống 1973 do Bộ thủy Lợi phê duyệt trong đó Ninh Giang thuộc hai tiểu khu của hệ thống thuỷ nông Bắc Hưng Hải là tiểu khu Đông nam Cửu An và tiểu khu Bình Giang Bắc Thanh Miện. Nhằm nâng chỉ tiêu thiết kế các công trình theo yêu cầu sản xuất, chủ động tưới, tiêu theo các phương pháp khoa học, cải tạo đất. Các trạm bơm Hiệp Lễ II, Tân Hương, Cống Lê, An Đức được xây dựng trong giai đoạn này. Quy hoạch bổ sung 1980, 1985, 1990 tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống thủy nông theo tinh thần của quy hoạch 1973, nhằm nâng cao hiệu quả tưới, tiêu, khai thác tối đa tiềm năng đất, dần tiến tới hiện đại hóa hệ thống thủy nông, đáp ứng yêu cầu cải tạo nông thôn mới. Trong giai đoạn này đã bổ sung thêm một số công trình: Trạm bơm tiêu Hưng Long, Tân Phong, Xuyên Hử, Hào Khê, Dốc Bùng II. Hệ thống tưới được bổ sung trạm Văn hội, Tân Quang, Hưng Thái, Hoàng Hanh, An Đức, một số điểm bơm địa phương tự làm để tưới. Kết quả tưới chủ động cho trên 5.700 ha đất canh tác, chủ động chống lũ, lụt vụ mùa, tuy nhiên hệ thống công trình vẫn còn một số tồn tại như chưa tách rời hệ thống tưới, tiêu, công nghệ đưa nước vào ruộng chưa khoa học, khả năng chống úng chưa cao, nguồn phù sa chưa được khai thác. Hiện nay Ninh Giang đang thực hiện theo quy hoạch hoàn chỉnh hệ thống thuỷ nông 1996 - 2010 theo hướng: Nạo vét, mở rộng hai trục kênh dẫn nước Đại Phú Giang và kênh Hồng Đức. Cải tạo và xây mới các trạm bơm điện do huyện và xã quản lý (Sông Rùa, Cống Sao II). Nạo vét toàn bộ hệ thống kênh mương tưới tiêu, sửa chữa và xây mới các công trình trên hệ thống đảm bảo thiết kế. Từng bước kiên cố hóa hệ thống kênh tưới nổi từ đầu mối đến mặt ruộng. Tôn đắp đê Bắc Hưng Hải và củng cố hệ thống đê đảm bảo tiêu chuẩn thiết kế. Qua quá trình điều tra, khảo sát thực tế, căn cứ vào các tài liệu, số liệu thu thập được, các thông tin trao đổi trực tiếp với cán bộ chuyên trách tại Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Ninh Giang, cán bộ hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp tại các xã, hiện trạng hệ thống thủy nông huyện Ninh Giang có thể khái quát qua những vấn đề cơ bản dưới đây: 4.5.1. Phân chia khu vực tưới, tiêu trong hệ thống 4.5.1.1. Các chỉ tiêu tính toán (theo quy hoạch năm 1996) a. Tần suất thiết kế (tần suất tính toán trùng hợp cả mưa và mực nước): - Về tưới: Ptk = 85 %, PTK = 90% - Về tiêu: Ptk = 10 %, PTK = 5% b. Hệ số tưới, tiêu thiết kế - Về tưới: + Tưới ải: qa= 1,15 l/s/ha với thời gian T = 20 ngày. + Tưới dưỡng: qd = 0,825 l/s/ha. + Tưới cây trồng cạn: qctc = 0,765 l/s/ha. - Về tiêu: + Tiêu chiêm cuối tháng 5 đầu tháng 6 đối với tiểu khu Bình Giang Bắc Thanh Miện qc = 2,25 l/s/ha, tiểu khu Đông nam Cửu An qc = 2,41 l/s/ha. + Tiêu mùa chính vụ tháng 7, tháng 10 đối với tiểu khu Bình Giang Bắc Thanh Miện qm = 4,50 l/s/ha, tiểu khu Đông nam Cửu An qm = 4,86 l/s/ha (trong điều kiện mưa 1 ngày tiêu 3 ngày, mưa 3 ngày tiêu 5 ngày, mưa 5 ngày tiêu 7 ngày). - Đến nay các chỉ tiêu về cơ bản không thay đổi, do yêu cầu về nước ngày càng khắt khe hơn, hệ số tưới ải được điều chỉnh qa= 1,53 l/s/ha. c. Mực nước thiết kế - Về tưới: Mực nước thiết kế cho hệ thống Bắc Hưng Hải tại cống Xuân Quan: Hmax = + 2,70, Hmin = + 2,30, Hbt = + 2,45. Mực nước tại các điểm chốt liên quan đến huyện Ninh Giang ứng với Ptk = 85 % như sau: Tại cống Chùa Đỏ + 1,10 m, tại cống Neo + 1,10 m, tại cống An Nghiệp + 1,09 m, tại cống Lê Bình + 1,10 m. - Về tiêu: Theo kết quả tính toán hệ thống Bắc Hưng Hải, mực nước thiết kế trên trục chính liên quan đến huyện Ninh Giang tại các điểm chốt như sau: Bảng 4.11. Mực nước thiết kế tiêu trên các trục sông chính Sông và địa điểm Mực nước ứng với Pkt Mực nước ứng với PKT A. Sông Cửu An - Tại cống Neo + 2.46 + 2,90 - Tại Đò Nuồi + 2,44 + 2,87 - Tại Cống Lê + 2,38 + 2,82 - Tại Vạn Phúc + 2,34 + 2,76 - Tại Xuyên Hử + 2,32 + 2,74 - Tại Cầu Ràm + 2,30 + 2,71 - Tại cống Hà Kỳ + 2,24 + 2,67 B. Sông Đĩnh Đào - Tại cống Cầu Guốc + 2,44 + 2,77 - Tại Ứng Hoè + 2,39 + 2,72 (Nguồn: Số liệu thống kê của Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Ninh Giang) 4.5.1.2. Phân chia khu vực tưới Căn cứ vào địa hình huyện Ninh Giang, hệ thống cấp nguồn nước theo quy hoạch công trình đầu mối, mô hình phân cấp quản lý khai thác của Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi Ninh Giang, hệ thống tưới được phân thành 2 tiểu khu và 7 cụm thuỷ nông, cụ thể như sau (Bảng 4.12). * Tiểu khu Bình Giang Bắc Thanh Miện Tổng diện tích đất lúa cần tưới tại tiểu khu Bình Giang Bắc Thanh Miện 1.874,28 ha, diện tích này được chia ra các cụm như sau: - Cụm Ứng Hoè: + Diện tích tưới thực tế F = 864,82 ha. + Số trạm bơm: Hai trạm bơm Nhà nước Ứng Hoè, Nghĩa An có tổng công suất 19.000 m3/giờ, xã có 18 trạm bơm với công suất 10.360 m3/giờ. Tổng công suất trạm bơm của cụm 29.360 m3/giờ. + Địa bàn tưới: 3 xã Ứng Hoè, Nghĩa An, Quyết Thắng. + Cống lấy nước: 17 cống đầu mối Nhà nước quản lý, 125 cống do xã quản lý. + Kênh trục tưới chính: Kênh Hồng Đức, kênh dẫn trạm bơm Ứng Hoè, Nghĩa An. - Cụm Dốc Bùng: + Diện tích tưới thực tế F = 1009,46 ha. + Số trạm bơm: Bốn trạm bơm Nhà nước Dốc Bùng I, An Đức, Ninh Hoà, Hồng Đức có tổng công suất 10.400 m3/giờ, xã có 16 trạm bơm với công suất 11.980 m3/giờ. Tổng công suất trạm bơm của cụm là 22.380 m3/giờ. + Địa bàn tưới: 4 xã Vạn Phúc, Ninh Hoà, Hồng Đức, An Đức. + Cống lấy nước: 33 cống đầu mối Nhà nước quản lý, 145 cống do xã quản lý. + Kênh trục tưới chính: Kênh Hồng Đức, kênh dẫn trạm bơm Dốc Bùng I, kênh tưới trạm bơm An Đức, Hồng Đức. * Tiểu khu Đông nam Cửu An Tiểu khu có diện tích đất lúa cần tưới 5.586,96 ha được phân thành 5 cụm, gồm 109 trạm bơm, 872 cống: Cụm Cổ Ngựa: + Diện tích tưới thực tế F = 1.186,05 ha. + Trạm bơm: Ba trạm bơm Nhà nước Hưng Thái, Văn Hội, Cổ Ngựa với tổng công suất 21.000 m3/giờ, các xã có 18 trạm bơm với công suất 14.980 m3/giờ. Tổng công suất trạm bơm của cụm 35.980 m3/giờ. + Địa bàn tưới: 5 xã Văn Hội, Hưng Thái, Hồng Phúc, Hưng Long, Văn Giang + Cống lấy nước: 14 cống đầu mối Nhà nước quản lý, 175 cống do xã quản lý. + Kênh trục tưới chính: Kênh Đại Phú Giang, kênh dẫn trạm bơm Cổ Ngựa, kênh tưới trạm bơm Văn Hội, Hưng Thái. Cụm Cống Lê: + Diện tích tưới thực tế F = 1.194,73 ha. + Trạm bơm: Hai trạm bơm Nhà nước Tân Quang, Bùi Hoà với tổng công suất 7.000 m3/giờ, các xã có 17 trạm bơm với công suất 11.460 m3/giờ. Tổng công suất trạm bơm của cụm 18.460 m3/giờ. + Địa bàn tưới: 4 xã Hoàng Hanh, Quang Hưng Tân Phong, Tân Quang. + Cống lấy nước: 14 cống đầu mối Nhà nước quản lý, 183 cống do xã quản lý. + Kênh trục tưới chính: Kênh Đại Phú Giang, Kênh Lê, kênh tưới trạm bơm Tân Quang, Bùi Hoà. Cụm Cống Sao: + Diện tích tưới thực tế F = 995.26 ha. + Trạm bơm: Hai trạm bơm Nhà nước Cống Sao II, Hồng Thái với tổng công suất 5.400 m3/giờ, các xã có 18 trạm bơm với công suất 16.280 m3/giờ. Tổng công suất trạm bơm của cụm 21.680 m3/giờ. + Địa bàn tưới: Thị trấn Ninh Giang, Đồng Tâm, Vĩnh Hoà, Hồng Thái. + Cống lấy nước: 8 cống đầu mối Nhà nước quản lý, 140 cống do xã quản lý. + Kênh trục tưới chính: Kênh Đại Phú Giang, kênh Hà Kỳ, sông Dầm, sông Rùa, kênh tưới trạm bơm Cống Sao II, Hồng Thái Cụm Hiệp Lễ: + Diện tích tưới thực tế F = 1.085,32 ha. + Số trạm bơm: Hai trạm bơm Nhà nước Kiến Quốc A, Hiệp Lễ I với tổng công suất 22.000 m3/giờ, các xã có 30 trạm bơm với công suất 19.960 m3/giờ. Tổng công suất trạm bơm của cụm là 41.960 m3/giờ. + Địa bàn tưới: 4 xã Kiến Quốc, Hiệp Lực, Hồng Dụ, Hồng Phong. + Cống lấy nước: 14 cống đầu mối Nhà nước quản lý, 160 cống do xã quản lý. + Kênh trục tưới chính: Kênh Đại Phú Giang, Sông Dầm, kênh tưới trạm bơm Kiến Quốc A, Hiệp Lễ I. Cụm Tân Hương: + Diện tích tưới thực tế F = 1.125,60 ha. + Số trạm bơm: Hai trạm bơm Nhà nước Tân Hương, Đông Cao với tổng công suất 6.000 m3/giờ, các xã có 15 trạm bơm với công suất 15.160 m3/giờ. Tổng công suất trạm bơm của cụm 21.160 m3/giờ. + Địa bàn tưới: 4 xã Tân Hương, Ninh Thành, Đông Xuyên, Ninh Hải. + Cống lấy nước: 14 cống đầu mối Nhà nước quản lý, 150 cống do xã quản lý. + Kênh trục tưới chính: Kênh Hà Kỳ, Sông Dầm, kênh tưới trạm bơm Tân Hương, Đông Cao. Diện tích thực tế hàng năm hệ thống đảm nhiệm tưới luôn đạt 100% diện tích đất lúa cần tưới, tuy nhiên chủ yếu là tưới tạo nguồn cho trạm bơm địa phương, trạm bơm Nhà nước tưới chỉ chủ động một phần, đây là một trong những hạn chế của hệ thống. Bảng 4.12. Phân chia khu vực tưới TT Tờn tiểu khu (cụm) Hệ thống cụng trỡnh Diện tích tưới thực tế (ha) Tờn xó Trạm bơm (trạm) Cống Kờnh chớnh I Tiểu khu BGBTM 40 320 1.874,28 7 1 Cụm ứng Hũe 20 142 864,82 Ứng hoố, Nghĩa An, Quyết Thắng Nhà nước quản lý Ứng Hũe, Nghĩa An 17 cống Kờnh Hồng Đức, kênh dẫn trạm bơm ứng Hoè, Nghĩa An 195 Địa phương quản lý 18 trạm 125 cống Kờnh cấp II, kờnh cấp III 669,82 2 Cụm Dốc Bựng 20 178 1.009,46 Vạn Phúc, Ninh Hoà, Hồng Đức, An Đức Nhà nước quản lý Dốc Bùng I, An Đức, Ninh Hoà, Hồng Đức 33 cống Kênh Hồng Đức, kênh dẫn trạm bơm Dốc Bùng I, kênh tưới trạm bơm An Đức, Hồng Đức 329 Địa phương quản lý 16 trạm 145 cống Kờnh cấp II, kờnh cấp III 680,46 II Tiểu khu ĐNCA 109 872 5.586,96 21 1 Cụm Cổ Ngựa 21 189 1.186,05 Văn Hội, Hưng Thái, Hồng Phúc, Hưng Long, Văn Giang Nhà nước quản lý Hưng Thái, Văn Hội, Cổ Ngựa 14 cống Kênh Đại Phú Giang, kênh dẫn trạm bơm Cổ Ngựa, kênh tưới trạm bơm Văn Hội, Hưng Thái 360 Địa phương quản lý 18 trạm 175 cống Kờnh cấp II, kờnh cấp III 826,05 2 Cụm Cống Lờ 19 197 1.194,73 Hoàng Hanh, Quang Hưng Tân Phong, Tân Quang Nhà nước quản lý Tõn Quang, Bựi Hoà 14 cống Kênh Đại Phú Giang, Kênh Lê, kênh tưới trạm bơm Tân Quang, Bùi Hoà 347 Địa phương quản lý 17 trạm 183 cống Kờnh cấp II, kờnh cấp III 847,73 3 Cụm Cống Sao 20 148 995,26 TT. Ninh Giang, Đồng Tâm, Vĩnh Hoà, Hồng Thái Nhà nước quản lý Cống Sao II, Hồng Thỏi 8 cống Kênh Đại Phú Giang, kênh Hà Kỳ, sông Dầm, sông Rùa, kênh tưới trạm bơm Cống Sao II, Hồng Thái 180 Địa phương quản lý 18 trạm 140 cống Kờnh cấp II, kờnh cấp III 815,26 4 Cụm Hiệp Lễ 32 174 1.085,32 Kiến Quốc, Hiệp Lực, Hồng Dụ, Hồng Phong Nhà nước quản lý Kiến Quốc A, Hiệp Lễ I 14 cống Kênh Đại Phú Giang, Sông Dầm, kênh tưới trạm bơm Kiến Quốc A, Hiệp Lễ I 262 Địa phương quản lý 30 trạm 160 cống Kờnh cấp II, kờnh cấp III 823,32 5 Cụm Tân Hương 17 164 1.125,6 Tân Hương, Ninh Thành, Đông Xuyên, Ninh Hải Nhà nước quản lý Tân Hương, Đông Cao 14 cống Kờnh Hà Kỳ, Sụng Dầm, kờnh tưới trạm bơm Tân Hương, Đông Cao 156 Địa phương quản lý 15 trạm 150 cống Kờnh cấp II, kờnh cấp III 969,6 Tổng cộng: 149 1.192 7.461,24 28 (Nguồn: Số liệu thống kê của Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Ninh Giang) 4.5.1.3. Phân chia khu vực tiêu Khu vực tiêu được phân thành 2 tiểu khu, 5 lưu vực tiêu, 7 cụm tiêu và toàn bộ diện tích trong lưu vực tiêu bằng trạm bơm Nhà nước. Phân theo hướng tiêu: Được phân thành 3 vùng chính, vùng tiêu ra tuyến sông Luộc, vùng tiêu ra sông Cửu An, vùng tiêu ra sông Đĩnh Đào. - Vùng có hướng tiêu ra sông Luộc gồm các trạm bơm: Sông Rùa, Cống Sao, Hiệp Lễ I, II, Hào Khê và trạm bơm Cổ Ngựa. - Vùng có hướng tiêu ra sông Cửu An gồm các trạm bơm: Bờ hữu gồm trạm bơm Bùi Hoà, Cống Lê, Xuyên Hử, bờ tả gồm trạm bơm An Đức, Dốc Bùng II và Nghĩa An. - Vùng có hướng tiêu ra sông Đĩnh Đào gồm các trạm bơm: Hồng Đức, Ninh Hoà, Ứng Hoè. Phân theo cụm sản xuất: * Tiểu khu Bình Giang Bắc Thanh Miện Tổng diện tích lưu vực là 3.452,33 ha, diện tích này được chia ra các cụm như sau: - Cụm Ứng Hoè: + Diện tích tiêu thực tế F = 1.170,07 ha. + Số trạm bơm tiêu: Hai trạm bơm Nhà nước Ứng Hoè, Nghĩa An tưới tiêu kết hợp với công suất 19.000 m3/giờ. + Địa bàn tiêu: 3 xã Ứng Hoè, Nghĩa An, Quyết Thắng. + Cống tiêu: 15 cống đầu mối do Nhà nước quản lý, 125 cống do xã quản lý. + Kênh trục tiêu chính: Kênh Hồng Đức (kênh tưới, tiêu kết hợp), kênh dẫn trạm bơm Ứng Hoè, Nghĩa An. - Cụm Dốc Bùng: + Diện tích tiêu thực tế F = 2.282,26 ha. + Trạm bơm tiêu: Trạm bơm tiêu Dốc Bùng II, 3 trạm bơm tưới tiêu kết hợp An Đức, Ninh Hoà, Hồng Đức có tổng công suất 47.400 m3/giờ. + Địa bàn tiêu: 4 xã Vạn Phúc, Ninh Hoà, Hồng Đức, An Đức. + Cống tiêu: 22 cống đầu mối do Nhà nước quản lý, 145 cống do xã quản lý. + Kênh trục tiêu chính: Kênh Hồng Đức, kênh dẫn trạm bơm Dốc Bùng II, kênh tiêu trạm bơm Ninh Hoà, An Đức, Hồng Đức. * Tiểu khu Đông nam Cửu An Tiểu khu có diện tích lưu vực là 10.088,16 ha được phân thành 5 cụm, cụ thể như sau: - Cụm Cổ Ngựa: + Diện tích tiêu thực tế F = 2.238,99 ha. + Trạm bơm tiêu: Hai trạm bơm Nhà nước quản lý làm nhiệm vụ tiêu trong cụm, trạm bơm Cổ Ngựa tưới tiêu kết hợp, trạm bơm Hào Khê chuyên tiêu với tổng công suất 36.000 m3/giờ. + Địa bàn tiêu: Gồm 5 xã Văn Hội, Hưng Thái, Hồng Phúc, Hưng Long, Văn Giang + Cống tiêu: Gồm 16 cống do Nhà nước quản lý, 175 cống do xã quản lý. + Kênh trục tiêu chính: Kênh Đại Phú Giang (tưới tiêu kết hợp), kênh dẫn trạm bơm Cổ Ngựa, kênh tưới trạm bơm Văn Hội, Hưng Thái - Cụm Cống Lê: + Diện tích tiêu thực tế F = 2.075,24 ha. + Trạm bơm tiêu: Hai trạm bơm Nhà nước quản lý làm nhiệm vụ tiêu trong cụm, trạm bơm Bùi Hoà tưới tiêu kết hợp, trạm bơm Cống Lê chuyên tiêu với tổng công suất 44.000 m3/giờ. + Địa bàn tiêu: 4 xã Hoàng Hanh, Quang Hưng Tân Phong, Tân Quang. + Cống tiêu: Gồm 16 cống đầu mối Nhà nước quản lý, 183 của xã . + Kênh trục tiêu chính: Kênh Đại Phú Giang, Kênh Lê, kênh tưới trạm bơm Tân Quang, Bùi Hoà. - Cụm Cống Sao: + Diện tích tiêu thực tế F = 1.806,44 ha. + Trạm bơm tiêu: 02 trạm bơm Nhà nước quản lý chuyên tiêu Cống Sao I, Sông Rùa với tổng công suất 44.000 m3/giờ. + Địa bàn tiêu: Thị trấn Ninh Giang, Đồng Tâm, Vĩnh Hoà, Hồng Thái. + Cống tiêu: Gồm 16 cống đầu mối do Nhà nước quản lý, 140 cống do xã quản lý. + Kênh trục tiêu chính: Kênh Đại Phú Giang, kênh Hà Kỳ, sông Dầm, sông Rùa, kênh trạm bơm Cống Sao II, Hồng Thái. - Cụm Hiệp Lễ: + Diện tích tiêu thực tế F = 2.082,58 ha. + Trạm bơm tiêu: 02 trạm bơm Nhà nước quản lý (trạm bơm chuyên tiêu Hiệp Lễ II, Trạm bơm tưới tiêu kết hợp Hiệp Lễ I) với tổng công suất 92.000 m3/giờ. + Địa bàn tiêu: 4 xã Kiến Quốc, Hiệp Lực, Hồng Dụ, Hồng Phong. + Cống tiêu: Gồm 16 cống đầu mối do Nhà nước quản lý, 160 cống do xã quản lý. + Kênh trục tiêu chính: Kênh Đại Phú Giang, Sông Dầm, kênh tưới trạm bơm Kiến Quốc A, Hiệp Lễ I. - Cụm Tân Hương: + Diện tích tiêu thực tế F = 1844,91 ha. + Trạm bơm tiêu: 02 trạm bơm Nhà nước quản lý Xuyên Hử với công suất máy 20.000 m3/giờ. + Địa bàn tiêu: 4 xã Tân Hương, Ninh Thành, Đông Xuyên, Ninh Hải. + Cống tiêu: Gồm 15 cống đầu mối Nhà nước quản lý, 150 cống do xã quản lý. + Kênh trục tiêu chính: Kênh Hà Kỳ, Sông Dầm, kênh trạm bơm Tân Hương, Đông Cao. Bảng 4.13. Phân chia khu vực tiêu theo cụm sản xuất TT Tên tiểu khu(cụm) Hệ thống công trình Diện tích tiêu thực tế (ha) Tên xã Trạm bơm (trạm) Cống Kênh chính I Tiểu khu BGBTM 6 307 3.452,33 7 1 Cụm ứng Hòe 2 140 1.170,07 Ứng Hoè, Nghĩa An, Quyết Thắng Nhà nước quản lý ứng Hòe, Nghĩa An 15 cống Kênh Hồng Đức, kênh dẫn trạm bơm Ứng Hoè, Nghĩa An Địa phương quản lý 125 cống Kênh cấp II, kênh cấp III 2 Cụm Dốc Bùng 4 167 2.282,26 Vạn Phúc, Ninh Hoà, Hồng Đức, An Đức Nhà nước quản lý Dốc Bùng II, An Đức, Ninh Hoà, Hồng Đức 22 cống Kênh Hồng Đức, kênh dẫn trạm bơm Dốc Bùng II, T2, kênh tưới trạm bơm An Đức, Ninh Hoà, Hồng Đức Địa phương quản lý 145 cống Kênh cấp II, kênh cấp III II Tiêu khu ĐNCA 9 887 10.088,16 21 1 Cụm Cổ Ngựa 2 191 2.238,99 Văn Hội, Hưng Thái, Hồng Phúc, Hưng Long, Văn Giang Nhà nước quản lý Cổ Ngựa, Hào Khê 16 cống Kênh Đại Phú Giang, kênh dẫn trạm bơm Cổ Ngựa, kênh tưới trạm bơm Văn Hội, Hng Thái Địa phương quản lý 175 cống Kênh cấp II, kênh cấp III 2 Cụm Cống Lê 2 199 2.075,24 Hoàng Hanh, Quang Hưng Tân Phong, Tân Quang Nhà nước quản lý Cống Lê, Bùi Hoà 16 cống Kênh Đại Phú Giang, Kênh Lê, kênh tưới trạm bơm Tân Quang, Bùi Hoà Địa phương quản lý 183 cống Kênh cấp II, kênh cấp III 3 Cụm Cống Sao 2 156 1.806,44 TT. Ninh Giang, Đồng Tâm, Vĩnh Hoà, Hồng Thái Nhà nước quản lý Cống Sao I, Sông Rùa 16 cống Kênh Đại Phú Giang, kênh Hà Kỳ, sông Dầm, sông Rùa, kênh tưới trạm bơm Cống Sao II, Hồng Thái Địa phương quản lý 140 cống Kênh cấp II, kênh cấp III 4 Cụm Hiệp Lễ 2 176 2.082,58 Kiến Quốc, Hiệp Lực, Hồng Dụ, Hồng Phong Nhà nước quản lý Hiệp Lễ I, Hiệp Lễ II 16 cống Kênh Đại Phú Giang, Sông Dầm, kênh tưới trạm bơm Kiến Quốc A, Hiệp Lễ I Địa phương quản lý 160 cống Kênh cấp II, kênh cấp III 5 Cụm Tân Hương 1 165 1.884,91 Tân Hương, Ninh Thành, Đông Xuyên, Ninh Hải Nhà nước quản lý Xuyên Hử 15 cống Kênh Hà Kỳ, Sông Dầm, kênh tưới trạm bơm Tân Hương, Đông Cao Địa phương quản lý 150 cống Kênh cấp II, kênh cấp III Tổng cộng: 15 1194 13.540,49 28 (Nguồn: Số liệu thống kê của Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Ninh Giang) Phân theo hệ thống công trình đầu mối: Việc phân chia khu vực tiêu theo lưu vực hệ thống công trình đầu mối đã được quy hoạch, thiết kế cơ bản theo quy hoạch năm 1996. Đây là các trạm bơm đảm nhiệm tiêu chính ở hai tiểu khu. Hệ thống công trình trong lưu vực như đã trình bày ở phần trên, tổng diện tích tiêu trong các lưu vực là 12.365 ha, đây là căn cứ hàng năm Nhà nước thanh toán tiền điện tiêu úng sau khi trừ đi phần diện tích đất Thanh Giang của Thanh Miện và diện tích canh tác ngoài đê. Bảng 4.14. Phân chia lưu vực tiêu theo hệ thống công trình đầu mối TT Tên lưu vực trạm bơm Diện tích (ha) Tên xã thuộc lưu vực 1 Ứng Hoè 478,0 Ứng Hoè, Quyết Thắng 2 Dốc Bùng 2.542,0 An Đức, Ninh Hoà, Hồng Đức, Vạn Phúc, Nghĩa An 3 Cống Sao, Hiệp lễ, Hào khê, Cống lê, Xuyên Hử 6.808,0 Đồng Tâm, Hiệp Lực, Hồng Thái, Hồng Dụ, Hồng Phong, Kiến Quốc, Ninh Hải, Đông Xuyên, Hồng Phúc, Hưng Long, Tân Phong, Quang Hưng, Tân Hương, Tân Quang, Hưng Thái, 4 Cổ Ngựa, Bùi Hoà 1.114,0 Hoàng Hanh, Văn Giang, Văn Hội. 5 Sông Rùa 1.423,0 TT. Ninh Giang, Đồng Tâm, Vĩnh Hoà, Ninh Thành, Hà Kỳ (Tứ Kỳ) Tổng 12.365,0 (Nguồn: Số liệu thống kê của Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Ninh Giang) 4.5.2. Hiện trạng các công trình của hệ thống 4.5.2.1. Hiện trạng các trạm bơm a. Hiện trạng các trạm bơm Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi quản lý * Các trạm bơm tưới: (Bảng 4.15; phụ biểu 03) + Tổng số trạm bơm: 9 trạm trong đó tiểu khu Bình Giang Bắc Thanh Miện có 1 trạm bơm Dốc Bùng I; Tiểu khu Đông nam Cửu An có 8 trạm bơm: Văn Hội, Hưng Thái, Tân Quang, Kiến Quốc, Cống Sao II, Hồng Thái, Tân Hương, Đông Cao. Gồm 24 máy với công suất thiết kế là 24.400 m3/giờ, Được chia thành 6 cụm tưới như sau: + Cụm Dốc Bùng: Trạm bơm Dốc Bùng I. + Cụm Cổ Ngựa: Trạm bơm Văn Hội, Hưng Thái. + Cụm Cống Lê: Trạm bơm Tân Quang. + Cụm Hiệp Lễ: Trạm bơm Kiến Quốc. + Cụm Cống Sao: Trạm bơm Cống Sao II, Hồng Thái. + Cụm Tân Hương: Trạm bơm Tân Hương, Đông Cao. Diện tích tưới thiết kế FTK = 2.092 ha, diện tích tưới thực tế FTT= 880 ha, đạt 42% diện tích thiết kế. Bảng 4.15. Hiện trạng các trạm bơm Nhà nước chuyên tưới T T Cụm Tên trạm bơm Năm xây dựng QTK (m3/h) Loại máy (m3/h) Số lượng (chiếc) Diện tích thiết kế (ha) Diện tích thực tế (ha) 1 Dốc Bùng Dốc Bùng 1 1964 3000 1000 3 220 50 2 Cổ Ngựa Văn Hội 1984 3000 1000 3 276 160 3 Cổ Ngựa Hưng Thái 1984 2000 1000 2 275 110 4 Cống Lê Tân Quang 1984 3000 1000 3 244 180 5 Hiệp Lễ Kiến Quốc A 1967 2000 1000 2 167 40 6 Cống Sao Cống Sao2 2001 2400 1200 2 180 100 7 Cống Sao Hồng Thái 1968 3000 1000 3 165 80 8 Tân Hương Tân Hương 1977 3000 1000 3 245 120 9 Tân Hương Đông Cao 1967 3000 1000 3 320 40 Tổng 24.400 24 2.092 880 (Nguồn: Số liệu thống kê của Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Ninh Giang) * Các trạm bơm tiêu: (Bảng 4.16; phụ biểu 04) - Tổng số trạm bơm: 7 trạm trong đó tiểu khu Bình Giang Bắc Thanh Miện có 1 trạm bơm Dốc Bùng II, tiểu khu Đông nam Cửu An có 6 trạm bơm: Hiệp Lễ II, Cống Sao I, Sông Rùa, Xuyên Hử, Hào Khê. Gồm 62 máy với công suất thiết kế là 236.400 m3/giờ. Được chia thành 6 cụm tiêu như sau: + Cụm Dốc Bùng: Trạm bơm Dốc Bùng II. + Cụm Cổ Ngựa: Trạm bơm Hào Khê. + Cụm Cống Lê: Trạm bơm Cống Lê. + Cụm Hiệp Lễ: Trạm bơm Hiệp Lễ II. + Cụm Cống Sao: Trạm bơm Cống Sao I, Sông Rùa. + Cụm Tân Hương: Trạm bơm Xuyên Hử. Diện tích tiêu thiết kế FTK = 9.544 ha, diện tích tiêu thực tế FTT = 5.341 ha, đạt 56% diện tích thiết kế. Bảng 4.16. Hiện trạng các trạm bơm Nhà nước chuyên tiêu T T Cụm Tên trạm bơm Năm xây dựng QTK (m3/h) Loại máy (m3/h) Số lượng (chiếc) Diện tích thiết kế (ha) Diện tích thực tế (ha) 1 Dốc Bùng Dốc Bùng 2 1979 40000 4000 10 1727 1250 2 Hiệp Lễ Hiệp Lễ 2 1977 72000 4000 18 2599 1002 3 Cống Sao Cống Sao 1 1964 12000 4000 3 505 170 4 Cống Sao Sông Rùa 1998 32000 4000 8 1401 814 5 Tân Hương Xuyên Hử 1993 20000 2500 8 902 710 6 Cổ Ngựa Hào Khê 1992 20000 4000 5 930 445 7 Cống Lê Cống Lê 1978 40000 4000 10 1480 950 Tổng 236.000 62 9.544 5341 (Nguồn: Số liệu thống kê của Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Ninh Giang) * Các trạm bơm tưới, tiêu kết hợp (Bảng 4.17; phụ biểu 05). - Tổng số trạm bơm: 8 trạm bơm trong đó tiểu khu Bình Giang Bắc Thanh Miện có 5 trạm bơm: An Đức, Ninh Hoà, Hồng Đức, Nghĩa An, Ứng Hoè, 3 trạm bơm: Cổ Ngựa, Hiệp Lễ I, Bùi Hoà thuộc tiểu khu Đông nam Cửu An. Gồm 30 máy với công suất thiết kế là 66.400 m3/giờ. Được chia thành 5 cụm như sau: + Cụm Dốc Bùng: Trạm bơm An Đức, Ninh Hoà, Hồng Đức. + Cụm Ứng Hoè: Trạm bơm Nghĩa An, Ứng Hoè. + Cụm Cổ Ngựa: Trạm bơm Cổ Ngựa. + Cụm Cống Lê: Trạm bơm Bùi Hoà. + Cụm Hiệp Lễ: Trạm bơm Hiệp Lễ I. - Tổng diện tích tưới thiết kế FTK = 2.476 ha, diện tích tiêu thiết kế FTK = 3.203 ha, diện tích tưới thực tế FTT= 949 ha, đạt 38% diện tích thiết kế, diện tích tiêu thực tế FTT = 1.181 ha, đạt 37% diện tích thiết kế. Bảng 4.17. Hiện trạng các trạm bơm Nhà nước, tưới tiêu kết hợp TT Cụm Tên trạm bơm Năm xây dựng QTK (m3/h) Loại máy (m3/h) Số lượng (chiếc) Diện tích thiết kế (ha) Diện tích thực tế (ha) 1 Dốc Bùng An Đức 1977 2400 1200 2 236/185 130/0 2 Dốc Bùng Ninh Hoà 1968 2000 1000 2 129//129 45/40 3 Dốc Bùng Hồng Đức 1967 3000 1000 3 260/231 95/50 4 Ứng Hoè Nghĩa An 1967 4000 1000 4 239/100 10/50 5 Ứng Hoè Ứng Hoè 2001 15000 2500 6 435/655 190/182 6 Cổ Ngựa Cổ Ngựa 1964 16000 4000 4 354/650 90/274 7 Hiệp Lễ Hiệp Lễ 1 1964 20000 4000 5 590/950 222/435 8 Cống Lê Bùi Hoà 1966 4000 1000 4 233/303 167/150 Tổng 6.6400 30  2476/3203  949/1181 (Nguồn: Số liệu thống kê của Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Ninh Giang) Hệ thống trạm bơm do Xí nghiệp quản lý hầu hết đã được đầu tư xây dựng từ những năm 1960, 1970, chỉ có một số ít trạm bơm mới được xây dựng thêm như Ứng Hoè (2001), Cống Sao II (2000), Sông Rùa (1997), Hào Khê (1992), Xuyên Hử (1991), Văn Hội, Tân Quang, Hưng Thái (1984); Nhưng hệ thống kênh tưới, tiêu không được thiết kế đồng bộ cùng công trình mà chỉ cải tạo sửa chữa hệ thống cũ, do được xây dựng từ lâu nên hệ thống này đã xuống cấp, mặc dù được sửa chữa cải tạo hàng năm nhưng hiệu quả hoạt động chưa cao, nhất là các trạm bơm tưới. b. Hiện trạng các trạm bơm do xã quản lý (Bảng 4.18; phụ biểu 06) Các trạm bơm do xã quản lý là các trạm dã chiến, chủ yếu được dùng để phục vụ tưới, hệ thống máy bơm của xã lấy nước từ hệ thống Bắc Hưng Hải và tưới trực tiếp qua hệ thống kênh cấp III đến mặt ruộng. Các trạm bơm do xã quản lý có 132 trạm với 169 máy có tổng công suất thiết kế 100.180 m3/giờ, phục vụ tưới thực tế cho 5.686,2 ha. - Tiểu khu Bình Giang Bắc Thanh Miện có 34 trạm bơm, 40 máy bơm với tổng công suất là 22.340 m3/giờ, phục vụ tưới cho 1.350,28 ha đất lúa. Trung bình toàn tiểu khu, trạm bơm của xã đảm nhiệm tưới cho 72% diện tích đất lúa, còn lại 28 % trạm bơm Nhà nước đảm nhiệm. + Cụm Dốc Bùng: Đảm bảo tưới cho 67% diện tích đất lúa của cụm, trong đó xã Vạn Phúc đạt tỷ lệ cao nhất 77%, xã An Đức đạt tỷ lệ thấp nhất 47%. + Cụm Ứng Hoè: Đảm bảo tưới cho 77% diện tích đất lúa của cụm, trong đó xã Nghĩa An việc tưới gần như hoàn toàn bằng trạm bơm của xã 99 %. - Tiểu khu Đông nam Cửu An có 98 trạm bơm, 129 máy bơm với tổng công suất là 77.840 m3/giờ, phục vụ tưới cho 4.282 ha đất lúa. Trung bình toàn tiểu khu, trạm bơm của xã đảm nhiệm tưới cho 77% diện tích đất lúa, còn lại 23 % trạm bơm Nhà nước đảm nhiệm. Bảng 4.18. Hiện trạng các trạm bơm địa phương quản lý STT Cụm Tên xã Số trạm bơm Số máy Tổng công suất (m3/giờ) Diện tích thực tế (ha) Diện tích lúa toàn xã (ha) Tỷ lệ (%) Tiểu khu Bình Giang Bắc Thanh Miện 1 Dốc Bùng Xã An Đức 4 4 3.500,0 116,19 246,19 47% 2 Dốc Bùng Xã Hồng Đức 7 7 4.440,0 244,09 339,09 72% 3 Dốc Bùng Xã Vạn Phúc 4 5 2.040,0 195,87 254,87 77% 4 Dốc Bùng Xã Ninh Hoà 1 2 2.000,0 124,31 169,31 73% Tổng cụm 16 18 11.980,0 680,46 1009,46 67% 5 Ứng Hoè Xã Nghĩa An 11 13 5.920,0 432,9 437,9 99% 6 Ứng Hoè Xã Ứng Hoè 5 5 2.280,0 147,17 247,17 60% 7 Ứng Hoè Xã Quyết Thắng 2 4 2.160,0 89,75 179,75 50% Tổng cụm 18 22 10.360,0 669,82 864,82 77% Tổng tiểu khu 34 40 22.340,0 1.350,28 1.874,28 72% Tiểu khu Đông nam Cửu An 8 Cống Sao TT Ninh Giang 2 2 640,0 7,21 37,21 19% 9 Cống Sao Xã Đồng Tâm 4 13 5.040,0 185,45 255,45 73% 10 Cống Sao Xã Vĩnh Hoà 4 10 6.720,0 436,02 436,02 100% 11 Cống Sao Xã Hồng Thái 8 8 3.880,0 186,58 266,58 70% Tổng cụm 18 33 16.280,0 815,26 995,26 82% 12 Tân Hương Xã Tân Hương 4 7 2.900,0 161,73 261,73 62% 13 Tân Hương Xã Ninh Thành 2 5 3.160,0 162,73 182,73 89% 14 Tân Hương Xã Đông Xuyên 3 6 3.400,0 323,23 359,23 90% 15 Tân Hương Xã Ninh Hải 6 7 5.700,0 321,91 321,91 100% Tổng cụm 15 25 15.160,0 969,60 1125,6 86% 16 Cống Lê Xã Hoàng Hanh 1 1 1.000,0 71,94 238,94 30% 17 Cống Lê Xã Quang Hng 5 5 3.260,0 224,62 224,62 100% 18 Cống Lê Xã Tân Phong 9 10 5.660,0 467,7 467,7 100% 19 Cống Lê Xã Tân Quang 2 2 1.540,0 83,47 263,47 32% Tổng cụm 17 18 11.460,0 847,73 1194,73 71% 20 Hiệp Lễ Xã Kiến Quốc 6 6 4.620,0 280,84 320,84 88% 21 Hiệp Lễ Xã Hồng Dụ 8 9 4.660,0 170,33 170,33 100% 22 Hiệp Lễ Xã Hiệp Lực 13 11 8.420,0 274,91 274,91 100% 23 Hiệp Lễ Xã Hồng Phong 3 5 2.260,0 97,24 319,24 30% Tổng cụm 30 31 19.960,0 823,32 1085,32 76% 24 Cổ Ngựa Xã Văn Hội 2 2 2.000,0 51,47 241,47 21% 25 Cổ Ngựa Xã Hưng Thái 3 4 3.120,0 171,05 281,05 61% 26 Cổ Ngựa Xã Hồng Phúc 6 6 3.260,0 287,61 287,61 100% 27 Cổ Ngựa Xã Hưng Long 6 8 4.600,0 225 225 100% 28 Cổ Ngựa Xã Văn Giang 1 2 2.000,0 90,92 150,92 60% Tổng cụm 18 22 14.980,0 826,05 1186,05 70% Tổng tiểu khu 98,0 129,0 77.840,0 4.282,0 5.587,0 77% Tổng cộng 132,0 169,0 100.180,0 5.632,2 7.461,24 75% (Nguồn: Số liệu thống kê của Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi huyện Ninh Giang) + Cụm Cống Sao: Đảm bảo tưới cho 82% diện tích đất lúa của cụm, trong đó xã Vĩnh Hoà 100% tưới bằng trạm bơm của xã, thị trấn Ninh Giang 81% tưới bằng trạm bơm Nhà nước. + Cụm Tân Hương: Đảm bảo tưới cho 86% diện tích đất lúa của cụm, trong đó diện tích lúa tưới bằng trạm bơm của xã cao nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc272nh gi hi7879n tr7841ng ho7841t 2737897ng c7911a h7879 thamp.doc