Đề tài Đánh giá chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua và phương hường giải pháp hoàn thiện

Tài liệu Đề tài Đánh giá chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua và phương hường giải pháp hoàn thiện: Lời nói đầu Từ Đại hội Đảng VI (1986), thực hiện chủ trương đường lối đổi mới, mở cửa nền kinh tế theo phương châm “Đa phương hóa, đa dang hóa các quan hệ chính trị, kinh tế, đối ngoại, kết hợp chặt chẽ giữa việc khai thác có hiệu các nguồn lực trong nước là chính với việc huy động tối đa các nguồn lực bên ngoài”, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến hoạt động đến đầu tư nước ngoài. Việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài đầu tiên (29/12/1987) với những quy định thông thoáng hấp dẫn như một luồng gió mới thổi vào nền kinh tế Việt nam lúc đó đang trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng, các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu chọn Việt Nam làm điểm dừng chân của mình. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư nước ngoài, nhằm cải thiện tốt hơn môi trường đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài, năm 1990 và năm 1992, Luật đầu tư nước ngoài đã 2 lần được sửa đổi, bổ sung và đến năm 1996, để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội, tình hình x...

doc35 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1089 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Đánh giá chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua và phương hường giải pháp hoàn thiện, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Từ Đại hội Đảng VI (1986), thực hiện chủ trương đường lối đổi mới, mở cửa nền kinh tế theo phương châm “Đa phương hóa, đa dang hóa các quan hệ chính trị, kinh tế, đối ngoại, kết hợp chặt chẽ giữa việc khai thác có hiệu các nguồn lực trong nước là chính với việc huy động tối đa các nguồn lực bên ngoài”, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến hoạt động đến đầu tư nước ngoài. Việc ban hành Luật đầu tư nước ngoài đầu tiên (29/12/1987) với những quy định thông thoáng hấp dẫn như một luồng gió mới thổi vào nền kinh tế Việt nam lúc đó đang trong tình trạng khủng hoảng trầm trọng, các nhà đầu tư nước ngoài bắt đầu chọn Việt Nam làm điểm dừng chân của mình. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư nước ngoài, nhằm cải thiện tốt hơn môi trường đầu tư, khuyến khích và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài, năm 1990 và năm 1992, Luật đầu tư nước ngoài đã 2 lần được sửa đổi, bổ sung và đến năm 1996, để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế- xã hội, tình hình xu thế đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Luật đầu tư nước ngoài mới đã được quốc hội thông qua ngày 12/11/1996. Sau đó là một loạt các văn bản mới nhằm hướng dẫn, bổ sung theo hướng khuyến khích thu hút các nhà đầu tư. Qua 17 năm thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, Việt Nam đã tiến những bước dài trên bước đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới và thúc đầy phát triển nền kinh tế trong nước với tốc độ tăng GDP hàng năm vào loại cao trên thế giới (8,5 - 9%). Đánh giá các động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, một yếu tố không thể phủ nhận được đó là vai trò quan trọng của đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài “không chỉ góp phần để nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm qua mà còn là điều kiện cơ sở cần thiết cho cả quá trình phát triển trong những năm tiếp theo” (Trả lời phỏng vấn Báo Đầu tư của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt ). Hiểu được điều đó càng không thể không khẳng định công lao to lớn của Đảng và Nhà nước ta. Vấn đề quản lý Nhà nước nói chung và việc ban hành các chính sách nói riêng đối với đầu tư nước ngoài đã và đang là một vấn đề được quan tâm, nhiều hội thảo xung quanh đầu tư trực tiếp và quản lý Nhà nước về đầu tư đã được tổ chức, thu hút nhiều nhà kinh tế Việt Nam và thế giới, các nhà đầu tư nước ngoài. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài "Đánh giá chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua và phương hường giải pháp hoàn thiện" làm tiểu luận môn học Kinh tế quốc tế. Tiểu luận được viết thành 3 chương: Chương I: Những lý luận chung về chính sách đầu tư nước ngoài ở Việt Nam Chương II: Thực trạng chính sách đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Chương III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện các chính sách đầu tư nước ngoài vào Việt Nam Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến thầy giáo TS. Nguyễn Thường Lạng và bạn bè đã hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi để hoàn thiện bài tiểu luận này. Nhưng do khuôn khổ có hạn và trình độ còn nhiều hạn chế, bài tiểu luận này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong được sự đóng góp ý kiến của tất cả các thầy cô và các bạn. Chương I Những lý luận chung về chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1. Cơ sở lý thuyết về đầu tư - đầu tư nước ngoài. 1.1. Đầu tư. 1.1.1. Khái niệm đầu tư. Đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh những nguồn lực ở hiện tại (tiền, sức lao động, trí tuệ.v.v...) nhằm đạt được những kết quả có lợi cho chủ đầu tư trong tương lai. Như vậy, theo khái niệm trên, đầu tư là hoạt động kinh tế gắn với việc sử dụng vốn dài hạn nhằm mục đích sinh lợi. Đầu tư là một bộ phận của sản xuất - kinh doanh của các doanh nghiệp. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng tiềm lực của nền kinh tế nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng. Vốn đầu tư bao gồm có các dạng sau: - Tiền tệ các loại - Hiện vật hữu hình: tư liệu sản xuất, tài nguyên - Hàng hoá hữu hình: sức lao động, cán bộ, thông tin, biểu tượng uy tín hàng hoá.v.v.. - Các phương tiện khác: cổ phiếu, đá quý.v.v.... 1.1.2. Đặc trưng cơ bản của đầu tư. Đầu tư có hai đặc trưng cơ bản sau: tính sinh lợi và thời gian kéo dài. - Tính sinh lợi là đặc trưng hàng đầu của đầu tư. Không thể thể coi là đầu tư, nếu việc sử dụng tiền vốn không nhằm mục đích thu lại một khoản tiền có giá trị lớn hơn khoản tiền đã bỏ ra ban đầu. Như vậy đầu tư khác với: + Việc mua sắm, cất trữ, để dành + Việc mua sắm nhằm mục đích tiêu dùng vì trong việc này tiền của không sinh lời. + Việc chi tiêu vì lý do nhân đạo và tình cảm. Đặc trưng thứ hai của đầu tư là kéo dài thời gian, thường từ hai năm đến 70 năm hoặc có hạn thường trong vòng một năm không gọi là đầu tư. Đặc điểm này cho phép phân biệt hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh. Kinh doanh thường được coi là một giai đoạn đầu tư. Như vậy, đầu tư và kinh doanh thống nhất tính sinh lời nhưng khác nhau ở thời gian thực hiện. 1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài 1.2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một loại hình di chuyển vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu vốn điều hành hoạt động sử dụng vốn. Về thực chất. FDI là sự đầu tư của các Công ty nhằm xây dựng các cơ sở, chi nhánh ở sở đó. Đây là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn. 1.2.2. Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài. - Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu vào vốn pháp định tuỳ theo luật đầu tư của mỗi nước. - Quyền quản lý xây dựng phụ thuộc vào mức độ góp vốn. Nếu góp 100% vốn thì doanh nghiệp hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài quản lý và điều hành. - Lợi nhuận của các chủ đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới, mua lại hoàn bộ hay từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ phiếu để thôn tính hay sáp nhập các doanh nghiệp khác. - Nguồn vốn đầu tư không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu mà còn có thể được bổ xung, mở rộng từ nguồn lợi nhuận thu được từ chủ đầu tư nước ngoài. - Việc các chủ đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào trong nước để biến sinh lợi, thì qua đó bên phía chủ nhà tiếp nhận vốn có cơ hội tiếp thu công nghệ kỹ thuật tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý hiện đại ở nước ngoài. Đây là một đặc điểm chú trọng cho các nước đang phát triển trong quá trình phát triển và hội nhập nền kinh tế trên thế giới. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức mà các chủ đầu tư được tự mình ra quyết định đầu tư, quyết định sản xuất kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi. Hình thức này mang tính khả thi và hiệu quả cao, không có ràng buộc về chính trị, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế. 1.2.3. Các loại hình đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong thực tiễn, FDI có nhiều hình thức tổ chức khác nhau. Những hình thức được áp dụng phổ biến là: + Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng + Doanh nghiệp liên doanh + Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tuỳ từng điều kiện cụ thể và tuỳ vào từng quốc gia khác nhau mà các hình thức trên được áp dụng khác nhau. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, Chính phủ nước sở tại còn lập ra các khu vực ưu đãi đầu tư trong lãnh thổ nước mình như: khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, đặc khu kinh tế, hợp đồng xây dựng - vận hành - chuyển giao (B.O.T), xây dựng - chueyẻn giao (B.T), xây dựng - chuyển giao - vận hành (B.T.O). 1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn dtttt nước ngoài. Đầu tư nước ngoài là một hoạt động kinh tế có vai trò rất lớn với các nước trên thế giới, vì vậy việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố chủ quan và khách quan. Cụ thể như sau: 1.2.4.1. Hệ thống luật Hệ thống luật là một trong những nhân tố sẽ kìm hãm hay thúc đẩy gia tăng của hoạt động đầu tư nước ngoài. Bởi lẽ, trong hệ thống luật đầu tư, nước sở tại sữ nêu rõ quan điểm của mình trên lĩnh vực đầu tư về hình thức đầu tư, đảm bảo lợi ích cho các bên liên quan như thế nào.v.v... Đồng thời các nhà đầu tư nước ngoài còn xem xét những luật liên quan như luật thuế, luật cho thuê đất đai.v.v... Những nội dung của hệ thống luật càng đồng bộ, chặt chẽ tiên tiến, cởi mở phù hợp với thông lệ quốc tế thì khả năng hấp dẫn thu hút nguồn vốn FDI càng cao. 1.2.4.2. ổn định về chính trị. Đây là điều kiện tiên quyết nhằm giảm thiểu những rủi ro, vượt khỏi sự kiểm soát của chủ đầu tư. những bất ổn về kinh tế - chính trị không chỉ làm cho dùng vốn FDI bị chững lại và thu hẹp, mà còn làm cho quá trình huy động ngồn vốn trong nước bị giảm mạnh. Ngoài ra các cuộc xung đột nội chiến hay sự hoài nghi thiếu thiện cảm và gây khó dễ của giới lãnh đạo, nhân dân đối với vốn đầu tư nước ngoài đều là nhân tố tác động tâm lý tiêu cực của các chủ đầu tư nước ngoài. Bởi vậy, ổn định chính trị không chỉ trong thời gian ngắn mà còn là cần giữ vững lâu dài, để cho các nhà đầu tư yên tâm hoạt động. 1.2.4.3. Sự phát triển cơ sở hạ tầng. Sự phát triển cơ sở hạ tầng luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai các dự án đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng bao gồm: cầu, cảng, đường xá, hệ thống điện nước dồi dào phương tiện nghe nhìn hiện đại.v.v.. Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ cho hoạt động FDI, chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến luồng FDI. Khi đó càng tạo cho các chủ đầu tư nước ngoài an tâm về sở hữu và quyền chủ động định đoạt mua bán đất đai mà họ có được bằng nguồn vốn đầu tư của mình. Dịch vụ thông tin và tư vấn đầu tư có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cập nhật và đáng tin cậy, để cho các nhà đầu tư tiếp xúc lựa chọn bên đối tác và sẽ ảnh hưởng hoạt động kinh doanh. 1.2.4.4. Chính sách tiền tệ. Mức độ ổn định của chính sách tiền tệ là một nhân tố quan trọng góp phần ổn định hoạt động xuất nhập khẩu và thu lợi nhuận của nhà đầu tư nước ngoài, nhất là trong chính sách lãi suất và tỷ giá hối đoại. Việc nguồn vốn FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước coa hơn mức lãi suấ quốc tế thì sức hút với dòng vón chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với lãi suất cao là chi phí trong đầu tư là cao làm giảm lợi nhuận của các nhà đầu tư. Ngoài ra, một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn, một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ của nước đó bảo đảm hơn, mức độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm. 1.2.4.5. Sự phát triển của nền hành chính quốc gia. Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian, chi phí và đã làm mất cơ hội đầu tư. Đồng thời, với nhân tố này còn gắn liền với trình độ khả năng tính trách nhiệm của đội ngũ cán bộ trong việc thẩm định dự án, kiểm tra và xử lý việc phát sinh trong hoạt động đầu tư. Do vậy, Bộ máy hành chính phải thật gọn nhẹ với những thủ tục, hành chính có tính chất đơn giản, công khai và nhất quán. Điều đó sẽ làm tăng tính hoạt động của đầu tư một cách không thông suốt và chính xác. 1.2.4.6. Đặc điểm thị trường nước nhận vốn. Đây có thể nới là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Điều đó được thể hiện ở quy mô, dung lượng của thị trường, sức mua của các tầng lớp dân cư trong nước, khả năng mở rộng quy mô đầu tư.v.v.... đặc biệt là sự hoạt động của thị trường nhân lực. Mặt khác, với giá nhân công rẻ sẽ là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là với những dự án đầu tư vào lĩnh vực sử dụng nhiều lao động. Ngoài ra, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ học vấn, khả năng quản lý.v.v... cũng có ý nghĩa nhất định. Bởi vậy, lợi thể về thị trường sẽ có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. 1.3. Một số lý thuyết về đầu tư - thương mại quốc tế. Lý thuyết thương mại quốc tế của Hecksher - Ohlin cho rằng: một nước sẽ chuyên hoá vào sản xuất và xuất khẩu hàng hoá mà việc sản xuất của nó sử dụng nhiều nhân tố sản xuất tương đối rẻ và sẵn có của nước đó và nhập khẩu hàng hoá mà việc sản xuất nó sử dụng nhân tố sản xuất tương đối đắt và kham hiếm của nước đó. Khi nguồn lực sản xuất (lao động, vốn, kỹ thuật) của một nước thay đổi thì sẽ dẫn đến sự thay đổi cơ cấu sản xuất và xuất nhập khẩu của nước đó. Sự di chuyển nguồn lực giữa các nước là một trong nước nguyên nhân chính gây ra sự thay đổi của các nguồn lực sản xuất sẵn có của các nước. Khi đó, một hình di chuyển vốn cũng làm tăng khối lượng của nhân tố vốn. Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến x và sau đó đến thương mại quốc tế có thể diễn ra theo hai hướng: tác động thay thế và tác động bổ sung. - Tác động thay thế: mô hình kiểu Hecksher -Ohlin -Samuelson) một nước có hàng rào thương mại mang tính hạn chế cao đối với hàng hoá nhập khẩu sẽ làm tăng thu nhập đối với vốn nguồn lực tương đối khan hiếm của nước ngày. Theo tác động Rybczynski, sản xuất của hàng hoá sử dụng nhiều vốn (trước đây được nhập khẩu nếu có thuế) sẽ tăng và sản xuất hàng hoá sử dụng nhiều lao động (trước đây được xuất khẩu) sẽ giảm. Như vậy, theo hướng này, đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ làm giảm khối lượng xuất nhập khẩu. - Tác động bổ xung: tác động này diễn ra trong mô hình kiểu Riardo khi các nước có công nghệ khác nhau. Ví dụ: giả sử hai nước có năng suất lao động như nhau nhưng một nước có năng suất vốn cao hơn. Nước có năng suất vốn cao hơn sẽ xuất khẩu hàng hoá nhiều vốn. Khi vốn di động trên phạm vi quốc tế nó sẽ tìm đến nơi nào đó có mức thu nhapạ cao nhất và vì vậy sẽ chảy vào nước có năng suất vốn cao hơn. Theo tác động Rybcznski, dòng vốn này sẽ làm tăng sản xuất hàng hoá sử dụng nhiều vốn (hàng xuất khẩu nước đó) và giảm sản xuất hàng sử dụng nhiều lao động (hàng nhập khẩu của nước đó). Vì vậy, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào sẽ làm tăng quy mô buôn bán giữa các nước. 2. Chính sách Nhà nước với vấn đề đầu tư nước ngoài ở Việt Nam 2.1. Tính tất yếu đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam. Hiện nay trên thế giới đã và đang tồn tại một cách khách quan những nước giầu và nước nghèo, hay nói một cách khác là nước chậm phát triển và nước phát triển. Nguyên nhân chính là do đâu? Khi có sự cách biệt về khả năng kinh tế, về tài chính giữa các nước thì lúc này các nước phát triển bắt đầu xảy ra tình trạng dư thừa vốn, công nghệ và lợi nhuận giảm. Còn các nước chậm phát triển lại rơi vào tình trạng thiếu vốn, thiếu công nghệ mới, thiếu kinh nghiệm quản lý. Vì vậy để tránh tình trạng ứ đọng vốn, công nghệ của họ ra nước ngoài nhằm mục đích sinh lời và kéo dài tuổi thọ của công nghệ. Trong khi đó các nước đang phát triển mới chỉ có được công nhân dồi dào và nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú chưa được khai thác triệt để do chưa có vốn và công nghệ thích hợp để khai thác tốt hai nguồn lực này, đây là một môi trường đầu tư đầy triển vọng của các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình tìm kiếm cơ hội đầu tư nhằm làm tăng lợi nhuận cho mình trong hoạt động đầu tư nước ngoài. Hơn nữa do các nước phát triển rất dồi dào sản phẩm công nghệ cao, có chất lượng tốt, mẫu mã đa dạng phong phú, bao bì đẹp, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cao cho nên tính cạnh tranh trên thị trường giữa các sản phẩm hết sức gay gắt. Sự cạnh tranh này nhiều lúc không cân sức vì trên thị trường nếu chúng ta chỉ nhìn vào sản phẩm thì không thể biết đối thủ cạnh tranh mạnh hay yếu, mà phải nhìn vào chiến lược kinh doanh của đối thủ cạnh tranh thì mới biết được. Vì vậy, để tránh rủi ro trên thị trường nội địa thì buộc các doanh nghiệp phải tiến hành đầu tư ra nước ngoài. Hình thức đầu tư ra nước ngoài bên cạnh việc hạn chế rủi ro thì nó còn nhằm tăng vòng quay của vốn, tận dụng được công nghệ hạng 2 ở trong nước (nước phát triển). Trong quá trình đầu tư, các nhà đầu tư cố gắng hạ thấp chi phí để đạt được lợi nhuận cao nhất. Muốn làm được điều đó buộc họ phải đầu tư ra nước ngoài để mở rộng cơ hội tối đa hoá lợi nhuận khi đầu tư vào những nước chậm phát triển họ tiết kiệm được rất nhiều chi phí như chi phí đổi mới công nghệ, chi phí thanh lý công nghệ, chi phí lao động chất xám, chi phí lao động phổ thông, trong khi đó lại được ưu đãi về thuế (thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất khẩu....). Đồng thời lợi nhuận còn được đảm bảo bởi các chính sách kinh tế của các nước nhận đầu tư. Việt Nam, xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu. Hơn 70% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp: năng suất lao động thấp, tích luỹ nội bộ thấp, sử dụng viện trợ nước ngoài không có hiệu quả. Ngoài ra, nước ta vừa ra khỏi chuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc nên nhiều tàn dư mà ta chưa khắc phục được. Trước những khó khăn thách thức đó, Đảng và Nhà nước ta đề ra nhiều mục tiêu quan trọng trong giai đoạn 2001 – 2010 nhằm nâng cao đời sống người dân, xây dựng cơ sở hạ tầng phát triển nền kinh tế vững mạnh. Trong chiến lược 10 năm đầu thế kỷ 21, Đảng ta vẫn kiên định đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước tạo lập nền tảng cho việc hình thành một nước công nghiệp trong giai đoạn sau. Sự lựa chọn chiến lược này là một tất yếu được rút ra từ quá trình phát triển và đổi mới hơn 10 năm qua, từ một tầm nhìn về triển vọng phát triển đất nước gắn với xu thế thời đại. Trong đó, vai trò của vốn đầu tư nước ngoài đã đóng góp đáng kể vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển đất nước, nguồn vốn đầu tư nước ngoài ngày càng khẳng định vai trò của mình trong nền kinh tế Việt Nam. Điều đó được biểu hiện rõ bằng gia tăng nguồn vốn, kỹ thuật – công nghệ, đóng góp vào ngân sáh Nhà nước đáng kể. Trong những năm tới, việc thu hút nguồn vốn FDI vẫn được Nhà nước quan tâm là một xu thế tất yếu phù hợp với xu thế của thế giới và yêu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam. 2.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong đầu tư nước ngoài. Nhận thức được tầm quan trọng của việc thu hút vốn ĐTNN, Đảng và Nhà Nước ta đã từng bước xây dựng các chính sách ĐTNN theo hướng vừa khuyến khích, thu hút các nhà ĐTNN vào Việt Nam nhằm tạo đà phát triển kinh tế vừa theo hướng bảo vệ quyền lợi, lợi ích cho các doanh nghiệp trong nước. Đồng thời xuất phát từ chính sách đổi mới nền kinh tế mở cửa và hội nhập với nước ngoài, ngày 19/12/1987 lầu đầu tiên Quốc hội nước ta đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài cho phép các tổ chức cá nhân là người nước ngoài được đầu tư vào Việt Nam. Qua 4 lần sửa đổi bổ sung vào các năm 1990, 1992, 1996 và tháng 4 năm 2000, môi trường đầu tư đã cải thiện thông thoáng hơn, giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư, mở rộng quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh . Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài được đầu tư theo dưới hình thức sau đây: Công ty liên doanh: là dạng Công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập với sự tham gia của một bên là một hay nhiều pháp nhân trong nước và bên kia là một hay nhiều thành viên nước ngoài. Vốn hoạt động do hai bên đóng góp, thời gian hoạt động từ 30 đến 50 năm. Công ty có 100% vốn đầu tư nước ngoài: là dạng Công ty trách nhiệm hữu hạn do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài thành lập, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh , thời gian hoạt động từ 50 đến 70 năm. Hợp đồng hợp tác kinh doanh : là dạng hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa hai bên hay nhiều bên để cùng nhau tiến hành hoạt động kinh doanh trên cơ sở phân định trách nhiệm, quyền lợi nghĩa vụ rõ ràng và không thành lập một pháp nhân mới. Xây dựng, khai thác, chuyển giao (BOT): là hình thức hợp đồng được ký kết giữa chủ đầu tư và các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xây dựng một công trình, trong đó có nhà đầu tư bỏ vốn để kinh doanh và khai thác công trình trong một thời gian nhất định đủ để thu hồi vốn và các lợi nhuận thoả đáng sau đó chuyển giao công trình cho Nhà nước khi chấm dứt hợp đồng mà không đòi hỏi bất cứ khoản tiền nào. Nhìn chung, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được đánh giá là có độ hấp dẫn cao, phù hợp với thônglệ quốc tế. Hiện nay, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đang được tiếp tục điều chỉnh bổ sung cho phù hợp với thực tiễn điều kiện ở Việt Nam. 2.3.Nguyên tắc ban hành các chính sách đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhà nước ban hành các chính sách về hoạt động đầu tư nước ngoài, cần phải tuân theo các nguyên tắc sau: + Các chính sách của Nhà nước nhằm thực hiện một cách tốt nhất định hướng của Luật ĐTNN là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại vào công cuộc phát triển kinh tế; vừa mở cửa ra bên ngoài, nhằm tranh thủ mọi nguồn lực quốc tế nhưng không coi nhẹ đầu tư cho sản xuất trong nước; mở cửa cho bên ngoài nhưng không quên những biện pháp "che chắn" cần thiết để bảo hộ sản xuất trong nước, bảo đảm an ninh quốc phòng, đẩy mạnh xuất khẩu và tham gia phân công lao động quốc tế trong khu vực và thế giới một cách có lợi nhất. + Các chính sách phải nhằm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước ta trong hợp tác đầu tư với nước ngoài là thu hút vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của các công ty nước ngoài, tạo việc làm cho người lao động, góp phần khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng đất nước phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. + Các chính sách về hoạt động đầu tư nước ngoài phải đảm bảo giữ vững độc lập, chủ quyền của Việt Nam, đồng thời tôn trọng quyền của các nhà đầu tư, thực hiện nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi. Chương II thực trạng thu hút đầu tư nước ngoài của Việt nam trong giai đoạn hiện nay 2.1. Tình hình ĐTNN tại Việt Nam những năm qua: 2.1.1. Kết quả thu hút vốn ĐTNN: 2.1.1.1. Tình hình thực hiện của khu vực ĐTNN: Sau cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực từ năm 2001 đến nay, ĐTNN vào nước ta đã có xu hướng phục hồi. Năm 2003 vốn thực hiện tăng 8,1% so với năm 2001. Năm 2004 vốn ĐTNN thực hiện ước đạt 2,75 tỷ, tăng 7,5% so với năm 2003. Trong bối cảnh vốn đăng ký cấp mới trong những năm gần đây đạt thấp, việc gia tăng vốn đầu tư thực hiện thể hiện công tác thúc đẩy hoạt động của các dự án cấp phép theo tinh thần Nghị quyết 09 của Chính Phủ và Chỉ thị 19 của Thủ tướng Chính Phủ đã được triển khai có hiệu quả. Các chỉ tiêu kinh tế xã hội khác( doanh thu, xuất khẩu, nộp ngân sách, tạo việc làm…) đều tăng trưởng, năm sau cao hơn năm trước, thể hiện môi trường đầu tư và kinh doanh ở nước ta hiện nay ngày càng được cải thiện, tạo điều kiện để các dự án sau khi được cấp phép triển khai có hiệu quả. Việc tăng cường thu hút ĐTNN hướng về xuất khẩu đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu cảu khu vực ĐTNN tăng nhanh: trong thời kỳ 1996-2000 đạt trên 10,6 tỷ USD( không tính xuất khẩu dầu thô), tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước đ; trong 3 năm 2001-2003, xuất khẩu của khu vực ĐTNN đạt 14,6 tỷ USD, riêng gần năm 2003 đạt 6,34 tỷ USD, chiếm 31,4% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Xuất khẩu của ĐTNN chiếm tới 84% giá trị xuất khẩu mặt hàng điện tử, 42% đối với mặt hàng dày dép và 25% hàng may mặc. Tỷ trọng xuất khẩu so với doanh thu của doanh nghiệp ĐTNN cũng đã tăng nhanh: bình quân thời kỳ 1991-1995 đạt 30%; thời kỳ 1996-2000 đạt 48,7%; trong 4 năm 2001-2004 đạt khoảng 60%. Cơ cấu ĐTNN có chuyển biến tích cực, nhất là việc gia tăng tỷ trọng đầu tư vào lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Trong 10 tháng đầu năm 2004 tổng vốn thực hiện của khu vực ĐTTTNN( FDI) đạt được 2.37 tỷ USD, tăng 5.3% so với cùng kỳ năm 2003 và đạt 86% so với dự kiến vốn thực hiện của cả năm ( mục tiêu năm 2005 là 2.75 tỷ USD). Doanh thu của khu vực ĐTNN trong 10 tháng đầu năm 2004 dạt 14 tỷ USD, tăng 30.8% so với cùng kỳ. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu( không kể dầu thô) của khu vực ĐTNN 10 tháng đầu năm 2004 lên đến 7.06 tỷ USD, tăng 36,2% so với cùng kỳ năm 2003. Tổng giá trị kim ngạch nhập khẩu của khu vực ĐTNN 10 tháng đầu năm 2004 lên 8,8% tỷ USD, tăng 22,2% so với cùng kỳ. Tổng thu ngân sách từ khu vực ĐTNN( không kể thu từ hoạt động xuất nhập khẩu) trong 10 tháng đầu năm lên 659 triệu USD, tăng 37,3% so với cùng kỳ. Trong 10 tháng đầu năm các doanh nghiệp ĐTNN tạo thêm việc làm cho 12 nghìn lao động, đưa tổng số lao động trực tiếp lên 73 vạn ngưòi. Như vậy sau 17 năm thực hiện Luật ĐTNN ( từ năm 1988 đến hết tháng 10/2004) đến cuối tháng 10 năm 2004 cả nước đã cấp giấy phép đầu tư cho 5.995 dự án ĐTNN với tổng vốn đăng ký kể cả tăng vốn là 56,9 tỷ USD, trong đó có 4.965 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 44,76% tỷ USD. Phân theo ngành: Lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm tỷ trọng lớn nhất, chiếm 67,1% về số dự án và 57,8% tổng vốn đầu tư đăng ký. Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ, chiếm 19,2% về số dự án và 34,7% về vốn đầu tư đăng ký, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 13,7% về số dự án và 7,5% về vốn đầu tư đăng ký. Phân theo hình thức đầu tư: Hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm 71,7% về số dự án và 45,7% về tổng vốn đăng ký; hình thức liên doanh chiếm 24,5% về số dự án và 42,6% về tổng vốn đăng ký; còn lại thuộc lĩnh vực hợp doanh và BOT. Phân theo nước: Trong số 66 nước và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư tại Việt Nam, các nước Châu á chiếm trên 76% số dự án và trên 70% vốn đăng ký; các nước Châu Âu chiếm gần 16% số dự án và gần 24% vốn đăng ký; Hoa Kỳ chiếm 4,2% số dự án và 2,8% vốn đăng ký; còn lại là các nước ở khu vực khác. Riêng 5 nền kinh tế đứng đầu trong đầu tư vào Việt Nam là Singapore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hông Kông đã chiếm 63,4% về số dự án và 62,2% tổng vốn đăng ký. Việt Kiều từ 15 nước khác nhau chủ yếu là từ CHLB Đức, Liên Bang Nga và Pháp đã đầu tư 118 dự án với vốn đầu tư đăng ký 362,66 triệu USD chỉ bằng 0,8% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước. Phân theo địa phương: Các thành phố lớn, có điều kiện kinh tế xã hội thuận lợi thuộccác vùng kinh tế trọng điểm vẫn là nhựng địa phương dãan đầu thu hút ĐTNN theo thứ tự như sau: TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu, Hải Phòng. Riêng vùng trọng điểm phía Nam( TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu) chiếm 56,1% tổng vốn ĐTNN của cả nước. Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc ( Hà Nội, Hải Phòng, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh) chiếm 25,2% tổng vốn ĐTNN đăng ký của cả nước. Hiện tại các dự án ĐTNN đầu tư vào các KCN, KCX( không kể các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng KCN) còn hiệu lực, chiếm 33% về số dự án và 29,8% tổng vốn đầu tư đăng ký của cả nước. 2.1.1.2. Tình hình cấp mới và tăng vốn của khu vực ĐTNN: Tính đến 20/10/2004 đã có 579 dự án được cấp Giấy phép đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký 1.740,1 triệu USD, bằng 98% về số dự án và tăng 17,2% về vốn đăng ký mới so với cùng kỳ năm 2003. Đồng thời trong 10 tháng đầu năm 2004 đã có 388 dự án với tổng vốn đăng ký tăng thêm 1.496,77 triệu USD, tăng 66,9% so với cùng kỳ năm 2003 về vốn đăng ký tăng thêm. Trong tổng số các dự án tăng vốn, có 5 dự án có quy mô vốn tăng thêm trên 50 triệu USD, lớn nhất là Công ty Chinfon Hải Phòng với tổng số vốn tăng thêm 161,7 triệu USD, Công ty Sun Steel tăng 147 triệu USD và 2 công ty Canon và Saigon Mas đề tăng vốn thêm 100 triệu USD. Các dự án chủ yếu tăng vốn tập trung tronglĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chiém 75% tổng vốn tăng thêm. Ba địa phương thuộc vùng trọng điểm phía Nam theo thứ tự là Bình Dương, TP Hồ Chí Minh và Đồng Nai đã chiếm 65,2% tổng vốn tăng thêm. Hai địa phương của vùng trọng điểm phía Bắc: Hải Phòng và Hà Nội chiếm 21,1% tổng vốn tăng thêm. Tính chung tổng vốn đăng ký của dự án cấp mới và dự án tăng vốn trong 10 tháng đầu năm đạt 3.236,9 triệu USD, tăng 35,9 so với cùng kỳ năm 2003 và bằng 95% dự kiến kế hoạch năm 2004( 3,4 tỷ USD). Với kết quả đã đạt được trong 10 tháng đầu năm, dự báo mục tiêu đề ra về thu hút và thực hiện vốn DTNN cho năm 2004 sẽ đạt và vượt. 2.2. Những thành tựu đạt được của các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam : 2.2.1. Công tác xây dựng luật pháp, chính sách: Trong thời gian qua hệ thống pháp luật, chính sách về ĐTNN đã được cải thiện theo hướng tạo môi trường ngày càng thông thoáng, thuận lợi hơn cho hoạt động ĐTNN. Riêng từ năm 2000, sau khi Quốc Hội thông qua Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ĐTNN, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 24/2000/NĐ-CP ngày 31 tháng 07 năm 2000 quy định chi tiết thi hành Luật ĐTNN tại Việt Nam. Ngày 19/03/2003 Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 27/2003/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị Định 24/2000/NĐ-CP theo hướng: mở rộng lĩnh vực khuyến khích ĐTNN; xoá bỏ tỷ lệ xuất khẩu bắt buộc đối với một số sản phẩm công nghiệp cũng như hạn chế về tỷ lệ vốn góp bằng chuyển giao công nghệ và về tuyển dụng lao động; quy định cụ thể, minh bạch hơn các tiêu chí áp dụng ưu đãi đầu tư…Nghị Định 38/2003/NĐ-CP ngày 15/04/2003 của Chính Phủ về việc chuyển đổi một số doanh nghiệp ĐTNN sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần để tạo cơ sở pháp lý nhằm đa dạng hóa hình thức ĐTNN, mở thêm kênh mới để thu hút nguồn vốn này; Ngoài ra Chính Phủ cũng đã có Quyết định 146/2003/QQĐ-TTg ngày 11/03/2003 về việc góp vốn, mua cổ phần của nhà ĐTNN trong các doanh nghiêp Việt Nam. Hệ thống văn bản có liên quan đến hoạt động ĐTNN cũng tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện với việc Quốc hội thông qua các luật: Luật đất đai( sửa đổi, Bộ Luật lao động9 sửa đổi), Luật Xây dựng, Luật thuỷ sản, Luật Thuế TNDN, Luật Thuế GTGT…. Thủ tướng Chính Phủ cũng đã ban hành Quyết định số 53/2004/QQĐ_TTg ngày 05/04/2004 về một số chính sách khuyến khích đầu tư tại Khu công nghệ cao. Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội cũng đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi Thuế Thu nhập cá nhân có hiệu lực từ ngày 01/07/2004 theo hướng giảm thuế đối với người có thu nhập cao.Ngoài ra còn ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành có hiệu lực từ 01/01/2004 đã quy định danh mục lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư cũng nhu thuế suất và các mức ưu đãi thống nhất cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đồng thời bổ sung một só tiêu chí áp dụng ưu đãi mới nhằm khuyến khích các dự án đầu tư ứng dụng công nghệ, kỹ thuật cao và sử dụng nhiều lao động. Ngoài một số hạn chế cần được nghiên cứu giải quyết trong thời gian tới, việc ban hành các văn bản nói trên là bước tiến quan trọng trong lộ trình hướng tới xây dựng một mặt bằng pháp lý chung cho đầu tư trong nước và ĐTNN. Tại kỳ họp thứ 4 tháng 11 năm 2003 Quốc hội đã thông qua Chương trình xây dựng pháp luật năm 2004 trong đó có việc chuẩn bị xây dựng Luật Đầu tư chung cho đầu tư trong nước và ĐTNN. Khung pháp lý song phương và đa phương về đầu tư tiếp tục được hoàn thiện. Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA) có hiệul ực từ tháng12/2001 mở ra cơ hội mới cho doanh gnhiệp trong nước và doanh nghiệp ĐTNN tiếp cận thị trường Hoa Kỳ và tạo điều kiện để thu hút ĐTNN vào các lĩnh vực có lợi thế xuất khẩu vào thị trường này. Mặt khác, những cam kết trong khuôn khổ Hiệp định này cũng tạo cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về ĐTNN. Nhiều cam kết đã được thực thi ngay khi Hiệp địn có hiệu lực( xoá bỏ sự phân biệt đối xử giữa ngươì tiêu dùng trong nước và nước ngoài về giá, phí một số hàng hoá,dịch vụ; giảm dần những hạn chế về chuyển giao công nghệ, quản lý ngoại hối, sử dụng đất đai). Cùng với việc thực hiện BTA, Chính Phủ Việt Nam đã ký kết Hiệp định song phương về đầu tư với một số đối tác đầu tư hàng đầu tại Việt Nam( Vương Quốc Anh, Hàn Quốc…). Trong tháng 11/2003, Hiệp định về tự do hoá, khuyến khích và bảo hộ đầu tư Việt Nam- Nhật Bản đã được ký kết với những cam kết mạnh mẽ của hai bên trong việc tạo dựng môi trường kinh doanh thuận lợi, minh bạch, ổn định và bình đẳng cho các nhà đầu tư.Tháng 12/2003 sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã được công bố với các nhóm giải pháp cơ bản gồm: xây dựng và thực hiện chíh sách thu hút đầu tư; hoàn thiện khung pháp luật về ĐTNN; nâng cao năng lực của các cơ quan chính phủ; cải tiến thủ tục đầu tư; phát triển hạ tầng kinh tế – xã hội. Cơ chế pháp lý đa phương về đầu tư cũng tiếp tục được củng cố, mở rộng với việc Chính Phủ Việt Nam ký kết Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN, tham gia Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN – Trung Quốc và các Hiệp định tương tự với Nhật Bản , ấn Độ… Đặc biệt, phải kể đến diễn đàn đầu tư được tổ chức mới đây trong hai ngày 17 và 18/08/2004 trên cơ sở phối hợp tổ chức và đồng chủ trì của Bộ KH&ĐT và Cơ quan đầu tư quốc tế Singapore(IE) đã thu hút được trên 500 các nhà đầu tư( trong đó có hơn 300 các nhà đầu tư nước ngoài đến từ Singapore và các nước khác) tham dự đã đạt được nhiều kết quả tốt đẹp đựoc cộng đồng quốc tế, các nhà đầu tư đánh giá cao, hứa hẹn tiềm năng mới trong thu hút ĐTNN trong thời gian tới. Việc triển khai “Sáng kiến chung Việt Nam – Nhật Bản”, “Họp nhóm đầu tư và thương mại Nật Bản - Việt Nam”,Thoả thuận hợp tác xúc tiến đầu tư với Singapore nhằm đẩy mạnh đầu tư với nước thứ ba( Nhật Bản), Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ cũng như các thoả thuận hợp tác đầu tư song phương và đa phương khác đã tạo điều kiện tăng cường quan hệ hợp tác đầu tư, mở rộng thị trường xuất khẩu cho các doanh nghiệp, trong đó có các doanh nghiệp có vốn ĐTNN. Chính Phủ cũng đã ban hành Nghị định số 61/2003/NĐ-CP ngày 6/6/2003 về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức bộ máy của Bộ Kế hoạch đầu tư trong đó có việc thành lập Cục ĐTNN tạo điều kiện để thống nhất đầu mối quản lý nhà nước về ĐTNN. Lộ trình áp dụng cơ chế một giá đã được đẩy nhanh. Từ đầu năm 2004, giá vé máy bay được áp dụng chung cho người Việt Nam và người nước ngoài. Chính Phủ đã áp dụng các biện pháp hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất như cắt giảm cước phí viễn thông, hỗ trợ chi phí các công trình điện ngoài hàng rào, nâng tỷ lệ chi phí quảng cáo tiếp tân khánh tiết. Việc mở thêm một số đường bay trực tiếp tới các nước như Hà Nội – osaka đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại của các nhà đầu tư. Từ ngày 01/01/2004, Chính Phủ cũng áp dụng quy chế miễn thị thực nhập cảnh đối với các nước trong khối ASEAN và khách du lịch từ một số nước( Nhật Bản) vào Việt Nam. Công tác chỉ đạo, điều hành của Chính Phủ, của các Bộ, ngành và sự quan tâm chỉ đạo của chính quyền địa phương đã đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuât, tiếp tục thực hiện viêc cải cách hành chính, kịp thời tháo gỡ những khó khăn co viẹc triển khia dự án trong công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và đầu tư xây dụng, hỗ nhà đầu tư tới chân hàng rào công trình…Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 61/2003/NĐ-Chính Phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ KH&ĐT trong đó có việc thành lập Cục ĐTNN, tạo điều kiện thống nhất công tác quản lý ĐTNN về một đầu mối trong Bộ KH&ĐT đã được dư luận và các nhà đầu tư rất quan tâm. 2.1.3. Công tác xúc tiến đầu tư: - Công tác xúc tiến đầu tư đã được triển khai tích cực: Thực hiện Nghị quyết 09 của Chính Phủ và Chỉ thị 19 của Thủ tướng Chính Phủ, kế thừa những năm trước( từ 2001 trở lại đây), công tác xúc tiến đầu tư đã có những bước chuyển biến mãnh mẽ. Việc vận động xúc tiến ĐTNN được tiến hành ở nhiều ngành, nhiều cấp, ở cả trong nước và nước ngoài dưới nhiều hình thức đa dạng như tổ chức các cuộc hội thảo vận động đầu tư ở trong nước và ngoài nước và đã đạt được một số kết quản bước đầu như số lượng doanh nghiệp ĐTNN tăng lên ở một số địa bàn các tỉnh thuộc đồng bằng Sông Hồng( như Vĩnh Phúc, Hải Dương …) phía Đông Nam Bộ( Đồng Nai, Bình Dương) và góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội của địa phương. Thêm vào đó, Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư cùng các ngành, các địa phương tổ chức hàng chục hội thảo xúc tiến đầu tư khác ở trong và ngoài nước, thể hiện sự chuyển biến tích cực về nhận thức của chính quyền các địa phương trong việc thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên, để chấn chỉnh tình trạng tự phát, nội dung hội thảo đơn điệu, kém hiệu quả của các hội thảo xúc tiến đầu tư, Bộ trưởng Bộ KH&ĐT ký công văn số 4416BKH/ĐTNN ngày 22/07/2003 nhằm hướng dẫn, nâng cao chất lượng xúc tiến đầu tư của các địa phương. 2.1.4. Công tác thẩm định dự án: Việc tiếp nhận, thẩm định và cấp phép cho các dự án được tiếp tục thực hiện theo quyết định phân cấp của Thủ tướng Chính Phủ và quyết định uỷ quyền của Bộ trưởng Bộ KH&ĐT cho các Ban quản lý KCN – KCX. Công tác thẩm định cấp phép đầu tư được tiến hành chặt chẽ. Tuy nhiên thủ tục thẩm định vẫn còn phức tạp, thời gian thẩm định một số dự án kéo dài do các văn bản pháp quy và quy hoạch phát triển ngành chưa rõ ràng, phần khác đối với không ít dự án thiếu ý kiến thống nhất giữa các Bộ, ngành. Chính phủ không ngừng hoàn thiện môi trường đầu tư để tạo môi trường đầu tư để môi trường thuận lợi thu hút đầu tư nước ngoài, Luật đầu tư đã không ngừng được cải thiện với tốc độ nhanh để phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo điều kiện cho quá trình hội nhập. 2.4.3.1 Nguyên nhân của những thành tựu đạt được a/ Thành công trong lĩnh vực thu hút vốn ĐTNN trước hết và chủ yếu bắt nguồn từ đường lối, chủ trương của Đảng về đổi mới kinh tế và những tiến bộ trong ổn định nền kinh tế vĩ mô. - Hệ thống chính sách của Việt Nam ngày một hoàn chỉnh đáp ứng với những đòi hỏi mới của nền kinh tế thị trường, nhất là các chính sách liên quan đến quá trình tự do hoá thương mại, lành mạnh hoá các quan hệ tài chính tiền tệ, tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động và vốn... - Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động ĐTNN dần đi vào nền nếp; bộ máy tổ chức, quản lý FDI đã hình thành và từng bước kiện toàn từ Trung ương đến địa phương, đủ sức đảm đương nhiệm vụ mới mẻ và quan trọng này. - Các Bộ, ngành và địa phương đã có sự phối hợp với nhau trong việc xây dựng luật pháp, chính sách, quy hoạch liên quan đến FDI; xây dựng kế hoạch, danh mục dự án thu hút vốn FDI làm cơ sở cho việc tổ chức vận động, xúc tiến đầu tư; phối hợp trong việc thẩm định các dự án và cùng giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình hình thành, triển khai và thực hiện dự án ĐTNN. . Việc phân cấp Giấy phép đầu tư, giấy phép xuất nhập khẩu, và giao quyền thực hiện việc quản lý Nhà nước đối với các dự án FDI trên địa bàn lãnh thổ cho một số địa phương và Ban quản lý Khu công nghiệp theo hướng mở rộng quyền cho các địa phương đã góp phần đơn giản hoá thủ tục đầu tư, rút ngắn thời gian cấp giấy phép, nắm chắc hơn hoạt động của các doanh nghiệp FDI và có điều kiện xử lý kịp thời các vấn đề vướng mắc phát sinh... Ngoài Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đến nay đã có 16 tỉnh, thành phố thuộc Trung ương và 10 Ban quản lý Khu công nghiệp đã được phân cấp giấy phép. 2.2.Những khó khăn, hạn chế còn tồn tại : 2.2.1.Những hạn chế trong quá trình thực hiện các chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam : Bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc thực hiện thu hút vốn ĐTNN trong những năm qua việc ban hành các chính sách về ĐTNN còn thể hiện nhiều điểm hạn chế trên nhiều phương diện, cụ thể: Về Hải quan: + Thủ tục hải quan không rõ ràng, tuỳ tiện áp mã số để tính, giữ hàng để kiểm tra quá lâu, tuỳ tiện tịch thu hàng hoá, đặc biệt là tình trạng tiêu cực của cán bộ hải quan. + Hải quan cửa khẩu thực hiện không thống nhất với nhau và trong một số trường hợp không tuân thủ chỉ đạo của Tổng cục Hải quan. Khi có ý kiến khác nhau giữa Tổng cục Hải quan và Hải quan cửa khẩu, chủ đầu tư thường phải mất nhiều thời gian chờ đợi để được xử lý dứt điểm. Nhiều doanh nghiệp phàn nàn về thủ tục hành chính của Hải quan một số địa phương như thành phố HCM, Đồng Nai... còn nặng nề, làm cho họ mất nhiều thời gian. Những vướng mắc trên bắt nguồn từ những quy dịnh chồng chéo của nhiều cơ quan quản lý Nhà nước và sự thiếu cụ thể, chi tiết của các văn bản hướng dẫn của các Bộ, ngành đối với hoạt động xuất nhập khẩu. Về thuế : - Thuế suất thuế nhập khẩu đánh vào linh kiện, phụ tùng, phụ kiện, nguyên vật liệu để tiến hành sản xuất trong nước thấp hơn không đáng kể, thậm chí cao hơn thuế suất thuế nhập khẩu sản phẩm hoàn chỉnh. Do vậy, không khuyến khích người sản xuất vì làm thương mại có lợi hơn. - Rất chậm quy định chính sách nội địa hóa, làm cho các nhà đầu tư lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch đầu tư cho sản xuất. Hệ thống phân loại thuế theo tiêu chuẩn SKD, CKD, IKD (tiêu chuẩn riêng có ở Việt Nam) không rõ ràng và rất phức tạp, gây khó khăn cho việc tính thuế đối với phụ tùng linh kiện nhập khẩu, đặc biệt là những phụ tùng, linh kiện nhập khẩu để sản xuất lắp ráp ô tô, xe máy, ti vi, hàng điện gia dụng là những sản phẩm mới có ở Việt Nam. Một số doanh nghiệp phản ánh rằng, cùng một loại linh kiện nhập khẩu, Hải quan có thể áp dụng nhiều mã thuế khác nhau làm cho doanh nghiệp không biết trước được mức thuế phải chịu để tính giá thành sản xuất và ký hợp đồng bán sản phẩm. - Thời hạn hoàn thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu nhập vào để sản xuất hàng xuất khẩu chỉ có 90 ngày (theo quy định tại Luật thuế xuất, nhập khẩu) quá ngắn. Hơn nữa, thủ tục hoàn trả thuế phức tạp, chưa rõ ràng làm cho doanh nghiệp mất nhiều thời gian. Nếu được hoàn trả thì doanh nghiệp cũng không được nhận tiền mà thường để khấu trừ vào các khoản phải nộp sau. - Thuế thu nhập cá nhân còn khá cao mặc dù trong năm 2004 Pháp lệnh thuế Thu nhập cá nhân và theo đó là các văn bản hướng dẫn( Nghị định 147/2004/NĐ-Chính Phủ và Thông tu số 81/2004/TT-BTC đã được sửa đổi bổ sung theo hướng có lợi người nộp thuế. Một số doanh nghiệp phản ánh về việc họ không thể tuyển chuyên gia trình độ cao vào làm việc tại Việt Nam vì sự bất hợp lý trong việc đánh thuế thu nhập cá nhân. Nhiều doanh nghiệp Về đất đai : - Giá đất của ta còn quá cao so với nhiều nước trong khu vực. Nếu tính cả chi phí đền bù giải toả thì giá đất bị đẩy lên quá cao. Đây là một yếu tố làm giảm sức cạnh tranh thu hút đầu tư. - Thủ tục cấp đất còn phức tạp, kéo dài. - Việc giao đất, nhất là đối với các dự án có đền bù giải toả kéo dài, nhiều khi vài ba năm, thậm chí có dự án đến 5 năm. - Thời điểm tính giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh hợp lý. - Trong thực tế, vệc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho doanh nghiệp rất chậm, thông thường phải mất từ 3-6 tháng, có dự án tới 2 năm. Khi chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, doanh nghiệp không thể triển khai dự án được nhưng nhà đầu tư vẫn phải trả tiền thuê đất. Về Xây dựng: - Nhiều địa phương, đặc biệt là ở Hà nội và thành phố HCM chưa có đủ quy hoạch chi tiết tất cả các khu vực nên không thể cấp ngay chứng chỉ quy hoạch cho chủ đầu tư để tiến hành các công việc tiếp theo như lên phương án kiến trúc, thiết kế kỹ thuật... - Thủ tục, phân công trách nhiệm và trình tự thẩm kế công trình xây dựng thuộc nhóm B ở một số địa phương như Hà nội, thành phố HCM chưa rõ ràng. - Việc áp dụng quy chế đấu thầu còn làm chậm tiến độ triển khai dự án. Về nhập thiết bị đã qua sử dụng. - Quy định chất lượng thiết bị còn lại không ít hơn 80% so với nguyên thuỷ và mức tăng tiêu hao nguyên liệu, năng lượng không vượt quá 10% so với nguyên thuỷ cần phải cụ thể hoá mới có thể thực hiện được. - Quy định trong mọi trường hợp khi nhập khẩu thiết bị đã qua sử dụng phải nộp chứng thư giám định chất lượng hàng hoá mà không có bất cứ miễn trừ nào gây phiền hà cho các doanh nghiệp. Quy định phải có văn bản xác nhận tư cách pháp nhân của tổ chức giám định chất lượng do cơ quan chức năng của nước sở tại cấp cho phép hành nghề giám định kỹ thuật chỉ mang tính hình thức và dễ gây bất bình cho nhà đầu tư. - Quy định việc kiểm tra bắt buộc đối với thiết bị, dây chuyền, cxí nghiệp lớn với tổng giá trị hợp đồng mua từ 1tr.USD trở lên làm cho nhiều nhà đầu tư lo ngại. Vấn đề lao động: - Thủ tục tuyển dụng lao động là người nước ngoài quá phức tạp, khó thực hiện. - Việc tuyển dụng lao động phải qua trung tâm dịch vụ gây mất nhiều thời gian, chi phí cao nhưng chất lượng lại thấp - Tỷ lệ lao động người nước ngoài trong một số lĩnh vực bị hạn chế( thậm chí có nhữnh lĩnh vực bị hạn chế lao động người nước ngoài chỉ phép được 3 người) 2.2.2.Nguyên nhân gây ra những hạn chế trong việc thu hút ĐTNN : Nguyên nhân chính gây ra những hạn chế trên là do sự kém hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam. Hiện nay, các nhà ĐTNN đánh giá môi trường đầu tư Việt Nam đang mất dần tính cạnh tranh và hấp dẫn so các nước trong khu vực, cụ thể là : -Thủ tục hành chính rườm rà, mất quá nhiều thời gian : Thủ tục cấp phép đã cải tiến nhưng lại dẫn đến tình trạng một cửa nhiều khoá, phối hợp giữa các ngành còn chưa kịp thời, địa phương cần xin ý kiến của trung ương cần mất nhiều thời gian, thủ tục sửa giấy phép đầu tư thường quá rườm rà, tỉ mỉ làm hạn chế đầu tư thêm; phương thức nộp thuế, thủ tục, thời gian hoàn thuế giá trị gia tăng, chế độ tài chính kế toán, chế độ quản lí ngoại hối …cũng nhiều hạn chế, phức tạp.Chính những thủ tục hành chính này đã gây cản trở đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt là các tiêu cực phát sinh trong quá trình thực hiện các thủ tục ( hiện tượng sách nhiễu, phiền hà, làm biến dạng chính sách, việc hình sự hoá các quan hệ kinh tế…) đã làm gia tăng những ảnh hưởng không tốt đến những nhà đầu tư nước ngoài làm ăn chân chính, nghiêm túc. -Hệ thống pháp luật, chính sách đang trong quá trình thực hiện nên thiếu tính đồng bộ và không hoàn chỉnh, chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự báo được trước. - Một số trường hợp chưa tính kĩ đến lợi ích chính đáng của nhà đầu tư nên đã làm đảo lộn phương án kinh doanh và gây thiệt hại cho họ. Nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm so với quy định, chậm đi vào cuộc sống. Một số văn bản hướng dẫn của các bộ, ngành địa phương có xu hướng xiết lại, “đẻ” thêm qui định, dẫn đến tình trạng trên thoáng dưới chặt, thậm chí chồng chéo, thiếu thống nhất gây khó khăn cho hoạt động của doanh nghiệp. - Danh mục lĩnh vực không cấp phép và cấp giấy phép đầu tư có điều kiện của ta còn chung chung, ít hình thức đầu tư. - Hệ thống pháp luật về ĐTNN còn thiếu những quy định chặt chẽ để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, loại trừ những mâu thuẫn, chồng chéo đặc biệt là trong quy định của các Bộ, ngành và địa phương. - Hệ thống pháp luật về ĐTNN hiện chưa phát huy hết hiệu quả định hướng thu hút đầu tư. - Hình thức tổ chức doanh nghiệp có vốn ĐTNN chưa đa dạng. - Những biện pháp bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhà đầu tư trong trường hợp có sự thay đổi chính sách, pháp luật chưa cụ thể, chưa thể hiện sự nhất quán và ổn định của pháp luật, do vậy gây tâm lý thiếu tin tưởng cho các nhà đầu tư. - Đặc biệt việc thi hành luật pháp chưa nghiêm, đôi khi còn tuỳ tiện, công tác kiển tra, thực thi luật pháp chưa nghiêm, đôi khi còn tuỳ tiện, công tác kiểm tra, thực thi luật pháp còn lỏng lẻo. . Hệ thống pháp lý chung về kinh tế tạo môi trường cho hoạt động kinh doanh còn chưa hoàn thiện. Chẳng hạn còn thiếu các Luật về Ngân hàng, Hải quan, Luật kinh doanh bất động sản, Luật cạnh tranh và chống độc quyền... Các nghị định hướng dẫn luật thương mại ban hành chậm và chưa đầy đủ. . Hệ thống pháp lý liên quan trực tiếp đến FDI đang không ngừng bổ sung hoàn thiện nhưng vẫn còn có những quy định chưa thực sự khuyến khích ĐTNN. - Luật pháp, chính sách chưa tạo ra một "sân chơi bình đẳng" giữa đầu tư trong nước và nước ngoài, chưa đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn đầu tư. - Một mặt, do các văn bản hướng dẫn thi hành Luật ĐTNN quá nhiều, được soạn thảo bởi nhiều cơ quan và ban hành ở những thời điểm khác nhau, trong khi tuyên truyền, giải thích các văn bản không kịp thời nên cán bộ các cấp không nắm được đầy đủ và có tính hệ thống về pháp luật FDI dẫn đến vận dụng, xử lý không đúng. Mặt khác, do xuất pháp từ chức năng quản lý ngành, kể cả lợi ích của ngành, nên có những văn bản hướng dẫn của ngành siết lại, của các địa phương đẻ thêm các quy trình tạo nên tình trạng "trên thoáng dưới chặt". Nhiều trường hợp do quy định thiếu cụ thể nên mỗi nơi hiểu và vận dụng một cách, thậm chí có trường hợp cố tình vận dụng sai để mưu lợi ích cá nhân. - Sau khi ban hành Luật, những biện pháp ưu đãi đầu tư về tài chính, ngân hàng, ngoại hối... chưa được cụ thể hoá đầy đủ hoặc chưa có quy định rõ ràng làm yên tâm các nhà đầu tư, đặc biệt là những biện pháp ưu đãi đối với những địa bàn và lĩnh vực khuyến khích đầu tư. - Sự hiểu biết pháp luật, chính sách về ĐTNN của cán bộ các cấp, các ngành còn nhiều hạn chế dẫn đến việc vận dụng tuỳ tiện, thiếu nhất quán trong không ít trường hợp làm giảm tính hấp dẫn và hiệu lực của hệ thống pháp luật về đầu tư. Qua 17 năm xây dựng và thực hiện pháp luật về ĐTNN tại Việt Nam, đội ngũ cán bộ làm về đầu tư ở các Bộ, ngành và địa phương đã có sự trưởng thành đáng kể. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn nhiều trường hợp vận dụng tuỳ tiện và thiếu nhất quán pháp luật, chính sách về ĐTNN do hạn chế về trình độ của những cán bộ thực hiện pháp luật. Điều này đã làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư ở Việt Nam. Trong những năm vừa qua, thấy rõ được tầm quan trọng và tính quyết định của công tác cán bộ, ta đã chủ động mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn hạn những kiến thức cơ bản về hợp tác đầu tư với nước ngoài nhưng mới chỉ giải quyết được yêu cầu trước mắt, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển lâu dài. - Những biện pháp quản lý, kiểm tra còn thiếu cụ thể và chặt chẽ để vừa bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, vừa tránh phiền hà cho hoạt động của các dự án ĐTNN. - Thủ tục đầu tư đã được cải tiến đơn giản và thuận tiện hơn nhưng ở một số khâu như thủ tục liên quan đến đất đai, hải quan, xuất nhập khẩu còn chậm, phức tạp gây phiền hà cho các nhà đầu tư - Việc thực thi của các cấp dưới chưa nghiêm, nhưng việc kiểm tra xử lý của cấp trên lại chưa chặt chẽ, kịp thời gây nhiều trở ngại phiền hà, làm mất lòng tin của nhà đầu tư nước ngoài. Một số chính sách của chính phủ còn chậm đưa vào cuộc sống mà các cơ quan cấp dưới lại không chấp hành nghiêm chỉnh làm giảm lòng tin cộng đồng đầu tư nước ngoài đối với các quyết định của Chính Phủ, như việc thanh toán chậm tiền đầu tư công trình hạ tầng ngoài hàng rào doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài đã ứng trước để xây dựng, giảm lệ phí tham quan … Chương III giải pháp hoàn thiện công tác quản lý Nhà nước về Đầu tư nước ngoài 3.2.1. Thống nhất quan điểm nhận thức chung về FDI : Cần thống nhất quan điểm nhận thức chung về FDI, đặc biệt là sự cần thiết, vai trò của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam, mối quan hệ giữa phát huy nội lực và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, quan hệ giữa thu hút vốn FDI và bảo vệ độc lập, chủ quyền an ninh xã hội... Chỉ trên cơ sở thống nhất các quan điểm cơ bản mới tạo nên sự ổn định nhất quán trong xây dựng luật pháp, cơ sở chủ đạo điều hành hoạt động FDI. 3.2.2. Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn nước ngoài Nghiên cứu đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn ĐTNN với các bước đi và điều kiện thích hợp nhằm mở thêm các kênh mới thu hút nguồn vốn nước ngoài. - Sớm ban hành các quy định về cầm cố, thế chấp, bảo lãnh để đẩy nhanh việc giải ngân vốn vay của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, có quy định cụ thể về hoạtt động của các quỹ đầu tư. 3.2.3. Hoàn thiện luật pháp, chính sách 3.2.3.1. Tạo cơ sở pháp lý cho việc tiến tới xây dựng một Luật đầu tư chung - Hoàn chỉnh hệ thống pháp lý chung về kinh tế tạo lập môi trường kinh doanh hoàn thiện, sớm ban hành các Luật về Ngân hàng, Hải quan, Luật cạnh tranh và chống độc quyền... - Nghiên cứu xoá bỏ dần sự phân biệt về chính sách đầu tư có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, tiến tới thực hiện chính sách thống nhất giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Trước mắt rà soát lại tất cả các loại dịch vụ, lệ phí để có sự điều chỉnh hợp lý để thu hẹp khoảng cách giữa giá trong nước và giá ngoài nước, giữa giá đối với nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. 3.2.3.2. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung luật pháp, chính sách thủ tục tạo thuận lợi cho hoạt động ĐTNN - Nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật cho phép tư nhân đầu tư. Trước mắt thí điểm cho phép các nhà đầu tư trong nước sau khi được giao đất có quyền góp vốn. - Nghiên cứu trình Quốc hội xem xét, điều chỉnh các quy định về thuế như: Thuế thu nhập cao, thuế chuyển lợi tức về nước, xây dựng chính sách thuế khuyến khích nội địa hoá và đẩy mạnh sản xuất ở Việt Nam. - Rà soát và hệ thống hoá toàn bộ các văn bản pháp luật liên quan đến ĐTNN làm cơ sở mạnh và tuyên truyền luật pháp, chính sách sâu rộng cho các doanh nghiệp ở các địa bàn vận động đầu tư, đồng thời phát hiện những mâu thuẫn chồng chéo để điều chỉnh kịp thời, bãi bỏ những quy định không cần thiết đẻ ra các thủ tục phiền hà cản trở các hoạt động đầu tư. 3.2.4. Cải cách thủ tục hành chính Việc thay đổi liên tục mô hình tổ chức quản lý như trên là những tìm tòi ra mô hình tối ưu và phù hợp nhất với hệ thống quản lý hiện nay trong tiến trình thực hiện cải cách hành chính. Tuy nhiên hầu như mọi thứ liên quan đến vấn đề triển khai hoạt động của dự án đều được phó mặc theo kiểu khoán trắng, gắn với trách nhiệm của cơ quan quản lý về đầu tư làm cho cơ quan này vừa quá tải bởi gánh nặng trách nhiệm nhưng hiệu quả xỷ lý lại thấp, không nắm vững và theo sát được diễn biến triển khai của dự án, trong khi các cơ quan chức năng khác lại không thực hiện đúng nhiệm vụ của mình, hoặc là bàng quang đứng ngoài cuộc. Về vấn đề này, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nhấn mạnh: “Xây dựng quy chế và xác định rõ trách nhiệm của cơ quan hành chính các cấp trong việc kiểm tra thực hiện các dự án đã được cấp phép, giải quyết các trở ngại đối với việc thực hiện dự án, kiểm soát các doanh nghiệp đã đi vào hoạt động”. Đứng trước tình hình trên, ta thấy, trong những năm tới để mô hình tổ chức quản lý đầu tư trực tiếp phù hợp với tiến trình cải cách hành chính cần phải thực hiện theo các hướng: - ở Trung ương, ổn định bộ máy tổ chức của cơ quan được giao nhiệm vụ làm đầu mối giúp Chính phủ thực hiện quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài. Cơ quan này cần tập trung vào hoạch định chính sách thu hút vốn phù hợp với tình hình thực tiễn từng giai đoạn, kiến nghị các ưu đãi dành cho nhà đầu tư, phân tích đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp để kịp thời có những điều chỉnh, bổ sung các quy định hiện hành hoặc ban hành các quy định mới để hướng hoạt động đầu tư đúng mục tiêu đã định. Cơ quan này có một chức năng rất quan trọng là giám sát, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Đặc biệt quan tâm đến phương thức tổ chức thực hiện hoạt động quản lý. Trong điều kiện cụ thể hiện nay, khi số lượng dự án ngày càng gia tăng, số vốn thu hút càng lớn. Theo logic quản lý Nhà nước hiện nay, doanh nghiệp có vốn đầu tư tương tự như các doanh nghiệp Nhà nước, đồng thời phải chịu sự quản lý của nhiều cơ quan theo ngành kinh tế kỹ thuật và theo địa bàn. Kinh nghiệm chỉ cho chúng ta là thời gian đã có lúc quan niệm rất đơn giảm về vấn đề này. Về ý tưởng, về chủ trương, tập trung mọi vấn đề liên quan đến đầu tư trực tiếp thông qua duy nhất một cơ quan giải quyết. Không buộc các nhà đầu tư phải suy nghĩ với quá nhiều đầu mối trong một quy trình cực kỳ phức tạp là điều lý tưởng nhưng chỉ có thể được thực hiện với một cơ quan tập trung nhiều quyền lực và được sự ủng hộ tạo điều kiện của các cơ quan khác. ở Việt Nam, việc đó không thể làm được trong tình hình chúng ta còn duy trì bộ máy quản lý Nhà nước chia nhỏ theo nhiều lĩnh vực như hiện nay. Nhưng chúng ta có thể làm được thực hiện những cơ chế này ở riêng từng khâu của dự án, điều mà chúng ta đã làm, hiện đang làm cần triệt để hơn. - Để hỗ trợ đắc lực cho cơ quan Trung ương làm đầu mối giúp Chính phủ thực hiện được quản lý Nhà nước, cần gấp rút hoàn thành và củng cố hệ thống các cơ quan đầu mối, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ở các địa phưong thực hiện chức năng quản lý đầu tư nước ngoài trên địa bàn lãnh thổ. Các cơ quan này cần được chỉ đạo theo cơ chế song trùng, chiều ngang trực thuộc quản lý trực tiếp của UBND cấp tỉnh, chịu trách nhiệm trước UBND về mọi hoạt động liên quan đến đầu tư diễn ra trên địa bàn, đồng thời chiều dọc chịu sự hướng dẫn về nghiệp vụ của cơ quan quản lý Nhà nước ở TW, có trách nhiệm duy trì chế độ báo cáo hoạt động với cơ quan này. Về lâu dài cần nghiên cứu để thành lập hệ thống cơ quan một số địa bàn quan trọng. Các cơ quan này chịu sự chỉ đạo song trùng, chỉ có điều mối quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước thuộc chi nhánh trực thuộc cơ quan quản lý Nhà nước nằm ở TW. Thực hiện được việc này tức là đảm bảo được nguyên tắc vừa tập trung vừa dân chủ. Các nước Inđonesia, Thái Lan ... đã áp dụng mô hình này một cách thành công trong nhiều năm qua và hiện nay vẫn duy trì. 3.2.5. Nâng cao hiệu quả quản lý và năng lực điều hành hoạt động ĐTNN 3.2.5.1. Đổi mới công tác vận động xúc tiến đầu tư Đẩy mạnh vận động đầu tư một cách chủ động theo các chương trình, dự án trọng điểm, hướng mạnh vào các đối tác Châu Âu, Bắc Âu, Bắc Mỹ, Nga, chú trọng vào các tập đoàn có tiềm lực về vốn và công nghệ. Phối hợp chặt chẽ giữa Bộ Ngoại giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương Mại để thương xuyên trao đổi thông tin, tiến hành các hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại từ bên ngoài vào thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại ở nước ngoài để nâng cao hiệu quả và đảm bảo tiết kiệm. Tranh thủ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau với các tổ chức xúc tiến đầu tư quốc tế, trước hết là hợp tác trong khuôn khổ của ASEAN, APEC, hợp tác ASEAN - Âu, hợp tác cơ quan xúc tiến đầu tư của Nhật, Mỹ, các nước EU và các tổ chức quốc tế khác. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc thành lập Hiệp hội hoặc câu lạc bộ các doanh nghiệp có vốn FDI tại Việt Nam, tăng cường phối hợp với các cơ quan xúc tiến đầu tư thương mại ở Việt Nam để giới thiệu luật pháp, chính sách, quảng cáo các chương trình, dự án đầu tư. Tổ chức định kỳ các cuộc gặp gỡ cộng đồng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam để tìm hiểu tình hình, tháo gỡ khó khăn và hỗ trợ cho các doanh nghiệp FDI đang đầu tư tại Việt Nam. 3.2.5.2. Nâng cao chất lượng quy hoạch, kế hoạch liên quan quan đến ĐTNN Xây dựng qui hoạch ngành và các sản phẩm chủ yếu để xác định rõ phạm vi về hoạt động của FDI và của cơ sở đầu tư trong nước làm cơ sở cho việc định kỳ công bố các danh mục dự án kêu gọi đầu tư đăặc biệt là các ngành như điện, điện tử, xi măng, sắt thép, rượu bia, nước giải khát, sữa, chất tẩy rửa .... Nghiên cứu đánh giá để có quy hoạch phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc khu kinh tế mang tính khả thi, phù hợp với qui hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương và vùng lãnh thổ và quy hoạch phát triển ngành kinh tế kỹ thuật. Trước mắt tập trung vào các giải pháp xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật - xã hội và thu hút đầu tư để lấp đầy các khu công nghiệp đã phê duyệt. 3.2.5.3. Xử lý kịp thời những vướng mắc của các nhà đầu tư để thúc đẩy nhanh quá trình xem xét cấp giấy phép đầu tư và quá trình triển khai các dự án. Nghiên cứu xác lập các chủ trương rõ ràng về các vấn đề có tính nguyên tắc làm cơ sở cho việc xử lý đúng đắn các trường hợp cụ thể như các vấn đề : bảo hộ sản xuất trong nước, các lĩnh vực trong nước tự làm, về tư nhân hợp tác với nước ngoài, về nợ của các khu vực FDI, về sử dụng các thiết bị máy móc đã qua sử dụng, về hình thức 100% vốn nước ngoài và tỷ lệ góp vốn của Việt Nam trong các liên doanh. Việc bảo hộ trong nước phải được đặt trong bối cảnh Việt Nam tham gia vào ASEAN, AFTA và chuẩn bị tham gia vào WTO nghĩa là sẽ phải chấp nhận cạnh tranh ác liệt do xu thế tự do hóa đầu tư và thương mại mang đến. Do đó, bảo hộ sản xuất không chỉ bảo hộ riêng cho doanh nghiệp VN mà cả doanh nghiệp FDI trên lãnh thổ Việt Nam và nó là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế Việt Nam, là pháp nhân Việt Nam, không chỉ bảo hộ cho người sản xuất mà phải bảo vệ cả quyền lợi cho người tiêu dùng đước quyền sử dụng các sản phẩm có chất lượng cao, giá cả hợp lý. Bảo hộ sản xuất phải có điều kiện và có thời gian để doanh nghiệp có điều kiện đổi mới công nghệ thiết bị nhằm tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, giá rẻ hơn giá nhập khẩu, không bảo hộ những cung cách làm ăn không hiệu quả, lạc hậu, cản bước tiến của công nghiệp hóa hiện đại hóa. Rà soát lại tất cả các danh mục, các dự án đang chuẩn bị đầu tư để xử lý các vướng mắc, thúc đẩy dự án sớm hoàn thiện hồ sơ cấp giấy phép như các dự án xây dựng nhà máy điện Quảng ninh, Phú Mỹ 2-2, nhà máy điện Sóc Trăng ..., sản xuất Methanol, nhựa đường, xi măng, các hợp đồng viễn thông, các nhà máy cấp nước ở Hà Nội, TP HCM, các dự án của Daewoo, Mitsui ... Phần lớn các dự án này vướng mắc về giá cả của các yếu tố đầu vào và đầu ra của dự án, liên quan đến những doanh nghiệp của VN. Nguyên tắc xử lý chung phải đứng trên lợi ích tổng thể của quốc gia, hiệu quả đích thực của dự án để điều hòa lợi ích giữa các đối tác tham gia dự án. Đặt trọng tâm của công tác quản lý FDI vào tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc của các dự án đang triển khai ở VN. Nghiên cứu đề xuất các biện pháp miễn giảm thuế và các hỗ trợ khác để các doanh nghiệp FDI vượt qua tình trạng khó khăn, chấp nhận các donh nghiệp giãn tiến độ, nợ thuế. Xử lý sớm các dự án đang gặp khó khăn trong quá trình thực hiện như công ty liên doanh Coca - Cola, công ty nước giải khát quốc tế IBC, cảng quốc tế Vũng Tàu, công ty xi măng Hà Phòng... Rà soát củng cố lại các công cụ tài chính kế toán để tăng cường hoạt động giám sát tài chính doanh nghiệp FDI nhằm khắc phục các cơ sở gây thiệt hại đến lợi ích ở VN. 3.2.5.4. Tăng cường quản lý Nhà nước với hoạt động ĐTNN Nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý Nhà nước đối với hoạt động FDI trên cơ sở tổ chức hợp lý hóa từ TW đến địa phương, mạnh dạn phân cấp, ủy quyền cho các địa phương trong việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI trên điạ bàn để đơn giản hóa thủ tục, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh. Rà soát và cải tiến mạnh mẽ hơn nữa tất cả các thủ tục liên quan đến ĐTNN theo hướng tinh giảm đầu mối, công khai quy định thời hạn và người có trách nhiệm xử lý. 3.2.6. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Sự nghiệp ĐTNN là sự nghiệp mới mẻ của toàn Đảng, toàn dân. Hầu hết các cán bộ đang tham gia hoạt động ĐTTT dù tại các cơ quan quản lý hay trực tiếp trong các doanh nghiệp có vốn FDI của nước ngoài đều còn rất bỡ ngỡ với các công tác này. Để góp phần làm cho hoạt động đầu tư của cả nước đạt được một số kết quả đáng khích lệ như ngày hôm nay, đội ngũ này đã lấy nhiệt tình với bản lĩnh công tác đã được hun đúc và tạo lập trong quá trình trước đây, vừa làm vừa học, để bù đắp cho những kiến thức đầu tư. Quá trình tự đào tạo một số đã vươn lên đáp ứng đước yêu cầu của công ty mới. Tuy nhiên so dự gia tăng về quy mô về tính phức tạp của hoạt động đầu tu, do yêu cầu phải quản lý hữu hiệu vốn ĐTTT ở cấp vĩ mô, đội ngũ này phải được đào tạo lại, trang bị thêm những kiến thức về kinh tế, chính trị để bắt kịp với yêu cầu của thời đại, vừa tinh thông về chuyên môn, vừa vững vàng về phẩm chất. Bên cạnh đó phải tính đến việc đào tạo một cách có bài bản, đào tạo chính quy cho lực lượng kế tục. Do đó, trong những năm tới cần khẩn trương tiến hành những giải pháp sau : - Tổ chức bồi dưỡng nâng cao trình độ về luật pháp, chính sách, chuyên môn đối với cán bộ làm hợp tác đầu tư với nước ngoài. - Thí điểm hình thức thi tuyển hoặc có cơ chế bổ nhiệm các chức vụ quan trọng trongliên doanh. Rà soát để sàng lọc để nâng cao chất lượng cán bộ. - Phối hợp với Bộ Lao động thương binh và xã hội và các doanh nghiệp nước ngoài tổ chức tốt việc nâng cao tay nghề cho người lao động. Chương III Giải pháp về vấn đề đầu tư nước ngoài của Việt nam trong giai đoạn hiện nay : Đại hội IX của Đảng đã xác định rõ định hướng phát triển kinh tế đối ngoại tháng 5 năm 2001 – 2005 “ Mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại … Tạo điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn, công nghệ từ bên ngoài, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, thực hiện cam kết song phương và đa phương ”. Để thực hiện định hướng đó và các chỉ tiêu được đặt ra về kinh tế đối ngoại, cần thực hiện được một số giải pháp cả ở tầng vĩ mô và vi mô, từ chính sách xuất nhập khẩu, chính sách đầu tư của Nhà nước đến chiến lược phát triển của từng doanh nghiệp. 3.2. Những giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài : 3.2.1. Kiến nghị, giải pháp trước mắt : - Đẩy nhanh, mạnh mẽ cải cách hành chính ( thể chế, bộ máy, cán bộ. tài chính công ) sao cho đơn giản, gọn nhẹ, thông thoáng theo công luật quốc tế. Triệt để và kiên quyết trong việc quy định rõ ràng, minh bạch các thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công kha các quy trình, thời hạn, trách nhiệm xử lí các thủ tục hành chính như việc tuyển dụng lao động, thủ tục hải quan, xuất nhập cảnh theo thông lệ quốc tế. Quy định rút ngắn thời hạn cụ thể cho từng khâu : cấp giấy phép đầu tư, ký hợp đồng thuê đất, cấp giấy phép xây dựng, xuất nhập khẩu … Tiến tới xây dựng cơ chế “ một cửa một dấu ” do trung tâm hoặc họi đòng tư vấn đầu tư nước ngoài gồm đại diện các Bộ, ngành chủ chốt liên quan tập trung giải quyết tại một đầu mối tất cả các thủ tục về đầu tư nước ngoài như các nước trong khu vực đang thực hiện. - Chấn chỉnh mạnh mẽ việc thực thi pháp luật không sai biệt với quy định của pháp luật, đặc biệt là các chính sách đầu tư mới được sửa đổi, bổ sung. Tạo mọi thuận lợi và thường xuyên quan tâm giải quyết các khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vấn đề then chốt có tính quyết định là chỉ đạo điều hành tập trung thống nhất và kiên quyết của chính phủ, việc nghiêm túc thực hiện các Bộ, Ngành, địa phương. Do vậy, cần xây dựng quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ tổng hợp, bộ quản lý chuyên ngành, UBND các tỉnh, quận, huyện. Quy định cụ thể chế độ kiểm tra của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với đầu tư nước ngoài ( cấp trên đối với cấp dưới, ngành với ngành, giữa cơ quan quản lý Nhà nước với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ). Tiêu chuẩn hoá cán bộ, quy định cụ thể trách nhiệm của người viên chức, thanh lọc các cán bộ biến chất, kịp thời phát hiện và l\kiên quyết xử lý các án bộ công chức Nhà nước ở bất kỳ cương vị công tác nào có thái độ và hành động sách nhiễu, gây khó khăn cản trở đối với các nhà đầu tư nước ngoài dưới bất cứ mức độ và hình thức nào ( như nghị quyết TƯ VIII đã đề ra ). Phụ cấp khen thưởng cho những người có nhiều thành tích trong công tác đầu tư nước ngoài. Biểu dương các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn có hiệu quả và có nhiều đóng góp cho Việt Nam, từ đó lấy lại lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài. 3.2.2. Kiến nghị, giải pháp lâu dài : _ Sửa đổi một số chính sách để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc thu hút đầu tư nước ngoài như : tài chính ngân hàng, đất đai, lao động, thuế, xuất nhập khẩu … Ví dụ: + Đất đai : soát xét lại giá cho thuê đất trong một vài năm đầu ở các vùng kinh tế trọng điểm. Có chính sách đặc biệt ưu đãi vào các khu công nghiệp như : giảm giá thuê đất, giá kinh doanh hạ tầng, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các doanh nghiệp được thuận lợi, nhanh chóng. Giải quyết dứt vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng đang gây ách tắc đối với việc triển khai dự án. Chính sách đền bù ổn định, nhất quán và kiên quyết. Cần sớm chấm dứt việc các doanh nghiệp Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, chuyển sang chế độ Nhà nước cho thuê đất. + Tài chính, ngân hàng : tiếp tục giảm dần tỉ lệ kết hối ngoại tệ để tiến tới xoá bỏ việc kết hối bắt buộc khi có điều kiện ; từng bước thực hiện mục tiêu tự do hoá chuyển đổi ngoại tệ đối với giao dịch vãng lai. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường vốn, được vay tín dụng ( cả trung hạn và dài hạn ) tại các tổ chức tín dụng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam tuỳ thuộc vào hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ của dự án và có thể đảm bảo bằng tài sản của công ty mẹ ở nước ngoài ; được phép thí điểm phát hành cổ phiếu, trái phiếu ở thị trường trong nước và nước ngoài để thu hút vốn đầu tư. Phát triển mạnh thị trường vốn để các doanh nghiệp Việt Nam có thể góp vốn đầu tư bằng các nguồn huy động dài hạn ( trái phiếu, cổ phiếu ). Tiến tới việc thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Xây dựng quy chế quản lý hoạt động tài chính của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài ; ban hành chuẩn mực kế toán, kiểm toán phù hợp với thống kê quốc tế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp ; đồng thời đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đối với các hoạt động tài chính của doanh nghiệp. _ Tiếp tục thực hiện lộ trình giảm chi phí đầu tư : Quyết định 53/1999/ QĐ-TTG của thủ tướng chính phủ là bước đi đầu tiên thực hiện lộ trình tiến tới tạo dựng một mặt bằng tiến tới áp dụng mặt bằng giá thống nhất cho các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trước hết cần tiếp tục giảm giá điện, cước viễn thông, cước vận tải biển … Còn một số giá, phí khác như giá vé máy bay nội địa … có thể thực hiện theo lộ trình dài hơn căn cứ vào tình hình kinh tế chung và tình hình kinh doanh cụ thể của các doanh nghiệp liên quan. _ Bổ sung các chính sách ưu đãi có tính hấp dẫn cao đối với các lĩnh vực, địa bàn và dự án mà Việt Nam cần thu hút đầu tư nước ngoài như : công nghệ cao, xuất khẩu lớn, đầu tư và nông thôn, nông lâm thuỷ sản và các địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn, các dự án phát triển hạ tầng xã hội đồng bộ với KCN, KCX. _ Xử lý linh hoạt các hình thức đầu tư, đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài, phát triển các KCN, KCX : mở rộng danh mục dự án để lựa chọn hình thức đầu tư, chuyển đổi hình thức đầu tư. Cho chuyển nhượng, chuyển đổi mục tiêu đầu tư của các dự án không hiệu quả một cách thuận lợi, mở rộng áp dụng hình thức BOT. _ Đổi mới và đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư : Chuẩn bị tốt các điều kiện thực hiện hiệp định thương mại Việt – Mỹ khi được quốc hội hai nước thông qua. Thực hiện chủ trương đa phương hoá các đối tác đầu tư nước ngoài để tạo thế chủ động trong mọi tình huống, nhằm tranh thủ tiềm lực vốn, công nghệ kỹ thuật hiện đại, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Các ngành, địa phương chủ chủ động tiến hành vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài với từng dự án, tập đoàn, nhà đầu tư có tiềm năng trên cơ sở quy hoạch và danh mục đã được phê duyệt. Nhanh chóng triển khai và thực hiện Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao và Bộ Thương mại tổ chức phối hợp nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường đầu tư, chính sách của các nước, tập đoàn đa quốc gia, nghiên cứu pháp luật, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của các nước trong khu vực để kịp thời có đối sách thích hợp. Cần tập trung chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời các nàh đầu tư hiện đang có dự án hoạt động, giúp họ giải quyết tốt các vấn đề phát sinh, đó là biện pháp có ý nghĩa quan trọng để vận động có hiệu quả và có sức thuyết phục nhất đối với các nhà đầu tư mới. Việt Nam cũng cần phải đẩy mạnh tuyên truyền hình ảnh của mình ra nước ngoài. Phỉa tăng cường xây dựng mạng lưới xúc tiến trong nước và nước ngoài. Ví dụ : Hội thảo “ Hướng tới thành công ” do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam tổ chức tại Singapore trong tháng 3 vừa qua ( có thể coi là hoạt động xúc tiến đầu tư lớn nhất từ trước đến nay của Việt Nam ở nước ngoài ). Qua những cuộc hội thảo như thế này, Việt Nam sẽ đưa ra được danh mục gồm nhiều dự án đầu tư nước ngoài, từ đó giúp các nhà đầu tư nước ngoài tìm hiểu cơ hội đầu tư vào Việt Nam, tạo điều kiện thu hút được thêm các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, việc xúc tiến đầu tư ra nước ngoài cũng cần phải dựa vào những tổ chức độc lập nước ngoài chuyên làm công tác xúc tiến đầu tư thì kết quả thu được sẽ càng cao. _ Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động đầu tư nước ngoài :Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện khung khổ pháp luật hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định một hệ thống ưu đãi và khuyến khích mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực. Triển khai nghiên cứu để tiến tới xây dựng một Bộ luật đầu tư chung cho cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Hoàn chỉnh hệ thống pháp lí chung về kinh tế để tạo lập môi trường kinh doanh ổn định, bình đẳng, sớm ban hành các Bộ luật về kinh doanh bất động sản, Luật cạnh tranh và chống độc quyền … Sửa đổi thuế thu nhập cá nhân với người lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chú trọng công tác đào tạo, nâng cao chất lượng, trình độ cán bộ quản lí và chuyên môn chủ chốt. Xây dựng chính sách khuyến khích sản xuất phụ tùng, linh kiện, nâng cao tỉ lệ nội địa hoá ; hoàn chỉnh hệ hống pháp luật chính sách về thuế nhập khẩu, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt, tiếp tục hoàn thiện cơ chế tín dụng đối với doanh nghiệp FDI … Đảm bảo sự định của pháp luật và chính sách đối với đầu tư nước ngoài, thực hiện triệt để nguyên tắc không hồi tố để giữ vững lòng tin của hội đồng nhà đầu tư nước ngoài Chủ động xử lí các vấn đề về pháp lí liên quan đến việc thực hiện các cam kết của ta trong lộ trình hội nhập kinh tế. Tiếp tục thực hiện chủ trương mở rộng phạm vi phân cấp quản lí về đầu tư nước ngoài ( bao gồm cấp giấy phép đầu tư và các phần việc liên quan đến triển khai dự án ) cho các UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trên cơ sở làm tố công tác quy hoạch, cung cấp thông tin và kiểm tra việc thực hiện chủ trương này. Tóm lại, trong bối cảnh đầu tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục giảm sút, nhất là trong tình hình cạnh tranh thu hút vốn FDI quốc tế và khu vực diễn ra gay gắt, nếu chúng ta không đẩy mạnh cải cách đầu tư toàn diện và mạnh mẽ với sự nhất trí và quyết tâm chính trị cao thì khó có thể xoay chuyển được tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Vì vậy, sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước ngoài chỉ là bước đầu, tiếp theo chúng ta phải thực hiện được môi trường đầu tư tại Việt Nam, tạo ra sức hấp dẫn mới đủ sức cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài không ngừng đầu tư vào thị trường Việt Nam. Kết luận Trong 10 năm qua, đầu tư nước ngoài đã đạt được thành tựu rất đáng khích lệ, đóng góp có ý nghĩa vào thành tựu chung của nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh các thành tựu đạt được do nỗ lực từ hai phía Chính phủ và các doanh nghiệp, còn nhiều vấn đề, nhiều khó khăn phải giải quyết, không phải chỉ ở phía Chính phủ, mà đòi hỏi các doanh nghiệp nước ngoài cũng phải thể hiện thiện chí để thực hiện cam kết khi vào đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam. Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng Tài chính - Tiền tệ trong khu vực hiện nay, Chính phủ Việt Nam hiểu rõ phải tiếp tục hoàn thiện môi trường đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh của thị trường đầu tư ở Việt Nam. Với thiện chí, quyết tâm của mình, Chính phủ Việt Nam sẽ làm tất cả những gì làm được để đảm bảo sự phát triển của đất nước. Trong đó có sự phát triển, thành đạt của các công ty nước ngoài đã đến đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam. Việt Nam có câu tục ngữ "đất lành chim đậu", chúng ta mong rằng các nhà ĐTNN sẽ cùng chúng ta vun xới cho mảnh đất Việt Nam thêm tốt lành, là nơi đậu an toàn cho các đàn chim từ khắp bốn biển 5 châu. Và chính vì vậy chúng ta ngày càng phải hoàn thiện hơn hoạt động quản lý Nhà nước đối với ĐTNN để tăng thêm sức hấp dẫn với các nhà ĐTNN. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Đầu tư nước ngoài - Đại học Ngoại thương - Hà Nội 2. Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật ĐTNN -Vụ PL ĐTNN 3. Báo cáo "Tình hình và phương hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam" - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 4. Một số ý kiến về tình hình Đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư 5. Tập hợp các tài liệu liên quan đến buổi gặp của Thủ tướng Chính phủ với đại diện của một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày 4/2/1998 - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 6. Nghị định 12/CP, Nghị định 10/CP - Bộ Kế hoạch và Đầu tư 7. Luật Đầu tư nước ngoài

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc69280.DOC