Tài liệu Đề tài Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh không có Gammaglobuline máu liên kết nhiễm sắc thể giới tính X – Nguyễn Thị Vân Anh: TCNCYH 117 (1) - 2019 93
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG
BỆNH KHÔNG CÓ GAMMAGLOBULINE MÁU LIÊN KẾT
NHIỄM SẮC THỂ GIỚI TÍNH X
Nguyễn Thị Vân Anh1, Lê Thị Minh Hương1, Lê Thanh Hải1,
Vũ Văn Quang2, Nguyễn Thanh Bình1,3, Ngô Diễm Ngọc1,
Nguyễn Phương Mai1, Thục Thanh Huyền1, Nguyễn Ngọc Quỳnh Lê1
1Bệnh viện Nhi Trung ương; 2Trường Đại học Y Dược Hải Phòng; 3Trường Đại học Y Hà Nội
Suy giảm miễn dịch bẩm sinh thể không có Gammaglobulin máu liên kết giới tính X (XLA) là bệnh bẩm
sinh di truyền do đột biến nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X, gây nhiễm khuẩn nặng, tái diễn thậm chí tử
vong. Bệnh có thể chữa được nếu được chẩn đoán sớm và điều trị bằng truyền Gammaglobulin máu định kì
thích hợp. Nghiên cứu mô tả 20 bệnh nhân từ 19 gia đình được chẩn đoán bệnh XLA tại bệnh viện Nhi
Trung Ương, giải trình tự gene bằng phương pháp Sanger sequencing in Seattle Children’s Hospital. Tuổi
trung bình là 7,7 tuổi (từ 2 - 16,5 tuổi), khởi phát nhiễm t...
8 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 10/07/2023 | Lượt xem: 312 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng bệnh không có Gammaglobuline máu liên kết nhiễm sắc thể giới tính X – Nguyễn Thị Vân Anh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TCNCYH 117 (1) - 2019 93
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG
BỆNH KHÔNG CÓ GAMMAGLOBULINE MÁU LIÊN KẾT
NHIỄM SẮC THỂ GIỚI TÍNH X
Nguyễn Thị Vân Anh1, Lê Thị Minh Hương1, Lê Thanh Hải1,
Vũ Văn Quang2, Nguyễn Thanh Bình1,3, Ngô Diễm Ngọc1,
Nguyễn Phương Mai1, Thục Thanh Huyền1, Nguyễn Ngọc Quỳnh Lê1
1Bệnh viện Nhi Trung ương; 2Trường Đại học Y Dược Hải Phòng; 3Trường Đại học Y Hà Nội
Suy giảm miễn dịch bẩm sinh thể không có Gammaglobulin máu liên kết giới tính X (XLA) là bệnh bẩm
sinh di truyền do đột biến nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X, gây nhiễm khuẩn nặng, tái diễn thậm chí tử
vong. Bệnh có thể chữa được nếu được chẩn đoán sớm và điều trị bằng truyền Gammaglobulin máu định kì
thích hợp. Nghiên cứu mô tả 20 bệnh nhân từ 19 gia đình được chẩn đoán bệnh XLA tại bệnh viện Nhi
Trung Ương, giải trình tự gene bằng phương pháp Sanger sequencing in Seattle Children’s Hospital. Tuổi
trung bình là 7,7 tuổi (từ 2 - 16,5 tuổi), khởi phát nhiễm trùng trung bình lúc 9,1 tháng; 60% bệnh nhân được
chẩn đoán trước 5 tuổi. Các bệnh nhiễm trùng thường gặp trước khi trẻ được chẩn đoán là: nhiễm khuẩn
đường hô hấp (95%, trong đó có 70% viêm phổi, 75% viêm tai giữa), 55% bệnh nhân đã từng nhiễm khuẩn
nặng (nhiễm khuẩn huyết, viêm màng não, viêm não). 55% bệnh nhân có tiền sử gia đình mắc bệnh. Nồng
độ IgG trung bình trước chẩn đoán là 0,58 g/L, số lượng tế bào lympho B trung bình là 15,45 tế bào/mm3.
Đột biến gen BTK được tìm thấy ở 17/20 bệnh nhân. Triệu chứng nhiễm khuẩn hô hấp tái diễn, nhiễm khuẩn
nặng và tiền sử gia đình có người mắc bệnh XLA hoặc tử vong sớm do nhiễm khuẩn nặng là dấu hiệu quan
trọng để nghĩ tới bệnh XLA.
Từ khoá: suy giảm miễn dịch bẩm sinh, thiếu hụt miễn dịch dịch thể, bệnh XLA, Bệnh Bruton
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Thị Vân Anh, Bệnh viện Nhi
Trung ương
Email: bacsivananh@yahoo.com
Ngày nhận: 18/10/2018
Ngày được chấp thuận: 20/11/2018
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Không có gammaglobulin di truyền liên kết
giới tính X (X-linked Agammaglobulinemia -
XLA) là bệnh di truyền do đột biến gene Btk
nằm trên nhiễm sắc thể giới tính X ở vị trí Xq
21.3 - q 22 [1; 2]. Đột biến này gây nên giảm
hoặc mất chức năng của protein Btk khiến cho
tế bào lympho B không thể biệt hóa hoặc
trưởng thành được, dẫn đến cơ thể bị thiếu
hụt hoặc không có kháng thể [3]. Do đó, người
bệnh thường xuyên bị nhiễm khuẩn sớm,
nặng và tái diễn thường xuyên. Đa số các
bệnh nhân không được chẩn đoán hoặc chẩn
đoán muộn, dẫn tới nhiều biến chứng và di
chứng nặng nề [4].
Tỷ lệ mắc bệnh XLA thay đổi ở nhiều quần
thể nghiên cứu khác nhau. Tại Hoa Kỳ, tỷ lệ
này là 11,25 trên 100.000 dân [5]. Chẩn đoán
bệnh dựa trên các dấu hiệu lâm sàng nhiễm
khuẩn tái diễn, nồng độ kháng thể giảm nặng
trong máu ngoại vi và số lượng tế bào lympho
B giảm dưới 2%. Chẩn đoán xác định được
thiết lập khi có kết quả đột biến gene BTK [6].
Trên thế giới, bệnh nhân XLA đã được
chẩn đoán và nghiên cứu từ những năm 50
của thế kỉ XX. Đa số các bệnh nhân XLA
được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và có
cuộc sống tương đối khỏe mạnh. Tại Việt
Nam, có rất ít các báo cáo về bệnh XLA. Năm
2010, trẻ bị bệnh XLA đầu tiên được chẩn
đoán sơ bộ bằng xét nghiệm định lượng
94 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
kháng thể và xác định dấu ấn màng tế bào.
Điều này cho thấy thực tế là nhiều bệnh nhân
XLA không được chẩn đoán, chuẩn đoán
muộn hoặc nhầm. Vì vậy chúng tôi tiến hành
đề tài này với mục tiêu:
1. Mô tả đặc điểm lâm sàng của trẻ mắc
bệnh không có gammaglobulin máu liên kết
giới tính X (XLA) tại Bệnh viện Nhi Trung
ương.
2. Phân tích xét nghiệm miễn dịch và phân
tích đột biến gen Bruton Tyrosine Kinase ở
các đối tượng nghiên cứu trên.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
1.1. Tiêu chuẩn chọn bệnh nhân
Chúng tôi áp dụng tiêu chuẩn chẩn đoán
bệnh không có gammaglobulin di truyền liên
kết giới tính X (XLA) theo tiêu chuẩn của
European Society for Immunodeficiencies năm
1999 [6].
- Tiêu chuẩn chẩn đoán xác định: bệnh
nhân nam có số lượng tế bào lympho B
CD19+ ≤ 2% và ít nhất một tiêu chuẩn sau:
+ Tìm thấy đột biến trên gen Btk (Bruton
tyrosine kinase).
+ Anh, em trai cùng mẹ của bệnh nhân,
cậu và bác trai bên mẹ, hoặc cháu trai bên mẹ
có số lượng tế bào lympho B CD19+ ≤ 2%.
+ Không có Btk mRNA trong mẫu phân tích
mARN của bạch cầu hạt trung tính và bạch
cầu đơn nhân theo phương pháp Northern
blot analysis.
+ Không có protein Btk trong tế bào bạch
cầu mono hoặc tiểu cầu.
- Tiêu chuẩn chẩn đoán gần chắc chắn
(possible): Bệnh nhân nam có số lượng tế bào
lympho B CD19+ ≤ 2% và ít nhất một tiêu
chuẩn sau:
+ Xuất hiện các đợt nhiễm vi khuẩn tái diễn
trong năm năm đầu đời.
+ Nồng độ IgG, IgM và IgA ≤ - 2 độ lệch
chuẩn với nồng độ ở trẻ bình thường cùng
lứa tuổi.
+ Không có kháng thể kháng hồng cầu Anti
-A và Anti-B trong máu và/hoặc đáp ứng kém
với vaccine.
1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: một trong các
tiêu chuẩn sau
- Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch thứ
phát do HIV, thuốc hoặc hóa chất.
- Bệnh nhân hoặc người nhà không chấp
thuận tham gia nghiên cứu.
1.3. Địa điểm và thời gian nghiên cứu:
nghiên cứu thực hiện tại Bệnh viện Nhi Trung
ương từ tháng 6/2015 đến tháng 6/2017.
2. Phương pháp
2.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả.
2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu: lựa chọn tất cả
các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn chẩn đoán;
chúng tôi có được 20 bệnh nhân trong thời
gian nghiên cứu.
2.3. Phương pháp và kỹ thuật thu thập
số liệu
- Mỗi bệnh nhân có 1 bệnh án thống nhất
để thu thập thông tin.
- Tiền sử bản thân: khai thác tuổi khởi phát
nhiễm khuẩn, cơ quan nhiễm khuẩn, tần suất
và vị trí nhiễm khuẩn, tại tất cả các cơ quan,
mức độ nặng, di chứng, ảnh hưởng tới phát
triển thể chất. Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm
khuẩn như: viêm phổi, viêm khớp, viêm tai
giữa, viêm não màng não, nhiễm khuẩn ngoài
da, áp xe cơ, nhiễm khuẩn huyết, viêm não
màng não, dựa vào chẩn đoán của các bác sỹ
tại nơi bệnh nhân được thăm khám. Chỉ có
biểu hiện nhiễm khuẩn trên (viêm muĩ họng,
viêm thanh quản) là chủ quan của bệnh nhân.
TCNCYH 117 (1) - 2019 95
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
- Tiền sử gia đình: bệnh nhân có anh trai
hoặc em trai hoặc có anh/em họ là nam giới -
con của em gái hoặc chị gái của mẹ; em trai
hoặc anh trai của mẹ được chẩn đoán bệnh
Không có Gammaglobulin máu liên kết nhiễm
sắc thể giới tính X hoặc nhiễm khuẩn nặng, tái
diễn và tử vong từ khi còn nhỏ do.
- Khám lâm sàng: phát hiện các biểu hiện,
cơ quan nhiễm khuẩn, các di chứng về thần
kinh, hô hấp. Khám dấu hiệu thực thể: thiểu
sản Amydal và hệ hạch bạch huyết ngoại vi.
- Cận lâm sàng:
• Nồng độ Immunoglobulin
Định lượng các Immunoglobulin: IgG, IgA,
IgM bằng kỹ thuật miễn dịch đo độ đục trên hệ
thống xét nghiệm hóa sinh tự động AU 2700.
Nồng độ IgG, IgA, IgM được tính tại thời
điểm bệnh nhân được chẩn đoán lần đầu (khi
chưa được điều trị truyền Gammaglobulin tĩnh
mạch).
• Phân tích lympho dưới nhóm: Số lượng
tuyệt đối cũng như tỷ lệ phân bố theo phần
trăm các tế bào lympho B (CD19+) và lympho
T (CD3+; CD4+; CD8+) ở máu ngoại vi được
phân tích bằng máy dòng chảy tế bào 3 màu
FACSCalibur và xử lý với phần mềm Cell
Quest software (BD Biosciences PharMingen).
Số lượng tế bào lympho B được tính tại
thời điểm bệnh nhân được chẩn đoán lần đầu
(khi chưa được điều trị truyền Gammaglobulin
tĩnh mạch).
• Phân tích gen: genomic DNA được tách
từ máu ngoại vi của bệnh nhân sau đó gửi
phân tích tại bệnh phẩm được thực hiện tại
bệnh viện trẻ em Seattle - Hoa Kỳ từ tháng 5
tới tháng 7 năm 2017.
3. Xử lý số liệu: Xử lý trên phần mềm
SPSS 20.0 để tính các tỉ lệ; ABI system
software để phân tích kết quả giải trình tự gen;
so sánh kết quả giải trình tự gen với ngân
hàng gen trực tuyến để tìm đột biến.
4. Đạo đức nghiên cứu
Bệnh nhân và người nhà tham gia nghiên
cứu một cách tự nguyện. Nghiên cứu được
tiến hành trung thực và chính xác. Nghiên cứu
sẽ được thông qua Hội đồng y đức của Bệnh
viện Nhi Trung ương tháng 1 năm 2016.
Bệnh nhân tham gia nghiên cứu được
chẩn đoán xác định bệnh, từ đó trẻ sẽ được
điều trị, chăm sóc, theo dõi và quản lý theo
phác đồ và chương trình điều trị của bệnh
viện. Những bệnh nhân không đủ tiêu chuẩn
nghiên cứu hoặc từ chối nghiên cứu vẫn được
khám, điều trị đầy đủ.
III. KẾT QUẢ
Chúng tôi có 20 bệnh nhân từ 19 gia đình khác nhau đã được chẩn đoán bệnh không có
gammaglobulin di truyền liên kết giới tính X.
Bảng 1. Triệu chứng nhiễm khuẩn lần đầu
Vị trí nhiễm khuẩn n %
Viêm phổi 9 45,0
Viêm tai giữa 6 30,0
Viêm đường hô hấp trên 2 10,0
Viêm não-màng não 1 5,0
Ỉa chảy nhiễm khuẩn 1 5,0
Áp xe da, cơ 1 5,0
Tổng: 20 100
96 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Trong số 20 bệnh nhân được chẩn đoán bệnh do nhiễm khuẩn, bệnh nhiễm trùng đầu tiên trẻ
thường mắc nhất là viêm phổi (45%), tiếp đó là viêm tai giữa (30%), tiếp đó là nhiễm khuẩn hô
hấp trên khác và ỉa chảy nhiễm khuẩn.
Bảng 2. Tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm khuẩn trước khi được chẩn đoán bệnh
Tình trạng nhiễm khuẩn n %
Viêm thanh quản, viêm đường hô hấp trên 19 95
Viêm tai giữa 15 75
Viêm phổi 14 70
Viêm khớp gối có mủ hoặc ko có mủ 8 40
Ỉa chảy 7 35
Viêm màng não hoặc viêm não màng não 6 30
Nhiễm khuẩn huyết 6 30
Nhiễm khuẩn da hoặc viêm mô tế bào 6 30
Nhiễm khuẩn da 5 25
Chậm lớn tại thời điểm đc chẩn đoán 5 25
Nhiễm khuẩn sau tiêm vaccine 2 10
Co giật do sốt cao 1 5
Mắc bệnh Tay – chân - miệng 1 5
Giãn phế quản 1 5
Bệnh phổi mạn 1 5
Tiền sử gia đình * 11 55
Viêm đường hô hấp (viêm đường hô hấp trên và viêm phổi) là triệu chứng thường gặp nhất
(95%), tiếp đó là viêm tai giữa (70%), đặc biệt nhiễm khuẩn huyết rất cao (55%).
Bảng 3. Tuổi và tuổi chẩn đoán, điều trị của bệnh nhân
Các chỉ số Trung bình (tháng) Khoảng dao động (tháng)
Tuổi hiện tại 154 24 - 176
Tuổi bắt đầu bệnh 9,1 1 - 27
Tuổi chẩn đoán 54,7 6 - 153
Thời gian chậm chẩn đoán 45,6 5 - 152
Tuổi bắt đầu IVIG 54,9 6 - 153
TCNCYH 117 (1) - 2019 97
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Tuổi khởi phát bệnh trung bình là 9,1 tháng; có những bệnh nhân khởi phát đợt nhiễm khuẩn
đầu tiên sau 3 tuổi. Tuổi chẩn đoán trung bình của bệnh nhân là 54 tháng, muộn hơn tuổi khởi
phát bệnh 45 tháng.
Có 11/20 trẻ có tiền sử gia đình có người được chẩn đoán XLA, trong đó có 7 bệnh nhân có
tiền sử đã có người cậu, bác trai ruột mất vì nhiễm trùng nặng, 6/31 bệnh nhân có anh hoặc em
trai, anh hoặc em họ bên mẹ được chẩn đoán XLA hoặc tử vong do nhiễm khuẩn.
Bảng 4. Nồng độ gammaglobuline và số lượng tế bào lympho B trước chẩn đoán
Các chỉ số Trung bình Khoảng dao động
IgG trước chẩn đoán (g/L) 0,58 0 - 3,17
IgA trung bình trước chẩn đoán (g/l) 0,05 0 - 0,35
IgM trung bình trước chẩn đoán (g/l) 0,18 0 - 0,82
Số lượng tế bào lympho B (tế bào/mm3) 15,5 0 - 78
Tế bào lympho B (%) 0,28 0 - 1
Nồng độ IgA, IgM, IgG trong máu của bệnh nhân đều giảm nặng. Một số trường hợp IgG trong
giới hạn bình thường nhưng IgA, IgM của bệnh nhân đó đều giảm nặng. Tất cả bệnh nhân đều có
số lượng tế bào lympho B dưới 2%.
Dạng đột biến lệch khung dịch mã chiến tỷ lệ cao nhất với 35%, đứng thứ 2 là các đột biến vô
nghĩa 20% và đột biến sai nghĩa đều chiếm tỷ lệ 15%.
Hình 2. Các dạng đột biến ở đối tượng nghiên cứu
IV. BÀN LUẬN
Chúng tôi phân tích các triệu chứng lâm
sàng, cận lâm sàng của 20 bệnh nhân XLA từ
19 gia đình khác nhau tại Việt Nam cho thấy,
triệu chứng nhiễm trùng hay gặp nhất là viêm
đường hô hấp trên và viêm phổi (95%), tiếp
đó là viêm tai giữa (14/20). Kết quả tương tự
các nghiên cứu tại Hoa Kỳ [9]. Tỷ lệ viêm
98 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
khớp gối nhiễm khuẩn hoặc vô khuẩn cao
(8/20) so với các nghiên cứu tại Trung Quốc,
Hồng Kong, Hoa Kỳ hay tại Tây Ban Nha, tỷ lệ
viêm khớp gối dao động từ 7 tới 29% [8 - 11].
Điều này có thể do trong các nghiên cứu khác
chỉ tính tới viêm khớp gối nhiễm khuẩn. Trong
khi nghiên cứu của chúng tôi, các bệnh nhân
có viêm khớp gối hầu hết không được chọc
dịch khớp gối để xét nghiệm mà dựa trên triệu
chứng lâm sàng nên có thể bao gồm những
bệnh nhân viêm khớp vô khuẩn. Tỷ lệ viêm
khớp gối cao ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu
có thể cho thấy viêm khớp gối là một dấu hiệu
lâm sàng quan trọng, khi kết hợp với tiền sử
hoặc triệu chứng lâm sàng khác có thể giúp
phát hiện và chẩn đoán sớm bệnh XLA. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, có hai bệnh nhân
mắc bệnh sởi mặc dù cả hai bệnh nhân đã
tiêm phòng sởi đầy đủ theo lịch. Điều này
chứng tỏ, trẻ không có khả năng sản xuất
kháng thể chống lại virus sau khi tiêm phòng
nên không có tác dụng bảo vệ cơ thể. Viêm
não và viêm màng não là những bệnh nhiễm
trùng nặng ở những bệnh nhân bị XLA với các
biểu hiện mãn tính: tổn thương thần kinh kéo
dài, thoái triển thần kinh. Trong nghiên cứu
này, tỷ lệ bệnh nhân đã từng mắc viêm não và
viêm màng chiếm 30% (6/20 bệnh nhân). Kết
quả này cũng tương tự như các nghiên cứu
khác trên thế giới [8; 9; 11]. Về tiền sử gia
đình, 55% bệnh nhân có tiền sử gia đình có
người được chẩn đoán là suy giảm miễn dịch
thể dịch và/hoặc mất sớm vì nhiễm khuẩn
nặng. Tỷ lệ bệnh nhân có tiền sử gia đình của
chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của
Winkelstein tại Mỹ là 41%, nghiên cứu của
Esenboga ở Thổ Nhĩ Kỳ là 47%, của Zang tại
Trung Quốc là 23,8% [9 - 11].
Kết quả ở bảng 3 cho thấy, bệnh nhân có
biểu hiện nhiễm khuẩn lần đầu lúc 9,1 tháng
(sớm nhất bắt đầu lúc 1 tháng, muộn nhất là
27 tháng). 14/20 bệnh nhân biểu hiện triệu
chứng trước 1 tuổi. Trong nghiên cứu này,
các bệnh nhân được chẩn đoán trung bình lúc
54,7 tháng. Kết quả của chúng tôi tương tự
với nghiên cứu tại Hàn Quốc trên 19 bệnh
nhân, tuổi chẩn đoán trung bình là 58,7 tháng
[7], sớm hơn ở Trùng Khánh - Trung Quốc
92,2 tháng [8]. Tuy nhiên, bệnh nhân của
chúng tôi đang được chẩn đoán muộn hơn
nhiều so với các nước khác như tại Mỹ: 35
tháng [9].
Nồng độ Immunoglobuline: từ Bảng 4 cho
thấy một bệnh nhân có chỉ số IgG tại thời
điểm chẩn đoán trong giới hạn bình thường;
tuy nhiên, IgA, IgM của bệnh nhân này giảm
rất nặng (lần lượt là 0,03 và 0,07 g/L). Đối
chiếu với lâm sàng, bệnh nhân này được chẩn
đoán lúc 14 tháng tuổi với biểu hiện nhiễm
khuẩn tái diễn, và số lượng tế bào lympho B
dưới 1% cũng phù hợp với chẩn đoán và phát
hiện đột biến trên gen BTK. Đây là dạng
không điểu hình của bệnh XLA, đã được báo
cáo ở nhiều nghiên cứu khác như nghiên cứu
tại Ý hoặc các báo cáo ca bệnh ở Anh [12;
13]. Tất cả 19 bệnh nhân còn lại (95%) có
nồng độ IgA, IgM, IgG giảm dưới -2SD so với
tuổi. Như vậy, cùng với các dấu hiệu lâm sàng
gợi ý, xét nghiệm nồng độ kháng thể IgA, IgM,
IgG sẽ cung cấp bằng chứng quan trọng giúp
định hướng tới bệnh XLA.
Dấu ấn miễn dịch bằng phương pháp dòng
chảy tế bào (flow cytometry): Chúng tôi phân
tích tế bào lympho B thông qua dấu ấn miễn
dịch CD19 trên bề mặt tế bào. Kết quả cho
thấy hầu hết các bệnh nhân có tỉ lệ tế bào
lympho B rất thấp, từ 0 đến 1%, trung bình là
0,28%. Đối chiếu với tiêu chuẩn chẩn đoán,
tất cả 20 bệnh nhân đều có khả năng cao mắc
XLA. Tuy nhiên, việc chẩn đoán xác định cần
dựa trên phân tích đột biến gen Btk.
TCNCYH 117 (1) - 2019 99
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Đột biến gen Btk: Bệnh suy giảm miễn dịch
thể không có gammaglobulin máu có thể do
gen do đột biến gen Btk nằm trên nhiễm sắc
thể X (bệnh XLA) hoặc có thể do đột biến
khác nằm trên nhiễm sắc thể thường. Do vậy,
việc phân tích gen Btk là cần thiết để chẩn
đoán xác định bệnh XLA, làm cơ sở cho công
tác tư vấn di truyền. Từ hình 1 cho thấy có 17
bệnh nhân tìm được đột biến, trong đó dạng
đột biến dịch khung chiếm tỉ lệ cao nhất. Kết
quả này tương tự với các đột biến được công
bố trong nghiên cứu tại Trung Quốc của Chen
và cộng sự trên 174 bệnh nhân phát hiện 126
đột biến trên gen Btk trong đó 48 (38,10%)
bệnh nhân có đột biến sai nghĩa, 29 (23,02%)
bệnh nhân có đột biến dịch khung, 23
(18,25%) bệnh nhân có đột biến vùng cắt nối
exon/intron, 21 (16,67%) bệnh nhân có đột
biến vô nghĩa và 5 (3,97%) bệnh nhân có đột
biến mất đoạn lớn [14].
Ba bệnh nhân không tìm thấy đột biến
(trong đó có một cặp anh em) đều có mẹ
không tìm thấy đột biến mặc dù lâm sàng và
số lượng tế bào lympho B < 2 % phù hợp với
tiêu chuẩn chẩn đoán có thể của bệnh XLA.
Hiện tượng này có thể được giải thích bằng
rối loạn tương tác gen trong quá trình dịch mã,
tương tác giữa gen với môi trường, và trong
trường hợp hiếm gặp hơn là đột biến gen trên
nhiễm sắc thể thường ví dụ như gen BLNK
mã hoá B cell linker protein.
IV. KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 20 bệnh nhân XLA cho
phép chúng tôi thấy hầu hết các bệnh nhân bị
nhiễm khuẩn sớm, nặng, tái phát thường
xuyên nhưng được chẩn đoán bệnh muộn. Đa
số các bệnh nhân đều có tiền sử gia đình gợi
ý. Về các xét nghiệm, hầu hết các bệnh nhân
thiếu hụt miễn dịch dịch thể nghiêm trọng, tỉ lệ
tế bào B < 1%. Có 17 bệnh nhân tìm được đột
biến gen Btk, chủ yếu là đột biến dịch khung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. D Vetrie, I Vorechovsky, Al Sideras P
Et (1993). The gene involved in X-linked
agammaglobulinaemia is a member of the src
family of protein-tyrosine kinases. Nature, 361,
226 - 233.
2. P Sideras, Cie Smith (1995). Molecular
and cellular aspects of X-linked agammag-
lobulinemia. Adv Immunol, 59, 135 - 223.
3. G Manning, Db Whyte, Al Martinez R
Et (2002). The protein kinase comple- ment of
the human genome. Science, 298, 912 - 1934.
4. Fried A. J., Bonilla F. A (2009). Patho-
genesis, diagnosis, and management of pri-
mary antibody deficiencies and infections. Clin
Microbiol Rev, 22(3), 396 - 414.
5. Jm Boyle, Rh Buckley (2007). Popula-
tion prevalence of diagnosed primary immuno-
deficiency diseases in the United States. J
Clin Immunol, 27(5), 497 - 502.
6. Conley Mary Ellen, Notarangelo Luigi
D., Etzioni Amos (1999). Diagnostic Criteria
for Primary Immunodeficiencies. Clinical Im-
munology, 93, 190 - 197.
7. Chun Jin-Kyong, Lee Taek Jin, Song
Jae Woo et al (2008). Analysis of Clinical
Presentations of Bruton Disease: A Review of
20 Years of Accumulated Data from Pediatric
Patients at Severance Hospital. Yonsei Medi-
cal Journal, 49(1), 28 - 36.
8. Lee P. P., Chen T. X., Jiang L. P et al
(2010). Clinical characteristics and genotype-
phenotype correlation in 62 patients with X-
linked agammaglobulinemia. J Clin Immunol,
30(1), 121 - 131.
9. Ja Winkelstein, Mc Marino, Hm Leder-
man (2006). X-linked agammaglobulinemia:
100 TCNCYH 117 (1) - 2019
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
report on a United States registry of 201 pa-
tients. Med Baltim, 85, 193 - 202.
10. Zhang Z. Y., Zhao X. D., Jiang L. P. et
al (2010). Clinical characteristics and molecu-
lar analysis of 21 Chinese children with con-
genital agammaglobulinemia. Scand J Immu-
nol, 72(5), 454 - 459.
11. Esenboga Saliha, Ayvaz Deniz Çag-
Das (2018). Clinical and Genetic Features of
the Patients with X-Linked Agammaglobuline-
mia from Turkey: Single Center Experience.
Scandinavian Journal of Immunology, 87,
1 - 8.
12. A Plebani, A Soresina, Al Rondelli
R Et (2002). Clinical, immunological, and mo-
lecular analysis in a large cohort of patients
with X-linked agam- maglobulinemia: An Ital-
ian multicenter study. Clin Immunol, 104, 221 -
230.
13. B Gaspar H, M Ferrando, I Caragol
et al (2000). Kinase mutant Btk results in
atypical X-linked agammaglobulinaemia phe-
notype, Clin. Exp. Immunol, 120, 346 - 350.
14. Chen Xia-Fang, Wang Wei-Fan,
Zhang Yi-Dan et al (2016). Clinical character-
istics and genetic profiles of 174 patients with
X-linked agammaglobulinemia. Medicine, 95
(32), e 4544.
Summary
CLINICAL, LABORATORY STUDIES OF X-LINKED
AGAMMAGLOBULINEMIA
Primary immunodeficiency including XLA is a genetic congenital disease caused by a mutation
located on the chromosome X. It usually causes severe, recurrent, and even fatal infections. The
prognosis is quite good if patients are diagnosed early and treated regularly. The genomes of
twenty patients from 19 unrelated families were diagnosed with XLA by physicians at the National
Children's Hospital, Hanoi were analysed for the BTK gene by Sanger sequencing in Seattle
Children’s Hospital. Mean patient age was 7.7 years with onset of symptoms at 9.1 months; 60%
patients were diagnosed before age 5 years. 95% patient had recurrent URI's (70% experienced
pneumonia, 75% experienced media otitis) and 55% patient suffered severe infections (including
sepsis, meningitis, encephalitis). 55% cases had positive family histories (brother of patient,
maternal uncle, or patient’s maternal family had one more men die because of recurrent infections
or severe infections. Mean IgG level was 0.58 g/L, mean B-cell number was 15.45 cells/mm3.
BTK gene mutations were identified in 17/20 patients. Symptoms of recurrent respiratory tract
infections, severe infections and family history of people with primary Immunodeficiency congeni-
tal immunodeficiency or X-linked agammaglobulinemia or died at infancy due to severe infection
are important signs for diagnosis.
Keyword: primary immunodeficiency, Agammaglobulinemia, X-linked agammaglobuline-
mia, XLA, Bruton
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_dac_diem_lam_sang_can_lam_sang_benh_khong_co_gammaglo.pdf