Tài liệu Đề tài Cuộc chiến tranh nhân danh chống khủng bố của MỸ ở Irac: MỞ ĐẦU
Những năm cuối thế kỷ XX được coi là một trong những thời kỳ diễn biến sôi động và phức tạp nhất của các mối quan hệ quốc tế. Đặc biệt là trong 10 năm cuối của thế kỷ, đã diễn ra hàng loạt các sự kiện tác động mạnh mẽ và to lớn đến quan hệ quốc tế trong những năm đầu thế kỷ XXI .
Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Ianta giải thể với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. So sánh lực lượng trên bình diện toàn cầu từ chỗ cân bằng giữa hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập nay chuyển sang trạng thái mất cân bằng theo hướng có lợi cho Mĩ và phương Tây. Cục diện thế giới đã có sự thay đổi căn bản. Thế giới đã chuyển từ trật tự “ 2 cực Ianta” sang trật tự “ nhất siêu đa cường”. Mỹ đã từng bước điều chỉnh chiến lược, khẳng định vai trò siêu cường khi tiến hành hàng loạt các cuôc chiến tranh chống lại các quốc gia độc lập, có chủ quyền và thậm chí còn là thành viên của Liên Hợp Quốc, đồng thời còn giúp đỡ các thế lực p...
27 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1617 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Cuộc chiến tranh nhân danh chống khủng bố của MỸ ở Irac, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Những năm cuối thế kỷ XX được coi là một trong những thời kỳ diễn biến sôi động và phức tạp nhất của các mối quan hệ quốc tế. Đặc biệt là trong 10 năm cuối của thế kỷ, đã diễn ra hàng loạt các sự kiện tác động mạnh mẽ và to lớn đến quan hệ quốc tế trong những năm đầu thế kỷ XXI .
Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Ianta giải thể với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. So sánh lực lượng trên bình diện toàn cầu từ chỗ cân bằng giữa hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập nay chuyển sang trạng thái mất cân bằng theo hướng có lợi cho Mĩ và phương Tây. Cục diện thế giới đã có sự thay đổi căn bản. Thế giới đã chuyển từ trật tự “ 2 cực Ianta” sang trật tự “ nhất siêu đa cường”. Mỹ đã từng bước điều chỉnh chiến lược, khẳng định vai trò siêu cường khi tiến hành hàng loạt các cuôc chiến tranh chống lại các quốc gia độc lập, có chủ quyền và thậm chí còn là thành viên của Liên Hợp Quốc, đồng thời còn giúp đỡ các thế lực phản động gây mất ổn định ở nhiều quốc gia Trung Đông, Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh…núp dưới chiêu bài “bảo vệ” nền dân chủ, nhân quyền, dân tộc của các quốc gia này
Hậu quả của những hành động ngạo mạn, ngang ngược trên của Mỹ đã dẫn đến sự kiện 11/9/2001: đó là sự kiện mà chủ nghĩa khủng bố tấn công vào biểu tượng sức mạnh của Mỹ gây trấn động mạnh mẽ trong dư luận toàn thế giới, đồng thời đây thực sự là một đòn choáng váng thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa âm mưu thiết lập trật tự đơn cực của Mĩ. Sau sự kiện khủng bố quy mô lớn nhất từ trước tới nay này, cục diện thế giới hình thành sau “chiến tranh lạnh” đang dần được sắp xếp lại. Một lần nữa chính quyền Mỹ lại phải điều chỉnh lại “ chiến lược toàn cầu”; Sau khi mất ngọn cờ “chống cộng” để tập hợp lực lượng trong chiến tranh lạnh, Mĩ đưa ra chiêu bài thành lập liên minh chống khủng bố quốc tế để tập hợp lực lượng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành một trật tự thế giới mới do Mĩ chi phối. Sự kiện 11 - 9 - 2001 được dùng để biện minh cho quyết định sử dụng lực lượng quân sự phát động cuộc chiến tranh chớp nhoáng ở Ápganixtan (10 - 2001) và cuộc chiến tranh Irắc (3 - 2003) của Mĩ, bất chấp sự phản đối của dư luận quốc tế. Mĩ đã lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố để tăng cường sức mạnh và thực hiện mục tiêu chiến lược lâu dài bá chủ thế giới của mình.
Những động thái trên của Mỹ đang thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu không chỉ của các nhà khoa học mà còn của cả nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới. Đặc biệt là sự kiện Mỹ phát động cuộc chiến tranh tại Irắc (3/2003).
Xuất phát từ mối quan tâm của thế giới hiện nay, mà trong số chúng ta nhiều người chưa có điều kiện tìm hiểu và nhận thức đúng đắn bản chất thực sự của cuộc chiến tranh này... Vì vậy em quyết định chọn đề tài “Cuộc chiến tranh nhân danh chống khủng bố của Mỹ ở Irắc”. Với mục đích:
- Đưa ra một cái nhìn toàn cảnh về chiến tranh Irắc. Từ đó giúp mọi người có thể hiểu được bản chất thật sự của cuộc chiến tranh mà Mỹ đã phát động ở Irắc (3/2003).
- Đồng thời, qua cuộc chiến tranh Irắc, mọi người có thể phần nào hiểu rõ hơn về chính sách ngoại giao của chính phủ Mỹ trong thời đại hiện nay.
Tuy nhiên, đây là một vấn đề khoa học đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và trình độ nghiên cứu nhất định, mà em mới chỉ là một sinh viên với kiến thức lý luận, thực tiễn và trình độ nghiên cứu còn hạn chế. Vì vậy em chắc chắn rằng bài tiểu luận của mình còn nhiều điều thiếu sót, kính mong sự góp ý sửa chữa từ các thầy cô và các bạn.
NỘI DUNG
1. MỸ PHÁT ĐỘNG CUỘC CHIẾN TRANH Ở IRẮC
1.1 Nguyên nhân của cuộc chiến tranh.
Từ sau cuộc chiến tranh vùng vịnh lầ thứ nhất ( 1991), Mĩ luôn tỏ thái độ hằn học, thù địch với chính thể của Tổng thống Saddam Hussein, coi S.Hussein là cái gai trong con mắt của Mỹ cần phải nhổ bỏ vì Saddam Hussein là một trở ngại chính trong việc thực hiện các chính sách đối ngoại của Mỹ ở vùng Vịnh.
S.Hussein là Tổng thống của nước Cộng hòa Irắc, Bí thư của Đảng Baath (Đảng Xã hội phục hưng Arập) và Chủ tịch Hội đồng chỉ huy cách mạng, nghĩa là toàn bộ các quyền hành pháp và chính trị của một quốc gia 23 triệu dân có Hiến pháp phỏng theo chủ nghĩa xã hội, tuyên bố theo chính sách “không liên kết”, có quan hệ thân thiết với châu Âu – nhất là Pháp và không ưa gì Mỹ. Chính thể của Tổng thống S.Hussein được xây dựng rất vững chắc, muốn phá được nó phải loại bỏ được người cầm quyền nhưng quả là để làm được điều này là rất khó. Tình báo Mỹ đã nhiều lần tổ chức ám sát Tổng thống S.Hussein nhưng đều không thành. Để loại bỏ được S.Hussein chỉ còn cách tìm được một cái cớ hoàn hảo, hợp pháp nào đó để mở cuộc chiến chống Irắc. Cuối cùng Mỹ và liên quân đã tìm được điều này sau vụ khủng bố ngày 11-9-2001 tại Mỹ. Tuy nhiên, còn có những mục tiêu khác mà Mỹ nhắm tới khi tiến hành cuộc chiến tranh này và đó là những nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến.
Nguyên nhân thứ nhất là dầu mỏ, đó là mục tiêu kinh tế của Mỹ trong cuộc chiến chống Irắc. Dầu mỏ là một trong những yếu tố quan trọng trong hệ thống kinh tế thế giới và về lâu dài chi phối mối tương quan lực lượng giữa các cường quốc. Nhiên liệu là một trong những nhân tố chủ yếu bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định. Nói cách khác, sự phát triển ổn định của nền kinh tế phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nhiên liệu. Với sự phát triển nhanh và mạnh như hiện nay của các nền kinh tế thì số lượng nguồn nhiên liệu bị tiêu thụ cũng tăng tương ứng. Trong khi đó, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, trong đó có dầu mỏ, đang bị cạn kiệt một cách nhanh chóng. Các chuyên gia cho biết, các nguồn dự trự năng lượng mà thiên nhiên đã tích trữ được trong suốt 300 triệu năm đến nay đã bị loài người sử dụng hết một phần lớn chỉ trong vòng một thế kỉ. Trữ lượng dầu mỏ trên trái đất đã thăm dò được và có lợi về kinh tế khi khai thác sẽ bị cạn kiệt sau một thời gian không xa nữa. Thế giới đang tiến gần tới một “nạn đói” năng lượng. Người Mỹ rất biết điều này và do vậy cần phải tước bỏ việc tự do tiếp cận các nguồn dự trữ năng lượng thế giới của các đối thủ cạnh tranh với Mỹ như Nhật Bản, Tây Âu, Nga, Trung Quốc…, đồng thời hạn chế tối đa việc khai thác dầu mỏ trên lãnh thổ của mình. Trong suốt một thời gian dài, Mỹ đã cấm khai thác các mỏ dầu ở Alaska với lý do bảo vệ môi trường sinh thái ở khu vực Bắc cực. Hiện Mỹ đang nhập khẩu một nửa nhu cầu về dầu mỏ, khoảng 80 tỷ USD/năm. Còn dầu mỏ ở Tây Á thì sao? Nền kinh tế Mỹ sẽ không bị ảnh hưởng nhiều nếu không có nguồn dầu mỏ từ Tây Á, nhưng nền kinh tế của Tây Âu và Nhật Bản thì ngược lại. Hơn nữa, nếu ai nắm được nguồn dầu mỏ tại Tây Á thì người đó có thể chi phối nền kinh tế thế giới. Vì vậy cuộc chiến chống Irắc là cuộc chiến vì những nguồn năng lượng quan trọng sống còn của hành tinh. Khẩu hiệu “Không đổi máu lấy dầu” của chính người dân Mỹ trong các cuộc tuần hành chống chiến tranh đã chỉ rõ nguyên nhân của cuộc chiến mà chính phủ Mỹ phát động chống I rắc.
Tiến hành cuộc chiến tranh chống Irắc nhằm lật đổ bằng được chính quyền của Tổng thống S.Hussein, Mỹ còn có tham vọng lập lại bản đồ khu vực dầu mỏ Trung Đông theo hướng có lợi nhất cho tư bản Mỹ, cho nền kinh tế Mỹ. Kiểm soát được Trung Đông sẽ có tầm quan trọng sống còn đối với Mỹ bởi quốc gia này tiêu thụ 1/4 lượng tiêu thụ dầu mỏ của thế giới trong khi sản xuất chưa đến 15% trong khoảng thời gian từ năm 1999 đến 2000. Các con số thống kê cho thấy Irắc có trữ lượng dầu mỏ khoảng 112 tỷ thùng và có 50 tỷ thùng nữa ở các khu vực đang tiến hành thăm dò. Trữ lượng dầu mỏ của Irắc có thể đảm bảo cho nhu cầu của Mỹ về vấn đề năng lượng trong nhiều năm tới. Dầu mỏ quyết định sự tăng trưởng của bất cứ một nền kinh tế nào, hơn nữa, với trữ lượng khổng lồ và đặc biệt là chi phí khai thác ở vùng này thuộc loại thấp nhất thế giới đã biến Trung Đông trở thành mục tiêu của mọi sự thèm khát.
Điều đó lý giải tại sao Mỹ bất chấp tất cả, không đếm xỉa gì đến dư luận và sự phản ứng của nhiều quốc gia, gạt bỏ sang một bên vai trò kiến tạo và giữ gìn hòa bình của Liên hợp Quốc, chấp nhận khoản chi phí quân sự khổng lồ để đơn phương tiến hành cuộc chiến tranh chống Irắc. Lật đổ chính quyền của Tổng thống S.Hussein và dựng lên một chính quyền thân Mỹ tại Irắc, Mỹ sẽ loại bỏ được những đối thủ lớn của mình hiện đang được hưởng lợi rất nhiều từ các nguồn dầu mỏ tại Irắc là Pháp, Nga và quan trọng hơn cả là Mỹ có điều kiện khai thác các căn cứ quân sự trên lãnh thổ Irắc, đất nước chiếm vị trí trung tâm ở khu vực cận Đông.
Tấn công Irắc, Mỹ nhằm tới mục tiêu thực hiện “Học thuyết chiến lược mới” trên thực địa mà tinh thần của nó là: Không một ai có thể thách thức ưu thế quân sự của Mỹ mà không bị trừng phạt... Học thuyết này coi trọng phương thức “tấn công phòng ngừa” thay thế cho phương thức “răn đe” mà Mỹ đã áp dụng trong thời kì “chiến tranh lạnh”. Điều này cho thấy, sau sự tan rã của Liên Xô, thời cơ thuận lợi cho Mỹ giành vị trí siêu cường số một trên thế giới đã đến và để thực hiện được điều này, Mỹ phải tỏ rõ ưu thế hơn hẳn của mình trên tất cả các lĩnh vực mà quân sự là lĩnh vực quan trọng nhất. Vì thế, học thuyết mới của Mỹ chứa đầy sự ngạo mạn, đe dọa và phản ánh một giai đoạn mới trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong thời đại “hậu Liên Xô”.
Tấn công Irắc, Mỹ âm mưu tạo cho mình những lợi thế nhất định trong việc xác lập một trật tự thế giới mới một cực mà Mỹ phải ở vị trí trung tâm, cao nhất và có uy quyền nhất trong trật tự đó. Đây có thể coi là mục tiêu chính của Mỹ trong việc mở cuộc chiến chống Irắc lần này. Mọi người đều biết rõ Mỹ có tham vọng làm bá chủ thế giới từ rất lâu. Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc, Tổng thống Mỹ lúc đó là H.Truman đã đưa ra học thuyết mang tên mình, coi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở thế đối đầu trực tiếp trên phạm vi toàn cầu. Ngoài ra Mỹ còn tiến hành chính sách “thọc gậy bánh xe”, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới. Tuy nhiên, sự vững mạnh của Liên Xô - đặc biệt trong lĩnh vực quân sự và vũ khí tiến công chiến lược đã không cho phép Mỹ thực hiện tham vọng bá quyền nước lớn của mình. Thêm vào đó, sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phòng dân tộc của các nước thuộc thế giới thứ ba mà đỉnh cao là thắng lợi to lớn của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược cũng đã góp phần làm cho thế cân bằng hai cực của thế giới thời kì này luôn ở trạng thái ổn định. Bi kịch chỉ thực sự xảy ra khi Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, “Chiến tranh lạnh” kết thúc, cộng đồng quốc tế bị phân hóa theo hướng có lợi cho Mỹ, tạo điều kiện cho Mỹ có thể thực hiện chính sách nước lớn của mình trong giai đoạn mới nhằm tạo lập một trật tự thế giới mới mà trong trật tự này Mỹ ở thế thượng phong, có khả năng kiểm soát và khống chế các quốc gia cũng như một số các khu vực khác.
Không còn đối thủ tầm cỡ như Liên Xô, Mỹ trở thành siêu cường về các lĩnh vực kinh tế và quân sự và điều Mỹ muốn là áp đặt cho được các nguyên tắt của Mỹ cho phần còn lại của thế giới. Cuộc thử nghiệm học thuyết mới của Mỹ tại Irắc là bước khởi đầu cho chiến lược bá chủ toàn cầu, một chiến lược đầy nguy hiểm của nhà cầm quyền Mỹ đối với tương lai của thế giới.
Để thực hiện được âm mưu tiến hành cuộc chiến chống Irắc, Mỹ đã tìm được một cái cớ thích hợp. Đó là việc đưa ra những “nguy cơ” đe dọa đến “an ninh của nước Mỹ” từ phía Irắc so nước này đang tang trữ vũ khí hủy diệt hàng loạt và có liên quan tới những hoạt động khủng bố của Bin Laden. Trong khi cả thế giới đang đoàn kết chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế thì xem ra cái cớ này có vẻ có sức thuyết phục hơn là việc Irắc đang sở hữu vũ khí giết người hàng loạt. Tuy vậy, vì cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế là nhiệm vụ của các quốc gia thì Mỹ không thế một mình tiến hành cuộc chiến mà cần phải có những đồng minh trong cuộc chiến này. Mỹ đã thành công trong việc lôi kéo Anh, Tây Ban Nha, Nhật Bản và một số nước khác trở thành đồng minh của Mỹ để mở cuộc chiến. Trước đó, Mỹ đã gây áp lực với liên hợp quốc để tiến hành chính sách cấm vận kinh tế đối với Irắc trong nhiều năm làm cho nền kinh tế của nước này lâm vào tình trạng hết sức khốn đốn, sản xuất không phát triển được, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Trong khi đó về tiềm lực kinh tế và quân sự thì khó ai có thể so sánh được với Mỹ vào năm 2001, GDP của Mỹ chiếm 31% tổng sản phẩm quốc nội của toàn thế giới so với 26% của châu Âu và 12% của Nhật Bản. Hàng năm, Thượng viện Mỹ thông qua một tài khoản ngân sách dành cho quân sự gần bằng chi phí quân sự của tất cả các quốc gia còn lại trên thế giới. Chính cái ưu thế vượt trội này đã cho phép Mỹ mưu đồ thiết lập trật tự thế giới mới, trật tự thế giới một cực do Mỹ đứng đầu, lãnh đạo và thao túng. Thông điệp mà Nhà Trắng đưa ra sau khi ông G .Bush thắng cử Tổng thống Mỹ: “Giờ đây, mỗi quốc gia trên thế giới đều phải đưa ra quyết định. Hoặc ủng hộ chúng ta, hoặc ủng hộ bọn khủng bố” là lời đe dọa gián tiếp với những quốc gia nào không đồng tình với Mỹ và rất có thể họ sẽ bị Mỹ xếp vào nhóm “bạn của khủng bố”. Điều này thực sự nguy hiểm bởi lúc đó họ sẽ bị Mỹ trừng phạt bằng nhiều hình thức, kể cả hình thức cao nhất là chiến tranh. Sự kiện ngày 11- 9 chỉ là cái cớ thuận lợi để Mỹ tấn công Irắc, loại bỏ chính phủ của Tổng thống S.Hussein, hơn thế Mỹ còn gạt được Pháp, Đức, Nga – những nước đang được hưởng nhiều lợi ích về kinh tế tại Irắc – ra khỏi quốc gia này.
Như vậy, tấn công Irắc, Mỹ đã có thể tiếp cận gần hơn với những nguồn lợi từ dầu mỏ tại quốc gia có trữ lượng lớn thứ hai trên thế giới tại Trung Đông. Tấn công Irắc, Mỹ đạt được mục tiêu quan trọng là thử nghiệm được học thuyết “đánh đòn phủ đầu”, biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa đơn phương của tân Tổng thống Mỹ G.Bush mà nội dung chính của nó là phải chứng tỏ được khả năng hành động quân sự đơn phương ở bất kì đâu trên thế giới. Điều này lý giải vì sao Mỹ sẵn sang bỏ qua tất cả, gạt sang một bên vai trò kiến tạo và gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, bất chấp sự phản đối của ngay cả các đồng minh như Pháp, Đức, bất chấp làn song chống chiến tranh của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới trong đó có nhân dân Mỹ, mất bao công sức để dựng lên bộ hồ sơ giả về kho vũ khí hủy diệt hàng loạt của Irắc để biện hộ cho lý do phát động chiến tranh. Tấn công Irắc, Mỹ đồng thời cùng một lúc đạt được nhiều mục đích nhưng còn cái mục đích chính là chống khủng bố thì không. Ngược lại, cuộc chiến tranh đầu tiên của thế kỉ XXI này đã khiến cho các tín đồ Hồi giáo trên toàn thế giới nổi giận và tạo cơ hội cho những kẻ khủng bố lấy luôn mảnh đất Irắc hỗn loạn thời hậu chiến làm căn cứ.
1.2 Các điểm mốc dẫn tới chiến tranh Irắc
Ngày 30/1/2002: Trong Thông điệp Liên bang, Tổng thống George W. Bush đưa ra thuật ngữ “trục ma quỷ”, gồm các kẻ thù của Mỹ là CHDCND Triều Tiên, Iran và Iraq. Bài phát biểu đánh dấu sự khởi đầu của chiến dịch chính trị và ngoại giao lâu dài của Mỹ, tiến tới một cuộc chiến chống Baghdad.
Ngày 6/2/2002: Lần đầu tiên, Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell sử dụng thuật ngữ “thay đổi chế độ” khi đề cập đến tình hình Iraq trước Ủy ban Quan hệ Quốc tế Hạ viện. Ông nói: “Thay đổi chế độ là việc mà Mỹ có thể phải làm một mình”.
Ngày 12/9/2002: Một ngày sau kỷ niệm một năm vụ tấn công khủng bố 11/9, tại Đại hội đồng Liên Hợp Quốc, Tổng thống Mỹ George W. Bush tuyên bố Irắc là “một mối nguy hiểm đáng sợ”. Ông khẳng định Mỹ “sẽ không cho phép khủng bố hay bạo chúa đe doạ nền văn minh bằng vũ khí giết người hàng loạt”. Người đứng đầu Nhà Trắng tỏ ý muốn giải giáp Iraq thông qua Hội đồng Bảo an. Tuy nhiên, ông cảnh báo không thể tránh khỏi tiến hành chiến dịch quân sự nếu Iraq không chịu tuân thủ các nghị quyết của Liên Hợp Quốc.
Ngày 17/10/2002: Thượng viện Mỹ thông qua việc tăng chi tiêu quốc phòng lớn nhất trong hai thập kỷ. Theo đó, ngân sách dành cho lĩnh vực này là 355,1 tỷ USD, tăng 37,5 tỷ so với năm 2001. Trước đó, Tổng thống George W. Bush ký đạo luật đã được Quốc hội thông qua, cho phép sử dụng vũ lực chống nhà lãnh đạo Irắc với lý do Saddam Hussein sở hữu vũ khí hủy diệt.
Ngày 8/11/2002: Sau nhiều tuần tranh cãi, Hội đồng Bảo an thông qua Nghị quyết 1441, buộc Irắc từ bỏ mọi vũ khí huỷ diệt và đe doạ Baghdad “phải hứng chịu những hậu quả nghiêm trọng” nếu không tuân thủ. Irắc chấp nhận mọi điều khoản trong văn bản này.
Ngày 27/11/2002: Thanh sát viên Liên Hợp Quốc hoàn tất chuyến thăm Irắc đầu tiên sau 4 năm.
Ngày 7/12/2002: Baghdad nộp tài liệu dài 12.000 trang về tất cả các chương trình tên lửa, vũ khí hạt nhân, sinh học và hoá học. Trong đó Irắc bác bỏ cáo buộc họ có vũ khí hạt nhân, sinh hoá.
Ngày 19/12/2002: Mỹ tuyên bố Irắc “vi phạm nghiêm trọng” nghị quyết 1441 vì Washington tin rằng báo cáo của Baghdad không đầy đủ. Cùng ngày, Trưởng đoàn UNMOVIC Hans Blix báo cáo tại Hội đồng Bảo an lần đầu tiên. Ông tuyên bố Irắc còn chưa đề cập đến một số vũ khí. Trưởng đoàn Hans Blix cũng đề nghị Mỹ, Anh cung cấp thông tin tình báo chứng tỏ Baghdad có vũ khí huỷ diệt.
Ngày 9/1/2003: Tại Hội đồng Bảo an, Trưởng đoàn UNMOVIC tuyên bố “vẫn còn nhiều câu hỏi chưa được trả lời” liên quan đến các chương trình vũ khí của. Irắc Tuy nhiên, thanh sát viên chưa tìm thấy bằng chứng rõ ràng để châm ngòi chiến tranh.
Ngày 20/1/2003: Bộ trưởng Quốc phòng Anh Geoff Hoon tuyên bố triển khai 26.000 lính Anh ở vùng Vịnh.
Ngày 27/1/2003: Tại Hội đồng Bảo an, thanh sát viên Liên Hợp Quốc trình bày bằng chứng quan trọng trong cuộc tìm kiếm vũ khí hủy diệt ở Iraq và tình hình Baghdad tuân thủ nghị quyết 1441. Ông Hans Blix nói: “Irắc dường như chưa thực sự chấp nhận giải giáp, ngay cả hôm nay”. Anh, Mỹ lấy đây là bằng chứng cho thấy Irắc không giải trừ quân bị. Các nước khác lập luận cần cho thanh sát viên thêm thời gian.
Ngày 28/1/2003: Tổng thống Bush đọc Thông điệp Liên bang, trong đó cam kết sẽ đưa ra bằng chứng mới về các chương trình vũ khí của Irắc. Ông thề sẽ lãnh đạo chiến dịch quân sự nếu Baghdad không giải giáp.
Ngày 6/2/2003: Ngoại trưởng Colin Powell báo cáo với Hội đồng Bảo an về thái độ không tuân thủ các nghị quyết từ phía Iraq. Ông cho rằng Baghdad có quan hệ với mạng lưới Al-Qaeda. Ngoại trưởng Mỹ khẳng định Liên Hợp Quốc phải hành động để ngăn chặn “những nỗ lực có hệ thống và chủ động” để sản xuất vũ khí huỷ diệt của Irắc. Ông đưa ra những cuốn băng, ảnh chụp qua vệ tinh và số liệu tình báo chứng tỏ Baghdad “lảng tránh và lừa dối” bất chấp sự hiện diện của thanh sát viên. Các uỷ viên Hội đồng Bảo an không bị thuyết phục và kêu gọi tăng cường đoàn thanh sát và cho họ thêm thời gian.
Ngày 14/2/2003: Hans Blix báo cáo lên Hội đồng Bảo an về tình hình Irắc hợp tác với chuyên gia vũ khí. Báo cáo này mang tính lạc quan, dù ông chỉ trích Irắc không tính đến số vũ khí và nguyên liệu cụ thể. Ông đặt câu hỏi về những kết luận của tình báo Mỹ mà ông Powell đã đề cập đến cách đó 8 ngày. Thanh sát viên thấy sự cần thiết phải tiếp tục công việc. Bản báo cáo là vũ khí để Pháp, Nga và Trung Quốc khẳng định cho đoàn thanh tra thêm thời gian.
Ngày 15/1/2003: Lầu Năm Góc khẳng định 150.000 lính Mỹ đang có mặt ở vùng Vịnh, chuẩn bị chiến tranh. Một nửa trong số này đóng tại Kuwait.
Ngày 24/2/2003: Mỹ, Anh và Tây Ban Nha đệ trình dự thảo nghị quyết mới chống Irắc, trong đó cáo buộc Baghdad không tuân thủ nghị quyết 1441. Pháp, Đức và Nga đưa ra đề xuất tăng cường thanh sát Irắc, thay vì phát động chiến tranh.
Ngày1/3/2003: Irắc bắt đầu phá hủy tên lửa tầm trung Al Samoud II vì nó vượt quá tầm bắn được phép.
Ngày 7/3/2003: Tại Hội đồng Bảo an, Trưởng đoàn UNMOVIC Hans Blix khẳng định phải mất vài tháng để kiểm tra liệu Irắc có tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ giải giáp hay không.
Ngày 10/3/2003: Pháp, Nga tuyên bố họ sẵn sàng phủ quyết dự thảo nghị quyết mới, theo đó cho Irắc thời hạn 7 ngày để giải giáp. Tổng thống Pháp Jacques Chirac khẳng định Paris sẽ bỏ phiếu chống bất kỳ nghị quyết nào có tối hậu thư dẫn tới chiến tranh, cho tới khi thanh sát viên không thể làm gì được nữa.
Ngày 16/3/2003: Tổng thống Mỹ Bush, Thủ tướng Anh Blair và Thủ tướng Tây Ban Nha Jose Maria Aznar gặp nhau ở Azores. 3 nước đặt ra hạn chót là
Ngày 17/3/2003 để Hội đồng Bảo an ủng hộ nghị quyết mới đòi Irắcgiải giáp ngay lập tức. Ông Bush gọi đó là “thời điểm sự thật với thế giới”.
Ngày 17/3/2003: Anh, Mỹ, Tây Ban Nha rút dự thảo nghị quyết, chấm dứt nỗ lực ngoại giao nhằm giành được sự ủng hộ của Liên Hợp Quốc cho cuộc chiến.
Ngày 18/3/2003: Quốc hội Anh ủng hộ Thủ tướng Blair đưa quân tới tham chiến ở Irắc.
Ngày 20/3/2003: Tiếng nổ đầu tiên vang lên ở Baghdad 90 phút sau khi qua hạn chót để Tổng thống Saddam Hussein sống lưu vong hoặc đối mặt với chiến tranh mà Mỹ đặt ra. Chiến tranh bùng nổ.
1.3 Cuộc chiến tranh bùng nổ
Cuộc chiến tranh vào Irắc năm 2003 bắt đầu từ ngày 20 tháng 3, chủ yếu bởi quân đội Hoa Kỳ và Vương quốc Anh; 98% của quân lực đến từ hai nước này, tuy nhiều quốc gia khác cũng tham gia. Cuộc xâm lược Irắc trở thành giai đoạn đầu của sự kiện thường được gọi là “Chiến tranh Irắc”. Theo lịch sử, nó có thể được gọi chính xác hơn là "Chiến tranh vùng Vịnh lần 3", tính từ sau chiến tranh 8 năm giữa Irắc và Iran vào thập niên 1980. Lần này, Quân đội Irắc đã bại trận hoàn toàn, và thành phố Bátđa bị chiếm đóng ngày 9 tháng 4 năm 2003. Ngày 1 tháng 5 năm 2003, Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush tuyên bố là các chiến dịch quan trọng đã kết thúc, tức là giai đoạn cầm quyền của đảng Ba'ath và nhiệm kỳ của Tổng thống Irắc Saddam Hussein đã kết thúc. Quân lực Liên hiệp cuối cùng đã bắt được Saddam Hussein ngày 13 tháng 12 năm 2003. Sao đó, thời kỳ quá độ bắt đầu, trong lúc đó tại Irắc bạo lực lan tràn do các lực lượng nổi dậy phần nhiều là người Sunni theo Hồi giáo, và cũng có cả các tay súng của mạng lưới khủng bố Al - Qaeda.
Các cuộc hành quân của Hoa Kỳ được chỉ huy dưới tên mã Chiến dịch Giải phóng Irắc. Cuộc hành quân của Vương quốc Anh được gọi Hành quân Telic, và hành quân Úc được gọi Chiến dịch Falconer. Vào khoảng 100.000 quân lính và hải quân Mỹ, 26.000 quân lính và hải quyên Anh, và quân lực nhỏ hơn của thêm quốc gia, được gọi chung là "Liên minh Quyết tâm", được dàn trận trước khi xâm lược phần nhiều đến vài khu vực tấn công ở Kuwait. (Khi tính vào các nhân viên hải quân, hậu cần, tình báo, và không quân, tổng số tới 214.000 lính Mỹ, 45.000 lính Anh, 2.000 lính Úc, và 2.400 Ba Lan.) Những kế hoạch mở lên mặt trận thứ hai vào miền bắc bị hủy bỏ khi Thổ Nhĩ Kỳ từ chối chính thức việc sử dụng đất nước của họ để tấn công. Các quân lực cũng hỗ trợ dân quân Kuwait, có ước lượng hơn 50.000 người. Bất chấp sự từ chối của Thổ Nhĩ Kỳ, Hoa Kỳ tiến hành một số hành quân nhảy dù vào miền bắc và thả xuống Lữ đoàn 173 Máy bay, bằng cách đó làm không cần Thổ Nhĩ Kỳ tán thành.
Vào lúc 9h30’ (giờ Việt Nam) ngày 20-3-2003, Tổng thống Mỹ G.Bush ra lệnh khai hỏa chiến dịch mang tên “Cơ hội thuận lợi” tấn công vào Irắc. Tên lửa của liên quân mà chủ yếu là của Mỹ và Anh đã bắn thẳng vào thủ đô Batđa mở màn cuộc chiến tranh tại Irắc, chính thức phát động một cuộc chiến tranh mà không cần có Liên hợp quốc, bỏ qua mọi cố gắng vì hòa bình của Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc và nhân loại yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới. Mỹ đã huy động tới 350 ngàn quân và tiêu tốn hàng chục tỷ đôla, cuộc chiến tranh kéo dài hơn một tháng tại Irắc được coi là phần tiếp theo của cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu nhằm loại trừ cái mà Mỹ gọi là “mối nguy cơ về vũ khí hủy diệt hàng loạt tại Irắc”.
Vậy là bất chấp mọi nỗ lực của các nước trong Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhằm giải quyết vấn đề bằng biện pháp hòa bình, không đáp lại thiện chí của Irắc trong việc hợp tác toàn diện và đầy đủ với đoàn thanh sát vũ khí của dư luận tiến bộ trên thế giới trong đó có cả nhân dân Mỹ và Anh, chà đạp trắng trợn lên những thông lệ tối thiểu nhất trong quan hệ quốc tế, Mỹ đã đơn phương mở cuộc tiến công chống Irắc.
1.3.1 Những mốc chính của cuộc chiến Irắc
Đêm 19 rạng ngày 20/3/2003: Hơn 40 tên lửa hành trình Tomahawk và hàng tấn bom được 2 chiếc máy bay chiến đấu hạng nặng F-117A Nighthawk bắn dồn dập vào các dinh thự của Saddam Hussein ở Baghdad. Cuộc chiến bắt đầu.
Ngày 9/4/2003: Không một phát súng lệnh, không báo trước cho báo chí, xe tăng Mỹ tràn vào trung tâm Baghdad, tuyên bố giải phóng hoàn toàn thành phố khỏi tay chính quyền Saddam.
Ngày 11/4/2003: Trong bài phát biểu đầu tiên sau khi phát động cuộc chiến, Tổng thống Mỹ Bush cho rằng Saddam đã hoàn toàn bị phế bỏ và chính quyền của ông đã sụp đổ hoàn toàn, bất chấp ông ta "đã chết hay còn sống".
Ngày 1/5/2003: Từ hàng không mẫu hạm USS Abraham Lincoln, Tổng thống Bush phát đi thông điệp tuyên bố "các trận chiến chủ yếu ở Irắc đã đến hồi kết thúc".
Ngày 12/5/2003: Quan chức lâu năm của Bộ Ngoại giao Mỹ Paul Bremer thay Tướng về hưu Jay Garner giữ chức Toàn quyền lâm thời Irắc
Ngày 13/7/2003: Một Hội đồng quốc gia với 25 thành viên từ các thành phần tôn giáo và đảng phái khác nhau được Mỹ chỉ định làm bộ máy lâm thời điều hành đất nước cùng Toàn quyền Mỹ.
Ngày 22/7/2003: Qusai Hussein, con trai và là người chuẩn bị kế nhiệm Saddam, bị tiêu diệt cùng với anh trai Odai Hussein trong một cuộc tấn công của lính Mỹ.
Ngày 7/8/2003: Bom nổ ngoài Đại sứ quán Jordan ở Baghdad giết chết 19 người.
Ngày 19/8/2003: Một xe tải chứa bom lao vào trụ sở LHQ tại Baghdad làm chết 22 người, trong đó có đặc phái viên cao cấp Sergio Vieira de Mello. LiênHợp Quốc quyết định chấm dứt sứ mệnh của mình tại đây.
Ngày 29/8/2003: Bom xe tấn công vào nhà thờ được cho là linh thiêng nhất ở Iraq giữa lúc mọi người đang cầu nguyện, giết chết giáo chủ cao cấp của người Shiite là ông Mohammed Baqir al-Hakim.
Ngày 3/9/2003: Mỹ bắt đầu giao bớt nhiệm vụ quân sự ở Iraq cho đồng minh Ba Lan. Các thành viên chính phủ lâm thời tuyên thệ nhậm chức.
Ngày 27/10/2003: 4 vụ đánh bom liên tiếp nhằm vào trụ sở Hội Chữ Thập Đỏ quốc tế và 4 đồn cảnh sát ở Irắc làm hơn 40 người chết.
Ngày 15/11/2003: Paul Bremer và Hội đồng tiếp quản Iraq đồng ý kế hoạch chuyển giao quyền điều hành đất nước cho chính phủ lâm thời Irắc vào ngày 1/7/2004.
Ngày 13/12/2003: Lính Mỹ bắt được Saddam Hussein từ trong một căn hầm ở Adwar, cách quê nhà Tikrit của ông khoảng 16km.
Ngày 28/1/2004: Thất bại trong việc tìm kiếm vũ khí huỷ diệt ở Iraq, chính quyền Thủ tướng Anh Tony Blair chịu sức ép lớn. Hậu quả, thanh tra vũ khí David Kelly phải tự sát.
Ngày 8/3/2004: Hội đồng tiếp quản Iraq phê chuẩn Hiến pháp lâm thời cho đất nước.
Ngày 17/6/2004: Uỷ ban điều tra 11/9 công bố không có chứng cứ cho thấy có sự liên quan giữa Al-Qaeda với chính quyền Saddam Hussein như bộ máy lãnh đạo của Tổng thống Bush đã dùng để phát động cuộc chiến.
Ngày 28/6/2004: Mỹ chuyển giao quyền lực cho chính phủ lâm thời Iraq, sớm hơn 2 ngày so với dự định. Mỹ vẫn tiếp tục ở lại Irắc với vai trò đảm bảo an ninh chờ bầu cử.
Ngày 9/11/2004: Mỹ tấn công dữ dội vào Fallujah - nơi được coi là hang ổ quân nổi dậy Iraq.
Ngày 30/1/2005: Irắc tổ chức cuộc bầu cử lịch sử trong hơn 50 năm qua. Cuộc bầu cử được ca ngợi là thành công và dân chủ, với 60% cử tri tham gia đi bỏ phiếu, theo như công bố của Uỷ ban bầu cử. Không có chuyên gia quốc tế nào giám sát quá trình bỏ phiếu vì lo sợ bị khủng bố.
Ngày 17/2/2005: Uỷ ban bầu cử Irắc xác nhận kết quả kiểm phiếu, công bố thắng lợi lớn cho người Shiite thuộc Liên minh Iraq thống nhất với 140 ghế trong quốc hội mới. Quốc hội này tồn tại trong 10 tháng với nhiệm vụ chính là soạn thảo Hiến pháp mới.
Ngày 16/3/2005: Quốc hội Iraq lần đầu tiên ra mắt trong cuộc họp được mong đợi từ lâu. Kết thúc cuộc họp, Tổng thống lâm thời Ghazi al-Yawer khuyến khích các thành viên quốc hội đoàn kết hơn vì "Chúng ta vẫn chưa hoàn toàn thắng lợi hoặc hoàn toàn thất bại".
Ngày 16/3/2005 : Quá trình đàm phán thành lập chính phủ mới vẫn diễn ra căng thẳng và chưa ngã ngũ, với khá nhiều bất đồng giữa cộng đồng người Shiite và người Kurd.
Ngày 30/01/2005: Lần đầu tiên trong 50 năm, người Irắc đi bầu cử với hệ thống đa đảng
Ngày 19/10/2005: Saddam Hussein bị buộc tội chống lại lợi ích của nhân loại
Tháng 12/2005 Irắc đã tổ chức cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên và chính phủ do Thủ tướng Nuri al-Maliki lãnh đạo ra đời tháng 5/2006, với nhiệm kỳ 4 năm
Ngày 13/03/2006: Anh quyết định giảm quân ở Irắc
Ngày 07/09/2006: Mỹ tuyên bố trao trả một phần quyền lực cho Irắc trong hải quân và không quân
Ngày 31/12/2006: Saddam Hussein bị xử tội chết bằng hình thức treo cổ
Ngày 10/01/2007: Tổng thống Bush tuyên bố kế hoạch tăng quân
Ngày 16/12/2007: Tỉnh cuối cùng của Irắc là Basra dưới quyền của quân đội Anh được trao trả cho người Irắc
Từ cuối tháng 8/2008 lực lượng quân đội Mỹ đã bắt đầu rút khỏi tỉnh Anbar của Irắc và những binh lính rời Anbar sẽ chuyển nhiệm vụ tại tỉnh này sang phục vụ chiến trường Afghanista
Tháng 7/2009 các quan chức Mỹ và Iraq đã đồng ý về việc rút quân Mỹ khỏi Irắc bắt đầu từ và sẽ hoàn tất quá trình rút quân hoàn toàn khỏi Irắc vào năm 2011.
1.4 Lời biện minh từ phía chính phủ Mỹ về cuộc chiến tranh Irắc
Trong tuyên bố ngày 17/3/2003,Tổng thống Bush nêu mục tiêu của cuộc chiến này là giải giáp vũ khí của Irắc và loại trừ “mối đe dọa toàn cầu” khi Tổng thống S.Hussein tự vũ trang cho mình các loại vũ khí sinh, hóa học và hạt nhân. Như vậy, Tổng thống Mỹ khẳng định việc tiến công Irắc là một nhiệm vụ mà nước Mỹ không thể không hoàn thành. Cả thế giới đều rõ mối nguy cơ này là không có thực, không hiện hữu. Irắc không có vũ khí hạt nhân hay vũ khí hủy diệt – đó là kết luận của đoàn thanh sát vũ khí của Liên hợp quốc tại Irắc sau hơn một tháng tìm kiếm những dấu hiệu của việc sản xuất các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt trên lãnh thổ của quốc gia này.
Những kẻ thực hiện vụ khủng bố kinh hoàng nhằm vào nước Mỹ ngày 11-9-2001, một mặt gây ra những tội ác nghiêm trọng đối với hàng ngàn người dân vô tội, mặt khác còn tạo cho Mỹ một cái cớ hoàn hảo để mở cuộc chiến tại Apganixtan dưới chiều bài tiêu diệt những phần tử khủng bố do Bin Laden đứng đầu. Với lý do xác đáng, cuộc chiến này được sự đồng tình ủng hộ của dư luận rộng rãi trên thế giới. Tuy vậy, vào giai đoạn cuối của cuộc chiến này, Mỹ đã dọn đường cho điều mà họ gọi là “giai đoạn thứ hai của cuộc chiến chống khủng bố” mà mục tiêu ưu tiên là nhằm vào Irắc với lý do Irắc có dính líu tới vụ khủng bố 11- 9. Tất nhiên điều này là phi lý và không có cơ sở, vì vậy vẫn lợi dụng chiêu bài này để tấn công Irắc, Mỹ đang từ chỗ là người bị khủng bố thì nay đã trở thành kẻ khủng bố nguy hiểm nhất hiện nay.
1.5 Hệ quả của cuộc chiến tranh đối với quan hệ quốc tế
Đối với Mỹ: Cuộc chiến Irắc là chiến dịch quân sự tốn kém nhất của Mỹ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ II và là cuộc xung đột bên ngoài kéo dài thứ hai trong lịch sử nước Mỹ vì thế nó sẽ để lại nỗi đau dai dẳng đối với nước Mỹ về tất cả các mặt kinh tế, chính trị, quân sự cũng như xã hội.
Theo Văn phòng ngân sách Quốc hội, tính đến hết 30/9 năm nay, chính phủ Mỹ đã chi 700 tỉ USD cho cuộc chiến ở Irắc. Nếu tính cả nguồn ngân sách mà chính quyền Obama đề nghị cho năm tài khóa 2010 bắt đầu từ 1/10 tới, thì cái giá của cuộc chiến tranh này đã lên 800 tỉ USD.
Theo tính toán của các nhà kinh tế hàng đầu thế giới, nếu tính cả chi phí bí mật cho việc thay thế vũ khí và đền bù cho các binh lính Mỹ thì cuộc chiến Iraq đã ngốn hết khoảng 2-3 nghìn tỉ USD và ảnh hưởng kinh tế của nó sẽ kéo dài hơn bản thân cuộc chiến tranh này.
Trong khi đó, mặc dù tỉ lệ thương vong của binh lính Mỹ tại chiến trường Iraq đã giảm đi sau thời kỳ tăng vọt năm 2007 thì con số đó vẫn ngày một cao lên. Hơn 4.259 binh lính Mỹ đã tử trận trong vòng 6 năm qua và con số này chắc chắn sẽ tăng lên khi mà cuộc chiến tranh này vẫn chưa kết thúc ít nhất trong vòng 18 tháng nữa theo lịch trình mà Tổng thống Mỹ Obama đưa ra.
Cỗ máy chiến tranh của Mỹ sẽ không thể hồi phục với vũ khí đã hao mòn, tinh thần cũng như sức khỏe của các binh lính sa sút. Khoảng 20% các binh lính của Mỹ có vấn đề về trí não do kết quả của những cuộc chiến tranh lâu dài ở Irắcvà Afghanistan.
Cuộc chiến tại Irắc cơ bản đã kết thúc vào ngày 1/5/2003 như Tuyên bố của Tổng thống G.Bush, nhưng từ đó đến nay, số lính Mỹ thiệt mạng đã vượt xa con số tử trận khi tham chiến. Gần như ngày nào lính Mỹ tại Irắc cũng bị tấn công. Số lính Mỹ thiệt mạng thời “hậu chiến” tính đến nay là trên hàng ngàn người. Tính đến ngày 17/3/2009, ít nhất 4.259 lính Mỹ và 307 lính thuộc lực lượng liên quân đã thiệt mạng tại Irắc; và có ít nhất 31.102 lính bị thương tính đến ngày 28/2/2009. Lính Mỹ luôn sống trong tâm trạng hoảng loạn, còn các gia đình có con em đang đóng quân tại Irắc thì hoang mang, lo sợ cho tính mạng của họ. Họ đã nhiều lần tổ chức các cuộc biểu tình đòi chính phủ phải rút quân ở Irắc về nước. Những điều đó đã gây nên sức ép nặng nề đối với chính phủ Mỹ và Nhà Trắng buộc phải gián tiếp thừa nhận rằng vấn đề Irắc không thể chỉ giải quyết đơn phương bằng sức mạnh quân sự và rằng, về một khía cạnh nào đó, cuộc chiến này vẫn chưa kết thúc ngay cả khi Mỹ đã bắt được cựu Tổng thống S.Hussein vào cuối năm 2003.
Đối với Irắc: Cuộc chiến mà Mỹ - Anh phát động đã gây thiệt hại lớn đến cơ sở hạ tầng của Irắc, gây chết chóc cho những thường dân vô tội: Khoảng 2 triệu người Irắc đã phải dời bỏ nhà cửa đi tỵ nạn khi Mỹ bắt đầu đưa quân vào nước này. Hơn 91.120 người Irắc đã thiệt mạng kể từ đó. Cho tới nay về cơ bản cuộc chiến tranh đã kết thúc. Hiện tại, số lính Mỹ đóng quân tại Irắc đã giảm xuống dưới con số 100.000. Theo một thỏa thuận được ký kết giữa Mỹ và Irắc, quân Mỹ sẽ rút dần ra khỏi Irắc vào cuối tháng 8 năm 2010 và cuối năm 2011, tất cả binh lính Mỹ sẽ rút khỏi Irắc. Tuy nhiên, hiện nay Irắc vẫn còn đang phải đối diện với rất nhiều những khó khăn trong nỗ lực tái thiết đất nước sau chiến tranh: vấn đề đáng lo ngại nhất ở Irắc lúc này đó chính là tình trạng bạo lực, khủng bố ngày càng gia tăng. Các vụ đánh bom khủng bố liên tiếp xảy ra khiến hàng ngàn dân thường vô tội thiệt mạng... Chính phủ mới đã lên điều hành đât nước tuy nhiên chính trị vẫn chưa thể ổn định, nhìn chung Irắc vẫn còn đang đứng trước vô vàn những khó khăn và thách thức to lớn.
Đối với nền kinh tế thế giới: Cuộc chiến tranh cũng gây hậu quả nặng nề cho nền kinh tế của hầu hết các quốc gia trên thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay mà trước hết là ảnh hưởng của nền kinh tế Mỹ, Anh.
Theo tính toán của các nhà kinh tế Mỹ, thiệt hại cho cuộc chiến này khoảng 1.900 tỷ USD, trong đó 1.400 tỷ là chi phí cho quân sự, 500 tỷ là chi phí cho việc giữ gìn hòa bình và an ninh trong nước, 115 tỷ là chi phí cho việc tái thiết Irắc, 778 tỷ là do thiệt hại giá dâu mỏ tăng… đó là chưa kể trường hợp cuộc chiến kéo dài, con số này sẽ còn tăng thêm lên nữa. Ngành hàng không của Mỹ đều phải cắt giảm các chuyến bay và kèm theo đó là việc cắt giảm việc làm. Trong 2003, hãng United Airlines phải tiến hành các thủ tục bảo hiểm phá sản; hãng American Airlines cũng đệ đơn xin bảo hiểm phá sản nếu không cắt giảm được 1.8 tỷ USD chi phí hàng năm. Dự kiến ngành hàng không Mỹ sẽ bị thiệt hại từ 4-6 tỷ USD trong năm 2003. Theo các chuyên gia kinh tế, cuộc chiến Irắc sẽ là đòn giáng mạnh vào nền kinh tế Mỹ. Bộ tài chính thông báo, các cân thu chi ngân sách của Chính phủ Liên bang Mỹ trong tháng 2/2003 sẽ thâm hụt lớn vào khoảng 96,33 tỷ USD. Mối nguy hiểm lớn nhất đối với Mỹ là các nước Hồi giáo có thể sẽ trả đũa bằng cách cắt đứt toàn bộ các mối quan hệ về tài chính với các quốc gia này.
Hội nghị thượng đỉnh của Liên minh Châu Âu họp tại Brucxen (Bỉ) đã khẳng định: ”Nền kinh tế thế giới đang trong trạng thái bất ổn định và bầu không khí chính trị trên toàn cầu đang đứng trước một thảm họa”. Suy thoái và lạm phát ở Châu  sẽ làm giảm mức tăng trưởng kinh tế trong khu vực đồng Euro xuống còn 1% mặc dù cuộc chiến tại Irac đã sớm kết thúc.
Ở Trung Cận Đông, ngành du lịch bị thiệt hại nặng nề do không còn ai muốn tới du lịch tại khu vực này. Tại Ai Cập, Liên hiệp du lịch dự báo sẽ bị thiệt hại khoảng 1.7 tỷ USD. Ngành du lịch các nước Gioocđani, Li Băng, Ixaren cũng phải gánh chịu nhứng hậu quả tương tự.
Tổng thư ký Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) – ông Keng Yong nói : đối với các nước ASEAN , chiến tranh Irắc sẽ làm cho tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của Hiệp hội giảm 1%. Các nước ASEAN như Malaixia, Indonesia, Brunei, Việt Nam tuy sản xuất được dầu mỏ nhưng vẫn lệ thuộc vào nguồn dầu từ Trung Đông; dó đó, nếu giá dầu tăng tới 40USD/thùng thì kinh tế ASEAN sẽ phải đối mặt với những thách thức to lớn. Còn như khi giá dầu tăng tới mức kỷ lục trên 60 USD/thùng như hiện tại thì hầu hết các nền kinh tế đều bị ảnh hưởng. Giá dầu tăng cao sẽ dẫn đến sự suy thoái của nền kinh tế thế giới, toàn bộ các thị trường tài chính sẽ suy sụp.
Đối với nền chính trị và an ninh thế giới: Chiến tranh có thể lật đổ một chính thể nhưng không chắc đã đem lại một nền hòa bình. Rất nhiều người dân thường vô tội trên thế giới đã bị cuốn vào và trở thành nạn nhân của những hành động bạo lực nối tiếp nhau. Không ai dám chắc mình sẽ được an toàn trong một thế giới mà các hành động bạo lực và khủng bố đang có xu hướng “toàn cầu hóa”. Kể từ sau ngày 11/9/2001, chưa bao giờ nạn khủng bố mà hiện thân là tổ chức Al Qaeda lại hiện rõ như trong năm 2003. Các vụ khủng bố liên tiếp xảy ra. Thế giới dù đã luôn cảnh giác, nhưng cảnh giác ở mọi nơi, mọi chỗ là điều không thể. Ngày 14/5/2003, khu nhà ở của người nước ngoài tại Arập Xêút bị đánh bom, ngày 16-5-2003, đến lượt Câu lạc bộ Tây Ban Nha ở Marốc. Hai tuần sau vụ nổ bom tại khách sạn Mariot của người Mỹ tại Indonexia, ngày 5-8, trụ sở Liên hợp quốc tại Irắc bị tấn công. Lịch sử Liên hợp quốc chưa bao giờ phải chịu một tổn thất lớn như vậy. Những vụ khủng bố gây ra thiệt hại lớn ở Ả rập xê út, Casablanca, Ixtanbun (Thổ Nhĩ Kỳ) được tổ chức với một trình độ kỹ thuật và một sự hiệp đồng rất cao và chặt chẽ. Những mục tiêu bị khủng bố là nhà thờ, trụ sở Liên hợp quốc, lãnh sự quán, khu du lịch, khách sạn, nhà hàng… Các vụ khủng bố được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau và điều đáng lo ngại là chúng chuyển sang tấn công các mục tiêu mềm như các địa điểm dân cư đông người. Những nhân viên Liên hợp quốc trong đó có Phó Tổng Thư kí De Melo đến Irắc thực hiện sứ mệnh tái thiết cho quốc gia này sau chiến tranh cũng trở thành nạn nhân của khủng bố. Nghiêm trọng nhất là vụ đánh bom hàng loạt tại ba nhà ga ở thủ đô Madrit của Tây Ban Nha ngày 11/3/2004 làm cho gần 200 người chết và 1.400 người bị thương. Những kẻ khủng bố ra tuyên bố đòi chính phủ Tây Ban Nha không được tiếp tục gửi quân tới Irắc và tiếp tục ủng hộ Mỹ trong cuộc chiến này.
Sự mất mát về con người càng ngày càng tăng lên theo mức độ tàn khốc của các hành động cực đoan cho thấy cuộc chiến chống khủng bố đã thất bại trên mọi phương diện. Việc cần làm lúc này là phải xác định rõ đâu là nguyên nhân sâu xa của các hành động khủng bố và cách thức tiến hành có hiều quả nhất để chống lại nó. Dứt khoát không thể dùng sức mạnh quân sự để chống khủng bố bởi lẽ bạo lực chỉ đẻ ra bạo lực mà thôi.
Trong khi tình hình thế giới còn nhiều bất ổn, an ninh ở nhiều quốc gia, nhiều khu vực được bảo đảm, Liên hợp quốc không thể là cơ quan bảo đảm và duy trì hòa bình cho các nước thành viên của mình thì các nước có xu hướng tự đưa mình trở lại cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân. Trong khi nươc Mỹ với kho vũ khí hạt nhân khổng lỗ vẫn còn nghiên cứu, cái tiến thêm sao cho dễ sử dụng và năng động hơn thì những nước nhỏ và yếu thế hơn như Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên lại buộc phải sử dụng đến chương trình phát triển hạt nhân như một điêu kiện tiên quyết đối với Mỹ trên bàn đàm phán để có thể dựa vào đó để có thể dựa vào nó để đảm bảo an ninh cho mình cho một thế giới đầy bất trắc như hiện nay. Điều đó lý giải vì sao cuộc khủng hoảng hật nhân trên bán đảo Triều Tiên vẫn chưa có dấu hiệu tiến triển, mặc dù dưới sự dàn xếp của Trung Quốc, phía Triều Tiên đã chị ngồi vào bàn đàm phán sáu bên để tìm ra một giải pháp hòa bình cho vấn đề này. Trong khi đó Iran tuyên bố sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cơ quan năng lượng nguyên tủ quốc tế (IAEA) vào thanh sát các cơ sở hạt nhân của nước mình, còn Libi tuyên bố từ bỏ chương trình hạt nhân vì không muốn gây căn thẳng với Mỹ. Các quốc gia này , nhất là Iran đã bị Mỹ liệt vào ba nước thuộc “liên minh ma quỷ”, rất lo ngại vì Mỹ sẽ sử dựng những cái cớ này mà một lần nữa sử dụng học thuyết đánh đòn phủ đầu. Sau khi Mỹ sử dụng học thuyết này ở Irắc, đến nay Nga và Ốxtraylia cũng tuyên bố bảo lưu quyền tấn công trước nếu thấy an ninh quốc gia bị đe dọa. Điều này càng làm cho tình hình thế giới càng trở lên bất ổn hơn
Trầm trọng hơn cuộc chiến này sẽ dẫn đến một hậu quả tất yếu: đó chính là dù tình hình thế giới có diễn biến thế nào, thế giới hậu Saddam sẽ sống trong mối lo sợ thường xuyên về các vụ khủng bố mới và đây mới chính là nguy cơ tiềm ẩn gây ra nhiều hậu quả không thể lường trước được và đáng lo ngại cho thế giới.
Việc Mỹ đơn phương tấn công quân sự vào Irắc mà không thèm đếm xỉa đến các cuộc công ước quốc tế đã gây nên lỗi bất bình và lo ngại sâu sắc cho cộng đồng thế giới. Cuộc chiến này còn dẫn ra một tiền lệ nguy hiểm cho nền anh ninh của các nước nhỏ. Trong bài phát biểu về cuộc tấn công của liên quân Anh - Mỹ nhằm vào Irắc vào 24/3/2003, Tổng thống Malaixia M.Mohammad cho rằng, ngày nay các quốc gia nhỏ và yếu không xỉa đến các cuộc công ước quốc tế đã gây nên lỗi bất bình và lo ngại sâu sắc cho cộng đồng thế giới. Cuộc chiến này còn dẫn ra một tiền lệ nguy hiểm cho nền anh ninh của các nước nhỏ. Trong bài phát biểu về cuộc tấn công của liên quân Anh- Mỹ nhằm vào Irắc vào 24-3-2003, Tổng thống Malaixia M.Mohammad cho rằng, ngày nay các quốc gia nhỏ và yếu không còn cảm thấy an toàn vì giờ đây Liên hợp quốc không thể bảo vệ các nước này trước sức mạnh khủng bố của các cường quốc. Ông nêu rõ việc Mỹ và đồng minh đơn phương tấn công Irắc là một trang đen tối nhất trong lịch sử thế giới vì nó làm cho mọi khía cạnh của luật pháp quốc tế trở nên vô nghĩa. Người dân Mỹ đang liên tục đấu tranh chống lại chính sách của nhà cầm quyền bởi họ ý thức được rằng, gây chiến với Irắc, Mỹ sẽ phải đối phó với toàn bộ thế giới Hồi giáo và như vậy không ai có thể đảm bảo sẽ không có những vụ tấn công trả đũa nhắm vào Mỹ trên phạm vi toàn cầu. Một khi chính trị bất ổn thì không thể có sự phát triển ông định cho nền kinh tế. Nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới, cần đoàn kết tiến hành cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ, chống lại mọi âm mưu đen tối của Mỹ trong mưu đồ thiết lập môt trật tự thế giới bất bình đẳng do Mỹ đứng đầu.
Trong thời gian gần đây, các lực lượng nổi dậy tại Irắc đã tiến hành hàng loạt các vụ bắt cóc người nước ngoài đang làm việc tại đất nước này. Điều này thực sự gây ra rất nhiều khó khăn cho việc tái thiết lại đất nước Irắc vốn đã bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh. Các quốc gia có con tin bị bắt cóc đã tìm mọi cách thương thuyết với những kẻ bắt cóc, song cũng có rất nhiều con tin bị hành quyết một cách dã man. Ngày 7-7-2004, Đài truyền hình Arập AI- Jazeera cho công chiếu cuốn băng ghi cảnh một nhóm Hồi giáo vũ trang Irắc tuyên bố đã bắt và sẽ giết chết một con tin người Philipin nếu Manina không sớm rút quân khỏi Irắc 72 tiếng đồng hồ sau đó. Đây là một bài toán vô cùng hóc búa đối với Tổng thống vừa mới đắc cử nhiệm kỳ hai của Philippin – bà G.Arroyo. Là một chính trị gia, Tổng thống G.Arroyo hiểu được tính chất vô cùng phức tạp của vấn đề. Philippin không thể lùi bước trước sức ép của quân khủng bố, đồng thời phải thực hiện những cam kết giúp đỡ đồng minh Mỹ tại Irắc. Vì vậy nếu nhượng bộ, Philippin sẽ làm cho Mỹ tức giận và nguy hiểm hơn sẽ tạo một tiền lệ không hay cho việc giải quyết vấn đề con tin đang ngày càng phát triển theo xu hướng xấu tại Irắc.
Chịu áp lực từ nhiều phí cuối cùng Tổng thống G.Arooyo đã nhượng bộ. Toàn bộ 51 quân nhân Philippin đã rút về nước trong ngày 20-7-2004 theo đúng yêu cầu của những kẻ bắt cóc và con tin người Philippin đã được thả tự do. Hành động này của bà G.Arooyo đã làm cho các cộng đồng minh tức giận, đặc biệt là Mỹ và Ôxtrâylia. Sau hành động này của Philippin chính phủ một số nước đã tuyên bố sẽ xem xét lại vấn đề tham gia vào liên quân trong việc gìn giữ hòa bình tại Irắc thời hậu chiến. Cho đến nay danh sách những con tin bị bắt cóc và hành quyết ngày càng dài và nếu tình hình không được cải thiện và nếu không kiểm soát được thì trong tương lai gần sẽ chảng một ai dám đến đất nước này cho dù công việc của họ mang lại lợi ích chi chính người dân Irắc.
5. Một vài ý kiến xung quanh cuộc chiến của Mĩ ở Irắc
Một năm sau khi chiến tranh kết thúc, nhưng cả Mỹ và Anh đều không tìm được một bằng chứng nào nhằm chứng minh cho những cáo buộc mà họ đã dựa vào để phát động chiến tranh. Trước đòi hỏi của dư luận và đặc biệt là yêu cầu của Quốc hội hai nước đòi Chính phủ phải điều trần trả lời về “vấn đề Irắc”, ngày 4/10/2004, trong phiên điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Mỹ Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Donald Rumsfeld lần đầu tiên chính thức thừa nhận rằng, không có bằng chứng “rõ ràng” về mối quan hệ giữa chính quyền S.Hussein và mạng lưới khủng bố quốc tế AL Qeada. Còn nhớ chính quyền Mỹ đã từng cáo buộc rằng, có mối quan hệ mật thiết giữa Irắc va mạng lưới khủng bố này và đây là một phần lý do để Mỹ tiến hành chiến dịch quân sự lật đổ chế độ Saddam Hussein và ép buốc cộng đồng quốc tế, nhất là Hội đồng bảo an liên hợp quốc chấp nhận cuộc chiến tranh Irắc do Mỹ và Anh cầm đầu.
Sau một thời gian dài trì hoãn, Ngoại trưởng Anh J.Straw thay mặt chính phủ này đã phải rút lại tuyên bố về việc Irắc có vũ khí hủy diệt. Phát biểu trong phiên chất vấn tại Hạ viện Anh, ông Straw thừa nhận những thông tin tình báo về vũ khí hủy diệt ở Irắc là “hoàn toàn sai sự thật”.
Như vậy là cả Mỹ và Anh đều phải thừa nhận về hành động phát động cuộc chiến chống Irắc là hoàn toàn bất hợp pháp.Tuy nhiên, ông Straw vẫn khẳng định rằng Chính phủ Anh vẫn đúng khi tham gia vào cuộc chiến chống Irắc do Mỹ cầm đầu. Ông tuyên bố tôi không thừa nhận, cho dù là muộn mằn, rằng những hành động mà chúng ta đã làm ở Irắc là sai. Tôi vẫn cho rằng phán quyết mà chúng ta đã đưa ra và hành động của chúng ta đã làm là đúng đắn. Loại bỏ S.Hussein làm thế giới an toàn hơn.
Trả lời một kênh truyền hình Anh ngày 17-10-2004, Tổng thư ký Liên hợp quốc K.Annma cho biết: “cuộc chiến chống Irắc mà Mỹ phát động không hề ngăn chặn được các vụ khủng bố xảy ra quanh ta hãy xem các hoạt động tấn công khủng bố xảy ra trên phạm vi toàn cầu và hãy xem lại những gì đang xảy ra tại Irắc, chúng ta không thể nói thế giới ngày càng được an toàn hơn”.
Với tuyên bố này Tổng thư ký Liên hợp quốc đã bác bỏ lời lẽ của chính quyền Mỹ từ trước đến nay rằng, họ tiến hành cuộc chiến tranh chống Irắc để xóa bỏ cái gọi là “mối nguy hiểm Sadda Hussein”, để “thế giới trở lên an toàn hơn”.
Còn nhớ trước đó một tháng Tổng thư ký Liên hợp quốc cũng đã tuyên bố rằng, cuộc chiến lật đổ chính quyền của Tổng thống S.Hussein của Mỹ là bất hợp pháp, ông nhấn mạnh:” cuộc chiến tại Irắc là phi pháp” vì nó đã vi phạm Hiến chương của Liên hợp quốc. Theo ông mọi quyết định về vấn đề Irắc phải được Liên hợp quốc thông qua chứ không thể tiến hành đơn phương và các quốc gia thành viên nên lấy cuộc chiến tại Irac làm “bài học đau đớn” để không có những hành động và việc làm tương tự trong tương lai. Ông nói: “Tôi hy vọng sẽ không có bất cứ một kiểu hành xử nào tương tự mà không có sự đồng thuận từ Liên hợp quốc và không được cộng đồng thế giới ùng hộ như ở Irắc vừa qua”.
Ông K.Annan nhấn mạnh, để đảm bào an ninh thế giới, cộng đồng quốc tế cần đoàn kết lại để chống chủ nghĩa khủng bố. Trong khi còn đang bối rối với tuyên bố của Tổng thư ký Liên hợp quốc về vệc thế giới trở nên mất an toàn hơn bởi cuộc chiến tại Irắc thì chính quyền Mỹ lại nhận được cú vỗ măt từ phía Nga. Tổng thống Nga V.Putin nói thẳng thừng “Các vụ tấn công khủng bố là nhằm vào ông Bush”. Theo Tổng thống V.Putin, các vụ tấn công vũ trang tại Irắc là do chủ nghĩa khủng bố quốc tế gây ra và nhằm vào cá nhân ông Bush trước thềm cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ với mục tiên gây tổn hại tối đa cho ông Bush để ông ta không thể tái đắc cử. Tổng thống Putin tiếp tục nhấn mạnh rằng ông vẫn bất đồng với Tổng thống Bush về việc Mỹ xâm chiếm Irắc, điều mà Nga đã phản đối kịch liệt với tư cách là thành viêc thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc.
Việc nghiên cứu chiến lược(IISS) cho rằng, cuộc chiến ở Irắc đã làm tăng nguy cơ khủng bố nhằm vào phương Tây, ít nhất là trong thời gian trước mắt. Dựa trên những điều tra nghiên cứu thời gian qua. IISS kết luận: “nhìn chung nguy cơ khủng bố với ngươi phương Tây và các tài sản của phương Tây ở các nước Arập dường như tăng lên sau khi cuộc chiến Irắc bắt đầu vào tháng 3-2003. Với sự xâm lược và chiếm đóng Irắc, Mỹ đã cho thấy ý đồ muốn thay đổi thực trạng chính trị ở thế giới Arập để phục vụ những lợi ích chiến lược và chính trị của Mỹ”. Hành động này đã giúp cho các nhóm khủng bố thu nhận thêm nhiều thành viên và ráo riết thực hiện các vụ tấn công khủng bố nhằm vào lợi ích của Mỹ và đồng minh. IISS cũng cho rằng, các chiến dịch của Mỹ và đông minh tấn công lực lượng nổi dậy được tiến hành trong bối cảnh đa số đại người dân Irắc đều mang tâm lý và nhận thức rằng. đất nước họ đang bị ngoại bang chiếm đóng, vì thế Mỹ không thể kiểm soát được tình hình hậu chiến ở Irắc và sức mạnh của vũ khí Mỹ không thể đưa đến sự ổn định và an toàn.
Sau khi cung cấp thông tin sai lệch về kho vũ khí có sức hủy diệt hàng loạt của chính quyền S.Hussein, CIA lại dự đoán sai lầm về sức mạnh kháng cự của lực lượng trung thành với ông Hussein khiến lính Mỹ liên tục rơi vào thế bị động. Ngày 19-10-2004, Bộ Quốc phòng Mỹ thông báo đã có 1.102 lính Mỹ đã thiệt mạng tại Irắc và con số lính bị thương là 8.016. Tới nay, con số này vẫn tiếp tục tăng lên hàng ngày.Lính Mỹ vẫn đang còn phải chống chọi chật vật với các ổ kháng cự rất mạnh trên khắp lành thổ Irắc, đặc biệt tại thành phố Fallujah- nơi Mỹ cho là thủ lĩnh của nhóm khủng bố Tawhid và Jihad là Al-Zaqarwi đang có mặt. Trong một phản ứng tiêu cực, 18 lính Mỹ thuộc đơn vị Quartermaster 343rd đã phản kháng thực thi nhiệm vụ chỉ vì yêu cầu của họ là phải được hộ tống trên đường vận chuyển nhiên liệu không được đáp ứng. Những người lính này cho rằng, có đến 99% đoàn xe của họ sẽ bị tấn công nếu không được hộ tống. Hậu quả là họ đã bị tống giam nhưng có lẽ thà bị giam mà sống sót trở về còn hơn là chết bởi những tay súng thuộc lực lượng nổi dậy tại Irắc.
KẾT LUẬN
Như vậy là về mọi mặt, cuộc chiến tranh ở Irắc do Mỹ phát động đã đem lại cho Mỹ và liên quân những hậu quả nặng nề. Hao người, tốn của và giờ đây Mỹ vẫn là mục tiêu chủ yếu của chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Một nền hòa bình thực sự ở Irắc sẽ còn lâu mới được thiết lập cho dù cuộc bầu cử đầu tiên được thành lập một nhà nước của người Irắc đã được tiến hành và chính phủ mới đang điều hành đất nước. Điều tệ hại nhât là chủ nghĩa khủng bố quốc tế không hề bị tiêu diệt hay suy yếu đi sau cuộc chiến tranh này, mà ngược lại, thế giới ngày càng trở nên mất an ninh. Chính phủ Mỹ giờ đây đang phải đối phó với hàng loạt vấn đè phức tạp nảy sinh sau chiến tranh: phải thành lập cho được một chính phủ thân Mỹ tại Irắc, phải trả lời các câu hỏi chất vấn của dư luận quốc tế và của nhân dân Mỹ xung quanh các cớ mà Mỹ dùng để phát động chiến tranh, phải căng mình ra đối phó với chủ nghĩa khủng bố quốc tế không chỉ trên đất Mỹ mà còn ở mọi nơi, mọi lúc trên thế giới. Cái giá mà Mỹ phải trả cho hành động gây chiến tại Irắc là quá lớn so với những toan tính của chính quyền của Tổng thống Bush. Trong con mắt của dư luận thế giới , Mỹ hành xử không khác gì một kẻ khủng bố chuyên nghiệp trong cuộc chiến chống khủng bố quốc tế hiện nay và nếu tiếp tục gây chiến như vậy, trong tương lai Mỹ có thể trở thành đối tượng chính của cuộc chiến tranh này…
PHỤ LỤC
Toàn văn tuyên bố chiến tranh của Tổng thống Mỹ
“Thưa toàn thể nhân dân Mỹ!
Quân Mỹ và đồng minh đã bắt đầu giai đoạn đầu tiên giải giáp Irắc , giải thoát dân chúng và bảo vệ thế giới khỏi sự nguy hiểm nghiêm trọng. Theo lệnh của tôi, liên quân bắt đầu đánh vào các mục tiêu quân sự quan trọng nhằm làm suy yếu khả năng phát động chiến tranh của Hussein. Đây là dạo đầu của một chiến dịch rộng rãi và được phối hợp.
Hơn 35 nước đã có những ủng hộ quan trọng, từ việc cho sử dụng căn cứ hải quân, không quân, chia sẻ tình báo, hỗ trợ hậu cần tới việc triển khai các đơn vị chiến đấu. Tất cả các nước trong liên minh này đã cùng gánh vác trách nhiệm và chia sẻ niềm vinh dự được phục vụ vì một mục tiêu quốc phòng chung.
Gửi tới tất cả các binh sĩ của quân đội Mỹ tại Trung Đông hiện nay. Hoà bình của một thế giới đầy biến động và hy vọng của những người dân bị đàn áp đang phụ thuộc vào các bạn.
Kẻ địch mà các bạn đối mặt rồi sẽ biết đến kỹ năng và sự dũng cảm của các bạn. Những người dân được các bạn giải thoát sẽ chứng kiến tinh thần của quân đội Mỹ. Trong cuộc chiến này, Mỹ sẽ phải đối mặt với một kẻ thù không quan tâm tới một cuộc chiến thường hay các quy tắc đạo đức. Saddam Hussein đã triển khai quân và mang vũ khí tới các khu vực dân thường, âm mưu sử dụng những người dân vô tội làm một lá chắn quân sự của ông ta - một hành động tàn bạo nhằm vào chính dân thường.
Tôi muốn người Mỹ và toàn thể thế giới biết rằng liên quân sẽ nỗ lực hết sức nhằm tránh cho thường dân vô tội khỏi những nguy hại. Một chiến dịch trên một mảnh đất chỉ rộng bằng California có thể sẽ gian nan hơn dự tính. Để giúp đỡ người dân Iraq hướng tới một đất nước tự do, ổn định và đoàn kết sẽ cần tới sự chiến đấu bền bỉ của chúng ta.
Chúng ta tới Irắc với sự tôn trọng người dân nước này, tôn trọng nền văn minh rực rỡ và lòng tin của họ. Chúng tôi không có tham vọng ở Iraq, trừ mục đích xoá bỏ mối đe doạ và khôi phục quyền kiểm soát cho người dân. Tôi biết rằng gia đình của các binh sĩ đang cầu nguyện cho họ nhanh chóng trở về an toàn. Hàng triệu người Mỹ đang cùng cầu nguyện cho người thân của các bạn và cho những người vô tội. Vì sự hy sinh đó, các bạn đã có được sự tôn trọng và biết ơn từ nhân dân Mỹ. Lực lượng của chúng ta sẽ sớm về nước khi nào họ hoàn thành nhiệm vụ.
Nước Mỹ miễn cưỡng tiến vào cuộc chiến này, nhưng mục tiêu thì hết sức rõ ràng. Nhân dân Mỹ, các quốc gia bằng hữu và đồng minh sẽ không thể khoan dung một chế độ vô luật đang đe doạ hoà bình với vũ khí huỷ diệt hàng loạt. Chúng ta sẽ đương đầu với sự đe doạ đó bằng cả quân đội, không quân, hải quân, lực lượng tuần duyên và thủy quân lục chiến, vì thế sau này cũng ta sẽ không phải dùng lính cứu hoả, cảnh sát và bác sĩ để đối mặt với mối đe doạ trên đường phố của chúng ta.
Giờ đây, chiến dịch đã bắt đầu. Cách duy nhất để giới hạn mối đe doạ là sử dụng lực lượng chiến lược. Và tôi có thể cam đoan với các bạn rằng đó không phải là chiến lược nửa vời. Chúng ta không chấp nhận một kết cục nào khác ngoài chiến thắng.
Thưa toàn thể nhân dân Irắc! Mối hiểm hoạ đối với đất nước và thế giới sẽ không còn. Chúng ta sẽ vượt qua thời điểm nguy hiểm này và tiếp tục con đường hoà bình.
Chúng ta sẽ bảo vệ tự do. Chúng ta sẽ mang tự do đến cho người khác. Chúng ta sẽ thắng thế.
Chúa phù hộ chúng ta và những ai bảo vệ nước Mỹ!”…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.PGS, TS Trình Mưu – TS Vũ Quang Vinh, Quan hệ quốc tế những năm đầu thế kỷ XXI vấn đề, sự kiện và quan điểm, Nxb lý luận chính trị. 2007
2. lịch sử quan hệ quốc tế tập 2
3.
4.
5.
6. IP Address Geolocation to Identify Website Visitor's Geographical Location
7.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận- cuộc chiến tranh nhân danh chống khủng bố của MỸ ở Irac.docx