Đề tài Cùng bàn về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ

Tài liệu Đề tài Cùng bàn về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ: Lời mở đầu Trong nền kinh tế, các trung gian tài chính bảo hiểm là một kênh huy động vốn đầu tư không thể thiếu và đầy tiềm năng. Bảo hiểm nhân thọ dài hạn vừa là nguồn bổ sung vốn đầu tư phát triển, vừa là biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo và ổn định đời sống kinh tế - xã hội ở mỗi nước. Thị trường bảo hiểm bùng nổ, vấn đề đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm đã và đang trở thành vấn đề sống còn, nhất là đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Đầu tư tài chính hiệu quả giúp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ bảo toàn quỹ tài chính bảo hiểm, góp phần nâng cao tiềm lực tài chính và đứng vững trong cạnh tranh. Thêm nữa, thu nhập từ đầu tư tài chính còn là nguồn để doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ thực hiện các cam kết với khách hàng, nâng cao tính hấp dẫn của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.Trên thế giới, các công ty bảo hiểm nhân thọ lớn coi đầu tư tài chính là hoạt động mang lại thu nhập chính và luôn được coi trọng. Có thể nói hoạt động đầu tư của DNBH nhân thọ có vai trò...

doc44 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1213 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Cùng bàn về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong nền kinh tế, các trung gian tài chính bảo hiểm là một kênh huy động vốn đầu tư không thể thiếu và đầy tiềm năng. Bảo hiểm nhân thọ dài hạn vừa là nguồn bổ sung vốn đầu tư phát triển, vừa là biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo và ổn định đời sống kinh tế - xã hội ở mỗi nước. Thị trường bảo hiểm bùng nổ, vấn đề đầu tư tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm đã và đang trở thành vấn đề sống còn, nhất là đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Đầu tư tài chính hiệu quả giúp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ bảo toàn quỹ tài chính bảo hiểm, góp phần nâng cao tiềm lực tài chính và đứng vững trong cạnh tranh. Thêm nữa, thu nhập từ đầu tư tài chính còn là nguồn để doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ thực hiện các cam kết với khách hàng, nâng cao tính hấp dẫn của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ.Trên thế giới, các công ty bảo hiểm nhân thọ lớn coi đầu tư tài chính là hoạt động mang lại thu nhập chính và luôn được coi trọng. Có thể nói hoạt động đầu tư của DNBH nhân thọ có vai trò rất lớn không những đối với DNBH nhân thọ mà còn đối với toàn bộ tư tài chính của nền kinh tế. Với ý nghiã đó, em chọn đề tài "Bàn về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ" Cấu trúc của bài viết gồm ba phần: Phần I: Lý luận chung về hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Phần II: Thực trạng hoạt động đầu tư của một số doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam Phần III: Một số kiến nghị và giải pháp Đây là một đề tài còn khá mới mẻ, và nguồn số liệu thu thập được còn hạn chế nên bài viết chắc còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự chỉ bảo và góp ý của cô giáo để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn cô giáo - Thạc sỹ Phạm Thị Định đã nhiệt tình giảng dạy và giúp đỡ em rất nhiều để em hoàn thành được bài viết này. Hà Nội ngày 29/12/03 I.lý luận chung 1.lý luận chung về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ : 1.1.Khái niệm về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm Bảo hiểm là sự chia nhỏ tổn thất của một số ít người cho nhiều người có cùng khả năng gặp phải những rủi ro tương tự bằng cách thu của họ một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để hình thành nên quỹ tài chính bảo hiểm từ đó bồi thường (chi trả) cho họ những thiệt hại về tài chính do rủi ro bất ngờ gây nên . Quỹ tài chính BH Chi trả Phí bảo hiểm Người tham gia BH gặp rủi ro Người tham gia Bảo hiểm Sơ đồ 1: Cơ chế hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm . Người Bảo Hiểm Qlý Đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là "sự đảo ngược của chu kỳ sản xuất kinh doanh". Việc tiêu thụ sản phẩm dựa trên quy trình: phí bảo hiểm được thu trước, còn cam kết trả tiền bảo hiểm được thực hiện sau. Giá trị sử dụng của sản phẩm bảo hiểm chỉ được thực hiện sau khi mua một khoảng thời gian nhất định. Như vậy doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) có trong tay một quỹ tài chính tập trung khá lớn, nhưng quỹ này sẽ không được sử dụng để bồi thường ngay nên DNBH có thể sử dụng lượng tiền nhàn rỗi này để đầu tư . Như vậy: Đầu tư tài chính của một doanh nghiệp bảo hiểm là việc doanh nghiệp bảo hiểm sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực đầu tư theo luật định. Mỗi nước khác nhau thì có những quy định khác nhau về lĩnh vực đầu tư của DNBH. 1.2.Đặc điểm của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ: Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, hoạt động đầu tư quỹ tài chính rất phức tạp do sản phẩm bảo hiểm nhân thọ cũng đa dạng và phức tạp hơn, lại thêm cạnh tranh khốc liệt trên thị trường.Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thường là hợp đồng dài hạn nên hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có một số đặc trưng cơ bản sau: Một đặc điểm chung của hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là chịu tác động rất lớn của những thay đổi về lãi suất và lạm phát do nguồn vốn đem đầu tư thường là dài hạn. Do tính chất dài hạn của các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ và nhu cầu chi có thể dự đoán được một cách khá chính xác nên các quỹ bảo hiểm nhân thọ thường đầu tư vào các loại chứng khoán dài hạn. Quy mô các quỹ bảo hiểm nhân thọ lớn hơn các quỹ bảo hiểm phi nhân thọ xét dưới góc độ phí bảo hiểm. Thu nhập của công ty bảo hiểm nhân thọ thường lớn hơn các khoản chi và tất cả các khiếu nại có thể được thanh toán từ phí bảo hiểm và thu nhập từ đầu tư trong năm. Do vậy, DNBH nhân thọ ít có nhu cầu đầu tư vào chứng khoán ngắn hạn. Theo nghiên cứu của các chuyên gia tính toán thì một hợp đồng bảo hiểm phù hợp với công ty bảo hiểm nhân thọ là một hợp đồng mà ngày thanh toán đáo hạn của hợp đồng trùng với ngày thanh toán đáo hạn của hạng mục đầu tư. Đầu tư nước ngoài của quỹ bảo hiểm nhân thọ thường ít hơn bảo hiểm phi nhân thọ. Bảo hiểm nhân thọ có tính tiết kiệm nên việc đầu tư có ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường. 1.3.Vai trò của hoạt động đầu tư trong DNBH nhân thọ. 1.3.1.Đối với doanh nghiệp bảo hiểm : DNBH không chỉ có nhiệm vụ thu chi quỹ tài chính bảo hiểm mà còn phải phát triển quỹ tài chính này. Đầu tư tài chính nguồn vốn nhàn rỗi có ý nghĩa quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bảo hiểm. Đầu tư có hiệu quả chính là phát triển quỹ tài chính của DNBH. -Hoạt động đầu tư có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường. Tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện giảm phí bảo hiểm, từ đó tạo lợi thế so với đối thủ cạnh tranh. - Chiến lược thiết kế và bán sản phẩm của doanh nghiệp cũng bị chi phối bởi hoạt động đầu tư thông qua việc định giá các sản phẩm bảo hiểm, mở rộng phạm vi trách nhiệm cũng như tăng thêm quyền lợi cho khách hàng. -Hoạt động đầu tư đóng góp vào sự tăng trưởng thu nhập và lợi nhuận của của doanh nghiệp bảo hiểm, từ đó giúp doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng quy mô, tăng thêm thu nhập cho người lao động. Đồng thời còn giúp các doanh nghiệp bảo hiểm bù đắp sự mất giá của đồng tiền, bảo toàn quỹ tài chính bảo hiểm trước rủi ro lạm phát . Ngoài ra, hoạt động đầu tư còn có một số ý nghĩa khác như : giúp doanh nghiệp khuếch trương quảng cáo thông qua đầu tư bất động sản hoặc tạo thêm khách hàng cho doanh nghiệp thông qua hoạt động cho vay (khi người vay mua bảo hiểm tại công ty). 1.3.2.Đối với doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ : Nếu như trong doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, thu nhập từ hoạt động đầu tư tài chính giúp doanh nghiệp bù đắp các chi phí kinh doanh,có điều kiện để giảm phí bảo hiểm, tăng khả năng ký kết hợp đồng bảo hiểm, nâng cao mức giữ lại trong các hợp đồng tái bảo hiểm, từ đó ổn định và nâng cao kết quả kinh doanh thì trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, đầu tư quỹ dự phòng là sự bắt buộc vì tính chất kỹ thuật của nghiệp vụ bảo hiểm này. Nếu các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ không đầu tư hoặc thu nhập từ hoạt động đầu tư không đủ lớn để bù đắp các khoản "nợ tiết kiệm" đối với người được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo hiểm sẽ lâm vào tình trạng thua lỗ ; trầm trọng hơn có thể dẫn tới phá sản. Như vậy có thể nói đầu tư là một hoạt động có vai trò sống còn đối với việc tồn tại và phát triển của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cũng có những vai trò quan trọng như các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung. Ngoài ra nó còn thể hiện một số nét quan trọng sau : -Hoạt động đầu tư giúp họ thực hiện các nghĩa vụ tài chính của mình đối với người tham gia bảo hiểm. Bởi vì bảo hiểm nhân thọ không chỉ có tính rủi ro mà còn có tính tiết kiệm. Do đó việc đầu tư có hiệu quả không đơn thuần là phát triển quỹ tài chính mà còn là trách nhiệm của DNBH để đảm bảo cho khách hàng được trả lãi. -Thu nhập từ đầu tư là nguồn tài chính để doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện các cam kết với khách hàng, tăng các khoản lợi tức chia thêm cho các hợp đồng bảo hiểm, qua đó nâng cao tính hấp dẫn cho các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. -Đầu tư giúp DNBH nhân thọ bù đắp sự mất gía của đồng tiền, bảo toàn quỹ tài chính trước rủi ro lạm phát, đảm bảo khả năng chi trả của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ trong tương lai . 2.Nguyên tắc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm được ví như một "cánh tay" của doanh nghiệp bảo hiểm cùng với "cánh tay" kinh doanh trực tiếp. Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt để đảm bảo đầu tư an toàn và hiệu quả doanh nghiệp bảo hiểm cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản sau : 2.1.Nguyên tắc an toàn Nguyên tắc này được đặt ra nhằm hạn chế tối đa rủi ro trong đầu và bảo toàn nguồn vốn sử dụng. Hoạt động đầu tư luôn đứng trước những rủi ro như : Rủi ro về lãi suất Rủi ro tín dụng Rủi ro thị trường Rủi ro tiền tệ Rủi ro biến động giá trong đầu tư chứng khoán . Khi tiến hành hoạt động đầu tư, các doanh nghiệp bảo hiểm cần chú ý đến tất cả những rủi ro trên để hoạt động đầu tư được hiệu quả hơn. Trước những rủi ro đó việc đảm bảo an toàn vốn là rất quan trọng , nó đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp bảo hiểm, tạo lòng tin cho khách hàng từ đó tăng thêm uy tín cho doanh nghiệp. Nguyên tắc này yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm phải đa dạng hoá danh mục đầu tư của mình nhằm phân tán và giảm thiểu những rủi ro có thể gặp phải. Nguyên tắc an toàn được pháp luật thể chế bằng việc quy định danh mục đầu tư với những lĩnh vực có mức độ rủi ro đầu tư thấp.Cụ thể như sau : Điều 98,Luật kinh doanh bảo hiểm ban hành năm 2000 quy định doanh nghiệp bảo hiểm được đầu tư vào những lĩnh vực sau: Mua trái phiếu chính phủ; Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp; Kinh doanh bất động sản; Góp vốn vào các doanh nghiệp khác; Cho vay theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng; Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng (trích điều 98-Luật kinh doanh bảo hiểm) 2.2.Nguyên tắc sinh lời: Một trong những mục tiêu quan trọng của hoạt động đầu tư là tạo ra lợi nhuận.Lợi nhuận cao là mục tiêu của tất cả mọi doanh nghiệp khi tham gia kinh doanh trên thị trường. Với doanh nghiệp bảo hiểm, lợi nhuận là rất cần thiết giúp doanh nghiệp tăng cường sức mạnh tài chính, đứng vững trong cạnh tranh và thực hiện các chiến lược của mình. Lợi nhuận tạo ra từ hoạt động đầu tư sẽ giúp doanh nghiệp bảo hiểm có điều kiện giảm phí và mở rộng phạm vi bảo hiểm. Tóm lại đây là kết quả cuối cùng mà doanh nghiệp bảo hiểm theo đuổi . Tuy nhiên, muốn thu được tỷ suất lợi nhuận cao thì rủi ro khi đầu tư cũng tăng theo. Vì vậy nhà quản lý đầu tư cần nghiên cứu sao cho hoạt động đầu tư vừa đảm bảo nguyên tắc an toàn lại vừa đem lại mức lợi nhuận như mong muốn. 2.3.Nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên. Khả năng thanh toán là khả năng mà doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng các tài sản của mình để đáp ứng các trách nhiệm thanh toán đã đến hạn. Do các khiếu nại của các DNBH rất khó dự đoán nên họ phải giữ một tỷ lệ đầu tư nhất định vào các hạng mục đầu tư có tính thanh khoản cao để đảm bảo thanh toán ngay khi cần thiết. Song song với mục tiêu lợi nhuận là mục tiêu đảm bảo khả năng thanh toán.Thực tế hai mục tiêu này thường có sự đánh đổi lẫn nhau: Khi doanh nghiệp bảo hiểm muốn tăng lợi nhuận thì phải chấp nhận tăng khả năng rủi ro, nếu rủi ro thực tế xảy ra thì khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ bị đe doạ. Do đó việc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phải đảm bảo có tính thanh khoản hợp lý vì doanh nghiệp bảo hiểm có thể phải thanh toán cho khách hàng bất kỳ lúc nào khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Tất cả các nguyên tắc đầu tư cần được áp dụng một cách linh hoạt tuỳ thuộc vốn đầu tư được hình thành từ nguồn nào. Đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm từ các nguồn vốn nợ (như các quĩ Dự phòng nghiệp vụ ) phải tuân thủ hết sức nghiêm ngặt các nguyên tắc đầu tư trên. Bởi vì đây không phải là tiền của doanh nghiệp bảo hiểm mà là khoản nợ của doanh nghiệp đối với khách hàng. Các nguyên tắc đầu tư trên đòi hỏi các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cần đa dạng hoá các hạng mục đầu tư của mình, có chiến lược đầu tư thích hợp với quy mô của doanh nghiệp cũng như phù hợp với điều kiện thị trường. 3.Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ : 3.1.Nguồn vốn điều lệ Doanh nghiệp bảo hiểm thường phải ký một phần vốn điều lệ của mình theo quy định của pháp luật. Ơ Việt Nam hiện nay quy định bằng 5% vốn pháp định, phần còn lại DNBH có thể đem đi đầu tư sinh lời. Trong DNBH nhân thọ, nguồn vốn này chưa phải là chiếm tỷ trọng lớn nhưng có vai trò khá quan trọng. Nó là nguồn vốn tự có của doanh nghiệp nên không chịu sự kiểm soát và quy định chặt chẽ của pháp luật, do đó DNBH có thể đem đầu tư vào những khoản mục có tỷ suất lợi nhuận cao nhằm phục vụ những chiến lược và mục tiêu của mình. 3.2.Quỹ dự trữ bắt buộc Trong quá trình kinh doanh rủi ro, bản thân DNBH cũng có thể gặp phải những rủi ro gây ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp, từ đó có thể ảnh hưởng đến khách hàng.Vì vậy Nhà nước phải yêu cầu DNBH phải trích lập các quỹ dự trữ bắt buộc để không những đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà còn bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam quy định các DNBH phải trích 5% lợi nhuận sau thuế hàng năm để lập quỹ dự trữ bắt buộc, mức tối đa của quỹ này là 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp bảo hiểm. 3.3.Quỹ dự trữ tự nguyện Trong quá trình hoạt động kinh doanh, các DNBH luôn phải duy trì khả năng thanh toán của mình. Ngoài quỹ dự trữ bắt buộc, DNBH có thể thành lập quỹ dự trữ tự nguyện. Quỹ này được lấy từ lợi nhuận sau thuế chưa phân phối của doanh nghiệp. DNBH thành lập thêm quỹ này nhằm tăng khả năng thanh toán của mình, thực hiện tốt các cam kết với khách hàng. Các quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện của DNBH thường chiếm tỷ trọng không lớn trong nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhưng cũng có vai trò quan trọng, góp phần tăng doanh thu và đảm bảo khả năng thanh toán của DNBH. 3.4.Các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng và lợi tức để lại của doanh nghiệp. Vào cuối mỗi năm tài chính, lợi nhuận sau thuế của DNBH được sử dụng để chia cổ tức cho cổ đông đối với công ty cổ phần, trích lập các quỹ như quỹ đầu tư phát triển, quỹ khen thưởng phúc lợi,... phần còn lại sẽ được bổ sung vào nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp. Trong kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, DNBH còn có các quỹ đầu tư hình thành từ lợi tức để lại, đảm bảo cho những cam kết có chia lãi. 3.5.Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm a, Quỹ dự phòng nghiệp vụ trong DNBH Theo quy định hiện hành thì dự phòng nghiệp vụ là quỹ bắt buộc doanh nghiệp bảo hiểm phải lập để thực hiện cam kết với khách hàng theo hợp đồng bảo hiểm trong mọi tình huống. Ngoài ra,các quỹ dự phòng nghiệp vụ còn đóng vai trò " van điều chỉnh " thu , chi và lợi nhuận của doanh nghiệp, đảm bảo doanh nghiệp luôn trong tình trạng phát triển và ổn định. Quỹ dự phòng nghiệp vụ nếu không được kiểm soát chặt chẽ, vận hành tuỳ tiện sẽ phản tác dụng và gây hại cho doanh nghiệp. Dự phòng nghiệp vụ có nguồn gốc từ phí thuộc sở hữu của doanh nghiệp, có chiều hướng ngày càng tăng về quy mô do tăng trưởng về nghiệp vụ và mức giữ lại. Sự tăng trưởng của quỹ dự phòng nghiệp và tính ổn định tương đối của nó trở thành một tiềm năng tài chính của doanh nghiệp ,được doanh nghiệp sử dụng vào đầu tư trong chiến lược kinh doanh tổng hợp kinh doanh của mình . Quỹ dự phòng nghiệp vụ của DNBH bao gồm : Dự phòng toán học; Dự phòng chi trả ( bồi thường); Dự phòng đảm bảo cân đối; Dự phòng chia lãi; b, Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của DNBH nhân thọ là tổng dự phòng nghiệp vụ trừ các khoản tiền bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kỳ. Luật kinh doanh bảo hiểm quy định khoản tiền bồi thường xuyên trong kỳ đối với DNBH nhân thọ là lớn hơn hoặc bằng 5% tổng dự phòng nghiệp vụ. Cuối mỗi năm tài chính, DNBH trích lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ từ quỹ tài chính bảo hiểm cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và cho phần trách nhiệm còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong năm tài chính tiếp theo, các quỹ dự phòng nghiệp vụ thường không phải sử dụng để chi trả, bồi thường hết ngay. DNBH có thể lấy từ tiền phí thu được trong năm để chi trả bồi thường cho phần trách nhiệm phát sinh từ những hợp đồng ký từ những năm trước. Do vậy DNBH sẽ có một phần quỹ dự phòng nghiệp vụ là "nhàn rỗi " có thể đem đi đầu tư để sinh lời. Trong các nguồn đầu tư trên thì nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ của DNBH luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư. Đối với DNBH nhân thọ, nguồn vốn này chiếm đến trên dưới 90%. Việc đầu tư nguồn vốn này chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật. ở Việt Nam luật pháp quy định như sau: Mua trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng không hạn chế . Mua cổ phiếu ,trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn vào các doanh nghiệp khác tối đa là 50%vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Đối với việc kinh doanh bất động sản, cho vay, uỷ thác đầu tư qua các tổ chức tài chính tín dụng tối đa là 40% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. 4.Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ : Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, trong đó bao gồm cả những nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài. 4.1. Những nhân tố bên trong: 4.1.1. Các nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ. Có thể nói nghĩa vụ tài chính của DNBH là nhân tố then chốt quyết định sự lựa chọn các hình thức đầu tư của công ty bảo hiểm, đặc biệt là nghĩa vụ đối với khách hàng( người được bảo hiểm).Nghĩa vụ này được quy định tại các điều khoản của hợp đồng bảo hiểm. Hình thức đầu tư của DNBH sẽ phụ thuộc vào bản chất các nghĩa vụ của DNBH đối với khách hàng. Nguồn vốn đem đi đầu tư của DNBH phần lớn lấy từ các quỹ dự phòng nghiệp vụ; Do đó để đảm bảo quyền lợi của khách hàng cũng như đảm bảo khả năng thanh toán của công ty thì DNBH khi đầu tư không chỉ tính đến lợi nhuận mà cón phải đảm bảo khả năng đáp ứng cao trách nhiệm đối với người được bảo hiểm. Nếu như không có sự quản lý hoạt động đầu tư một cách chặt chẽ, DNBH sẽ có xu hướng tìm kiếm các hình thức đầu tư sao cho thu được lợi nhuận cao nhất trên cơ sở tài sản tài chính hiện có. Cũng như DNBH phi nhân thọ, DNBH nhân thọ có hai nghĩa vụ tài chính chủ yếu là : Trách nhiệm đối với người được bảo hiểm Trách nhiệm đối với cổ đông. Bản chất của nghĩa vụ tài chính đối với người được bảo hiểm ở DNBH nhân thọ có ảnh hưởng lớn đến chính sách đầu tư của doanh nghiệp, đặc biệt là đến việc lựa chọn các tài sản được coi là đảm bảo cho nghĩa vụ đó. Nhìn chung, nghĩa vụ tài chính với người tham gia bảo hiểm của DNBH nhân thọ có thời hạn dài hơn so với DNBH phi nhân thọ, nhất là những nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ có liên quan đến việc cung cấp sản phẩm tiết kiệm và hưu trí dài hạn. Điều này có nghĩa là giới hạn thời gian cho việc đầu tư các quỹ của người tham gia bảo hiểm nhân thọ dài hạn hơn nhiều so với trong bảo hiểm phi nhân thọ.Thêm nữa, các luồng tiền thu vào (inflow) từ phí bảo hiểm nhân thọ tương đối ổn định do phí đã được tính trước và được thu định kỳ hoặc một lần. Do đó DNBH nhân thọ không phải lo lắng quá nhiều về tính thanh khoản của các tài sản trong danh mục đầu tư của mình. 4.1.2.Quy mô của doanh nghiệp bảo hiểm Quy mô của doanh nghiệp bảo hiểm cũng ảnh hưởng đến sự lựa chọn các hình thức đầu tư : Các DNBH có vốn đầu tư lớn sẽ có phạm vi lựa chọn đầu tư rộng hơn, có khả năng đầu tư vào nhiều danh mục khác nhau, đặc biệt là khi có quy định tỷ lệ đầu tư tối thiểu với một số lĩnh vực như bất động sản, trái phiếu chính phủ ...Ngược lại với những DNBH có vốn đầu tư với quy mô nhỏ hơn. Mức độ thanh khoản của các tài sản tài chính sẽ phụ thuộc vào quy mô đầu tư vào tài sản đó của DNBH so với quy mô của toàn thị trường.Ví dụ, một DNBH nhỏ thì do tài sản đầu tư có gía trị nhỏ nên khi cần họ có thể bán ngay ra thị trường mà không lo làm rối loạn thị trường, đảm bảo tính thanh khoản để có tiền mặt chi tiêu.Trong khi đó, với một DNBH lớn, nắm giữ một giá trị lớn cùng loại tài sản đầu tư đó , khi cần nếu bán ra thị trường có thể bị ảnh hưởng đáng kể do khi bán hàng với số lượng lớn thường bị giảm giá. Trong trường hợp này, tài sản đầu tư đó có thể coi là không đủ tính thanh khoản cần thiết. 4.1.3. Chính sách phân phối lợi nhuận Nhân tố này ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, khi doanh nghiệp ký kết những hợp đồng bảo hiểm có cam kết chia lãi như sản phẩm bảo hiểm nhân thọ trọn đời, hỗn hợp và niên kim.. -Nếu thị trường bảo hiểm địa phương có tập quán phân phối lợi nhuận cho người tham gia bảo hiểm dươí hình thức chia lãi bằng tiền mặt hàng năm thì DNBH sẽ chú trọng hơn vào mức thu nhập ngắn hạn từ việc đầu tư. -Ngược lại, nếu việc phân phối lợi nhuận cho người tham gia bảo hiểm nhân thọ được thực hiện chủ yếu dưới hình thức bổ sung vào số tiền bảo hiểm hoặc trả thưởng vào thời điểm kết thúc hợp đồng bảo hiểm thì DNBH ít quan tâm đến lợi nhuận đầu tư ngắn hạn và tập trung vào đầu tư dài hạn. 4.1.4.Các quan điểm đầu tư của nhà quản lý . Hoạt động đầu tư chịu tác động bởi nhiều nhân tố, nhưng quyết định đầu tư cuối cùng: đầu tư vào đâu, đầu tư dưới hình thức nào và giá trị bao nhiêu ... là do người chịu trách nhiệm quản lý đầu tư quyết định trong khuôn khổ pháp luật cho phép. Nếu người quản lý đầu tư là những người thận trọng thì họ thiên về lựa chọn những danh mục đầu tư có mức độ rủi ro thấp. Ngược lại nếu họ là những người ưa mạo hiểm, họ sẽ có xu hướng lựa chọn những danh mục đầu tư có mức độ rủi ro cao hơn nhưng tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng sẽ lớn hơn rất nhiều. Thực tế cho thấy rằng quan điểm quản lý đầu tư ở các thị trường bảo hiểm khác nhau là khác nhau. Điều này có ảnh hưởng tới hội đồng quản trị của các công ty bảo hiểm với tư cách là những người đặt ra các giới hạn chung cho chính sách đầu tư của công ty. Do chịu cùng một sức ép , các chính sách đầu tư nhìn chung có xu hướng tương tự nhau giữa các DNBH hoạt động trên cùng một thị trường. Tuy nhiên thực tế cũng cho thấy các triết lý hay quan điểm đầu tư không tách biệt với bối cảnh quy mô và tốc độ phát triển của thị trường vốn. Các thị trường vốn có quy mô lớn thường có sự tham gia tích cực của các công ty bảo hiểm. Các khu vực tài chính tự do và năng động hơn thường sẽ tạo ra các tập quán quản lý đầu tư thiếu thận trọng hơn. 4.2.Những nhân tố bên ngoài : Cũng như bất kỳ một hoạt động kinh tế nào khác , hoạt động đầu tư của DNBH luôn chịu tác động của các nhân tố môi trường bên ngoài như môi trường pháp lý, môi trường kinh tế -xã hội-chính trị... 4.2.1. Chế độ thúê của Nhà nước . Thuế là một nhân tố bên ngoài quan trọng có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động đầu tư của DNBH, cụ thể như sau: Nếu thuế suất áp dụng đối với thu nhập từ đầu tư khác với thúê suất áp dụng đối với thu nhập từ lãi vốn thì điêù đó sẽ làm ảnh hưởng tới việc lựa chọn hình thức đầu tư. Nếu thu nhập từ lãi vốn đầu tư không bị đánh thúê thì điều này có thể làm thay đổi tính hấp dẫn của các tài sản tài chính khác nhau. DNBH sẽ tăng giá trị đầu tư vào những lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích thông qua việc giảm thuế . Nhà nước khuyến khích đầu tư cho nền kinh tế bằng chính sách ưu đãi không không đánh thuế đối với lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp nếu lợi nhuận đó được đem tái đầu tư. Khi đó các DNBH sẽ có xu hướng để lại nhiều lợi nhuận sau thuế bổ sung vào vốn điều lệ, tăng nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp. 4.2.2.Các điều kiện của thị trường vốn. Quy mô của các thị trường vốn và thị trường tài chính trong nước có tác động quan trọng tới sự lựa chọn các hình thức đầu tư. Các thị trường vốn được tổ chức tốt có thể cung cấp một phạm vi rộng rãi các tài sản tài chính sẵn có và điều này được thể hiện trong danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm. Nếu thị trường vốn phát triển không đầy đủ , sự lựa chọn hình thức đầu tư sẽ bị hạn chế( Điều này thể hiện rất rõ ở thị trường Việt Nam trong những năm qua: Từ năm 2000, chúng ta đã có thị trường chứng khoán nhưng quy mô vẫn còn nhỏ và hoạt động chưa hiệu quả. 4.2.3. Một số công cụ quản lý khác của Nhà nước. DNBH không thể tự do đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của mình mà luôn chịu sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước phải có những hạn chế pháp luật đối với hoạt động đầu tư của DNBH, định hướng đầu tư , đưa ra những danh mục đầu tư nhất định, thậm chí giới hạn mức đầu tư tối đa , tối thiểu. Thực tế, nguồn vốn của DNBH là rất lớn và có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nên Nhà nước cần phải quản lý hoạt động đầu tư của DNBH nhằm mục đích: + Bảo vệ người tham gia bảo hiểm; +Định hướng sự lưu chuyển của các quỹ đầu tư ; +Giảm nguy cơ tập trung quyền lực trong lĩnh vực tài chính; 5. HìNH THứC và tổ chức hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ : 5.1.Hình thức đầu tư trong DNBH nhân thọ: 5.1.1.Cho vay có thế chấp Đối với DNBH nhân thọ, hoạt động đầu tư thông qua cho vay có vai trò rất quan trọng thể hiện ở những đặc điểm sau: Tuân thủ các tiêu chuẩn tài chính Tạo thu nhập ổn định cho DNBH Cung cấp cho xã hội một kênh huy động vốn Góp phần khuyến khích việc tiêu thụ các sản phẩm bảo hiểm Với tính chất là một công cụ đầu tư, khi tiến hành cho vay, các công ty bảo hiểm cũng phải chịu một số hạn chế nhất định như hạn chế đối với số tiền tối đa được phép cho vay hay hạn chế về đồng tiền cho vay. Hiện nay, các khoản cho vay có thế chấp của các DNBH chủ yếu đảm bảo bằng bất động sản. Ví dụ như vào cuối những năm 90 ở Mỹ, hơn 17% tổng giá trị các khoản đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ là đầu tư cho vay có tài sản thế chấp bằng bất động sản, trong khi những bất động sản do các công ty bảo hiểm này trực tiếp sở hữu chỉ chiếm 3%. Ngoài ra, các khoản vay theo đơn bảo hiểm nhân thọ ngày càng có xu hướng gia tăng. Đây cũng là một hình thức thu hút thêm khách hàng cho DNBH. ở Việt Nam hiện nay, việc cho vay theo đơn bảo hiểm đang rất thịnh hành và được các DNBH sử dụng như một hình thức cạnh tranh. 5.1.2.Đầu tư chứng khoán Đây là một công cụ đầu tư được các DNBH sử dụng rộng rãi nhất. Tại Mỹ vào những năm 90, giá trị đầu tư vào chứng khoán chiếm khoảng 60% tổng giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ.Ơ Pháp, có tới 63,9% giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm trong năm 1994 được giành để mua trái phiếu. Ngoài ra, 17% giá trị đầu tư của các công ty bảo hiểm nhân thọ Mỹ là các chứng khoán do Kho bạc Hoa Kỳ và các cơ quan chính phủ liên bang phát hành. Điều này có nghĩa là thu nhập từ các hoạt động đầu tư chứng khoán đem lại cho các công ty bảo hiểm là rất lớn. Ngoài ra, đầu tư vào chứng khoán có tính thanh khoản cao vì DNBH có thể nhanh chóng bán các loại chứng khoán ra thị trường nếu nhu cầu chi trả tiền mặt là cần thiết. Chứng khoán mà các DNBH đầu tư thường là cổ phiếu và trái phiếu . Cổ phiếu: Cổ phiếu là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó. Có hai loại cổ phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi . Cổ phiếu thường là một khoản đầu tư dưới hình thức cổ phần và nó khác hẳn so với trái phiếu trong khi cổ phiếu ưu đãi lại có tính chất của cả cổ phiếu và trái phiếu . Khi DNBH đầu tư vào cổ phiếu, họ được hưởng các quyền đối với công ty với tư cách là cổ đông,được sở hữu và chia cổ tức với mức độ tương đương với tỷ lệ cổ phần mà họ nắm giữ. Quyền lợi mà DNBH được hưởng lúc này tuỳ theo họ nắm giữ cổ phiếu thường hay cổ phiếu ưu đãi. Ngoài phần lãi thu được từ cổ tức còn có thể thu được lãi vốn. Đó là thu nhập mà DNBH có được do có sự chênh lệch giữa giá thị trường hiện tại và giá mua vào của cổ phiếu. Trái phiếu: Đây là một loại chứng khoán được phát hành dưới hình thức chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của tổ chức phát hành trái phiếu đối với người sở hữu trái phiếu. Công cụ nợ này có thể do Chính phủ hoặc các doanh nghiệp phát hành. Trái phiếu công ty có độ rủi ro cao hơn trái phiếu chính phủ nhưng lại có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Đầu tư vào trái phiếu chủ yếu chịu sự tác động của rủi ro lãi suất. Do trái phiếu có những lợi thế nhất định như có thời gian đáo hạn dài nên tạo điều kiện cho các DNBH nhân thọ loại trừ rủi ro lãi suất, đặc biệt là khi cạnh tranh trên các thị trường bảo hiểm đã khiến cho những đảm bảo về lãi suất đối với những hợp đồng bảo hiểm nhân thọ thông thường và niên kim có xu hướng tăng. Tóm lại, đầu tư vào chứng khoán có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với các hình thức đầu tư khác. Các DNBH thường có xu hướng đầu tư giá trị lớn vào danh mục này. Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán trong những năm qua,việc đầu tư vào thị trường chứng khoán của các DNBH ngày một gia tăng, nhất là các DNBH phi nhân thọ. Hiện nay các DNBH nhân thọ chủ yếu chuyển sang đầu tư vào chứng khoán và các khoản vay có mức độ đảm bảo ít hơn nhưng có mức tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng cao hơn. 5.1.3.Đầu tư bất động sản Hình thức đầu tư này cũng có vai trò quan trọng vì: -Duy trì sự ổn định giá trị, việc đầu tư vào bất động sản ít chịu ảnh hưởng bởi tác động của yếu tố lạm phát. -Phát huy tác dụng khuếch trương, quảng cáo, nâng cao hình ảnh của công ty. -Cung cấp nơi làm việc thuận lợi cho khách hàng để thắt chặt thêm mối quan hệ với họ. Chính vì những lý do trên mà hiện nay nhiều DNBH chiếm vị trí vững chắc trên thị trường bất động sản. Ví dụ như ở Đài Loan, công ty bảo hiểm nhân thọ Cathay Life vào cuối những năm 90 sở hữu tới 189 tòa nhà tại Đài Loan, trong đó công ty chỉ sử dụng 106 toà nhà, còn lại là cho thuê. Tuy nhiên, việc đầu tư vào bất động sản có rủi ro thị trường cao và có tính thanh khoản thấp. Do đó, các hoạt động kinh doanh bất động sản của DNBH luôn phải chịu những hạn chế nhất định. Những số liệu thống kê về thị trường bảo hiểm các nước OECD năm 1989 cho thấy đầu tư vào bất động sản của các công ty bảo hiểm chiếm tỷ trọng không lớn, nhất là DNBH phi nhân thọ do yêu cầu đảm bảo khả năng thanh toán. 5.1.4.Đầu tư khác : Ngoài những hình thức đầu tư trên, DNBH còn có thể đầu tư dưới các hình thức khác như: góp vốn liên doanh, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng, cầm cố, thế chấp, ký cược ký quỹ dài hạn ... tuỳ theo luật pháp của từng quốc gia. Với DNBH nhân thọ, nên nguồn vốn đầu tư thường là dài hạn nên danh mục đầu tư dài hạn của họ lớn hơn các công ty bảo hiểm phi nhân thọ.Trước đây, các khoản cho vay có đảm bảo bằng thế chấp là hình thức đầu tư chủ yếu của DNBH nhân thọ ở nhiều nước. Những khoản đầu tư này thường mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với các khoản đầu tư vào trái phiếu chính phủ, mặc dù tính thanh khoản không cao. 5.2.Tổ chức hoạt động đầu tư : Hình thức tổ chức hoạt động đầu tư của các DNBH phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu là qui mô của doanh nghiệp,tính chất nghiệp vụ bảo hiểm và những quy định của pháp luật có liên quan của từng nước. Có 3 hình thức tổ chức phổ biến được các công ty bảo hiểm trên thế giới sử dụng để tiến hành các hoạt động đầu tư của mình, đó là các hình thức sau: 5.2.1.Thành lập công ty đầu tư thuộc doanh nghiệp bảo hiểm Việc thành lập một tổ chức đầu tư độc lập dưới hình thức công ty đầu tư hay quỹ đầu tư do công ty bảo hiểm sở hữu toàn bộ cổ phần hoặc nắm cổ phần chi phối là hình thức áp dụng khá phổ biến ở các DNBH trên thế giới. Mô hình này phù hợp với các DNBH có quy mô lớn và phát triển, nó giúp các DNBH tập trung các nguồn lực của mình nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động đầu tư.Các quỹ này có thể chỉ tập trung vào một khu vực địa lý hay nhóm ngành nghề nhất định hoặc có phạm vi hoạt động rộng và có lĩnh vực đầu tư tổng hợp. Trong những năm gần đây, các công ty bảo hiểm có quy mô lớn chẳng hạn như AIG hay Prudential đã chuyển sang thành lập các quỹ đầu tư để tập trung các nguồn lực của mình, nâng cao chất lượng và hiệu quả của hoạt động đầu tư. 5.2.2.Tổ chức phòng đầu tư trực thuộc công ty. Mô hình tổ chức này thường được áp dụng đối với những DNBH có quy mô nhỏ hoặc DNBH mới thành lập . Do đó hoạt động đầu tư còn hạn chế hoặc chưa phát triển. Theo mô hình này, phòng đầu tư được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của một phó giám đốc doanh nghiệp phụ trách về đầu tư. Phòng này có trách nhiệm thực hiện chương trình đầu tư của doanh nghiệp mà hội đồng quản trị đã đề ra. Ngoài việc thông qua các tiêu chuẩn đầu tư của doanh nghiệp để trình trước ban tài chính của doanh nghiệp phê chuẩn, phòng đầu tư còn là nơi lưu giữ các loại cổ phiếu, trái phiếu và các công cụ đầu tư khác của DNBH; đồng thời phòng này cũng được giao nhiệm vụ thu lãi và cổ tức từ các khoản đầu tư, được trực tiếp tham gia vào việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản và các khoản thế chấp... Bên cạnh đó , phòng đầu tư còn hoạt động với tư cách là cố vấn cho tổng giám đốc và hội đồng quản trị khi có hoạt động sát nhập hoặc mua lại một công ty khác. 5.2.3.Mua cổ phần ở mức không chi phối của các công ty đầu tư khác Các DNBH có thể mua cổ phần ở mức không chi phối của các tổ chức đầu tư khác nhằm mở rộng và đa dạng hoá hoạt động đầu tư của mình. Hoạt động đầu tư trong các DNBH đòi hỏi cán bộ chuyên môn làm trong lĩnh vực này phải có những kỹ năng và kiến thức rộng về các loại hình đầu tư mà DNBH được phép hoạt động và kinh doanh theo luật định. 6.Đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ: 6.1.Mục tiêu đánh giá Hiệu quả là một chỉ tiêu tổng hợp, được nhìn nhận trên nhiều khía cạnh. Nhưng với tư cách là một tổ chức hạch toán kinh doanh trên thị trường, hiệu quả của việc sử dụng các nguồn vốn về đầu tư trong DNBH chính là hiệu suất sinh lời của đồng vốn. Đồng thời lợi ích của DNBH cũng không được đi ngược lại lợi ích của toàn xã hội mà phải gắn liền với lợi ích của xã hội. Mục tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư trong DNBH là để doanh nghiệp có thể kiểm soát và làm chủ những hạng mục đầu tư của mình, có chiến lược đầu tư hiệu quả và phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp cũng như tình hình thị trường. 6.2.Những chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả của hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Có nhiều chỉ tiêu khác nhau để đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của DNBH như: Giá trị hiện tại thuần NPV Thời gian hoàn vốn PP Tỷ suất hoàn vốn nội bộ IRR Tỷ suất lợi nhuận đầu tư Nhưng suy cho cùng thì mọi sự đầu tư đều có mục đích lớn nhất là tối đa hoá lợi nhuận. DNBH phải tính toán sao cho một đồng vốn bỏ ra thu được nhiều lợi nhuận nhất. Do đó việc đánh giá hiệu quả đầu tư của DNBH không nằm ngoài sự đánh giá thông qua chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận so với vốn đầu tư Trong thực tế , với mỗi sản phẩm bảo hiểm, DNBH thường bán được một số lượng lớn hợp đồng nên gía trị quỹ đầu tư cũng lớn. Doanh nghiệp phải đầu tư vào nhiều danh mục khác nhau với thời gian và tỷ suất lợi nhuận đầu tư khác nhau. Do vậy khi đánh giá hiệu quả đầu tư, DNBH phải so sánh lãi kỹ thuật với tỷ suất lợi nhuận đầu tư bình quân. Ngoài hiệu quả kinh tế có thể tính toán được, hoạt động đầu tư của DNBH còn mang lại nhiều lợi ích xã hội mà việc đánh giá hiệu quả là không đơn giản. Tuy nhiên, khi xem xét hiệu quả xã hội hoạt động đầu tư của DNBH có thể xem xét dựa trên một số khía cạnh sau: -Sự phù hợp của danh mục đầu tư đối với mục tiêu phát triển chung của nền kinh tế đất nước. - ảnh hưởng của các dự án đầu tư đến sự phát triển của các lĩnh vực kinh tế khác đối với đời sống xã hội. - Công ăn việc làm tạo ra qua các lĩnh vực đầu tư của DNBH. 6.3.Những phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tư. 6.3.1.Giá trị hiện tại ròng(NPV) Để thấy được danh mục nào đầu tư có lợi hơn,DNBH cần sử dụng phương pháp giá trị hiện tại ròng.Theo phương pháp này,DNBH phải dự kiến được lợi nhuận thu được,thời gian đầu tư,tỷ lệ hoàn vốn và các khoản chi.Công thức tính giá trị hiện tại ròng như sau: NPV= Trong đó VPV :giá trị hiện tại ròng Ti :Thu của doanh mục đầu tư thứ i Ci: Chi của doanh mục đầu tư thứ i n Thời gian đầu tư r: Tỷ suất lợi nhuận yêu cầu Nếu NPV >0 :có thể chấp nhận đầu tư và lựa chọn danh mục có NPV lớn nhất Nếu NPV<0: danh mục đầu tư bị loại bỏ 6.3.2.Tỷ suất lợi nhuận đầu tư Tỷ suất lợi nhuận Tổng lợi nhuận do đầu tư đầu tư = Tổng vốn đầu tư Với DNBH nhân thọ, nghiệp vụ bảo hiểm cho phép doanh nghiệp có thể đầu tư vào những lĩnh vực dài hạn. Nhưng việc đánh giá hiệu quả đầu tư trong bảo hiểm nhân thọ là phức tạp và khắt khe hơn nhiều so với bảo hiểm nhân thọ. Đánh giá hiệu quả đầu tư trong bảo hiểm nhân thọ phải đưa chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận lên hàng đầu . DNBH nhân thọ không chỉ đơn giản cần đầu tư có lời mà còn phải lớn hơn lãi suất kỹ thuật dùng để tính phí . Có như vậy DNBH mới đảm bảo có đủ tiền để trả cho khách hàng tham gia bảo hiểm. Vấn đề này được xem xét qua ví dụ: DNBH x có sản phẩm BHNT hỗn hợp thời hạn 5 năm,số tiền bảo hiểm 50 tr đ.tuổi của NĐBH là 50 tr.Bảng tỷ lệ tử vong tính phí như sau: Độ tuổi Tỷ lệ tử vong Số người sống Số người chết 50 2,0 100.000 200 51 2,3 99.800 230 52 2,4 99.570 239 53 2,7 99.331 268 54 3,1 99.063 307 55 3,7 98.756 365 Phí thuần đóng 1 lần trong bảo hiểm hỗn hợp tính như sau: f= Trong đó: x :độ tuổi tham gia bảo hiểm i :lãi suất kỹ thuật Giả sử lãi suất kỹ thuật DNBH áp dụng tính phí là 5% thì f =39.000.000đ .như vậy DNBH có thể dùng 39 tr khai thác từ hợp đồng để đem đầu tư.Giả sử tất cả phí được đem đầu tư thời hạn 5 năm thì tỷ suất lợi nhuận đầu tư phí bảo hiểm i2 là: i2= trong đó S:giá trị tương lai đưa việc đầu tư phí thuần Nếu i2= i1 =5% => S= 49.774.980,94đ à DNBH chỉ đủ tiền trả cho NĐBH Nếu i2 S< 49.774.980,94đ àDNBH không đủ dự phòng toán học để trả cho người được bảo hiểm Như vậy chỉ khi tỷ suât lợi nhuận đầu tư lớn hơn 5% thì DNBHNT mới đảm bảo đủ tiền chi trả cho người được bảo hiểm và trang trải các chi phí phát sinh. 6.3.3.Thời gian hoàn vốn Thời gian hoàn vốn của một dự án là độ dài thời gian để thu hồi đầy đủ khoản đầu tư ban đầu từ lợi nhuận thuần thu được. Công thức: T = Trong đó Wpv là lợi nhuận thuần thu được T là thời gian thu hồi vốn đầu tư Ivo là tổng số vốn đầu tư tính đến thời điểm các kết quả đầu tư bắt đầu phát huy tác dụng. Theo phương pháp đánh giá thời gian hoàn vốn, càng rút ngắn được thời gian hoàn vốn sẽ càng tốt hơn. Mặt khác để đánh giá hiệu quả đầu tư bằng chỉ tiêu thời gian hoàn vốn, các nhà quản trị còn thiết lập chỉ tiêu thời gian hoàn vốn cần thiết và thời gian hoàn vốn tối đa có thể chấp nhận được.Nếu thời gian hoàn vốn dài hơn thời gian tối đa cho phép thì dự án đầu tư sẽ bị loại bỏ. PHẦN HAI THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ TRONG DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM NHÂN THỌ Ở VIỆT NAM. I. Khái quát thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam Là một trong những quốc gia đông dân thứ 12 trên thế giới, Việt Nam rất có tiềm năng về bảo hiểm nhân thọ. Bảo hiểm nhân thọ bắt đầu được nghiên cứu để triển khai ở Việt Nam vào năm 1987 tổng công ty bảo hiểm Việt Nam tiến hành. Lúc đó thị trường tài chính chưa phát triển, chưa có môi trường đầu tư , chưa có văn bản pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm và người tham gia và công ty bảo hiểm cũng chưa được phép hoạt động trong lĩnh vực đầu tư. Hiện nay, Quốc hội đã thông qua luật kinh doanh bảo hiểm, Chính phủ ban hành NĐ42, 43. Môi trường kinh tế xã hội đã có nhiều thay đổi. Trên thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay đã có sự góp mặt của 20 công ty, trong đó có 5 công ty bảo hiểm nhân thọ, còn lại là các công ty bảo hiểm phi nhân thọ. Bảng 1: Danh sách các DNBH nhân thọ hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam: STT Tên doanh nghiệp Năm thành lập Hình thức sở hữu Vốn điều lệ hiện nay 1 Tổng công ty bảo hiểm nhân thọ Việt Nam( Bảo Việt ) 1964 Nhà nước 586 tỷ VND 2 Công ty bảo hiểm nhân thọ Prudential UK 1999 100% vốn nước ngoài 71 triệu USD 3 Công ty bảo hiểm quốc tế Mỹ (AIA) 2000 100% vốn nước ngoài 25 triệu USD 4 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Bảo Minh- CMG 1999 Liên doanh 10 triệu USD 5 Công ty TNHH bảo hiểm nhân thọ Manulife 1999 100% vốn nước ngoài 10 triệu USD (Nguồn: Tạp chí bảo hiểm năm 2003) Thị trường bảo hiểm nhân thọ với sự góp mặt của 5 công ty cả dưới hình thức công ty nhà nước và công ty 100% vốn nước ngoài hoạt động trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Trước kia Bảo Việt luôn là công ty chiếm vị trí độc quyền nhưng hiện nay thị phần của các công ty bảo hiểm như sau: Biểu 1: Thị phần của các công ty bảo hiểm nhân thọ theo doanh thu phí bảo hiểm năm2002 (Nguồn: Vinare) Doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân 23%/ năm, trong đó doanh thu bảo hiểm nhân thọ từ 0,05 tỷ đồng năm 1996 lên đến 2778 tỷ đồng năm 2001. Tỷ trọng phí bảo hiểm trên GDP của Việt Nam cũng tăng, nhất là trong vòng 3 năm trở lại đây: năm 2000 là 0,68%, năm 2001 lên 0,97%, và năm 2002 lên đến 1,4%GDP. Thị trường bảo hiểm nhân thọ có doanh thu phí khá cao. Năm 2002 là năm có mức tăng trưởng kỷ lục về số lượng hợp đồng khai thác mới với 1.300.000 hợp đồng, tăng 58% so với năm 2001. Các công ty bảo hiểm nhân thọ tiếp tục coi đại lý là kênh phân phối sản phẩm chính. Bên cạnh đó các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng chú trọng đến kênh phân phối qua ngân hàng. Cho đến nay các ngân hàng nước ngoài như ACB và HSBC là những ngân hàng đi đầu trong việc liên kết bán bảo hiểm nhân thọ. Doanh thu phí bảo hiểm của toàn thị trường giai đoạn 1998 - 2002 được thể hiện ở biểu đồ sau: Biểu 2: Tổng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ của toàn thị trường 1998 - 2002 (Nguồn: Thông tin thị trường bảo hiểm-tái bảo hiểm - Vinare) . Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước tiếp tục ổn định và phát triển với mức tăng trưởng GDP 7,04%, thị trường bảo hiểm Việt Nam năm 2002 tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao: Tổng phí bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ ước tính đạt 7685 tỷ VND, tăng 55% so với năm 2001 và chiếm 1,4% GDP trong đó tổng phí bảo hiểm nhân thọ đạt 4.615 tỷ VND, tăng trên 66% so với năm 2001. Kết quả nói trên của thị trường bảo hiểm Việt Nam đạt được trong bối cảnh thị trường quốc tế có nhiều biến động, kết quả kinh doanh của nhiều tập đoàn bảo hiểm trên thế giới đều giảm do tình hình tổn thất xấu và kết quả đầu tư yếu kém. Trong tình hình đó, các DNBH Việt Nam một mặt vẫn tiếp tục mở rộng thị trường, nâng cao chất lượng phục vụ; mặt khác vẫn đảm bảo an toàn tài chính cho hoạt động kinh doanh của mình. Vốn của toàn thị trường trong vòng 6 năm qua cũng có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Năm 1999 có 979 tỷ đồng, đến năm 2001 đạt 1754 tỷ đồng trong đó bảo hiểm nhân thọ đóng vai trò không nhỏ. Phân tích tỷ trọng vốn của toàn thị trường cho thấy vốn của các DNBH nhà nước hiện vẫn chiếm tỷ trọng lớn, tiếp theo là các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài, tiếp theo là các công ty bảo hiểm liên doanh và cuối cùng mới là các công ty cổ phần bảo hiểm . Nguồn dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm cũng tăng mạnh từ 198 tỷ đồng năm1994 lên đến 4130 tỷ đồng năm 2001. Với sự tăng trưởng doanh thu mạnh mẽ như vậy, các DNBH nhân thọ Việt Nam đã và đang có vai trò quan trọng trong việc đầu tư trở lại nền kinh tế đất nước. Với nguồn vốn tích luỹ được, trong những năm tới đây, các công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ tập trung vào việc đầu tư trở lại nền kinh tế trong các dự án lớn trung và dài hạn. Từ đây trở đi, các ưu thế về tiềm lực tài chính của các công ty bảo hiểm sẽ được thể hiện rõ trong nền kinh tế Việt Nam Bảng 2: Giá trị đầu tư trở lại nền kinh tế của toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 1996-2002: Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Giá trị đầu tư trở lại (tỷ đ) 74 137 977 1.446 1.672 2.704 4.482 7397 Tốc độ tăng trưởng(%) - 85,14 613,14 48,00 15,63 61,72 65,775 64,91 (Nguồn: Bộ tài chính) Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đang chứng kiến sự phát triển ngoạn mục, đặc biệt là ở khu vực các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ có vốn đầu tư nước ngoài. Cũng trong năm 2002, các công ty bảo hiểm nhân thọ trên thị trường đồng loạt gia tăng vốn hoạt động : Prudential hiện đã tăng vốn điều lệ lên đến 71 triệu USD, Bảo Minh_CMG và Manulife có mức vốn 10 triệu USD, AIA có mức vốn điều lệ 25 triệu USD. Tổng số vốn đăng ký thêm của các công ty so với mức vốn đăng ký ban đầu đã lên đến 57,3 triệu USD. Sự gia tăng vốn hoạt động này một mặt để đáp ứng theo quy định của Luật kinh doanh bảo hiểm, mặt khác thể hiện tiềm năng to lớn của thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam. Việc gia tăng vốn đã giúp cho các công ty bảo hiểm có thêm tiềm lực tài chính, mở rộng hoạt động, quan hệ khách hàng và mở rộng đầu tư. Tuy nhiên cũng đặt các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước vào tình trạng cạnh tranh ngày càng khó khăn hơn. Trong những năm gần đây, các DNBH Việt Nam đã chú trọng cải thiện công tác đầu tư tài chính: Một loạt các biện pháp mang tính chiều sâu được thực hiện nhằm đảm bảo lựa chọn được các dự án đầu tư thích hợp, an toàn cho nguồn vốn và mang lại hiệu quả kinh tế cao như: góp vốn liên doanh, tham gia thành lập công ty cổ phần, tham gia các dự án đầu tư , cho vay, gửi tiết kiệm tại ngân hàng,đầu tư chứng khoán... Hoạt động đầu tư tài chính của các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng được đa dạng hoá hơn so với trước. Các công ty bảo hiểm nhân thọ không chỉ dừng lại ở đầu tư trái phiếu Chính phủ dài hạn mà đã mở rộng sang lĩnh vực chứng khoán, xây dựng cơ bản,dịch vụ( khách sạn, ngân hàng, vui chơi giải trí , xây dựng cơ bản, cơ sở hạ tầng, công nghiệp nặng, giao thông vận tải) v.v Tuy nhiên cơ cấu đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm ở Việt Nam vẫn còn đơn điệu, đầu tư tập trung chủ yếu vào những công cụ đầu tư có tính thanh khoản cao để đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán thường xuyên. Do vậy mà hiệu quả đầu tư còn khiêm tốn. Hình thức đầu tư chủ yếu là gửi tiền vào các ngân hàng thương mại để hưởng lãi ( chiếm trên 50%). Trong khi tỷ lệ này ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Đức chỉ chiếm từ 1,1 - 1,9%. Kinh doanh chứng khoán được coi là công cụ đầu tư quan trọng thứ hai của các DNBH ở Việt Nam mới chỉ chiếm tỷ trọng trên 20%. Trong khi đó, ở hầu hết các nước, đây là công cụ đầu tư một cách rộng rãi nhất, ví như ở Pháp chiếm tới 92,4%, ở Anh chiếm 84,7% tổng giá trị đầu tư của các DNBH. Biểu 3: Cơ cấu đầu tư của các DNBH nhân thọ phân theo loại hình đầu tư năm 2002 (Nguồn : Tạp chí tài chính ) Xu hướng đầu tư chung của các DNBH nhân thọ trong những năm gần đây vẫn là đầu tư gián tiếp thông qua gửi ngân hàng, đầu tư vào chững khoán. Hoạt động đầu tư trực tiếp của các DNBH dưới hình thức góp vốn liên doanh, đầu tư bất động sản còn khá khiêm tốn. Sự phát triển sôi động của thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam trong những năm qua tiếp tục dự báo một tương lai phát triển mạnh mẽ của ngành bảo hiểm nhân thọ. Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước, thu nhập của người dân cũng sẽ tăng lên, nhận thức về BHNT ngày càng trở nên rõ ràng và cần thiết. Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động bảo hiểm còn tồn tại rất nhiều vấn đề. Đó là phạm vi và quy mô của thị trường vẫn còn nhỏ ,chưa tương xứng với tiềm năng và khả năng phát triển của nền kinh tế xã hội; mức độ đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của nền kinh tế xã hội còn hạn chế; một số lĩnh vực có nhu cầu bảo hiểm cao nhưng chưa được triển khai hoặc chỉ đạt tỷ lệ khai thác thấp. Ví dụ như bảo hiểm nông nghiệp mới chỉ triển khai thực hiện được trên 0,08% diện tích cây trồng và 0,1% vật nuôi; bảo hiểm tai nạn con người ,bảo hiểm học sinh -sinh viên mới chỉ đạt có 39%. Bảo hiểm nhân thọ tuy tăng trưởng nhảy vọt nhưng cũng mới chỉ tiếp cận có 2% dân số . Tuy nhiên là một quốc gia đông dân, Việt Nam rất có tiềm năng về bảo hiểm nhân thọ. Tính đến năm 2001, dân số Việt Nam có khoảng 80 triệu người nhưng mới chỉ có khoảng 1 triệu người tham gia bảo hiểm nhân thọ. Hiện nay có khoảng 2% dân số tham gia bảo hiểm nhân thọ, tập trụng chủ yếu ở Hà Nội và TP HCM- Đây là một tiềm năng rất lớn cho thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam. Đến năm 2010, thị trường bảo hiểm sẽ được phát triển nhanh và có hiệu quả với đầy đủ các yếu tố của thị trường để đa dạng hoá các loại hình nghiệp vụ bảo hiểm với chất lượng cao, góp phần đảm bảo an toàn cho nền kinh tế, thu hút nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Dự báo, số DNBH sẽ còn tăng thêm thích hợp theo thời gian và điều kiện tình hình, doanh thu bảo hiểm sẽ tăng từ 0,95%GDP lên khoảng 2%GDP năm 2005 và từ 2,8%-3% vào năm 2010. Mức tăng trưởng bình quân chung khoảng 20 -25% một năm,trong đó bảo hiểm nhân thọ trong những năm 2001-2005 sẽ tiếp tục tăng trưởng nhanh với tốc độ được dự đoán từ 25-40% và sẽ ổn định dần vào những năm sau ở mức 27-29% /năm. Mục tiêu này chính là nhằm nhanh chóng tăng tỷ lệ đóng góp của ngành bảo hiểm vào GDP, nâng cao vai trò của ngành trong việc ổn định đời sống xã hội, phát triển kinh tế đất nước. Bảng 3: Một số chỉ tiêu dự báo tăng mức phí bảo hiểm giai đoạn 2001 - 2010 DỰ BÁO TĂNG MỨC PHÍ BẢO HIỂM GIAI ĐOẠN 2001-2010. Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2010 BH phi nhân thọ(tỷ đ) 2158 2470 2860 3300 3800 7500 Tốc độ (%) 21,0 14,7 15,0 15,0 15,0 - Tỷ trọng/ tổng phí(%) 43,72 39,44 36,38 32,00 28,57 28,3 BH nhân thọ(tỷ đ) 2778 3800 5000 7000 9500 19000 Tốc độ tăng trưởng (%) 116,2 36,78 31,58 40,0 35,7 - Tỷ trọng/tổng phí(%) 56,28 60,56 63,62 68,0 71,43 71,7 Tổng phí bảo hiểm(tỷ đ) 4936 6270 7860 10300 13300 26500 Tốc độ tăng trưởng(%) 61,78 27 25,35 31 29,13 - Tỷ trọng/GDP(%) 0,97 - - - 2,0 3,0 (Nguồn:Vinare) II.Thực trạng đầu tư vốn của một số doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ việt nam 1.Thực trạng đầu tư vốn của công ty bảo hiểm nhân thọ Bảo Việt Do hiện nay Bảo Việt là DNBH chiếm thị phần lớn trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, hơn nữa trong phạm vi bài viết còn nhỏ và nguồn số liệu hạn chế, em xin được tập trung trình bày về thực trạng đầu tư của công ty bảo hiểm nhà nước Bảo Việt. Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam viết tắt là Bảo Việt là doanh nghiệp bảo hiểm được Nhà nước xếp hạng đặc biệt. Hoạt động trong cả hai lĩnh vực nhân thọ và phi nhân thọ, Bảo Việt có phạm vi hoạt động rộng khắp trên toàn quốc. Bảo Việt có trên 40 triệu lượt khách hàng mỗi năm, có gần 5000 nhân viên và có hàng chục ngàn đại lý. Hiện nay Bảo Việt có 126 chi nhánh đơn vị thành viên, trong đó có 56 công ty bảo hiểm nhân thọ. Năm 2002 hoạt động đầu tư tài chính chiếm 376 tỷ trên tổng số 2165 tỷ đồng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ của Bảo Việt . Các lĩnh vực đầu tư vốn Bảo Việt cũng tương đối đa dạng, với những tỷ lệ bỏ vốn khác nhau vào từng lĩnh vực. Cùng với sự tăng lên của doanh thu phí là sự tăng trưởng cao của nguồn quỹ dự phòng kỹ thuật -một trong những nguồn vốn đầu tư chính của các DNBH . Tốc độ tăng các quỹ dự phòng kỹ thuật của Bảo Việt xấp xỉ 19% qua các năm. Các quỹ dự phòng kỹ thuật chiếm đến khoảng 60% nguồn vốn của Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp này. Danh mục đầu tư của Bảo Việt Bảng 4: Một số danh mục đầu tư chính của Bảo Việt Danh mục 1997 1998 1999 1.Chứng khoán 2.Bất động sản 3.Cho vay 4.Gửi tiền 5.Góp vốn liên doanh 6.Đầu tư khác 231.600 1.800 30.200 335.800 46.200 5000 306.100 1.800 28.200 450.000 50.700 6.000 320.900 1.800 69.300 1.001.600 119.900 7.500 Tổng cộng 871.100 837.400 1.521.000 (Nguồn: Tạp chí nghiên cứu kinh tế) Danh mục đầu tư trên cho thấy : đầu tư vào gửi tiền tại các ngân hàng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong cơ cấu vốn đầu tư. Năm 1997 chiếm 38,5%, năm 1998 chiếm 54% và đến năm 1999 đã tăng lên đến 66%. Đầu tư chứng khoán mà chủ yếu là mua trái phiếu,kỳ phiếu, trái phiếu kho bạc nhà nước, công trái nhà nước, kỳ phiếu của các ngân hàng cũng chiếm tỷ trọng vốn lớn. Lĩnh vực đầu tư ít được Bảo Việt quan tâm chú ý và thực tế bỏ vốn rất nhỏ là kinh doanh bất động sản: Các DNBH nhân thọ ít đầu tư vào bất động sản là vì thị trường bất động sản ở nước ta hiện nay có quá nhiều rủi ro và rất bất ổn định. Thêm nữa chính sách và luật pháp của Nhà nước cũng chưa thực sự ổn định. ở các nước có ngành bảo hiểm nhân thọ phát triển thì các công ty bảo hiểm nhân thọ cũng là những chuyên gia về đầu tư. Danh mục đầu tư của các công ty này rất đa dạng và thường thì lãi suất thu được từ các hoạt động đầu tư cao hơn lãi suất ngân hàng. Lãi suất đầu tư thực tế của của các công ty bảo hiểm nhân thọ Nhật Bản trong năm 1995 là 3,36%, năm 1997 là 2,48%; trong khi đó lãi suất trái phiếu dài hạn của chính phủ chỉ là 2,56%/ năm. Ơ Việt Nam, do thị trường vốn chưa phát triển (Trung tâm giao dịch chứng khoán mới chỉ chính thức khai trương từ ngày 20/7/2000 ) do vậy các khoản đầu tư của Bảo Việt tập trung chủ yếu ở loại hình tiền gửi ngân hàng, còn các lĩnh vực đầu tư khác chiếm tỷ trọng thấp hơn. Một số hoạt động đầu tư của Bảo Việt: * Sự tham gia của Bảo Việt vào thị trường chứng khoán. Xu hướng chung của các công ty bảo hiểm là phát triển các dịch vụ về tài chính - tín dụng để sử dụng có hiệu quả các quỹ bảo hiểm nhàn rỗi tập trung và hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Vì tính ưu việt của thị trường chứng khoán và các dịch vụ của nó nên phát triển dịch vụ tài chính -tín dụng thông qua thị trường chứng khoán được coi là phổ biến nhất đối với các công ty bảo hiểm. Đối với Bảo Việt, việc đầu tư vào chứng khoán đã được chú trọng. Ngày 19/5/2000, công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt đã khai trương tại Hà Nội; và khai trương chi nhánh ở TP HCM vào ngày 22/5/2000 và trở thành một trong những công ty chứng khoán đầu tiên hoạt động tại Việt Nam. Bảo Việt tham gia vào thị trường chứng khoán với nhiều lợi thế, thể hiện ở nguồn vốn cần thiết để thành lập công ty chứng khoán cũng như nguồn vốn để đầu tư thông qua thị trường chứng khoán; ngoài những lợi thế về vốn, Bảo Việt còn có lợi thế về mạnglưới và hệ thống khách hàng bảo hiểm, về kinh nghiệm, uy tín hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Với những lợi thế đó Công ty chứng khoán Bảo Việt đã tiến hành kinh doanh cả 5 nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán, đó là: Môi giới chứng khoán Là hoạt động giúp khách hàng đầu tư và giao dịch chứng khoán. Thực hiện các lệnh giao dịch cho khách hàng trên sàn giao dịch hay Sở giao dịch. Bảo lãnh phát hành chứng khoán Công ty chứng khoán chấp nhận rủi ro, cam kết bao mua chứng khoán của công ty phát hành, sau đó bán cho các nhà giao dịch và công chúng. Quản lý danh mục đầu tư vào chứng khoán Hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là hoạt động quản lý vốn của khách hàng thông qua việc mua bán và nắm giữ các chứng khoán vì quyền lợi của khách hàng. Công ty chứng khoán sẽ được hưởng phí quản lý danh mục đầu tư của khách hàng. Tư vấn đầu tư chứng khoán Là việc công ty chứng khoán tư vấn cho các doanh nghiệp hay các nhà đầu tư về việc thiết kế chứng khoán phù hợp với mục tiêu tăng vốn của doanh nghiệp, về thời điểm phát hành thuận lợi, hoặc tư vấn cho doanh nghiệp tìm kiếm nguồn vốn thay thế khi không thuận lợi. Công ty chứng khoán đưa ra những lời khuyên về đầu tư hợp lý cho khách hàng xuất phát từ sự phân tích và nhận định về sự biến động của chứng khoán. Tự doanh chứng khoán Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán trực tiếp tham gia giao dịch chứng khoán cho bản thân của công ty trên thị trường chứng khoán. Ngay từ đầu, công ty chứng khoán Bảo Việt đã ký kết hợp đồng hợp tác với một số công ty tư vấn trong và ngoài nước; triển khai một số hoạt động kinh doanh như thu mua công trái, tham gia tư vấn cổ phần hóa cho một vài doanh nghiệp nhà nước; thu thập thông tin của các công ty phát hành cổ phiếu, ký hợp đồng làm thủ tục niêm yết và bảo lãnh phát hành, mở tài khoản đầu tư chứng khoán cho một số doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Bảo Việt từ lâu đã là một trong những thành viên tham gia khá tích cực vào đầu tư trái phiếu Chính phủ thông qua các phiên đấu thầu. Trong phiên đấu thầu trái phiếu Chính phủ ngày 2/5/2002, Bảo Việt đã trúng thầu 30 tỷ đồng. Đầu tư vào trái phiếu Chính phủ là sự lựa chọn tốt vì nó khá chắc chắn,thời hạn 5-10 năm, hơn nữa trái phiếu chính phủ tuy có lãi suất chưa cao nhưng có thể bù đắp được tốc độ mất giá của đồng tiền. * Các hoạt động đầu tư khác của Bảo Việt - Góp vốn kinh doanh: Hiện nay, Bảo Việt đang tham gia góp vốn với 15 công ty, trong đó có các công ty như: Công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế (VIA) Công ty liên doanh bảo hiểm Bảo Việt (AIB) Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt (BVSC) Công ty cổ phần bảo hiểm Nhà Rồng(Bảo Long) Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia Năm 2002, Bảo Việt tham gia đầu tư vào dự án nhà máy xi măng Thăng Long tại Hoành Bồ - Quảng Ninh với tổng số vốn đầu tư xấp xỉ 350 triệu. Với sự cố gắng cao, năm 2002 kết quả kinh doanh của Bảo Việt rất đáng khích lệ : Tổng doanh thu đạt 3790 tỷ đồng, tăng trưởng 40% so với năm 2001; hoạt động bảo hiểm nhân thọ có tỷ lệ tăng trưởng 42,5% so với năm 2001. Gần 6000 tỷ đồng đã được Bảo Việt đầu tư trở lại nền kinh tế với doanh thu từ hoạt động này đạt trên 387 tỷ đồng, tăng trưởng 84%. Đến tháng 08 năm 2002 tổng nguồn vốn đầu tư của Bảo Việt kể cả USD quy đổi là 4876 tỷ đồng. Trong đó nguồn Bảo hiểm nhân thọ là 3904 tỷ đồng. Vốn đầu tư trung-dài hạn chiếm 64% tổng nguồn vốn đầu tư trong cả hai lĩnh vực nhân thọ và phi nhân thọ. Năm 2003, nền kinh tế đất nước vẫn duy trì tỷ lệ tăng trưởng cao tạo môi trường đầu tư và khả năng phát triển; tuy nhiên thị trường bảo hiểm tiếp tục cạnh tranh quyết liệt. Dự kiến năm 2003, Bảo Việt sẽ tăng trưởng 15% doanh thu so với năm 2002, trong đó doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ tăng 25% so với năm 2002. Bảo Việt là một tổ chức tài chính hùng mạnh với số vốn đầu tư lên đến hàng chục nghìn tỷ đồng. Bảo Việt đang tham gia góp vốn cổ phần và đầu tư vào hàng loạt các dự án lớn, góp phần vào quá trình CNH-HĐH đất nước như: nhà máy xi măng Thăng Long, Công viên nước Hồ Tây, Nhà máy nhiệt điện Hải Phòng, dự án xây dựng và kinh doanh khách sạn Sài Gòn- Hạ Long, dự án xây dựng làng quốc tế Thăng Long, chuẩn bị cho Seagame 22 năm 2003 được tổ chức tại Việt Nam. Tính đến 31/3/2003, doanh thu phí bảo hiểm của Bảo Việt đã đạt được 1089 tỷ đồng, trong đó phí thu từ hoạt động bảo hiểm nhân thọ đạt 604 tỷ đồng, tăng 29,76%, thu từ hoạt động đầu tư đạt 80,2 tỷ đồng, tăng 43,98% so với năm 2002. Mục tiêu của Bảo Việt đến năm 2010 là trở thành tập đoàn kinh doanh tài chính tổng hợp hàng đầu ở Việt Nam trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và đầu tư tài chính. Nhà nước đã có sự quan tâm đặc biệt để hỗ trợ và định hướng phát triển cho Bảo Việt . Quyết định đầu tiên mang số169/2003/Qé-BTC về việc tăng vốn điều lệ cho Bảo Việt lên 3.000 tỷ đồng, trong đó cũng nêu rừ nhiệm vụ và trọng trỏch của Bảo Việt cho đến năm 2010 là phải phấn đấu giữ vững vị trí là tập đoàn tài chính - bảo hiểm lớn mạnh nhất Việt Nam. Theo Quyết định này, lộ trỡnh tổ chức hoạt động kinh doanh của Bảo Việt sẽ theo một số bước, cụ thể: trong năm 2003, thành lập Bảo Việt nhân thọ, hạch toán độc lập và trực thuộc Bảo Việt, do Bảo Việt đầu tư 100% vốn điều lệ. Trong năm 2004, thành lập Bảo Việt phi nhân thọ, hạch toán độc lập, trực thuộc Bảo Việt và cũng do Bảo Việt đầu tư 100% vốn điều lệ. Cũng theo Quyết định, sẽ nghiên cứu hoàn thiện mô hỡnh Trung tõm đầu tư Bảo Việt theo hướng thành lập Công ty đầu tư tài chính để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam. Đồng thời, nghiên cứu trỡnh Bộ Tài chớnh đề án chuyển đổi Bảo Việt thành mô hỡnh tập đoàn tài chính - bảo hiểm sau năm 2005. Quyết định thứ 2 của Bộ Tài chính được ký và ban hành cựng ngày mang số 170/2003/Qé-BTC về vốn điều lệ và cấp vốn kinh doanh cho Bảo Việt. Theo quyết định này, vốn điều lệ của Bảo Việt là 3.000 tỷ đồng. Trước tiên, Bộ Tài chính sẽ cấp bổ sung cho Bảo Việt 464 tỷ đồng để tăng thêm vốn chủ sở hữu của Tổng công ty. Từ nay đến 31/12/2003, Bảo Việt có trách nhiệm đánh giá lại tài sản của Tổng công ty và trỡnh Bộ Tài chớnh phương án bổ sung vốn điều lệ. éõy là lần điều chỉnh và bổ sung vốn điều lệ đầu tiên của Bảo Việt kể từ năm 1996, sau khi Bảo Việt được Chính phủ quyết định thành lập lại là Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, được xếp hạng doanh nghiệp Nhà nước hạng đặc biệt với số vốn điều lệ lúc đó là 776 tỷ đồng. Theo đại diện của Bảo Việt, tới thời điểm cuối tháng 10/2003, Bảo Việt vẫn là doanh nghiệp bảo hiểm có quy mô hoạt động, vốn và doanh thu lớn nhất trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. *Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động đầu tư của BảoViệt nhân thọ: Thuận lợi: + Chính phủ tăng cường huy động vốn dài hạn thông qua phát hành Trái phiếu Chính phủ, Trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển với các kỳ hạn đa dạng hơn (từ 5-10 năm), tạo nhiều sự lựa chọn hơn cho việc ra quyết định đầu tư của Bảo Việt. + Ngân hàng Nhà nước cho phép áp dụng cơ chế lãi suất tín dụng thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay, tạo thuận lợi cho hoạt động cho vay đặc biệt là đối với khối doanh nghiệp tư nhân. + Kinh doanh bảo hiểm của Bảo Việt đạt quả tốt trong 08 tháng đầu năm 2002, tạo nguồn vốn đầu tư ổn định và phát triển. + Với uy tín qua nhiều năm hoạt động và có mạng lưới rộng rãi trên khắp các tỉnh -thành phố, Bảo Việt có điều kiện thuận lợi khai thác được nhiều nguồn thông tin và dự án tốt để đầu tư. Đây là lợi thế hơn hẳn các công ty bảo hiểm khác đang hoạt động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. + Thông qua quá trình thực hiện hoạt động đầu tư, Bảo Việt đã thiết lập được mối quan hệ hợp tác trên cả lĩnh vực đầu tư và bảo hiểm với nhiều Ngân hàng, tổ chức tín dụng và doanh nghiệp, Bảo Việt đã được biết đến không chỉ là một nhà bảo hiểm mà còn là một nhà đầu tư tài chính chuyên nghiệp tại Việt Nam. Khó khăn: - Thiếu những dự án có hiệu quả và độ an toàn cao gây khó khăn cho hoạt động đầu dài hạn. - Thị trường tiền tệ không ổn định, phụ thuộc vào nhu cầu huy động vốn của các ngân hàng và tổ chức tài chính, tạo khó khăn nhất định cho nghiệp vụ tiền gửi của Bảo Việt. - Ngân hàng Nhà nước chưa cho phép các tổ chức tài chính phi ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cho vay, gây khó khăn cho Bảo Việt trong việc tham gia vào các dự án cho vay đồng tài trợ, nhất là cho vay bằng USD. - Lãi suất các đợt phát hành Trái phiếu Chính phủ vẫn khá thấp do chịu sự chỉ đạo của Bộ Tài chính, chưa mang tính thương mại trên cơ sở cung cầu của thị trường vốn. Ngoài ra, do tính thanh khoản thấp nên TPCP không thực sự hấp dẫn các nhà đầu tư . 2.Tình hình đầu tư vào trái phiếu Chính phủ của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ liên doanh và công ty 100% vốn nước ngoài. Prudential đã từng tham gia các phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ và đã từng trúng thầu khoảng hơn 100 tỷ đồng. Cũng trong phiên đấu thầu ngày 2/5/2002 Prudential đã trúng thầu 30 tỷ . Ngày 6/5/2002, công ty AIA đã trở thành thành viên chính thức tham gia đấu thầu trái phiếu chính phủ. Công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài này đã trúng thầu 20 tỷ đồng. Cùng với Prudential và AIA, Manulife cũng bắt đầu triển khai việc đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. Lượng trái phiếu Chính phủ nằm trong tay các công ty bảo hiểm nhân thọ hiện nay vẫn còn chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng giá trị trái phiếu niêm yết trên toàn thị trường( tính đến hết tháng 2/2002 khoảng 3.400 tỷ đồng, trong đó 89%là trái phiếu Chính phủ, 11% là trái phiếu ngân hàng). Tuy nhiên có thể hi vọng trong tương lai tiền mua trái phiếu Chính phủ của các công ty bảo hiểm sẽ tiếp tục gia tăng. Theo ý kiến của các nhà phân tích chứng khoán thì trái phiếu Chính phủ vẫn còn một số điểm chưa hấp dẫn. Lãi suất của loại trái phiếu này chưa đáp ứng được mong mỏi của các nhà đầu tư và lượng trái phiếu Chính phủ niêm yết trên thị trường chứng khoán tại trung tâm giao dịch TP HCM còn ít. Hầu hết các công ty đã đấu thầu trái phiếu Chính phủ xong là để đó cho đến khi đáo hạn mới thu hồi vốn và lãi chứ không biết đầu tư vào đâu. Có thể nói, trái phiếu Chính phủ mới được các nhà quản lý quan tâm ở khía cạnh huy động vốn chứ chưa quan tâm ở khía cạnh luân chuyển trên thị trường. Nhưng dù sao thì các công ty bảo hiểm đầu tư vào trái phiếu vẫn còn tốt hơn cách đầu tư chủ yếu qua gửi tiền tiết kiệm. Vì nhìn vào thực tế cho thấy ở Việt Nam hiện chưa có nhiều các hình thức đầu tư hấp dẫn và tỷ suất lợi nhuận đầu tư tại Việt Nam theo đánh giá của các công ty bảo hiểm là còn thấp hơn so với những thị trường khác . 2.2. Các hình thức đầu tư khác Prudential là công ty đi tiên phong trong việc đầu tư vào cổ phần, cổ phiếu tại một số công ty cổ phần đã niêm yết có hiệu quả. Manulife khá quan tâm đến các lĩnh vực đĩa ốc và hạ tầng cơ sở. Còn AIA thì tiết lộ họ rất muốn đầu tư vào phát triển các khu công nghiệp và hạ tầng... Tuy nhiên, cho đến nay thì hoạt động đầu tư của công ty này còn dừng ở mức khiêm tốn,thận trọng cao. Bài toán đặt ra ở đây là với tốc độ tăng trưởng nhanh như hiện nay, các công ty bảo hiểm, nhất là các công ty bảo hiểm nhân thọ sẽ ngày càng phải tập trung sâu hơn nữa vào vấn đề đầu tư ở Việt Nam và thậm chí để có thể lựa chọn được các dự án tốt họ sẽ phải cạnh tranh quyết liệt với nhau. Sự cạnh tranh này sẽ ngày càng trở nên khó khăn hơn khi ngoài các công ty bảo hiểm còn có rất nhiều các công ty tài chính, các nhà đầu tư trực tiếp trong và ngoài nước cùng các quỹ đầu tư rủi ro của nước ngoài đang ngày càng xuất hiện nhiều ở Việt Nam. Phần ba : Một số kiến nghị và giải pháp I.Giải pháp từ phía nhà nước Để tạo điều kiện cần thiết về mặt chính sách cho sự phát triển mạnh mẽ và chuyên môn hóa các hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm, Nhà nước cần có các quan điểm và giải pháp phù hợp. Thành lập và mở rộng qui mô của các công ty bảo hiểm nhân thọ để tạo kênh huy động vốn dài hạn cho nền kinh tế . Thực hiện ưu đãi thuế thu nhập từ hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm đối với một số lĩnh vực đang cần phải khuyến khích đầu tư như đầu tư vào thị trường chứng khoán, tham gia bảo lãnh phát hành và kinh doanh chứng khoán, mua trái phiếu Chính phủ... Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và hợp tác kinh tế quốc tế, xu hướng chung hiện nay là phi điều tiết và nới lỏng các quy định chặt chẽ về hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm, nhất là các công ty bảo hiểm nhân thọ. Mặt khác, sớm ban hành các văn bản để điều chỉnh các hoạt động đầu tư bằng pháp luật bảo hiểm và các quy định có liên quan khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các DNBH nhân thọ đầu tư tốt nguồn vốn nhàn rỗi của mình. Xuất phát từ đặc thù của kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh rủi ro, cho nên để hạn chế những tổn thất to lớn có thể xảy ra làm ảnh hưởng đến khả năng tài chính của công ty bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, hoạt động đầu tư của các DNBH phải được quản lý chặt chẽ thông qua các quy định của pháp luật và cơ chế kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý. Tuy nhiên những quy định của pháp luật cần hết sức linh hoạt và mềm dẻo, nhằm không gây ảnh hưởng lớn đến việc huy động và sử dụng vốn đầu tư của DNBH. Có thể thấy việc Luật kinh doanh bảo hiểm quy định về nguyên tắc đầu tư và quy định danh mục cũng như giới hạn lĩnh vực đầu tư cho phép là hợp lý và phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam. Nhưng trong những giai đoạn tới cần có những thay đổi sao cho phù hợp hơn với tình hình mới và điều kiện thực tiễn của thị trường Việt Nam. Phát triển thị trường chứng khoán tạo thêm môi trường thuận lợi cho các DNBH đầu tư. Các biện pháp nhà nước có thể làm là: đa dạng hóa các tiêu chuẩn niêm yết theo lĩnh vực để tăng cường hàng hoá cho thị trường về cả chất lượng, số lượng cũng như chủng loại. Chính phủ có thể phát hành thêm các trái phiếu có kỳ hạn dài 15 năm, 20, 25 năm để các DNBH có nhiều cơ hội lựa chọn đầu tư hơn. Nhà nước có thể sử dụng công cụ tài chính thích hợp để khuyến khích các công ty phát hành chứng khoán ra thị trường như thực hiện chính sách thuế ưu việt đối với những tổ chức phát hành. Đồng thời, Nhà nước cần tăng cường việc kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư của các công ty bảo hiểm thông qua cơ chế báo cáo định kỳ và cho phép trong trường hợp cần thiết. Tiến hành đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác đầu tư trong các doanh nghiệp bảo hiểm thông qua việc tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn, dài hạn và chuyên sâu với sự giúp đỡ của các công ty nước ngoài. Nhà nước ta cần coi việc điều chỉnh để đảm bảo khả năng thanh toán của các công ty bảo hiểm là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của điều chỉnh Luật bảo hiểm vì vấn đề khả năng thanh toán của ngành bảo hiểm có ý nghĩa rất quan trọng. Điều chỉnh khả năng thanh toán thực chất là điều chỉnh về mặt tài chính của các công ty bảo hiểm; bao gồm cơ chế kiểm tra, giám đốc nhu cầu về vốn, các quỹ dự phòng đầu tư, kiểm toán, báo cáo tài chính và những biện pháp sử lý các trường hợp bị phá sản. Ơ đa số các nước phát triển, điều chỉnh hoạt động bảo hiểm là nhiệm vụ của các cơ quan chuyên trách cấp quốc gia. Ví dụ như ở Thụy Điển, kiểm tra hoạt động bảo hiểm là nhiệm vụ của thanh tra bảo hiểm. Đây là cơ quan hoạt động độc lập; song phán quyết cuối cùng các vấn đề phức tạp lại thuộc thẩm quyền của các quan chức cao cấp Chính phủ sau khi tiếp thu những khuyến nghị của cán bộ thanh tra. Ơ Đức, kiểm tra hoạt động bảo hiểm lại do Cục thanh tra bảo hiểm tiến hành. Cục thanh tra có nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hoạt động của tất cả các doanh nghiệp bảo hiểm tư nhân và chỉ định tại các địa phương người thay mặt mình có toàn quyền điều chỉnh các DNBH nhỏ, không có ý nghiã lớn trong nền kinh tế. Do vậy ở Đức hiện nay, trong số trên 7000 công ty bảo hiểm lớn nhỏ các loại thì cấp Bang điều chỉnh khoảng 800 công ty, chiếm khoảng 95% thị phần bảo hiểm của cả nước. Việc điều chỉnh để đảm bảo khả năng thanh toán của các công ty bảo hiểm là cần thiết nhằm mục đích ngăn ngừa tình trạng không có khả năng thanh toán của những công ty bảo hiểm đang gặp khó khăn về tài chính và áp dụng các biện pháp chống lại những công ty không có khả năng thanh toán. Với những công ty bảo hiểm đã làm hết cách mà vẫn không khôi phục được khả năng thanh toán thì cơ quan điều chỉnh luật pháp có thể phải tạm giữ tài sản của doanh nghiệp này và áp dụng các biện pháp giải thể hay lành mạnh hóa công ty. Các cơ quan điều chỉnh có thể có thẩm quyền như sau: -Kiểm tra hoạt động của các cơ quan bảo hiểm bất kỳ lúc nào thấy cần thiết -Quy định những yêu cầu tối thiểu về vốn và các yêu cầu bổ sung tuỳ thuộc vào khối lượng và loại hoạt động của công ty bảo hiểm. -Xây dựng các tiêu chuẩn trách nhiệm và vốn dự trữ tối thiểu, kể cả dự phòng phí chưa dùng đến và các trách nhiệm về những tổn thất chưa có người nhận. -áp dụng những biện pháp cần thiết đối với những công ty bảo hiểm đang gặp khó khăn về tài chính. -Đánh giá chứng khoán cho các công ty bảo hiểm mua. -Thực hiện kiểm tra hàng năm đối với cả những công ty bảo hiểm đã được cơ quan kiểm toán độc lập cấp giấy chứng nhận đã kiểm tra tài chính. -Yêu cầu phân biệt lượng vốn đầu tư cho các công ty bảo hiểm lớn tuỳ thuộc loại hình đầu tư và loại hình bảo hiểm cũng như quy định các yêu cầu thanh toán. II.Giải pháp từ phía các doanh nghiệp bảo hiểm Từ những thuận lợi và khó khăn của mình, các DNBH muốn đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đầu tư tài chính của mình cần xây dựng chiến lược đâù tư thích hợp; đồng thời cần phải tiến hành nhiều giải pháp , hoàn thiện cả qui trình từ kinh doanh thu hút phí bảo hiểm đến việc xác định nguồn,lựa chọn danh mục đầu tư , phân tích đánh gía rủi ro và hiệu quả của từng lĩnh vực đầu tư. Trước hết, việc đầu tư của DNBH cần phải tuân thủ theo các nguyên tắc cơ bản như : an toàn, sinh lời, đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên cũng như phải đa dạng hóa các danh mục đầu tư để phân tán rủi ro. Do đó các DNBH có thể xem xét thực hiện một số giải pháp sau : Thứ nhất: Cần xây dựng chiến lược đầu tư phù hợp. Chiến lược đầu tư đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động đầu tư trong điều kiện các thị trường vốn, thị trường tài chính luôn luôn vận động và thay đổi. Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với việc đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi trong dự phòng nghiệp vụ trong DNBH nhân thọ. Một chiến lược đầu tư đúng đắn sẽ có tác dụng làm tăng khả năng mang lại lợi nhuận của đồng vốn bỏ ra, góp phần tăng khả năng chi trả cho người được bảo hiểm, nâng cao phúc lợi cho xã hội. Các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải xây dựng các chiến lược đầu tư tài chính trong mỗi giai đoạn, cho từng loại tài sản đầu tư, đồng thời thực hiện chuyển dịch đầu tư một cách linh hoạt giữa các tài sản đầu tư cho phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; phù hợp với sự phát triển kinh tế và sư phát triển của thị trường vốn trong mỗi giai đoạn. Thứ hai, các DNBH nhà nước cần tiếp tục thực hiện đa dạng hoá danh mục đầu tư , mở rộng và tăng cường đầu tư vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng. Đồng thời phải có chiến lược đầu tư linh hoạt, chắc chắn trên thị trường chứng khoán và coi đây là chiến lược cơ bản, lâu dài. Theo kinh nghiệm của những công ty bảo hiểm ở các nước phát triển thì đầu tư vào chứng khoán là danh mục đầu tư phù hợp nhất với các công ty bảo hiểm . Có thể thấy điều này qua một vài số liệu về vấn đề đầu tư của các công ty bảo hiểm Châu Âu năm 1997 như sau: Bảng 5 : Cơ cấu đầu tư vốn của các công ty bảo hiểm nhân thọ châu Âu ( Đơn vị: %) Các nước Cổ phiếu Trái phiếu Bất động sản Gửi tiền vào các tổ chức tín dụng Đầu tư khác Tổng nguồn vốn đầu tư CHLB Đức Bỉ Đan Mạch Pháp Anh Thụy Điển Thụy Sỹ 4,1 3,4 2,5 5,7 5,6 4,7 10,2 27,1 22,4 34,1 16,0 51,2 48,3 24,6 67,6 70,1 58,2 73,9 33,6 46,2 58,4 1,1 2,9 0,5 1,8 1,9 0,5 3,6 0,1 1,2 4,7 2,6 7,7 0,3 3,2 100 100 100 100 100 100 100 ( Nguồn:Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 276) Thứ ba: Chú trọng đến việc đầu tư chứng khoán. Để thâm nhập vào thị trường chứng khoán, các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải thực hiện chuyên môn hóa đầu tư vốn như mô hình đầu tư mà Bảo Việt đã tiến hành- tức là thành lập công ty quản lý đầu tư vốn hay còn gọi là công ty quản lý tài sản có. Các công ty quản lý này không thể thiếu đối với các tập đoàn bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường. Trong việc mua bán chứng khoán, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nên tập trung chủ yếu vào các loại chứng khoán nhà nước như trái phiếu, kỳ phiếu kho bạc nhà nước, công trái nhà nước... Đây là các chứng khoán lãi suất không thấp mà được coi là có rủi ro thấp nhất. Với ưu thế về thông tin, các DNBH nhà nước cần tìm mua được các loại cổ phiếu, trái phiếu công nghệ cao. Theo kinh nghiệm của các nhà đầu tư chứng khoán ở các nước thì việc đầu tư vào chứng khoán công nghệ cao là chiến lược đầu tư hiệu quả cao. Tuy nhiên cần xác định nguồn vốn đầu tư vào các loại chứng khoán này phải là nguồn vốn dài hạn. Thứ tư : Các DNBH cần mạnh dạn nghiên cứu chiến lược đầu tư vào lĩnh vực bất động sản. Mặc dù trong những năm gần đây,thị trường bất động sản có những biến động không lường, nhất là đất đai. Nhưng trong làn sóng di dân và tốc độ đô thị hóa như hiện nay, đầu tư vào lĩnh vực này cũng là một hướng đầu tư hiệu quả. Đầu tư bất động sản không chỉ mang lại hiệu quả kinh tế trực tiếp mà còn mang lại những lợi ích về quảng cáo rất quan trọng. Đầu tư bất động sản luôn chiếm tỷ lệ lớn trong danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm trên thế giới. Nhưng với điều kiện Việt Nam khi mà Nhà nước không công nhận quyền sở hữu về đất, thủ tục chuyển nhượng rất phức tạp thì đầu tư vào lĩnh vực này sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Để tham gia vào lĩnh vực này thì các công ty bảo hiểm có thể liên doanh với một công ty có kinh nghiệm, có tư cách pháp nhân về xây dựng và kinh doanh bất động sản. ở những nước có thị trường bảo hiểm phát triển,các doanh nghiệp bảo hiểm luôn luôn có tên trong các đô thị lớn. Đây là sự quảng cáo tốt nhất cho hình ảnh và sức mạnh tài chính của công ty bảo hiểm .Đồng thời, đầu tư vào lĩnh vực bất động sản cũng là một lĩnh vực đầu tư cho phép các công ty bảo hiểm chống lại rủi ro một cách hiệu quả nhất . Thứ năm: Mở rộng hình thức cho vay đối với các chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Trong kỹ thuật bảo hiểm nhân thọ , hợp đồng bảo hiểm sau một thời gian nhất định nộp phí bảo hiểm sẽ có dự phòng toán học - khoản tiền trên là thuộc sở hữu của chủ hợp đồng. Nếu DNBH cho chủ hợp đồng vay thì khoản tiền dự phòng được coi là tài sản thế chấp. Như vậy sẽ rất hiệu quả , vừa đảm bảo cho DNBH thu lãi cao hơn lãi kỹ thuật, vừa giúp các chủ hợp đồng vay được vốn trong thời gian khó khăn. Điều này sẽ tăng khả năng duy trì hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. Thứ sáu : Các DNBH cần nâng cao tính chuyên nghiệp và hiệu quả đầu tư thông qua các công ty quản lý tài sản có theo mô hình được xem xét như sau: Sơ đồ 2: Mô hình đầu tư giả định của các DNBH. Quỹ đầu tư của Công ty (Fund famuly) hội đồng quản lý quỹ s1 công ty quản lý quỹ(trực tiếp hoặc liên doanh) hội đồng quản lý quỹ s3 hội đồng quản lý quỹ s2 Hợp đồng Hợp đồng Hợp đồng Mô hình quỹ này có thể vừa đảm bảo yêu cầu về hoà hợp giữa tài sản nợ và tài sản có, vừa nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động đầu tư và tiếp thu kỹ năng tiên tiến về đầu tư. Bên cạnh đó nâng cao tính chuyên nghiệp trong đầu tư bằng cách đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp giỏi, am hiểu về thị trường tài chính và đầu tư tài chính để thực hiện các hoạt động đầu tư là rất cần thiết. Nó góp phần đảm bảo thực hiện các hoạt động đầu tư an toàn và hiệu quả hơn trong xu hướng phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính trong và ngoài nước như hiện nay. Thứ bảy : Phát triển mạnh các loại hình bảo hiểm nhân thọ để thu hút vốn đầu tư dài hạn. Hiện nay trên thị trường bảo hiểm nhân thọ, ngoài Bảo Việt còn có 4 công ty bảo hiểm liên doanh và 100% vốn nước ngoài. Sự cạnh tranh diễn ra hết sức gay gắt. Các công ty bảo hiểm nước ngoài đã mang đến những thay đổi cơ bản về phương thức kinh doanh bảo hiểm nhân thọ. Để đứng vững trong cạnh tranh, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ nhà nước, một mặt phải thay đổi những chính sách về thương mại đặc biệt là chính sách về Marketing, làm cho sản phẩm bảo hiểm hấp dẫn hơn. Mặt khác cần phải đa dạng hoá sản phẩm bảo hiểm để đáp ứng nhu cầu phong phú của khách hàng. Thành công trong thu hút phí bảo hiểm sẽ là bước khởi đầu quan trọng cho chiến lược đầu tư của DNBH nhà nước. Thứ tám: Xu thế hiện nay lãi suất ngân hàng ngày càng giảm, so với cùng thời điểm này năm 1995, lãi suất tiền gửi có kỳ hạn đã giảm khoảng 30%. Đây chính là định hướng của Nhà nước nhằm thúc đẩy đầu tư, kích thích sản xuất. Trong thời gian tới, theo chủ trương của Nhà nước, lãi suất sẽ được giảm thấp hơn nữa. Với xu thế như vậy, đầu tư vào tiền gửi ngân hàng sẽ được hưởng lãi suất thấp hơn các lĩnh vực đầu tư khác. Cùng với tiền gửi, lãi suất đầu tư vào các trái phiếu của Chính phủ cũng sẽ giảm thấp. Thực tế trong thời gian qua, nguồn mua trái phiếu kho bạc trực tiếp từ kho bạc đã bị dừng lại. Nguồn trái phiếu kho bạc hiện nay chỉ qua đấu thầu tại NHNN, các NHTM do bị hạn chế nợ nên họ tập trung nguồn đấu thầu tại thị trường này để giải quyết nguồn vốn đã huy động của họ. Điều đó dẫn đến lãi suất trúng thầu giảm liên tục và xuống tới mức10,65% trong những đợt đầu thầu gần đây so với năm 1995 là 17%. Trước tình hình đó việc chuyển hướng đầu tư của các DNBH nhân thọ vào dài hạn là cần thiết. Nhưng các doanh nghiệp phải xác định được tỷ lệ đầu tư như thế nào cho phù hợp. Tuy nhiên dù có hiệu quả hơn cũng không thể dồn toàn bộ vốn vào đầu tư dài hạn mà cần phải đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Nên chăng các DNBH cần phải đồng thời giữa cho vay, gửi có kỳ hạn tại các ngân hàng, mua trái phiếu Chính phủ , mua cổ phần của các Công ty, góp vốn liên doanh với các công ty khác ; trong đó việc đầu tư vào liên doanh và cổ phần nên được đẩy mạnh, nhất là đối với các DNBH nhà nước. Tuy nhiên,việc gửi tiền tại các ngân hàng vẫn là hạng mục đầu tư cần thiết để đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên của các công ty bảo hiểm khi có nhu cầu về thanh toán. Ngoài ra các trái phiếu Chính phủ cũng không thể thiếu trong danh mục đầu tư. Hoạt động cho vay các DNBH có thể xem xét tăng các khoản cho vay trung và dài hạn; cũng có thể xem xét việc cho vay bằng ngoại tệ đối với các tổ chức trong nước. Kinh nghiệm của các công ty bảo hiểm các nước thì để đa dạng hoá đầu tư họ đầu tư vào cho vay khoảng 20%, bất động sản khoảng 25%, đầu tư chứng khoán khoảng 30% và còn lại là các lĩnh vực khác. Thứ chín: Những chính sách kiểm soát rủi ro lãi suất cho DNBHNT : Như đã nghiên cứu ở trên rủi ro lãi suất có tác động rất lớn đối với việc nâng cao hiệu quả đầu tư của DNBHNT . Do đó các DNBHNT phải có những chính sách hợp lí để kiểm soát những rủi ro này. Định phí bảo hiểm an toàn và thương mại hoá tối đa sản phẩm bảo hiểm . Lãi suất và phí bảo hiểm tương quan nghịch : Lãi suất kỹ thuật được giả định cao sẽ làm phí bảo hiểm thấp, trường hợp này DNBHNT sẽ gặp nguy cơ lãi suất thị trường giảm. Ngược lại lãi suất kỹ thuật được giả định thấp sẽ làm phí bảo hiểm cao, điều này làm giảm tính hấp dẫn của sản phẩm bảo hiểm . Như vậy lãi suất kỹ thuật bao nhiêu thì hợp lý? Đó là một câu hỏi không dễ có thể trả lời. DNBHNT có thể sử dụng một số phương pháp khác nhau để dự kiến lãi suất kỹ thuật . Theo kinh nghiệm của nhiều công ty bảo hiểm , lãi suất được xác định bằng cách phổ biến sau: ấn định lãi suất kỹ thuật bằng tỷ lệ sinh lời bình quân của danh mục đầu tư hiện tại đây là cách mà các công ty bảo hiểm nhân thọ Mỹ sử dụng để tính phí bảo hiểm cho các sản phẩm mới . ấn định lãi suất kỹ thuật theo lãi suất tín dụng nhà nước. Đây là phương pháp của các công ty BHNT Pháp . Các công ty này ấn định lãI suất kỹ thuật băng 60% lãI suất bình quân các khoản tín dụng Nhà nước . Trong điều kiện đầu tư môI trường Việt Nam , cách xác định lãi suất kỹ thuật thứ hai tỏ ra phù hợp hơn vì lãi suất này không quá thấp và DNBH có thể lựa chọn đầu tư ít rủi ro nhất , nhỏ hơn các trái phiếu chính phủ .Tuy nhiên cũng không cần quá thận trọng . Lãi suất kỹ thuật bằng lãi suất trái phiếu chính phủ khi đảm bảo sự an toàn cho các DNBHNT. Định phí với lãI suất kỹ thuật an toàn sẽ cho phép DNBHNT phòng ngừa được rủ ro lãi suất giảm, nhưng lại làm cho tính hấp dẫn của sản phẩm mất đi do phí bảo hiểm cao. Để đảm bảo tính hấp dẫn của sản phẩm BHNT, doanh nghiệp BHNT phải đưa ra các cơ chế : chia lãi chỉ số hoá số tiền bảo hiểm , lãi suất bảo đảm , tuy nhiên những cơ chế này là khó hiểu đối với NĐBH vì vậy DNBHNT phải thực hiện tốt các chính sách thương mại quan trọng nhất là chính sách marketing để tư vấn tốt nhất cho khách hàng . Bằng những chính sách này DNBHNT có thể thu hút NĐBH bằng những khía cạnh khác của sản phẩm BHNT ngoài yếu tố giá cả . Tóm lại, để có thể thực hiện tốt các chiến lược, giải pháp đầu tư, DNBH cần phải xây dựng chiến lược đầu tư thích hợp; đa dạng hoá các hạng mục đầu tư ; chú trọng đến đầu tư chứng khoán và mạnh dạn nghiên cứu chiến lược đầu tư bất động sản. Đồng thời cần có sự đầu tư nhất định vào việc đào tạo đội ngũ nhân viên đầu tư ; phát triển mạnh các loại hình bảo hiểm nhân thọ, đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng nhu cầu khách hàng, tăng doanh thu phí, tạo nguồn vốn đầu tư . Đầu tư chỉ có thể có hiệu quả khi có những người đầu tư sáng tạo, kinh nghiệm và bản lĩnh, hệ thống sản phẩm đa dạng. Bên cạnh đó, việc hiện đại hoá cơ sở vật chất, hiện đại hóa công nghệ thông tin trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm cũng là điều kiện không thể thiếu cho việc nâng cao khả năng đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay. Xu thế hội nhập và tiến trình toàn cầu hóa về kinh tế cũng khiến các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các công ty bảo hiểm nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh hơn nhiều với trình độ nghiệp vụ cao và kinh nghiệm kinh doanh được tích luỹ lâu đời hơn thông qua hoạt động trên thị trường quốc tế và khu vực. áp lực cạnh tranh thể hiện trên nhiều mặt như chất lượng phục vụ, sản phẩm bảo hiểm, giá cả dịch vụ, sản phẩm bảo hiểm...Hoạt động bảo hiểm nhân thọ còn phải chịu sự cạnh tranh từ các hình thức dịch vụ khác như ngân hàng, chứng khoán. Các hình thức tiết kiệm ngân hàng, đầu tư chứng khoán... đang tỏ ra chiếm ưu thế và hấp dẫn các nhà đầu tư hơn. Do đó việc quan tâm và nâng cao hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là hết sức cần thiết để đứng vững trong cạnh tranh trên thị trường. Kết luận Qua một số phân tích và thực trạng trên cho thấy đầu tư tài chính trong doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ là hết sức quan trọng. Đó là vấn đề đặt ra không những cho doanh nghiệp bảo hiểm mà còn cho các cơ quan nhà nước có liên quan nhằm có chiến lược và biện pháp thích hợp trong quản lý hoạt động đầu tư của các DNBH nhân thọ. Hoạt động đầu tư của DNBH nhân thọ chịu tác động của nhiều nhân tố và cũng bị chi phối bởi chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Các hình thức đầu tư cần phải được đa dạng hóa nhằm giảm thiểu rủi ro và đảm bảo những nguyên tắc đầu tư vốn của DNBH. Các DNBH nhân thọ nên chú trọng đến việc đầu tư nhưng không phải vì thế mà chạy theo lợi nhuận, vi phạm những nguyên tắc đầu tư làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm và uy tín của doanh nghiệp. Theo kinh nghiệm tổ chức và tiến hành hoạt động đầu tư ở nhiều nước trên thế giới đồng thời xuất phát từ điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của thị trường bảo hiểm Việt Nam, các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ Việt Nam nên tập trung và quan tâm hơn nữa đến hoạt động đầu tư tài chính của mình. Đồng thời cần củng cố và nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư thông qua các chiến lược và biện pháp đầu tư thích hợp. Khác với các loại hình kinh doanh khác, bảo hiểm nhân thọ là loại hình dịch vụ tư vấn tài chính rất nhạy cảm và còn mới mẻ ở Việt Nam. Nền kinh tế nước ta đang đứng trước những tín hiệu lạc quan trong đổi mới và phát triển, do đó sẽ mở ra những cơ hội mới cho các DNBH nhân thọ trong việc khẳng định vai trò và vị trí của mình trên thị trường. Và kết quả của hoạt động đầu tư nguồn vốn nhàn rỗi của doanh nghiệp là một trong những yếu tố quyết định. Trong khuôn khổ bài viết em xin trình bày một số vấn đề cơ bản về hoạt động đầu từc của DNBH nhân thọ trên thị trường bảo hiểm Việt Nam. Đây là bài viết đầu tiên nên còn nhiều sai sót. Em rất mong cô chỉ bảo thêm để những bài viết sau được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô đã nhiệt tình hướng dẫn để em hoàn thành bài viết này. Tài liệu tham khảo Thông tin thị trường bảo hiểm - tái bảo hiểm Tạp chí bảo hiểm Tạp chí nghiên cứu kinh tế Giáo trình kinh tế bảo hiểm 5. Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm 6. Nghị định 43/ 2001/NĐ- CP ngày 01/08/2001 7.Luật kinh doanh bảo hiểm 8.Bảo hiểm nguyên tắc và thực hành. 9. Tạp chí tài chính. 10.Quy trình thẩm định dự án đầu tư của ngân hàng đầu tư và phát triển 11. Báo đầu tư 12. Thời báo kinh tế Việt Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHoat dong dau tu doanh nghiep BHNtho.doc
Tài liệu liên quan