Đề tài Công tác thu, chi và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội Huyện Yên Sơn (Tuyên Quang ) thời gian qua

Tài liệu Đề tài Công tác thu, chi và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội Huyện Yên Sơn (Tuyên Quang ) thời gian qua: Lời nói đầu Sự tồn tại và phát triển của con người do rất nhiều nhân tố quyết định trong đó không thể không kể đến hệ thống an sinh xã hội với nòng cốt là chính sách Bảo hiểm Xã hội (BHXH ). BHXH là chính sách xã hội được nhiều quốc gia coi trọng nhằm đảm bảo về mặt thu nhập cho người lao động khi họ tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. BHXH ở việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ khi mới thành lập nước và nó đã đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước. Hoạt động của BHXH ngày càng hiệu quả hơn đặc biệt là sau năm 1995 khi mà quỹ BHXH dược hình thành độc lập ngoài ngân sách nhà nước. Quỹ BHXH là sương sống của bất kỳ một hệ thống BHXH nào vì các chế độ BHXH đều nhằm mục đích bảo đảm an toàn về thu nhập cho người lao động, muốn vậy thì cơ quan BHXH phải có một lượng tiền nhất định. Trong những năm qua quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH của cơ quan BHXH huyện Yên Sơn( Tuyên Quang )đã thu được nhiều thành tựu như: phí thu được ngày càng nhiều, chi trả đ...

doc56 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1326 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Công tác thu, chi và quản lý quỹ bảo hiểm xã hội Huyện Yên Sơn (Tuyên Quang ) thời gian qua, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu Sự tồn tại và phát triển của con người do rất nhiều nhân tố quyết định trong đó không thể không kể đến hệ thống an sinh xã hội với nòng cốt là chính sách Bảo hiểm Xã hội (BHXH ). BHXH là chính sách xã hội được nhiều quốc gia coi trọng nhằm đảm bảo về mặt thu nhập cho người lao động khi họ tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động. BHXH ở việt Nam đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm ngay từ khi mới thành lập nước và nó đã đóng góp lớn cho sự phát triển của đất nước. Hoạt động của BHXH ngày càng hiệu quả hơn đặc biệt là sau năm 1995 khi mà quỹ BHXH dược hình thành độc lập ngoài ngân sách nhà nước. Quỹ BHXH là sương sống của bất kỳ một hệ thống BHXH nào vì các chế độ BHXH đều nhằm mục đích bảo đảm an toàn về thu nhập cho người lao động, muốn vậy thì cơ quan BHXH phải có một lượng tiền nhất định. Trong những năm qua quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH của cơ quan BHXH huyện Yên Sơn( Tuyên Quang )đã thu được nhiều thành tựu như: phí thu được ngày càng nhiều, chi trả đúng đối tượng...Tuy nhiên trong quá trình trên chúng ta vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập như: Chưa khai thác hết lực lượng lao động, vẫn tồn tại tình trạng trục lợi BHXH. Điều này đã làm cho hiệu quả hoạt động của quỹ BHXH chưa cao và còn nhờ nhiều vào ngân sách Nhà Nước. Như vậy vấn đề thu chi có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của chế độ BHXH Việt Nam cũng như BHXH các tỉnh, huyện trong cả nước trong đó có BHXH Huyện Yên Sơn nhưng vẫn còn nhiều tồn tại cần phải được xem xét và bàn luận trên nhiều khía cạnh khác nhau. Chính vì vậy em đã chọn đề tài: “ Công tác thu, chi và quản lý quỹ BHXH Huyện Yên Sơn(Tuyên Quang ) thời gian qua ” Mục đích của chuyên đề : 1. Làm rõ thu, chi BHXH là gì ? 2. Đánh giá thực trạng công tác thu chi quỹ BHXH tại BHXH Huyện Yên Sơn trong thời gian qua. 3. Đề xuất ý kiến để nâng cao hiệu quả của công tác thu chi quỹ BHXH huyện Yên Sơn trong thời gian tới. Bố cục bài được chia làm 3 phần: Phần 1 : Nhận thức lý luận về BHXH và công tác thu chi Phần 2 : Thực trạng công tác thu chi quỹ BHXH tại BHXH huyện Yên sơn thời gian qua. Phần 3 : Những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt của công tác thu chi quỹ BHXH tại BHXH huyện Yên sơn. Chuyên đề này dược thực hiện thành công là nhờ sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Tôn Thanh Huyền _Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm, trường Đại học Kinh tế Quốc dân và tập thể cán bộ công nhân viên của cơ quan BHXH huyện Yên sơn. Tuy nhiên trình độ còn nhiều hạn chế nên bài viết này còn nhiều thiếu xót. Em mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo TônThanh Huyền đã giúp em hoàn thành chuyên đề này. Phần 1 Khái quát chung về BHXH I/ Tính tất yếu khách quan của BHXH . Sự xuất hiện của các loại hình quỹ tương hỗ, đặc biệt là sự ra đời của các loại hình bảo hiểm đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Từ đây những nỗi lo toan phiền muộn về các biến cố bất lợi xảy ra trong cuộc sống con người đã được giải tỏa. Con người cảm thấy an toàn hơn với sự giúp đỡ của các công ty, các tổ chức BHXH. Hoạt động của loại hình này đã đem lại chỗ dựa vững chắc cho cuộc sống của người lao động, cho sự ổn định hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức và các công ty. Có thể thấy rằng sự xuất hiện của BHXH là nhu cầu tất yếu khách quan và là nhu cầu của cuộc sống của người lao động. Xét từ phía người lao động: Trong quá trình sản xuất kinh doanh, người lao động luôn gặp phải những rủi ro mang tính khách quan như: ốm đau, tai nạn lao động hoặc mắc các bệnh nghề nghiệp gây ra làm cho hị mất khả năng lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn, dẫn đến nguồn thu nhập của họ bị giảm đi hoặc không còn nữa; hoặc người lao động bị chết trong khi con cái đang tuổi vị thành niên, bố mẹ già không nơi nương tựa; hoặc về già không còn khả năng lao động để có thu nhập từ tiền lương, tiền công, hơn thế nữa bệnh tật ốm đau lại xảy ra thường xuyên hơn gây nhiều khó khăn cho người lao động. Những rủi ro này không chỉ làm giảm thu nhập của người lao động mà còn làm giảm nguồn lực tài chính của họ và gia đình do các chi phí mới phát sinh như: chi phí khám chữa bệnh, chi phí chăm sóc, phục hồi sức khỏe, chi phí mai táng. Do đó cuộc sống của người lao động trong hoàn cảnh này là rất khó khăn và giúp đỡ về mặt tài chính là rất cần thiết, có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Xét từ phía doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường mối quan hệ giữa giới chủ và thợ là mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc nhau bởi quyền lợi và trách nhiệm của mỗi bên. Các doanh nghiệp vừa phải tạo điều kiện làm việc tốt cho người lao động, phải trả công cho họ vừa phải có trách nhiệm giúp đỡ khi họ không may gặp phải rủi ro trong quá trình lao động như: tai nạn lao động, ốm đau. Chính các chi phí phát sinh này làm ảnh hưởng đến tình hình tài chính của doanh nghiệp đặc biệt là những đợt dịch bệnh, trường hợp tích tụ rủi ro, rủi ro mang tính thảm họa. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh để trang trải cho các chi phí đó. Xét từ phía xã hội: Sự vận động của các quy luật nội tại trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là quy luật cạnh tranh, trong nhiều trường hợp đã đẩy một số doanh nghiệp vào tình trạng bất ổn, thậm chí là phá sản dẫn đến hàng loạt người lao động bị mất việc làm, không đảm bảo được cuộc sống và tạo ra nhiều vấn đề phức tạp. Vì thế, để đảm bảo nền Kinh tế xã hội phát triển bình thường, xét từ phía trách nhiệm của xã hội, Nhà nước buộc phải tiến hành phân phối lại qua ngân sách Nhà nước hoặc buộc các doanh nghiệp phải tự tạo quỹ tài chính cho vấn đề trên. Như vậy, đứng trước những rủi ro trong cuộc sống của người lao động, trong quá trình lao động ,sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và cả xã hội đều cần phải có một nguồn lực tài chính đủ lớn nhằm đảm bảo cho sự ổn định cuộc sống của người lao động , hoạt động của các tổ chức và sự ổn định về mặt chính trị, xã hội. Để có nguồn tài chính nàythì con người đã có nhiều biện pháp khác nhau như: né tránh rủi ro, san sẻ tổn thất trong cộng đồng, đi vay, đi xin hoặc là thành lập các quỹ tương hỗ. Tuy nhiên, các biện pháp trên là không hiệu quả hoặc là hiệu quả không cao (quỹ tương hỗ )biện pháp hữu hiệu nhất là tham gia BHXH tức là trong quá trình lao động cả người lao động và người sử dụng lao động đều trích ra một phần thu nhập của mình để cùng nhà nước thành lập nên một quỹ tài chính BHXH. Cùng với sự tiến bộ của xã hội tiến bộ của xã hội loài người, BHXH đã được coi như là nhu cầu khách quan củat con người Và được xem như là một trong những quyền cơ bản của con người đã được Đại hội đồng liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/ 12/1948 như sau: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội đều có quyền hưởng BHXH . quyền đó đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cần cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”. II/ Các đối tượng của BHXH Để có được sự nhận biết đúng đắn, đầy đủ về một loại bảo hiểm nào đó, trước hết chúng ta phải xem xét đến các khái niệm cơ bản của chúng như: đối tượng được tham gia, đối tượng được bảo hiểm, đối tượng hưởng thụ quyền lợi bỏa hiểm. đối vơi BHXH việc nhận biết các đối tượng này không khó, tuy nhiên vẫn có nhiều người nhầm lẫn giữa đối tượng và đối tượng tham gia BHXH , họ cho rằng đối tượng của BHXH là người lao động. Thực ra, trong BHXH thì đối tượng của nó chính là thu nhập của người lao động. Bởi lẽ, khi người lao động gặp sự cố hoặc rủi ro thì họ bị giảm hoặc mất khả năng lao động dẫn đến thu nhập bị giảm hoặc mất hẳn, do đó, tại thời điểm ấy họ mong muốn có một khoản tiền nhất định để chi trả cho các nhu cầu thiết yếu cũng như các nhu cầu mới phát sinh. Còn người lao động trong quan hệ BHXH vừa là đối tượng tham gia, vừa là đối tượng được bảo hiểm, họ cũng là đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH (chiếm phần lớn trong các trường hợp phát sinh trách nhiệm BHXH). Đối tượng tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà còn có cả người sử dụng lao động và Nhà nước. Sở dĩ người sử dụng lao động tham gia vào BHXH là vì phàn họ thấy được lợi ích thiết thực khi đã tham gia BHXH, một phần là do sự ép buộc của nhà nước thông qua các văn bản qui phạm pháp luật. đối với nhà nước thì lại khác, họ tham gia BHXH với hai tư cách là chủ sử dụng lao động đối vơi tất cả công nhân viên chức và những người hưởng lương từ Ngân sách Nhà nước: tư cách thứ hai là người bảo hộ cho quỹ BHXH mà cụ thể là bảo hộ giá trị cho quỹ BHXH, bảo hộ cho sự tăng trưởng của quĩ nhằm tạo sự ổn định cho quĩ và sự ổn định về mặt xã hội. Đối tượng được bảo hiểm trong quan hệ BHXH ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động. Bởi vì, khi người lao động gặp rủi ro thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm giúp đỡ. Điều này có nghĩa là họ phải bỏ ra một khoản chi phí cho người lao động, nhưng thực tế chi phí này nhanh chóng được cơ quan BHXH hoàn trả lại. Đối tượng được hưởng quyền lợi BHXH là người lao động trong trường hợp họ rủi ro như: ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN, hưu trí. Nhưng trong trường hợp người lao động bị tử vong hoặc sinh đẻ thì đối tượng hưởng thụ quyền lợi BHXH lại là thân nhân của người lao động nhự: bố, mẹ, con, vợ(chồng). III/ chức năng của BHXH. BHXH có một số chức năng chủ yếu sau: + Thay thế và bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, bị mất việc làm. sự đẩm bảo chắc chắn sẽ xẩy ra vì suy cho cùng mọi người rồi sẽ mất kha năng lao động khi họ hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH vì nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cơ chế hoạt động của BHXH. + Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH có người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước và các bên tham gia đã cùng góp ý xây dựng nên quỹ BHXH. Quỹ này được sử dụng để chi trả cho những người tham gia BHXH không may gặp rủi ro. Thực tế chỉ ra rằng số lượng này thường nhỏ hơn rất nhiều so với số lượng người tham gia, do đó theo quy luật số đông bù ít, quỹ BHXH đã tiến hành phân phối lại thu nhập theo cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Sự phân phối này là phân phối thu nhập giữa những người có thu nhập cao với những người có thu nhập thấp, giữa những người khỏe mạnh đang làm việc với những người già cả, ốm đau đang nghỉ việc. Chức năng này của BHXH đã góp phần tạo nên sự công bằng xã hội mang tính nhân văn cao cả. + Góp phần kích thích tinh thần lao động, khuyến khích họ hăng hái sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội. Quỹ BHXH thực hiện được chức năng này là vì họ không may gặp các rủi ro, phần thu nhập của hộ bị giảm hoặc không còn, nhưng sự suy giảm này đã được bù đắp một phần hoặc toàn bộ từ quỹ BHXH. Chính vì vậy mà đời sống của người lao động và gia đình họ không bị sáo trộn, hay nói cách khác là họ luôn được đảm bảo cuộc sống và có chỗ giựa về mặt tinh thần. Do đó họ luôn yên tâm sản xuất từ đó nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. + Gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Thông qua BHXH những mâu thuẫn giữa người lao động như mâu thuẫn về tiền lương, thời gian lao động ...sẽ được điều hòa và giải quyết. Đặc biệt là cả hai giới này đều thấy được nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau và gắn bó lợi ích với nhau. Còn đối với Nhà nước và xã hội thì chi cho BHXH là khoản chi rất nhỏ (vì chỉ mang tính chất hỗ trợ), nhưng lại đem lại hiệu quả rất cao trong đảm bảo ổn định trong đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần ổn định sản xuất và kinh tế xã hội. IV/ Tính chất của bảo hiểm xã hội. Sự ra đời của BHXH gắn liền với đời sống của người lao động do đó BHXH có một số tính chất cơ bản sau: + Mang tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội. + BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. Những rủi ro trong BHXH đã hình thành nên tính chất ngẫu nhiên của nó. Bởi lẽ các rủi ro được áp dụng các BHXH đều không thể lường trước được, các rủi ro này xảy ra một cách bất thường. Chính vì vậy mà không phải tất cả người lao động của một tổ chức hay là tất cả các tổ chức đều phải chịu chung một hay nhiều rủi ro cùng một lúc. + BHXH vừa mang tính kinh tế, vừa có tính xã hội và cả tính dịch vụ. Tính kinh tế của BHXH được thể hiện thông qua cơ chế tạo lập và sử dụng quỹ BHXH. Quỹ BHXH muốn được hình thành, bảo toàn và tăng trưởng thì nhất thiết phải có sự đóng góp tài chính của tất cả các bên liên quan. Mức đóng góp của các bên được xác định rất cụ thể dựa trên nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm xã hội là lấy số đông bù số ít, do thực chất mức đóng góp của mỗi người lao động là không đáng kể so với mức họ được hưởng. Xét dưới góc độ kinh tế thì người sử dụng lao động cũng được lợi rất nhiều trong quan hệ BHXH khi tham gia BHXH họ sẽ không phải chi trả các chi phí cho người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Còn về phía Nhà nước thì hoạt động tạo lập quỹ BHXH đã làm giảm nhẹ gánh nặng cho NSNN đồng thời nó góp phần đầu tư cho nền kinh tế. Như vậy cơ chế tạo lập và sử dụng quỹ BHXH đã đem lại rất nhiều lợi ích cho NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước. BHXH là một bộ phận chủ yếu của hệ thống bảo đảm xã hội vì tính chất xã hội của nó được thể hiện rất rõ nét về lâu dài mọi NLĐ trong xã hội đều có quyền tham gia BHXH. Và ngược lại, BHXH phải có trách nhiệm bảo hiểm cho mọi người lao động và gia đình họ, kể cả họ đang còn trong độ tuổi lao động. Tính xã hội của BHXH luôn gắn chặt với tính dịch vụ của nó. Khi nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển thì tính chất dịch vụ và tính chất xã hội hóa của BHXH ngày càng cao. V/ quỹ bảo hiểm xã hội. 1khái niệm: có một số khái niệm về quỹ BHXH: quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo hiểm: người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước nhằm mục đích chi trả cho các chế độ BHXH và đảm bảo hoạt động của hệ thống BHXH. Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập chung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. 2.Đặc điểm. -Là một quỹ tiền tệ tập chung, giữ vị chí là khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Là tổ chức tài chính nằm giao thoa giữa ngân sách Nhà nước với các tổ chức tài chính Nhà nước, tài chính doanh nghiệp và sau đó là tài chính dân cư. -Phân phối quỹ BHXH vừa mâng tính hoàn trả vừa mang tính không hoàn trả. Tính không hoàn trả của quỹ BHXH được áp dụng đối với những người đã tham gia BHXH trong suốt quá trình lao động nhưng không ốm đau, tai nạn lao động, sinh con. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của BHXH gắn liền với chức năng vốn có của Nhà nước là vì quyền lợi của người lao động chứ không vì mục đích kiếm lời, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ của mỗi quốc gia. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì càng có nhiều chế độ BHXH được thực hiện, và bản thân từng chế độ cũng được áp dụng rộng rãi hơn, nhu cầu thỏa mãn về BHXH của người lao động càng được nâng cao. Mặt khác, khi nền kinh tế phát triển thì mức thu nhập của người lao động càng cao và họ càng có khả năng tham gia vào nhiều chế độ BHXH. Một mặt, quỹ BHXH mang tính tiêu dùng ngày càng được thể hiện thông qua các mục tiêu, mục đích của nó là chi trả cho các chế độ BHXH. Nhưng mặt khác nó lại mang tính dự trữ vì thông thường, khi người lao động đống góp vào quỹ BHXH thì họ không được quỹ này chi trả ngay khi gặp rủi ro mà phải có thời gian dự bị. Hoạt động của quỹ BHXH đặt ra yêu cầu và hình thành tất yếu chế độ tiết kiệm bắt buộc của xã hội và người lao động dành cho ốm đau, hưu trí. Đó cũng là quá trình phân phối lại thu nhập của cá nhân và cộng đồng. 3. Nguồn hình thành quỹ BHXH Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau: +Sự đóng góp của người lao động +Sự đóng góp của người sử dụng lao động +Sự đóng góp và hỗ trợ của Nhà nước +Thu từ các nguồn khác Đối với phần lớn các nước trên thế giới thì quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn trên. Tuy nhiên tùy từng điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của từng quốc gia mà tỉ lệ đóng góp giữa các bên, mức độ đóng góp của từng bên, mức độ can thiệp của Nhà nước, hay phương thức đóng góp sẽ khác nhau. Về phương thức đóng góp vào quỹ BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện nay còn có hai quan điểm.Việc xác định mức đóng góp phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp là nội dung của quan điểm thứ nhất. Còn quan điểm thứ hai thì cho rằngphair căn cứ vào thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định nên mức đóng góp. Việc lựa chọn quan điểm nào là tùy thuộc vào mỗi quốc gia nhưng phải đảm bảo rằng mức đóng góp của mỗi bên phải đủ để cân đối thu,chi của quỹ BHXH. Trong thực tế việc xác định mức đóng góp của các bên ( thực chất là xác định phí BHXH ) được tính toán một cách rất khoa học. Việc xác định phí BHXH là một nghiệp vụ chuyên sâu của BHXH và người ta thường dùng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Phí BHXH được xác định theo công thức: P = f1 + f2 +f3 Trong đó : f1: là phí thuần BHXH f2 : là phí quản lý f3 : là phí dự trữ Phí thuần của BHXH là bộ phận cấu thành quan trọng nhất của phí BHXH. Phí thuần được xác định để đảm bảo chi trả cho tất cả các chế độ BHXH. Chính vì vậy,việc xác định phí BHXH là rất phức tạp, nó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau: cơ cấu lao động theo độ tuổi, đặc điểm cấu tạo sinh học của người trong một nước, kết cấu giới tính trong lực lượng lao động, tuổi thọ bình quân của người dân, điều kiện làm việc chung của người lao động... Ngoài sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước, quỹ BHXH còn được hình thành từ các nguồn khác như : tiền sử phạt đối với các đơn vị vi phạm điều lệ BHXH; sự hỗ trợ, sự viện trợ của các tổ chức trong và ngoài nước, lãi từ hoạt động đầu tư phần quỹ BHXH nhàn rỗi.. 4.Mục đích sử dụng quỹ BHXH . Như đã trình bày ở phần trên, phí BHXH bao gồm 3 bộ phận: phí thuần, phí dự trữ, phí quản lý. Như vậy, rõ ràngquỹ BHXH được dùng cho 3 mục đích: chi trả cho các chế độ BHXH, chi cho việc quản lý hệ thống BHXH , chi trích lập quỹ dự trữ cho những trường hợptônr thất lớn. Trong cơ cấu chi BHXH thì cho các chế độ BHXH là rất lớn và chiếm phần lớn nguồn quỹ này vì đây là mục tiêu cơ bản nhất của BHXH :đẩm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động, đảm bảo ổn dịnh hoạt động của các đơn vị, tổ chức. Thực tế cho thấy, việc chi trả cho các chế độ BHXH diễn ra thường xuyên và liên tục với số lượng lớn trên phạm vi rộng lớn. Một trong những khoản chi thường xuyên là chi lương hưu cho những người đã nghỉ công tác; và chi trả trợ cấp hàng tháng cho thân nhân của người lao động khi họ qua đời. Nguồn chi thứ hai trong BHXH là chi cho việc quản lý nghiệp vụ BHXH. Đây là nguồn chi không lớn trong cơ cấu chi BHXH nhưng nó cũng là một khoản chi ngày càng lớn. Bởi vì các chế độ BHXH ngày càng rộng rãi để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người lao động, do đó đội ngũ phục vụ BHXH ngày càng nhiều dẫn đến chi lương cán bộ ngày càng lớn. Mặt khác, xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu về điều kiện làm việc ngày càng ra tăng. Vì vậy, chi phí choviệc xây dựng cơ bản, mua sắm máy móc, trang thiết bị văn phòng ngày càng tăng lên. Mục đích chi thứ 3 của quỹ BHXH là chi dự trữ. Thực chất đây là quá trình tích lũy trong quá trình sử dụng quỹ BHXH. Định kỳ hàng tháng (quý, năm )cơ quan BHXH giữ lại một phần quỹ của mình để thành lập nên quỹ dự trữ BHXH. Quỹ này chỉ được sử dụng trong trường hợp nhu cầu chi trả lớn dẫn đến thâm hụt quỹ BHXH hoặc trong lúc đồng tiền mất giá. 5.Tính đặc thù của nghiệp vụ thu BHXH . Quá trình thu BHXH có những đặc thù sau: Thứ nhất: Việc quy định đóng BHXH đã thành mối quan hệ 3 bên: người lao động ( NLĐ ), người sử dụng lao động (NSDLĐ), và cơ quan BHXH, giữa các bên có sự ràng buộc giám sát lẫn nhau về mức đóng và thời gian đóng BHXH đến từng người suốt quá trình tham gia BHXH, lấy đó làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện chế độ BHXH theo luật định.Đây là một nội dung của nghiệp vụ thu BHXH không giống với các nghiệp vụ khác. Thứ hai: Từ đặc thù thứ nhất, yêu cầu theo dõi kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị theo từng tháng, để từ đó ghi nhận kết quả đóng BHXH cho từng người, tương đương với mức lương làm căn cứ đóng BHXH đây là công việc đòi hỏi tính chính xác cao, thường xuyên, liên tục, kéo dài hàng chục năm, lại có biến động về mức đóng. Đồng thời, việc theo dõi ghi chép kết quả đóng góp của mỗi con người là căn cứ pháp lý để thực hiện chế độ BHXH, do đó mỗi lần giải quyết chế độ BHXH là một lần kiểm tra, xác định độ chuẩn xác của nghiệp vụ BHXH . Thứ ba: Trong nghiệp vụ quản lý thu BHXH, ngoài nghiệp vụ kế toán thực hiện quản lý theo chế độ tài chính thực hiện thu tập trung vào một tài khoản của cơ quan BHXH các tỉnh, thành phố chuyển lên quỹ BHXH trung ương đúng, kịp thời; còn nghiệp vụ quản lý thu BHXH theo danh sách lao động đăng ký đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị cùng sổ BHXH của từng người mà việc quản lý theo dõi phải được thực hiện ở ba cấp là: BHXH tỉnh quản lý danh sách, lao động, tiền lương đơn vị, cơ quan đăng ký đóng BHXH cơ bản tăng, giảm hàng tháng để ghi nhận kế quả đóng lập thành hồ sơ gốc. BHXH huyện làm nhiệm vụ đôn đốc và đối chiếu kêt quả đóng của cơ quan, đơn vị theo địa bàn quản lý, từ đó hướng dẫn cơ quan đơn vị ghi kết quả đóng BHXH vào sổ BHXH của từng người. Đây là căn cứ để giải quyết chế độ hưởng BHXH. Chính vì những đặc thù trền mà hoạt động thu BHXH đòi hỏi phải được tập trung thống nhất, có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài chính tiền tệ, đảm bảo đọ chính xác trong việc ghi chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị đến từng lao động theo tiền lương, lấy đó làm căn cứ đóng BHXH từng tháng trong nhiều năm, kể cả trường hợp liên tục cũng như gián đoạn, làm việc một nơi hay nhiều nợi ...Như vậy quá trình theo dõi ghi kết quả thu BHXH đòi hỏi liên tục trong nhiều năm, kể cả thời gian ngừng đóng BHXH vẫn phải lưu giữ đẻ đảm bảo khi người lao động tiếp tục đóng hoặc yêu cầu giải quyết chế độ đều được thực hiện ngay. Hoạt động thu của BHXH là hoạt động của cả đời người, có tính kế thừa, cho nên nghiệp vụ quản lý thu, lưu giữ sổ biểu là không có giới hạn về thời gian. 6. Tính đặc thù của nghiệp vụ chi BHXH. Thực chất của hoạt động BHXH như là hoạt động của các quỹ tiền tệ, quỹ tín dụng khác thông qua cơ chế đóng góp trước hưởng thụ sau. Tuy nhiên mục đích của hoạt động BHXH là mang tính nhân văn chứ không phải là mang tính kinh doanh. Do đó mà quá trình chi trả của hoạt động BHXH mang những đặc trưng riêng: Thứ nhất: Quá trình chi trả trợ cấp cho các đối tượng được bảo hiểm vừa được xác định trước vừa không được xác định trước. chúng ta chỉ có thể xác định trước các khoản trợ cấp sẽ phải chi cho chế độ hưu trí và trong chế độ tử tuất khi người lao động đã qua đời. Còn với các chế độ khác như ốm đau, thai san, tai nạn lao động...Thì chúng ta không thể xác định trước được số tiền phải chi trả cũng như khi nào chúng ta phải chi trả số tiền đó. Bởi vì các rủi ro nói trên xảy ra một cách bất thường và hậu quả để lại là không lường trước được. Chúng ta không thể nào biết được khi nào người lao động bị tai nạn lao động, khi nào họ bị ốm đau và mức độ thương tật là bao nhiêu, thời gian nghỉ ốm là bao nhiêu. Chính vì vậy mà việc cân đối nguồn quỹ BHXH là một điều rất khó thực hiện chính xác. Thông thường người ta thường xác định các khoản chi theo phương pháp xác suất thông qua kết quả điều tra thống kê trên quy mô lớn. Thứ hai: cũng giống như nghiệp vụ thu BHXH nghiệp vụ chi BHXH cho chế độ hưu trí, mất sức lao động, chế độ tử tuất hàng tháng đòi hỏi phải chi trả trong một thời gian dài, liên tục. Mặt khác số lượng người nghỉ hưu ngày càng tăng lên. Do đó việc chi trả các chế độ này rất phức tạp. Nó đòi hỏi một đội ngũ cán bộ nhiệt tình quản lý một số lượng hồ sơ rất lớn và cũng đòi hỏi công tác lưu trũ hồ sơ phải tiến hành rất tốt và kéo dài trong nhiều năm. Thứ ba: Khác với quản lý thu BHXH việc quản lý chi đặc biệt là quá trình chi trả BHXH đòi hỏi một nguồn nhân lực rất lớn. Thông thường để chi trả các chế độ hưu trí, mất sức lao động, tuất hàng tháng, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp người ta thiết lập mạng lưới chi trả tại tất cả các cụm dân cư để cho các đối tượng hưởng BHXH dễ dàng nhận tiền trợ cấp của mình. Do đó đội ngũ cán bộ cần cho việc chi trả. 7. So sánh quỹ BHXH và ngân sách Nhà nước. NSNN là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình Nhà nước dùng quyền lực chính trị của mình để tập trung một phần thu nhập của quốc gia nhằm tạo lập quỹ tiền tệ của Nhà nước và phân phối sử dụng nó cho việc trang trải các chi phí bộ máy Nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế xã hội theo kế hoạch của Nhà nước. Từ khái niệm trên về NSNN ta có thể rút ra một số đặc điểm khác nhau và giống nhau giữa quỹ BHXH và NSNN, từ đó ta sẽ hiểu được đây đủ hơn về quỹ BHXH. Sự giống nhau giữa NSNN và quỹ BHXH + Việc tạo lập và sử dụng mỗi nguồn quỹ đều biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Quá trình này cũng đều được thực thi theo các quy định của pháp luật và việc quản lý được tiến hành theo nguyên tắc cân bằng thu chi. + Quỹ BHXH và NSNN là những khâu tài chính độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia, chức năng của NSNN mang tính rộng rãi hơn so với quỹ BHXH. + Hoạt động của cả quỹ BHXH và NSNN đều không phải là nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời mà hoạt động của chúng mang đậm tính chất xã hội, tính cộng đồng và trong nhiều trương hợp hoạt động của hai quỹ này mang tính nhân văn cao cả. - Sự khác nhau giữa NSNN và quỹ BHXH + Điều kiện tồn tại ra đời và phát triển của NSNN gắn liền với sự ra đời,tồn tại và phát triển của Nhà nước và quá trình thực hiện các chức năng kinh tế xã hội của Nhà nước. Còn sự ra đời, tồn tại và phát triển của quỹ BHXH gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa với quan hệ thuê mướn nhân công. Khi nền kinh tế càng phát triển, thu nhập của người lao động càng cao thì phạm vi các chế độ BHXH càng mở rộng, mức độ thỏa mãn của NLĐ khi tham gia BHXH càng cao. + Tính chất pháp lý của NSNN cao hơn của quỹ BHXH. Quá trình phân phối của NSNN chủ yếu dựa vào quyền lực kinh tế,chính trị của Nhà nước . Nhà nước ban hành các luật để thực hiện việc thu chi quỹ NSNN và quá trình này được sự giám sát và quản lý chặt chẽ của Quốc hội. Còn đối với quỹ BHXH thì hoạt động thu, chi quỹ cũng được thực hiện dựa vào các văn bản pháp luật nhưng chủ yếu dựa vào quan hệ kinh tế,quan hệ lợi ích của những người tham gia theo nguyên tắc có đóng mới có hưởng và ngược lại. -Quan hệ phân phối của NSNN chủ yếu là phân phối lại và không mang tính chất hoàn trả, chủ thể đóng góp và hưởng thụ NSNN thông thường là tách rời nhau. Còn quan hệ phân phối quỹ BHXH vừa mang tính chất hoàn trả vừa mang tính chất không hoàn trả. Việc hoàn trả là không biết trước chính xác về quy mô, thời gian và không gian. Quan hệ phân phối của NSNN phản ánh quan hệ lợi ích của xã hội, lợi ích quốc gia và chi phối các quan hệ lợi ích bộ phận, lợi ích cá nhân nhằm đảm bảo cho sự ổn định của nền kinh tế xã hội. Quan hệ phân phối của quỹ BHXH thì ngược lại, trước hết vì lợi ích của từng cá nhân sau đó là lợi ích của đơn vị và cuối cùng là lợi ích xã hội. VI/.Các chế độ BHXH . Theo khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế (ILO) tại công ước 102 tháng 6 năm 1952 ở Giơnevơ thì mỗi quốc gia nên xây dựng hệ thống BHXH của mình với 9 chế độ trợ cấp. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện kinh tế, xã hội của từng nước mà mức độ tham gia vào công ước 102 là khác nhau. Nhưng để được coi là có hệ thống BHXH thì phải có ít nhất 3 chế độ, trong đó phải có ít nhất một trong năm chế độ: trợ cấp ốm đau; trợ cấp thất nghiệp, hưu trí; trợ cấp khi tàn phế; trợ cấp tuất. Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau: Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước nhưng đều phải dựa vào điều kiện kinh tế, xã hội,các yếu tố sinh học như tuổi thọ bình quân, xác suất tử vong... Hệ thống các chế độ mang tính chất san sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính. Việc chi trả cho các chế độ đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH và một phần là quỹ dự trữ. Phương tiện thanh quyết toán và chi trả là tiền mặt. Các chế độ BHXH luôn được diều chỉnh cho phù hợp với sự thay đổi các điều kiện kinh tế, xã hội. Các chế độ BHXH qui định tại Công ước 102 bao gồm: * chăm sóc y tế: Chế độ này nhằm cung cấp các khoản viện phí, chi phí thuốc chữa bệnh cho người lao động khi họ bị ốm đau phải nằm viện.Hiện nay ở nước ta chế độ này không được đưa vào chế độ này không được đưa vào hệ thống các chế độ BHXH nhưng được tổ chức thành bảo hiểm y tế vơí đầy đủ các phòng ban chuyên môn. *Trợ cấp thất nghiệp: Là loại trợ cấp nhằm đem lại cho người lao động những khoản thu nhập định kỳ để họ đủ khả năng duy trì cuộc sống ổn định khi người lao động bị rơi vào tình trạng thất nghiệp. Đối với Việt Nam chế độ này đang được xem xét để đưa vào loại hình bảo hiểm thất nghiệp. * Trợ cấp gia đình: Loại hình trợ cấp này mang đậm tính tương trợ. Bởi vì nó sẽ cung cấp tài chính cho các gia đình trở nên khó khăn, vất vả như: thiên tai, lụt lội, dịch bệnh ... * Trợ cấp khi tàn phế: Trong trường hợp người lao động không may bị mất khả năng lao động vĩnh viễn hay bị coi là tàn phế thì họ sẽ được nhận trợ cấp định kỳ hàng tháng (quí, năm) từ quỹ BHXH. Điều này làm cuộc sống của người lao động bớt khó khăn hơn. Trên đây là 4 trong sô 9 chế độ BHXH được ILO nêu nêu ra mà Việt Nam hoặc là không thực hiện hoặc là xây dựng thành một hệ thống BHXH riêng. 5 chế độ BHXH còn lại đã được nước ta tiếp nhận và thực hiện hoàn chỉnh theo ND 12 CHI PHí ngày 26 tháng 1 năm 1995: */chế độ trợ cấp ốm đau: Mục đích của chế độ này là giúp cho NLĐ có được khoản trợ cấp thay thé thu nhập bị mất do không làm việc khi họ ốm đau. Một số mức hưởng và điều kiện hưởng của chế độ này được qui định như sau: Đối với người lao động làm việc trong điều kiện bình thường: + 30 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm +40 ngày trong năm, nếu đã đóng BHXH từ 15 năm đến 30 năm + 50 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng BHXH trên 30 năm Đối với người lao động làm việc nặng nhọc, độc hại, ở nơi có trợ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên: + 40 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm + 50 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng BHXH từ 15 năm đến 30 năm + 60 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng BHXH trên 30 năm Mức trợ cấp ốm đau là bằng 75% của tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH trước khi nghỉ ốm. Trong trường hợp NLĐ bị mắc các bệnh cần điều trị dài ngày thì được hưởng trợ cấp tối đa là 180 ngày trong 1 năm không phân biệt thời gian đong BHXH nhiều hay ít.Nếu sau 180 ngày mà vẫn phải điều trị tiếp thì mức trợ cấp chỉ bằng 70% nếu đã đóng BHXH trên 30 năm và 65% cho trường hợp ngược lại. *chế độ thai sản. Chế độ này đã taộ điều kiện cho lao động nữ khi sinh con có đủ các điều kiện cần thiết cho việc nuôi dưỡng trẻ em và bản thân họ. Chế độ này cũng đáp ứng được nhu cầu của công ước Quốc tế về quyền trẻ em và mang tính nhân đạo sâu sắc.Điều lệ BHXH qui định một số mức hưởng và điều kiện hưởng trong trường hợp này như sau: + lao động nữ trong thời gian mang thai được đi khám 3 lần, mỗi lần 1 ngày +lao động nữ khi sinh con thứ nhất, lần thứ hai thì được nghỉ việc và được hưởng trợ cấp hàng tháng bằng 100% tiền lương tháng làm căn cứ đóng BHXH trước khi nghỉ việc. Thời gian nghỉ việc trước và sau khi sinh là: 4 tháng đối với người lao động làm việc trong điều kiện bình thường 5 tháng đối với người làm các nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, làm việc theo chế độ 3 ca, làm việc nơi có hệ số phụ cấp khu vực là 0,5 và 0,7. 6 tháng đối với người làm việc ở nơi có hệ số phụ cấp là 1 ; người làm nghề hoặc công việc đặc biệt. * chế độ trợ cấp TNLĐ và BNN. Đây là chế độ nhằm góp phần đảm bảo thu nhập, ổn định cuộc sống cho người lao động không may bị tai nạn trong quá trình làm việc hoặc mắc các bệnh nghề nghiệp. Chế độ này qui định rõ trách nhiệm của NSDLĐ đối với các trường hợp TNLĐ hoặc các BNN. Mức trợ cấp của chế độ này dựa trên cơ sở tỷ lệ suy giảm khả năng lao động . +Bị suy giảm từ 5- 10%: trợ cấp bằng 4 tháng tiền lương tối thiểu +Từ 11-20%: trợ cấp bằng 8 tháng tiền lương tối thiểu +Từ 21-30%: trợ cấp bằng 12 tháng tiền lương tối thiểu Bị suy giảm từ 31% trở lên sẽ được trợ cấp bằng 0,4 tháng tiền lương tối thiểu dối với người bị suy giảm từ 31-40%. Cứ suy giảm thêm 10% tiếp theo thì được hưởng thêm 0,2 tiền lương tối thieủ. điều kiện để được hưởng trợ cấp là NLĐ bị tai nạn trong các trường hợp: trong giờ làm việc, trên tuyến đường đi và về từ nhà đến nơi làm việc... Như vậy, bản chất kinh tế xã hội của 3 chế độ trên(các chế độ ngắn hạn) phản ánh mối quan hệ kinh tế xã hội giữa NLĐ, người SDLĐ và Nhà nước thông qua việc tạo lập và sử dụng quỹ BHXH nhằm ổn định cuộc sống cho người lao động , ổn định sản xuất kinh doanh của người SDLĐ và ổn định xã hội. *Chế độ tử tuất đây là chế độ mang tính nhân đạo nhất trong các chế độ của BHXH. Chế độ này sẽ trợ cấp cho thân nhân người lao động một số tiền nhất định để bù đắp những thiếu hụt vè thu nhập của gia đìnhtrong trường hợp người lao động bị tử vong. Điều kiện qui định được hưởng và mức hưởng như sau: Người lao động đang làm việc ; NLĐ đang nghỉ hưu; NLĐ đang nhận trợ cấp hưư trí, TNLĐ, BNN... khi chết thì người lo mai táng nhận được tiền mai táng bằng 8 tháng tiền lương tối thiểu Ngoài ra, nếu họ đã đóng BHXH đủ 15 năm trở lên thì những thân nhân do họ trực tiếp nuôi dưỡng sau đây sẽ nhận được tiền tuất hàng tháng: con chưa đủ 15 tuổi, nếu còn đang đi học thị được trợ cấp cho đến khi 18 tuổi Bố, mẹ,vợ hoặc chồng;người nuôi dưỡng hợp pháp đẫ hết tuổi lao động. Mức trợ cấp hàng tháng là 40% tiền lương tối thiểu và 70% trong trường hợp thân nhân không có nguồn thu nhập nào khác và không có người thân trực tiếp nuôi dưỡng * chế độ hưu trí Đây là loại trợ cấp nhằm cung cấp một khoản thu nhập hàng tháng thay thế cho phần thu nhập không nhận được nữa từ nghề nghiệp do nghỉ công tác. Điều kiện hưởng của chế độ này là: nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi có ít nhất 20 năm đóng BHXH hoặc giảm 5 tuổi cho mỗi giới khi mà trong 20 năm đó có: 15 năm làm nghề hoặc công việc nặng nhọc.Khi đó người lao động được hưởng lương hưu hàng tháng căn cứ vào tiền lương làm căn cứ đóng BHXH và thời gian đóng BHXH như sau: đúng đủ 15 năm thì được hưởng trợ cấp bằng 45% lương đóng BHXH và cứ thêm 1 năm đóng BHXH thì được trợ cấp thêm 2% nhưng tối đa là 75%lương... Như vậy: Bản chất, đặc điểm của chế độ hưu trí, tử tuất là nó thực hiện sau quá trình lao động, quan hệ phân phối có tính chất hoàn trả. Bản chất kinh tế xã hội của chúng là phản ánh quan hệ kinh tế(quan hệ lợi ích) giữa NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước. VII.Cơ chế tạo lập quĩ BHXH ở một số nước trên thế giới 1. ở nước cộng hòa Pháp. Nguồn tài trợ cho quỹ BHXH được xác định theo một cơ chế hết sức phức tạp: quĩ BHXH được tách ra làm 2 loại là quĩ bảo hiểm y tế, thai sản, thương tật, chết và quĩ trợ cấp hưu trí, góa bụa, trợ cấp gia đình. Đối với loại quĩ thứ nhất người ta lại tách ra làm 2 nguồn: + Đóng góp cho rủi ro nghề nghiệp: nguồn tài trợ chính là các khoản đóng góp trên lương với cơ cấu người lao động đóng 6,8%; NSDLĐ đóng 12,8% +Đóng góp cho rủi ro phi nghề nghiệp: khoản đóng góp được thu toàn bộ từ phía NSDLĐ. Tỉ lệ đóng góp được xác định tùy thuộc theo số lượng lao động trong mỗi doanh nghiệp.Ngoài ra, luật pháp quy định quĩ này cũng được thu 15%phí bảo hiểm xe cỏ giới từ các hợp đồng bảo hiểm xe cơ giới của các công ty bảo hiểm để đảm bảo cho các tai nạn giao thông và một phần thu từ thuế rượu,thuốc lá. Đối với quĩ thứ hai thì người ta cũng chia ra rấtcuj thể: +Đối với trợ cấp hưu trí: NLĐ đóng 6,55%tiền lương ,NSDLĐ đóng 9,8%. +Đối với trợ cấp gia đình: NSDLĐ đóng toàn bộ với tỷ lệ 5,4%. +Đối với trợ cấp góa bụa: NLĐ đóng 0,1% 2.ở nước Mỹ Hệ thống BHXH bao gồm các chế độ sau: hưu trí, tử tuất, y tế và thương tật. Nguồn tài trợ là từ thuế phúc lợi xã hội mà chính quyền liên bang thu và sự đóng góp của NLĐ là 7,65% và NSDLĐ là 13,65%. Để được hưởng trợ cấp thì người lao động phải nộp đến một mức nào đó. Kêr từ năm 1993, nếu một người đóngBHXH được 590 USD thì dược một điểm thụ hưởng. Mỗi người phải có đủ 40 điểm trong 10 năm trước khi nghỉ hưu. Như vậy cơ chế thu BHXH ở Mỹ là vừa theo tỷ lệ trích nộp vừa phải thu đến một mức nhất định. VIII.Cơ chế chi BHXH ở các nước Chi trợ cấp hưu trí Có nhiều phương thức chi trợ cấp hưu trí ở các nước. Một vài nước xác định mức đồng nhất, coi là mức tối thiểu thích hợp với mặt bằng chung của quốc gia. Một số nước lại định mức trợ cấp theo thu nhập đã từng có của người lao động trước khi nghỉ hưu. Các nước khác thì kết hợp cả hai cách: trong phần trợ cấp có hai phần cơ bản là một mức đồng nhất cộng thêm phần tỷ lệ theo mức thu nhập. Mức trợ cấp hưư trí ở một số nước như sau: ở Mỹ: mức trợ cấp hưu trí đồng nhất tối thiểu là 122 USD/tháng, tính trên thu nhập được bảo hiểm cho tới khi nghỉ hưu. ở Pháp: trợ cấp bằng 50% thu nhập bình quân của 10 năm có thu nhập cao nhất. ở Philipin: trợ cấp bằng 1,5% lương bình quân tháng của 120 tháng cuối cộng với 42-102%tiền lương bình quân của 10 tháng lương. 2.Chi trợ cấp ốm đau. ở Pháp: Số tiền trợ cấp thu nhập là tương đương bằng 1/2 tháng lương, từ ngày nghỉ ốm thứ 31 trở đi NLĐ được trợ cấp 2/3 tháng lương nhưng số ngày nghỉ nhỏ hơn 6 tháng. Mức trợ cấp y tế bao gồm toàn bộ chi phí khám bệnh và một phần chi phi chữa bệnh ở Thái lan: Mức trợ cấp bằng 50% tiền lương trong thời gian nghỉ việc.Thời gian được hưởng trợ cấp không quá 90 ngày/1 lần ốm và không quá 180 ngày/1năm. 3.Chi trợ cấp thai sản ở Pháp : Lao động nữ được hưởng trợ cấp 100% chi phí sinh đẻ và 4 tháng chi phí y tế trước khi nghỉ đẻ. Khi sinh, lao động nữ được trợ cấp thu nhập 16 tuần nghỉ(10 tuần sau và 6 tuần trước khi đẻ). ở Philipin: Lao động nữ được nghỉ 45 ngày giữ nguyên lương khi sinh con. 4.Chi trợ cấp TNLĐ và BNN. Hầu hết các nước trên thế giới đều quy định mức trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phụ thuộc vào mức độ thương tật, tỷ lệ suy giảm khả năng lao động nhưng với điều kiện là không có sai phạm trong quá trình lao động hoặc không bỏ việc hay đình công. Mức trợ cấp này có thể là một lần và cũng có thể là nhiều lần. ở Anh: NLĐ bị TNLĐ tạm thời được hưởng 8 tuần như trợ cấp ốm đau. Kể từ tuần thứ 8 trở đi được hưởng 25 bảng 1 tuần cộng với 14,45 bảng cho vợ ; 0,3 bảng cho con. Đối với trợ cấp dài hạn tối đa là 53,6 bảng/tuần cho mức thương tật là 100%. ở Pháp: NLĐ bị tai nạn dẫn đến thương tật được trợ cấp dài hạn. Nếu NLĐ không thể tự kiếm sống thì được trợ cấp bằng 50% lương bình quân của 10 năm có lương cao nhất. Phần 2 Công tác thu, chi và quản lý quỹ BHXH tại BHXH huyện Yên sơn(tuyên quang) trong thời gian qua I/Cơ chế tạo lập và quản lý nguồn quỹ BHXH Có thu mới có chi là nguyên tắc hoạt động của các cơ quan BHXH nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động. Chính vì vậy mà công tác thu BHXH và quản lý nguồn thu có vai trò quan trọng trong hoạt động của ngành BHXH. Do đó, BHXH Việt Nam đã triển khai thực hiện thu BHXH theo mô hình 3 cấp từ TW đến thành phố, tỉnh và đến các quận huyện. Hàng năm BHXH Việt Nam dựa vào kết quả thu BHXH, số lượng lao động trên địa bàn tỉnh để đề ra kế hoạch nhiệm vụ của ngành trong các năm tiếp theo. Đồng thời BHXH Việt Nam cũng dựa vào đó để đề ra chỉ tiêu thu BHXH cho các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố. Trên cơ sở các chỉ tiêu này, các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố sẽ xem xét lại quỹ tiền lương, số lượng lao động, tổ chức đóng trên địa bàn tỉnh thành phố và các quận huyện để triển khai kế hoạch cụ thể đến từng cơ quan BHXH các quận huyện. Để có được các chỉ tiêu kế hoạch nói trên thì hàng quý các cơ quan BHXH các quận huyện phải tổng hợp kế hoạch thu BHXH của các đơn vị do mình chịu trách nhiệm tổ chức thu ghi sổ BHXH gửi cho cơ quan BHXH tỉnh vào ngày 25 của tháng cuối quý trước theo biểu 2- BCT ; các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố cũng tổng hợp kế hoạch thu của tất cả các đơn vị trên địa bàn theo mẫu 3-BCT và gửi đồng thời về BHXHVN vào ngày 30 của tháng cuối quý trước. Sau khi kế hoạch, nhiệm vụ đã được triển khai thì các cơ quan BHXH các tỉnh, thành phố, quận huyện tiến hành hướng dẫn các đơn vị trên địa bàn mình lập danh sách và quỹ tiền lương hàng tháng, quý để xác định số tiền BHXH mà các đơn vị phải đóng. Số tiền này được tập trung vào một tài khoản của tỉnh, thành phố, sau đó chúng lại được tập trung vào tài khoản của BHXHVN. 1/ Đối với cán bộ thu của BHXH tỉnh. Lập kế hoạch thu BHXH hàng quý năm. Hướng dẫn đơn vị lập danh sách lao động, quỹ tiền lương đóng BHXH và phiếu điều chỉnh mức lương đóng BHXH hàng tháng. Kiểm tra phiếu điều chỉnh tăng giảm hàng tháng, bảng đối chiếu kết quả đóng BHXH do đơn vị BHXH các quận huyện gửi lên. Vào sổ theo dõi kết quả thu BHXH đến từng người lao động, từng cơ quan đơn vị hàng tháng. Thông báo kịp thời đến các đơn vị nợ tiền BHXH. Xác nhận mức đóng, thời gian đóng BHXH khi thực hiện chế độ BHXH hoặc di chuyển nơi làm việc. Báo cáo kết quả thu BHXH về BHXH Việt Nam theo quy định: Báo cáo 10 ngày/ lần. Báo cáo tháng vào ngày 05 tháng sau. Báo cáo quý vào ngày 15 tháng đầu quý sau. Báo cáo năm vào ngày 20 tháng đầu năm sau. 2/ Đối với cán bộ chuyên thu BHXH của BHXH huyện Yên Sơn. Phát hiện thêm các đối tượng phải tham gia BHXH trên địa bàn quản lý của mình. Đây là công việc có vị trí quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của BHXH nói trung và BHXH các tỉnh, huyện nói riêng. Bởi vì có phát hiện thêm các cơ sở, đơn vị tham gia BHXH thì số lượng người lao động sẽ tăng lên và nguyên tắc “ số đông bù số ít” trong hoạt động BHXH càng thực hiện được tốt hơn, tính chất xã hội, nhân văn của BHXH càng được thể hiện rõ. Bên cạnh đó công việc này còn làm tăng trưởng nguồn quỹ BHXH, làm cho quỹ BHXH thoát ra khỏi sự nâng đỡ, trợ giúp của ngân sách Nhà nước. Tiếp xúc với cơ quan đơn vị sử dụng lao động. Để tạo điều kiện cho cán bộ chuyên quản lý BHXH tiếp xúc và làm việc với các đơn vị sử dụng lao động được dễ dàng, thuận lợi. Giám đốc BHXH các quận huyện nên có các cuộc tiếp xúc trước với lãnh đạo đơn vị sử dụng lao động, đặt mối quan hệ ngay từ ban đầu giữa người tham gia BHXH với các đon vị BHXH. Sau đó cán bộ chuyên quản lý BHXH được phân công phụ trách đơn vị sử dụng lao động nào sẽ trực tiếp gặp gỡ cán bộ phụ trách công tác BHXH đơn vị đó để thực hiện theo công văn số 480/LĐ- TBXH ngày 24/3/1999 của Bộ lao động - Thương binh và Xã hội về việc bố trí cán bộ làm công việc sau: Tuyên truyền, giải thích các chế độ chính sách về BHXH, quyền lời và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động. Hướng dẫn đơn vị sử dụng lao động lập danh sách lao động và quỹ tiền lương tham gia đóng BHXH. Hướng dẫn đơn vị làm phiếu tăng giảm mức đóng BHXH hàng tháng đến từng người lao động , lập bảng đối chiếu nộp BHXH Thông báo cho các đơn vị về số tài khoản thu BHXH, mức thu BHXH. Thống nhất với các đơn vị về lịch làm việc hàng tháng giữa cán bộ chuyên quản với đơn vị sử dụng lao động. Kiểm tra sổ lương(bảng thanh toán lương) đối chiếu với danh sách với đơn vị đã đăng ký BHXH để yêu cầu đơn vị đăng ký đóng BHXH cho những người trong diện đóng BHXH bắt buộc(nếu đơn vị chưa đăng ký đóng) Đôn đốc, theo dõi, ghi chép kết quả đóng BHXH: Hàng tháng căn cứ vào danh sách lao động và quỹ tiền lương đơn vị đã đăng ký và phiếu tăng giảm mức đóng BHXH để xác định số tiền BHXH phải đóng, đôn đốc đơn vị đóng BHXH theo đúng quy định .Thông báo kịp thời những đơn vị nợ tiền đóng BHXH từ 02 tháng trở lên. Ghi chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan, đơn vị vào đầy đủ các cột trong sổ, hàng tháng đối chiếu với cán bộ tổng hợp thu của tỉnh về kết quả đóng BHXH của từng đơn vị được phân công theo dõi, quản lý. Hàng tháng đối chiếu kết quả đóng BHXH của các cơ quan, đơn vị được phân công theo dõi. Số lao động và quỹ tiền lương tham gia đóng BHXH của các tháng trong kỳ đối chiếu( có đối chiếu với bảng thanh toán lương hoặc sổ lương của đơn vị) để xác định số tiền đơn vị phải đóng theo luật định của đơn vị. Hàng quí tổng hợp kết quả đóng BHXH theo khối quản lý Ngoài ra cán bộ thu BHXH cũng phải xác nhận để thanh toán 2 chế độ ốm đau, thai sản và hướng dẫn các đơn vị viết các tờ khai cấp sổ BHXH, ghi chép vào sổ BHXH. Như vậy, cơ chế thực hiện thu và quản lý quỹ BHXH được thể hiện qua sơ đồ: BHXH Việt Nam BHXH Tỉnh Tuyên Quang BHXH Các huyện, thị Các đơn vị cơ sở Chú thích: : Lập và giao chỉ tiêu kế hoạch : Giao nộp báo cáo kế hoạch : Cơ quan BHXH hướng dẫn đơn vị nộp BHXH : Nộp BHXH vào tài khoản của các cơ quan BHXH. 3/ Quản lý quỹ BHXH. Theo nghị định 12/CP của Chính phủ( ban hành ngày 26/1/19950), BHXH ở nước ta đã được mở rộng, không chỉ bao gồm công nhân viên chức,lực lượng vũ trang mà gồm tất cả mọi người lao động làm việc trong mọi thành phần kinh tế quốc dân, ở những nơi có quan hệ lao động với 10 lao động trở lên( đối với hình thức BHXH bắt buộc). Theo quy định hiện hành, quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó chủ yếu là sự đóng góp của người lao động (5% tiền lương) và người sử dụng lao động (15% tổng quỹ tiền lương của đơn vị), ngoài ra có sự hỗ trợ thêm của Nhà nước và các nguồn thu khác như viện trợ nước ngoài, sự ủng hộ của các tổ chức và lãi từ hoạt động đầu tư ... a/ Phân loại quỹ BHXH. Có hai loại nguồn quỹ cơ bản: Nguồn từ NSNN : Dùng để chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng hưởng từ năm 1995 trở về trước. Nguồn qũy BHXH : Dùng để chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng hưởng từ năm 1995 trở lại đây. b/ Cân đối quỹ BHXH và quản lý quỹ. - Quỹ BHXH Việt Nam lấy nguyên tắc hạch toán độc lập với NSNN và cân đối thu chi làm căn bản. Xác định mức thu chi hợp lý trong từng giai đoạn trên cơ sở dự báo một cách tương đối chính xác về số đối tượng tham gia, mức đóng và hưởng của các đối tượng này và tính đến các yếu tố tác động như giá cả, khả năng đầu tư tài chính, xác định mức độ chi quản lý bộ máy tiết kiệm nhưng đạt kết quả cao. Với chức năng bảo đảm xã hội Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm nguồn từ NSNN cho quỹ BHXH để thực hiện chi trả các chế độ BHXH như trả lương hưu, trợ cấp ốm đau, thai sản và các chế độ BHXH khác cho các đối tượng hưởng các chế độ này từ năm 1995 trở về trước. Hơn nữa, hỗ trợ, bù thiếu cho quỹ BHXH trong việc chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH từ năm 1995 trở đi. BHXH huyện Yên Sơn quản lý chặt chẽ công tác thu BHXH nhằm phát triển quỹ BHXH. Đặc biệt năm 2002 cơ quan BHXH kết hợp với các cơ quan chức năng triển khai thu BHXH ở các đơn vị ngoài quôc doanh trong địa bàn huyện. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc phát triển quỹ BHXH. Công tác chi trả được BHXH huyện Yên sơn quản lý tốt, đảm bảo chi đúng, chi đủ, chi kịp thời cho các đối tượng hưởng BHXH. II. Cơ chế chi và quản lý chi BHXH Chi trả trợ cấp BHXH bao gồm 5 chế độ : ốm đau, thai sản, hưu trí, TNLĐ-BNN, tử tuất. Mỗi loại chi này có những đặc điểm riêng biệt nên việc chi trả phải tách riêng ra từng loại hoặc từng nhóm. ở nước ta, xuất phát từ việc chi trả 2 chế độ BHXH là giống nhau. Mặt khác, đối tượng loại trợ cấp này phát sinh trực tiếp trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, do đó quá trình được thực hiện thông qua cán bộ quản lý thu của các đơn vị đó. Ba chế độ còn lại được thực hiện bởi các cán bộ chính sách của các cơ quan BHXH. Như vậy, chi trả trợ cấp BHXH được chia làm 2 loại : + Chi trả ốm đau, thai sản: Hàng tháng, các đơn vị lập báo cáo chi 2 chế độ theo mẫu C03-BHXH và .. tổng hợp các chứng từ khác như giấy khai sinh, giấy ra viện, giấy nghỉ hưởng BHXH ... để gửi cho cơ quan BHXH chậm nhất là ngày 10 tháng sau. Trên cơ sở các chứng từ này, cán bộ thu BHXH của đơn vị sẽ tiến hành kiểm tra tiền lương đóng BHXH của tháng trước khi người lao động nghỉ ốm hoặc sinh đẻ. Sau đó cán bộ thu sẽ đối chiếu số ngày nghỉ hưởng BHXH với bảng chấm công, bảng thanh toán tiền lương, bảng tổng hợp ngày nghỉ. Cuối cùng, cán bộ thu sẽ lập bảng thanh toán nội bộ và chuyển chứng từ chi sang bộ phận kế toán để thanh toán cho đơn vị. Trong trường hợp nếu đơn vị chưa nộp đủ tiền BHXH thì vẫn phải thanh toán cho 2 chế độ này để cơ quan BHXH sẽ làm thủ tục chuyển tiền cho đơn vị. Thông thường, việc thanh toán này sẽ được thực hiện thông qua hệ thống tài khoản, tức là cơ quan BHXH sẽ viết ủy nhiệm chi để chuyển tiền từ tài khoản của cơ quan BHXH sang tài khoản của đơn vị. Trong trường hợp đơn vị không có tài khoản ở hệ thống ngân hàng, kho bạc thì cơ quan BHXH sẽ thực hiện thanh toán bằng tiền mặt cho đơn vị khi có giấy tờ sau: Giấy giới thiệu của đơn vị cử người đi lĩnh tiền Chứng minh thư nhân dân đi lĩnh tiền + Chi chế độ hưu trí, tử tuất, MSLĐ, TNLĐ-BNN: Việc chi trả các chế độ này được thực hiện như sau: Chi trả theo các đại lý ,sau mỗi tháng số đối tượng bắt đầu đăng ký hưởng BHXH sẽ được đưa vào danh sách trả trợ cấp hàng tháng. Trên cơ sở danh sách này , BHXH tỉnh sẽ tiến hành chuyển tiền cho các cơ quan BHXH huyện,thị vào ngày 5-8 đầu tháng thông qua hệ thống kho bạc. Ngay sau khi tiền mặt được chuyển về BHXH các huyện thì đại diện chi trả của các xã sẽ đến BHXH để nhận tiền và phát cho cá đại lý chi trả trợ cấp cho các đối tượng. Khi nhận tiền trợ cấp ,các đối tượng phải ký nhận vào bảng lương và trợ cấp BHXH. Sau khi chi trả hết tiền trợ cấp, các đại lý sẽ đem nộp lại bảng lương và trợ cấp cho cơ quan BHXH. Riêng chế độ tử tuất thì đăng ký tại BHXH huyện để hưởng trợ cấp mộtlânf hoặc hàng tháng. III. Các kết quả đã đạt được. Các thành tựu chung của BHXH tỉnh Tuyên Quang và huyện Yên sơn Trong những năm qua, ngành BHXH nói chung và BHXH tỉnh Tuyên Quang nói riêng đã có được những bước đột phá, những bước tiến rất quan trọng tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của toàn ngành, và của BHXH tỉnh Tuyên Quang cả về mặt tổ chức và thực hiện chức năng của mình. Quỹ tài chính của BHXH Tỉnh đã được ổn định và phát triển trên cơ sở hình thành được quỹ BHXH độc lập ngoài NSNN. Với nguồn đóng góp chủ yếu là từ NLĐ và NSDLĐ. Quá trình tạo lập và sử dụng quỹ BHXH được tiến hành theo nguyên tắc có đóng mới có hưởng. Chính vì vậy mà các quan hệ tài chính trong BHXH đã rõ ràng, việc quản lý quĩ được thực hành rất tốt, phục vụ tốt hơn quyền lợi của NLĐ và NSDLĐ. Do đó trong thời gian này BHXH Tỉnh đã gặt hái được rất nhiều thành tựu trên mọi lĩnh vực.Trung bình mỗi năm, từ 1995 – 2001 có 26.348người đăng ký tham gia BHXH với mức thu gần 30 tỷ đồng. Số người tham gia BHXH ngày càng tăng, năm sau cao hơn năm trước; số tiền thu được cũng tăng lên(xem bảng 1) Bảng 1: Số thu BHXH tại BHXH tỉnh Tuyên Quang 1995- 2001 Năm Số người đăng ký đóng BHXH Số tiền thu ( triệu đồng) đạt % kế hoạch Quý IV 1995 22.039 4.868 87,29% 1996 23.431 16.037 128,3% 1997 26.311 24.602 127.61% 1998 29.440 23.075 94% 1999 30.000 27.075 108,3% 2000 31.075 28.360 111,2% 2001 32.560 30.275 121% ( Nguồn: BHXH tỉnh Tuyên Quang) Công tác chi trả các chế độ BHXH được giải quyết theo quy trình khép kín, tập trung vào một đầu mối, đảm bảo an toàn, kịp thời, công khai và công bằng. Đặc biệt, đối với chế độ hưu trí, MSLĐ, trợ cấp hàng tháng, BHXH tỉnh đã thực hiện chi trả đến tận tay người thụ hưởng theo địa bàn cư trú tại phường, xã có sự tham gia của các cấp chính quyền và công an trong suốt quá trình chi trả(xem bảng 2) Bảng 2: Chi trả các chế độ BHXH tại BHXH tỉnh Tuyên Quang Năm Tổng số tiền chi trả(triệu đồng) 1995 13.783 1996 55.630 1997 66.909 1998 67.270 1999 65.327 2000 64.450 2001 66.875 (Nguồn :BHXH tỉnh Tuyên Quang ) Đóng góp vào những kết quả trên của BHXH tỉnh Tuyên Quang phải kể đến vai trò của cơ quan BHXH huyện Yên sơn. Kể từ khi chính thức hoạt động vào ngày 1/10/1995 đến nay, BHXH huyện Yên sơn đã được sự quan tâm của Tỉnh ủy, UBND, HĐND huyện, sự chỉ đạo trực tiếp của BHXH tỉnh, sự kết hợp của ủy ban, ban hưu trí, đại diện chi trả các xã, sự tạo điều kiện của các cơ quan đóng trên địa bàn huyện, sự đoàn kết, nhất trí , quyết tâm của tập thể CBCNV và ban lãnh đạo cơ quan nên hàng năm BHXH huyện Yên sơn đều hoàn thành các chỉ tiêu của BHXH tỉnh giao cho với tinh thần năm sau cao hơn năm trước, chất lượng hơn, cụ thể như sau: Công tác đảng, đoàn thể: Là một cơ quan từ khi thành lập đến nay có tất cả 8 cán bộ viên chức trong đó có một cán bộ hợp đồng. Về tổ chức công đoàn: là một công đoàn cơ sở trực thuộc liên đoàn lao động huyện Yên sơn ngày càng củng cố và phát triển thêm đoàn viên công đoàn. Với tinh thần và trách nhiệm cao nên hàng nămđêuf hoàn thành xuất sẵc nhiệm vụ được giao, tạo khí thế thi đua sôi nổi trong công tác công đoàn, được liên đoàn lao động huyện Yên sơn đánh giá là công đoàn cơ sở vững mạnh hàng năm. Công tác đối chiếu quỹ BHXH: các số liệu tính toán, cập nhật của cơ sở, huyện, tỉnh được thống nhất, ổn định hơn, việc thực hiện nghĩa vụ tính đóng BHXH theo điều luật 141,149 dần ổn định hơn. Công tác duyệt và cấp kinh phí chi trả chế độ( ốm đau, thai) ngày càng ổn định, giải quyết kịp thời ngay sau khi cơ sở tập hợp và gửi chứng từ lên BHXH huyện, đảm bảo đúng nguyên tắc về thủ tụctheo qui định của Bộ tài chính và BHXH cấp trên. Công tác chi trả lương hưu, các chính sách xã hội : đảm bảo được thời gian quy định của tỉnh, tạo được niềm tin đối với cán bộ hưu trí trên địa bàn huyện, công tác quản lý tiền mặt, các thủ tục chứng từ thanh quyết toán của xã, huyện, tỉnh đảm bảo kịp thời, đúng nguyên tắc. Công tác cấp sổ BHXH : cơ bản được hoàn thành góp phần củng cố bổ sung các văn bản hồ sơ của cán bộ công chức thực hiện chỉ thị 15 của Bộ chính trị và các chỉ thị của tỉnh. Tham gia các hoạt động tại địa phương: Cơ quan BHXH huyện luôn có sự lãnh đạo trực tiếp của huyện ủy, UBNDhuyện.Mỗi cán bộ viên chức ngành BHXH huyện luôn xác định trách nhiệm của mình là phục vụ thế nào để đáp ứng nhu cầu mong đợi của người dân trên địa bàn huyện Yên sơn. Với tinh thần trách nhiệm đó, trong thời gian qua BHXH huyện Yên sơn đã tổ chức động viên cán bộ công chức tham gia đầy đủ của Huyện phát động như: Phong trào thi đua kỷ niệm của dân tộc, đất nước. Các phong trào xây dựng quĩ do hội phụ nữ huyện phát đọng, phong traò ủng hộ đồng bào bị thiên tai, phong trào vì trẻ thơ một cách đầy đủ và hiệu quả, tạo được mối quan hệ giữa các phòng ban, ngành, xã với cơ quan BHXH huyện. Với khách quan công tác trên BHXH huyện Yên sơn được tỉnh đánh giá cao trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ của ngành giao cho. Kết quả của công tác thu quĩ BHXH Ngay từ lúc mới thành lập, tập thể cán bộ công nhân viên cơ quan BHXH huyện Yên sơn đã tập trung, chú trọng cho công tác thu BHXH. Chính vì vậy mà các chỉ tiêu thu theo kế hoạch của BHXH tỉnh luôn luôn hoàn thành xuất sắc,kết quả thu BHXH năm sau luôn cao hơn năm trước với tốc độ phát triển cao. Sau đay là một số kết quả cụ thể: Về tổng số thu BHXH Bảng 3: Số thu BHXH tại BHXH huyện Yên sơn qua các năm (Triệu đồng) Năm Số thu (triệu đồng) Tốc độ phát triển % 1995 4.243 - 1996 4.554 7,3 1997 4.885 15 1998 4.998 17,8 1999 5.013 18 2000 5.372 26 2001 5.673 33,7 Cộng 34738 - ( Nguồn: BHXH huyện Yên sơn ) Như vậy, sau 7 năm hoạt động BHXH huyện Yên sơn đã tạo lập được nguồn quĩ BHXH rất lớn với số tiền là 34.738 triệu đồng , tức là bình quân mỗi năm thu được 4962 triệu đồng . Đây là con số rất có ý nghĩa đối với giai đoạn đầu phát triển của ngành BHXH nói chung và của BHXH huyện Yên sơn nói riêng. Nó phản ánh được những cố gắng, nỗ lực, tinh thần, trách nhiệm của đội ngũ CBCNV và ban lãnh đạo cơ quan BHXH huyện Yên sơn. Chính những cố gắng, nỗ lực đó làm cho số thu BHXH không ngừng tăng lên qua các năm. Để đạt được kết quả như trên, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của cơ quan BHXH huyện Yên sơn, còn có một số yếu tố sau: + Mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH : đối với khối doanh nghiệp Nhà nước và khối hành chính sự nghiệp thì lao động càng làm việc lâu năm thì mức lương càng tăng dần dẫn đến hệ số lương để tính nộp BHXH cũng tăng. Mặt khác, do sự phát triển của nền kinh tế nước ta, đời sống của người dân không ngừng được cải thiện, nhu cầu cho cuộc sống ngày càng lớn, đòi hỏi phải có thu nhập càng lớn. Vì vậy, trong 7 năm qua, Nhà nước ta đã 3 lần tăng mức lương tối thiểu từ 120.000đ đến 144.00đ đến 180.000 đ và hiện nay là 210.000 đ mà lương hưu của khu vực này lại tính theo hệ số.Do đó, mức lương được tăng lên, làm cho số phải nộp cho quỹ BHXH cũng phải tăng lên.cũng do sự phát triển của nền kinh tế mà quá trình SXKD của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thuận lợi nhưng số doanh nghiệp tham gia BHXH còn rất ít. Do các doanh nghiệp này lợi dụng người lao động không có việc làm nên không trích nộp BHXH cho người lao động .Bên cạnh đó, ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hầu như không có công đoàn nên việc đòi hỏi và đấu tranh cho người lao động còn rẫt bị hạn chế. + Số đơn vị tham gia BHXH ngày một gia tăng; số lượng lao động tham gia BHXH tăng không đáng kể. b/ công tác thu BHXH ở khối HCSN: Khối các cơ quan có nhiều thuận lợi do đặc thù 100% người lao động đều hưởng lương từ ngân sách Nhà nước cấp. Cán bộ được giao nhiệm vụ làm công tác BHXH đều có trình độ về nghiệp vụ kế toán. Việc lập danh sách đăng ký lao động và quỹ tiền lương đăng ký tham gia BHXH đến việc lập danh sách tăng giảm lao động, đối chiếu trích nộp hàng tháng đầy đủ kịp thời chính xác, đúng quy định của Nhà nước. BHXH huyện Yên Sơn quản lý thu BHXH ở 29 cơ quan hành chính sự nghiệp, với tổng số 377 lao động đăng ký tham gia trích nộp BHXH. c).công tác thu BHXH ở khối SXKD: BHXH huyện Yên sơn quản lý thu BHXH ở 5 doanh nghiệp với 798 lao động. Kế hoạch thu BHXH được tỉnh giao cho là 967 triệu đồng. Ngay từ những ngày đầu năm BHXH huyện Yên sơn đã phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp để tuyên truyền chế độ chính sách, đối chiếu tăng giảm kịp thời, đối chiếu với quĩ tiền lương, hướng dẫn các đơn vị sử dụng lao động trích nộp BHXH đúng quy định. Số thu BHXH đạt 967 triệu đồng đạt 100% kế hoạch giao. Để đạt được những kết quả trên, BHXH huyện Yên sơn có những thuận lợi nhất định, các đơn vị SXKD có nhiều cố gắng thực hiện tốt việc trích nộp BHXH. 5/5 đơn vị đã hoàn thành kế hoạch trích nộp tiền cho người lao động. Nhiều đơn vị đã tích cực trích nộp như lâm trường Yên sơn, lâm trường Nguyễn Văn Trỗi. Các đơn vị SXKD có đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH am hiểu về chế độ chính sách, vững về nghiệp vụ chuyên môn, có tinh thần trách nhiệm cao, thường xuyên phối hợp với cơ quan BHXH huyện Yên sơn đối chiếu tăng giảm, tiền trích nộp kịp thời chính xác.Cán bộ lãnh đạo thường xuyên quan tâm đến công tác BHXH của đơn vị. Tuy nhiên còn có đơn vị sản xuất kinh doanh còn gặp khó khăn trong SXKD nên việc trích nộp BHXH còn chậm. d, Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Hiện nay trên địa bàn huyện Yên sơn có 18 doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động trên các lĩnh vực ngành nghề kinh doanh như: Xây dựng dân dụng, giao thông thủy lợi, mộc dân dụng... Tuy có nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh,nhưng chưa có doanh nghiệp nào đăng ký thực hiện nghĩa vụ BHXH cho người lao động theo quy định tại điều 149 của bộ luật lao động.nguyên nhân chủ yếu do: Về phía chủ doanh nghiệp: Chủ sử dụng lld ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nhận thức chưa đầy đủ về nghĩa vụ, trách nhiệm trong việc thực hiện đóng BHXH cho người lao động. Còn né tránh việc thực hiện chế độ BHXH cho người lao động.khi sử dụng lao động các doanh nghiệp không có hợp đồng cụ thể.lợi dụng kẽ hở của luật pháp, như không hợp đồng với người lao động, hợp đồng miệng, hợp đồng ngắn hạn, hợp đồng theo công trình , theo mùa vụ... Do đó BHXH huyện Yên sơn không có cơ sở xác định hợp đồng lao động để khai thác đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Đa số các doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa có tổ chức công đoàn. Do đó chưa có người tổ chức đại diện hợp pháp để bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của người lao động. Về phía người lao động: Đối với người lao động ngoài quốc doanh, họ chưa biết và chưa hiểu bộ luật lao động, nên chưa nhận thức được vai trò, ý nghĩa, quyền lợi, tầm quan trọng của việc tham gia BHXH. Mặt khác, sức nặng tâm lý về việc làm cũng làm cho người lao động phó mặc cho chủ sử dụng lao động. Không giám đấu tranh đòi hỏi chủ sử dụng lao động đóng BHXH cho mình vì sợ mất việc làm. Do đó hầu hết các chủ sử dụng lao động đều bỏ qua việc tham gia BHXH cho người lao động. Vấn đề này góp phần tạo một “ sân chơi” không bình đẳng, giữa các đơn vị quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Về phĩa cơ quan BHXH huyện Yên sơn: Công tác thông tin tuyên truyền về chế độ chính sách BHXH đến với chủ sử dụng lao động và người lao động ở khu vực ngoài quốc doanh những năm qua còn rất hạn chế. Mặt khác chưa chủ động phối kết hợp với các cơ quan liên quan, đề xuất, tham mưu với cấp ủy chính quyền địa phương có các biện pháp tích cực, yêu cầu của các chủ doanh nghiệp tham gia BHXH cho người lao động. Đây cũng là những tồn tại lớn của cơ quan BHXH huyện Yên sơn cần phải khắc phục kịp thời. Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước: Các cơ quan quản lý Nhà nước cũng chưa có quy định rõ ràng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh khi đăng ký kinh doanh phải đăng ký sử dụng lao động với sở lao động. Khi doanh nghiệp hoạt động phải thành lập tổ chức công đoàn. Hiện nay không có biện pháp ràng buộc các doanh nghiệp đăng ký sử dụng lao động. Dẫn đến tình trạng có đăng ký thành lập doanh nghiệp nhưng không đăng ký sử dụng lao động. Cố tình không tham gia BHXH cho người lao động theo luật định mà không hề bị kiểm tra sử lý. Về phía liên đoàn lao động chưa thành lập được các cơ sở công đoàn ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, nên không có ai đứng ra bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động ở khu vực này. e) Việc thực hiện chế độ chính sách cho cán bộ xã, thị trấn: BHXH huyện Yên sơn quản lý thu ở 36 xã, thị trấn với tổng số 590 lao động. Kế hoạch thu 15% BHXH được giao năm 2001 là 361 triệu đồng, đạt 100% kế hoạch. Việc trích nộp tiền BHXH cho cán bộ xã còn chậm, thường các xã nộp BHXH vào cuối năm. Trình độ của cán bộ của kế toán ngân sách xã còn nhiều hạn chế, nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc đối chiếu tăng giảm. Báo cáo số người tăng, giảm không kịp thời, lập danh sách trích nộp tiền BHXH không chính xác, dẫn đến phải làm đi làm lại nhiều lần.Mặt khác việc thu ngân sách xã không thu được theo kế hoạch giao, nên việc trích nộp tiền BHXH chưa kịp thời theo qui định. Còn các xã, lãnh đạo xã chưa thực sự quan tâm đến công tác BHXH, cán bộ được giao làm công tác BHXH không nhiệt tình với công việc này. f) công tác thu BHXH ở khối giáo dục Huyện Yên sơn là một địa bàn rộng, toàn huyện hiện có 71 trường học với tổng số 2.580 lao động tham gia BHXH, chiếm ẵ tổng số lao động tham gia BHXH toàn huyện. Nhìn chung các đơn vị trường học đều nhận thức rõ nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia BHXH cho người lao động. Các trường đã tích cực phối hợp với BHXH huyện yên sơn lập bảng đối chiếu tăng, giảm, lập danh sách trích nộp tiền BHXH chính xác đầy đủ, đúng quy định cho người lao động. Trong năm 2001 số thu BHXH là 3.568.037.325 đồng đạt 103,7% kế hoạch giao. Tuy nhiên có cán bộ kế toán trường học(không được đào tạo chuyên nghành về kế toán) nên còn lúng túng về nghiệp vụ, tính toán còn thiếu chính xác, chưa hiểu rõ nguyên nhân thừa thiếu tiền trích nộp BHXH. Do đó còn trích nộp tiền BHXH chậm. g) công tác thu BHXH ở khối y tế: BHXH huyện Yên sơn tổ chức thu BHXH ở 35 trạm y tế với tổng số 141 lao động có đăng ký tham gia BHXH. Trong năm 2001 số thu đạt 402.087.602 đồng, đạt 100% kế hoạch. Các trạm y tế xã luôn thực hiện tốt việc trích nộp BHXH cho người lao động.Tuy nhiên cán bộ làm công tác BHXH ở các trạm y tế đều là kiêm nhiệm, không có nghiệp vụ kế toán nên việc trích nộp BHXH gặp nhiều khó khăn. Khối y tế xã có 141 lao động trong đó có 88 lao động được cấp sổ BHXH, hiện nay còn 53 lao động chưa được cấp sổ BHXH tập chung ở các trạm y tế xã. Bảng 3: Kết cấu lao động, số tiền thu BHXH : (đơn vị triệu đồng) Năm 1999 2000 2001 Khối Số lao động Số thu Số lao động Số thu Số lao động Số thu HCSN 325 321,2 351 342,5 377 371,2 SXKD 692 673 732 709 798 967 Ngoài quốc doanh Giáo dục 2.250 3.080 2.410 3.474 2.580 3.568 Y tế 124 288 135 382 141 402 Xã, thị trấn 590 361 Cộng 3391 4362,2 3628 4907,5 4.385 5.605,2 Theo bảng trên thì số lao động cũng như số tiền trích nộp BHXH qua các năm ở khối giáo dục chiếm 1/2 tổng số tiền trích nộp BHXH Còn khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa có người lao động nào được doanh nghiệp của mình đóng BHXH cho . vì vậy thời gian tới, BHXH huyện Yên sơn cần phối hợp với các cơ quan chức năng để tiến hành công tác BHXH cho người lao động. ở khối này tiềm năng là rất lớn, cơ quan BHXH huyện cần chú ý để tăng nguồn quỹ BHXH trong tương lai. Kết quả công tác chi BHXH: Để tìm hiểu về thực tế chi trả các chế độ trợ cấp BHXH tại BHXH huyện Yên sơn trong những năm qua, chúng ta đi sâu vào việc chi trả một số chế độ BHXH qua từng năm;sau đó sẽ xem xét cơ cấu chi từng chế độ BHXH trong toàn bộ chi cho các chế độ BHXH để thấy được đâu là chế độ phải chi trả nhiều nhất; chế độ nào ít có nhu cầu chi nhất cũng như sự biến động của số tiền chi trả, tỷ lệ chi trả các chế độ qua từng năm. Từ đó chúng ta sẽ xác định được những mặt mạnh, mặt yếu của công tác chi trả, những xu hướng biến động của sự chi trả các chế độ BHXH, và từ đây chúng ta sẽ đề ra được những nhiệm vụ, kế hoạch trong thời gian tới đồng thời đưa ra được những biện pháp phù hợp. Dưới đây là một số số liệu, nhận xét cụ thể: Bảng 4: Chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức 1999-2001 Đơn vị : triệu đồng Năm Nghỉ dưỡng sức ốm đau Thai sản Cộng 1999 119 152 312 2000 102 200 320 2001 8,7 117,879 286,734 399,814 Cộng 8,7 338,879 638,734 1031,814 Nguồn: BHXH huyện Yên sơn Từ bảng số liệu, chúng ta thấy rằng: Số tiền chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản biến động bất thường năm tăng, năm giảm.thực tế là năm tăng so với 1999 là : 79,814 triều đồng nhưng năm 2001 lại tăng so với năm 1999 là 87,814 triệu đồng mặc dù tiền lương bình quân tăng từ 180.000 đồng lên 210.000 đồng. Như vậy, xu hướng biến động của tiền trợ cấp cho 2 chế độ trên là rất khó cho việc xây dựng, dự báo số tiền chi trả trong năm tiếp theo cũng như cho cả giai đoạn sau. Mà chúng ta chỉ có thể làm giảm số tiền chi trả này bằng cách kết hợp với cơ quan đơn vị thực hiện các biện pháp phòng ngừa như: tạo lập các điều kiện làm việc tốt... Cũng trong giai đoạn 1999-2001, tổng số tiền chi trả cho các đối tượng hưư trí, MSLĐ lên tới gần 4 tỷ đồng. Số liệu sau sẽ minh họa cho vấn đề này: Bảng 5: Số tiền chi trả chế độ hưu trí, MSLĐ Năm 1999 2000 2001 Nguồn quĩ Số đối tượng (người) Số chi (Tr.đ) Số đối tượng (người) Số chi (Tr.đ) Số đối tượng (người) Số chi (Tr.đ) NSNN BHXH 5.256 27.895 5.980 26.980 6.311 28.273 Nguồn: BHXH huyện Yên Sơn Như vậy trong 3 năm qua, tổng số người được nhận trợ cấp hưu trí, MSLĐ luôn tăng lên. mức tăng này là do hàng năm số lượng người mới về hưu ( lương hưu được lấy từ quĩ BHXH ) tăng hơn nhiều so với số người đã về hưu, MSLĐ( hưởng trợ cấp từ NSNN) giảm đi. Số tiền chi trả cho đối tượng hưởng lương từ NSNN có xu hướng giảm dần qua các năm: năm 2000 giảm 915 triệu đồng so với năm 1999, năm 2001 tăng 378 triệu so với năm 2000. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do đối tượng này có tuổi ngày càng cao và xác suất tử vong ngày càng lớn. Còn chi trả cho đối tượng mới về hưu lại tăng lên rất nhanh. Sở dĩ số tiền chi trả cho loại này tăng nhanh bởi vì đây là những người mới về hưu, nên xác suất tử vong nhỏ. Mặt khác mỗi tháng, mỗi năm lại có nhiều người mới về hưu; bên cạnh đó mức lương tối thiểu được điều chỉnh tăng lên trong giai đoạn này 180.000 đồng lên 210.000 đồng. Như vậy xu hướng biến động của loại trợ cấp này là rất rõ nét: đối với đối tượng hưởng trợ cấp từ NSNN thì cả số người và số tiền trợ cấp ngày càng giảm và tiến tới bằng không. Còn đối tượng hưởng lương từ quĩ BHXH thì có xu hướng tăng trong những năm tới cả về số người và số tiền chi trả. Trên đây, chúng ta đã xem xét quá trình chi trả 3 chế độ : ốm đau, thai sản, hưu trí trong 3 năm từ 1999-2001. Bây giờ chúng ta xen xét việc chi trả các chế độ TNLĐ_BNN, tử tuất, tổng số tiền chi trả cho các chế độ và cơ cấu, tỷ lệ chi trả các chế độ tại BHXH huyện Yên sơn trong 3 năm qua: Bảng 6: Chi trả các chế độ BHXH tại BHXH huyện Yên sơn Năm 1999 2000 2001 Chế độ Số người Số tiền (Tr.đ) Số người Số tiền (Tr.đ) Số người Số tiền (Tr.đ) Hưu trí MSLĐ 5.991 26.579 6002 27.257 6.311 28.273 ốm đau thai sản 15.881 390 16.768 400 17.000 404,6 Tử tuất 687 365 537 339 562 337 TNLĐ BNN 157 169 176 152 154 120 Nghỉ dưỡng sức 33 8,7 Cộng 22716 27503 23483 28148 24060 30223,3 (Nguồn : BHXH huyện Yên sơn) Phân tích bảng 6 ta thấy: Tổng số tiền mà BHXH huyện Yên sơn phải chi trả cho các đối tượng chính sách là rất lớn,bình quân mỗi năm là 26.022 triệu đồng, năm sau luôn phải chi nhiều hơn so với năm trước. cụ thể là: Trong những năm qua chúng ta đã tiến hành điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu, mà mức trợ cấp các chế độ lại chủ yếu dựa vào hệ số lương ( thông thường là 75% hoặc 100% của hệ số lương nhân với mức lương tối thiểu dẫn đến số tiền chi trả tăng lên. Hàng năm càng có nhiều người được hưởng trợ cấp hưu trí. Mặt khác, thực hiện chính sách giảm biên chế của Chính phủ về việc giải quyết cho người về hưu trước tuổi, cho nên trong những năm tới số đối tượng hưu trí sẽ rất và công tác chi trả sẽ càng nhiều hơn. Về kết cấu của từng loại chi: Trong cơ cấu chi trả các chế độ BHXH thì chi cho hưu trí và MSLĐ chiếm tỷ trọng rất lớn, thông thường là 98%. Các chế độ khác chiếm tỷ trọng rất nhỏ, tuy nhiên chế độ ốm đau, thai sản chiếm tỷ trọng cao nhất, tiếp theo là chế độ tử tuất và tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Cuối cùng là chế độ nghỉ dưỡng sức bởi vì mới được triển khai. Tóm lại, trong 7 năm qua BHXH huyện Yên sơn đã nỗ lực, cố gắng kết hợp cùng với các cơ quan chức năng khác như các đại lý chi trả, hệ thống kho bạc, ngân hàng, liên đoàn lao động trên địa bàn huyện Yên sơn ... để quá trình chi trả trợ cấp cho các đối tượng được tiến hành nhanh chóng, chính xác, kịp thời và đầy đủ. Đối với các loại trợ cấp hàng tháng thì đối tượng sẽ được nhận tiền trợ cấp trước ngày 15 hàng tháng. Còn đối với 2 chế độ ốm đau, thai sản thì chỉ sau 5 ngày kể từ khi đơn vị báo cáo đến cơ quan BHXH. BHXH là cơ quan thuộc Chính phủ do đó việc chi quản lý hành chính phụ thuộc vào NSNN. Hàng năm các cơ quan BHXH tỉnh, thành phố hoặc các quận, huyện sẽ lập kế hoạch chi cho quản lý bộ máy của năm tiếp theo và gửi lên cấp cao hơn. Dựa vào các báo cáo này BHXH Việt Nam sẽ đề nghị xem xét. Bên cạnh nguồn kinh phí từ NSNN, BHXH Việt Nam còn được trích 6% từ tổng số thu BHXH để lập quỹ chi cho hoạt động của ngành. IV/ những khó khăn, tồn tại 1/ Đối với quá trình thu BHXH Mặc dù có những thành tựu đáng khích lệ trong thời gian qua, nhưng công tác thu BHXH tại BHXH huyện Yên Sơn vẫn còn những tồn tại, hạn chế làm cho công tác này không phát huy được hết vai trò của nó đối với quỹ BHXH. Những mặt hạn chế đó là: a/ Số đơn vị ngoài quốc doanh, số lao động được tham gia BHXH còn ít. Hiện nay được sự phối kết hợp của các cấp chính quyền BHXH huyện Yên sơn đã tiến hành thu BHXH ở các đơn vị này. Còn trong khu vực quốc doanh thì vẫn tồn tại một số đơn vị, cơ quan chỉ thực hiện đóng BHXH cho một số cá nhân người lao động, thậm chí có một số trường hợp chủ sử dụng lao động chỉ tham gia BHXH cho họ và người thân, quen nhất trong đơn vị. Nguyên nhân của tình trạng này có rất nhiều: Các văn bản của Nhà nước về BHXH mà cụ thể là NĐ12/CP ngày 26 tháng 1 năm 1995 của Chính phủ mới chỉ quy định một số đối tượng thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc như: NLĐ làm việc trong các DNNN Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng 10 lao động trở lên Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang...mà không có các đối tượng khác như: các doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động, những người làm việc trong các hợp tác xã tiểu thu công nghiệp Xuất phát từ phía người lao động: Có một số người nhận thức chưa đúng hoặc chưa đầy đủ về quyền lợi và lợi ích của họ khi tham gia BHXH. Đặc biệt có một số bộ phận người lao động vẫn có thói quen, nếp sống thời bao cấp, muốn ỷ lại vào NSNN, muốn được hưởngBHXH nhưng lại không muốn đóng góp. Một số trường hợp khác lại do tâm lý sợ mất việc nên không giám đấu tranh đòi hỏi quyền lợi, buộc người sử dụng lao động phải đóng BHXH cho mình. Bên cạnh đó có một số nhóm người lao động mong muốn tham gia BHXH, được người sử dụng lao động cho phép nhưng lại không có ý định tham gia BHXH vì mức thu nhập hiện tại là quá thấp, không đủ cho họ trang trải các chi phí hàng ngày. Xuất phát từ phía người sử dụng lao động: có rất nhiều cơ quan đơn vị, doanh nghiệp không muốn đóng BHXH cho người lao động nhằm tận dụng nguồn kinh phí này cho đầu tư sản xuất đồng thời làm giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, mang lại nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp. Chính vì vậy mà họ luôn tìm mọi cách để né tránh chẳng hạn như: thuê lao động mang tính thời vụ, thuê lao động làm việc dưới 3 tháng hoặc trên 3 tháng nhưng cố tình trậm trễ trong việc ký kết hợp đồng với lý do là thời gian thử việc. Họ lợi dụng sự kém hiểu biết của người lao động về các văn bản quy phạm pháp luật về BHXH, lợi dụng việc không có chế tài quy định chặt chẽ buộc họ phải thời gian BHXH. Một số doanh nghiệp vẫn tuyên truyền với người lao động là họ sẽ đảm bảo quyền lợi, vẫn thời gian BHXH cho người lao động nhưng thực tế họ lại thời gian loại hình bảo hiểm khác như: mua bảo hiểm sinh mạng cho người lao động có thời hạn của Bảo Việt... Bên cạnh những đơn vị cố tình không đóng BHXH thì cũng có nhiều doanh nghiệp mong muốn đóng BHXH cho người lao động nhưng lại không thực hiện được do tình hình sản xuất, kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn bởi vì nọ kinh doanh trên những lĩnh vực gặp đầy rủi ro nên khả năng tài chính thường không ổn định, nguồn vốn kinh doanh không đủ để đóng BHXH liên tục cho người lao động. cơ chế chính sách: chỉ tiêu thu BHXH ở khu vực ngoài quốc doanh chưa được giao thành chỉ tiêu pháp lệnh nên ở các địa phương khác cũng như ở huyện Yên sơn có thể triển khai hoặc không triển khai. Đơn vị nào có ý thức trách nhiệm đối với người lao động thì mới triển khai công tác này. công tác tuyên truyền vận động: Hiện nay công tác này mới chỉ được chú trọng ở cấp TW hoặc thành phố nên hiệu quả của công tác này là rất ít. Bởi vì các đợt tuyên truyền, vận động này không có đầy đủ khả năng tài chính để phát các tài liệu cần thiết cho tất cả các đơn vị. Còn đối với cơ quan BHXH huyện thì do thiếu đội ngũ cán bộ, trong khi số lượng công việc thì quá lớn, bên cạnh đó họ cũng không có đầy đủ các phương tiện cần thiết đặc biệt là vấn tài chính nên công tác tuyên truyền tới tận các đơn vị đóng trên địa bàn huyện vẫn còn bỏ ngỏ. b/ Số thu BHXH chưa đủ lớn: Số thu BHXH mặc dù mỗi năm đều tăng nhưng con số 5.6 tỷđ vào năm 2001 là quá nhỏ so với nhu cầu chi trả và đảm bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Số thu BHXH còn ít là do: - Số đơn vị ngoài quốc doanh, số lao động được tham gia BHXH còn ít. Cơ sở tính nộp BHXH chưa hợp lý: Hiện nay chúng ta mới chỉ tính phí BHXH dựa trên tiền lương danh nghĩa( lương cấp bậc, chức vụ) mà trên thực tế thì mức lương này thấp hơn rất nhiều so với thu nhập của họ. Mức đóng BHXH thấp: Đây là tồn tại lớn của ngành BHXH nước ta. Nhà nước ta quy định mức đóng của người lao động là 5% tiền lương và người sử dụng lao động là 15% quĩ lương của doanh nghiệp.Đây là mức thu quá thấp cho nhu cầu chi trả ( thông thường các chế độ chi trả bằng 75% hoặc 100% tiền lương làm căn cứ đóng BHXH). Mức thu hiện nay của ta là rất thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhận thức của người lao động và người sử dụng ở một số đơn vị chưa đầy đủ về BHXH nên gây nhiều trở ngại cho cán bộ thu BHXH. Trong nhiều trường hợp, mặc dù cơ quan BHXH đã có lịch cụ thể và báo trước cho các đơn vị, cơ sở về việc cử cán bộ thu xuống làm việc với lãnh đạo cơ quan. Nhưng họ luôn có lý do để kéo dài thời gian, thậm chí ban lãnh đạo cơ quan còn cố tình không tiếp cán bộ BHXH. c/ Số tiền BHXH thường hay bị nộp chậm, không đúng thời gian quy định: Nguyên nhân của hiện tượng này là do cán bộ làm công tác BHXH tại các cơ quan, đơn vị thường không am hiểu rõ về qui trình quản lý của BHXH huyện Yên sơn. Họ thường chậm trễ trong việc lập các danh sách lao động và quỹ tiền lương; 2/ Đối với quá trình chi BHXH. Mặc dù thu được những thành tựu rất quan trọng trong quá trình đổi mới nhưng công tác chi trả trong thời gian qua vẫn còn tồn tại những bất cập mà chủ yếu là từ cơ chế chính sách của Nhà nước, vì vậy mà công tác chi trả gặp nhiều khó khăn và không đảm bảo được nguyên tắc cân bằng thu chi của quỹ BHXH, thậm chí trong một số trường hợp nó còn mất đi tính chất bảo đảm cho cuộc sống của người lao động. Các tồn tại đó là: a/ Các chế độ BHXH còn có những bất cập. Chế độ ốm đau: ốm đau dài ngày đối với một số bệnh thực tế là tàn phế: xuất huyết não, tâm thần...áp dụng chế độ ốm đau dài ngày không có giới hạn về thời gian hưởng, gây khó khăn cho người lao động, người sử dụng lao động và cơ quan BHXH. Người lao động ốm dài ngày lại không có chế độ bảo hiểm y tế vì hưởng trợ cấp ốm đau không quy định đóng bảo hiểm y tế nếu như khám lấy giấy nghỉ ốm hoặc điều trị bệ khác là một trở ngại. Có người thời gian đóng bảo hiểm dưới 5 năm, hưởng trợ cấp ốm dài ngày nhiều năm, có mức hưởng cao hơn so với người có thời gian đóng bảo hiểm từ 10 đến 15 năm hết tuổi lao động được hưởng trợ cấp hưu 45 đến 55% tiền lương bình quân 5 năm cuối thấp hơn trợ cấp dài ngày. Chế độ này còn có sự bất hợp lý khác là về số ngày được nghỉ ốm hưởng BHXH so với thời gian đóng BHXH. Theo quy định tại điều 7 của NĐ 12/CP thì người lao động được nghỉ tối đa là: 30 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm 40 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng BHXH từ 15 đến 30 năm 50 ngày trong 1 năm, nếu đã đóng BHXH trên 30 năm Chế độ tai nạn lao động: chế độ này có quy định trợ cấp cho người lao động khi họ bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc. Như vậy,trong trường hợp này rất khó xác định được đâu là tuyến đường mà người lao động đi từ nhà đến cơ quan và ngược lại bởi vì trên thực tế rất ít người ngày nào cũng đi một tuyến đường duy nhất từ nhà đến cơ quan Chế độ tử tuất: Có thể vẫn giữ nguyên mức trợ cấp bằng 8 tháng tiền lương tối thiểu cho trợ cấp mai táng phí. Nhưng nên có thêm một khoản trợ cấp nữa, có thể gọi là “trợ cấp lúc qua đời”. Phần III Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác thu chi quỹ BHXH tại BHXH huyện Yên sơn Hoạt động BHXH được thống nhất tổ chức theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương, BHXH cấp quận huyện là đơn vị nhỏ nhất của hệ thống BHXH Việt Nam, hoạt động dưới sự chỉ đạo và hướng dẫn trực tiếp của BHXH cấp tỉnh, thành phố. BHXH cấp quận huyện không có thẩm quyền trong việc ban hành chính sách BHXH, các văn bản pháp luật về BHXH cũng như việc thay đổi tổ chức biên chế của cơ quan phải do sự chỉ đạo của cơ quan BHXH cấp trên. Vì thế muốn hoàn thiện công tác thu chi quỹ BHXH cấp huyện Yên sơn cũng như các quận huyện khác cần phải có sự thay đổi đồng bộ từ phía các cơ quan chức năng. Qua thời gian nghiên cứu học tập tại trường cùng với thời gian thực tập thực tế tại cơ quan BHXH huyện Yên Sơn , được sự hướng dẫn tận tình của quyền giám đốc – Phạm Tiến Dũng cũng như toàn thể cán bộ công chức trong cơ quan về tình hình ra đời , phương pháp làm việc và một số kết quả được phân tích trong thời gian qua việc thực hiện nghiệp vụ thu BHXH và vấn đề nợ đọng BHXH ở huyên Yên Sơn còn rất nhiều khó khăn, tồn tại. Chính những khó khăn , tồn tại này gây ra rất nhiều cản trở ảnh hưởng rất lớn đến kết quả thu và giải quyết nợ đọng . Để hoạt đông BHXH trong huyên đạt kết quả hơn nữa , thì điều kiện tiên quyết là phải khắc phục được những khó khăn tồn tại này. 1 . Về mức thu và đối tượng thu áp dụng đúng đối tượng và mức thu theo Điều lệ BHXH đã quy định. Tức là đối tượng thu áp dụng theo điều 3 Chương I Điều lệ BHXH Việt Nam . Mức thu 20% so với tổng quỹ lương của đơn vị, trong đó người sử dụng lao động đóng 15% còn lại người lao động đóng 5% so với mức lương tháng của mình . Thực hiện được như trên sẽ nâng cao được tính cưỡng chế của pháp luật trong BHXH , dựa vào pháp luật để thực hiện nghiệp vụ thu tốt hơn. Mặt khác khi áp dung dủ các đối tượng như trên sẽ phù hợp với nguyên tắc của BHXH là nguyên tắc nhiều người góp lại trợ giúp một người khi gặp khó khăn. Mục đích sử dụng quỹ BHXH là chi trả các chế độ BHXH cho những người tham gia , nhiều người tham gia thì mức đóng sẽ lớn , giảm được sự bù đắp của ngân sách cho công tác chi trả các chế độ BHXH. Trong thực tế còn nhiều đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh chưa đăng ký danh sách đóng BHXH , nếu thực hiện theo đúng điều lệ tức là dựa vào đúng pháp luật thì việc thực hiện thu BHXH đối vơí đối tượng này sẽ dễ dàng hơn. Từ đó, góp phần mở rộng đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn huyện huyện Yên Sơn. 2 . Về phương pháp thu. Trước đây, công tác thu BHXH do Sở tài chính và cục thuế đảm nhiệm. Người sử dụng lao động cũng có danh sách lao động , cũng có mức lương nhưng trên thực tế thu BHXH không được căn cứ vào mức lương và tổng quỹ lương, mà cứ đến kỳ quy địnhthì người sử dụng lao động đóng cho Sở tài chính và cục thuế một khoản tiền, gần như được gộp vào trong thuế, thêm vào đó việc thay đổi lao động cũng không được thông báo một cách kịp thời ... Chính điều này làm cho nghiệp vụ thu BHXH được thực hiện một cách cứng nhắc nhưng cũng rất tuỳ tiện dễ gây thất thoát quỹ BHXH, gây ảnh hưởng đến công tác chi trả chế độ. Để khắc phục được những tồn tại này , cơ quan , cán bộ thu phải có những biện pháp yêu cầu người sử dụng lao động đăng ký danh sách lao động một cách kịp thời chính xác, nếu có sự thay đổi về lao động , về mức lương làm căn cứ đóng BHXH phải báo cho cơ quan BHXH một cách kịp thời bằng văn bản . Yêu cầu đơn vị sử dụng lao động tập hợp đầy đủ mức đóng trước khi nộp cho cơ quan BHXH Trong khi làm việc cán bộ phải thực hiện một cách nghiêm túc và yêu cầu người thực hiện phải có thái độ đúng đắn , vì đóng BHXH là nghĩa vụ của họ. Có thực hiện như vậy mới đạt kết quả cao, qua đó giải quyết một cách nhanh chóng , thuận tiên cho đối tượng hưởng chế độ bảp hiểm, tạo cảm giác tin tưởng cho người lao động , thu hút ngày một đông đói tượng tham gia . 3 / Về điều kiện làm việc . Cơ quan BHXH hiện nay làm việc trong khu nhà của UBND huyện, cơ sở vật chất còn chưa được hiện đại cho lắm, cho nên các công việc triển khai còn nhiều khó khăn, chưa thật sự đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của người lao động đến liên hệ làm việc, phục vụ tốt hơn cho đối tượng tham gia BHXH đến giải quyết chế độ. 4) Về cơ chế quản lý . Trong thực tế quản lý theo ngành dọc có rất nhiều ưu điểm, thúc đẩy sự phát triển của cả hệ thống BHXH nói chung. Tuy nhiên, hệ thống quản lý này vẫn còn mang tính chất tạm thời nên mức độ hoàn chỉnh còn thấp, việc quản lý còn nặng về công tác hành chính, bao cấp nên năng lực làm việc của cán bộ chưa được phát huy. Do đó, cần phải có các đề tài nghiên cứu, sửa đổi thêm góp phần làm hoàn thiện cơ chế quản lý, đây là một vấn đề chung cho toàn hệ thống . Trong thực hiện phải có sự thống nhất từ cơ quan BHXH cho đến từng đơn vị cơ sở, không để hiện tượng thiếu sót rồi phải tính lại , rồi truy thu ... Trong công tác quản lý thu có quản lý hồ sơ , quản lý quỹ , cũng cần phải có những biện pháp sao cho tránh được thất thoát quỹ, hồ sơ quản lý phải dễ sử dụng-xử lý, tránh những trường hợp đáng tiếc có thể xảy ra trong việc lưu trữ và quản lý hồ sơ. 5) Thực hiện BHXH theo phương pháp cấp sổ BHXH cho từng người . Với mục đích quản lý chặt chẽ các đối tượng tham gia và đóng BHXH , giúp người lao động có cơ sở pháp lý để kiểm tra giám sát kết quả đóng và thực hiện các chế độ BHXH của người sử dụng lao động . Tạo điều kiện thuận lợi và đảm bảo sự công bằng cho người lao động khi chuyển nơi làm việc vẫn duy trì được quyền lợi BHXH ... Sổ BHXH còn là cơ sở để giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa người lao động, người sử dụng lao động với cơ quan BHXH . Khi thực hiện theo phương pháp cấp sổ BHXH cho từng người lao động sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các bên trong quan hệ BHXH . Sổ BHXH gồm 3 phần : + Phần I : Là những thông tin chung về người lao động như : Họ và tên, giới tính , ngày tháng năm sinh... + Phần II : Là những nội dung có liên quan đến quá trình công tác và tham gia BHXH của người lao động . Đây là nội dung quan trọng và thông tin ở đây được lấy từ tờ khai cấp sổ BHXH để ghi vào. Phần này được ghi từ trang 4 của cuốn sổ trở đivà có kết cấu như sau : Quá trình làm việc có đóng BHXH Thời gian Cấp bậc chức vụ, chức danh nghề,công việc đơn vị làm, địa điểm đơn vị đóng Mức tăng lương tháng làm căn cứ đóng BHXH Tỷ lệ đóng BHXH Tổng số tiền đóng BHXH Xác nhận Từ tháng năm Đến tháng năm Thủ trưởng đơn vị Cơ quan BHXH Lương cơ bản Các khoản phụ cấp 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 + Phần III : Ghi các chế độ BHXH đã được hưởng. Các chế độ này được thực hiện theo Nghị định 12/CP như : thai sản , tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp... Như vậy trình tự cấp sổ BHXH phải tiến hành qua một số bước công việc cụ thể như : lập danh sách , hướng dẫn kê khai, ghi chép và xét duyệt...Tất cả các công việc này đều do cơ quan BHXH thông báo, hướng dẫn cụ thể. Tuy nhiên , người lao động chỉ được trực tiếp quản lý sổ BHXH khi di chuyển từ đơn vị làm việc này sang đơn vị làm voiệc khác, hoặc chấm dứt hợp đồng lao động. Khi ký kết hợp đồng lao động mới, người lao động phải nộp sổ BHXH cho người sử dụng lao động mới để tiếp tục theo dõi ghi chép, thực hiện việc thu nộpvà giải quyết các chế độ BHXH . Người sử dụng lao động có trách nhiệm lưu giữ, bảo quản sổ BHXH cho người lao động thuộc phạm vi quản lý trong suốt quá trình lao động. Khi làm thủ tục hưởng trợ cấp hưu trí hoặc trợ cấp một lần cho người lao động , người sử dụng lao động phải nộp BHXH của những người này cho cơ quan BHXH nơi giải quyết chế độ chính sách để lưu cùng với hồ sơ hưởng BHXH . Cơ quan BHXH các cấp theo phạm vi phân cấp của mình tổ chức quản lý theo danh sách người lao động ở từng đơn vị sử dụng lao động được cấp sổ BHXH . Hàng tháng, báo cáo danh sách những người tăng giảm khi cấp sổ BHXH thuộc địa bàn và phạm vi mình phụ trách cho cơ quan BHXH cấp trên. Nếu sổ BHXH bị mất hoặc hư hỏng sẽ được cấp lại nhưng phải tuân thủ sự hướng dẫn của cơ quan BHXH . Như vậy lúc này quản lý thu BHXH đối với từng lao động đóng trong từng tháng ( tuy nhiên cách thức đongs cho BHXH vẫn là cơ quan tập hợp đủ phí BHXH sau đó nộp cho cơ quan BHXH ). Sau khi cơ quan sử dụng lao động nộp đủ phí BHXH thì cơ quan BHXH xác nhận là đã đóng phí BHXH rồi giao cho cơ quan sử dụng lao động quản lý sổ. Thực hiện được điều này rất khó khăn tốn kém nhưng lại thuận lợi cho công tác quản lý về thực hiện thu, kể cả trong trường hợp di chuyển lao động từ đơn vị này đến đơn vị khác. Sau khi hết thời gian lao động , người lao động được giao sổ và quyết định nghỉ việc từ cơ quan làm việc đến cơ quan BHXH đổi '' Phiếu lĩnh lương hưu trợ cấp BHXH ''và được cơ quan BHXH xác nhận chi trả theo hướng đã quy định ( tuỳ thuộc vào số tháng đóng và mức đóng BHXH của người lao động ) , quy cách phiếu như sau : Bảo hiểm xã hội Việt nam Phiếu lĩnh lương hưu Mã số Họ và tên : Địa chỉ: Số sổ : Chế độ: Lĩnh tiền từ tháng .. năm... tại đại diện chi trả số : Xã, phường, thị trấn .. quận huyện.. Mức hưởng hàng tháng : Giám đốc BHXH quận, huyện. ( Ký tên đóng dấu ) Thực hiện được phương pháp này rất thuận lợi cho công tác thu, tránh được thất thoát quỹ và tránh được sự gian lận trong việc chi trả trợ cấp BHXH . KếT LUậN . BHXH là một trong những chính sách xã hội lớn của quốc gia, chính sách này thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của Nhà nước. Việc phân tích tình hình thực hiện công tác thu, chi và quản lý quỹ BHXH của đề tài qua các thời kỳ đã khẳng định tầm quan trọng của cơ quan BHXH là hết sức cần thiết và đúng đắn, khẳng định vai trò của chính sách BHXH dựa trên nguyên tắc '' có đóng BHXH mới được hưởng các quyền lợi BHXH ' Chuyên đề này được thực hiện thành công là nhờ sự giúp đỡ tận tình của đội ngũ CBCNV huyện Yên Sơn( Tuyên Quang) sự hướng dẫn chỉ đạo tận tình của cô giáo Tôn Thanh Huyền đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Mục lục Lời nói đầu Phần 1: khái quát chung về BHXH I/ Tính tất yếu khách quan của BHXH II/ các đối tượng của BHXH III/ chức năng của BHXH IV/ Tính chất của BHXH V/ Quỹ BHXH khái niệm Đặc điểm Nguồn hình thành quỹ BHXH Mực đích sử dụng quỹ BHXH Tính đặc thù của nghiệp vụ thu BHXH Tính đặc thù của nghiệp vụ chi BHXH So sánh quỹ BHXH với NSNN VI/ Các chế độ BHXH VII/ Cơ chế tạo lập quỹ BHXH ở một số nước trên thế giới ở nước cộng hòa Pháp ở nước Mỹ VIII/ Cơ chế chi BHXH ở các nước 1 .Chi trợ cấp hưu trí 2 .Chi trợ cấp ốm đau 3 .Chi trợ cấp thai sản 4 .Chi trợ cấp tai nạn lao động và BNN Phần 2: Công tác thu, chi và quản lý quỹ BHXH ở BHXH huyện Yên sơn trong thời gian qua I/ Cơ chế tạo lập và quản lý nguồn quỹ BHXH II/ Cơ chế chi và quản lý chi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc13586.DOC
Tài liệu liên quan