Đề tài Công tác thu Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2005 - 9/2010: thực trạng và giải pháp

Tài liệu Đề tài Công tác thu Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2005 - 9/2010: thực trạng và giải pháp: Lời mở đầu Thanh Hoá nằm ở cực Bắc Miền Trung, cách Thủ đô Hà Nội 150 km về phía Nam. Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ, ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ, có hệ thống giao thông thuận lợi như: Đường sắt xuyên Việt, đường Hồ Chí Minh, các quốc lộ 1A, 10, 45, 47, 217; cảng biển nước sâu Nghi Sơn và hệ thống sông ngòi thuận tiện cho lưu thông Bắc Nam, với các vùng trong tỉnh và đi quốc tế. Hiện tại, Thanh Hóa có sân bay Sao Vàng và đang dự kiến mở thêm sân bay  quốc tế sát biển phục vụ cho Khu kinh tế Nghi Sơn và khách du lịch. Với điều kiện khá thuận lợi như vậy trong những năm qua tỉnh Thanh Hóa đang thu hút đầu tư để mở rộng và phát triển kinh tế, tạo điều kiện để thành lập doanh nghiệp giải quyết việc làm cho người lao động. Bảo hiểm xã hội (BHXH) Thanh Hóa trong những năm qua đạt được một số thành tích quan trọng nhằm góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó cô...

doc35 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1025 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Công tác thu Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2005 - 9/2010: thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Thanh Hoá nằm ở cực Bắc Miền Trung, cách Thủ đô Hà Nội 150 km về phía Nam. Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hưởng của những tác động từ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế Trung bộ, ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ, có hệ thống giao thông thuận lợi như: Đường sắt xuyên Việt, đường Hồ Chí Minh, các quốc lộ 1A, 10, 45, 47, 217; cảng biển nước sâu Nghi Sơn và hệ thống sông ngòi thuận tiện cho lưu thông Bắc Nam, với các vùng trong tỉnh và đi quốc tế. Hiện tại, Thanh Hóa có sân bay Sao Vàng và đang dự kiến mở thêm sân bay  quốc tế sát biển phục vụ cho Khu kinh tế Nghi Sơn và khách du lịch. Với điều kiện khá thuận lợi như vậy trong những năm qua tỉnh Thanh Hóa đang thu hút đầu tư để mở rộng và phát triển kinh tế, tạo điều kiện để thành lập doanh nghiệp giải quyết việc làm cho người lao động. Bảo hiểm xã hội (BHXH) Thanh Hóa trong những năm qua đạt được một số thành tích quan trọng nhằm góp phần đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó công tác quản lý thu BHXH cũng đã đạt được những thành công lớn như nâng cao được số người tham gia BHXH, số thu tăng qua các năm góp phần cân đối quỹ để có điều kiện chi trả kịp thời đảm bảo quyền lợi cho người lao động…Tuy nhiên bên cạnh đó công tác thu BHXH tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua vẫn còn những mặt tồn tại như hiện tượng trốn đóng, nợ đọng, chậm đóng BHXH, số người tham gia BHXH còn thấp. Quản lý mức tiền lương tiền công làm căn cứ đóng BHXH chưa chặt chẽ. Câu hỏi đặt ra cho cơ quan BHXH tỉnh Thanh Hóa là phải làm sao phát huy được những việc mình đã làm được đồng thời khắc phục những mặt còn tồn tại để hoàn thiện công tác thu BHXH. Chính vì vậy em đã chọn đề tài “ công tác thu Bảo hiểm xã hội tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2005 - 9/2010 thực trạng và giải pháp”.Trong đề tài nghiên cứu này trên cơ sở lý luận và tìm hiểu thực tế tình hình công tác thu tại địa phương từ đó để thấy những mặt đạt được, những mặt còn tồn tại nhằm đưa ra những giải pháp để hoàn thiện hơn công tác quản lý thu BHXH tại tỉnh Thanh Hóa. Bài viết gồm ba chương với nội dung cụ thể như sau: Chương I. Những lý luận chung về quản lý thu BHXH Chương II. Thực trạng công tác quản lý thu BHXH tại tỉnh Thanh Hóa Chương III. Một số giải pháp để hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH tại Thanh Hóa. Do khả năng còn hạn chế nên đề tài nghiên cứu không thế tránh khỏi những thiếu sót rất mong thầy góp ý để em hoàn thiện hơn nữa đề tài nghiên cứu của mình, để những giải pháp mang tính thiết thực hơn sớm có thể đưa vào ứng dụng tại địa phương góp phần hoàn thiện hơn nữa công tác quản lý thu BHXH như mục đích nghiên cứu đã đặt ra, đồng thời tạo bình đẳng cho mọi người lao động trong tỉnh đều được tham gia BHXH góp phần đảm bảo an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói riêng và của cả nước nói chung. Em xin chân thành cám ơn thầy Phạm Đỗ Dũng đã giúp đỡ em trong quá trình học chuyên đề chuyên sâu thu BHXH và hoàn thiện đề tài nghiên cứu này. Chương 1. Những lý luận chung về quản lý thu Bảo hiểm xã hội Khái niệm quản lý thu bảo hiểm xã hội Nhà nước với chức năng cai trị của mình đã sử dụng quyền lực để thông qua các thể chế chính trị bao gồm hệ thống pháp luật và các thiết chế chính trị (các cơ quan quyền lực của nhà nước) để thực hiện công tác thu BHXH dưới hai hình thức là bắt buộc đối với bảo hiểm xã hội bắt buộc (BHXHBB) và tự nguyện đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện (BHXHTN). Tùy theo đặc điểm cụ thể của từng đối tượng mà nhà nước quy định cụ thể đối tượng nào thuộc diện tham gia BHXHBB thì đối tượng đó phải đóng BHXH với mức đóng và phương thức đóng theo quy định, những đối tượng thuộc diện tham gia BHXHTN thì đối tượng đó được quyền lựa chọn mức đóng phương thức đóng trước khi tham gia. Khi đã tham gia, tất cảc các đối tượng bắt buộc và tự nguyện đều phải tuân thủ những quy định của Nhà nước về mức đóng, thời gian đóng và điều kiện được hưởng các chế độ BHXH. Như vậy thu BHXH luôn gắn với quyền lực của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Chính vì thế chúng ta có thể hiểu về thu BHXH như sau Thu bảo hiểm xã hôi là việc nhà nước dùng quyền lực của mình để bắt buộc các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đóng một mức phí theo quy định hoặc cho phép các đối tượng tham gia BHXHTN được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với mức thu nhập của mình. (Nguồn: Giáo trình “quản trị BHXH” trường Đại học Lao động – Xã hội) Từ khái niệm thu BHXH có thể khái quát khái niệm quản lý thu BHXH như sau: Quản lý thu BHXH là sự tác động có tổ chức, có tính pháp lý của các cơ quan nhà nước nhằm điều chỉnh hoạt động thu BHXH. Sự tác động đó được thực hiện bằng hệ thống pháp luật của Nhà nước, bằng các biện pháp hành chính tổ chức kinh tế nhằm bảo đảm chi đúng, chi đủ và kịp thời. (Nguồn : Giáo trình quản trị BHXH trường Đại học Lao động – Xã hội) Vai trò của quản lý thu bảo hiểm xã hội . Nắm chắc các nguồn thu bảo hiểm xã hội Theo quy định của luật bảo hiểm Việt Nam hiện nay thì quỹ bảo hiểm xã hội nước ta có có các nguồn thu sau đây: Nguồn thu từ sự đóng góp của người lao động Nguồn thu từ sự đóng góp của người sử dụng lao động Nguồn thu từ ngân sách nhà nước Nguồn thu từ tiền sinh lãi đầu tư Thu từ các nguồn khác như tài trợ viện trợ, biếu tặng…của các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài Để nắm chắc được các nguồn thu trên phải tăng cường công tác quản lý chặt chẽ các nguồn thu. Đối với từng nguồn khác nhau phải có phương pháp quản lý tác động thích hợp. Ví dụ đối với nguồn thu từ người sử dụng lao động và người lao động thì việc đầu tiên mà công tác thu cần làm là thống kê số lượng cơ quan tổ chức ,doanh nghiệp... thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hôi bắt buộc trên địa bàn. Rồi trên cơ sở đó nắm bắt được số lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội là bao nhiêu, mức tiền lương tiền công làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội có phù hợp hay không, người sử dụng lao động đã trích đóng bảo hiểm cho người lao động đã đúng chưa..... Như vậy khi công tác quản lý thu tốt thì sẽ đảm bảo quỹ bảo hiểm xã hội sẽ huy động tối đa từ các nguồn giảm được tình trạng trốn đóng nợ đóng, chậm đóng của các đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, nắm chắc nguồn thu bảo hiểm xã hội. 1.2.2. Tăng thu đảm bảo cân đối quỹ Khi công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội được làm tốt nghĩa là chúng ta đã thực hiện thu đúng, đủ, đúng thời gian từ các đối tượng tham gia BHXH giảm tình trạng trồn đóng, nợ đóng và chậm đóng BHXH từ phía người lao động và người sử dụng lao động ngoài ra còn khai thác thêm từ các nguồn khác như viện trợ, hỗ trợ, biếu tặng... Như vậy quỹ bảo hiểm xã hội được tăng lên góp phần đảm bảo cân đối quỹ . Ngoài ra khi công tác quản lý thu BHXH thực hiện tốt chúng ta còn có thể tăng thêm số người tham gia đóng BHXH ... những người thuộc diện tham gia BHXH mà từ trước BHXH chưa thực hiện thu hoặc triển khai thu nhưng chưa thu được. Như vậy thì quỹ BHXH lại được tăng thêm nhờ số lượng người tham gia tăng góp phần đảm bảo khả năng chi trả cho quỹ BHXH. Quản lý thu tốt thì số thu về sẽ được nhiều hơn sẽ có thêm khoản tiền nhàn rỗi mang đi đầu tư. Số tiền sinh lời từ đầu tư lại quay trở về bổ sung vào quỹ góp phần tăng quỹ ,đảm bảo cân đối quỹ cho bảo hiểm xã hội. Khi thực hiện thu tốt quỹ BHXH được đảm bảo nhà nước sẽ không phải trợ cấp cho quỹ BHXH vì thâm hụt như vậy khoản tiền trích từ ngân sáh nhà nước đó sẽ được mang đi đầu tư tạo thêm việc làm, thu nhập cho người lao động góp phần tăng đối tượng tham gia BHXH dẫn đến tăng quỹ BHXH 1.2.3. Đảm bảo quyền lợi cho các đối tượng tham gia Khi công tác quản lý thu tốt thì quỹ BHXH sẽ cân đối đảm bảo khả năng chi trả đầy đủ, đúng hạn các chế độ của BHXH cho người lao động. Lúc này quyền lợi của người lao động tham gia BHXH sẽ được đảm bảo Đồng thời khi công tác quản lý thu BHXH thực hiện tốt thì quỹ BHXH sẽ tăng có điều kiện để mở rộng quyền lợi cho người lao động ví dụ như tăng mức hưởng, hay mở rộng các chế dộ được hưởng theo khuyến cáo của ILO Công tác quản lý thu tốt quỹ BHXH sẽ được cân đối đảm bảo khả năng chi trả trong ngắn hạn cũng như trong dài hạn thì lúc này người lao động sẽ không phải tăng tỷ lệ đóng BHXH và cũng không bị cắt giảm các quyền lợi đang được hưởng. Thực hiện thu tốt từ phía người sử dụng lao động sẽ phát hiện ra những đơn vị sử dụng lao động trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng BHXH như vậy góp phần đảm bảo quyền lợi cho mọi người lao đông đều được tham gia BHXH khi làm viêc theo hợp đồng lao động thuôc diện tham gia BHXHBB Ngoài ra chính người sử dụng lao động cũng được hưởng quyền lợi gián tiếp từ công tác thu BHXH. Cụ thể như khi tham gia BHXH cho người lao động thì uy tín của người sử đụng lao động cũng tăng lên. Đồng thời họ cũng không phải tăng mức đóng BHXH và được mở rộng thêm quyền lợi. 1.2.4. Kiểm tra đánh giá được hoạt động BHXH ở địa phương Thông qua công tác thu BHXH ở địa phương chúng ta có thể đánh giá được hoạt động BHXH ở địa phương đó mạnh hay yếu từ đó có những biện pháp để cải thiện tình hình hoạt động BHXH ở địa phương. 1.3. Nội dung của quản lý thu BHXH 1.3.1. Quản lý đối tượng tham gia BHXH Căn cứ vào luật BHXH của nước ta hiện nay thì đối tượng tham gia BHXH của nước ta được chia thành hai nhóm đó là những đối tượng thuộc diện tham gia BHXHBB và BHXHTN đối với mỗi đối tương thì luật có quy đinh cụ thể nhưng trong phạm vi nghiên cứu của đề tài em chỉ phân tích đối tượng tham gia BHXHBB cụ thể như sau: Đối tượng tham gia BHXHBB được quy định tại điều 2 luật BHXH của Việt Nam năm 2006 bao gồm người lao động và người sử dụng lao động cụ thể như sau: a) Đối tượng tham gia BHXHBB là người lao động Là công dân Việt Nam trong động là công dân Việt Nam trong độ tuổi lao động bao gồm: Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc không xác định thời hạn hoặc có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên Cán bộ, công nhân viên chức nhà nước Công nhân quốc phòng, công nhân công an Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhan dân; sĩ quan hạ sĩ quan nghiệp vụ,sĩ quan hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân; Người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân. Sĩ quan binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn. Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXHBB. Như vậy quản lý đối tượng tham gia BHXH là người lao động là thực hiện các công tác chủ yếu sau: Quản lý danh sách lao động trong từng đơn vị có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên. Danh sách này do đơn vị tự lập theo mẫu quy định của BHXH Việt nam. Danh sách người lao động tham gia BHXH được lập hàng năm theo số liệu tăng giảm lao động của đơn vị. b) Đối tượng tham gia BHXHBB là người sử dụng lao động bao gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân. Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hôi – nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác. Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ hức khác,và các cá nhân thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động. Như vậy quản lý đối tượng tham gia là người sử dụng lao động phải thực hiện các công tác sau: Quản lý các đơn vị sử dụng lao động (người sử dụng lao động) thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo địa bàn hành chính huyện, tỉnh, kể những người buôn bán nhỏ, hộ sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền thống có thuê từ một lao động trở lên. Đây là việc làm rất cần thiết. Trên cơ sở nắm được các đơn vị trên theo địa bàn hành chính, BHXH Việt nam mới tiến hành các nghiệp tiếp theo của công tác thu BHXH. 1.3.2. Quản lý mức tiền lương tiền công làm căn cứ đóng BHXH Quản lý tổng quỹ tiền lương, tiền công của số lao động tham gia BHXH. Bảng kê khai tổng quỹ tiền lương do đơn vị lập theo mẫu của BHXH Việt Nam và lập hàng năm theo sự biến động của số người tham gia BHXH và mức lương, tiền công thay đổi của từng người lao động. Quản lý mức lương (lương chính, các loại phụ cấp...) hoặc tiền công theo hợp đồng của từng người lao động làm căn cứ đóng BHXH. Bảng kê khai mức lương hoặc tiền công làm căn cứ đóng BHXH do đơn vị lập theo mẫu quy định của BHXH Việt nam, lập hàng năm theo mức tăng giảm tiền lương, tiền công của từng người lao động. Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là tiền lương theo ngạch, bậc, cấp bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có). Tiền lương này được tính trên cơ sở mức lương tối thiểu chung. Đối với người lao động đóng bảo hiểm xã hội theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội là mức tiền lương, tiền công ghi trong hợp đồng lao động. Trường hợp mức tiền lương, tiền công quy định theo Luật BHXH cao hơn hai mươi tháng lương tối thiểu chung thì mức tiền lương, tiền công tháng đóng bảo hiểm xã hội bằng hai mươi tháng lương tối thiểu chung. 1.3.3. Quản lý mức đóng và phương thức đóng BHXH Quản lý mức đóng BHXH của từng đơn vị và từng người lao động trên cơ sở danh sách tham gia BHXH của từng đơn vị, mức lương hoặc tiền công của từng người lao đông và tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH trong từng đơn vị. Tất các các chỉ tiêu này phải ăn khớp với nhau thì BHXH Việt nam mới chấp nhận. Hiện nay mức đóng và phương thức đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội Việt Nam được thực hiện theo luật Bảo Hiểm xã hội Viêt Nam như sau: a) Mức đóng và phương thức đóng của người lao động Hiện nay (năm 2010), hằng tháng người lao động thuộc diện tham gia BHXHBB đóng bằng 6% mức tiền lương tiền công vào quỹ hưu trí và tử tuất, sau đó cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8% thì dừng lại Người lao động hưởng tiền lương, tiền công theo chu kỳ sản suất, kinh doanh trong các doanh nghiệp nông nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thì mức đóng BHXH hàng tháng vẫn như quy định ở trên. Nhưng phương thức đóng được thực hiện hằng tháng, hằng quý hoặc sáu tháng một lần. Mức đóng và phương thức đóng của người lao động làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXHBB do Chính phủ quy định. b) Mức đóng và phương thức đóng của người sử dụng lao động Tại thời điểm hiện tại là năm 2010 như sau: Hằng tháng người sử dụng lao động đóng BHXH cho người lao động là 16% trên tổng quỹ tiền lương, tiền công của người lao động. Trong đó chia thành các quỹ thành phân như sau: 3% vào quỹ ốm đau thai sản, 1% vào quỹ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, 12% vào quỹ hưu trí và tử tuất sau đó cứ hai năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 14% thì dừng lại. 1.3.4. Quy trình quản lý thu BHXH Quy trình thu BHXH là tổng thể các biện pháp cần phải tiến hành, đó là cả một quá trình sắp xếp thứ tự logic trước sau việc gì cần phải làm trước, việc nào cần phải thực hiện sau để đạt được mục tiêu đa dặt ra với hiệu quả cao nhât. Bởi vậy, quy trình thu BHXH được xác định như sau: a) Phân cấp quản lý. Đối với BHXH Việt Nam có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát tình hình công tác thu BHXH của cấp tỉnh. Tham mưu cho các cơ quan vè văn bản pháp luật để tăng cường thu. Giao kế hoạch quản lý thu. Thông tin báo cáo cho BHXH cấp tỉnh đồng thới cũng xá định mức lãi suất bình quân trong năm của hoạt động đầu tư quỹ đồng thời cũng có trách nhiệm quản lý khoản tiền thu về. Đối với BHXH cấp tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện công tác thu BHXH của cấp huyện. Cấp sổ bảo hiểm xã hội theo phân cấp quản lý. Có trách nhiệm tham mưu cho BHXH Việt Nam các phương án nhằm tăng nguồn thu, đồng thời có trách nhiệm lập, giao kế hoạch và tổ chức thu BHXH. Đối với BHXH cấp huyện có trách nhiệm chỉ đạo, hướng dẫn người lao động và người sử dụng lao động trong việc thu và lập hố sơ thu BHXH. Đồng thời cũng thông qua phòng lao động thương binh và xã hôi để thanh tra kiểm tra tình hình đóng BHXH của người sử dụng lao động. Có trách nhiệm tham mưu với BHXH cấp tỉnh các vấn đề liên quan đến công tác quản lý thu. Thông tin báo cáo về tinh hình thu BHXH vào ngày 25 hằng tháng. Lập kế hoạch thu và tổ chức thu BHXH. b). Lập và giao kế hoạch thu hằng năm. Bảo hiểm xã hội Việt Nam căn cứ tình hình thực hiện kế hoạch của năm trước và khả năng phát triển lao động năm sau của các địa phương để tổng hợp, lập và gia dự toán thu BHXH cho BHXH cấp tỉnh. Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh lập bản dự toán thu BHXH đối với các đối tượng do tỉnh quản lý đồng thời lập bản kế hoạch thu BHXH năm sau theo mẫu 13-TBH gửi BHXH Việt Nam trước ngày 15/11 hằng năm. Căn cứ vào dự toán thu BHXH Việt Nam tiến hành lập dự toán thu BHXH và giao cho BHXH cấp huyện trước ngày 20/01 hằng năm. Bảo hiểm xã hội cấp huyện căn cứ tình hình thực hiện năm trước và khả năng mở rộng người lao động tham gia BHXH trên địa bàn để lập hai bản “kế hoạch thu BHXH” theo mẫu 13- TBH gửi một bản lên BHXH cấp tỉnh trước ngày 05/ 11 hàng năm c) Tổ chức thu Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh và cấp huyện tổ chức thu theo đúng sự phân cấp của mình. Sau khi thu xong thì chuyển về ngân hàng phát triển nông nghiệp và nông thôn. Không được giữ số tiền thu về quá 5 ngày trừ những trường hợp đặc biệt. Tài khoản chuyên thu chỉ có BHXH Việt Nam mới có thẩm quyền quản lý. d) Thông tin báo cáo Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh, huyện : mở rộng chi tiết thu BHXH theo mẫu 07 – TBH, thực hiện ghi sổ BHXH theo hướng dẫn sử dụng biểu mẫu. Bảo hiểm xã hội huyện báo cáo tháng trước ngày 22 hằng tháng, báo cáo quý trước ngày 20 tháng đầu của quý sau. Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh báo cáo tháng trước ngày 25 hằng tháng, báo cáo quý trước ngày cuối cùng của tháng đầu quý sau. 1.3.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới công tác thu BHXH Thứ nhất, chính sách tiền lương. Giữa chính sách tiền lương và chính sách BHXH nói chung và công tác thu BHXH nói riêng có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau, chính sách tiền lương là tiền đề và cơ sở cho việc thực hiện chính sách BHXH, điều này càng đặc biệt đúng với trường hợp của Việt Nam, bởi vì cơ sở để tính toán mức đóng và hưởng BHXH của chúng ta hiện nay là phụ thuộc vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định.  Thứ hai, lực lượng lao động. Người lao động là đối tượng tham gia BHXH, họ là những người trong độ tuổi lao động, là những người trực tiếp tạo ra của cải cho xã hội.  Thứ ba, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của Nhà nước, vì thế nếu một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định thì chắc chắn đời sống của người dân sẽ cao dần lên, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều thuận lợi vì thế các chủ doanh nghiệp cũng sẵn sàng tham gia BHXH cho người lao động, từ đó làm giảm tình trạng trốn tránh trách nhiệm tham gia BHXH cho người lao động của các chủ doanh nghiệp. Bên cạnh đó tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững phản ánh nhiều người lao động có thu nhập cao thông qua quá trình lao động, đây là điều kiện tiền đề để người lao động có cơ hội tham gia BHXH. Thêm nữa, khi đời sống kinh tế cao thì nhận thức của người lao động cũng cao lên, ngoài việc ý thức đảm bảo cuộc sống hàng ngày cho bản thân và gia đình họ, họ mong muốn có khoản trợ giúp khi không may gặp các rủi ro xã hội như: ốm đau, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thai sản, thất nghiệp khiến cho họ bị mất hoặc bị giảm thu nhập. Thứ tư, mức độ chi trả các chế độ BHXH. Mức độ chi trả các chế độ BHXH phụ thuộc vào: Số lượng các chế độ BHXH được áp dụng, số lượng người hưởng các chế độ BHXH, tỷ lệ hưởng BHXH. Tỷ lệ hưởng càng cao có nghĩa là số tiền chi trả cho các chế độ càng lớn, chính điều này đã đặt ra yêu cầu thu BHXH ngày càng cao hơn để tránh tình trạng mất cân đối quỹ BHXH. Chương II. Thực trạng quản lý thu BHXH tỉnh Thanh Hóa 2.1. Đánh giá chung về tình hình quản lý thu BHXH tại tỉnh Thanh Hóa Nhìn chung trong những năm qua tình hình thu BHXH của tỉnh Thanh hóa đã đạt được nhiều thành tựu. Số người tham gia BHXH tăng qua các năm nếu như năm 1995 chỉ mới có 82273 người lao động tham gia BHXH thì tính đến tháng 9 năm 2010 đã có 171751 người lao động được tham gia BHXH. Số thu BHXH cũng không ngừng tăng qua các năm nếu như năm 2006 số thu được về là 3300 tỷ đồng thì đến năm 2009 là gần 5 tỷ đồng Nguồn: thống kê BHXH tỉnh Thanh Hóa 9/2010 . Mức tiền lương tiền công làm căn cứ đóng BHXH được quản lý chặt chẽ hơn. Những doanh nghiệp, cơ quan trốn đóng, chậm đóng, nợ đóng BHXH được phát hiện và xử lý. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý thu BHXH trong những năm gần đây cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc thu BHXH từ các doanh nghiệp. Bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế trong công tác thu BHXH của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua đó là số người tham gia BHXH chưa cao, số doanh nghiệp trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng BHXH vẫn còn tồn tại thậm chí tăng qua các năm. Mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH vẫn chưa được quản lý tốt. Trong những năm qua BHXH tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu và cũng đã đạt được những kết quả khả quan. Thực trang công tác thu BHXH ở Thanh Hóa hiện nay thể hiện những mặt sau đây. 2.2. Những mặt đạt được 2.2.1. Đối tượng tham gia BHXH tăng a) Kết quả đạt được Đối tượng tham gia BHXH của tỉnh Thanh Hóa trong nhưng năm qua tăng lên đáng kể. Điều này phản ánh nhận thức của người lao động, người sử dụng lao động về BHXH cũng tăng lên, công tác tuyên truyền phổ biến, chỉ đạo hướng dẫn công tác thu tại Thanh Hóa đã có kết quả tốt. Tổng số người lao động và các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức tham gia BHXH tính đến tháng 9 năm 2010 được thể hiện theo bảng sau: Bảng 1. Bảng số liệu về tình hình người lao động và doanh nghiệp tham gia BHXH tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2005 – 9/2010 Năm Số lao động (người) Tăng so với năm trước (%) Tăng so với năm gốc (%) Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức Tăng sovới năm trước (%) Tăng so với năm gốc(%) 2005 96150 - - 3246 - - 2006 105970 10.21 10.21 3605 11.06 11.06 2007 120050 13.27 24.86 4128 14.51 27.17 2008 134726 12.22 40.12 4615 11.80 42.17 2009 151470 12.43 57.53 5193 12.52 59.98 9/2010 171751 13.39 78.63 6000 15.54 84.84 ( Nguồn BHXH tỉnh Thanh Hóa tháng 9/2010) Theo bảng số liệu trên ta có thể thấy được rằng tổng số người tham gia BHXH không ngừng tăng nhanh qua các năm, năm sau tăng nhanh hơn năm trước. Cụ thể: Năm 2006 số người lao động được tham gia BHXH tăng 9820 người tương ứng với 10.21% so với năm 2005. Số doanh nghiệp, cơ quan tổ chức tham gia BHXH cho người lao động trong hai năm cũng tăng lên 359 đơn vị tương ứng với 11.06% Năm 2007 tổng số người lao động tham gia BHXH tăng 14080 người tương ứng với 13.27% so với năm 2006 và tăng 23900 tương ứng với 24.86% so với năm 2005. Số doanh nghiệp, cơ quan tổ chức tham gia BHXH cho người lao động tăng 523 đơn vị tương ứng với 14.51% so với năm 2006 và tăng 882 đơn vị tương ứng với 27.17% so với năm 2005. Năm 2008 tổng số lao động tham gia BHXH tăng 14676 người tương ứng với 12.22% so với năm 2007 và tăng 38576 người tương ứng với 40.12% so với năm 2005. Đối với số đơn vị thì tăng 487 đơn vị tương ứng với 11.8% so với năm 2007 và 1369 đơn vị tương ứng với 42.17% so với năm 2005. Năm 2009 tổng số người tham gia BHXH tăng 16744 người tương ứng với 12.43% so với năm 2008 và tăng 55320 người tương ứng với 57.53% so với năm 2005. Số đơn vị tham gia BHXH cho người lao động cũng tăng 578 nđơn vị tương ứng 12.52% so với năm 2009 và tăng 1947 đơn vị tương ứng với 59.98% so với năm 2005. Năm 2010 số người tham gia BHXH tăng 20281 người tương ứng với 13.39% so với năm 2009 và tăng 75601 người tương ứng với 78.63% so với năm 2005. đối với số đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH cũng tăng 807 đơn vị tương ứng với 15.54% so với năm 2009 và tăng 2754 đơn vị tương ứng 84.84% so với năm 2005. Qua phân tích trên một lần nữa có thể khẳng định rằng trong những năm qua đối tượng tham gia BHXH trong đó bao gồm cả người lao động và người sử dụng lao động liên tục tăng qua các năm. Chỉ trong vòng 5 năm từ 2005 đến 2010 mà số người lao động tham gia BHXH đã tăng lên 78.63%, người sử dụng lao động tăng lên 84.84%. b) Nguyên nhân đạt được kết quả trên Việc tăng tương đối nhanh như thế này là do sự ra đời của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006. Với việc Luật BHXH ra đời và những văn bản hướng đẫn thi hành luật đã mở rộng hơn về đối tượng tham gia BHXH, có những quy định cụ thể rõ ràng và những chế tài xử phạt vi phạm luật BHXH, Chính vì thế số người và số đơn vị tham gia BHXH đã tăng lên. Mặt khác cũng do trong những năm qua công tác tuyên truyền phổ biến về BHXH của tỉnh Thanh Hóa đã làm tốt tác động tới nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động về BHXH, làm cho họ thấy được những quyền lợi của bản thân khi tham gia BHXH. Hơn nữa công tác thanh tra kiểm tra cũng được tiến hành từ đó phát hiện những đơn vị chưa tham gia BHXH cho người lao động yêu cầu họ tham gia ... Chính vì những lý do trên mà trong thời gian qua đối tượng tham gia BHXH của tỉnh Thanh Hóa không ngừng tăng lên. Đây có thể coi là một thành tích của BHXH tỉnh Thanh Hóa trong việc thực hiện mục tiêu mọi người lao động đề được tham gia BHXH. 2.2.2. Số tiền thu về tăng dẫn đến tăng quỹ BHXH a) Kết quả đạt được Trong những năm qua một trong những kết quả đạt được của BHXH tỉnh Thanh Hóa đó là só tiền thu về tăng trong mỗi năm góp phần vào tăng nguồn quỹ BHXH có điều kiện để chi trả chế độ cho các đối tượng đúng đủ kịp thời. Tính đến hết năm 2009 tổng số thu BHXH của BHXH tỉnh Thanh Hóa là 5000 tỷ đồng Nguồn BHXH tỉnh Thanh Hóa năm 2009 . Tình hình thu BHXH bổ xung vào quỹ BHXH của Thanh Hóa trong những năm qua thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 2. Bảng số liệu thống kê về tình hình quỹ của BHXH tỉnh Thanh Hóa trong những năm từ 2005 đến 2009 Năm Tổng quỹ ( tỷ đồng ) Tăng so với năm trước (%) Tăng so với năm gốc (%) 2005 2889 - - 2006 3300 14.22 14.22 2007 3723 12.82 28.87 2008 4230 13.61 46.42 2009 5000 18.20 73.07 ( Nguồn BHXH tỉnh Thanh Hóa năm 2009) Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy được rằng trong những năm từ 2005 đến 2009 tổng số thu về của BHXH không ngừng tăng lên góp phần vào cân đối quỹ BHXH. Cụ thể như sau: Năm 2006 tăng 411 tỷ đồng tương ứng với 14.22% so với năm 2005. Năm 2007 tăng 423 tỷ đồng tương ứng với 12.82% so với năm 2006 và tăng 834 tỷ đồng tương ứng với 28.87% so với năm 2005. Năm 2008 tăng 507 tỷ đồng tương ứng với 13.61% so với năm 2007 và tăng 1441 tỷ đồng tương ứng với 46.42% so với năm 2005. Năm 2009 tăng 770 tỷ đồng tương ứng với 18.20% so với năm 2008 và tăng 2111 tỷ đồng tương ứng với 73.07% so vowisnawm 2005 b) Nguyên nhân của việc đạt được kết quả trên Theo công thức thu BHXH thì tổng số thu về sẽ phụ thuộc vào ba yếu tố đó là : Đối tượng tham gia BHXH, tỷ lệ đóng BHXH và mức tiền lương tiền công làm căn cứ đóng BHXH. Trong những năm qua cả ba yếu tố trên đề có sự biến động theo hướng có lợi tao điều kiện để tăng được nguồn thu. Về đối tượng tham gia BHXH như đã phân tích ở mục 2.2.1 thì trong những năm qua đã tăng lên bởi thế có thêm nhiều người , đơn vị đóng góp hơn dẫn đến số tiền thu BHXH sẽ tăng. Trong điều kiện của nước ta hiện nay thì số người tham gia BHXH là yếu tố quan trọng để tăng thêm nguồn quỹ. Chính vì thế một trong những yêu cầu lớn của công tác thu là làm sao thu hút được nhiều đối tượng tham gia BHXH có như vậy thì mới thu được nhiều bổ xung nguồn quỹ. Yếu tố thứ hai tác động đến số thu về đó là tỷ lệ đóng. Về mặt này BHXH tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện đúng Luật BHXH tức là đã tiến hành tăng tỷ lệ mức đóng cho cả người lao động và người sử dụng lao động. Đến tại thời điểm này( 2010) người lao động đang đóng với mức là 6% trên mức tiền công tiền lương làm căn cứ đóng BHXH và người sử dụng lao động đang đóng với mức là 16% trên tổng mức tiền lương tiền công của người lao động. Yếu tố thứ ba là mức tiền lương tiền công đóng BHXH. Mặc dù đây là yếu tố khó xác định vì hiện tại các doanh nghiệp vẫn không kê khai đúng số tiền lương tiền công đóng BHXH nhằm giảm bớt số tiền phải đóng cho BHXH nhưng trong những năm qua BHXH đã thực hiện các biện pháp thanh tra, kiểm tra mức tiền lương, tiền công bởi vậy cũng làm tăng số thu về góp phần vào tăng quỹ. Cả ba yếu tố trên đã đồng thời tác động làm tăng số tiền thu về được làm tăng quỹ BHXH. 2.2.3. Thanh tra, kiểm tra và phát hiện kịp thời các doanh nghiệp vi phạm pháp luật về BHXH a) Kết quả Trong những năm qua công tác thanh tra kiểm tra các doanh nghiệp trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng BHXH tạo điều kiện cho việc truy thu số tiền BHXH, xử lý kịp thời các đối tượng vi phạm luật BHXH làm gương cho các đối tượng khác, tuyên truyền cho các đối tượng tham gia BHXH. Được biết, hàng năm, ngành BHXH tỉnh Thanh Hóa đều lập kế hoạch tuyên truyền, vận động, về quyền lợi và nghĩa vụ đến từng đơn vị, người lao động, đồng thời tuyên dương đối với các cá nhân, tổ chức thực hiện đúng, đóng BHXH Trong năm 2009 Sở Lao động đã rà soát trên 50 doanh nghiệp và xử phạt hành chính với số tiền lên tới 117 triệu đồng vì tội trốn đóng, chậm đóng BHXH cho người lao động Nguồn BHXH tỉnh Thanh Hóa năm 2009 . Việc xử lý các doanh nghiệp vi phạm cũng là một kết quả tốt trong công tác quản lý thu BHXH. Từ việc phát hiện các đối tượng như thế này một mặt làm gương cho các doanh nghiệp khác mặt khác cũng tăng thu nắm chác các nguồn thu góp phần làm tốt vai trò của quản lý thu BHXH. b) Nguyên nhân đạt được Để thực hiện tốt công tác thanh tra kiểm tra BHXH tỉnh Thanh Hóa đã thành lập Đoàn thanh tra liên ngành, thanh tra về việc thực hiện quy định của Pháp luật về lao động và BHXH. Gần đây nhất vào tháng 8/2010 Chủ tịch UBNH tỉnh Thanh Hóa đã ra quyết định thành lập hai đoàn thanh tra liên nghành để thanh tra việc thực hiện quy định của pháp luật về lao động và BHXH taij một số doanh nghệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Đoàn thanh tra số một do ông Lê Quang Tích, phó Giám Đốc sở Lao động- Thương Binh và Xã hội làm trưởng đoàn. Đoàn thanh tra thứ hai do ông Lê Đức Huấn phó Chủ tịch Liên đoàn lao động tỉnh Thanh Hóa làm trưởng đoàn. Cả hai đoàn thanh tra đã tiến hành thanh tra 16 đơn vị có số nợ BHXH lớn, thời gian nợ đọng kéo dài để có biện pháp xử lý kịp thời nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động góp phần thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về BHXH. Nguồn BHXH tinht Thanh Hóa tháng 9/2010 Trước đó và tháng 3/2010, Giám đốc BHXH tỉnh Thanh Hóa đã ra quyết định thành lập 16 đoàn để kiểm tra, rà soát 1146 doanh nghiệp ngoài quốc doanhtreen địa bàn thành phố Thanh Hóa chưa đăng ký tham gia BHXH qua đó tuyên truyền phổ biến pháp luật về BHXH cho người lao động và người sử dụng lao động, từng bước chấn chỉnh đưa công tác thu. Nộp BHXH vào nề nếp đảm bảo quyền lợi cho người lao động và góp phần an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh Nguồn BHXH tỉnh Thanh Hóa tháng 9/2010 . 2.2.4. Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thu BHXH a) Kết quả đạt được Trong những năm gần đây cùng với việc nâng cao chất lượng cán bộ nhân viên trong ngành BHXH nhằm nâng cao hiệu quả công tác thu BHXH thì ngành BHXH tỉnh Thanh Hóa cũng đã tăng cường đầu tư trang thiết bị nhằm phục vụ đắc lực cho công tác thu nói riêng và hoạt động của ngành nói chung. Ví dụ điển hình là việc trang bị máy tính, máy in, máy fax cho các đơn vị, nối mạng tạo điều kiện để các bộ, nhân viên tìm hiểu và tra cứu tài liệu. Đồng thời việc ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin vào công tác thu BHXH đã tạo được bước tiến mới trong công tác thu cụ thể thu đúng, thu đủ và thu kịp thời từ các đối tượng, mặt khác công tác thu cũng được tiến hành nhanh hơn, gọn nhẹ hơn về mặt thủ tục tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp tham gia đóng BHXH tốn ít thời gian, thủ tục ít rườm rà bởi vậy khuyến khích họ tham gia BHXH. Giảm bớt được tình trạng chậm đóng BHXH. Ngoài ra việc ứng dụng công nghệ thông tin mà chủ yếu là phần mềm quản lý thu SMS Phần mềm thu BHXH SMS phần phụ lục vào thu BHXH đã giải quyết vấn đề về nhân lực cho toàn ngành BHXH tỉnh Thanh Hóa, giảm bớt chi phí mà hiệu quả lại cao hơn. b) Nguyên nhân đạt được Do nhận thức rõ được điểm ưu việt của công nghệ thông tin trong quản lý BHXH nói chung và quản lý thu BHXH nói riêng nên trong những năm qua BHXH tỉnh Thanh Hóa đã không ngừng trang bị đổi mới các trang thiết bị và ứng dụng các phần mềm quản lý thu BHXH, đào tạo nguồn nhân lực có kiến thức về công nghệ thông tin nên trong những năm qua đã đạt được thành quả trên. 2.2.5. Tổ chức thu BHXH thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về BHXH Trong công tác thu BHXH của tỉnh Thanh Hóa trong những năm qua thì cơ quan BHXH đã thực hiện thu và nộp số tiền bảo hiểm thu được theo đúng quy định của pháp luật về thu và quản lý quỹ BHXH. 2.2.6. Lập dự toán thu BHXH tỉnh Thanh Hóa đã lập dự toán thu đến cuối năm 2010 thu trên 7.5 tỷ đồng bổ xung vào quỹ BHXH. 2.3. Những hạn chế Mặc dù trong thời gian qua công tác thu BHXH tại tỉnh Thanh Hóa đã đạt được những kết quả lớn, đối tượng tham gia BHXH tăng, số thu về tăng qua các năm góp phần bổ sung nguồn quỹ…. Tuy nhiên cũng không khác so với tình hình quản lý thu chung của cả nước công tác thu BHXH tại tỉnh Thanh Hóa vẫn còn có những tồn tại đợi hỏi phải đưa ra những giải pháp kịp thời và mang tính chiến lược. Một số hạn chế của công tác thu BHXH tỉnh Thanh Hóa như sau: 2.3.1. Hiện tượng trốn đóng, chậm đóng, nợ đóng BHXH còn tồn tại a) Tồn tại   Việc tham gia đóng BHXH vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của cả chủ sử dụng lao động và người lao động. Tuy nhiên, từ nhiều năm nay, tình trạng trốn, đóng không đúng, không đủ và nợ đọng tiền BHXH quá dài diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là trong các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của hàng ngàn lao động, gây thất thoát quỹ BHXH. Theo báo cáo của cơ quan BHXH tỉnh Thanh Hóa, hiện tại tỉnh Thanh Hóa có hơn 5.450 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, nhưng chỉ có 1.139 doanh nghiệp (ngoài quốc doanh) tham gia đóng BHXH và BHTN (chiếm 21% doanh nghiệp tham gia). Như vậy, trên địa bàn tỉnh có tới 79% doanh nghiệp, công ty, hợp tác xã với rất nhiều lao động đang làm việc nhưng chưa tham gia đóng các loại bảo hiểm nói trên. Tình hình đóng BHXH của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thể hiện qua bảng số liệu sau: Bảng 3. Bảng số liệu về tình hình đóng BHXH của doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại thời điểm tháng 9/2010. Chỉ tiêu Số doanh nghiệp (doanh nghiệp) Tỷ lệ (%) Tham gia BHXH 1139 21 Không tham gia BHXH 4311 79 Tổng số doanh nghiệp 5450 100 (Nguồn thống kê của BHXH tỉnh Thanh Hóa 9/2010)  Bảng 4. Bảng số liệu về số doanh nghiệp tham gia BHXH tại một số địa phương trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa Đơn vị : số doanh nghiệp Đơn vị Doanh nghiệp tham gia BHXH Tổng số doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố Thanh Hóa 602 2084 Thị xã Bỉm Sơn 28 144 Thị xã Sầm Sơn 17 103 (Nguồn thống kê tình hình thu BHXH tỉnh Thanh Hóa tháng 9/2010) Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy được rằng tỷ lệ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tham gia đóng BHXH còn rất ít và chiếm tỷ lệ rất nhỏ (21%) trên tổng số các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Ở một số địa phương được coi là phát triển kinh tế và xã hội hơn trong cả tỉnh như Thành phố Thanh Hóa , thị xã Bỉm Sơn và thị xã Sầm Sơn thì số doanh nghiệp tham gia BHXH cũng không có khác biệt vượt trội ví dụ như tỷ lệ tham gia của các doanh nghiệp tại Thành phố Thanh Hóa chỉ có 28.9% (602/2084 doanh nghiệp) và chỉ cao hơn tỷ lệ chung của cả tỉnh là 7.9%(28.9%-21%). Như vậy có thể đưa ra kết luận răng dù số doanh nghiệp tham gia BHXH có tăng và vẫn tiếp tục tăng qua các năm nhưng tỷ lệ tham gia vẫn còn thấp trên cả địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Đây là một vấn đề đặt ra cần thiết nhất trong công tác quản lý thu BHXH phải làm sao để các doanh nghiệp tham gia BHXH là một bài toán khó đối với công tác thu không chỉ của BHXH tỉnh Thanh Hóa mà của tất cả các địa phương trên cả nước. Chú ý. Số doanh nhiệp ở bảng 4 và bảng 5 là doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn số liệu ở bảng 1 là số liệu về tất cả các cơ quan, đơn vị hoạt đọng trên địa bàn tỉnh.   Ngoài ra, tình trang các đơn vị sử dụng lao động có tham gia đóng BHXH cho người lao động nhưng chủ sử dụng lao động lại chiếm dụng tiền đóng BHXH của người lao động lên tới  2.175 triệu đồng. Trong đó, Công ty cổ phần (CP) Xây dựng K2 (Quảng Xương); Công ty LICOGI 15 và Công ty CP VIGLACERA (Bỉm Sơn) đã thu 6% tiền đóng BHXH, BHYT của người lao động và trích 17% tổng quỹ lương nhưng không nộp cho cơ quan BHXH mà giữ số tiền này đầu tư sản xuất, kinh doanh và làm những việc khác Thống kê tình hình thu BHXH tỉnh Thanh Hóa. .     Phổ biến nhất hiện nay là tình trạng các doanh nghiệp nợ đọng bảo hiểm thời gian dài. Tính đến đầu tháng 9 năm 2010, Thanh Hóa có tới 564 đơn vị nợ đọng gần 90 tỷ đồng tiền đóng BHXH của người lao động. Tình hình nợ đọng BHXH của các cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa theo thống kê tại thời điểm tháng 9/2010 như bảng sau Bảng 6. Bảng số liệu về tình hình nợ đọng BHXH của tỉnh Thanh Hóa tại thời điểm 9/2010 Chỉ tiêu Số lượng (đơn vị) Số tiền nợ đọng (tỷ đồng) Cơ quan hành chính sự nghiệp có hưởng lương từ NSNN 131 21 Doanh nghiệp ( cả quốc doanh và ngoài quốc doanh) 433 60 (Nguồn.thống kê tình hình thu BHXH tỉnh Thanh Hóa tháng 9/2010) Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng số lượng đơn vị nợ đọng BHXH rất lớn. Mặt khác không chỉ có các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh nợ đọng BHXH mà cả các doanh nghiệp quốc doanh và cả những cơ quan hành chính sự nghiệp có hưởng lương từ NSNN cũng nợ đóng BHXH với số nợ lên tới 21 tỷ đồng. Đặc biệt trong số nợ đọng BHXH có những doanh nghệp đã nợ tới 6 tháng và chuyển thành nợ khó đòi. Cụ thể trong số 433 doanh nghiệp nợ hơn 60 tỷ đồng, thì đã có tới 140 doanh nghiệp nợ đọng từ 6 tháng trở lên với gần 30 tỷ đồng danh sách một số công ty, doanh nghiệp nợ BHXH tới 6 tháng thể hiện qua bảng sau: Bảng 7. Danh sách một số công ty nợ BHXH từ 6 tháng trở lên Số thứ tự Công ty, doanh nghiệp Số nợ (triệu đồng) 1 Công ty công nghiệp tàu thủy 2797,8 2 Cty cổ phần khai khoáng luyện kim Thanh Hà 1081 3 Tổng cty xây dựng và thương mại Hưng Đô 100 4 Cty cổ phần sản xuất thương mại và đầu tư Việt Thanh 1345.4 5 Nhà máy Dứa Như Thanh 380 (Nguồn thống kê thu BHXH tỉnh Thanh Hóa tính đến 9/2010) b) Nguyên nhân dẫn đến tồn tại Tình trạng trên đang là vấn đề gây nhiều bức xúc và đẩy hàng ngàn lao động lâm vào cảnh đã khó khăn do thu nhập thấp lại càng khó khăn hơn khi không may gặp rủi ro xảy ra trong cuộc sống hoặc trong quá trình lao động, sản xuất như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, người lao động hết tuổi lao động, lao động mất việc làm... đều không được hưởng quyền lợi về chế độ bảo hiểm theo quy định của pháp luật.   Qua tìm hiểu nguyên nhân trốn, nợ đọng bảo hiểm tại một số đơn vị, được biết: do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế nên việc sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó,  người lao động có thu nhập thấp lại  chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia đóng bảo hiểm nên không có tác động đến người sử dụng lao động yêu cầu họ phải đóng BHXH ... có cả nguyên nhân khách quan và  chủ quan, đó là có nhiều doanh nghiệp đến kỳ quyết toán đóng BHXH cho người lao động nhưng không chịu đóng, tháng sau chồng lên tháng trước. Trong khi, mức tính lãi chậm đóng BHXH đối với các đơn vị, doanh nghiệp vẫn còn thấp hơn so với lãi suất vay ở các ngân hàng. Do đó nhiều đơn vị, doanh nghiệp đã chấp nhận nộp phạt và chiếm dụng tiền BHXH của người lao động để sử dụng vào mục đích khác có lợi cho đơn vị, doanh nghiệp.   Trên thực tế, việc kê khai lao động thuộc diện tham gia đóng BHXH bắt buộc và kê khai tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH, BHTN tại các đơn vị, cơ quan quản lý Nhà nước rất khó kiểm soát. Phần lớn các chủ doanh nghiệp nhận lao động vào làm việc được thỏa ước bằng miệng nhằm mục đích trốn tránh trách nhiệm trích nộp đóng BHXH và dễ dàng chấm dứt hợp đồng lao động khi cần, đồng thời giảm các chi phí bắt buộc cho doanh nghiệp khi chấm dứt hợp đồng theo quy định của Luật Lao động và đối phó khi có thanh tra, kiểm tra về lĩnh vực BHXH. Mặc dù lao động làm việc trong môi trường nặng nhọc, nhưng vì thu nhập thấp và gặp nhiều khó khăn về tài chính để đóng BHXH, BHYT nên nhiều doanh nghiệp dựa vào “điểm yếu” này của người lao động để bao biện cho hành vi chiếm dụng tiền bảo hiểm. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng lại chưa thực sự quan tâm đến chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, quyền lợi của người lao động; chế tài chưa đủ mạnh để xử lý dứt điểm đơn vị vi phạm, cả nể...  Những nguyên nhân trên đã ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của rất nhiều người lao động. Thực tế đã có nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ phải ngừng sản xuất, thậm chí bị phá sản như Công ty Giày Hoàng Long, Nhà máy Chế biến thực phẩm và xuất khẩu Như Thanh (ngừng hoạt động từ quý II năm 2005)… nhưng lại không đóng BHXH và nợ đóng BHXH cho người lao động nên quyền lợi của người lao động không được đảm bảo. Mức phạt tiền đối và các chế tài chưa đủ mạnh chỉ có tối đa là 20 triệu đồng /năm và hiện nay là 30 triệu đồng/ năm khiến doanh nhiệp chưa “thấy sợ” và tự giác tham gia BHXH. Bên cạnh đó, nhiều chủ sử dụng lao động không làm rõ ràng cụ thể hợp đồng lao động, không xây dựng bảng lương, trợ cấp mất việc, quyền lợi của người lao động chưa được giải quyết đầy đủ, vì thế việc căn cứ xét đóng BHXH còn gặp nhiều khó khăn. Sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng trong xử lý vi phạm về trốn đóng nợ đóng BHXH chưa nhịp nhàng, đồng thuận ví dụ như việc phối hợp với ngân hàng nhằm phong tỏa tài khoản của các đơn vị trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng BHXH thực hiện không tốt khi tiến hành phong tỏa thì tài khoản đã không còn tiền. Hiểu biết của người sử dụng lao động về lĩnh vực BHXH chưa cao mặc dù trong thời gian qua công tác tuyên truyền chính sách BHXH của tỉnh Thanh Hóa đã tiến hành thường xuyên. Nhưng tại một số doanh nghiệp khi thnah tra đến kiểm tra tình hình hoạt động thì nhiều chủ sở hữu lao động đã bỏ trốn hoặc chối từ lấy lý do… bận. Hàng trăm DN trốn nợ BHXH kéo theo hàng vạn lao động mất quyền lợi, tạo ra sự thiếu công bằng đối với người lao động. 2.3.2. Đối tượng tham gia BHXH vẫn còn thấp a ) Tồn tại Như đã phân tích tổng số thu được về của BHXH phụ thuộc chủ yếu vào số đối tượng tham gia. Với tình hình của nước ta hiện nay thì việc tăng được số đối tượng tham gia BHXH là một yêu cầu quan rọng của công tác thu BHXH vì tăng đối tượng tham gia dẫn đến tăng số đối tượng phải đóng từ đó số thu về cũng tăng bổ sung nguồn quỹ góp phần cân đối quỹ BHXH. Tuy nhiên trên thực tế đối tượng tham gia BHXH của tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua có tăng nhưng vẫn còn ở mức thấp so với tổng số đối tượng thuộc diện tham gia BHXH trong đó bao gồm cả người lao động và người sử dụng lao động. Đối với người sử dụng lao động như đã phân tích ở mục 2.3.1 thì số doanh nghiệp tham gia BHXH còn quá ít so với tổng số doanh nghệp, cơ quan, tổ chức trên địa bàn tỉnh. Ví dụ như đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ngoài quốc doanh chỉ có 1139 doanh nghiệp tham gia chiếm tỷ lệ là 21% như vậy vẫn còn tơi 79% các doanh nghiệp chưa tham gia BHXH cho người lao động. Mặt khác, không chỉ có các doanh nghiệp ở các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội chưa phát triển không tham gia BHXH cho người lao động mà ngay tại các địa phương có trình độ phát triển cao hơn thì tỷ lệ tham gia vẫn chưa cao cụ thể như tại Thành phố Thanh Hóa cũng chỉ có 602/2084 doanh nhiệp tham gia BHXH chiếm 28.9%. Tại thị xã Bỉm sơn chỉ có 28/144 doanh nghiệp với tỷ lệ là 19.44%. Tại thị xã Sầm Sơn chỉ có 17/ 103 doanh nghiệp tham gia với tỷ lệ là 16.50%. Như vậy có thể khẳng định rằng số doanh nghiệp tham gia BHXH cho người lao động còn quá ít. Việc các doanh nghiệp không tham gia BHXH cho người lao động kéo theo thành phần thứ hai mà là thành phần quan trọng nhất của vi đối tượng tham gia BHXH quyền lợi không được đảm bảo. Đương nhiên số người lao động tham gia BHXH vẫn tăng nhưng hiện tại vẫn còn nhiều lao động không được tham gia BHXH. Hiện tại theo thống kê của BHXH tỉnh Thanh Hóa tính đến tháng 9/2010 thì chỉ có 171751 lao động được tham gia BHXH trên tổng số hơn 1 triệu lao động thuộc diện tham gia BHXHBB trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Riêng đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chỉ có 43806 lao động được tham gia BHXH so với gần 750000 người thuộc diện tham gia. b) Nguyên nhân. Đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng này cho thấy phần lớn các doanh nghiệp không tham gia BHXH cho người lao động là vì chủ yếu các doanh nghiệp này hoạt động với quy mô nhỏ, sử dụng ít lao động và sự hiểu biết của họ về quyền lợi của mình khi tham gia BHXH cho người lao động, mặt khác do cơ quan BHXH cũng không đôn đốc thường xuyên và xử lý mạnh nên dù họ có biết, có hiểu nghĩa vụ của mình là đóng BHXH cho người lao động nhưng vẫn cố tình không tham gia. Cũng như đã phân tích trong phần 2.3.1 thì do chế tài chưa đủ mạnh để xử lý các hiện tượng vi phạm luật BHXH không đóng BHXH cho người lao động. Sự liên kết với các cơ quan chức năng như sở kế hoạch và đầu tư, cơ quan liên ngành về quản lý cac doanh nghiệp vi phạm luật lao động và BHXH ví dụ như không cấp giấy phép hoặc thu hồi giấy phép hoạt động của các doanh nghiệp không tham gia BHXH cho người lao động chưa làm được. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng người lao động được tham gia BHXH với tỷ lệ thấp là vì một phần người lao động chưa hiểu về quyền lợi của mình khi tham gia BHXH bởi vậy khi người sử dụng lao động không đóng BHXH cho mình cũng không có ý kiến. Mặt khác người lao động với mức lương thấp lại phải chi trả cho nhiều vấn đề của cuộc sống, cần có việc làm nên khi các doanh nghiệp bắt ép người lao đọng cũng không dám lên tiếng. Tuy nhiên việc các cơ quan chức năng chưa kiểm tra, phát hiện kịp thời, chưa có chế tài xử lý nghiêm minh cũng tạo ra nhiều lỗ hổng để người sử dụng lao động không tham gia BHXH cho người lao động. 2.3.3. Mức tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH chưa được quản lý chặt chẽ a) Tồn tại Đây là vấn đề nhức nhối mà cơ quan BHXH vẫn loay hoay tìm hướng giải quyết tối ưu vì trên thực tế mức tiền lương tiền công làm căn cứ đóng BHXH của người lao động và tổng quỹ tiền lương tiền công của người lao động dùng để cho người sử dụng lao động đóng bao giờ cũng thấp hơn mức thực tế rất nhiều. Đây là thực trạng chung của công tác quản lý thu trong cả nước. Riêng đối với Thanh Hóa cũng vậy. Một thực trạng đáng báo động là hầu hết các doanh nghiệp đều khai mức tiền lương tiền công làm căn cứ đóng BHXH hấp hơn mức thực tế. Đối với người lao động có quy định là mức tiền lương đóng BHXH là mức tiền lương ghi trên hợp đồng và không được thấp hơn mức lương tối thiểu và không được cao hơn 20 lần tháng lương tối thiểu. Lợi dụng kẽ hở này các doanh nghiệp hoặc là khai mức tiền lương cho người lao động chỉ cao hơn thậm chí là bằng mức lương tối thiểu dùng để đóng BHXH. Người lao động vì lợi ích trước mắt của mình ( phải trích ít tiền lương đóng BHXH) nên cũng không có phản ứng gì. Còn tinh vi hơn nhiều doanh nghiệp đã thực hiện ký kết với người lao động cùng lúc ba hợp đồng lao động nhằm giảm bớt số tiền phải đóng BHXH cho cả người lao động và người sử dụng lao động( vì người sử dụng lao động sẽ đóng tren tổng quỹ tiền lương của người lao động và cũng dựa vào hợp đồng lao động). Trong ba hợp đồng ký kết với người lao động có một hợp đồng là tiền lương thực tế mà doanh nghiệp trả cho người lao động. Một hợp đồng là mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, hợp đồng này số tiền lương trả thường thấp hơn rất nhiều so với mức lương thực tế và thường là cao hơn mức lương tối thiểu một chút( trên thực tế không doanh nghiệp nào trả lương cho người lao động bằng mức lương tối thiểu vì theo điều tra dân số cà xã hội của Thanh Hóa năm 2009 thì mức thu nhập trung bình của người lao động làm việc tại các doanh nghiệp dao động từ 1.5 triệu đồng đến 2 triệu đồng). Hợp đồng còn lại là hợp đồng lao động dùng để đóng thuế, hợp đồng này thường có mức tiền lương tiền công cao hơn mức lương thực tế. Như vậy doanh nghiệp có thể đối phó với cả cơ quan BHXH và cơ quan thuế mà theo hướng có lợi cho mình còn người lao động thì bị thiệt nhưng do lợi ích trước măt và nhận thức về BHXH chưa cao nên không lên tiếng. b) Nguyên nhân. Hiện tượng này không chỉ bất lợi cho cơ quan BHXH mà còn bất lợi cho cả cơ quan thuế. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua sự phối hợp giữa hai cơ quan này để phát hiện tình trạng trên là chưa có bởi vậy các doanh nghiệp vẫn tiếp tục duy trì tình trạng một người lao động có tới ba hợp đồng lao động. Mặt khác, lại liên quan đến chế tài xử phạt vi phạm ở lĩnh vực này chưa rõ ràng còn tạo nhiều kẽ hở cho người sử dụng lao động tìm cách trốn đóng BHXH. Việc quy định mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH có mức tối thấp nhất là bằng tiền lương tối thiểu và theo mức tiền lương, tiền công ghi trên hợp đồng lao động như vậy thì việc làm của doanh nghiệp xét về mặt hình thức không sai và nếu như không có sự phối hợp giữa các cơ quan nhằm phát hiện thực trạng này thì quyền lợi của người lao động mới được đảm bảo và đối với công tác quản lý thu đạt hiệu quả, nắm chắc nguồn thu góp phần cân đối quỹ. Chương III. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH tại tỉnh Thanh Hóa Thu BHXH có vai trò rất quan trọng trong việc bổ sung nguồn quỹ tạo điều kiện để quyền lợi của người tham gia được đảm bảo, mở rộng thêm những quyền lợi mới cho người được tham gia. Tuy nhiên những tồn tại của công tác thu tại Thanh Hóa ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả công tác thu BHXH tại Thanh Hóa. Bởi vậy cần có những giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý thu BHXH. Qua nghiên cứu thực tế ở địa phương và nguyên nhân dẫn những tồn tại của công tác thu BHXH em đưa ra ba nhóm giải pháp chính nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH tại tỉnh Thanh Hóa đó là: Tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh tra kiểm tra và xử lý hiện tượng trốn đóng, nọ đọng và chậm đóng BHXH cũng như vi phạm pháp luật về BHXH; Tạo sự hợp tác liên kết với các cơ quan chức năng, ban ngành để thực hiện tốt công tác quản lý thu BHXH; cuối cùng là đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về BHXH. Sở dĩ em đưa ra ba giải pháp chung cho cả những hạn chế còn tồn tại mà không tách biệt từng giải pháp cho riêng tồn tại là vì nếu xét kỹ nguyên nhân dẫn đến những tồn tại đó thì các tồn tại cùng xuất phát ở một số nguyên nhân như nhau chẳng hạn như do công tác tuyên truyền, do sơ hở của những quy định luật BHXH, do công tác thanh tra, kiểm tra, do chế tài xử phạt…Bởi vậy trong từng giải pháp lớn mà em đưa ra sẽ áp dụng cụ thể cho các trường hợp như thế nào. 3.1. Tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật BHXH Giải pháp này nhằm phát hiện các đơn vị, doanh nghiệp trốn đóng, chậm đóng và nợ đọng BHXH, vi phạm các quy định của pháp luật về BHXH nói chung đồng thời cũng đưa ra những biện pháp mạnh hơn nhằm xử lý các hiện tượng vi phạm pháp luật về BHXH nhằm tăng nguồn thu cho BHXH, đồng thời răn đe các đối tượng khác đang “ trên đường” vi phạm pháp luật về BHXH. Để thực hiện giải pháp này em đưa ra một số biện pháp cụ thể sau: Đẩy mạnh hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra tới các đơn vị, doanh nghiệp nhằm phát hiện kịp thời những doanh nghiệp trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng và mới thành lập mà chưa tham gia BHXH cho người lao động để có tác động kịp thời để hạn chế tối đa hiện tượng trên. Trên thực tế thời gian qua công tác thanh tra kiểm tra trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa cũng đã được tiến hành tuy nhiên còn “ thưa thớt” và thường là theo đợt và số lượng các đoàn thanh tra kiểm tra thường ít bởi vậy nên doanh nghiệp dễ đối phó hơn mặt khác tỷ lệ thanh tra kiểm tra ít thì cũng chậm phát hiện được các doanh nghiệp vi pham hoặc khi phát hiện ra thì đó đã trở thành nợ khó đòi. Bởi vậy trong thời gian sắp tới không chỉ thành lập hai đoàn thanh tra liên ngành như hiện nay mà phải thành lập thêm một số đoàn thanh tra liên nghành tương tự để thực hiện công việc, đồng thời cũng thường xuyên tổ chức thanh tra kiểm tra tới từng đơn vị lao động kể cả những đơn vị lao động vừa và nhỏ vì chính các đơn vị lao động đó lại là đối tượng trốn đóng BHXH nhiều nhất trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa chiếm khoảng 47% trong tổng số các doanh nghiệp trốn đóng BHXH trên địa bàn tỉnh Số liệu thống ke của BHXH Thanh Hóa tháng 9/2020 . Nâng cao chât lượng thanh tra, kiểm tra kiện toàn và nâng cao chất lượng của cán bộ thanh tra kiểm tra về BHXH. Thực tế cho thấy công tác thanh tra, kiểm tra cũng có những bất cập mà chính từ những bất cập này cũng là những nguyên nhân dẫn đến sự tồn tại của những hạn chế trong công tác thu BHXH đó là việc cán bộ thanh tra còn cả nể và chưa dứt khoát còn “ nương tay “ với một số doanh nghiệp vi phạm. Đó là chưa kể có những cán bộ thanh tra vì tư lợi mà nhận phong bì của doanh nghiệp. Hiện tượng này dẫn đến tình trạng doanh nghiệp dù có vi phạm cũng không sợ vì có “tay trong”. Để khắc phục tình trạng này cần chọn lọc những người đủ đức đủ tài để làm công tác thanh tra, kiểm tra. Xử lý nghiêm minh những trường hợp cán bộ thanh tra nhận hối lộ của doanh nghiệp. Làm cho đội ngũ cán bộ thanh tra kiểm tra đủ mạnh để thuwch hiện tốt nhiệm vụ của mình là phát hiện kịp thời các đơn vị vi phạm pháp luật BHXH Cần có chế tài mạnh hơn để xử lý vi phạm pháp luật BHXH, xử lý những đơn vị trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng BHXH. Cụ thể: Nâng cao mức phạt tiền lên nữa.Trên thực tế hiện nay mức xử phạt theo nghị định 86 thì các hình thức xử phạt chính bao gồm cảnh cáo; phạt tiền, trong đó, mức phạt tiền tối đa lên đến 30 triệu đồng; hình thức xử phạt bổ sung gồm tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm Luật Bảo hiểm xã hội. Ngoài ra, tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân tổ chức vi phạm hành chính còn bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Tuy nhiên với mức phạt này vẫn đang còn thấp so với các doanh nghiệp, việc nộp phạt 30 triệu đồng là số tiền không quá lớn với một doanh nghiệp hoạt động bình thường bởi vậy họ sẵn sàng nộp phạt và sẵn sàng không đóng BHXH. Bởi vậy cần nâng cao số tiền phạt hơn nữa mới đủ sức răn đe các đối tượng vi phạm. Nâng cao mức lãi chậm đóng, nợ đóng BHXH. Trên thực tế hiện nay mức lãi chậm đóng, nợ đóng BHXH còn thấp hơn các mức lãi suất ngân hàng. Như vậy cần nâng cao mức lãi suất mà doanh nghiệp phải trả cho hành vi trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng BHXH của mình. Kiện doanh nghiệp ra tòa nếu như mức vi phạm nặng và vi phạm nhiều lần. Quy định này đã có nhưng trên thực tế cả nước chỉ mới có BHXH Thành Phố Hồ Chí Minh là thực hiện, còn BHXH tỉnh Thanh Hóa vẫn chưa thực hiện biện pháp này trong khi biện pháp này có thể coi là mạnh nhất và các doanh nghiệp sợ nhất và cũng được coi là hiệu quả nhất vì khi phải ra hầu tòa doanh nghiệp vừa mất uy tín, vừa ngừng trệ hoạt động và chắc chắn với những chứng cớ thu được thì BHXH sẽ thắng kiện và như thế thì doanh nghiệp sẽ mất thêm một khoản chi phí nữa. Như vậy với sự tác đọng mạnh của biện pháp này thì trong thời gian sắp tới BHXH tỉnh Thanh Hóa nên lập hồ sơ gửi ra tòa để kiện một số doanh nghiệp có số nợ lớn, nợ lâu và trốn đóng BHXH để còn làm gương cho các doanh nghiệp khác. Biện pháp tiếp theo là tước giấy phép kinh doanh của các doanh nghiệp đang hoạt động mà không tham gia BHXH, chậm đóng, nợ đóng BHXH quá dài. Xử lý nghiêm minh các doanh nghiệp vi phạm pháp luật không kể là doanh nghiệp có mức đóng góp vào GDP cao hay có tầm ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Bởi vì có như vậy thì mới làm gương cho các doanh nghiệp khác. Tránh tình trạng cả nể mà nương tay với hững doanh nghiệp như vậy Bên canh việc thanh tra, kiểm tra, xử phạt nghiêm minh các đơn vị vi phạm pháp luật về BHXH thì cơ quan BHXH cũng như các đơn vị chức năng có liên quan cũng phải quan tâm, chăm lo và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển bởi vì một trong những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng BHXH là doanh nghiệp làm ăn không tốt trong khi đa số doanh nghiệp ở Thanh Hóa là Doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cũng phải có quy định về sử phạt hình sự đối với những đơn vị vi phạm luật BHXH có tính nghiêm trọng. Các lĩnh vực khác đều có quy định vè xử lý hình sự riêng đối vơi lĩnh vực vi phạm BHXH thì chưa có trong thời gian tới các cơ quan chức năng nên tìm hiểu và bổ sung hình phạt ở mức hình sự đối với hiện tượng vi pham pháp luật BHH để thể hiện sự nghiêm minh( kiens ngji) Việc thực hiện tốt các biện pháp nêu trên sẽ góp phần hạn chế hiện tượng trốn đóng, chậm đóng, nợ đọng BHXH, hoàn thiện công tác thu BHXH của tỉnh Thanh Hóa. 3.2. Đẩy mạnh sự phối hợp với các bên liên quan BHXH là cơ quan độc lập nhưng không thể hoạt động riêng rẽ mà phải có mới lien hệ với các cơ quan chức năng khác mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Đối vơi công tác thu BHXH cũng vậy. Để hoàn thiện công tác thu hơn nữa phải đẩy mạnh sự phối hợp với các cơ quan khác. Giải pháp này nhằm giải quyết những hạn chế về cách xác định tiền lương tiền công làm căn cứ đóng BHXH, hạn chế tình trạng một lao động làm việc tại một doanh nghiệp có tới ba hợp đồng lao động như sự phối hợp với cơ quan thuế.... Đồng thời cũng là biện pháp để xử lý nghiêm minh các hiện tượng trốn đóng, nợ đóng, chậm đóng BHXH ví dụ như sự phối hợp với tòa án,ngân hàng…, cũng nhằn tăng thêm số người tham gia ví dụ như sự phối hợp với chính quyền địa phương, với công đoàn… Tăng cường phối hợp với cơ quan thuế nhằm khắc phục tình hình một lao động có tới ba hợp đồng lao động. Doanh nghiệp thực hiện chế độ ba hợp đồng lao động với hợp đồng dùng để nộp BHXH thì mức tiền lương tiền công thấp nhằm giảm bớt số tiền đóng BHXH và hợp đồng dùng để đóng thuế với mức tiền lương ghi trên hợp đồng cao. Như vậy giữa cơ quan BHXH và cơ quan thuế cần có một cơ chế liên thông, cả hai bên có thể nối mạng và xem được tài liệu về thu BHXH và thu Thuế khi cần thiết nhằm phát hiện ra việc làm sai của doanh nghiệp. Mặt khác trong thanh tra kiểm tra thì trong đó thành phần cán bộ phải có sự tham gia của hai bên ví dụ thanh tra bên BHXH thifcos cán bộ Thuế và ngược lại. Có như vậy mới kịp thời phát hiện và cùng nhau đưa ra những biện pháp thích hợp cho từng đối tượng vi phạm. Nâng cao hiệu quả của sự phối hợp giữa cơ quan BHXH với Ngân hàng trong trường hợp phong tỏa tài khoản của doanh nghiệp tại ngân hàng. Ngân hàng hoạt động và bảo vệ lợi ích của khách hàng nên khi BHXH yêu cầu phong tỏa tài khoản thì ngân hàng chỉ làm cho có hình thúc chứ thực ra trong tài khoản đã không còn tiền. Bởi vậy công việc của BHXH trong sự phối hợp này là giúp ngân hàng hiểu được lợi ích của nhiều người sẽ được bảo vệ khi có sự hợp tác hiệu quả của các bên. Đẩy mạnh sự phối hợp giữa BHXH và sở Kế hoạch và Đầu tư trong việc cấp và thu hồi giấy phép kinh doanh của các doanh nghiệp, thống kê số doanh nghiệp , số lao động và mức tiền lương tiền công làm căn cứ đóng BHXH. Cũng như đối với cơ quan thuế thì BHXH cũng cần có sự liên thông với sở kế hoạch và dầu tư để có số liệu chính xác về số doanh nghiệp, số lao động từ đó sẽ xác định xem doanh nghiệp nào còn nợ đọng, trốn đóng để cùng với sở kế hoạch đầu tư thu hồi giấy phép kinh doanh tạo nên một chế tài mạnh răn đe các doanh nghiệp. Phối hợp với chính quyền địa phương để cùng với địa phương xác định số doanh nghiệp số lao đông trên địa bàn, để biết chính xác hơn tình hình và đặc điểm của các đối tượng rồi từ đó có biện pháp thích hợp để tác động tới các đối tượng nhằm tăng đối tượng tham gia BHXH. Phối hợp với các cơ quan chức năng và tòa án để xử lý kịp thời và nghiêm minh với các hành vi vi phạm pháp luật BHXH. Đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức công đoàn cơ sở trong các đơn vị, doanh nghiệp nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động; Tăng cường đối thoại giữa doanh nghiệp, địa phương và người lao động để giải tỏa  những vướng mắc trong quá trình tham gia BHXH. Sự phối hợp giữa các cơ quan ban nghành là rất cần thiết tuy nhiên ở BHXH tỉnh Thanh Hóa trong những năm qua vẫn chưa chú trọng đến vấn đề này. Khi sự phối hợp giữa các bên nhịp nhàng thì BHXH tỉnh Thanh Hóa vừa thực hiện tốt hơn công tác quản lý thu BHXH hạn chế được những tồn tại. Mặt khác còn đỡ tốn nhân lực hơn mà hieuj quả lại cao hơn. 3.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền về BHXH Tuyên truyền cho người lao động và người sử dụng lao động hiểu được nghĩa vụ và quyền lợi của mình khi tham gia BHXH là việc làm mà BHXH tỉnh Thanh Hóa vẫn làm trong thời gian qua tuy nhiên ở Thanh Hóa BHXH có một hình thức cố hữu là đến tận nơi để tuyên truyền phổ biến thuyết phục… nhưng chỉ đối với người sử dụng lao động thì lại không. Bởi vậy cần phải tuyên truyền cho cả hai. Nếu cho người sử dụng lao động họ sẽ có ý thức hơn để tham gia BHXH cho người lao động và cho người lao động thì họ sẽ có những tác động đến người sử dụng lao động đòi hỏi họ phải tham gia BHXH cho mình. Liên hệ với công đoàn của công ty, doanh nghiệp để tổ chức những buổi nói chuyện nhằm tuyên truyền và nói cho người lao động hiểu được quyền lợi hợp pháp của mình khi tham gia BHXH nâng cao hiểu biết của người lao động về BHXH. Đối với người sử dụng lao động cũng không ngừng tuyên truyền động viên các đối tượng tham gia BHXH, Bổ sung thêm các hình thức tuyên truyền như phát tờ rơi, tài liệu về BHXH cho người lao động đi kèm theo hướng dẫn, giải quyết kịp thời thắc mắc của đối tượng tham gia. Cũng có thể dùng paolo aphic để tuyên truyền về BHXH cho người lao động. 3.4. Khuyến nghị Các quy định trong luật và văn bản hướng dẫn phải cụ thể hơn nữa. Ví dụ quy định về mức đóng BHXH phải dựa trên mức tiền lương tiền công ghi trên hợp đồng lao động mà mức tiền lương ghi trên hợp đồng lao động lại lấy mức tiền lương thối thiểu làm căn cứ. Chính vì vậy các doanh nghiệp không khó khăn gì khi kê khai số tiền lương, tiền công làm căn cứ đóng BHXH ở mức thấp nhằm trốn được một khoản tiền đóng BHXH. Bởi vậy cần có quy định rõ ràng hơn theo hướng xác định một mức cụ thể cao hơn mức tiền lương tối thiểu vì trên thực tế không một doanh nghiệp nào lại trả lương nhân viên của mình bằng với mức tiền lương tối thiểu. đối với những doanh nghiệp có mức ghi trên hợp đồng lao động bằng mức lương tối thiểu chung hoặc tiền lương quá thấp thiif phải xem xét ngay vì những doanh nghiệp đó nesu không vi phậm pháp luật về BHXH( hiện tượng một lao động mà có 3 hợp đồng) rất có thể là vi phạm pháp luật lao động. Nên giao quyền thanh tra, kiểm ta về BHXH cho cơ quan BHXH. Vì cơ quan BHXH là nơi trực tiếp thực hiện những vấn đề liên quan đến tình hình thực hiện luật BHXH, công tác thu BHXH và cũng là những người chuyên về lĩnh vực BHXH nên sẽ có trách nhiệm, kiến thức và làm việc hiệu quả hơn trong công tác thanh tra kiểm tra. Nâng cao số tiền nộp phạt hơn nữa có thể là quy định một mức cố định mà mức phạt sẽ bằng số tiền cố định đó nhân với phần trăm của số tiền mà đoanh nghiệp không đóng hoặc đóng không dủ, nợ đóng BHXH. Kết luận Trong những năm qua BHXH tỉnh Thanh Hóa đã đạt dược nhiều thành tích trong công tác thu BHXH góp phần thực hiện tốt an sinh xã hội trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa cũng như trong cả nước. Những kết quả đạt được trong công tác thu BHXH những năm qua có thể kể đến đó là tăng dduocj số đối tượng tham gia BHXH, từ đó số thu về tăng làm tăng nguồn quỹ góp phần cân đối quỹ BHXH,mức tiền lương tiền công làm căn cứ đóng BHXH được xác định rõ ràng hơn, đã kịp thời phát hiện và xử lý những doanh nghiệp trón đóng, chậm đóng, nợ đọng BHXH trên toàn tỉnh…Tuy nhiên bên cạnh đó trong những năm qua coongtacs quản lý thu BHXH của Thanh Hóa vẫn còn tồn tại những hạn chế cụ thể đó là về số lượng các đơn vị trốn đóng, nợ đọng, chậm đóng BHXH vẫn còn cao,công tác xác định mức tiền lương tền công căn cứ đóng BHXH vẫn chưa đạt kết quả cao vẫn còn hiện tượng phổ biến là một người lao động có tới ba hợp đồng lao động, số người tham gia bảo hiểm xã hội trên tổng số người thuộc diện tham gia còn thấp. Để góp phần giải quyết những hạn ché trên đồng thời phát huy những mặt đã đặt được của công tác thu BHXH tỉnh Thanh Hóa trong thời gian qua em đã đưa ra ba nhóm giải pháp chính dành cho BHXH tỉnh Thanh Hóa và một số khuyến nghị cho BHXH Việt Nam. Ba nhóm giải pháp đó là: Tiếp tục đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về BHXH mà nổi cộm nhất là hiện tượng trốn đóng, chậm đóng và nợ đọng BHXH. Nhóm giải pháp thứ hai là nâng cao chất lượng của sự phối hợp giữa cơ quan BHXH và các cơ quan chức năng khác nhằm xác định số doanh nghiệp, số lao động trên đia bàn tỉnh đống thời giải quyết vấn đề một người lao động mà có tới ba hợp đồng lao động, phối hợp nhằm có chế tài mạnh hơn để xử lý vi phạm pháp luật về BHXH. Nhóm giải pháp thứ ba về công tác tuyên truyền, ở đây em đã đưa ra những biện pháp tuyên truyền mà hiện tại BHXH tỉnh Thanh Hóa chưa thực hiện. Thanh Hóa, tỉnh có diện tích và dân số đông thứ 3 cả nước, kinh tế xã hội của tỉnh Thanh Hóa đang phát triển và hứa hẹn những tiềm năng, BHXH tỉnh Thanh Hóa cũng vậy đạt được những thành tích là rất quan trọng tuy nhiên vẫn còn tồn tại. Việc thực hiện những nhóm giải pháp đưa ra sẽ giúp BHXH tỉnh Thanh Hóa giải quyết được những tồn tại hiện có. Góp phần đưa công tác thu BHXH đạt hiệu quả. Danh mục tài liệu tham khảo. 1. TS. Dương Xuân Triệu, CN Nguyễn Văn Gia: Giáo trình Quản trị BHXH. Năm 2009 2. Nghị định 86 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực BHXH 3. Luật BHXH năm 2006. 4. Tỉnh Thanh Hóa 5. . Th.s Phạm Trường Giang , bàn về một số nhân tố tác động đến công tác thu BHXH Danh mục từ viết tắt BHXH : Bảo hiểm xã hội BHXHBB : Bảo hiểm xã hội bắt buộc BHXHTN : Bảo hiểm xã hội tự nguyện NSNN : Ngân sách nhà nước Phụ lục Giới thiệu về phần mền quản lý thu BHXH Phần mềm ứng dụng F-SMS Phần mềm quản lý thu BHXH F.SMS (FBsoft - Social Security Management System) là phần mềm ứng dụng trong lĩnh vực quản lý thu  bảo hiểm xã hội. Cấp sổ Bảo hiểm xã hội và cấp thẻ Bảo hiểm y tế.  Mụ Quản lý chặt chẽ qui trình thu bảo hiểm xã hội thống nhất trong toàn hệ thống. Quản lý chặt chẽ qui trình đối chiếu, quyết toán thu với các đơn vị tham gia bảo hiểm xã hội. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu tập trung thống nhất toàn hệ thống. Chia sẻ thông tin cho các bộ phận phòng ban chức năng có liên quan Đặc điểm  F.SMS được thiết kế trên mô hình Client/Server: Giải quyết vấn đề cơ sở dữ liệu lớn. Máy tính chủ (Server): Windows Server 2K Database Server : SQL Server 2K Các trạm làm việc (Workstation): Windows XP/2K  Tính chính xác, nhanh chóng và đồng bộ: Các máy trạm triển khai tại các phòng ban quản lý thu. Số liệu được cập nhật và xử lý kịp thời, đồng bộ thống nhất xuyên suốt trong toàn hệ thống. Các báo cáo, thống kê nhanh chóng, kịp thời tại mọi thời điểm và mang tính chính xác cao nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và giảm thiểu các chi phí không cần thiết.  Tính phân cấp, bảo mật cao: Phân quyền cho mỗi người sử dụng trên từng chức năng của hệ thống. Phân quyền cập nhật và khai thác số liệu trên Database server. Ghi nhận, theo dõi lịch sử cập nhật số liệu.  An toàn dữ liệu: Tiện ích Backup Restore Database tự động theo lịch hẹn. Có nhật ký an ninh theo dõi mọi hoạt động thao tác trên cơ sở dữ liệu.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNew Microsoft Word Document 2.doc