Tài liệu Đề tài Công tác thu bảo hiểm xã hội bắt buộc của khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Bảo hiểm xã hội quận Ba Đình. Thực trạng và giải pháp: LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Đóng vai trò là trụ cột của hệ thống ASXH ở nước ta hiện nay, BHXH đã và đang là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm góp phần ổn định đời sống, kinh tế xã hội. Trải qua 15 năm xây dựng và phát triển, hệ thống BHXH của nước ta đang từng bước được hoàn thiện và phát triển, đảm bảo cuộc sống cho người lao động.
Trong thời gian qua, đối tượng tham gia BHXH ngày càng được mở rộng. Đến nay, tất cả những người lao động trong các ngành nghề, lĩnh vực đều có quyền được tham gia BHXH. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì khối DNNQD đang ngày càng phát triển về số lượng doanh nghiệp và số lao động. Vì vậy, các DNNQD trở thành đối tượng chiếm tỷ trọng lớn và là khối có tiềm năng thu tốt nhất.
Hoạt động của BHXH bao gồm rất nhiều khâu, mỗi khâu đều là một mắt xích quan trọng trong đó thu BHXH là một nghiệp vụ trọng yếu vì nó góp phần hình thành, đảm bảo ổn định và tăng trưởng quỹ; đảm bảo khả năng chi trả cho cả hệ thống. Chính vì vậy, nghiệp vụ...
67 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Công tác thu bảo hiểm xã hội bắt buộc của khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Bảo hiểm xã hội quận Ba Đình. Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
Đóng vai trò là trụ cột của hệ thống ASXH ở nước ta hiện nay, BHXH đã và đang là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm góp phần ổn định đời sống, kinh tế xã hội. Trải qua 15 năm xây dựng và phát triển, hệ thống BHXH của nước ta đang từng bước được hoàn thiện và phát triển, đảm bảo cuộc sống cho người lao động.
Trong thời gian qua, đối tượng tham gia BHXH ngày càng được mở rộng. Đến nay, tất cả những người lao động trong các ngành nghề, lĩnh vực đều có quyền được tham gia BHXH. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thì khối DNNQD đang ngày càng phát triển về số lượng doanh nghiệp và số lao động. Vì vậy, các DNNQD trở thành đối tượng chiếm tỷ trọng lớn và là khối có tiềm năng thu tốt nhất.
Hoạt động của BHXH bao gồm rất nhiều khâu, mỗi khâu đều là một mắt xích quan trọng trong đó thu BHXH là một nghiệp vụ trọng yếu vì nó góp phần hình thành, đảm bảo ổn định và tăng trưởng quỹ; đảm bảo khả năng chi trả cho cả hệ thống. Chính vì vậy, nghiệp vụ thu nói chung và thu ngoài quốc doanh nói riêng luôn được xem là nhiệm vụ trọng tâm của ngành.
Với mong muốn được hiểu biết hơn về công tác thu cũng như thực tế công tác này đang diễn ra tại quận Ba Đình như thế nào, em xin chọn đề tài : "Công tác thu BHXH bắt buộc của khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Bảo hiểm xã hội quận Ba Đình. Thực trạng và giải pháp" làm nội dung nghiên cứu cho bài viết của mình nhằm mục đích phân tích, đánh giá thực trạng công tác công tác thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD ở Quận Ba Đình, từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải quyết nhằm hoàn thiện tốt hơn công tác thu BHXH bắt buộc của khối ngoài quốc doanh tại BHXH Quận Ba Đình.
II. Mục đích nghiên cứu
* Nhận thức một số vấn đề lý luận về thu BHXH trong tình hình hiện nay và tầm quan trọng của công tác thu BHXH nói chung và thu BHXH trong DNNQD nói riêng.
* Đánh giá thực trạng công tác thu BHXH của khối DNNQD tại BHXH quận Ba Đình.
* Đưa ra một số khuyến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác thu BHXH cho khối DNNQD.
II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là cơ sở lý luận và thực tiễn về thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD tại BHXH quận Ba Đình.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được xác định là vấn đề thu BHXH bắt buộc khối DNNQD tại BHXH quận Ba Đình trong giai đoạn 2007 - 2010
III. Nội dung nghiên cứu
Bài viết tập trung vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về thu BHXH , phân tích làm rõ thực trạng thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD tại BHXH quận Ba Đình. Từ đó đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD tại BHXH quận Ba Đình.
IV. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh
- Một số phương pháp khác...
V. Cấu trúc của khóa luận
Bài báo cáo bao gồm 3 phần như sau :
Chương I : Một số vấn đề lý luận chung về công tác thu BHXH
Chương II : Thực trạng công tác thu BHXH bắt buộc của khối
DNNQD tại BHXH Quận Ba Đình.
Chương III : Một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn thành tốt công tác thu BHXH của DNNQD tại cơ quan BHXH Quận Ba Đình.
Do thời gian có hạn và trình độ lý luận, thực tiễn còn hạn chế nên bài viết còn nhiều thiếu sót mong thầy giáo đọc và cho ý kiến để em có thể hoàn thành bài viết này tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG I :
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TÁC THU BHXH
1. Một số khái niệm
1.1 Khái niệm về BHXH
BHXH ra đời từ rất sớm trên thế giới. Ở nước ta do hoàn cảnh chiến tranh, chính sách BHXH xuất hiện muộn hơn. Ngay sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 14/6/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 54/SL về việc cấp hưu bổng cho công chức. Đây là bằng chứng cho sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đến chính sách BHXH và vai trò của chính sách này đối với con người.
Trên bình diện quốc tế, khái niệm chung của ILO về ASXH ( trong Công ước 102, 1952) cũng được sử dụng trong lĩnh vực BHXH. Theo đó, BHXH có thể hiểu khái quát là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua các biện pháp công cộng, nhằm chống lại các khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, TNLĐ, thất nghiệp, thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo các chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Trong ngôn ngữ tiếng Việt, căn cứ vào mục đích của BHXH thì BHXH là hình thức bảo hiểm thu nhập và cung cấp các dịch vụ việc làm, chăm sóc y tế thiết yếu cho người lao động và một số thành viên gia đình họ trong các trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn nghề nghiệp, tàn tật, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp... trên cơ sở đóng quỹ của người tham gia, góp phần đảm bảo ổn định đời sống cho họ và an toàn xã hội.
Tuy nhiên ở Việt Nam, thuật ngữ BHXH thường được sử dụng với nội hàm hẹp hơn. Theo đó, BHXH là sự bảo đảm bù đắp một phần hoặc thay thế toàn bộ thu nhập của người lao động khi bị ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết... trên cơ sở đóng góp và sử dụng một quỹ tài chính tập trung, nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho họ và an toàn xã hội.
Ngày nay, BHXH được nghiên cứu dười nhiều góc độ khác nhau, vì vậy, có thể có nhiều định nghĩa khác nhau về BHXH, chẳng hạn:
- Trong Luật BHXH, thuật ngữ BHXH được hiểu là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH.
- Ở góc độ kiến thức bách khoa, BHXH là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già, tử tuất, dựa trên cơ sở đóng quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH có sự bảo hộ của nhà nước theo pháp luật nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
- Ở góc độ tài chính, BHXH được định nghĩa: là quá trình thành lập và sử dụng quỹ tiền tệ dự trữ của cộng đồng người lao động, có sự bảo trợ của nhà nước, để san sẻ rủi ro, đảm bảo thu nhập cho họ và gia đình trong những trường hợp cần thiết theo quy định của pháp luật.
- Ở góc độ pháp luật, BHXH là một chế độ pháp lý quy định đối tượng, điều kiện, mức độ đảm bảo vật chất và các dịch vụ cần thiết để bảo vệ người lao động và gia đình họ trong các trường hợp bảo hiểm được nhà nước xác định...
Mặc dù xuất phát từ những góc độ khác nhau nhưng đều xem xét BHXH trước hết là một hình thức bảo hiểm nhưng mang tính chất xã hội, hoạt động phi lợi nhuận, có sự bảo hộ của nhà nước, chủ yếu nhằm mục đích đảm bảo thu nhập cho người lao động và an toàn xã hội.
1.2. Khái niệm thu BHXH
Với chức năng cai trị, Nhà nước sử dụng quyền lực của mình thông qua các thể chế chính trị bao gồm các hệ thống pháp luật và các thiết chế chính trị ( các cơ quan quyền lực Nhà nước) để tổ chức thực hiện công tác thu BHXH dưới 2 hình thức bắt buộc và tự nguyện.Tùy theo điều kiện cụt hể của từng đối tượng, Nhà nước quy định cụ thể đối tượng nào thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc thì đối tượng đó phải đóng BHXH theo quy định, còn đối tượng nào thuộc diện tự nguyện thì đối tượng đó được quyền lựa chọn, cân nhắc các chế độ BHXH, cân nhắc mức đóng, mức hưởng trước khi tham gia. Khi đã tham gia, tất cả các đối tượng tự nguyện hay bắt buộc đều phải tuân thủ những quy định của Nhà nước về mức đóng, thời gian đóng và điều kiện hưởng chế độ BHXH. Thu BHXH luôn gắn liền với quyền lực của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật. Vì vậy ta có thể hiểu:
Thu BHXH là việc nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc các đối tượng tham gia phải đóng BHXH theo mức phí quy định hoặc cho phép
những đối tượng tự nguyện tham gia được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình. Trên cơ sở đó hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích đảm bảo cho việc chi trả các chế độ BHXH và hoạt động của tổ chức sự nghiệp BHXH
Thu BHXH thực chất là quá trình phân phối lại một phần thu nhập của các đối tượng tham gia BHXH, phân phối và phân phối lại một phần của cải xã hội dưới dạng giá trị nhằm giải quyết hài hòa các mặt lợi ích xã hội, góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
1.3 Khái niệm thu BHXH của DNNQD
1.3.1. Khái niệm về DNNQD và thành phần kinh tế của DNNQD
1.3.1.1. Khái niệm
Theo Luật DN Nhà nước được Quốc Hội khóa IX kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 20/04/1995, luật DN sửa đổi được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 12/06/1999 và luật khuyến khích đầu tư trong nước được Quốc Hội khóa IX kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 22/06/1994 có quy định : "Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh".
Kinh doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Các DNNQD là toàn bộ các đơn vị sản xuất kinh doanh tư nhân của tư nhân đứng ra thành lập, đầu tư kinh doanh và tổ chức quản lý.
1.3.1.2. Các thành phần kinh tế của DNNQD
Các DNNQD bao gồm:
- DN tư nhân
- Các công ty
+ CTCP
+ CTTNHH
+ Công ty hợp danh
+ DN có vốn đầu tư nước ngoài
+ Doanh nghiệp tập thể, đoàn thể
Đây là các loại hình đơn vị sản xuất kinh doanh cơ bản cấu thành nên khối DNNQD nhưng trong phạm vi khóa luận này em chỉ xin đề cập đến các khối doanh nghiệp là CTCP, CTTNHH, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân.
Công ty Cổ phần
Có thể khái quát một số đặc trưng cơ bản sau về CTCP:
- CTCP là loại hình doanh nghiệp có tư cách pháp nhân độc lập. Đây là loại hình công ty có tính tổ chức cao, hoàn thiện về vốn, hoạt động mang tính chất xã hội hóa cao.
- CTCP chỉ chịu trách nhiệm đối với mọi khoản nợ bằng tài sản riêng của công ty. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- Vốn điều lệ trong CTCP được chia ra làm nhiều phần bằng nhau gọi là CP. Trong quá trình hoạt động, CTCP có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để công khai huy động vốn.
- CTCP có số lượng thành viên rất đông. Có CTCP có tới hàng vạn cổ đông ở hầu khắp các nước trên thế giới, vì vậy khả năng huy động vốn rộng rãi nhất trong công chúng để đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, nhất là trong công nghiệp.
Doanh nghiệp tư nhân
Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của Doanh nghiệp.
Công ty Trách nhiệm hữu hạn
Xét về mặt bản chất, CTTNHH có những đặc trưng cơ bản sau:
- Là một pháp nhân độc lập, địa vị pháp lý này quyết định chế độ trách nhiệm của công ty.
- Thành viên công ty không nhiều và thường là người quen biết nhau.
- Vốn điều lệ chia thành nhiều phần, mỗi thành viên có thể góp nhiều, ít khác nhau và bắt buộc phải góp đủ khi thành lập công ty. Trong điều lệ công ty phải ghi rõ số vốn ban đầu. Nếu khi thành lập công ty mà các thành viên chưa góp đủ phần vốn thì công ty bị coi là vô hiệu.
- Phần vốn góp không thể hiện dưới hình thức cổ phiếu và rất khó chuyển nhượng ra bên ngoài.
- Trong quá trình hoạt động, CTTNHH không được phép công khai huy động vốn trong công chúng ( Không được phép phát hành cổ phiếu).
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Theo luật Đầu tư 2005 thì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam hoặc là doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần, sáp nhập, mua lại.
1.3.2 Khái niệm thu BHXH của DNNQD
Thu BHXH của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là việc nhà nước dùng quyền lực của mình bắt buộc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải đóng BHXH theo mức phí quy định. Trên cơ sở đó hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm mục đích đảm bảo cho việc chi trả các chế độ BHXH và hoạt động của tổ chức sự nghiệp BHXH.
2. Vai trò của thu BHXH
Thu BHXH là một hoạt động rất quan trọng đối với quỹ BHXH nói riêng và hoạt động của hệ thống BHXH nói chung. Thu BHXH là nhân tố có tính chất quyết định đến sự tồn tại, phát triển của BHXH của bất kỳ một quốc gia nào. Vai trò quan trọng của thu BHXH thể hiện trong những điểm sau :
- Công tác thu là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH nhằm bảo đảm nguồn quỹ độc lập, công tác thu được thực hiện ở 2 cấp: cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và cấp quận, huyện, thị xã. Công tác thu được thực hiện thường xuyên, hằng tháng có vai trò đảm bảo cho quỹ BHXH được độc lập, thống nhất từ địa phương lên trung ương.
- Công tác thu là một điều kiện cần và đủ cùng tạo lập để thực hiện tốt chính sách BHXH. Công tác thu là bước khởi đầu cho hoạt động quỹ BHXH, có thu mới có chi chế độ và chi cho hoạt động sự nghiệp BHXH diễn ra dễ dàng, không có công tác thu thì không thể thực hiện được các chính sách BHXH.
- Công tác thu vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về một mối, vừa đóng vai trò như một công cụ thanh kiểm tra số lượng người tham gia BHXH ở từng khối lao động, cơ quan, đơn vị ở từng địa phương hoặc trên phạm vi toàn quốc. Thực hiện được công tác thu từ đó rà soát được số lượng người tham gia, kiểm tra được nhiều nội dung khác nhau như tiền lương, tiền công, sự biến động các nội dung đó. Từ đó phát hiện ra các sai phạm và xử lý kịp thời, nghiêm minh.
- Hoạt động của công tác thu BHXH hiện tại ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi và quá trình thực hiện chính sách BHXH trong tương lai. Nguyên tắc hoạt động của BHXH là có đóng có hưởng, vì thế thu là một phần quan trọng trong hoạt động BHXH. Có thu mới có nguồn để chi trả chế độ BHXH, BHXH mới có thể phát huy được vai trò của mình đối với người lao động khi họ gặp phải những rủi ro. Có thu thì mới có nguồn để duy trì hoạt động của cả hệ thống BHXH.
- Công tác thu còn là một điều kiện để duy trì ổn định mức đóng cho người lao động và người sử dụng lao động. Thu BHXH được làm tốt, ít đối tượng trốn đóng thì sẽ đảm bảo nguồn quỹ, thu đủ chi. Như vậy mức đóng của người lao động và người sử dụng lao động sẽ không phải tăng lên.
- Công tác thu có vai trò rất quan trọng đối với quỹ BHXH. Quỹ BHXH được hình thành trên cơ sở đóng góp của các đối tượng tham gia. Nếu công tác thu không được thực hiện tốt thì sẽ không đảm bảo được nguồn quỹ, thu không đủ chi. Quỹ BHXH cần đảm bảo đủ lớn và đảm bảo tính bền vững để cân đối trong thời gian dài từ 30 - 40 năm, tính cụ thể với một người nghĩa là từ khi tham gia đến khi hưởng và chết, nếu công tác thu không được thực hiện tốt thì nguy cơ vỡ quỹ có thể xảy ra.
- Việc thực hiện tốt công tác thu sẽ tạo điều kiện cho Quỹ BHXH tăng trưởng. Số thu nhiều làm cho số tiền nhàn rỗi trong quỹ tăng lên. Số tiền này có thể được đem đi đầu tư, sinh lãi làm tăng trưởng quỹ BHXH, đảm bảo sự tồn tại bền vững của quỹ.
3. Nội dung thu BHXH
3.1. Đối tượng tham gia BHXH
Theo khoản 1 và 2 Điều 2 Luật BHXH Việt Nam,
1. Người tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, bao gồm:
Người làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên.
a) Cán bộ công chức viên chức
b) Công nhân quốc phòng, công nhân công an
c) Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân
d) Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đống BHXH bắt buộc.
2. Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, các tổ chức khác và có thuê mướn , sử dụng và trả công cho người lao động.
3.2. Mức đóng và phương thức đóng
* Theo Điều 91 và 92 Luật BHXH.
* Điều 91: Mức đóng và phương thức đóng của người lao động
1. Hằng tháng, người lao động quy định tại các điểm a, b, c, d khoản 1 điều 2 của Luật này đóng bằng 5 % mức tiền lương, tiền công vào quỹ hưu trí, tử tuất; từ năm 2010 trở đi, cứ 2 năm một lần đóng thêm 1% cho đến khi đạt mức đóng là 8%.
2. Người lao động hưởng tiền lương, tiền công theo chu kỳ sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thì mức đóng BHXH hằng tháng theo quy định tại khoản 1 điều này; phương thức đóng được thực hiện hàng tháng, hàng quý hoặc sáu tháng.
3. Mức đóng và phương thức đóng của người lao động quy định tại điểm e khoản 1 Điều 2 của Luật này do Chính phủ quy định.
* Điều 92 : Mức đóng và phương thức đóng của người sử dụng lao động
1. Hàng tháng, người sử dụng lao động đóng trên quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH của người lao động quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 2 của Luật này như sau.
a) 3% vào quỹ ốm đau, thai sản; trong đó người sử dụng lao động giữ lại 2% để trả kịp thời cho người lao động đủ điều kiện hưởng chế độ và thực hiện quyết toán hằng quý với tổ chức BHXH
b) 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
c) 11% vào quỹ hưu trí, tử tuất, từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 1%, cho đến khi đạt mức đóng là 14%
2. Hàng tháng, người sử dụng lao động đóng trên mức lương tối thiểu chung đối với mỗi người lao động quy định tại điểm d khoản 1 Điều 2 của Luật này, như sau :
a) 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
b) 16% vào quỹ hưu trí, tử tuât; từ năm 2010 trở đi, cứ hai năm một lần đóng thêm 2% cho đến khi đạt mức đóng là 22%.
3. Người sử dụng lao động thuộc các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp trả lương theo chu kỳ sản xuất kinh doanh thì mức đóng hàng tháng theo quy định tại khoản 1 Điều này; phương thức đóng được thực hiện hàng tháng, hàng quý hoặc sáu tháng một lần.
* Theo Luật BHYT hiện nay (Nghị địnhh 62/2009/NĐ - CP):
Đối tượng
1. Người lao động làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn, HĐLĐ có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên theo quy định của pháp luật về lao động; người lao động là người quản lý doanh nghiệp hưởng tiền lương, tiền công theo quy định của pháp luật về tiền lương, tiền công; cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật .
2. Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn, kỹ thuật đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân.
Đóng 4,5% trên mức tiền lương, tiền công hàng tháng của người lao động.
* Phương thức đóng BHXH dựa trên một số nguyên tắc sau:
- Hàng tháng, chậm nhất vào ngày cuối cùng của tháng, người sử dụng lao động đóng BHXH, trên quỹ tiền lương, tiền công của những người lao động tham gia BHXH; đồng thời trích từ tiền lương, tiền công của từng người lao động theo mức quy định để đóng cùng một lúc vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH mở tại ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.
- Hàng tháng, người sử dụng lao động giữ lại 2% số phải nộp vào quỹ ốm đau, thai sản để chi trả kịp thời 2 chế độ ốm đau, thai sản cho người lao động. Hàng quý thực hiện quyết toán với cơ quan BHXH, trường hợp quyết toán nhỏ hơn số tiền giữ lại thì người sử dụng lao động phải nộp số chênh lệch này vào tháng đầu của quý sau.
- Người sử dụng lao động tham gia BHXH đóng trụ sở ở địa bàn nào thì đăng ký tham gia đóng BHXH tại địa bàn đó theo phân cấp của cơ quan BHXH. Trường hợp đơn vị không có tư cách pháp nhân, không có tài khoản, con dấu riêng thì đóng theo đơn vị quản lý cấp trên.
- Người sử dụng lao động đóng BHXH bằng hình thức chuyển khoản. Trường hợp người sử dụng lao động hoặc người lao động đóng BHXH bằng tiền mặt thì cơ quan BHXH phải hướng dẫn thủ tục nộp tiền
vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH. Nếu người sử dụng lao động hoặc người lao động nộp tiền mặt trực tiếp tại cơ quan BHXH thì chậm nhất sau 3 ngày làm việc, cơ quan BHXH phải nộp tiền vào tài khoản chuyên thu mở tại ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.
- Người lao động được cử đi học, thực tập, công tác, nghiên cứu, đi điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc sinh hoạt phí ở đơn vị trước khi được cử đi thì vẫn phải đóng BHXH; người lao động hợp đồng ở nhiều đơn vị tại một thời điểm thì chỉ đăng ký đóng BHXH theo một HĐLĐ.
- Số tiền đóng BHXH trong kỳ được tính đủ số tiền BHXH và số tiền lãi do chậm đóng, đóng thiếu (nếu có).
Cơ quan BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ đóng BHXH cho người lao động, kể cả người lao động làm việc theo HĐLĐ trong các doanh nghiệp thuộc lực lượng vũ trang, trực tiếp vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH Việt Nam mở tại Kho bạc Nhà nước Trung ương.
Người sử dụng lao động là các doanh nghiệp sản xuất (nuôi cấy, trồng trọt) thuộc ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp thực hiện chi trả tiền lương, tiền công cho người lao động theo mùa vụ hoặc theo chu kỳ có thể đóng BHXH theo quý hoặc 6 tháng một lần nhưng phải xuất trình phương án sản xuất và phương thức trả lương cho người lao động để cơ quan BHXH có căn cứ giải quyết.
Hộ cá thể, tổ hợp tác, cá nhân có thuê mướn trả công cho người lao động, sử dụng dưới 10 lao đông có thể đóng BHXH theo quý nhưng phải đăng ký và được sự chấp thuận của cơ quan BHXH.
Người lao động đi làm việc ở nước ngoài đóng BHXH theo quý, 6 tháng hoặc 12 tháng một lần hoặc có thể đóng trước một lần theo thời hạn hợp đồng; người sử dụng lao động thu, nộp BHXH cho người lao động và đăng ký phương thức đóng với cơ quan BHXH hoặc người lao động đóng thông qua người sử dụng lao động đã tham gia BHXH trước đó hoặc đóng trực tiếp tại cơ quan BHXH nơi người lao động cư trú trước khi đi làm việc ở nước ngoài. Trường hợp người lao động được gia hạn hợp đồng hoặc ký hợp đồng mới tại nước tiếp nhận lao động thì thực hiện đóng BHXH theo quy định này hoặc truy đóng cho cơ quan BHXH sau khi về nước.
Trường hợp tạm dừng đóng BHXH vào quỹ hưu trí và tử tuất (nếu bảo đảm đủ điều kiện quy định) thì trong thời gian tạm dừng đóng này, đơn vị vẫn phải đóng đủ số tiền vòa các quỹ ốm đau và thai sản, quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Người lao động nghỉ việc từ 14 ngày trở lên trong tháng vì ốm đau thì cả người sử dụng lao động và người lao động không phải đóng BHXH tháng đó. Thời gian này không được tính là thời gian đóng BHXH.
Thời gian người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản được tính là thời gian đóng BHXH. Thời gian này người lao động và người sử dụng lao động không phải đóng BHXH.
Truy đóng BHXH: Các trường hợp không đóng BHXH, đóng không đúng thời gian quy định, đóng không đúng mức quy định và đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc thì phải bị truy đóng BHXH. Trong trường hợp này, người sử dụng lao động lập "Danh sách truy đóng BHXH, BHYT bắt buộc" và công văn gửi kèm theo các hồ sơ liên quan của người lao động gửi đến cơ quan BHXH. Cơ quan BHXH tiếp nhận hồ sơ, tiến hành kiểm tra, xác định số tiền phải truy đóng, mức truy đóng tính theo tiền lương, tiền công và mức lương tối thiểu tại thời điểm đóng. Số tiền BHXH phải truy đóng được nộp vào quỹ BHXH mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.
* Cũng theo điều 94 Luật BHXH quy định về tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH :
1. Người lao động thuộc đối tượng thực hiện chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHXH là tiền lương theo ngạch, bậc, cấp bấc quân hàm và các khoản phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp thâm niên nghề (nếu có). Tiền lương này tính trên cơ sở mức lương tối thiểu chung
2. Đối với người lao động đóng BHXH theo quy định chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định thì tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH là mức tiền lương, tiền công ghi trong HĐLĐ.
3. Trường hợp mức tiền lương, tiền công quy định tại khoản 1 và 2 điều này cao hơn 20 tháng lương tối thiểu chung thì mức tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH bằng 20 tháng lương tối thiểu chung.
3.3. Tổ chức thu BHXH.
3.3.1. Phân cấp thu
BHXH Việt Nam: Chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra tình hình thực hiện công tác quản lý thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT trong toàn ngành bao gồm cả BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ. Xác định mức lãi suất bình quân trong năm của hoạt động đầu tư quỹ BHXH và thông báo cho BHXH tỉnh.
BHXH tỉnh :
- Căn cứ tình hình thực tế của địa phương để phân cấp quản lý thu BHXH, BHYT cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ.
- Xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu liên quan đến người lao động tham gia BHXH, BHYT trên địa bàn tỉnh.
- Xây dựng kế hoạch và hướng dẫn, kiểm tra tình hình thực hiện công tác thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT theo phân cấp quản lý và quyết toán số tiền thu BHXH,, BHYT đối với BHXH huyện theo định kỳ quý, 6 tháng, năm và lập "Biên bản thẩm định số liệu thu BHXH, BHYT bắt buộc" (Mẫu số 12 - TBH).
BHXH huyện: Tổ chức, hướng dẫn thực hiện thu BHXH, BHYT; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT đối với người sử dụng lao động và người lao động theo phân cấp quản lý.
BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ: Trực tiếp thu BHXH, cấp sổ BHXH đối với người lao động do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ quản lý; xây dựng kế hoạch thu và báo cáo quyết toán thu BHXH, cấp sổ BHXH hàng năm với cơ quan BHXH Việt Nam.
3.3.2. Lập và giao kế hoạch thu hàng năm
BHXH huyện: Căn cứ tình hình thực hiện năm trước và khả năng mở rộng người lao động tham gia BHXH. BHYT trên địa bàn, lập 02 bản "Kế hoạch thu BHXH, BHYT bắt buộc" năm sau ( Mẫu số 13 - TBH ), gửi 01 bản đến BHXH tỉnh trước ngày 05/11 hàng năm.
BHXH tỉnh:
- Lập 02 bàn dự toán thu BHXH, BHYT đối với người sử dụng lao động do tỉnh quản lý, đồng thời tổng hợp toàn tỉnh, lập 02 bản "Kế hoạch thu BHXH, BHYT bắt buộc" năm sau ( Mẫu số 13 - TBH ), gửi BHXH Việt Nam 01 bản trước ngày 15/11 hàng năm.
- Căn cứ dự toán thu của BHXH Việt Nam, tiến hành phân bổ dự toán thu BHXH, BHYT cho các đơn vị trực thuộc BHXH tỉnh và BHXH huyện trước ngày 20/02 hàng năm.
3.3.3. Quy trình thu
* Đối với các đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH, BHYT lần đầu.
Cơ quan BHXH tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra số lương, tính hợp pháp của các loại giấy tờ, đối chiếu với hồ sơ của người lao động; ghi mã số quản lý đơn vị và từng người lao động trên danh sách và Tờ khai tham gia BHXH bắt buộc (mã đơn vị và người lao động ghi theo quy định của BHXH Việt Nam). Trường hợp hồ sơ chưa đủ, cơ quan BHXH phải hướng dẫn cụ thể để đơn vị hoàn thiện.
Ký, đóng dấu vào “Danh sách lao động tham gia BHXH, BHYT bắt buộc” (Mẫu số 02a – TBH); trong thời gian không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ phải trả lại đơn vị 01 bản Danh sách để đơn vị thực hiện đóng BHXH, BHYT, cơ quan BHXH lưu 01 bản Danh sách; riêng 03 Tờ khai ( Mẫu số 01 – TBH ) của người lao động sau khi cấp sổ BHXH hoàn chỉnh thì trả lại đơn vị 02 bản Tờ khai cùng với sổ BHXH.
* Đối với đơn vị sử dụng lao động đang tham gia BHXH, BHYT
- Trường hợp tăng, giảm lao động hoặc thay đổi căn cứ đóng BHXH, BHYT trong tháng.
Người sử dụng lao động lập 02 bản “Danh sách điều chỉnh lao động và mức đóng BHXH, BHYT bắt buộc” (Mẫu số 03 - TBH) kèm theo hồ sơ: Tờ khai, quyết định tuyển dụng, thuyên chuyển, nghỉ việc, thôi việc hoặc hợp đồng lao động, quyết định tăng giảm lương, thẻ BHYT (nếu có), nộp cơ quan BHXH trước ngày 20 của tháng. Trường hợp tăng giảm từ ngày 16 của tháng trở đi thì lập danh sách và thực hiện vào tháng kế tiếp.
Cơ quan BHXH tiếp nhận, kiểm tra, thẩm định hồ sơ, ký, đóng dấu vào danh sách lao động tham gia BHXH, BHYT; các Tờ khai (nếu có), thông báo cho đơn vị đóng BHXH, BHYT; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT kịp thời cho người lao động
- Trường hợp đơn vị sử dụng lao động chuyển địa bàn tỉnh này sang tỉnh khác phải xuất trình hồ sơ kèm theo “Danh sách điều chỉnh lao động và mức đóng BHXH, BHYT bắt buộc" (Mẫu số 03 - TBH); đóng đủ dấu BHXH, BHYT cho người lao động đến thời điểm di chuyển; cơ quan
BHXH tỉnh nơi đi xác nhận sổ BHXH cho người lao động; người sử dụng lao động đăng ký tham gia BHXH, BHYT lần đầu.
- Trường hợp đơn vị sử dụng lao động thay đổi pháp nhân, chuyển quyền sở hữu; sáp nhập hoặc giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật phải thông báo bằng văn bản cho quan BHXH và đóng đủ BHXH cho người lao động đến thời điểm thay đổi. Cơ quan BHXH xác nhận sổ BHXH cho người lao động theo nguyên tắc đóng đến thời điểm nào thì xác nhận đến thời điểm đó.
3.3.4. Quản lý tiền thu.
BHXH tỉnh và BHXH huyện không được sử dụng tiền thu BHXH, BHYT vào bất cứ mục đích gì (trường hợp đặc biệt phải được Tổng Giám độc BHXH Việt Nam chấp thuận bằng văn bản ).
Hàng quý, BHXH tỉnh ( Phòng Kế hoạch – Tài chính ) và BHXH huyện có trách nhiệm quyết toán số tiền 2% đơn vị được giữ lại, xác định số tiền chênh lệch thừa, thiếu; đồng thời gửi thông báo quyết toán cho Phòng thu hoặc Bộ phận Thu để thực hiện thu kịp thời số tiền người sử dụng lao động chưa chi hết vào tháng đầu của quý sau.
BHXH Việt Nam thẩm định số thu BHXH, BHYT định kỳ 6 tháng hoặc hàng năm đối với BHXH tỉnh, BHXH thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ.
3.3.5. Thông tin báo cáo thu.
BHXH tỉnh, huyện: Mở sổ chi tiết thu BHXH, BHYT bắt buộc ( Mẫu số 07 – TBH ); thực hiện ghi sổ BHXH theo hướng dẫn sử dụng biểu mẫu BHXH tỉnh, huyện: Thực hiện chế độ báo cáo tình hình thu BHXH, BHYT bắt buộc ( Mẫu số 09, 10, 11 - TBH ) định kỳ tháng, quý, năm như sau :
+ BHXH huyện : Báo cáo tháng trước ngày 22 hàng tháng; báo cáo quý trước ngày 20 hàng tháng đầu của quý sau.
+ BHXH tỉnh : Báo cáo tháng trước ngày 25 hàng tháng; báo cáo quý trước ngày cuối tháng của tháng đầu quý sau.
BHXH Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ: Thực hiện báo cáo thu BHXH 6 tháng đầu năm trước ngày 30/07 và báo cáo năm trước ngày 15/02 năm sau.
3.3.6. Quản lý hồ sơ, tài liệu thu.
BHXH tỉnh, huyện: Cập nhật thông tin, dữ liệu của người tham gia BHXH, BHYT để phục vụ kịp thời cho công tác nghiệp vụ và quản lý.
BHXH tỉnh: Xây dựng hệ thống mã số đơn vị tham gia BHXH áp dụng trong địa bàn theo hướng dẫn của BHXH Việt Nam. Mã số tham gia BHXH cấp cho đơn vị để đăng ký tham gia BHXH được sử dụng thống nhất trên hồ sơ, giấy tờ, sổ sách và báo cáo nghiệp vụ.
BHXH các cấp: Tổ chức phân loại, lưu trữ và bảo quản hồ sơ, tài liệu thu BHXH, BHYT đảm bảo khoa học để thuận tiện khai thác, sử dụng. Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin để quản lý người tham gia BHXH, BHYT, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT cho người tham gia BHXH, BHYT bắt buộc.
3.3.7. Truy thu
* Các trường hợp phải truy đóng:
- Không đóng BHXH
- Đóng không đúng thời gian quy định
- Đóng không đúng mức quy định
- Đóng không đủ số người thuộc diên tham gia BHXH bắt buộc
- Người lao động sau thời gian làm việc theo HĐLĐ có thời hạn dưới 3 tháng, khi hết hạn HĐLĐ mà vẫn tiếp tục làm việc hoặc ký HĐLĐ mới với đơn vị đó thì thời gian làm việc theo HĐLĐ trước đó phải truy đóng BHXH, BHYT
* Điều kiện truy đóng:
Người lao động là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc; có tên trong danh sách lao động, tiền lương của đơn vị và có đủ hồ sơ liên quan đến thời gian truy đóng BHXH.
* Thủ tục truy đóng :
- Người sử dụng lao động: Lập "Danh sách điều chỉnh lao động và mức đóng BHXH, BHYT bắt buộc" (Mẫu số 03a-TBH) và công văn kèm theo các hồ sơ liên quan của người lao động gửi cơ quan BHXH.
- Cơ quan BHXH: tiếp nhận hồ sơ, tiến hành kiểm tra, xác định số tiền phải truy đóng, mức truy đóng là 22% BHXH và 4,5% BHYT (nếu có) tính theo tiền lương, tiền công và mức lương tối thiểu tại thời điểm đóng.
* Trong thời gian phải truy đóng nếu người lao động bị ốm đau, thai sản, TNLĐ và có khám bệnh thì người sử dụng lao động phải chịu trách nhiệm bồi hoàn chi phí cho người lao động.
* Số tiền BHXH, BHYT phải truy đóng được nộp vào quỹ BHXH mở tại Ngân hàng hoặc Kho bạc Nhà nước.
* Phân cấp giải quyết:
Các trường hợp truy đóng BHXH, BHYT do BHXH tỉnh giải quyết. BHXH tỉnh sẽ phân cấp lại cho các BHXH quận huyện. Trừ trường hợp truy đóng để cộng nối thời gian tham gia BHXH trước 01/01/1995 thì phải có ý kiến bằng văn bản của BHXH Việt Nam.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác thu BHXH nói chung và công tác thu BHXH ở DNNQD nói riêng
4.1. Chính sách tiền lương
Giữa chính sách tiền lương và chính sách BHXH nói cung và công tác thu BHXH nói riêng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chính sách tiền lương là tiền đề cho việc thực hiện chính sách BHXH, bởi vì cơ sở để tính toán mức đóng và hưởng BHXH của chúng ta hiện nay là phụ thuộc vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Như vậy, khi Nhà nước nâng lương tối thiểu, điều đó đồng nghĩa với việc tăng mức đóng BHXH và đương nhiên số thu BHXH cũng tăng lên. Thêm vào đó, đối với các lao động đóng BHXH theo thang bảng lương của Nhà nước quy định, mức đóng còn phụ thuộc vào hệ số lương, vì thế khi Nhà nước điều chỉnh lại thang bảng lương thì mức đóng BHXH cũng tăng lên.
Các DNNQD cũng chịu ảnh hưởng rất lớn của chính sách tiền lương của Nhà nước. DNNQD là các doanh nghiệp không có sự tham gia của Nhà nước và thường đặt lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của việc kinh doanh. Do vậy họ thường quan tâm đến lợi ích của cá nhân hơn là lợi ích của người lao động. Nếu như Nhà nước không có các quy định về tiền lương, tiền công thì người lao động sẽ phải chịu thiệt thòi. Một đặc trưng của tiền lương là có mối quan hệ thuận với mức tăng lợi nhuận, tăng năng suất lao động xét trong phạm vi từng doanh nghiệp.Nếu doanh nghiệp không ăn nên làm ra thì sẽ không tăng lương cho người lao động. Trong khi đó, cuộc sống của người lao động hiện nay chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như giá cả sinh hoạt tăng, lạm phát. Tình trạng này cũng khiến cho doanh nghiệp làm ăn khó khăn hơn. Như vậy nếu không có chính sách tiền lương của
Nhà nước quy định về việc tăng lương để đảm bảo đời sống cho người lao động thì doanh nghiệp sẽ chỉ trả một mức lương thấp để đảm bảo lợi nhuận và người lao động sẽ phải chịu thiệt thòi. Và khi doanh nghiệp không tăng lương cho người lao động thì BHXH cũng không thể tăng mức thu của mình. Bên cạnh đó, chính sách tiền lương loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng, chống lại xu hướng giảm chi phí đến mức không thỏa đáng trong đó có tiền lương. Luật tiền lương tối thiểu buộc các giới chủ doanh nghiệp phải tìm mọi cách khác để giảm chi phí và tăng hiệu quả của sản xuất kinh doanh. Khi công việc kinh doanh gặp khó khăn, lợi nhuận giảm đi thì chủ doanh nghiệp sẽ có xu hướng giảm tiền lương để giảm thiểu chi phí duy trì lợi nhuận vì tiền lương là một trong những chi phí lớn của doanh nghiệp. Tuy nhiên Luật tiền lương tối thiểu không cho phép họ làm như vậy vì theo Luật mức lương mà người sử dụng lao động trả cho người lao động phải lớn hơn hoặc bằng mức lương tối thiểu mà Nhà nước quy định. Do đó chính sách tiền lương sẽ là công cụ bảo vệ quyền lợi của người lao động. Điều này đồng nghĩa với việc mức thu BHXH sẽ được duy trì, đảm bảo chất lượng của công tác thu.
4.2. Cơ cấu dân số
Người lao động là đối tượng tham gia BHXH, đang trong độ tuổi lao động, trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Như vậy, nếu một quốc gia có dân số già tức là số người trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ thấp trong tổng dân số sẽ dẫn đến việc mất cân đối quỹ BHXH. Vì số người tham gia đóng góp vào quỹ sẽ ngày càng ít trong khi số người hưởng các chế độ BHXH đặc biệt là hưu trí sẽ ngày càng tăng. Như vậy, khi dân số già đi, số thu BHXH sẽ ngày càng giảm đi làm ảnh hưởng đến chất lượng của công tác thu. Ở Việt Nam hiện nay đang có cơ cấu dân số vàng ( số người trong độ tuổi lao động chiếm trên 40% dân số). Do đó số người tham gia đang lớn hơn rất nhiều so với số người hưởng. Và nguyên tắc hưởng của chúng ta là mức đóng phụ thuộc vào mức hưởng. Tuy nhiên trong thời gian tới chúng ta cần tính đến việc cơ cấu dân số ngày càng già đi. Do vậy công tác thu cần có những thay đổi để phù hợp với tình hình tránh được tình trạng vỡ quỹ.
Đối với công tác thu BHXH của DNNQD, cơ cấu dân số cũng có những tác động rất lớn. Số người trong độ tuổi lao động lớn, nguồn lao động dồi dào, cung nhiều hơn cầu thì giá cả lao động sẽ thấp. Khi đó, mức tiền lương tiền công phải trả của doanh nghiệp sẽ thấp làm cho số tiền đóng BHXH cũng thấp, ý thức tham gia BHXH của họ sẽ tốt hơn. Nhưng khi cơ
cấu dân số già, tức là số người trong độ tuổi lao động ít, nguồn lao động khan hiếm, cung ít hơn cầu thì giá cả lao động hiển nhiên sẽ cao hơn. Điều này làm cho chi phí về tiền lương, tiền công sẽ lớn hơn và số tiền tham gia BHXH cũng sẽ cao hơn. Doanh nghiệp thì luôn cố gắng giảm thiểu những chi phí làm giảm lợi nhuận. Vì vậy, họ sẽ tìm cách trốn đóng, nợ, chậm đóng BHXH làm cho công tác thu BHXH gặp rất nhiều khó khăn.
4.3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Tốc độ tăng trưởng kinh tế phản ánh khả năng tiết kiệm, tiêu dùng và đầu tư của Nhà nước. Vì thế nếu một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn đình thì chắc chắn đời sống của người dân sẽ cao lên, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng gặp nhiều thuận lợi. Không còn khó khăn về tài chính thì các chủ doanh nghiệp sẵn sàng tham gia BHXH cho người lao động. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bền vững phản ánh nhiều người lao động có thu nhập cao thông qua quá trình lao động. Đây là điều kiện tiền đề để người lao động có cơ hội tham gia BHXH. Thêm nữa, khi đời sống kinh tế cao thì nhận thức của người lao động cũng tăng lên, ngoài việc ý thức đảm bảo cuộc sống hằng ngày cho bản thân và gia đình, họ mong muốn có khoản trợ cấp khi không may gặp phải các rủi ro xã hội như: ốm đau, TNLĐ, BNN, hưu trí, tử tuất, thai sản, thất nghiệp khiến cho họ bị mất hoặc giảm thu nhập vì khi các nhu cầu cơ bản đã được đảm bảo thì con người sẽ hướng đến nhu cầu an toàn. Tất cả những yếu tố trên tác động tích cực làm tăng thu BHXH.
4.4 Công tác thông tin, tuyên truyền.
BHXH là một lĩnh vực ảnh hưởng đến nhiều người, nhiều tầng lớp trong cộng đồng xã hội nên công tác thông tin tuyên truyền là rất cần thiết và là nhân tố tác động trực tiếp đến hiệu quả của công tác quản lý đối tượng tham gia... Nếu như thực hiện tốt công tác này thì sẽ giúp đối tượng tham gia hiểu rõ về chế độ chính sách BHXH theo quy định của pháp luật, làm thay đổi thái độ đói với công tác BHXH theo hướng tích cực và sẽ tự giác thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ khi tham gia BHXH.
Đối với các DNNQD, thông tin tuyên truyền có vai trò rất quan trọng. Vì người sử dụng lao động trong khối này thường đặt lợi nhuận làm mục đích hàng đầu, tìm mọi cách để giảm chi phí trong đó có việc trốn tham gia BHXH. Nếu thực hiện tốt công tác tuyên truyền làm họ hiểu được lợi ích của BHXH đối với doanh nghiệp cũng như với người lao động của mình thì họ tự giác tham gia BHXXH nhiều hơn. Việc này sẽ tạo điều kiện cho công tác thu được thực hiện dễ dàng, đảm bảo được chỉ tiêu thu.
CHƯƠNG II :
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THU BHXH BẮT BUỘC CỦA KHỐI DOANH NGHIỆP NGOÀI QUỐC DOANH TẠI BHXH QUẬN BA ĐÌNH GIAI ĐOẠN 2007 - 2010
1. Đặc điểm tình hình thực hiện chính sách BHXH tại BHXH quận Ba Đình
1.1. Khái quát về quận Ba Đình
Quận Ba Đình là một quận trung tâm hành chính, chính trị quốc gia, là nơi tập trung phần lớn các cơ quan của Đảng, Nhà nước và Chính phủ có diện tích gần 10km2 với tổng số hơn 24 vạn dân với gần 54000 hộ, gồm 14 phường là : Điện Biên, Quán Thánh, Cống Vị, Đội Cấn, Kim Mã, Giảng Võ, Thành Công, Phúc Xá, Nguyễn Trung Trực, Ngọc Hà, Trúc Bạch, Ngọc Khánh, Liễu Giai, Vĩnh Phúc. Phía Bắc giáp quận Tây Hồ, phía Đông giáp Quận Hoàn Kiếm, phía Nam giáp quận Đống Đa, phía Tây giáp quận Cầu Giấy.
Tính đến hết tháng 12 năm 2010, toàn quận có 2.324 cơ quan đơn vị tham gia BHXH với tổng số lao động là 78.556 người, số tiền thu là 529 tỷ đồng ( vượt kế hoạch 1.23%), có gần 33.000 đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH với số tiền chi trả năm 2010 là 1.033 tỷ đồng.
Cùng với thành tựu trong công cuộc đổi mới đất nước, thủ đô, quận Ba Đình đã đạt được những thành tích to lớn, hàng năm phấn đấu hoàn thành chỉ tiêu kinh tế xã hội, kinh tế tăng trưởng; văn hóa, y tế giáo dục được duy trì và có những bước phát triển; xây dựng cơ bản và quản lý đô thị có bước tiến bộ; an ninh quốc phòng được giữ vững; trật tự an toàn chuyển biến tốt; vai trò lãnh đạo của Đảng được nâng cao; hệ thống chính quyền được củng cố; phong trào quần chúng nhân dân phát triển tốt.
Với vị trí đắc địa và tình hình an ninh trật tự tốt, dân số đông, quận Ba Đình là một nơi lý tưởng cho các doanh nghiệp đặt trụ sở kinh doanh, đặc biệt là các DNNQD. Các doanh nghiệp này thuộc nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau, kinh doanh theo quy định của pháp luật, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quận Ba Đình.
1.2. Khái quát về đơn vị BHXH quận Ba Đình.
Cùng với sự ra đời của ngành BHXH từ trung ương đến địa phương thì BHXH quận Ba Đình được thành lập theo quyết định số 01/QĐ_TCCB ngày 12/07/1995 của tổng giám đốc BHXH BHXH Việt Nam và chính thức đi vào hoạt động 08/1995.
Được sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của BHXH thành phố Hà Nội, sự chỉ đạo sâu sát của Quận ủy, UBND, HĐND, UBND quận Ba Đình, năm 2010 BHXH quận Ba ĐÌnh tiếp tục thực hiện công tác cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho tất cả các đối tượng đến giao dịch với cơ quan BHXH quận; đồng thời cũng giúp cho cán bộ công chức cơ quan có điều kiện hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Năm 2010, nền kinh tế của nước ta vẫn còn gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của tình trạng suy thoái kinh tế thế giới, giá cả sinh hoạt tăng cao, diễn biến phức tạp ngay từ đầu năm làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động của các doanh nghiệp. Do đó một số đơn vị đóng BHXH chậm và vẫn còn để nợ đọng. Việc đóng BHXH chậm hoặc để nợ đọng đã làm ảnh hưởng đến việc giải quyết quyền lợi cho người lao động. Tất cả những diễn biến trên đã ảnh hưởng đến công tác thu BHXH.
Tuy nhiên được sự chỉ đạo trực tiếp của BHXH thành phố Hà Nội, của Quận ủy, HĐND, UBND quận Ba Đình, tập thể cán bộ công nhân viên chức của BHXH quận Ba Đình luôn đoàn kết, bám sát yêu cầu, nhiệm vụ quyết tâm phấn đấu hoàn thành kế hoạch được giao ngay từ những tháng đầu quý năm 2010. Ban Giám đốc đã xem xét đặc điểm của từng loại hình đơn vị để giao kế hoạch thu BHXH cho mỗi cán bộ phụ trách số đơn vị phù hợp với khả năng của từng người, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ hoàn thành chỉ tiêu thu được giao. Hàng tuần, hàng tháng Ban Giám đốc BHXH quận kiểm tra, yêu cầu từng cán bộ rà soát toàn bộ công việc thực hiện trong tuần trong tháng để xác định kịp thời những việc đã làm được để phát huy, những việc chưa làm được hoặc còn thiếu sót để khắc phục. Tập thể cán bộ viên chức BHXH quận đã cùng nhau đoàn kết thi đua hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, góp phần đảm bảo ASXH, giữ vững an ninh chính trị xã hội ở địa phương.
1.2.1. Vị trí, chức năng:
BHXH quận Ba Đình đặt tại 71 Quán Thánh - Ba Đình - Hà Nội có chức năng giúp Giám đốc BHXH Thành phố Hà Nội tổ chức thực hiện chế độ, chính sách BHXH, BHYT trên địa bàn quận theo phân cấp quản lý của BHXH Việt Nam và quy định của pháp luật.
BHXH quận Ba Đình có tư cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng.
BHXH quận Ba Đình chịu sự quản lý trực tiếp và toàn diện của BHXH thành phố Hà Nội; chịu sự quản lý hành chính nhà nước của UBND quận Ba Đình.
1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của BHXH quận Ba Đình:
- Xây dựng trương trình kế hoạch trình Giám Đốc BHXH thành phố duyệt và tổ chức thực hiện.
- Tiếp nhận việc đăng ký ban đầu của đối tượng tham gia BHXH trên địa bàn quận.
- Theo dõi các đơn vị thuộc diện đóng BHXH theo đúng qui định, hướng dẫn các đơn vị lập danh sách người lao động, đôn đốc kết hợp các hình thức phạt tiền để các đơn vị đóng BHXH một cách đầy đủ và đúng thời gian qui định. Hàng tháng BHXH quận phải nắm được danh sách người lao động tham gia BHXH.
- Tiếp nhận ban đầu đơn yêu cầu hưởng BHXH, đăng ký thu chi và tiếp nhận đơn yêu cầu.
- Tiếp nhận người đến đăng ký BHXH làm thủ tục di chuyển sang nơi khác theo qui định của BHXH.
- Quản lý, lưu trữ, khai thác danh sách đóng, hồ sơ hưởng BHXH.
- Lập dự toán, quyết toán thu chi theo qui định của cấp trên và gửi lên BHXH thành phố.
- Điều chỉnh lương, trợ cấp theo qui định của pháp luật.
- Thực hiện chi trả BHXH cho các đối tượng hưởng do địa bàn quản lý đó là chi cho các chế độ: trả lương hưu trí, trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất theo qui định.
- Tổ chức xét duyệt, chi trả trợ cấp ốm đau, thai sản, chi nghỉ dưỡng sức ở những đơn vị do BHXH thành phố ủy quyền chi trả.
- Thực hiện chi trả các chế độ hàng tháng cho đối tượng hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH trên địa bàn quản lý.
- Lập xét duyệt dự toán chi BHXH.
- Quản lý và tổ chức chi trả cho đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp hưởng BHXH hàng tháng.
- Tổ chức chi trả đối tượng hưởng trợ cấp BHXH 1 lần
- Thực hiện chi ốm đau, thai sản, dưỡng sức phục hồi sức khỏe.
- Định kỳ hoặc đột xuất BHXH quận có trách nhiệm kiểm tra,việc chi trả BHXH ở đơn vị sử dụng lao động.
- Thực hiện công tác BHXH tự nguyện.
1.2.3. Cơ cấu tổ chức
Hình 1: Sơ đồ Cơ cấu tổ chức tại BHXH quận Ba Đình
GIÁM ĐỐC
P.GIÁMĐỐC
Bộ phận chính sách quản lý hồ sơ
Bộ phận kế toán tài vụ
Bộ phậnquản lý thu
P.GIÁMĐỐC
Bộ phậngiám định
Nguồn : BHXH quận Ba Đình
Trong đó có :
- 1 Giám đốc: quản lý và điều hành
- 2 Phó giám đốc: quản lý và điều hành
- 5 Cán bộ chính sách - lưu trữ hồ sơ: Giải thích những thắc mắc của các đối tượng, giải thích về các chế độ cho NLĐ là hưu trí, thai sản, tử tuất, lưu trữ hồ sơ, rút trả hồ sơ cho NLĐ khi giải quyết chế độ tử tuất.
- 17 Cán bộ quản lý thu và cấp sổ BHXH: theo dõi ghi chép kết quả đóng BHXH, hướng dẫn đơn vị kê khai để cấp sổ BHXH cho người LĐ sau đó cập nhật vào hồ sơ gốc. Cấp sổ BHXH cho các đơn vị tới đăng ký BHXH, trực tiếp làm việc với các đơn vị sử dụng lao động.
- 3 Cán bộ phụ trách BHYT: Cấp phát thẻ, sửa đổi thẻ BHYT cho các đối tượng tham gia.
- 2 Cán bộ phụ trách BHXH tự nguyện: Hướng dẫn cho người tham gia BHXH tự nguyện về các thủ tục, mức đóng, mức hưởng.
- 7 Cán bộ kế toán tài vụ: Tính lương hưu, tiền trợ cấp cho các đối tượng hưởng, thực hiện chi trả hàng tháng, cuối tháng phải lập lại báo cáo các kết quả thu chi trong tháng.
- 1 Cán bộ Giám định: Xác nhận sự hợp lệ của thẻ BHYT của người khám, giám định chi phí khám chữa bệnh.
Hình 2 : Biểu đồ cơ cấu cán bộ tại BHXH Quận Ba Đình
Nguồn : BHXH Quận Ba Đình
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, số lượng cán bộ làm công tác thu BHXH chiếm đến 45% tổng số cán bộ hiện đang làm việc tại quận Ba Đình. Qua đó có thể thấy rằng công tác thu là một công tác trọng tâm của cơ quan BHXH và thu BHXH là một nghiệp vụ chủ yếu trong hoạt động của cơ quan BHXH.
1.3. Đội ngũ cán bộ, lao động của đơn vị:
Từ khi mới thành lập BHXH quận Ba Đình có 15 cán bộ được biên chế với các trình độ đại học, cao đẳng, trung cấp. Hiện nay các cán bộ được luân chuyển và biên chế thêm đã là 38 cán bộ, trong đó có 28 nữ và 10 nam, với 100% trình độ chuyên môn là đại học. Đội ngũ cán bộ quận Ba Đình đều có chuyên môn nghiệp vụ tốt, tinh thần trách nhiệm cao, chịu khó học tập và phấn đấu hoàn thành các mục tiêu do đơn vị và BHXH thành phố Hà Nội giao cho. Một phần cũng do đơn vị tạo điều kiện cho cán bộ được học tập và rèn luyện bản thân, quan tâm chu đáo tới đời sống công nhân viên, và tạo điều kiện làm việc tốt.
2. Thực trạng công tác thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD tại BHXH quận Ba Đình
2.1. Tổ chức thu.
2.1.1. Tổ chức lực lượng thu.
Tại BHXH Quận Ba Đình, Bộ phận thu có nhiệm vụ thu BHXH của các đơn vị mà Giám đốc BHXH quận giao cho. Hiện nay, BHXH trực tiếp quản lý 1819 DNNQD. Số doanh nghiệp này được phân cho 17 cán bộ làm công tác thu để quản lý.
17 cán bộ làm công tác thu có nhiệm vụ chính sau:
- Khai thác đơn vị đăng ký tham gia BHXH lần đầu
+ Tiếp nhận hồ sơ đăng ký đóng BHXH từ bộ phận một cửa, kiểm tra sổ BHXH, hồ sơ cá nhân, HĐLĐ, quyết định tiếp nhận, bảng thanh toán lương của đơn vị, mức đóng và tỷ lệ đóng của các đối tượng đăng ký đóng BHXH
+ Hoàn thiện hồ sơ, trình lãnh đạo ký, xin mã đơn vị.
+ Lập danh sách đề nghị cấp thẻ BHYT theo danh sách đăng ký đóng của đơn vị vào phần mềm máy tính.
+ Hoàn thiện tờ khai cấp sổ BHXH ( đối với những trường hợp chưa được cấp sổ BHXH), trình lãnh đạo ký, chuyển bộ phận in sổ, làm biên bản giao nhận số lượng sổ BHXH với đơn vị.
+ Vào sổ theo dõi bàn giao hồ sơ đăng ký mới, thẻ BHYT, sổ BHXH (nếu có) chuyển xuống bộ phận một cửa để trả lại đơn vị theo đúng thời hạn quy định.
- Theo dõi thu, nộp BHXH
+ Hàng tháng kiểm tra hồ sơ cá nhân người lao động tăng mới BHXH (hồ sơ cá nhân, HĐLĐ, sổ BHXH, tờ khai 01-TBH) và các điều chỉnh lương, phụ cấp (Quyết định tăng lương, HĐLĐ). Đối chiếu hàng tháng mức thu nộp BHXH của các đơn vị được phân công theo dõi (theo biểu mẫu số 02a-TBH và 03a-TBH), nhập số liệu vào phần mềm quản lý thu BHXH, ra thông báo kết quả đóng BHXH (Mẫu 08a-TBH) hàng tháng tới các đơn vị.
+ Đôn đốc các đơn vị nộp tiền BHXH hàng tháng theo quy định của Luật BHXH ra thông báo nợ gửi các đơn vị và trực tiếp xuống đơn vị đốc nợ tiền BHXH.
+ Lập danh sách đề nghị phát hành thẻ BHYT những trường hợp tăng phát sinh.
+ Tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ chứng từ thanh toán chế độ BHXH ngắn hạn: ốm đau, thai sản, dưỡng sức của các đơn vị, lập biểu tổng hợp và xác nhận tiền đóng của đơn vị, chuyển kế toán thanh toán, thực hiện báo giảm các trường hợp thanh toán thai sản và ốm đau dài ngày.
+ Vào sổ theo dõi bàn giao hồ sơ đối chiếu háng tháng theo mã đơn vị tăng dần, thẻ BHYT, sổ BHXH (nếu có) kèm theo chuyển xuống bộ phận một cửa để trả lại đơn vị theo đúng thời hạn quy định.
+ Kiểm tra hồ sơ xin truy thu, thoái thu thời gian, mức đóng BHXH.
- Chốt sổ và cấp mới sổ BHXH
+ Tiếp nhận hồ sơ chốt sổ BHXH cho đối tượng giải quyết chế độ BHXH: hưu trí, tử tuất...và những đối tượng di chuyển công tác nội tỉnh, ngoại tỉnh, chấm dứt HĐLĐ từ bộ phận một cửa. Kiểm tra và nhập vào phần mềm quá trình công tác, mức lương, chức danh, đơn vị công tác của những trường hợp có thời gian công tác trên sổ xanh trước tháng 12/2008 hoặc những sổ có quá trình đóng BHX được ghi trên tờ rời trước khi có phát sinh tại quận, in mẫu 07/SBH kèm theo. Chuyển bộ phận in sổ để in tời rời quá trình tham gia BHXH, lập biên bản giao nhận tờ rời với đơn vị, trình ký lãnh đạo.
+ Thẩm định, ký và trình giám đốc BHXH quận ký tờ khai cấp sổ BHXH theo mẫu 01-TBH, chuyển bộ phận Cấp sổ, thẻ in tờ bìa sổ
2.1.2. Lập kế hoạch thu.
Khác với quy trình lập dự toán chi là từ trên phân bổ xuống, kế hoạch thu được lập từ dưới lên. Đó là hằng năm, BHXH quận Ba Đình lập kế hoạch thu gửi lên BHXH thành phố Hà Nội. Căn cư vào kế hoạch đó kết hợp với kế hoạch thu của thành phố, BHXH thành phố Hà Nội sẽ phân bổ kế hoạch thu năm cho BHXH Ba Đình.
Kế hoạch thu này là kế hoạch thu chung của tất cả các đối tượng tham gia BHXH tại quận Ba Đình. Kế hoạch thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD cũng nằm trong kế hoạch này.
Phương pháp lập kế hoạch thu được thực hiện dựa trên số thu của năm trước và khả năng mở rộng đối tượng tham gia của năm tới, dự tính số người tham gia và số thu. Việc này được thực hiện trên một số cơ sở sau:
* Xác định đối tượng thu
Đối tượng thu BHXH tuân theo Luật BHXH ( điều 2). DNNQD là một trong các đối tượng đó. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, tại quận Ba Đình, số lượng DNNQD đều tăng qua mỗi năm. Đây là một khối có tiềm năng thu rất lớn.
Tất cả các DNNQD khi thực hiện đăng ký kinh doanh với Sở kế hoạch và Đầu tư Quận Ba Đình và được cấp phép kinh doanh trên địa bàn Quận Ba Đình đều có trách nhiệm tham gia BHXH cho người lao động của mình tại BHXH quận Ba Đình. BHXH quận Ba Đình dựa trên giấy phép kinh doanh, bản đăng ký tham gia BHXH của doanh nghiệp để thực hiện việc tiếp nhận quản lý các vấn đề liên quan đến BHXH cho doanh nghiệp.
Nếu doanh nghiệp đang hoạt động tại Quận Ba Đình mà chuyển trụ sở sang địa bàn khác nhưng vẫn có nguyện vọng được tham gia BHXH tại Ba Đình thì sẽ vẫn tiếp tục được BHXH Quận Ba Đình quản lý.
Hàng năm, Sở kế hoạch và đầu tư cung cấp cho cơ quan BHXH Ba Đình danh sách các DNNQD mới thành lập và đang hoạt động trên địa bàn quận để BHXH Ba Đình nắm được tình hình tham gia BHXH của các doanh nghiệp. Qua đó, nhìn nhận được xem tình hình tham gia BHXH tại quận đã tốt hay chưa để có những kiến nghị lên các cơ quan có thẩm quyền có những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của việc tham gia BHXH của các DNNQD.
* Xác định mức thu
Mức thu BHXH đối với các DNNQD tại BHXH quận Ba Đình dựa trên mức đóng mà Luật BHXH đã quy định đối với các doanh nghiệp này.
Theo điều 91, 92 Luật BHXH, hiện nay người sử dụng lao động đóng 16% tổng quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH; người lao động đóng 6% mức tiền lương tiền công vào quỹ hưu trí, tử tuất.
Theo Luật BHYT, thì mức đóng BHYT của người lao động và người sử dụng lao động trong khối DNNQD hiện nay là 4,5% trên mức tiền lương, tiền công hàng tháng của người lao động.
Vì vậy, Luật BHXH là một căn cứ để xác định mức thu BHXH đối với các DNNQD tại Ba Đình.
Theo như luật quy định, mức tiền lương tiền công tháng của người lao động là căn cứ đóng BHXH của DNNQD. Do vậy, mức lương ghi trên HĐLĐ là căn cứ thứ 2 để xác định mức thu BHXH.
Quận Ba Đình thuộc Thành phố Hà Nội là vùng I theo quyết định 108. Do vậy các DNNQD trên địa bàn quận phải trả lương theo cho người lao động theo mức sau :
- Mức lương tối thiểu đối với lao động làm việc trong điều kiện bình thường là 1.350.000/tháng.
- Đối với lao động đã qua đào tạo làm việc trong điều kiện bình thường, mức lương tối thiểu phải cao hơn ít nhất 7% mức lương tối thiểu vùng.
Đây là cơ sở để BHXH Quận Ba Đình xác định được mức lương tối thiểu chuẩn của các DNNQD. Mức lương thấp nhất của các DNNQD phải đảm bảo lớn hơn hoặc bằng mức lương theo Luật định. Các đơn vị khi lên thực hiện giao dịch lần đầu phải xuất trình bảng lương hoặc nếu có lao động mới tăng trong tháng thì phải mang HĐLĐ lên để cán bộ thu đối kiểm tra mức lương thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu mức lương mà doanh nghiệp trả cho người lao động thấp hơn mức lương tối thiểu đã quy định thì cán bộ thu sẽ không thực hiện giao dịch với đơn vị và sẽ yêu cầu đơn vị sửa lại hợp đồng đối với các trường hợp tăng mới hoặc làm quyết định nâng lương cho người lao động đang làm việc nhưng mức lương chưa được điều chỉnh kịp thời với quy định tăng lương của nhà nước.
Bên cạnh đó, các DNNQD trả lương cho người lao động theo mức lương chứ không theo hệ số. Mỗi người lao động tùy thuộc vào trình độ và vị trí công việc mà có một mức lương khác nhau. Do đó mức đóng BHXH cũng là khác nhau. Vì vậy để xác định được chính xác mức thu BHXH quận Ba Đình phải căn cứ trên mức lương được ghi trên HĐLĐ mà đơn vị gửi lên.
Bảng 1 : Tiền lương, tiền công làm căn cứ thu BHXH, BHYT
Đơn vị : đồng
Năm
2007
2008
2009
2010
Tổng quỹ lương (đồng)
328.986.486.395
514.692.785.908
680.434.847.025
720.163.872.196
Lượng tăng giảm tuyệt đối (đồng)
185.706.299.188
165.742.061.117
39.729.025.171
Tốc độ tăng giảm (%)
56,45
32,2
5,83
Nguồn: BHXH Quận Ba Đình
Tổng quỹ lương của doanh nghiệp là một cơ sở để tính mức thu BHXH một cách chung nhất. Từ năm 2007 đến 2010, tổng quỹ lương của các DNNQD liên tục tăng. Cụ thể, năm 2007, tổng quỹ lương của toàn khối là 328.986.486.395 đồng, đến năm 2008 con số này tăng lên đến 514.692.785.908 đồng tức là tăng 56,45% tương ứng với 185.706.299.188 đồng. Vào năm 2009, tổng quỹ lương đã tăng lên 680.434.847.025 đồng tương ứng với 32,2% (165.742.061.117) so với năm 2009. Tổng quỹ lương đạt mức cao nhất trong vòng 4 năm với 720.163.872.196 đồng, tăng 5,83% so với năm 2009 (tương ứng 39.729.025.171 đồng)
Tổng quỹ lương tăng do các nguyên nhân:
- Từ năm 2008 đến năm 2010, Nhà nước đã có 4 lần tăng lương tối thiểu trong doanh nghiệp
01.01.2008: 620.000 đồng
01.01.2009: 860.000 đồng
01.01.2010: 1.050.000 đồng
Quy định tăng lương tối thiểu bắt buộc các doanh nghiệp phải tăng lương cho người lao động của mình. Việc này làm cho tổng quỹ lương của các doanh nghiệp tăng lên.
- Số lượng các DNNQD tăng qua mỗi năm và số lượng lao động tăng lên cũng làm tổng quỹ lương chung của toàn khối tăng lên.
Bảng 2: Số lao động và số DNNQD
Năm
Số đơn vị
(đơn vị)
Lượng tăng giảm tuyệt đối
(người)
Tốc độ tăng trưởng liên hoàn
(%)
Số lao động (người)
Lượng tăng giảm tuyệt đối
(người)
Tốc độ tăng trưởng liên hoàn
(%)
2007
1.030
22.000
2008
1.335
305
29,61
31.062
9.062
41,19
2009
1.541
206
15,43
34.602
3.540
11,39
2010
1.735
194
12,59
39.359
4.757
13,74
Nguồn: BHXH Quận Ba Đình
Năm 2008, số đơn vị ngoài quốc doanh tăng lên 305 đơn vị (tăng 29,61%) so với năm 2007, đồng thời số lao động tăng lên 9.062 (tương ứng 41,19%) đã làm cho tổng quỹ lương của toàn khối tăng lên 56,45%. Năm 2009 việc số đơn vị tăng15,43% và số lao động tăng 11,39% so với năm 2008 đã làm cho tổng quỹ lương tăng thêm 165.742.061.117 đồng. Đến năm 2010, tổng quỹ lương đạt mức 720.163.872.196 đồng là do số đơn vị tăng thêm 194 đơn vị và số lao động tăng thêm 4.757 người so với năm 2009.
Có thể thấy lượng đơn vị và lượng lao động biến động qua các năm có ảnh hưởng lớn đến sự biến động của tổng quỹ lương của khối ngoài quốc doanh.
Khi nắm rõ được tất cả các yếu tố này cùng với việc nhận định khả năng mở rộng đối tượng tham gia, BHXH quận có thể lập được dự toán thu cụ thể, phù hợp với khả năng để gửi lên BHXH thành phố.
Hình 3 : Biểu đồ số kế hoạch thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD
Nguồn : BHXH quận Ba Đình
Qua biểu đồ trên ta thấy, số kế hoạch thu qua các năm đều tăng. Năm 2007, số thu là 71.634.789.376 đồng thì năm 2008 số thu kế hoạch được đặt ra là 127.356.478.345 đồng ( tăng 55.721.688.969 đồng). Số thu kế hoạch năm 2009 là 132.789.098.789 đồng ( tăng 5.432.620.444 đồng so với 2008). Đến năm 2010, số thu kế hoạch đã tăng thêm 6.896.859.554 đồng so với năm 2009 (đạt 139.685.958.343 đồng). Nguyên nhân là do số đối tượng tham gia, mức lương làm căn cứ đóng BHXH của người lao động cũng liên tục tăng lên từ năm 2007 đến 2010. Căn cứ trên các cơ sở đó mà BHXH quận Ba Đình cũng đưa ra mức thu kế hoạch tăng phù hợp với các yếu tố trên.
2.1.3. Quy trình thu.
Quy trình thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD tại BHXH quận Ba Đình được thể hiện qua sơ đồ sau.
Hình 4: Quy trình thu BHXH, BHYT bắt buộc
Doanh nghiệp
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn
BHXH quận Ba Đình
(1)
(2)
(3)
(1) Hàng tháng, doanh nghiệp sẽ chuyển tiền vào tài khoản chuyên thu của BHXH Ba Đình tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn.
(2) Ngân hàng sẽ gửi thông báo về cho BHXH Ba Đình về số tiền thu của doanh nghiệp.
(3) BHXH quận Ba Đình sẽ in bản 02 bản thông báo bao gồm tờ Thông báo và biểu mẫu 02a-TBH và 03a-TBH. 01 bản lưu lại BHXH, 01 bản trả cho đơn vị
Đây là quy trình chuẩn, khi các đơn vị đóng BHXH của tháng đúng hạn theo Luật định là trước ngày cuối cùng của tháng đó.
Tuy nhiên, hàng tháng, cơ quan BHXH sẽ thực hiện quyết toán số thu BHXH tháng trước của doanh nghiệp vào ngày mùng 10 tháng liền kề.
Tuy nhiên nếu đơn vị không có sự thay đổi về số lao động trong tháng và đã nộp tiền đầy đủ của tháng đó vào tài khoản ngân hàng của BHXH Ba Đình thì cơ quan BHXH có thể thực hiện quyết toán ngay tháng đó và in Thông báo cho đơn vị.
Nếu hết ngày mùng 10 tháng đó mà đơn vị không lên cơ quan BHXH thực hiện giao dịch thì cán bộ thu sẽ tự động quyết toán của tháng trước và coi như tháng đó doanh nghiệp không có sự biến động nào.
Sau ngày mùng 10 đơn vị mới lên thực hiện giao dịch của tháng trước đó thì những biến động phát sinh của tháng đó mà đơn vị báo cáo để sẽ được chuyển vào tháng sau để thực hiện điều chỉnh.
*Đối với người sử dụng lao động tham gia BHXH, BHYT lần đầu
Trường hợp này, trước hết người sử dụng lao động phải thực hiện đăng ký tham gia BHXH theo trình tự sau:
Hình 5 : Sơ đồ Trình tự thủ tục tham gia BHXH
Người tham gia BHXH-BHYTà Hồ sơ, biểu mẫu à Cơ quan BHXH à SMS à Sổ BHXH, thẻ BHYT, Biên bản đối chiếu à Người tham gia BHXH - BHYT
- Người lao động: Căn cứ hồ sơ gốc của mình (quyết định tuyển dụng, quyết định nâng lương hoặc HĐLĐ...) kê khai 03 bản “Tờ khai tham gia BHXH, BHYT bắt buộc” (Mẫu số 01-TBH) nộp cho người sử dụng lao động; trường hợp đã được cấp sổ BHXH thì không phải kê khai mà chỉ nộp sổ BHXH.
- Người sử dụng lao động :
+ Kiểm tra, đối chiếu Tờ khai tham gia BHXH với hồ sơ gốc của từng người lao động; ký xác nhận và phải chịu trách nhiệm về những nội dung trên Tờ khai của người lao động.
+ Lập 02 bản “Danh sách lao động tham gia BHXH, BHYT bắt buộc” (Mẫu số 02a-TBH) và bản sao quyết định thành lập hoặc chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép hoạt động; trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân thì nộp bản HĐLĐ và nộp cho cơ quan BHXH Ba Đình.
- Cơ quan BHXH quận Ba Đình:
+ Tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra số lượng, tính hợp pháp của các loại giấy tờ, đối chiếu với hồ sơ của người lao động; ghi mã số quản lý đơn vị và từng người lao động trên danh sách và trên Tờ khai tham gia BHXH bắt buộc (mã đơn vị và người lao động ghi theo quy định của BHXH Việt Nam). Trường hợp hồ sơ chưa đủ, cơ quan BHXH sẽ hướng dẫn cụ thể để đơn vị hoàn thiện.
+ Ký, đóng dấu vào "Danh sách lao động tham gia BHXH, BHYT bắt buộc" (Mẫu số 02a-TBH); trả lại đơn vị 01 bản Danh sách để đơn vị thực hiện đóng BHXH, BHYT, cơ quan BHXH lưu 01 bản Danh sách; riêng 03 Tờ khai (Mẫu số 01-TBH) của người lao động sau khi cấp sổ BHXH hoàn chỉnh thì trả lại đơn vị 02 Tờ khai cùng với sổ BHXH.
+ Cấp sổ BHXH, thẻ BHYT cho người lao động.
Sau khi đã đăng ký thì hàng tháng các doanh nghiệp sẽ thực hiện nộp BHXH theo quy trình như hình 3.
* Đối với người sử dụng lao động đang tham gia BHXH, BHYT
- Tăng, giảm lao động hoặc thay đổi căn cứ đóng BHXH, BHYT trong tháng.
Trường hợp này thì người sử dụng lao động cũng sẽ tuân theo quy trình ở hình 4. Nhưng cần lưu ý một số điểm:
+ Người sử dụng lao động: Người sử dụng lao động: Lập danh sách theo mẫu (02a-TBH) nếu tăng lao động; nếu giảm lao động hoặc điều chỉnh tiền lương, mức đóng BHXH, BHYT theo mẫu (03a-TBH), nếu đồng thời có cả các biến động trên thì lập cả mẫu (02a-TBH) và mẫu (03a-TBH), mỗi mẫu 01 bản kèm theo hồ sơ như : Tờ khai, quyết định tuyển dụng,
thuyên chuyển, nghỉ việc, thôi việc hoặc hợp đồng lao động, quyết định tăng, giảm lương và thẻ BHYT (nếu có), nộp cho cơ quan BHXH Ba Đình trước ngày 20 của tháng. Các trường hợp tăng, giảm từ ngày 16 của tháng trở đi thì lập danh sách và thực hiện vào đầu tháng kế tiếp.
+ Cơ quan BHXH Ba Đình: Tiếp nhận, kiểm tra, thẩm định hồ sơ; ký, đóng dấu vào danh sách lao động tham gia BHXH, BHYT; các Tờ khai (nếu có), thông báo cho đơn vị đóng BHXH, BHYT; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT kịp thời cho người lao động.
Sau đó đơn vị cũng tiến hành nộp BHXH theo quy trình như ở hình 3.
2.1.4. Quản lý tiền thu.
Tại BHXH Ba Đình, việc quản lý tiền thu BHXH được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Thu BHXH được thực hiện bằng hình thức chuyển khoản. Trường hợp cá biệt phải thu bằng tiền mặt thì cơ quan BHXH Ba Đình sẽ nộp tiền vào ngân hàng ngay trong ngày.
Tiền thu BHXH không được sử dụng để chi cho bất kỳ việc gì ngoài dùng để chi trả cho đối tượng hưởng và một số đầu tư sinh trưởng khác theo quy định của pháp luật; không áp dụng hình thức gán thu bù chi tiền BHXH đối với các đơn vị. Mọi trường hợp thoái thu, truy thu BHXH để cộng nối thời gian công tác chỉ được thực hiện sau khi có sự chấp thuận bằng văn bản của BHXH Việt Nam.
BHXH Quận Ba Đình có quyền yêu cầu kho bạc ngân hàng trích từ tài khoản của đơn vị vào tài khoản của cơ quan BHXH khoản tiền phải nộp (kể cả lãi do chậm nộp) mà không cần có sự chấp thuận thanh toán của đơn vị. Tuy nhiên hiện nay việc nay chưa thực hiện được. Bởi về phía ngân hàng, nếu làm như vậy họ sẽ làm ảnh hưởng đến khách hàng của mình và nguy cơ mất khách là có thể xảy ra. Như vậy, mặc dù thực hiện theo quy định, phối hợp với BHXH làm việc này song ngân hàng sẽ là bên bị thiệt. Do vậy, hiện nay, các ngân hàng vẫn chưa thống nhất hỗ trợ BHXH để thực hiện việc này và như vậy cơ quan BHXH không thể nào trích được tiền thu BHXH từ ngân hàng mặc dù họ được phép.
BHXH Quận Ba Đình chuyển tiền thu BHXH về tài khoản chuyên thu của BHXH thành phố Hà Nội vào ngày 10 và 25 hàng tháng. Riêng tháng cuối năm chuyển toàn bộ số tiền thu BHXH của quận về BHXH thành phố Hà Nội trước 24 giờ ngày 31/12.
2.2. Kết quả thu BHXH của khu vực ngoài quốc doanh tại BHXH Quận Ba Đình giai đoạn năm 2007 - 2010 và số người tham gia.
2.2.1. Số đơn vị và số lao động tham gia BHXH.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, tại Quận Ba Đình, số lượng DNNQD đều tăng qua mỗi năm. Trong các khối tham gia BHXH tại địa bàn quận Ba Đình thì khối DNNQD luôn là khối chiếm tỷ trọng lớn nhất. Điều này cho thấy khối DNNQD là khối có tiềm năng thu rất lớn, sẽ là một nguồn thu chủ yếu cho quỹ BHXH. Cần phải tập trung vào phát triển công tác thu của khối này.
Bảng 3: Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của khối DNNQD
Năm
Số DNNQD (đơn vị)
Tổng số đơn vị tham gia BHXH
(đơn vị)
Tỷ
trọng
(%)
Lượng tăng giảm tuyệt đối
(đơn vị)
Tốc độ tăng trưởng liên hoàn
(%)
2007
1.030
1.570
65,6
2008
1.335
1.970
67,76
305
29,61
2009
1541
2.139
72,04
206
15,43
2010
1.735
2.324
74,65
194
12,59
Nguồn: BHXH Quận Ba Đình
Có thể thấy, từ năm 2007 đến năm 2010, số lượng DNNQD liên tục tăng dù tốc độ tăng là giảm dần. Năm 2007, toàn quận mới chỉ có 1.030 đơn vị ngoài quốc doanh, chiếm 65,6% tổng số đơn vị tham gia BHXH của quận nhưng đến năm 2008, với tốc độ tăng 29,61% tương ứng 305 đơn vị, con số này đã lên đến 1.335 doanh nghiệp, đạt tỷ trọng 67,76%. Năm 2009, với tốc độ tăng 15,43% tương ứng 206 đơn vị, số DNNQD đã chiếm đến 72,04% tổng số đơn vị tham gia BHXH tại Ba Đình. Đến năm 2010, nền kinh tế Việt Nam phải hứng chịu nhiều ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nhưng số lượng các DNNQD tại Ba Đình vẫn tiếp tục tăng. Toàn quận có 1.735 DNNQD, chiếm 74,65% tổng số đơn vị tham gia BHXH trên địa bàn quận. So với năm 2009, số doanh nghiệp đã tăng 12,59% tương ứng với 194 đơn vị. Mặc dù tốc độ tăng có giảm nhưng tỷ trọng và số lượng DNNQD vẫn là khá lớn.
Như vậy, số lượng DNNQD tham gia BHXH ngày càng tăng. Nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục tham gia BHXH đã ngày càng được đơn giản hóa, công tác tuyên truyền về BHXH đến các doanh nghiệp được thực hiện tốt nên ý thức tham gia BHXH của họ tăng lên. Bên cạnh đó, cơ chế thành lập doanh nghiệp được mở rộng cũng khiến cho số lượng doanh nghiệp mới được thành lập ngày càng nhiều góp phần làm tăng số lượng doanh nghiệp tham gia BHXH tại Quận Ba Đình. Ngoài ra, với vị trí địa lý thuận lợi, là nơi tập trung đông dân cư, tình hình an ninh trật tự ổn định thì quận Ba Đình cũng là một địa điểm lý tưởng thu hút các công ty đặt trụ sở kinh doanh của mình.
Hình 6 : Biểu đồ số lao động trong DNNQD
Nguồn: BHXH Quận Ba Đình
Số lượng doanh nghiệp tham gia BHXH ngày càng tăng tức là tổng số lao động làm việc tại các đơn vị này cũng tăng cao làm gia tăng số lượng đối tượng tham gia BHXH qua các năm. Năm 2007, toàn khối mới chỉ có 22.000 người lao động được tham gia BHXH. Nhưng đến năm 2008, con số này đã là 31.062 người, năm 2009 là 34.602 người và đến năm 2010, tổng số người lao động được tham gia BHXH trong khối DNNQD tại quận Ba Đình là 39359 người. Như vậy, đối tượng tham gia ngày càng được mở rộng. BHXH Ba Đình đang cố gắng khai thác một cách tối đa nguồn thu từ khối DNNQD vì đây là một nguồn thu lớn cho quỹ BHXH.
2.2.2. Số tiền thu.
Là một trong ba Quận lớn của Thành phố Hà Nội với diện tích rộng và số lượng doanh nghiệp lớn, hàng năm số thu BHXH bắt buộc của các DNNQD tại Ba Đình là rất lớn. Từ năm 2007 đến 2010, số thu này liên tục tăng lên.
Bảng 4 : Số thu BHXH bắt buộc giai đoạn 2007 - 2010 của khối DNNQD
Đơn vị: Đồng
Năm
2007
2008
2009
2010
BHXH
75.623.380.831
130.009.675.982
136.674.985.008
141.203.818.365
Lượng tăng giảm tuyệt đối (đồng)
54.386.295.151
6.665.309.026
4.348.833.357
Tốc độ phát triển liên hoàn (%)
71,97
5,12
3,31
Nguồn: BHXH Quận Ba Đình
Năm 2008, số thu đạt mức 130.009.675.982 đồng, tăng 71,97% (tương ứng với 54.386.295.151 đồng) so với 2007. Đây là năm có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất.
So với năm 2008, năm 2009 số thu có tăng (5,12% tương ứng 6.665.309.026 đồng).
Đến năm 2010, số thu BHXH bắt buộc của các DNNQD tại BHXH Quận Ba Đình đạt 141.203.818.365 đồng, tăng 3,31% so với năm 2008.
Số thu BHXH bắt buộc tăng trong giai đoạn 2007 - 2010 là do:
- Sự điều chỉnh của mức lương tối thiểu của Nhà nước đối với các DNNQD. Trong vòng 4 năm, Nhà nước ta đã thực hiện 3 lần tăng lương tối thiểu vùng cho người lao động trong khối ngoài quốc doanh từ mức 620.000 đồng lên mức 1.050.000 đồng. Việc tăng lương này nhằm mục đích đảm bảo mức sống của người lao động trước các biến động của nền kinh tế như lạm phát, khủng hoảng kinh tế.... Mà mức thu BHXH dựa trên mức tiền lương tiền công của người lao động. Do đó, khi mức lương tối thiểu vùng tăng lên làm mức lương của người lao động tăng lên thì số thu BHXH bắt buộc cũng tăng lên.
- Sự tăng lên của số lượng DNNQD và số lao động qua từng năm cũng làm cho số thu BHXH bắt buộc tăng lên. Số người tham gia càng nhiều thì số tiền nộp BHXH sẽ càng lớn.
- Sự gia tăng của mức đóng theo quy định của Luật BHXH. Trước năm 2010, người lao động đóng 5% mức tiền lương tiền công hàng tháng, người sử dụng lao động đóng 15% tổng quỹ lương. Nhưng từ năm 2010, mức đóng của người lao động tăng lên 6% và người sử dụng lao động tăng lên 16%, mức đóng BHYT tăng từ 3% lên 4,5%. Đây là một trong những nguyên nhân góp phần làm tăng số thu BHXH bắt buộc.
Bảng 5 : Kết quả thực hiện kế hoạch thu BHXH bắt buộc Quận Ba Đình
Đơn vị tính: đồng
Năm
Số kế hoạch
Số thực hiện
Tỷ lệ %
2007
71.634.789.376
75.623.380.831
105.56
2008
127.356.478.345
130.009.675.982
102.83
2009
132.789.098.789
136.674.985.008
102.92
2010
139.685.958.343
141.203.818.365
101.08
Nguồn: BHXH quận Ba Đình
Qua bảng trên có thể thấy, số thu BHXH bắt buộc của DNNQD qua các năm đều vượt mức chỉ tiêu kế hoạch. Năm 2007 vượt 5.56%, năm 2008 vượt 2,83%, năm 2009 vượt 2,92% và năm 2010 vượt 1,08%. Đây là một kết quả đáng khích lệ cho các bộ cán bộ thu nói chung và toàn thể cán bộ BHXH Ba Đình nói riêng. Ở đây kế hoạch đặt ra là hoàn toàn hợp lý, khoa học như đã phân tích ở phần Lập hoạch thu. Số kế hoạch lập ra hoàn toàn sát với tình hình thực tế. Việc số thu luôn vượt mức chỉ tiêu là kết quả của sự nỗ lực cố gắng của các cán bộ thu cũng như Ban Lãnh Đạo BHXH quận Ba Đình.
2.2.3. Tình hình nợ đọng.
Hình 7: Biểu đồ Số liệu nợ đọng BHXH của khối DNNQD
Bảng 6 : Số liệu nợ đọng của khối DNNQD giai đoạn 2007 - 2010
Đơn vị: Đồng
Năm
2007
2008
2009
2010
BHXH
8.171.903.450
6.894.372.986
4.578.368.098
3.218.001.636
Lượng tăng giảm tuyệt đối (đồng)
-1.277.530.464
-2.316.004.888
-1.360.366.462
Tốc độ phát triển liên hoàn (%)
-15,63
-33,59
-29,71
Nguồn: BHXH Quận Ba Đình
Có thể thấy, từ năm 2007 đến năm 2010, số tiền nợ đọng của các DNNQD ngày càng giảm dần. Năm 2007, tổng số nợ BHXH bắt buộc của khối là 8.171.903.450 đồng thì năm 2008 đã giảm xuống 15,63%(tương ứng 1.277.530.464) còn 6.894.372.986 đồng.
Năm 2009, với mức giảm 33,59% so với năm 2008 (tương ứng 2.316.004.888 đồng), số nợ của toàn khối DNNQD tại quận Ba Đình chỉ còn 4.578.368.098 đồng.
Tính đến hết năm 2010, tổng số nợ BHXH bắt buộc của các DNNQD chỉ còn 3.218.001.636 đồng, giảm 29,71% so với năm 2009.
Nợ đọng BHXH sẽ gây ảnh hưởng đến nguồn quỹ BHXH. Nếu các doanh nghiệp nợ trong thời gian dài, với số tiền lớn thì sẽ làm thâm hụt quỹ. Điều này sẽ làm giảm khả năng chi trả chế độ cho người lao động của quỹ BHXH do thu không đủ chi và làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.
Bên cạnh đó, nguồn thu không đủ làm cho hệ thống BHXH không có đủ kinh phí để hoạt động, không thể tổ chức được nhiều các hoạt động nâng cao chất lượng công việc của cả hệ thống BHXH trong đó có cả công tác thu làm cho số thu sẽ càng ít đi.
Nợ đọng không chỉ ảnh hưởng đến quỹ BHXH, người lao động mà còn có tác động xấu đến chính bản thân doanh nghiệp.
Trước năm 2007, thì chưa có luật quy định về việc tính lãi số tiền đóng chậm. Nhưng từ quý 4 năm 2007, cơ quan BHHXH Quận Ba Đình đã thực hiện tính lãi theo quy định của Nhà nước. Vì vậy mà càng nộp chậm với số tiền ngày càng nhiều thì số lãi mà doanh nghiệp phải nộp sẽ ngày càng lớn. Việc này sẽ khiến cho doanh nghiệp mất nhiều chi phí hơn làm lợi nhuận giảm đi.
* Các trường hợp tính lãi
- Số tiền BHXH chưa đóng, chậm đóng tính theo kỳ hạn đóng theo định kỳ (đóng hàng tháng hoặc đóng theo quý);
- Số tiền chưa đóng, chậm đóng phải truy đóng do người sử dụng lao động vi phạm các quy định tại điều 134 Luật BHXH như không đóng, đóng không đúng thời gian quy định, đóng không đúng mức quy định, đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc;
- Số tiền BHXH 2% người sử dụng lao động được giữ lại lớn hơn số tiền được quyết toán phải đóng vào tháng đầu của quý sau nhưng không đóng.
* Cách tính số tiền chậm nộp phải chịu tính lãi:
Gọi số tiền chậm nộp phải chịu tính lãi tháng này là D:
D
=
Tổng số tiền nợ BHXH của tháng trước liền kề
-
Số phải nộp phát sinh BHXH của tháng trước liền kề
-
Số tiền BHXH 2% để lại đơn vị phát sinh từ đầu quý
Trường hợp đơn vị có Phiếu đăng ký không giữ lại 2%:
D
=
Số phải nộp phát sinh BHXH của tháng trước liền kề
-
Số tiền BHXH 2% để lại
đơn vị phát sinh từ đầu quý
* Thời gian chậm nộp phải chịu tính lãi:
- Thời hạn nộp tiền BHXH: Hằng tháng chậm nhất vào ngày cuối cùng của tháng đơn vị phải nộp tiền BHXH phát sinh trong tháng.
- Thời điểm tính lãi: Sau 01 tháng kể từ ngày quá hạn phải nộp BHXH. - Thời gian chậm nộp phải chịu tính lãi: Kể từ tháng đầu tiên sau thời hạn nộp tiền.
* Công thức tính lãi:
L = D x (K/12)
Trong đó: L : Số tiền lãi phải nộp phát sinh. D : Số tiền chậm nộp phải chịu tính lãi (tính theo tháng). K : Tỷ lệ % lãi suất của hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH trong năm.
* Lãi suất hoạt động đầu tư từ quỹ BHXH:
- Tháng 01/2007 - 12/2007 là 8,40% / 1 năm = > 0,70% / tháng. - Tháng 01/2008 - 05/2008 là 8,76% / 1 năm = > 0,73% / tháng. - Tháng 06/2008 - 12/2008 là 14% / 1 năm = > 1,167% / tháng. - Tháng 01/2009 - 05/2009 là 8% / 1 năm = > 0,667% / tháng.
* Một số lưu ý :
- Lãi chậm nộp chỉ tính trên số tiền chậm nộp BHXH khi đã chậm từ 1 tháng trở lên. Như vậy lãi chậm nộp được ghi nhận theo nguyên tắc: tiền chậm nộp tháng 01/2008 sẽ phát sinh lãi chậm nộp tháng 02/2008 và được ghi thu vào kỳ thông báo tháng 03/2008, tương tự tiền chậm nộp tháng 02/2008 sẽ phát sinh lãi chậm nộp tháng 03/2008 và được ghi thu vào kỳ thông báo tháng 04/2008 v.v…
- Theo quy định của BHXH Việt Nam số tiền thực đóng BHXH, BHYT trong kỳ của mỗi đơn vị được phân bổ theo thứ tự sau:
- Tiền nợ BHYT kỳ trước chuyển sang (nếu có).
- Tiền BHYT phải đóng kỳ này.
- Tiền lãi do chậm đóng đến kỳ này (nếu có).
- Tiền nợ BHXH kỳ trước chuyển sang (nếu có).
- Tiền BHXH phải đóng kỳ này.
* Luật BHXH quy định đơn vị sử dụng lao động giữ lại 2% để trả kịp thời chế độ ốm đau, thai sản… cho người lao động; Do đó, nếu đơn vị đã chọn phương án nộp đủ BHXH, BHYT thì phải có phiếu đăng ký “không giữ lại 2%” nộp cho Cơ quan BHXH trước ngày đầu quý (trường hợp đơn vị không nộp phiếu đăng ký xem như chọn phương án giữ lại 2%), khi có quyết toán các chế độ ốm đau, thai sản… cơ quan BHXH sẽ chuyển đủ số tiền cho đơn vị theo quyết toán được duyệt; Nếu đơn vị đã đăng ký “không giữ lại 2%” nhưng không thực hiện đúng; số tiền nộp thiếu (2%) sẽ bị tính lãi chậm nộp theo quy định.
Ví dụ:
Công ty ABC có số liệu về tình hình đóng BHXH, BHYT tháng 01/2009 như sau :
Tổng số lao động : 100 người
Mức lương tham gia BHXH - BHYT : 1.000.000 đồng / người
Tổng quỹ lương tham gia BHXH - BHYT tháng 01/2009 là 100.000.000 đồng.
Số phải nộp BHXH – BHYT tháng 01/2009 là : 23.000.000 đồng, trong đó :
- Số phải nộp 20% quỹ BHXH : 20.000.000 đồng.
- Số phải nộp 3% quỹ BHYT : 3.000.000 đồng
- Tổng quỹ lương tham gia BHXH tháng 2/2009 không thay đổi so với tháng 01/2009.
Số phải nộp BHXH – BHYT tháng 02/2009 là : 23.000.000 đồng, trong đó :
- Số phải nộp 20% quỹ BHXH : 20.000.000 đồng.
- Số phải nộp 3% quỹ BHYT : 3.000.000 đồng
- Ngày 20/02/2008 đơn vị nộp tiền BHXH-BHYT tháng 01/2009 : 23.000.000 đồng.
Như vậy công ty ABC sẽ bị tính lãi như sau:
Theo hướng dẫn tại mục (5), số tiền đóng BHXH, BHYT được phân bổ như sau :
Nội dung
Số phải đóng
Phân bổ tiền
Còn nợ
- Tiền nợ BHYT
tháng 01/2009
3.000.000
3.000.000
0
- Tiền BHYT phải đóng
tháng 02/2009
3.000.000
3.000.000
0
- Tiền lãi do chậm đóng đến
tháng 02/2009
0
0
0
- Tiền nợ BHXH
tháng 01/2009 chuyển sang
20.000.000
17.000.000
3.000.000
- Tiền BHXH phải đóng
tháng 02/2009
20.000.000
20.000.000
Cộng :
46.000.000
23.000.000
23.000.000
- Như vậy, sau khi phân bổ tiền đóng BHXH – BHYT như trên theo nguyên tắc ưu tiên tính đủ cho quỹ BHYT, số tiền nợ 20% BHXH tháng 01/2009 của Công ty ABC phải chịu phạt tính lãi chậm nộp là : 3.000.000 đồng.
- Tháng 03/2009 tính lãi chậm nộp của tháng 01/2009.
- Lãi do chậm nộp tháng 01/2009 là : 3.000.000 x 8%/năm /12 = 20.000 đồng.
- Lãi chậm nộp tháng 01/2009 được thông báo trên biểu 08-TBH “Thông báo kết quả đóng BHXH, BHYT quý 01/2009”
Hơn nữa, khi quỹ BHXH không đủ để chi trả cho các chế độ của người lao động tức là quyền lợi của người lao động không được đảm bảo thì người lao động sẽ không thể tập trung làm việc. Mất quyền lợi hưởng các chế độ sẽ làm họ lo lắng cho mình nếu những rủi ro xảy ra. Bên cạnh đó, hàng tháng, tiền lương họ đều bị doanh nghiệp trích nộp BHXH nhưng thực tế doanh nghiệp lại không đóng số tiền đó mà sử dụng vào mục đích khác làm cho người lao động cảm thấy bất công. Do đó họ không thể tập trung làm việc và không muốn làm việc hết mình khi quyền lợi của họ không được bảo đảm. Việc này dẫn đến giảm năng suất lao động, tác động trực tiếp lên công việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và làm giảm lợi nhuận.
Như vậy, số liệu qua các năm thể hiện tình hình nợ đọng của các DNNQD tại Quận Ba Đình ngày càng được cải thiện song vẫn chưa hoàn toàn triệt để.
Hiện nay, thực hiện chỉ thị của BHXH thành phố Hà Nội, BHXH quận Ba Đình đang tiếp tục hoàn thiện hồ sơ, thủ tục để đưa ra tòa một số đơn vị nợ tiền BHXH trong thời gian dài với số tiền lớn. Đây là một trong những biện pháp nhằm răn đe các đơn vị có nợ đọng, cố tình chây ỳ không đóng BHXH. Năm 2010, BHXH quận Ba Đình mới chỉ khởi kiện được 1 đơn vị và sau khi bị kiện thì đơn vị mới chỉ đóng lại 2/3 số tiền nợ đọng. Như vậy, mặc dù đây là một biện pháp hữu hiệu song do thủ tục thực hiện còn phức tạp nên chưa thể phát huy hết hiệu quả của biện pháp này.
2.3. Đánh giá chung về công tác thu BHXH bắt buộc của khối DNNQD tại BHXH Ba Đình trong giai đoạn 2007 - 2010.
2.3.1. Ưu điểm.
Trong giai đoạn 2007-2010, cùng với ngành BHXH, BHXH Quận Ba Đình đã có nhiều cố gắng để hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao đặc biệt là trong công tác thu đã đạt được những ưu điểm sau:
- Mức thu luôn đạt và vượt chỉ tiêu so với kế hoạch đặt ra. Mỗi năm, trên cơ sở của mức thu năm trước và theo yêu cầu của BHXH thành phố, BHXH Ba Đình luôn đề ra một mục tiêu phấn đấu cho mình. Với sự nỗ lực cố gắng của cán bộ nhân viên BHXH, dưới sự chỉ đạo sát sao của ban lãnh đạo, BHXH Quận Ba Đình luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ thu mà BHXH thành phố giao cho thậm chí còn vượt mức chỉ tiêu.
- Số lượng người tham gia BHXH của các DNNQD cũng như số đơn vị tham gia BHXH ngày càng tăng. Do công tác tuyên truyền được thực hiện ngày càng tốt hơn nên ý thức tham gia của các DNNQD được cải thiện. Bên cạnh đó, nền kinh tế ngày càng phát triển kéo theo sự gia tăng của số doanh nghiệp cũng như số lao động cũng làm cho số đối tượng tham gia tăng lên. Ngoài ra, việc đơn giản hóa thủ tục tham gia cũng là một trong những nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp tham gia BHXH ngày một nhiều hơn. Trước đây, khi hồ sơ thủ tục quá phức tạp khiến cho doanh nghiệp rất ngại khi phải tham gia, thêm vào đó là ý thức chưa được nâng cao nên số lượng doanh nghiệp trốn đóng là rất nhiều. Vì vậy, khi các thủ tục hành chính được đơn giản hóa, hợp lý hóa thì các doanh nghiệp tự giác tham gia nhiều hơn.
- Số nợ đọng đã giảm đáng kể. Từ năm 2007 đến năm 2010, số nợ này giảm từ 8.171.903.450 đồng xuống còn 3.218.001.636 đồng. Nguyên nhân cũng xuất phát từ việc tuyên truyền tốt chính sách BHXH đến người lao động và người sử dụng lao động giúp nâng cao tinh thần tự giác tham gia và đóng BHXH. Từ năm 2007, quy định tính lãi số tiền chậm nộp cũng làm cho các doanh nghiệp tự giác nộp BHXH đầy đủ hơn để tránh việc phải chi thêm một khoản chi phí là tiền lãi chậm nộp. Tiền nợ càng lâu và càng nhiều thì lãi phải nộp sẽ càng lớn. Bên cạnh đó, trong năm 2010, BHXH quận Ba Đình đã thực hiện kiện ra toàn một số đơn vị nợ đọng trong thời gian dài với số tiền lớn. Việc này đã răn đe được các doanh nghiệp đang còn nợ vì vậy cũng thúc đẩy được các doanh nghiệp nộp tiền BHXH đầy đủ làm giảm số nợ của toàn khối tại Ba Đình.
- Công tác thu được thực hiện nhanh chóng, chuyên nghiệp, tạo thuận lợi cho các đơn vị tham gia giao dịch và cán bộ nhân viên trong cơ quan BHXH quận. Với đội ngũ cán bộ 100% có trình độ đại học, nắm rõ được chuyên môn nghiệp vụ thì mọi công việc được thực hiện nhanh gọn, đúng luật giúp tiết kiệm thời gian cho cả cơ quan BHXH và đơn vị tham gia.
2.3.2. Tồn tại
Bên cạnh những mặt tích cực thì công tác thu BHXH của các DNNQD tại quận Ba Đình vẫn còn những tồn tại:
- Cơ quan BHXH cũng như các ban ngành chức năng có liên quan vẫn chưa nắm được hoạt động kinh doanh, tình hình sử dụng lao động của doanh nghiệp. Có nhưng DNNQD có đăng kí thành lập nhưng không có trụ sở giao dịch và hoạt động trong một thời gian ngắn, không đăng ký sử dụng lao động... Cũng không cơ quan nào quản lý, theo dõi và nắm bắt được thông tin về những doanh nghiệp đã đăng kí kinh doanh, có mã số thuế nhưng không có trụ sở làm việc, thực chất có hoạt động hay không, còn kinh doanh hay đã dừng hoặc thay đổi phạm vi hoạt động. Nguyên nhân dẫn của việc này là do cơ quan BHXH chưa có sự phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan như Sở Kế hoạch và Đầu tư, sở Lao động - Thương binh và Xã hội....Đồng thời do không có đủ số lượng cán bộ để đi thanh kiểm tra về tình hình hoạt động thực tế của doanh nghiệp.
- Công tác phổ biến, hướng dẫn của cơ quan BHXH đến các doanh nghiệp về những thay đổi trong quy trình thu, thủ tục thu chưa kịp thời khiến doanh nghiệp không nắm được nghiệp vụ, gây tốn thời gian và công sức cho cả 2 bên. Chẳng hạn, khi cơ quan BHXH thay đổi biểu mẫu thì ngành BHXH nói chung, BHXH Ba Đình nói riêng chưa kịp thời gửi công văn đến đơn vị nên đơn vị chưa biết và phải đi lại nhiều lần. Nguyên nhân là do cán bộ thu có quá nhiều công việc phải giải quyết nên không có đủ thời gian để thông báo đến các đơn vị khi có những sự thay đổi về thủ tục. Bên cạnh đó, mặc dù BHXH Hà Nội đã có trang web riêng để đăng tải những thông tin cần thiết song các đơn vị rất ít khi truy cập vào để cập nhật thông tin, do vậy không nắm được những thay đổi một cách kịp thời.
- Tình trạng trốn, nợ, chậm đóng BHXH vẫn xảy ra làm cho công tác thu không đạt hiệu quả cao. Trong giai đoạn 2007 - 2010, dù số nợ đọng có giảm xuống nhưng không hoàn toàn được khắc phục triệt để. Vẫn còn tồn tại những doanh nghiệp nợ BHXH với số tiền lớn và thời gian dài mà BHXH Ba Đình không thể truy thu được. Chẳng hạn như Công ty TNHH Con cáo vàng nợ BHXH từ tháng 3 năm 2008 đến nay với số tiền tính cả lãi lên tới 753 triệu đồng.
- Cơ quan BHXH Ba Đình liên tục cập nhật sự thay đổi của mức lương tối thiểu vùng của DNNQD. Song do doanh nghiệp cố tình không muốn tăng lương do tăng lương sẽ phải tăng chi phí khi nhiều đơn vị khi lên làm giao dịch thì vẫn để mức lương trả cho người lao động thấp hơn mức lương tối thiểu vùng. Do vậy các cán bộ thu yêu cầu đơn vị phải về làm lại bảng lương, quyết định nâng lương cho người lao động. Việc này gây mất thời gian, làm giảm hiệu quả của công tác thu.
- Tại BHXH Ba Đình, do quá nhiều DNNQD tham gia trong khi số lượng cán bộ thu chỉ có hạn 17 người nên một cán bộ thu phải quản lý rất nhiều đơn vị. Vì vậy, việc phải giải quyết một khối lượng công việc lớn trong cùng một thời gian sẽ làm chậm tiến độ công việc, ảnh hưởng đến công tác thu BHXH.
- Phần mềm BHXH mà các cán bộ thu hiện nay đang sử dụng có một số hạn chế. Chưa đảm bảo được tính quản lý đầy đủ, mà chỉ mang tính chất thống kê, ví dụ như: nếu mang tính quản lý cần đòi hỏi cả phần giải quyết nghiệp vụ, theo dõi và cảnh báo, vì hiện nay các trường hợp nghỉ thai sản hết thời gian, phàn mềm này chưa cảnh báo được, hay một số nghiệp vụ
khác nữa, khiến cán bộ thu bị thụ động khi phát hiện ra nếu như đơn vị không báo cáo. Hay trong phần nguyên nhân giảm lao động của doanh nghiệp, tất cả các lao động giảm do chuyển nơi làm việc, nghỉ hưu… tất cả đều được ký hiệu GH( giảm hẳn). Việc này làm cho cán bộ thu không phân biệt được nguyên nhân nghỉ việc khi tìm bằng phần mềm gây khó khăn khi gặp vướng mắc cần phải kiểm tra.
- Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý BHXH -BHYT
- BHTN ở toàn ngành BHXH nói chung và BHXH Ba đình nói riêng cũng đã được áp dụng. Số lượng máy tính được trang cấp đầy đủ đến từng cá nhân song việc sử dụng chưa được hiệu quả và đồng bộ nên ảnh hưởng rất lớn đến công tác thu. Điển hình là việc lao động chuyển nơi làm việc song do doanh nghiệp báo giảm không kịp thời dẫn đến tình trạng đóng ở hai nơi. Nguyên nhân là do mạng BHXH dù đã xây dựng được mạng LAN trong cơ quan song chua liên kết được giữa các quận, huyện, thành phố trên cả nước với nhau. Vì vậy khi có trường hợp trùng hay những sai sót trong công tác quản lý giữa các quận thì các cán bộ thu rất khó nắm được dẫn đến có nhiều sai lầm trong công tác thu. Ngoài ra việc người lao động chuyển địa điểm làm việc sang nơi khác thì mặc dù ở cơ quan BHXH cũ mà trước đây họ đã tham gia cán bộ đã phải nhập quá trình công tác nhưng sang địa bàn mới thì cán bộ thu vẫn phải nhập lại quá trình này tốn rất nhiều thời gian. Trong khi đó, nếu có sự liên kết giữa các cơ quan BHXH với nhau thì chỉ cần chuyển qua mạng quá trình đó thì cán bộ thu sẽ không phải nhập lại quá trình công tác của người lao động.
- Công tác thanh kiểm tra, đốc thu BHXH đã được thực hiện nhưng chưa thường xuyên. Hàng tháng, các cán bộ thu sẽ xuống đơn vị còn đang nợ đọng, chậm nộp BHXH của mình để kiểm tra tình tình thực hiện chế độ BHXH và đốc nợ. Nhưng hiện nay, do một cán bộ quản lý quá nhiều đơn vị và khối lượng công việc phải giải quyết quá lớn nên việc đi kiểm tra, đốc nợ không thể thực hiện được thường xuyên và ở tất cả các đơn vị nợ, chậm đóng. Hầu như việc đốc thu mới chỉ dừng lại ở việc gửi công văn đốc thu về các đơn vị. Điều này làm cho các đơn vị chây ỳ, không muốn nộp BHXH gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng công tác thu.
2.3.3. Nguyên nhân của tồn tại.
Những tồn tại trên đều xuất phát từ một số những nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:
2.3.3.1 Về phía doanh nghiệp
DNNQD là loại hình doanh nghiệp không có sự tham gia của Nhà nước trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Họ hầu như chỉ tập trung vào việc sản xuất kinh doanh mà chưa quan tâm đến việc đóng BHXH. Hơn nữa Người sử dụng lao động luôn muốn trốn đóng, nợ BHXH vì họ cho rằng tham gia BHXH họ sẽ mất thêm một khoản chi phí đồng nghĩa với việc lợi nhuận giảm đi.Như vậy, ý thức và sự hiểu biết của người sử dụng lao động về BHXH là chưa cao dẫn đến tình tráng trốn đóng, nợ đọng.
Ngoài ra, việc khó khăn trong sản xuất kinh doanh cũng làm một nguyên nhân khiến các doanh nghiệp đôi khi không thể nộp được BHXH. Nhiều DNNQD có phương pháp kinh doanh không ổn định, cộng với sự biến động tiêu cực của thị trường sẽ bị đẩy vào tình trạng phá sản, làm cho người lao động dễ mất việc.
2.3.3.2 Về phía người lao động
Sự hiểu biết của người lao động về quyền được tham gia BHXH là chưa nhiều nên đôi lúc họ vẫn cùng với người sử dụng lao động vi phạm Luật BHXH ( thỏa thuận giảm mức lương ghi trong hợp đồng để giảm tiền đóng BHXH); hay quyền lợi của họ bị ảnh hưởng nhưng họ cũng không hề hay biết để có những biện pháp yêu cầu người sử dụng lao động đảm bảo quyền lợi cho mình.
Hơn nữa, do chịu sức ép về việc làm và tiền lương nên người lao động nhiều khi biết doanh nghiệp có vi phạm song không dám lên tiếng đấu tranh đòi quyền lợi..
2.3.3.3. Về phía tổ chức công đoàn
Công đoàn là tổ chức đại diện hợp pháp đứng ra bảo vệ quyền lợi của người lao động. Tuy nhiên ở đa số các doanh nghiệp hiện nay, tổ chức công đoàn chưa thể hiện được hết vai trò của mình, tiếng nói của công đoàn chưa có trọng lượng, chưa đủ sức để lên tiếng bảo vệ cho người lao động, buộc doanh nghiệp phải thực hiện đúng luật. Vì ở các doanh nghiệp, cán bộ công đoàn đều là kiêm nhiệm, do người sử dụng lao động chỉ định.
Họ cũng như những người lao động khác trong doanh nghiệp, là người làm công ăn lương, lệ thuộc việc làm và thu nhập vào chủ doanh nghiệp. Nếu không thực hiện theo sự chỉ đạo của chủ doanh nghiệp thì sẽ bị điều chuyển, ảnh hưởng tới công việc và thu nhập. Do vậy tổ chức công đoàn chưa thể phát huy hết tác dụng của mình trong việc bảo vệ người lao động.
Ở nhiều doanh nghiệp dù đã hoạt động lâu song vẫn chưa thành lập tổ chức công đoàn và phải đến khi thanh tra lao động hoặc cơ quan BHXH yêu cầu gắt gao thì họ mới thành lập. Vì vậy người lao động không có tổ chức đứng ra đại diện cho mình.
2.3.3.4. Về phía Nhà nước.
Chính sách BHXH đang trong quá trình hoàn thiện, các chế độ, quy định, luật thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới. Nhưng các cơ quan Nhà nước lại không có những hướng dẫn kịp thời, cụ thể trong việc triển khai. Do vậy, người lao động, người sử dụng lao động cũng như cán bộ làm công tác thu khó nắm vững nhiều chính sách làm cho việc triển khai thực hiện không đúng quy định. Và đôi khi các quy định không chặt chẽ khiến cho các doanh nghiệp dễ dàng lách luật.
Tình trạng nợ đọng, chậm đóng, trốn đóng vẫn diễn ra vì pháp luật chưa có các chế tài xử lý thích đáng đối với các trường hợp vi phạm. Hiện nay, chế tài xử phạt với các doanh nghiệp vi phạm là chưa đủ sức răn đe. Mức phạt đối với các doanh nghiệp trốn đóng hiện nay là 30 triệu đồng ( Nghị định 86/2010/NĐ-CP). Thực tế nhiều doanh nghiệp khi bị thanh tra đã sẵn sàng nộp phạt, vì thà chịu mức phạt 30 triệu đồng còn hơn là phải đóng BHXH tới cả chục tỷ đồng.
Bên cạnh đó quy định tính lãi chậm nộp BHXH thấp hơn lãi doanh nghiệp vay ngân hàng khiến cho nhiều doanh nghiệp chấp nhận chịu phạt hơn là đi vay ngân hàng nộp BHXH.
Bảng 7 : Lãi suất chậm nộp
Năm
Từ 01/2008 đến 05/2008
Từ 06/2008 đến 12/2008
2009
2010
Lãi suất chậm nộp (%)
8,76
14
8
10,5
Nguồn: www.tapchitaichinh.vn
Mức lãi chậm nộp năm 2010 mới chỉ có 10,5% trong khi mức lãi suất đi vay ngân hàng của trên 20%. Do vậy nếu so với việc đóng tiền BHXH thì việc trốn đóng và chịu nộp phạt doanh nghiệp vẫn có lợi hơn.
Cơ chế xử lý vi phạm hiện nay là không kịp thời. Cơ quan BHXH nắm chắc nguồn thu nộp BHXH của đơn vị nhưng không có thẩm quyền xử lý vi phạm vì đây chỉ là cơ quan sự nghiệp. Việc xử lý này lại do chủ tịch UBND quận huyện, tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội, Chánh thanh tra Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Chánh thanh tra Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thực hiện. Để có thể xử phạt được thì những người này phải chờ báo cáo từ BHXH, kiểm tra và làm thủ tục xử phạt. Việc này rất mất thời gian, khiến cho việc xử lý vi phạm không kịp thời và nhanh chóng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kéo dài thời gian trốn đóng, nợ đọng.
2.3.3.5. Về phía cơ quan BHXH
- Hiện nay, cơ quan BHXH quận Ba Đình có 38 cán bộ trong đó có 17 cán bộ thu quản lý gần 2000 doanh nghiệp, thêm việc chi trả lương hưu và làm thẻ y tế tự nguyện của 14 phường. Như vậy, mỗi cán bộ phải đảm đương nhiều công việc vì thế việc sai sót, chậm trễ trong việc thực hiện công tác thu là hoàn toàn có thể xảy ra.
- Điều kiện làm việc chưa đầy đủ, hiện tại cơ quan BHXH chỉ có một máy photo nhưng đã bị hỏng, máy in do sử dụng lâu ngày nên đã cũ. Vì vậy, việc in ấn các giấy tờ,thủ tục mất rất nhiều thời gian, ảnh hưởng đến tiến độ làm việc.
2.3.3.6 Một số nguyên nhân khác
- BHXH Việt Nam chưa xây dựng được một hệ thống mạng liên kết toàn ngành, giữa BHXH các quận huyên, thành phố với nhau.
- Việc thiết kế các phần mềm chuyên ngành còn một số lỗi khiến cho phần mềm mà các cán bộ sử dụng hiện nay có những hạn chế gây ảnh hưởng đến công tác kiểm tra thông tin.
CHƯƠNG III :
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
CÔNG TÁC THU BHXH BẮT BUỘC CỦA KHỐI DNNQD
TẠI BHXH QUẬN BA ĐÌNH
1. Định hướng phát triển công tác thu BHXH bắt buộc trong thời gian tới tại BHXH quận Ba Đình
Trong thời gian tới, Quận Ba Đình tiếp tục xác định khối DNNQD là một khối có tiềm năng thu lớn. Vì vậy, việc phát triển công tác thu của khối này là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. BHXH Ba Đình sẽ tiếp tục mở rộng số lượng người tham gia cũng như số đơn vị ngoài quốc doanh tham gia BHXH tối đa để có thể khai thác hết tiềm năng thu của khối này.
Bên cạnh đó, sẽ nâng cao công tác quản lý mức tiền lương, tiền công là cơ sở xác định mức đóng BHXH của người lao động. Việc xác định chính xác mức tiền lương tiền công làm căn cứ đóng sẽ giúp cho công tác thu được thực hiện dễ dàng, thu đúng, thu đủ. Quản lý tốt quỹ tiền lương, tiền công, luôn năm rõ, cập nhật thời điểm tăng tiền lương, tiền công của người tham gia, không làm thất thu BHXH. Ngoài ra, một nhiệm vụ trọng tâm nữa được BHXH quận Ba Đình chú tâm đó là nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ công chức về mặt chuyên môn, nghiệp vụ để đảm bảo thực hiện tốt chất lượng công việc. Với một khối lượng công việc lớn tại BHXH quận Ba Đình thì cán bộ thu đòi hỏi phải có đủ trình độ nghiệp vụ chuyên nghiệp, có khả năng chịu được áp lực công việc tốt thì mới có thể làm tốt được nhiệm vụ được giao.
Về nhiệm vụ chung, trong thời gian tới BHXH quận Ba Đình tiếp tục định hướng:
* Công tác thu
- Tập trung đôn đốc các cơ quan đơn vị đảm bảo hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch thành phố giao từ 1% so với kế hoạch.
- Tiếp tục chốt, cấp sổ BHXH cho số đối tượng đã tham gia BHXH.
* Tiếp tục triển khai thực hiện Luật BHYT trên địa bàn quận theo đúng quy định của Nhà nước.
* Phối hợp với UBND các phường tổ chức chi trả lương hưu tại phường. Phấn đấu hoàn thành tốt công tác chi trả với số tiền ước khoảng 1.150 tỷ đồng.
* Thực hiện tích cực các phong trào thi đua do ngành và địa phương phát động.
* Xây dựng đơn vị trong sạch vững mạnh
* Phấn đấu năm 2011 đạt cờ thi đua của UBND thành phố.
2. Một số giải pháp, khuyến nghị nhằm hoàn thiện tốt công tác thu BHXH của khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại BHXH Quận Ba Đình.
2.1. Tuyên truyền, phổ biến chính sách BHXH.
Công tác tuyên truyền về BHXH, BHYT, BHTN nhằm mục đích làm cho người sừ dụng lao động, người lao động hiểu rõ về ý nghĩa, mục đích của chính sách BHXH và hiểu quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia BHXH để từ đó có ý thức chấp hành cao hơn theo quy định của pháp luật về BHXH. Tuy nhiên, với ý nghĩa khi tham gia là khác nhau, mặt khác nhận thức của mỗi người là khác nhau nên hình thức và nội dung tuyên truyền cho người sử dụng lao động và người lao động là khác nhau và phải phù hợp với những đặc điểm đó.
Đối với người lao động, cần đi sâu vào tuyên truyền về quyền lợi của các chế độ BHXH mà họ sẽ được hưởng cũng như những điều kiện cần có để được hưởng các chế độ đó. Từ đó sẽ giúp họ hiểu được lợi ích của BHXH đối với bản thân và gia đình khi họ gặp phải các rủi ro xã hội. Như vậy họ sẽ có ý thức hơn trong việc tham gia và yêu cầu doanh nghiệp tham gia đầy đủ BHXH cho họ.
Đối với người sử dụng lao động, cần phải để họ thấy rõ được khi tham gia BHXH họ sẽ có được những lợi ích gì cho doanh nghiệp mình. Khi khỏe mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả tiền lương hoặc tiền công. Khi bị ốm đau, thai sản, TNLĐ, tuổi già hoặc không may bị chết đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị giảm hoặc bị mất, nhờ đó đời sống của bản thân và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định. Qua đó, BHXH giúp người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với doanh nghiệp, tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế đem lại
nhiều lợi nhuận hơn cho doanh nghiệp. Ngoài ra, nhờ có BHXH, những chi phí của người sử dụng lao động cho những rủi ro trong sử dụng lao động cũng được ổn định, có thể dự liệu, hạch toán được. Điều đó giúp cho doanh nghiệp yên tâm tính toán để phát triển sản xuất không bị phá sản kể cả khi có những rủi ro lớn xảy ra.
Chúng ta có thể sử dụng đa dạng hóa các hình thức và biện pháp tuyên truyền để tuyên truyền về BHXH đến người lao động và người sử dụng lao động.
Có thể sử dụng các phương tiện báo chí, truyền thông như:
- Báo hình: liên kết, phối hợp với các đài truyền hình để làm và trình chiếu các đoạn quảng cáo tuyên truyền, phát các cuộc thi tìm hiểu, cuộc thi văn nghệ về BHXH trên các kênh truyền hình. Ngày nay, ti vi là một vật dụng phổ biến mà bất cứ gia đình, cơ quan nào cũng có. Do vậy đây là một hình thức tuyên truyền hiệu quả, mọi người đều có thể dễ dàng tiếp cận.
- Báo viết : đăng tải các bài viết, những chính sách mới của Nhà nước về BHXH và các cuộc thi tìm hiểu trên các báo để bạn đọc có thể dễ dàng tìm hiểu và nắm được thông tin về những hoạt động, những thay đổi của pháp luật về BHXH.
- Báo nói: có thể cùng với các đài phát thanh làm các chương trình như hỏi đáp về Luật BHXH và những vấn đề có liên quan, phát động những cuộc thi tìm hiểu Luật BHXH. Với hình thức này, bạn nghe đài có thể gọi điện trực tiếp và được các nhà tư vấn trả lời ngay các khúc mắc về BHXH. Đây cũng là một phương pháp tuyên truyền khá hiệu quả, giúp cho mọi người có được những hiểu biết về BHXH một cách nhanh chóng và thuận tiện.
- Mạng Internet: thành lập các trang web riêng của BHXH để đăng tải các thông tin hoạt động, chế độ chính sách, văn bản chuyên ngành liên quan đến BHXH. Bên cạnh đó, cần có thêm mục giải đáp để mọi người khi có thắc mắc có thể truy cập đặt câu hỏi. Đây là hình thức tuyên truyền rất hiệu quả vì ngày nay, internet được mọi người sử dụng rất phổ biến và không thể thiếu trong mỗi gia đính, cơ quan, doanh nghiệp. Mọi người đều có thể truy cập internet ở bất cứ đâu bằng nhiều hình thức khác nhau. Vì vậy, internet là một công cụ đắc lực trong công tác tuyên truyền về BHXH.
Bên cạnh việc sử dụng các công cụ truyền thông, cần mở các lớp tập huấn cho cán bộ làm chính sách BHXH để họ có thể nắm được và hiểu rõ những quy định đã ban hành cũng như những điểm mới trong chính sách BHXH. Qua đó nâng cao được chuyên môn nghiệp vụ, làm việc hiệu quả, chính xác hơn.
Có thể kết hợp các buổi sinh hoạt công đoàn hay các buổi gặp gỡ cán bộ tuyên truyền với người lao động của doanh nghiệp để tiến hành trao đổi, minh họa bằng những ví dụ thực tế, gần gũi xung quanh, giải đáp thắc mắc của người lao động về BHXH, BHYT, BHTN
Sử dụng hình thức phát tờ rơi với nội dung ngắn gọn, dễ hiểu, có hình ảnh minh họa cụ thể đến người lao động.
Tổ chức các cuộc thi viết, tìm hiểu về Luật BHXH.
Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu thông qua hình thức biểu diễn, ca nhạc, có nội dung, ý nghĩa về BHXH. Nên tổ chức để người lao động tại các doanh nghiệp trực tiếp tham gia biểu diễn để họ có ý thức tự giác học hỏi những vấn đề liên quan đến BHXH.
Để làm được điều này, trước hết chúng ta cần có kinh phí để thực hiện. Ngoài ra, cần chọn được cán bộ năng nổ, có khả năng tuyên truyền, có trình độ để có thể tuyên truyền một cách chính xác. Việc tập huấn cho cán bộ tuyên truyền về phương pháp tuyên truyền cũng rất cần thiết để họ có cách làm khoa học, hiệu quả.
2.2. Quản lý tốt đối tượng tham gia BHXH của khối DNNQD
Giải pháp này nhằm mục đích giúp cho cơ quan BHXH có thể nắm rõ và kiểm soát được số lượng doanh nghiệp trên địa bàn thuộc diện tham gia BHXH và số lao động làm việc thực tế trong mỗi doanh nghiệp để có thể thu đúng đối tượng, thu đủ số lượng. Cơ quan BHXH có thể quản lý đối tượng tham gia thông qua việc phối hợp với các cơ quan sau:
- Cơ quan BHXH có thể phối hợp với Sở Kế hoạch và Đầu tư để nắm được số lượng các doanh nghiệp thành lập và hoạt động trên địa bàn quận. Vì Sở Kế hoạch và Đầu tư là nơi doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Mỗi doanh nghiệp khi muốn hoạt động kinh doanh trên địa bàn nào đó đều phải đăng ký kinh doanh tại Sở Kế hoạch và Đầu tư nơi đó. Do đó Sở Kế hoạch Đầu tư sẽ nắm được
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- khoa luan tot nghiep111111.doc