Tài liệu Đề tài Công tác quản lý thu, chi quỹ bảo hiểm xã hội: LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay kinh tế thị trường đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng đối với nền kinh tế mỗi quốc gia, đưa mỗi đất nước phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó, sự bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng. Dù là một nước xã hội chủ nghĩa hay nước tư bản thì quyền con người vẫn luôn được đặt lên hàng đầu. Do vậy các quốc gia đã thực hiện nhiều biện pháp để bảo vệ quyền con người, trong đó có BHXH. Có thể nói BHXH là một chính sách xã hội không thể thiếu được của một quốc gia: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội, văn hoá và nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con người” (Tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948- Đại hội đồng Liên hợp quốc). Là một nước xã hội chủ nghĩa, với bản chất là nhà nước của dân, do dân, vì dân, BHXH đã và đang ngày càng trở thành một công cụ hữu hiệu để đất nước ta chống lại những khiếm khuyết do nền kinh tế thị trường mang...
50 trang |
Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1297 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Công tác quản lý thu, chi quỹ bảo hiểm xã hội, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay kinh tế thị trường đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng đối với nền kinh tế mỗi quốc gia, đưa mỗi đất nước phát triển. Tuy nhiên bên cạnh đó, sự bất bình đẳng, phân hóa giàu nghèo ngày càng gia tăng. Dù là một nước xã hội chủ nghĩa hay nước tư bản thì quyền con người vẫn luôn được đặt lên hàng đầu. Do vậy các quốc gia đã thực hiện nhiều biện pháp để bảo vệ quyền con người, trong đó có BHXH. Có thể nói BHXH là một chính sách xã hội không thể thiếu được của một quốc gia: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội, văn hoá và nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con người” (Tuyên ngôn nhân quyền ngày 10/12/1948- Đại hội đồng Liên hợp quốc). Là một nước xã hội chủ nghĩa, với bản chất là nhà nước của dân, do dân, vì dân, BHXH đã và đang ngày càng trở thành một công cụ hữu hiệu để đất nước ta chống lại những khiếm khuyết do nền kinh tế thị trường mang lại, bảo vệ quyền con người và đã thể hiện được tính ưu việt của chế độ ta-chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhưng để hoạt động được đòi hỏi BHXH phải có một nguồn tài chính nhất định. Đó là quỹ BHXH. Làm thế nào để nguồn quỹ này được dồi dào, lớn mạnh, làm thế nào để có thể đảm bảo cân đối quỹ được lâu dài, đó là câu hỏi khó giải đáp không chỉ đối với BHXH nói riêng mà cả đất nước nói chung.
Trước đây quỹ BHXH nước ta thuộc ngân sách Nhà nước, người lao động không phải đóng BHXH nhưng vẫn được hưởng. Từ khi quỹ BHXH tách khỏi ngân sách Nhà nước trở thành một nguồn quỹ độc lập thì quỹ thực hiện theo nguyên tắc có đóng-có hưởng. Tuy nhiên do Nhà nước chỉ hỗ trợ khi cần thiết (thường là khi quỹ thâm hụt), cho nên quỹ vẫn phải chi trả chế độ cho các đối tượng là người lao động có thời gian tham gia công tác trước ngày 1/1/1995 không phải đóng BHXH, bộ phận này chiếm số lượng rất lớn trong lực lượng lao động, do vậy ảnh hưởng rât nhiều đến việc bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Nếu ngân sách không cấp kinh phí để chi cho đối tượng này thì quỹ BHXH sẽ nhanh bị thâm hụt. Nhưng xác định nguồn ngân sách Nhà nước cấp như thế nào cho phù hợp là một vấn đề rất khó đối với các chuyên gia trong ngành BHXH.
Chính vì tầm quan trọng của việc xác định nguồn ngân sách Nhà nước cấp cho quỹ BHXH nên em chọn đề tài “Công tác quản lý thu, chi quỹ Bảo Hiểm Xã Hội”.
CHƯƠNG I:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẢN CHẤT CỦA BẢO HIỂM XÃ HỘI
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở và đi lại. Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm này được tạo ra ngày càng nhiều thì đời sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như vậy, việc thoả mãn nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng lao động của họ. Nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho con người bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn, bất ngờ bị ốm đau tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm.v.v..Khi ở vào những trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như: cần được khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thương tật nặng cần có người chăm sóc nuôi dưỡng.v.v..Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội,loàI người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong cộng đồng; đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước v.v…Rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn.
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển việc, thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu cần thiết khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sảnv.v…Trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không mong muốn. Vì thế mâu thuẫn chủ thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động đến nhiều mặt đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt làm tăng cường vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp phải những biến bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy,nguồn quỹ tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng.Khả năng giải quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ trên được thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Như vậy Bảc hiểm là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần đối với người lao dộng khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Với cách hiểu như trên, bản chất của BHXH được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau:
-BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động trong cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt quá trạng thái kinh tế của mỗi nước.
Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH, bên được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ có thể là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH (bên nhận nhiệm BHXH) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và đình họ khi có đủ các điều kiện cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động mất việc làm trong BHXH có thể là những rủi rongẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản. Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động.
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp những biến cố, rủi ro đó sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia bảo hiểm đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được hỗ trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêucủa BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã được tổ chức lao động quốc tế (ILO) cụ thể hoá như sau:
+Đền bù cho cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khoẻ và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng nhu cầu sống của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, BHXH đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội, quyền đó được đặt cơ sở `trên sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hoá nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”. Ở nước ta, BHXH là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo hiểm xã hội. Ngoài BHXH, chính sách bảo đảm xã hội còn có cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội.
Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của xã hội, trong những trường hợp bị bất hạnh, rủi ro, đói nghèo, không đủ khả năng để tự lo cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình. Sự giúp đỡ này được thể hiện bằng các nguồn quỹ dự phòng của Nhà nước, bằng tiền hoặc vật đóng góp của các tổ chức xã hội và những người hảo tâm.
Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất và tinh thần của Nhà nước, của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với nhưng người hay một bộ phận xã hội có nhiều cống hiến cho xã hội. Chẳng hạn những người có công với nước, liệt sỹ và thân liệt sỹ, thương binh, bệnh binh. Đều là đối tượng được hưởng đãi ngộ của Nhà nước, của xã hội, ưu đãi xã hội tuyệt nhiên không phải là sự ban ơn, bố thí, mà nó là một chính sách xã hội có mục tiêu chính trị-kinh tế -xã hội, góp phần củng cố thể chế chính trị của Nhà nước trước mắt và lâu dài, đảm bảo sự công bằng xã hội.
Mặc dù có nhiều điểm khác nhau của đối tượng và phạm vi, song BHXH, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội đều là những chính sách xã hội không thể thiếu được của mỗi quốc gia. Những chính sách nàyluôn bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau và tất cả đều góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
II. ĐỐI TƯỢNG BHXH
BHXH ra đời vào giữa những năm thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Âu. Từ năm 1883 ở nước Phổ (CHLB Đức ngày nay) đã ban hành luật bảo hiểm y tế. Một số nước châu Âu và Bắc Mỹ mãi đến cuối năm 1920 mới có đạo luật về BHXH.
Tuy ra đời lâu như vậy nhưng đối tượng của BHXH vẫn có nhiều quan điểm chưa thống nhất. Đôi khi còn nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH với đối tượng tham gia BHXH.
Chúng ta đều biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất đi khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu. Chính vì vậy, đối tượng của BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc 1 bộ phận những người lao động nào đó.
Hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH, đều thực hiện BHXH đối với các viên chức nhà nước, những người làm công hưởng lương.Việt Nam cũng không vượt ra khỏi thực tế này, mặc dù biết rằng như vậy là không bình đẳng giữa tất cả những người lao động.
Nếu xem xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao động còn có người sử dụng người lao động và cơ quan BHXH, dưới sự bảo trợ của Nhà nước. Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho người lao động mà họ sử dụng. Còn cơ quan BHXH nhận sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ ràng buộc này chính là đặc trưng riêng có của BHXH. Nó quyết định sự tồn tại, hoạt động và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững.
III. CHỨC NĂNG CỦA BHXH
BHXH có những chức năng chủ yếu sau đây:
Thay thế hoặc bù đấp một phần thu nhập cho người lao động tham gia bảo hiểm khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra vì suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao dộng khi hết tuổi lao động theo các điều kiện quy định của BHXH. Còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động cũng sẽ được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng quy định. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính chất và cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH.
- Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ có người lao động mà cả những những người sử dụng lao động. Các bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang. Phân phối lại giữa những người có thu nhập cao và thấp, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc v.v…Thực hiện chức năng này có nghĩa là BHXH góp phần thực hiện công bằng xã hội.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái làm việc, nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Khi bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già đã có BHXH trợ cấp thay thế nguồn thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó người lao động luôn yên tâm, gắn bó tận tình với công việc, với nơi làm việc. Từ đó, họ rất tích cực trong lao động sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng suất lao động cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động, giữa người lao động và xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động.v.v…Thông qua BHXH, nhưng mâu thuẫn đó sẽ được điều hoà và giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với Nhà nước và xã hội, chi cho BHXH là cách thức phải chi ít nhất và có hiệu quả nhất nhưng vẫn giải quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tế, chính trị và xã hội được phát triển và an toàn hơn.
IV. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
Khi thực hiện BHXH, các nước đều phải lựa chọn hình thức, cơ chế và mức độ thoả mãn các nhu cầu BHXH phù hợp với tập quán, khả năng trang trải và định hướng phát triển kinh tế -xã hội của nước mình. Đồng thời, phải nhận thức thống nhất các quan điểm về BHXH sau đây:
1. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phận quan trọng nhất trong chính sách BHXH.
Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ, khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Ở nước ta, BHXH nằm trong hệ thống các chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Thực chất, đây là một trong những loại chính sách đối với con người nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người, nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn lao động, an toàn xã hội.v.v... Chính sách BHXH còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia. Trong một chừng mực nhất định, nó còn thể hiện tính ưu việt của một chế độ xã hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Người sử dụng lao phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho người lao động.
Người sử dụng lao động thực chất là các tổ chức là các tổ chức, các doanh nghiệp và các cá nhân có thuê mướn lao động. Họ phải có nghĩa vụ đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động mà mình sử dụng theo đúng luật pháp quy định. Người sử dụng lao động muốn ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh thì ngoài việc phải chăm lo để đầu tư để có máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ tiên tiến còn phải chăm lo tay nghề và đời sống cho người lao động mà mình sử dụng. Khi người lao động làm việc bình thường thì phải trả lương cho họ. Khi họ gặp rủi ro, bị ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp..v.v..trong đó có rất nhiều trường hợp gắn với quá trình lao động với những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có trách nhiệm BHXH cho họ. Chỉ có như vậy, người lao động mới yên tâm, tích cực lao động sản xuất, phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp phần nâng cao năng suất lao động và tăng hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp.
Điều đó có nghĩa là mọi người lao động trong xã hội đều được hưởng BHXH như tuyên ngôn nhân quyền đã nêu, đồng thời đình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền lợi trợ cấp BHXH. Người lao động khi gặp rủi ro không mong muốn và không phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của người khác thì trước hết đó là rủi ro của bản thân. Vì thế, nếu muốn được BHXH tức là muốn nhiều người khác hỗ trợ cho mình là dàn trải rủi ro của mình cho nhiều người khác thì tự mình phải gánh chịu trực tiếp và trước hết. Điều đó có nghĩa là bản thân người lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho mình.
Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động vè BHXH còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế mỗi nước. Nhìn chung, khi sản xuất phát triển, kinh tế tăng trưởng, chính trị ổn định thì người lao động tham gia và được hưởng trợ cấp BHXH ngày càng đông.
4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố
- Tình trạng mất khả năng lao động
- Tiền lương lúc đang đi làm
- Tuổi thọ bình quân của người lao động
- Điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phảI thấp hơn mức lương lúc đang đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu.
Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội vừa phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho người lao động tham gia BHXH. Trợ cấp BHXH là loại trợ cấp thay thế tiền lương. Mà tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động khi họ thực hiện được những công việc nào đó. Nghĩa là chỉ người lao động có sức khoẻ bình thường, có việc làm bình thường và thực hiện được những công việc nhất định mới có tiền lương. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không làm việc được mà trước đó có tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp đó không thể bằng tiền lương do lao động tạo ta được. Nếu mức trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một người lao động nào phải cố gắng tìm kiếm việc làm và tích cực làm việc để có lương, mà ngược lại sẽ lợi dụng BHXH để được nhận trợ cấp. Hơn nữa cách lập quỹ BHXH theo phương thức dàn trảI rủi ro BHXH bằng tiền lương lúc đang đi làm. Và như vậy thì chẳng khác gì người lao động bị rủi ro qua rủi ro của mình để dàn trải hết cho những người khác.
5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH.
Bởi vì BHXH là một bộ phận cấu thành lên các chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế xã hội. Cho nên, vai trò của nhà nước là rất quan trọng. Thực tế đã chỉ rõ nếu không có sự can thiệp của nhà nước, nếu không có sự quản lý vĩ mô của nhà nước thì mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ không được duy trì bền vững.
Hơn nữa, BHXH được thực hiện qua một quy trình, từ việc hoạch định chính sách, đảm bảo vật chất đến việc xét trợ cấp…. Vì vậy nhà nước quản lý toàn bộ quy trình này, hay có giới hạn về mức độ và phạm vi.
Trước hết, phải khẳng định rằng việchoạch định chính sách BHXH là khâu đầu tiên quan trọng nhất. Sự quản lý của nhà nước về vấn đề này thể hiện ở việc xây dựng các dự án luật, các văn bản pháp quy về BHXH và ban hành thực hiện. Sau đó là hướng dẫn kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách.
Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của nhà nước phụ thuộc vào chính sách BHXH do nhà nước quy định. Có những mô hình về đảm bảo vật chất cho BHXH do ngân sách nhà nước cung cấp thì vai trò quản lý nhà nước là trực tiếp và toàn diện, nếu nguồn bảo đảm trợ cấp do người sử dụng lao động, người lao động và nhà nước đóng góp thì nhà nước tham gia quản lý.
Để quản lý BHXH, nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu như luật pháp và bộ máy tổ chức. Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới, việc quản lý vĩ mô BHXH đều được nhà nước giao cho Bộ Lao động hoặc Bộ xã hội trực tiếp điều hành.
V. QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước.
Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau đây:
Người sử dụng lao động đóng góp,
Người lao động đóng góp,
Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm,
Các nguồn khác (như các cá nhân và các tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi đầu tư phần quỹ nhàn dỗi).
Trong nền kinh tế hàng hoá, trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được phân chia cho cả người sử dụng lao động và người lao động trên cơ sở quan hệ lao động. Điều này không phải là sự phân chia rủi ro, mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử dụng lao động, sự đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được thiệt haị kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với người lao dộng mà mình thuê mướn. Đồng thời nó còn góp phần giảm bớt tình trạng tranh chấp, kiến tạo được mối quang hệ tốt đẹp giữa chủ- thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp một phần để BHXH cho mình vừa biểu hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Mối quan hệ chủ-thợ trong BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích. Vì thế, cũng như nhiều lĩnh vực khác trong quan hệ lao động, BHXH không thể thiếu được sự tham gia đóng góp của Nhà nước. Trước hết các luật lệ của Nhà nước về BHXH là những chuẩn mực pháp lý mà cả người lao động và người lao động đều phải tuân theo, những tranh chấp chủ- thợ trong lĩnh vực BHXH có cơ sở vững chắc để giải quyết. Ngoài ra, bằng nhiều hình thức, biện pháp mức độ can thiệp khác nhau, Nhà nước không chỉ tham gia đóng góp và hỗ trợ thêm cho quỹ BHXH chắc chắn và ổn định. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ bảo BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia BHXH có khác nhau.
Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng phải căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan doanh nghiệp. Quan điểm thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước khác lại quy định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH.
Mức đóng góp BHXH ở một số nước trên thế giới
Tên nước
Chính phủ
Tỷ lệ đóng góp của người lao động so với tiền lương (%)
Tỷ lệ đóng góp của người sử dụng lao động so với quỹ lương (%)
CHLB Đức
Bù thiếu
14,8-18,8
16,3-22,6
CH Pháp
Bù thiếu
11,82
19,68
Inđônêxia
Bù thiếu
3,0
6,5
Philipin
Bù thiếu
2,85-9,25
6,85-8,05
Malaixia
Chi toàn bộ chế độ thai sản, ốm đau
9,5
12,75
( Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới)
Ở nước ta, từ 1962 đến 1987, quỹ BHXH chỉ được hình thành từ 2 nguồn : các xí nghiệp sản xuất vật chất đóng góp 4,7% quỹ lương của xí nghiệp phần còn lại do ngân sách Nhà nước đài thọ. Thực chất không tồn tại qỹu BHXH độc lập. Từ năm 1988 đến nay các đơn vị sản xuất kinh doanh tự đóng góp 15% quỹ lương của đơn vị. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP ngày 26/01/1993 và Điều lệ BHXH được ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995, trong các văn bản này đều quy định quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị. Trong đó 10% để chi trả các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- Người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất.
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động.
- Các nguồn khác.
Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân bằng thu chi quỹ BHXH. Vì vậy quỹ này phải được tính toán một cách khoa học. Trong thực tế, việc tính phí BHXH là một nghiệp vụ quan trọng chuyên sâu của BHXH và người ta thường sử dụng các phương pháp toán học khác nhau để xác định. Khi tính phí BHXH, có thể có những căn cứ tính toán khác nhau :
Dựa vào tiền lương và thang lương để xác định mức trợ cấp BHXH, từ đó có cơ sở xác định mức đóng phí.
Quy định mức phí BHXH trước rồi từ đó xác định mức hưởng.
Dựa vào nhu cầu khách quan của người lao động để xác định mức hưởng BHXH này có thể xác định được mức phí phải đóng.
Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhưng xác định phí BHXH lại khá phức tạp vì nó liên quan đến cả người lao động, người sử dụng lao động và nhà nước. Liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của người lao động và điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tuy nhiên, khi xác định phí BHXH phải đảm bảo các nguyên tắc : cân đối thu chi, lấy số đông bù số ít và có dự phòng. Mức phí xác định phải được cân đối với mức hưởng, với nhu cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối ưu nhất.
Phí BHXH xác định theo công thức :
P = f1 + f2 + f3
Trong đó : P- Phí BHXH
f1- Phí thuần tuý trợ cấp BHXH
f2- Phí dự phòng
f3- Phí quản lý
Phí thuần tuý trợ cấp BHXH cho tất cả các chế độ ngắn hạn và dài hạn. Đối với các chế độ BHXH ngắn hạn việc đóng và hưởng BHXH xảy ra trong thời gian ngắn ( thường là 1 năm) như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động nhẹ. Vì vậy, số đóng góp BHXH phải đủ cho số phát sinh chi trả trong năm. Đối với các chế độ BHXH dài hạn như : hưu trí, trợ cấp mất người nuôi dưỡng, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp nặng quá trình đóng và quá trình hưởng BHXH tương đối độc lập với nhau và diễn ra trong khoảng thời gian nhất định. Cho nên, sự cân bằng giữa đóng góp và hưởng trợ cấp BHXH phải được dàn trải trong cả thời kỳ dài. Vì thế, ngoài phí thuần tuý phải có phí dự phòng để đảm bảo quỹ BHXH có dự trữ đủ lớn.
Như vậy, để xác định được mức phí phải đóng góp và mức hưởng BHXH phải dựa vào nhiều yếu tố và nhiều thông tin khác nhau về nguồn thông tin khác nhau về nguồn lao động, cơ cấu nguồn lao động theo độ tuổi, giới tính, ngành nghề. Ngoài ra còn phải xác định và dự báo được tuổi thọ bình quân của quốc gia; xác suất ốm đau tai nạn, tử vong của người lao động.
CHƯƠNG II:
CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA BẢO HIỂM
XÃ HỘI VIỆT NAM
I. GIAI ĐOẠN 1961-1995
Giai đoạn khởi đầu sự phát triển của BHXH ở nước ta
Sau ngày hoà bình lặp lại, từ năm 1960, sau khi hoàn thành kế hoạch 3 năm cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá xã hội miền Bắc bước vào kế hoạch dài hạn 5 năm lần thứ nhất. Lực lượng công nhân viên chức lúc này càng ngày tuyển dụng càng đông hơn để phục vụ cho yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hôị ở miền Bắc, trước tình này, Nhà nước cần thiết phải bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội cho phù hợp với tình hình và đáp ứng được mục tiêu không ngừng cải thiện đời sống cho công nhân viên chức. Vì vậy, ngày 27/12/1961 Chính phủ ban hành điều lệ tạm thời theo Nghị định số 218/Chính về các chế độ bảo hiểm xã hội cho công nhân viên chức nhà nứoc. Điều lệ quy định:
+ Đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là công nhân viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang.
+ Đã hình thành nguồn để chi trả cho các chế độ bảo hiểm xã hội trong ngân sách Nhà nước. Nguồn hình thành trên cơ sở đóng góp của xí nghiệp, còn lạI do ngân sách nhà nước cấp. Mức đóng góp của các xí nghiệp là 4,7% so với tổng quỹ lương. Trong đó 1% để chi cho các chế độ dài hạn và 3,7% chi cho 3 chế độ ngắn hạn. Đối với phần ngân sách Nhà nước, hàng năm Quốc hội thông qua ngân sách cấp cho việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội cho công nhân viên chức làm việc trong khu vực Nhà nước.
+ Áp dụng 6 chế độ xã hội là: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu chí, và tử tuất cho công nhân viên chức.
Tiếp đến, ngày 18/9/1985, cùng với việc cải tiến chế độ tiền lương, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 236/HĐBT về việc bổ sung, sửa đổi chế độ bảo hiểm xã hội cho công nhân chức Nhà nước và lực lượng vũ trang trong giai đoạn này thể hiện những vấn đề trọng tâm là:
Thứ nhất, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội là công nhân viên chức nhà nước và lực lượng vũ trang. Lực lượng này đến năm 1985 chiếm khoảng 12% lực lượng lao động xã hội. Còn lại 88% lao động làm việc ở các đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ ngoài quốc doanh chưa được tham gia.
Thứ hai, nguồn tài chính để thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội một phần do các đơn vị sản xuất kinh doanh đóng và còn lại do ngân sách nhà nước cấp. Mức đóng theo quy định Nghị định số 218/CP và 4,7% nay được nâng lên 13%so với tổng quỹ lương của xí nghiệp. Trong đó, Bộ Lao động -Thương Binh và Xã hội được giao quản lí 8% để chi trả 3 chế độ mất sức lao động, hưu trí, và tử tuất, còn lại 5%do Tổng Liên đoàn Lao động Việt nam quản lý để chi trả 3 chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn, lao động và bệnh nghề nghiệp. Mặc dù, Nghị định 236/ HĐBT quy định khá chặt chẽ trách nhiệm của xí nghiệp, nhưng thời gian này do các đơn vị sản xuất gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ, nên hầu hết nộp thiếu hoặc không nộp được dẫn đến tình trạng thu không đủ chi, phần ngân sách nhà nước cấp năm sau cao hơn năm trước. Đến năm 1993 trở đi, Ngân sách nhà nước cấp bù tới 92,7% trong tổng số tiền chi bảo hiểm xã hội (xem Bảng 1)
Bảng 1: Ngân sách Nhà nước cấp để chi bảo hiểm xã hội
Năm
Doanh nghiệp đóng để chi bảo hiểm xã hội
Ngân sách nhà nước cấp để chi bảo hiểm xã hội
1964
95,3%
4,7%
1968
45,2%
54,8%
1970
29,7%
70,5%
1980
15,8%
84,3%
1990
26,18%
73,92%
12/1993
7,3%
92,7%
Như vậy, có thể thấy do cơ chế tạo nguồn chưa được xác định rõ ràng nên quỹ bảo hiểm xã hội chưa được tính đúng, tính đủ, làm cho thu không đủ chi, ngân sách nhà nước phải càng lớn.
Thứ ba, về tổ chức quản lý trước năm 1986 theo hành chính nhà nước do bộ Thương binh và xã hội theo hệ thống quản lý 3 cấp : Ở Trung ương đơn vị tài chính cấp 1 của bộ tài chính cấp 1 của bộ và Vụ kế hoạch tài chính có nhiệm vụ tổng hợp, cấp phát và quyết đoán từ ngân sách nhà nước cấp với các đơn vị tài chính cấp 2 là Sở Lao Động -TBXH tỉnh và sau đó Sở quyết toán với đơn vị tài chính cấp 3 trực thuộc trên cơ sở quỹ bảo hiểm xã hội do Bộ tài chính cấp hàng năm.
Thứ tư, theo nghị định 236/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng, thì trong chính sách bảo hiểm xã hội có 6 chế độ áp dụng cho người lao động trong trường hợp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động hoặc chết. Đối với lao động làm việc trong môi trường nặng nhọc, độc hại, làm việc ở những vùng xa xôi hẻo lánh, nơi hải đảo và lược lượng vũ trang chiến trường được quan tâm, ưu tiên trong việc tính thời gian công tác, như: quy định quy đổi thời gian công tác 1 năm làm việc thực tế được tính 1 năm 2 tháng để nghỉ hưu ( nếu lao động nặng nhọc, độc hại ), tính thành 1 năm 4 tháng ( nếu làm việc ở vùng xa xôi hẻo lánh ) hoặc tính thành 1 năm 6 tháng ( nếu trực tiếp chiến đấu ở chiến trường gian khổ).
Mức trợ cấp bảo hiểm xã hội được tính theo tỷ lệ(%) trên mức lương cơ bản trước khi nghỉ hưu. Mức lương hưu hàng tháng đối với nam có đủ 30 năm công tác và đủ 25 năm công tác được tính bằng 75% lương chính và các khoản phụ cấp theo lương, sau đó cứ 1 năm làm việc thêm được tính thêm 1% tối đa lương hưu được hưởnglà 95%lương chính và các khoản phụ cấp (nếu có).
Riêng đối với chế độ mất sức lao động hàng tháng được quy định để áp dụng cho công nhân viên chức có đủ 15 năm công tác trở lên bị ốm đau, tai nạn lao động bị mất khả nằng lao động từ 61% trở lên hoặc hết tuổi lao động. Mức độ trợ cấp mất sức lao động được hưởng quy định là 40% tiền lương áp dụng nếu đủ 15 năm công tác, sau đó cứ thêm 1 năm được hưởng thêm 1%. Nừu chưa đủ 15 năm công tác quy đổi, thì được hưởng trợ cấp 1 lần, cứ 1 năm công tác được hưởng trợ cấp 1 tháng lương và các khoản phụ cấp (nếu có).
Thứ năm, Quản lý nhà nước và thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội theo Nghị định 236/HĐBT ngày 18/9/1985 của hội đồng bộ trưởng thì Bộ Lao động-TBXH có nhiệm vụ xây dựng và trình Chính phủ ban hành chính sách bảo hiểm xã hội. Còn tổ chức thực hiện chính giao cho 2 cơ quan :
Bộ Lao động-TBXH quản lý 8% quỹ bảo hiểm đề ra trợ cấp mất sức lao động, hưu trí và tử tuất; tổng liên đoàn lao động Việt Nam quản lý 5% quỹ bảo hiểm xã hội và tổ chức trả trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
Tổng số công nhân viên chức làm bảo hiểm xã hội của nghành Lao động-TBXH tính đến cuối năm 1992 có hơn 3000 người, ở trung ương có 25; tỉnh, thành phố có khoảng 53 người và quận huyện có khoảng 2500 người.
Tổng số cán bộ của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam làm công tác bảo hiểm khoảng 1800 người chủ yếu là phục vụ nhà nghỉ, an dưỡng(có 1244 người).
đến cuối năm 1993, do thay đổi cơ chế quản lý nền kinh tế, chính sách bảo hiểm xã hội cũng bắt đầu thay đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang hạch toán, gắn liền với quyền lợi với trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội của người lao động, thì tổ chức quản lý Nhà nước và quản lý sự nghiệp bảo hiểm xã hội như trên đã bộc lộ một số tồn tạI, không đáp ứng nhu cầu về xây dựng, bổ sung chính sách cũng như tổ chức thu chi và quản lý bảo hiểm xã hội đặt ra nhiệm vụ phảI đổi mới hệ thống tổ chức quản lý nhà nước và sự nghiệp bảo hiểm xã hội.
2. Đánh giá chung chính sách bảo hiểm xã hội giai đoạn từ tháng 1961 đến 1/1995
Nhìn lại toàn bộ các chính sách bảo hiểm xã hội do nhà nước ban hành để thực hiện cho công nhân viên chức từ 1961 đến1/1995, có thể đánh giá như sau:
a. Ưu điểm
Tuy trong điều kiện đất nước mới độc lập, cả nước lại liên tục có chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, nhưng Đảng và nhà nước ta đã quan tâm đến đời sống cán bộ công nhân viên chức Nhà nước và lực lượng vũ trang, nên đã kịp thời ban hành các chính sách, chế độ bảo hiểm xã hội cho họ khi tuổi già, mất sức lao động ốm đau hoặc chết. Qua gần 35 năm thực hiện hàng triệu người đã được hưởng lương và trợ cấp bảo hiểm xã hội, nên đã làm cho đội ngũ công nhân viên gắn bó với cách mạng, với chính quyền, khuyến khích họ hăng say chiến đấu trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, cũng như trong lao động sản xuất xây dựng đất nước.
Chính sách bảo hiểm xã hội đã đảm bảo điều kiện thiết yếu về vật chất và tinh thần cho người lao động và gia đình họ trong những trường hợp gặp rủi ro không làm việc góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Kết quả xây dựng và thực hiện chính sách xã hội cho công nhân viên chức và lực lượng vũ trang trong 35 năm qua là nhờ cơ sở thực hiện vững chắc cho việc nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi và đổi mới chính sách sau này, đặc biệt là xây dựng chương 12 về bảo hiểm xã hội trong bộ luật lao động và điều lệ bảo hiểm xã hội chính phủ đã ban hành ngày 26/01/1995 kèm theo nghị định số 12CP.
b. Hạn chế
Tuy nhiên, các chính sách bảo hiểm xã hội đã ban hành ở thời điểm này cũng bộc lộ những tồn tại ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, phạm vi đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội chỉ giới hạn cho công nhân viên chức làm việc cho nhà nước, còn đại bộ phận (khoảng 80%) lao động làm việc ở khu vực tập thể làm việc và cá thể chưa được tham gia bảo hiểm xã hội. Chưa thể hiện rõ sự công bằng đối với người lao động làm việc trong và ngoài khu vực nhà nước.
Thứ hai, nguồn chi bảo hiểm xã hội lấy từ ngân sách nhà nước. Quyền lợi bảo hiểm xã hội giữa các bên tham gia chưa thiết lập đầy đủ. Người hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội trước hết là các hưu trí đời sống là rất khó khăn.
Thứ ba, theo các nghị định 218 CP và 216 HDBT thì chính sách bảo hiểm có 6 chế độ để áp dụng cho người lao động khi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí và tử tuất. Một bộ phận lớn đối tượng còn gắn với chính sách người có công, chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, chính sách tinh giảm biên chế, dẫn đến tình trạng hơn 60% người nghỉ hưu đối với nam chưa đến tuổi 60 và 55 tuổi đối với nữ. Đặc biệt với các năm từ 1990 đến 1993 người nghỉ hưu đúng theo độ tuổi chỉ chiếm 8%, còn nhiều trường hợp chỉ 40 tuổi, 45 tuổi; đối với người nghỉ hưu mất sức lao động chỉ có 10% là thực sự ốm yếu giảm khả năng lao động.
Thứ tư, tổ chức bảo hiểm xã hội mang tính nhà nước vừa đảm nhận chức năng nhà nước, vừa tổ chức hoạt động chi trả có sự tham gia của tổ chức công đoàn làm hạn chế nhiều hiệu quả kinh tế xã hội của chính sách bảo hiểm xã hội.
II. CHÍNH SÁCH BẢO HIỂM XÃ HỘI GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1995 ĐẾN NAY
Bộ luật Lao động đã được Quốc hội khoá 9 thông qua tại kỳ họp thứ V ngày 28/06/1994, quy định tại chương 12 về bảo hiểm xã hội áp dụng đối với người lao động làm việc ở mọi các thành phần kinh tế. Chính phủ ban hành điều lệ vảo hiểm xã hội kèm theo nghị định số 12 CP hướng dẫn quy định tên có thể đánh giá như sau:
a. Ưu điểm
Thứ nhất, phạm vi đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội được mở rộng áp dụng đối với lao động làm công hưởng lương ở các đơn vị, tổ chức kinh tế có sử dụng 10 lao động trở lên thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thực tế trước trước nghị định số 12 CP số lao động tham gia bảo hiểm xã hội là 3,4 triệu người, thì hiện nay dã có hơn 4,1 triệu người. Trong đó có 517000 người ngoài quốc doanh (kể cả doanh nghiệp liên doanh ).
Thứ hai, Quỹ bảo hiểm xã hội chủ yếu từ người lao động đóng bằng 15% quỹ lương và người lao động đóng 5% tiền lương, độc lập với ngân sách nhà nước, được quản lý, sử dụng tuân theo các quy định chế độ tài chính nhà nước theo nguyên tắc hạch toán cân bằng thu chi ; quy định rõ chế độ trách nhiệm của người sử dụng lao động khi thuê mướn lao động phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động; quy định rõ nghĩa vụ của người lao động trong việc đóng góp.
Nguồn thu bảo hiểm xã hội hàng năm tăng lên : năm 1995 đã thu được 1530 tỷ đồng; năm 1996 thu được 2569 tỷ đồng ; cuối năm 1998 thu được 3875 tỷ đồng và cuối năm 1999 thu được 4188; năm 2000 là trên 5008 tỷ đồng.Với việc tăng nguồn thu này đã giúp cho việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội trước hết là người nghỉ hưu tốt hơn.
Thứ ba, Các chế độ bảo hiểm xã hội ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất có tác dụng tích cực làm ổn định đời sống của người lao động trong quá trình lao động và khi nghỉ hưu. Từ đó có tác dụng tích cực động viên mọi người an tâm lao động dản xuất với năng suất cao, hiệu quả lớn. Đã thể hiện được sự công bằng giữa đóng góp và hưởng thụ, khắc phục một bước tính bình quân trong hưởng trợ cấp, đồng thời mang lại tính cộng đồng xã hội để chia sẻ rủi ro.
Thứ tư, Đổi mới hình thức tổ chức thực hiện chính sách BHXH trên cơ sở thành lập một tổ chức sự nghiệp BHXH Việt Nam, là đơn vị có chức năng, nhiệm vụ thu và chi chế độ BHXH. Tuy mới đi vào hoạt động được 5 năm, nhưng BHXH Việt Nam đã có tổ chức ở 61 tỉnh thành và tất cả các huyện, thị đã thực hiện chi trả cho gần 2 triệu người nghỉ hưu và mất sức lao động, hàng vạn người nghỉ hưởng trợ cấp thai sản, ốm đau, tai nạn lao động ; cấp sổ BHXH cho trên 3 triệu người trong tổng số trên 4 triệu người tham gia BHXH. Đã có nhiều biện pháp tăng trưởng và bảo tồn quỹ. Quỹ BHXH độc lập với ngân sách Nhà nước.
b.Hạn chế:
Về đối tượng tham gia BHXH, hiện nay chủ yếu vẫn là lao động ở khu vực nhà nước, lao động làm việc ở cơ sở sản xuất kinh doanh kể cả liên doanh còn thấp, chỉ có 15% lực lượng lao động xã hội thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc.
Bộ luật Lao động quy định 2 loại hình BHXH bắt buộc và tự nguyện nhưng cho đến nay loại hình tự nguyện chưa được ban hành. Do đó, nhiều người lao động không thuộc diện làm công ăn lương, có nguyện vọng tham gia BHXH như : lao động sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ…thì chưa thực hiện được nguyện vọng của mình; chưa có chế độ bảo hiểm thất nghiệp để ổn định cuộc sống người lao động đã mất việc làm.
Công tác giáo dục, tuyên truyền còn rất hạn chế nên nhiều doanh nghiệp, cơ sở chưa thực hiện đóng BHXH, làm cho nguồn thu nhập không tương xứng với số lao động thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc.
Một số quy định trong chính sách chế độ BHXH hiện hành trong quá trình thực hiện còn nhiều vướng mắc, như:
+ Việc quy định tuổi nghỉ hưu 60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với nữ là chưa phù hợp với thực tế và chưa bình đẳng đối với lao động nữ, chưa tận dụng được lao động nữ có chất xám cao.
+ Mức đóng góp bằng 15% quỹ lương của người sử dụng lao động cho người lao động, nhiều doanh nghiệp cho rằng cao, làm tăng chi phí đầu vào, không khuyến khích doanh nghiệp phát triển sản xuất.
+ Mức đóng của người lao động chưa tương xứng với mức được hưởng, mức hưởng hiện nay đã cao hơn mức đóng nhưng người lao động vẫn muốn hưởng nhiều hơn.
+ Quyền lợi hưởng BHXH giữa người lao động không công bằng, người lai động đóng ít về hưu sớm sống lâu hơn được hưởng nhiều hơn; ngược lại người đóng thời gian dài chưa được hưởng chế độ hưu hoặc mới hưởng vài năm đã chế thì chưa được hưởng thoả đáng, gia đình được trợ cấp không đáng kể so với mức đã đóng góp vào quỹ.
+ Chính sách chưa khuyến khích người lao động đóng cao hơn để hưởng quyền lợi nhiều hơn.
+ Việc thu tập trung vào quỹ BHXH để BHXH Việt Nam điều hành 5% quỹ lương do người sử dụng lao động đóng để chi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp không khuyến khích doanh nghiệp chăm lo cho người lao động tại doanh nghiệp và gây ra rất nhiều phiền hà cho người được hưởng chính sách.
Việc tập trung thống nhất nguồn thu BHXH của 5 chế độ này vào một quỹ đã làm giảm tính ưu việt của từng chế độ; mặt khác còn làm cho công tác kiểm tra, giám sát, thu, chi quỹ gặp khó khăn.
Việc quy định mức hưởng cao hơn mức đóng cùng với việc phải xử lý các chính sách khác như sắp xếp tổ chức, tinh giảm biên chế… làm cho quỹ BHXH chưa cân bằng thu chi, về lâu dài có nguy cơ thiếu hụt.
Việc tổ chức thực hiện chính sách BHXH còn một số hạn chế, như: chưa có các giải pháp tích cực động viên đối tượng tham gia để tăng nguồn thu và chống thất thu quỹ. Thủ tục giải quyết chế độ BHXH cho người lao động còn tuỳ tiện, gây phiền hà làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động.
Trên đây là tóm tắt thực trạng chính sách BHXH nhà nước đã ban hành từ khi thành lập nước đến nay, kết quả thực hiện và những tồn tại, vướng mắc và những vấn đề đặt ra. Để chính sách BHXH ngày một hoàn thiện hơn, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới cần ban hành Luật Bảo hiểm Xã hội.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC
I. QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ THU
Nhà nước quy địnhvề việc đóng góp BHXH như sau:
Người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị, trong đó có 10% để chi các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp. Đối với người lao động đi làm có thời hạn ở nước ngoài đóng bằng 10% để chi các chế độ hưu trí, tử tuất. Đối với cán bộ xã, ngân sách Nhà nước đóng bằng 10% so với trợ cấp của cán bộ xã để chi các chế độ trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần, tiền mai táng. Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những quân nhân, công an nhân dân hưởng lương, trong đó 10% để chi các chế độ hưu trí, tử tuất và 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, đóng bằng 2% mức lương tối thiểu theo tổng số quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng sinh hoạt phí để chi 2 chế độ trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp và chế độ tử tuất.
Người lao động, quân nhân, công an nhân dân hưởng lương đóng 5% trên tổng quỹ lương cho quỹ BHXH để chi 2 chế độ hưu trí và tử tuất; cán bộ xã đóng 5% trên mức sinh hoạt phí để chi các chế độ trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần, tiền mai táng.
Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với người lao động.
Đầu tư sinh lời.
Các nguồn thu khác.
Điều lệ BHXH cũng quy định:
Tiền lương, trợ cấp tháng làm căn cứ đóng BHXH bao gồm lương theo ngạch bậc, quân hàm, chức vụ và các khoản phụ cấp khu vực, đắt đỏ, chức vụ, thâm niên, hệ số chênh lêch bảo lưu (nếu có). Đối với cán bộ xã căn cứ theo mức trợ cấp sinh hoạt hàng tháng; quân nhân, công an nhân dân thuộc diện hưởng sinh hoạt phí căn cứ theo mức tiền lương tối thiểu.
Ngân sách Nhà nước chuyển vào quỹ BHXH số tiền đủ chi các chế độ hưu trí, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, tử tuất, bảo hiểm y tế của những người được hưởng BHXH trước ngày thi hành Điều lệ BHXH và hỗ trợ để chi lương hưu cho người lao động thuộc khu vực Nhà nước về hưu kể từ ngày thi hành Điều lệ BHXH.
Việc tổ chức thu BHXH do tổ chức Bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện.
Quỹ BHXH được quản lý tập trung thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được thực hiện các biện pháp để bảo tồn và tăng trưởng theo quy định của Chính phủ.
II. THỰC TRẠNG VỀ THU BHXH
Về thực trạng đối tượng tham gia BHXH thể hiện cụ thể theo bảng sau:
Bảng: TỔNG HỢP TÌNH HÌNH THU BHXH
STT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
1
Lao động tham gia BHXH chung
Người
3.231.444
3.572.352
3.765.389
3.860.000
4.127.680
4.375.925
4.522.784
2
Lương bình quân tháng đóng BHXH
đồng
335.872
419.381
425.485
436.042
540.801
596.750
597.860
3
Số tiền thực thu trong năm
tr. đ
2.569.733
3.514.226
3.875.956
4.186.054
5.198.221
6.348.185
6.928.152
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Ghi chú: Tiền thu BHXH và tiền lương tính theo mức tiền lương tối thiểu từng thời điểm (năm 1996 mức 120.000 đồng; năm 1997 đến 1998 mức 144.000 đồng; năm 2000 mức 180.000 đồng; năm 2001và năm 2002 mức 210.000 đồng).
Qua các bảng có thể nhận thấy:
- Đối tượng tham gia BHXH kể từ 1/1995 đến năm 12/2002 tăng khá nhanh, từ 2,85 triệu người năm 1995 tăng lên 4,52 triệu người năm 2002, thời gian này số giảm do nghỉ hưu và nghỉ hưởng trợ cấp một lần là 0,75 triệu người. Như vậy số đối tượng tham gia BHXH tăng là 2,27 triệu người ( bình quân 324 nghìn người/năm), đây là nội dung cơ bản để tăng thu và tăng quỹ BHXH, đảm bảo cân đối lâu dài về quỹ.
- Tỷ lệ cơ cấu về giới tính tương đối ngang nhau (nam 51,4%, nữ 48,6%), điều này ảnh hưởng lớn đến quỹ BHXH vì nữ tuổi nghỉ hưu sớm hơn nam 5 tuổi.
Số thu BHXH tăng bình quân hàng năm 630 tỷ đồng do đối tượng tham gia BHXH tăng và mức tiền lương tối thiểu tăng (tiền lương bình quân làm căn cứ đóng BHXH tăng). Với xu hướng này giúp cho số thu BHXH hàng năm tăng về số tuyệt đối.
- Số người có thời gian tham gia BHXH trước 1/1995 giảm dần qua các năm do đủ điều kiện nghỉ hưu và nghỉ việc hưởng chế độ trợ cấp một lần, bình quân giảm 109,5 nghìn người/năm (tương đương mức giảm 4%/năm); đối tượng này phụ thuộc vào điều kiện tuổi đời (theo nhóm độ tuổi chia ra lao động nam và lao động nữ).
- Về thời gian tham gia BHXH, tính đến năm 2002 bình quân chung là 13,12 năm/người, nhưng số người có thời gian tham gia BHXH trước 1/1995 tính đến thời điểm này bình quân đã là 22,32 năm/người. Như vậy số người nghỉ hưu những năm từ nay đến năm 2012 vẫn chủ yếu thuộc loại đối tượng tham gia trước 1/1995.
Có thể nói việc đánh giá thực trạng tham gia BHXH và xác định các số liệu thống kê về đối tượng tham gia BHXH nêu trên là căn cứ chủ yếu để xác định các tiêu thức liên quan đến số người nghỉ hưu hàng năm, phục vụ cho tính toán xác định số tiền ngân sách Nhà nước chuyển cho quỹ BHXH hàng năm và cân đối quỹ BHXH có cơ sở khoa học và chính xác.
III. TÌNH HÌNH CHI TRẢ BHXH CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA NHÀ NƯỚC VỀ CHI TRẢ BHXH
Việc quy định về điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như từng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn, khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới tính, của người lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi giới mỗi vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định. Do đó có những nước quy định: nam 60 tuổi và nữ 55 tuổi sẽ được nghỉ hưu. Nhưng cũng có những nước quy định: nam 65 tuổi và nữ 60 tuổi v.v…Hoặc khi xác định điều hưởng trợ cấp cho chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp phải tính đến các yếu tố: điều kiện và môi trường lao động; bảo hộ lao động v.v…Các yếu tố này thường quan hệ và tác động qua lại với nhau ít nhiều ảnh hưởng đến điều kiện BHXH của từng chế độ và toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí bảo hiểm của người lao động, trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán chung của từng quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của các tầng lớp dân cư và người lao động. Nhưng về nguyên tắc, mức trợ cấp này không cao hơn tiền lương hoặc tiền công khi người lao động đang làm việc và nó chỉ bằng một tỉ lệ phần trăm nhất định so với mức tiền lương hay tiền công.
2. THỰC TRẠNG CHI BHXH Ở VIỆT NAM.
Mục đích chính của công tác chi trả các chế độ BHXH là quản lý đối tượng hưởng BHXH, chi đúng, chi đủ, kịp thời để ngày càng thực hiện tốt hơn công tác quản lý đối tượng, chi trả BHXH, đáp ứng yêu cầu quản lý, từng bước hoàn thiện quy trình, thủ tục chi trả BHXH.
Trong những năm qua, việc tổ chức chi trả cho các chế độ BHXH được thực hiện như sau:
Về tổ chức chi trả 3 chế độ trợ cấp tức thời ( chế độ trợ cấp tiền lương khi nghỉ ốm đau, chế độ trợ cấp tiền lương khi nghỉ thai sản, chế độ trợ cấp khi bị suy giảm khả năng lao động do tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp gây ra). Việc chi trả trợ cấp cho 3 chế độ trên phải thể hiện được sự công bằng, công khai, an toàn, kịp thời, đúng nguyên tắc có đóng BHXH mới được hưởng quyền lợi về BHXH theo quy định của pháp luật, nhằm giữ vững mối quan hệ 3 bên: người sử dụng lao động, người lao động và cơ quan BHXH, từ đó đẩy mạnh hoạt động thu BHXH không xâm hại đến quyền lợi của người lao động. BHXH tỉnh ( thành phố) giao cho BHXH quận, huyện trực tiếp tổ chức thực hiện chi trả chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản theo cơ quan, đơn vị sử dụng lao động trên cơ sở hồ sơ chứng từ nghỉ ốm, nghỉ thai sản của từng người đã được Nhà nước quy định. Cán bộ BHXH quận, huyên được phân công theo dõi cơ quan đơn vị sử dụng lao động nào có nhiệm vụ đối chiếu kết quả đóng BHXH, hướng dẫn ghi sổ BHXH và đối chiếu chứng từ nghỉ ốm, nghỉ thai sản để thực hiện chi trả. Việc chi trả được thực hiện theo 2 phương thức: chi trả trực tiếp bằng tiền mặt cho người lao động có chứng từ nghỉ ốm đau, thai sản hoặc chi trả bằng chuyển khoản thông qua đơn vị sử dụng lao động nếu thực tế đơn vị sử dụng lao động đã ứng tiền chi trả cho người lao động. Riêng trường hợp nghỉ sinh con, nghỉ ốm dài ngày và hưởng trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, BHXH quận, huyện có trách nhiệm hướng dẫn cơ sở lập hồ sơ chuyển lên BHXH tỉnh ( thành phố) giải quyết. Nếu đối tượng được hưởng trợ cấp một lần mức suy giảm khả năng lao động dưới 31%, BHXH tỉnh ( thành phố) trực tiếp chi trả cho người bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp. Nếu đối tượng được hưởng trợ cấp hàng tháng, việc chi trả BHXH tỉnh ( thành phố) có quyết định giao cho BHXH quận, huyện thực hiện kể cả trường hợp nghỉ sinh con, nghỉ ốm dàI ngày.Thủ tục xem xét ra quyết định cho hưởng trợ cấp 3 chế độ trên được thực hiện theo quy định của BHXH Việt Nam.
Về chi trả lương hưu và trợ cấp hàng tháng bao gồm: lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp tử tuất, trợ cấp người nuôi dưỡng. Việc chi trả lương hưu và trợ cấp hàng tháng do BHXH quận, huyện trực tiếp thực hiện theo địa bàn dân cư phường, xã, cụm, xóm, tổ dân phố. Danh sách đối tượng được hưởng do BHXH tỉnh ( thành phố) chuyển về cùng với nguồn kinh phí chi trả hàng tháng có đIều chỉnh tăng, giảm theo danh sách quận, huyện báo lên. Dưới sự chỉ đạo của quận, huyện uỷ và UBND quận, huyên mỗi phường, xã có thể thành lập 1 ban chi trả. Ban chi trả có nhiệm vụ chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH căn cứ vào danh sách đã được lập theo địa bàn dân cư. BHXH quận, huyện cử cán bộ trực tiếp cùng với ban chi trả đến từng đối tượng, trên cơ sở đó theo dõi tăng, giảm hàng tháng của các đối tượng được hưởng trợ cấp BHXH và thực hiện việc chi trả đúng, đủ, kịp thời, chính xác.
Từ quá trình thu có thể rút ra nhưng nhận xét sau:
- Số chi từ ngân sách Nhà nước giảm dần qua các năm, nhưng mức giảm thấp, bình quân giảm 1,26%/năm (đã quy theo mức lương tối thiểu chung); Số chi từ quỹ BHXH tăng ngày càng nhanh, bình quân tăng 25,2%/năm (đã quy theo mức lương tối thiểu chung).
- Tỷ trọng chi BHXH cho chế độ hưu trí, trợ cấp một lần, mất sức lao động và tử tuất chiếm đa số trong tổng số chi bhxh, năm 2001 chiếm 91,77% (8.495 tỷ đồng/ 9.257 tỷ đồng).
- Qũy BHXH chi đối tượng hưởng chế độ hưu trí (hàng tháng, một lần, bảo hiểm y tế, lệ phi chi trả) tăng khá nhanh: năm 1996 là 197,7 tỷ đồng, năm 2001 đã chi là 1.336,7 tỷ đồng, bình quân tăng 32,6%/năm (đã quy theo mức lương tối thiểu chung). Trong đó tiền chi các khoản trợ cấp ngắn hạn tương đối ổn định qua các năm, còn lại tăng chủ yếu các khoản chi lương hưu hàng tháng, bảo hiểm y tế và lệ phí chi trả.
- Số tiền chi đối tượng hưởng chế độ hưu trí (gồm hàng tháng, trợ cấp một lần, trên 30 năm công tác và bảo hiểm y tế) từ nguồn quỹ BHXH trong những năm từ 1/1995 đến 2001 toàn bộ là công nhân viên chức Nhà nước đã có thời gian khá dài công tác trước 1/1995 (đến hết năm 2001 chiếm tỷ lệ là 79,19% so với tổng thời gian tham gia BHXH) và có thời gian ngắn tham gia đóng BHXH vào quỹ BHXH.
- Số người hưởng trợ cấp một lần có trên 30 năm đóng BHXH chiếm bình quân 51,52% số người nghỉ hưu trí hàng tháng, với mức hưởng tương ứng của một người là 2.802.000 đồng (bằng 13,4 tháng tiền lương tối thiểu).
- Từ năm 1995 đến năm 2001 số người nghỉ hưởng trợ cấp một lần có thời gian tham gia BHXH bình quân là 8,5 năm với mức lương bình quân tháng làm căn cứ tính trợ cấp là 374.780 đồng (tính theo mức tiền lương tối thiểu 210.000 đ/tháng), mức hưởng trợ cấp bình quân một người tương ứng 18 tháng tiền lương tối thiểu. Đa số người nghỉ hưởng trợ cấp một lần là đối tượng trước 1/1995, đã có thời gian khá dài công tác trước 1/1995 và có thời gian ngắn tham gia đóng BHXH vào quỹ BHXH.
- Về tuổi nghỉ hưu, nếu so với thời kỳ trước 1/1995 bình quân 50,84 tuổi thì sau 1/1995 đã tăng lên bình quân 54,35 tuổi, trong đó bình quân tuổi nghỉ hưu của nam là 57,1; bình quân tuổi nghỉ hưu của nữ là 51,35, nhưng so với tuổi quy định chung (nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi) thì khi thực hiện còn giảm bình quân đối với nam là 2,9 tuổi, nữ là 3,75 tuổi. Đó là do chính sách quy định một số đối tượng được nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn và các đối tượng do sức khoẻ suy giảm cũng được nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn quy định với mức lương hưu thấp hơn. Số nghỉ hưu dưới tuổi quy định chung so với tổng số người nghỉ hưu chiếm tỷ trọng đáng phải lưu ý, qua số liệu thống kê thì tỷ trọng là 52,3% đối với nam và 56,7% đối với nữ. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến việc cân đối quỹ BHXH vì thời gian đóng vào cho quỹ bị giảm đi, tương ứng là thời gian chi trả lương hưu từ quỹ tăng lên.
Về tuổi chết bình quân của những người nghỉ hưu, theo xu hướng chung thì tuổi này ngày càng tăng. Đến thời điểm năm 2001: nam tuổi chết bình quân là 68,67; nữ bình quân là 69,66 tuổi. Đây là yếu tố ảnh hưởng khá lớn đến việc cân đối quỹ BHXH vì tăng thời gian hưởng chế độ hưu trí và xu hướng tất yếu này tăng hàng năm.
3. NHỮNG TIÊU CỰC PHÁT SINH TRONG QUÁ TRÌNH CHI TRẢ.
Mặc dù trong công tác chi trả các chế độ BHXH, cơ quan BHXH đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn còn một số tiêu cực.
Mọi đối tượng khi tham gia BH nói chung và BHXH nói riêng ai cũng mong muốn khi gặp phải rủi ro đều được hưởng trợ cấp một cách nhanh nhất để bù đắp phần nào thiệt hại xảy đến với bản thân và gia đình. Thế nhưng yếu tố nhanh chóng, kịp thời trong việc chi trả trợ cấp của BHXH lại là điều đáng bàn. Việc chậm trễ chi trả trợ cấp có thể do một trong hai nguyên nhân:
Nguyên nhân thứ nhất: xuất phát từ phía doanh nghiệp nơi người lao động làm việc. Do doanh nghiệp vì chưa đóng đủ BHXH cho người lao động nên khi người lao động gặp phải những trường hợp cần được hưởng trợ cấp BHXH lại bị cơ quan BHXH từ chối chi trả trợ cấp theo các văn bản pháp quy về chế độ BHXH hiện hành. Thực tế cho thấy có những trường hợp người lao động nghỉ việc do thai sản, sinh con, khi con lớn lên vẫn chưa được hưởng trợ cấp thai sản. Hay có những trường hợp người lao động bị TNLĐ-BNN, sau khi đIều trị khỏi bệnh, ra viện, đi làm với đIều kiện sức khoẻ trở lại, sau 2 năm mới được hưởng trợ cấp TNLĐ-BNN.
Nguyên nhân thứ hai: xuất phát từ phía cơ quan BHXH. Nhiều cán bộ do thiếu kinh nghiệm về chuyên môn, nghiệp vụ khiến cho quá trình xét duyệt chi trả trợ cấp các chế độ BHXH bị kéo dài. Yếu tố chính xác trong chi trả BHXH là yếu tố không thể thiếu được. Thế nhưng có không ít trường hợp cán bộ chức năng của BHXH trong quá trình tiếp nhận và xét duyệt hồ sơ do không cẩn thận dẫn đến ra quyết định chi trả nhầm đối tượng. Người đáng được hưởng nộp đơn xin hưởng trợ cấp đã lâu mà không thấy trong khi có người đang khoẻ mạnh đi làm bình thường thì gia đình lại nhận được tiền mai táng phí. Đây là một thực tế đáng buồn mà các cơ quan BHXH cần tự xem xét lại để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của mình hoàn thành tốt công việc được giao.
CHƯƠNG IV
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ ỔN ĐỊNH QUỸ BHXH
I. KIẾN NGHỊ VỀ HỖ TRỢ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho quỹ BHXH, để thực hiện chế độ BHXH đối với các đối tượng hưởng BHXH là cán bộ công nhân viên chức nhà nước đã có thời gian công tác trước 1/1/1995 nhưng nghỉ hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH sau 1/1/1995. Với phương án này, hàng năm vào thời điểm quyết toán năm, căn cứ vào số người nghỉ hưu, nghỉ việc hưởng chế độ trợ cấp một lần thực tế và mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bình quân để xác định chuyển số tiền phải đóng BHXH với tỷ lệ đóng BHXH là 15% để thực hiện chế độ hưu trí và tử tuất và số thời gian công tác trước 1/1/1995 tương ứng cho đến khi hết số người thuộc đối tượng này được giải quyết chế độ (năm 2025).
II. KIẾN NGHỊ VỀ CHẾ ĐỘ CHÍNH SÁCH:
- Nghiên cứu sửa đổi dần mức phí: Việc xác định mức đóng BHXH hợp lý cho từng thời kỳ, tính toán nâng dần mức thu BHXH là rất cần thiết để quỹ BHXH không bị mất cân đối sớm. Hiện nay theo quy định mức đóng bhxh là 20% tổng quỹ tiền lương, tỷ lệ này ở một số nước vào khoảng từ 25% đến 40%. Tuy nhiên, ở nước ta trong những năm trước mắt nền kinh tế chưa phát triển và chưa ổn định, việc nâng mức đóng BHXH là việc hết sức khó khăn vì nó liên quan nhiều đến thu nhập, đời sống của người lao động, do vậy nên giữ nguyên mức đóng BHXH là 20% so với tổng quỹ tiền lương. Sau vài năm nữa nên nghiên cứu để điều chỉnh tăng dần mức đóng BHXH lên và trước hết là tăng phần tỷ lệ do người lao động đóng góp tương ứng với việc tăng tiền lương để đảm bảo tỷ lệ tương quan đóng BHXH giữa người sử dụng lao động với người lao động.
Ngoài mức thu BHXH là 20% tổng quỹ tiền lương để chi cho 5 chế độ, nếu có quy định thêm chế độ trợ cấp thì phải quy định thêm mức đóng BHXH để đảm bảo thực hiện cho chế độ đó. Quy định mức trần về tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, đảm bảo mức đóng BHXH không quá cao dẫn đến hưởng BHXH cao, đồng thời không ảnh hưởng đến cân đối quỹ BHXH.
- Nghiên cứu điều chỉnh tỷ lệ hưởng trợ cấp: Khi thực hiện cải cách tiền lương, người lao động được cải thiện về tiền lương và thu nhập hàng tháng, do đó cần nghiên cứu để điều chỉnh tỷ lệ hưởng các chế độ BHXH cho phù hợp với mức đóng góp nhưng phải đảm bảo nguyên tắc không giảm số tuyệt đối về lương hưu và trợ cấp hàng tháng, đồng thời ngang bằng với việc tăng mức sống. Hiện nay, theo quy định thì người lao động có 30 năm tham gia bhxh và đủ điều kiện tuổi đời được hưởng tỷ lệ lương hưu là 75% lương bình quân 5 năm cuối. Tỷ lệ này là cao, chưa phù hợp với mức đóng BHXH, đa số các nước trên thế giới mức hưởng tối đa hiện nay là từ 60% đến 65%. Tuy nhiên do mức sống người dân Việt Nam hiện nay còn thấp đặc biệt là người về hưu, do vậy không nên giảm mức hưởng lương hưu ngay từ bây giờ mà nên để vài năm nữa khi đời sống đảm bảo hơn, ví dụ như đến năm 2010.
- Về chế độ hưu trí:Trước mắt, giữ nguyên tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ Luật lao động đối với nam là 60 tuổi, nữ 55 tuổi, không nên giảm tuổi nghỉ hưu với bất cứ loại hình lao động nào để thực hiện đúng mục đích của chế độ lương hưu và ảnh hưởng đến quỹ BHXH do việc giảm tuổi nghỉ hưu (giảm 5 tuổi thì quỹ BHXH không thu được 60 tháng, đồng thời phải chi thêm 60 tháng lương hưu, như vậy đã ảnh hưởng đến quỹ BHXH là 10 năm). Sau đó tuỳ thuộc vào tình hình lao động, việc làm và tuổi thọ chung của xã hội để điều chỉnh tăng dần tuổi nghỉ hưu, không nên tăng tuổi nghỉ hưu ngay một lần một vài tuổi mà tăng dần mỗi năm 1/2 tuổi đến khi đạt độ tuổi nghỉ hưu đối với nam là 65 tuổi, đối với nữ là 60 tuổi. Trường hợp cá biệt do giảm biên chế hoặc sắp xếp lại lực lượng lao động mà phải giảm tuổi nghỉ hưu thì cần có chế độ tài chính riêng do ngân sách Nhà nước bảo đảm.
Nghiên cứu để có quy định lại về cách tính lương hưu, điều chỉnh quy định mức tiền lương làm cơ sở để tính lương hưu, những đối tượng hiện tại tính bình quân 5 năm thì nghiên cứu trong thời gian tới có thể điều chỉnh bình quân 10 năm và tiến tới bình quân đóng BHXH toàn bộ quá trình tham gia.
III. KIẾN NGHỊ VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ QUỸ BHXH
Để đảm bảo cho quỹ BHXH cân đối được lâu dài, ngoài các biện pháp nêu trên thì việc quản lý tốt quỹ BHXH đóng vai trò quan trọng, cần phải tăng cường công tác quản lý thu bhxh, chi từ quỹ BHXH và công tác giám sát tài chính của hệ thống BHXH. Cụ thể là:
Quản lý chặt chẽ về đối tượng thuộc diện bắt buộc tham gia BHXH để thu vào quỹ BHXH đủ về số lượng, nhất là các đối tượng lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Quản lý chặt về mức tiền lương và thu nhập làm căn cứ đóng BHXH. Do mức lương và thu nhập hàng tháng hiện nay của người lao động tương đối thấp, không đủ để người lao động có thể đóng góp BHXH với tỷ lệ cao hơn nên Nhà nước thường xuyên cải cách tiền lương và thu nhập để vừa đảm bảo cho người lao động có khả năng tái tạo sức lao động, vừa có khả năng đóng BHXH. Vì vậy cần phải quản lý mức tiền lương và thu nhập để xác định đúng mức đóng và mức hưởng của người lao động tham gia BHXH.
Thu BHXH phải kịp thời, đúng theo quy định, tránh hiện tượng đóng BHXH chậm hoặc nợ đọng kéo dài làm ảnh hưởng đến thu và đầu tư tăng trưởng của quỹ. Hiện tại vấn đề trốn nộp, nợ đọng BHXH không chỉ nổi cộm ở một số tỉnh thành phố mà còn là vấn đề bức xúc trong toàn ngành. Để tìm kiếm lối ra cho thực trạng này cần phải có những biện pháp mạnh, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, đó là:
+ Tăng cường tính pháp lý của các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ thu nộp BHXH của các doanh nghiệp Nhà nước phải chú trọng đến các hình thức xử phạt nghiêm minh hơn đối với các doanh nghiệp, đối với những đơn vị sản xuất kinh doanh thuận lợi nhưng cố tình trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH cho người lao động thì Nhà nước cần giao cho ngành BHXH những biện pháp chế tài đủ mạnh như: phạt tiền với mức lãi suất cao hơn lãi suất Ngân hàng, được phép kiểm tra số dư trên tài khoản của đơn vị tại ngân hàng và yêu cầu chuyển thẳng từ ngân hàng để nộp BHXH.
+ Đưa các điều khoản về thu nộp BHXH vào nội dung của Luật doang nghiệp, Luật phá sản doanh nghiệp. Thực tế hiện nay là nhiều doanh nghiệp thà nộp phạt còn hơn đóng BHXH bởi lẽ số tiền nộp phạt này chỉ đến tiền triệu trong khi số tiền trốn đóng BHXH cho nguươì lao động lên đến tiền tỷ. Về phía người lao động, dù biết BHXH là quyền lợi chính đáng của mình nhưng cũng không dám đòi hỏi, đấu tranh vì sợ mất việc làm. Còn tổ chức công đoàn của các doanh nghiệp, đặc biệt là ở các doanh nghiệp quốc doanh thường không có hoặc tồn tại yếu ớt, bản thân những cán bộ trong tổ chức công đoàn này đều do chính ông chủ trả lương, nên người lao động rất khó kỳ vọng vào việc công đoàn đấu tranh bảo vệ quyền lợi cho mình. Do vậy, các điều khoản về thu nộp BHXH phải quy định rõ thứ tự ưu tiên thanh toán nộp BHXH trong hệ thống các khoản phải thanh toán của doanh nghiệp, để đảm bảo giải quyết quyền lợi của người lao động trong doanh nghiệp.
+ Cần có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thu bhxh để đáp ứng tốt yêu cầu công việc.
Quản lý chặt chẽ hồ sơ của từng đối tượng tham gia BHXH, nhất là các đối tượng có thời gian công tác trước 1/1995 để thực hiện việc ghi thời gian được tính hưởng bhxh vào sổ BHXH đầy đủ, chính xác.
Quản lý chặt chẽ hồ sơ hưởng BHXH, nhất là các đối tượng hưởng chế độ BHXH hàng tháng để tránh hiện tượng hưởng nhầm, hưởng sai. Thực hiện chi trả đúng đối tượng, đúng chế độ và thực hiện việc cắt giảm các đối tượng đã thôi hưởng hoặc hết thời hạn hưởng chế độ đầy đủ, kịp thời. Việc quản lý hồ sơ phải dựa trên cơ sở cập nhật kịp thời các đối tượng không còn được hưởng các chế độ trợ cấp BHXH để tránh hiện tượng tiêu cực, chống tham ô, lãng phí, móc ngoặc gây thất thoát kinh phí.
Tăng cường công tác kiểm soát tài chính đối với quỹ BHXH để đảm bảo an toàn tài chính, tiết kiệm chi tiêu và có hiệu quả kinh tế - xã hội cao.
Xuất phát từ nguồn lực tài chính của quỹ BHXH còn nhỏ bé và yêu cầu phát triển quỹ theo hướng phấn đấu vươn lên để tự cân đối trong hoạt động, cũng như những mặt tồn tại trong công tác quản lý các đối tượng được hưởng chế độ BHXH thời gian qua, trong tương lai cần phải thường xuyên tăng cường công tác giám sát BHXH khi huy động, sử dụng các nguồn tài chính của quỹ BHXH đối với toàn bộ các hoạt động và thực hiện giám sát cả việc tuân thủ, giám sát hiệu quả và giám sát chất lượng.
Ngoài ra để đảm bảo cho quỹ BHXH cân đối được lâu dài thì quỹ BHXH phải được quản lý tập trung thống nhất trong cả nước và thực hiện thu - chi cho mọi loại hình lao động, loại hình BHXH (bao gồm BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện) như hiện nay đang thực hiện. Có như vậy mới vừa bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các loại hình lao động, vừa hình thành được quỹ tiền tệ lớn và tích luỹ dài hạn, có thời gian nhàn rỗi dài. Đây là một nguồn vốn nội lực vô cùng quan trọng để tham gia đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hơn nữa, với việc quản lý tập trung, thống nhất thì BHXH các cấp trực tiếp phối hợp với người sử dụng lao động trong việc thu BHXH và giải quyết chế độ chính sách cho người lao động, do đó bộ máy làm công tác quản lý gọn nhẹ, hiệu quả, tiết kiệm được chi phí xã hội ( trước đây quỹ BHXH được quản lý bởi hệ thống Liên đoàn lao động và Bộ Lao động - Thương binh và xã hội nên người sử dụng lao động phải phối hợp, giao dịch với cả 2 hệ thống này để nộp BHXH và giải quyết chế độ chính sách).
IV. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐẦU TƯ, TĂNG TRƯỞNG QUỸ BHXH
Quỹ BHXH đảm bảo cân đối được lâu dài còn phụ thuộc vào một yếu tố cơ bản đó là vấn đề đầu tư tăng trưởng phần quỹ BHXH nhàn rỗi. để hoạt động đầu tư quỹ BHXH trong thời gian tới đạt hiệu quả nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ, đảm bảo sự an toàn và có đủ nguồn lực tài chính đáp ứng kịp thời yêu cầu chi trả các chế độ BHXH cho người lao động, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, cần thiết phải tiếp tục nghiên cức, xem xét để bổ sung, hoàn thiện về cơ chế, chính sách đối với hoạt động đầu tư quỹ bhxh. Cụ thể là:
Tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH, ban hành các văn bản hướng dẫn đầu tư từ nguồn vốn của quỹ để hoạt động đầu tư được diễn ra thuận lợi, suôn sẻ. Chính phủ cần xem xét việc phân cấp cụ thể thẩm quyền quyết định trong việc sử dụng quỹ BHXH tạm thời nhàn rỗi để đầu tư đảm bảo bảo tồn và tăng trưởng theo các nội dung: quy định rõ lĩnh vực đầu tư, tỷ lệ đầu tư và lãi suất tối thiểu khi đầu tư vào từng lĩnh vực, từng hình thức, từng dự án cũng như quy trình xây dựng, thẩm định, quyết định phương án đầu tư và quản lý đầu tư.
Chính phủ nên có chính sách khuyến khích và ưu đãi đối với hoạt động đầu tư quỹ BHXH vào những ngành, những lĩnh vực đảm bảo an toàn quỹ, có lãi suất cao. Ngoài ra Chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư quỹ BHXH như chính sách ưu đãi về thuế, về cơ sở vật chất, đặc biệt là thiết bị công nghệ tin học phục vụ cho công tác phân tích, đánh giá tình hình đầu tư trên thị trường tài chính, tiền tệ, đánh giá những diễn biến xảy ra xung quanh lĩnh vực cần nghiên cứu đầu tư. Hoạt động đầu tư này cần được quan tâm, giúp đỡ của các cơ quan hữu quan, đặc biệt là sự phối hợp với các tổ chức tài chính, tiền tệ của doanh nghiệp.
Xác định rõ vốn nhàn rỗi từ quỹ BHXH dùng để đầu tư vào các tài sản tài chính (ngắn hạn, dài hạn) nhằm mang lại lợi nhuận và phục vụ cho việc bảo toàn và tăng trưởng quỹ BHXH. Có thể chia nguồn vốn đầu tư của quỹ BHXH thành nguồn vốn đầu tư dài hạn và nguồn vốn đầu tư ngắn hạn theo nguyên tắc: nguồn vốn dài hạn được phép đầu tư vào tài sản tài chính dài hạn hoặc ngắn hạn, còn nguồn vốn ngắn hạn chỉ được đầu tư và các tài sản tài chính ngắn hạn.
Quy định rõ danh mục đầu tư và hạn mức đầu tư cho từng danh mục, để thực hiện đầu tư an toàn và có lãi suất cao. Ngoài những danh mục đầu tư theo chỉ định của Chính phủ, cần cho phép Bảo hiểm xã hội Việt Nam được quyền xem xét, lựa chọn những dự án đầu tư thích hợp. Tuy nhiên, phải đạt được các yêu cầu: đảm bảo khả năng an toàn vốn đầu tư, hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra trong quá trình đầu tư; ưu tiên đầu tư vốn với tỷ trọng cao vào các lĩnh vực đem lại lợi nhuận cao và thu hồi vốn nhanh; mức cho vay hoặc đầu tư đối với từng danh mục không vượt quá tỷ lệ quy định trong tổng nguồn vốn nhàn rỗi từ quỹ BHXH.
Đa dạng hoá các loại hình đầu tư và công cụ đầu tư, bên cạnh các hoạt động đầu tư đã có (mua tín phiếu, trái phiếu Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng thương mại Nhà nước, cho Nhà nước vay), Chính phủ cần ưu tiên cho quỹ được đầu tư vào các dự án lớn có tầm chiến lược quốc gia theo hình thức liên doanh góp vốn vào các ngành khai thác, chế biến dầu khí, tham gia vào các dự án sản xuất, cung cấp điện, nước sinh hoạt cho khu dân cư, khu công nghiệp mới,... Đây là những ngành đầu tư có lãi và khả năng rút vốn thuận lợi khi cần thiết. Tuy nhiên, việc đầu tư vào các dự án này thời gian thu hồi vốn dài, nên phần vốn đầu tư phải là khoản nhàn rỗi trong thời gian tương đối dài. Ngoài ra còn đầu tư xây dựng nhà ở cho dân cư, xây dựng kết cấu hạ tầng có thu phí sử dụng như cầu, đường, các công trình y tế, giáo dục, pháp luật, xã hội.
Phải có sự phân tích, đánh giá kỹ lưỡng, tính toán và có so sánh một số phương án đầu tư có khả năng để chọn lấy lĩnh vực tốt nhất, thích hợp nhất. Trước hết, khi lập đánh giá và so sánh các dự án đầu tư, lĩnh vực đầu tư phải nắm rõ mục tiêu để đầu tư quỹ BHXH, bao gồm hai nhóm mục tiêu chính: các mục tiêu kinh tế và các mục tiêu xã hội. Đối với mục tiêu kinh tế là phải đạt được một tỷ suất lợi nhuận tối thiểu ngang bằng với tỷ lệ lạm phát hay bằng lãi suất cho vay của Ngân hàng hay một tỷ lệ xác định nào đó để đảm bảo cân đối thu chi quỹ dài hạn. Mục tiêu về xã hội là giải quyết việc làm, nâng cao đời sống văn hoá xã hội, phân phối lại thu nhập, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,... Tuỳ từng dự án theo sự chỉ định của Chính phủ hay quỹ BHXH tự lựa chọn mà có những mục tiêu cụ thể. Tuy nhiên, với đặc thù của quỹ BHXH thì quan điểm đầu tư ở đây là quan điểm của Nhà nước chứ không phải quan điểm tự nhận đầu tư. Do đó mục tiêu phải xuất phát từ lợi ích của cả quốc gia hoặc của cả một ngành, một vùng lãnh thổ. Phải đẩy nhanh vòng quay của vốn tránh tình trạng dự án mang lại lợi nhuận cao nhưng lại bị ứ đọng vốn quá lâu.
Tổ chức thực hiện việc quản lý chuyên trách.
Một trong những nguyên nhân của hoạt động đầu tư nhằm tăng trưởng quỹ trong thời gian vừa qua chưa đạt hiệu quả cao là do bhxh chưa có tổ chức chuyên trách trong hệ thống bhxh Việt Nam trực tiếp thực hiện các hoạt động đầu tư, thiếu các chuyên gia giỏi, đặc biệt là trong các lĩnh vực đầu tư, phân tích kinh tế, toán bảo hiểm. Do vậy, trước mắt cần thiết phải thành lập tổ chức đầu tư độc lập trực thuộc BHXH Việt Nam, có thể thành lập Ban đầu tư và trong Ban cần lập từng nhóm chuyên môn đầu tư vào từng lĩnh vực chẳng hạn như: bất động sản, thị trường chứng khoán, cho thuê tài chính,... và từng nhóm đó phải chịu trách nhiệm nghiên cứu từng lĩnh vực đầu tư và đưa ra các giải pháp đầu tư tối ưu hoặc thành lập Công ty đầu tư tài chính BHXH (trong hệ thống BHXH Việt Nam) để chuyên trách giúp Tổng Giám đốc thực hiện công tác đầu tư kinh tế - xã hội theo định hướng và kế hoạch của Nhà nước. Có thể nói rằng đây là một trong những mấu chốt đảm bảo khả năng hoạt động hiệu quả của tổ chức này cũng như của quỹ đầu tư.
KẾT LUẬN
Việc đảm bảo cân đối quỹ BHXH lâu dài luôn là một vấn đề rất cần thiết trong tài chính của BHXH. Một đất nước càng phát triển thì nhu cầu về BHXH ngày càng cao, do đó vấn đề đảm bảo cân đối quỹ là khá quan trọng. Ở Việt Nam, việc đảm bảo cân đối quỹ BHXH là một nhiệm vụ hết sức khó khăn đối với hệ thống BHXH trong điều kiện nền kinh tế - xã hội của đất nước. Với thực trạng của quỹ như hiện nay thì có thể nhận thấy rằng việc hoạch định chính sách phát triển cho công tác này càng trở thành một thách thức lớn. Hy vọng rằng cùng với sự cố gắng của toàn ngành BHXH Việt Nam, sự hỗ trợ tạo điều kiện của Nhà nước, của các cấp, các ngành, việc đảm bảo cân đối quỹ BHXH lâu dài sẽ thành công, đảm bảo quyền lợi của người lao động tham gia BHXH, ổn định đời sống của người lao động khi nghỉ hưởng chế độ hưu trí, khi bị tai nạn lao động-bệnh nghề nghiệp, chế độ tử tuất và các chế độ BHXH trong thời gian làm việc, góp phần ổn định tình hình chính trị - xã hội và an toàn xã hội của đất nước.
Trong phạm vi rất hẹp của đề tài, em không thể đề cập được hết tất cả các vấn đề, các khía cạnh của BHXH nói chung và quỹ BHXH nói riêng mà chỉ mong đề án của em sẽ đóng góp một phần nhỏ cho công tác nghiên cứu nhằm ngày càng hoàn thiện hơn nữa về công tác quản lý thu chi quỹ BHXH
Cuối cùng một lần nữa em rất mong được sự góp ý, phê bình của cô Nguyễn Thị Lệ Huyền.
Em xin chân thành cảm ơn.
MỤC LỤC
Lời nói đầu
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về bảo hiểm xã hội
I. Bản chất của bảo hiểm xã hội
II. Đối tượng BHXH
III. Chức năng của BHXH
IV Quan điểm cơ bản về bảo hiểm xã hội
1. Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phận quan trọng
nhất trong chính sách BHXH.
2. Người sử dụng lao phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho người
lao động.
3. Người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với
BHXH, không phân biệt nam nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp.
4. Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào các yếu tố
5. Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách BHXH.
V. Quỹ bảo hiểm xã hội
Chương II: Các giai đoạn phát triển của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
I. Giai đoạn 1961-1995
1. Giai đoạn khởi đầu sự phát triển của BHXH ở nước ta
. Đánh giá chung chính sách bảo hiểm xã hội giai đoạn từ tháng 1961 đến 1/1995
II. Chính sách bảo hiểm xã hội giai đoạn từ năm 1995 đến nay
Chương III: Một số quy định của nhà nước
I. Quy định của nhà nước về thu
II. Thực trạng về thu BHXH
III. Tình hình chi trả BHXH của việt nam hiện nay.
1. Một số quy định của nhà nước về chi trả BHXH
2. Thực trạng chi BHXH ở Việt Nam.
3. Những tiêu cực phát sinh trong quá trình chi trả.
Chương IV: Một số kiến nghị để ổn định quỹ BHXH
I. Kiến nghị về hỗ trợ ngân sách Nhà nước
II. Kiến nghị về chế độ chính sách:
III. Kiến nghị về công tác quản lý quỹ BHXH
IV. Tăng cường công tác đầu tư, tăng trưởng quỹ BHXH
Kết luận
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế bảo hiểm - trường Đại học kinh tế quốc dân
Tạp chí BHXH các số năm 2000,2001, 2002
BHXH - Những điều cần biết
Hệ thống các văn bản hiện hành về BHXH năm 2002, 2003:
Điều lệ BHXH
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật lao động
NĐ 01/2003/NĐ-CP ngày 09/01/2003
Tạp chí tài chính năm 2002
Tạp chí thời báo kinh tế năm 2002
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BH06.docx