Đề tài Công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2007 – 2010, thực trạng và giải pháp

Tài liệu Đề tài Công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2007 – 2010, thực trạng và giải pháp: LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong báo cáo thực tập tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập. Sinh viên thực hiện Nguyễn Thu Trang DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BHXH : Bảo hiểm xã hội BHYT : Bảo hiểm y tế BNN : Bệnh nghề nghiệp CNTT: Công nghệ thông tin DNNQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh HCSN : Hành chính sự nghiệp HĐND : Hội đồng nhân dân HĐLĐ : Hợp đồng lao động KCB : Khám chữa bệnh NLĐ: Người lao động NSDLĐ: Người sử dụng lao động NSNN : Ngân sách nhà nước LĐ–TB&XH : Lao động thương binh và xã hội TNHH : Trách nhiệm hữu hạn TNLĐ : Tai nạn lao động UBND : Ủy ban nhân dân TÓM TẮT KHOÁ LUẬN Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua là mở rộng phạm vi bao phủ của BHXH để hướng tới công bằng, an sinh xã hội và phát triển bền vững hệ thống BHXH. Để thực hiện mục tiêu ấy, việc quản lý đối tượng tham gia BHXH giữ vai trò rất quan trọng. Do vậy, em ...

doc70 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1127 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2007 – 2010, thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong báo cáo thực tập tốt nghiệp là trung thực xuất phát từ tình hình thực tế của đơn vị thực tập. Sinh viên thực hiện Nguyễn Thu Trang DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BHXH : Bảo hiểm xã hội BHYT : Bảo hiểm y tế BNN : Bệnh nghề nghiệp CNTT: Công nghệ thông tin DNNQD : Doanh nghiệp ngoài quốc doanh HCSN : Hành chính sự nghiệp HĐND : Hội đồng nhân dân HĐLĐ : Hợp đồng lao động KCB : Khám chữa bệnh NLĐ: Người lao động NSDLĐ: Người sử dụng lao động NSNN : Ngân sách nhà nước LĐ–TB&XH : Lao động thương binh và xã hội TNHH : Trách nhiệm hữu hạn TNLĐ : Tai nạn lao động UBND : Ủy ban nhân dân TÓM TẮT KHOÁ LUẬN Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta trong những năm qua là mở rộng phạm vi bao phủ của BHXH để hướng tới công bằng, an sinh xã hội và phát triển bền vững hệ thống BHXH. Để thực hiện mục tiêu ấy, việc quản lý đối tượng tham gia BHXH giữ vai trò rất quan trọng. Do vậy, em đã chọn đề tài: “Công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2007 – 2010, thực trạng và giải pháp”. Kết cấu bài khoá luận của em gồm 3 chương, trong đó: Chương I, em xin đưa ra các khái niệm về BHXH và quản lý đối tượng tham gia BHXH, một số vấn đề về quản lý đối tượng tham gia BHXH và cuối cùng là các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH như là: chính sách BHXH, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, nhận thức của người tham gia, công tác thông tin tuyên truyền, ứng dụng công nghệ thông tin… Chương II về thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng – Quảng Ninh trong giai đoạn 2007 – 2010. Trong chương này, em xin làm rõ về thực trạng của một số công tác như: quản lý danh sách đối tượng tham gia BHXH, quản lý sổ BHXH, quản lý hồ sơ, quản lý tiền lương làm căn cứ đóng và mức đóng BHXH. Từ đó, rút ra một số thành tựu đạt được và hạn chế còn tồn tại trong công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH của cơ quan BHXH huyện Yên Hưng. Cuối cùng trong chương III, từ những hạn chế còn tồn tại em xin đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng như: tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật về BHXH, quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia, cải cách thủ tục hành chính và sử dụng chế tài xử phạt vi phạm pháp luật về BHXH, nâng cao năng lực quản lý và tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ BHXH huyện Yên Hưng, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đối tượng tham gia BHXH và phối hợp với các cấp chính quyền địa phương. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH 3 1.1. Khái niệm, sự cần thiết và vai trò của BHXH 3 1.1.1. Khái niệm 3 1.1.2. Sự cần thiết khách quan của BHXH 4 1.1.3. Vai trò của BHXH 5 1.2. Một số vấn đề về quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội 7 1.2.1. Khái niệm quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội 7 1.2.2. Đối tượng quản lý 7 1.2.3. Phạm vi quản lý 10 1.2.4. Nội dung quản lý đối tượng tham gia BHXH 10 1.2.5. Quy trình quản lý đối tượng tham gia BHXH 11 1.2.6. Vai trò của quản lý đối tượng tham gia BHXH 15 1.2.7. Công cụ quản lý đối tượng tham gia BHXH 15 1.2.8. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH 17 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH TẠI BHXH HUYỆN YÊN HƯNG TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2007 - 2010 20 2.1. Giới thiệu chung về huyện Yên Hưng và Bảo hiểm xã hội huyện Yên Hưng 20 2.1.1. Khái quát đặc điểm kinh tế xã hội huyện Yên Hưng 20 2.1.2. Giới thiệu chung về Bảo hiểm xã hội huyện Yên Hưng 21 2.2. Thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng 22 2.2.1. Quản lý danh sách đối tượng tham gia BHXH 22 2.2.1.1. Quản lý danh sách đối tượng tham gia BHXH bắt buộc 22 2.2.1.2. Quản lý danh sách đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp 26 2.2.1.3. Quản lý danh sách đối tượng tham gia BHXH tự nguyện 27 2.2.2. Quản lý sổ BHXH 28 2.2.2.1. Công tác quản lý sổ BHXH bắt buộc 28 2.2.2.2. Công tác quản lý sổ BHXH tự nguyện 30 2.2.3. Quản lý hồ sơ 31 2.2.3.1. Quản lý hồ sơ tham gia BHXH 31 2.2.3.2. Quản lý hồ sơ hưởng BHXH 32 2.2.4. Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng và mức đóng BHXH 37 2.2.4.1. Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng và mức đóng BHXH bắt buộc 37 2.2.4.2. Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng và mức đóng bảo hiểm thất nghiệp 39 2.2.4.3. Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng và mức đóng BHXH tự nguyện 40 2.3. Đánh giá thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH ở BHXH huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh 41 2.3.1. Những thành tựu đạt được 41 2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại 43 2.3.3. Nguyên nhân của những mặt hạn chế 45 CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH TẠI BHXH HUYỆN YÊN HƯNG TỈNH QUẢNG NINH 49 3.1. Định hướng phát triển hoạt động của Bảo hiểm xã hội huyện Yên Hưng trong những năm tới 49 3.1.1. Định hướng về công tác BHXH 49 3.1.2. Định hướng về công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH 50 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng 50 3.2.1. Tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật về BHXH 50 3.2.2. Quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia BHXH 51 3.2.3. Cải cách thủ tục hành chính và sử dụng chế tài xử phạt vi phạm pháp luật về BHXH 53 3.2.4. Nâng cao năng lực quản lý và tinh thần trách nhiệm đội ngũ cán bộ của BHXH huyện Yên Hưng 53 3.2.5. Tăng cường ứng dụng CNTT trong quản lý đối tượng tham gia BHXH 54 3.2.6. Phối hợp với các cấp chính quyền địa phương 55 3.3. Một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng 56 3.3.1. Khuyến nghị đối với nhà nước: 56 3.3.2. Khuyến nghị đối với BHXH Việt Nam: 56 3.3.3. Khuyến nghị đối với BHXH tỉnh Quảng Ninh: 57 3.3.4. Khuyến nghị đối với BHXH huyện Yên Hưng: 57 KẾT LUẬN 59 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 60 DANH MỤC BẢNG Bảng 1: Tình hình tham gia BHXH bắt buộc (2007 - 2010) 23 Bảng 2: Tình hình tham gia bảo hiểm thất nghiệp (2009 - 2010) 26 Bảng 3: Tình hình tham gia BHXH tự nguyện (2008 - 2010) 27 Bảng 4: Quản lý cấp sổ BHXH bắt buộc (2007 - 2010) 29 Bảng 5: Quản lý công tác chốt sổ BHXH bắt buộc (2007 – 2010) 30 Bảng 6: Quản lý cấp và chốt sổ BHXH tự nguyện (2008 - 2010) 31 Bảng 7: Quản lý hồ sơ tham gia BHXH (2007 – 2010) 31 Bảng 8: Số người hưởng chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN, DSPHSK (2007 – 2010) 33 Bảng 9: Số người hưởng chế độ hưu trí (2007 – 2010) 35 Bảng 10: Số người hưởng chế độ tử tuất (2007 – 2010) 36 Bảng11: Số người hưởng chế độ BHXH một lần (2007 – 2010) 37 Bảng 12: Tổng quỹ lương và số thu BHXH bắt buộc (2007 – 2010) 38 Bảng 13: Tổng quỹ lương và số thu bảo hiểm thất nghiệp (2009 – 2010) 40 Bảng 14: Số thu BHXH tự nguyện (2008 – 2010) 41 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chính sách BHXH là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Mục đích của chính sách là bảo đảm sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp rủi ro ốm đau, bệnh tật hay tuổi già, góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ đồng thời giữ ổn định xã hội. Hoạt động BHXH càng hiệu quả hơn, đặc biệt sau năm 1995 khi ngành BHXH được thành lập, thì phạm vi và đối tượng tham gia BHXH ngày càng được mở rộng. Đối với BHXH huyện Yên Hưng – Quảng Ninh trong những năm qua đã đạt được những kết quả đáng mừng về công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH như: đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng, thu quỹ BHXH tăng,… Bên cạnh những kết quả đáng ghi nhận đó còn nhiều vướng mắc tồn tại như: còn nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa tham gia BHXH, hoặc trốn đóng, nợ đọng BHXH, công tác tuyên truyền chính sách còn chưa sâu rộng và phổ biến, chưa khai thác hết số lao động trên địa bàn để họ tham gia … Nhận thức được tầm quan trọng của công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH đối với BHXH huyện Yên Hưng. Em xin chọn đề tài: “ Công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh giai đoạn 2007 – 2010, thực trạng và giải pháp” 2. Mục đích nghiên cứu của khoá luận Việc nghiên cứu đề tài này khoá luận này sẽ nhằm mục đích làm rõ hơn vai trò của công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH, đánh giá một cách tổng quát và có hệ thống thực trạng quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng trong giai đoạn vừa qua. Đồng thời, qua đó đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH ở địa phương. 3. Phạm vi nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu của đề tài: nghiên cứu các vấn đề về quản lý đối tượng tham gia BHXH tại huyện Yên Hưng giai đoạn 2007 - 2010. Đối tượng nghiên cứu: thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng – Quảng Ninh. 4. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu Đề tài này sẽ phản ánh, phân tích một cách chi tiết và tổng hợp về thực trạng công tác thực hiện chính sách BHXH nói chung và công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại huyện Yên Hưng – Quảng Ninh nói riêng. Thông qua việc phân tích thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng có thể đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác nghiệp vụ này. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp phân tích - Phương pháp so sánh - Một số phương pháp khác 6. Kết cấu của khoá luận Ngoài phần mở đầu và kết luận, bài khoá luận tốt nghiệp của em được kết cấu thành ba chương chính. Cụ thể đó là: Chương I: Một số lý luận chung về BHXH và quản lý đối tượng tham gia BHXH Chương II: Thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng - Quảng Ninh giai đoạn 2007 - 2010 Chương III: Một số giải pháp và khuyến nghị nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng - Quảng Ninh. Bài khoá luận của em chắc chắn còn nhiều hạn chế, em rất mong nhận được nhiều sự đóng góp, ý kiến của các thầy cô giáo. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH 1.1. Khái niệm, sự cần thiết và vai trò của BHXH 1.1.1. Khái niệm Tuyên ngôn về nhân quyền của Liên Hợp Quốc thông qua ngày 10/12/1948 đã xác nhận “Tất cả mọi người, với tư cách là thành viên của xã hội, có quyền hưởng bảo hiểm xã hội”. Bảo hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành quan trọng của vấn đề an sinh xã hội, là cơ chế chính trong hệ thống an sinh xã hội. Vì thế, chính sách bảo hiểm xã hội trước tiên là một trong các chính sách an sinh xã hội. Cơ sở của hệ thống BHXH là dựa trên sự đóng góp nhằm bảo vệ sức khỏe và thu nhập, gồm các phương pháp thoát khỏi rủi ro và đóng góp tài chính vào quỹ BHXH. BHXH là nhu cầu tất yếu của người lao động, được ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Tuy đã có lịch sử phát triển lâu dài nhưng đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về BHXH và BHXH được nhìn nhận dưới nhiều giác độ khác nhau. Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế định bảo vệ người lao động sử dụng nguồn đóng góp của mình, đóng góp của người sử dụng lao động (nếu có) và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước nhằm trợ cấp vật chất cho người lao động được bảo hiểm và gia đình họ trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động hoặc hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật hoặc người lao động bị chết. Dưới giác độ tài chính: BHXH là quá trình san sẻ rủi ro và san sẻ tài chính giữa những người tham gia BHXH theo quy định của pháp luật. Ở Việt Nam, BHXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta thể hiện tinh thần nhân đạo và nhân văn cao cả “ mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người”. Làm sao để cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh là một mục tiêu hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Theo Luật BHXH Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006, “BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thấp nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”. Theo cách tiếp cận từ thu nhập, BHXH là sự bảo đảm cho người lao động khi họ gặp khó khăn, bị giảm hoặc mất thu nhập, khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ tài chính tập trung do sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. BHXH có mục đích cuối cùng là hướng tới sự phát triển của các cá nhân, từ đó tạo tiền đề cho sự phát triển của cộng đồng và của toàn xã hội. Hiện nay, mặc dù khái niệm BHXH chưa thống nhất, nhưng chúng đều phản ánh bản chất của BHXH. Đó là sự đảm bảo lợi ích của người lao động khi tham gia vào BHXH trong những trường hợp phát sinh các nhu cầu về bảo hiểm. Nó cùng với các chính sách an toàn lao động khác hình thành nên một mạng lưới an toàn trong xã hội để bảo vệ cho người lao động khi họ gặp phải những rủi ro hay rơi vào tình trạng không còn nguồn thu nhập thì có những khoản trợ cấp nhất định để sinh sống. 1.1.2. Sự cần thiết khách quan của BHXH Lao động là hoạt động thường xuyên của con người để tạo ra của cải vật chất, để lao động được con người cần có sức khoẻ và một khả năng lao động nhất định. Thế nhưng trong cuộc sống không phải người lao động nào cũng có thể trạng tốt như nhau và có may mắn như nhau để hoàn thành tốt nhiệm vụ lao động của mình và tạo ra cho mình một cuộc sống sung túc và ấm no. Hơn nữa trong cuộc sống luôn thường trực những rủi ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội khác. Khi chẳng may con người rơi vào những trường hợp đó, nhu cầu thiết yếu không những không mất đi. Trái lại, còn gia tăng thêm. Do vậy, muốn tồn tại con người phải tìm những biện pháp để vượt lên trên hoàn cảnh và khắc phục những khó khăn. Để vượt qua những lúc khốn khó đó thì ngoài sự nỗ lực của bản thân và gia đình, người lao động cần được sự hỗ trợ của cộng đồng tập thể của các tổ chức cơ quan Nhà nước nước và xã hội. Sự hỗ trợ này không thể chỉ bằng tinh thần là sự cảm thông, sự động viên thăm hỏi chung chung , mà còn phải cụ thể hoá nó bằng hiện vật và nguồn vật chất cần thiết, nhằm nhanh chóng phục hồi sức khoẻ, duy trì sức lao động xã hội góp phần làm giảm bớt những khó khăn của bản thân và gia đình người lao động khi có những hẫng hụt về thu nhập trong các trường hợp bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất việc làm, hoặc khó khăn khi về già… Lúc này, tất cả những rủi ro đó đã trở thành mối đe dọa đối với cuộc sống bình thường của người lao động, sự đối mặt với cuộc sống thật nan giải. Tình cảnh này đưa đến những hành động tập thể phát huy truyền thống tương thân, tương ái vốn có từ trong nhân dân, đồng thời cũng đòi hỏi giới chủ, giới thợ và Nhà nước từng bước can thiệp để duy trì lực lượng nhân công cần thiết cho xã hội. Sự mâu thuẫn giữa giới chủ và giới thợ có nguồn gốc từ Chế độ Chiếm hữu nô lệ, khi mà sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất mới xuất hiện. Sự mâu thuẫn này trải qua nhiều thời kỳ và đi cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo thời gian trình độ chuyên môn và nhận thức của người lao động về BHXH ngày càng được nâng cao, cách chủ động khắc phục khi không may gặp phải rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Thế nhưng, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng như những khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thỏa và có hiệu quả nhất. Đó cũng chính là cách giải quyết chung nhất cho xã hội loài người trong quá trình phát triển của đất nước. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết phải tiến hành bảo hiểm cho người lao động. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người 1.1.3. Vai trò của BHXH BHXH ra đời và phát triển đã ngày càng khẳng định được vai trò của mình trên nhiều phương diện khác nhau trong thực tế cuộc sống cũng như trong phát triển kinh tế. Có thể khái quát vai trò của BHXH trên các mặt sau: Một là, BHXH góp phần ổn định đời sống của người lao động tham gia BHXH, những người tham gia BHXH sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập khi họ bị suy giảm, mất khả năng lao động, mất việc làm, chết. Nhờ có sự thay thế hoặc bù đắp thu nhập kịp thời mà người lao động khắc phục nhanh chóng được những tổn thất về vật chất, nhanh phục hồi sức khỏe, ổn định cuộc sống để tiếp tục quá trình hoạt động bình thường. Hai là, BHXH góp phần đảm bảo an toàn, ổn định cho toàn bộ nền kinh tế xã hội. Để phòng ngừa, hạn chế tổn thất, các đơn vị kinh tế phải đề ra các quy định chặt chẽ về an toàn lao động buộc mọi người phải tuân thủ. Khi có rủi ro xảy ra với người lao động, quỹ BHXH kịp thời hỗ trợ, tạo điều kiện cho người lao động nhanh ổn định cuộc sống và sản xuất… Tất cả những yếu tố đó góp phần quan trọng làm ổn định nền kinh tế xã hội. Ba là, BHXH làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước đều tham gia đóng góp vào quỹ BHXH, điều đó làm cho: Người lao động có trách nhiệm hơn trong công việc, trong lao động sản xuất. Người sử dụng lao động tham gia đóng góp vào quỹ BHXH cho người lao động được hưởng các chế độ BHXH cũng thấy rõ trách nhiệm của mình đối với người lao động. Nhà nước vừa tham gia đóng góp, vừa điều hành hoạt động của quỹ BHXH, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, cho mọi đối tượng thụ hưởng… Điều đó làm tăng thêm mối quan hệ gắn bó giữa Nhà nước- người sử dụng lao động- người lao động, góp phần ổn định nền kinh tế xã hội. Bốn là, BHXH góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Qũy BHXH được sử dụng để chi trả các chế độ BHXH cho người lao động và gia đình họ, phần nhàn rỗi được đầu tư vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh để bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Như vậy, xét trên cả phương diện, chi trả các chế độ BHXH cũng như đầu tư tăng trưởng quỹ, hoạt động của quỹ BHXH đều góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, phân phối trong BHXH là sự phân phối lại theo hướng có lợi cho những người có thu nhập thấp; là sự chuyển dịch thu nhập của những người khỏe mạnh, may mắn có việc làm ổn định cho những người ốm, yếu, gặp phải những biến cố rủi ro trong lao động sản xuất và trong cuộc sống. Vì vậy, BHXH góp phần làm giảm bớt gánh khoảng cách giữa những người giàu và người nghèo, góp phần bảo đảm sự công bằng xã hội. Năm là, BHXH là trụ cột của hệ thống ASXH, góp phần điều tiết các chính sách, các chương trình ASXH của mỗi quốc gia. Khi BHXH phát triển, số đối tượng tham gia và hưởng BHXH được mở rộng sẽ góp phần nâng cao đời sống của người lao động nói riêng và dân cư nói chung, từ đó sẽ góp phần làm giảm số đối tượng được hưởng các chính sách ASXH khác như ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội và làm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Sáu là, đối với Việt nam ta BHXH trực tiếp thể hiện vai trò mục tiêu, lý tưởng, bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị, xã hội mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đã và đang phấn đấu, xây dựng đất nước Việt nam dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.2. Một số vấn đề về quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội 1.2.1. Khái niệm quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội - Khái niệm quản lý Quản lý là sự tác động có kế hoạch, sắp xếp có tổ chức, chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn, kiểm tra của các chủ thể quản lý (cá nhân hay tổ chức) đối với các quá trình xã hội và hoạt động của con người, để chúng phát triển phù hợp với quy luật, đạt tới mục đích đề ra của tổ chức và đúng với ý chí của nhà nước quản lý với chi phí thấp nhất. - Khái niệm quản lý đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội Quản lý đối tượng tham gia BHXH là sự tác động có kế hoạch, có tổ chức của cơ quan BHXH đối với quá trình tham gia BHXH của các đối tượng thông qua việc quản lý danh sách tham gia; hồ sơ tham gia; sổ BHXH; mức lương; tổng quỹ lương, mức đóng góp vào quỹ BHXH , nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các đối tượng tham gia theo luật định. 1.2.2. Đối tượng quản lý Người lao động tham gia BHXH Người lao động tham gia BHXH tuỳ theo loại hình BHXH do Chính phủ quy định áp dụng trong từng thời kỳ. Người lao động tham gia hình thức BHXH bắt buộc: Theo quy định tại Điều 2 – Nghị định số 152/2006/NĐ-CP ngày 22/12/2006 và Thông tư số 03/2007/ TT-BLĐTBXH ngày 30/01/2007, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc được quy định như sau: Người LĐ tham gia BHXH bắt buộc là công dân Việt Nam, gồm: + Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; + Người làm việc theo HĐLĐ có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và HĐLĐ không xác định thời hạn theo quy định của pháp luật về LĐ; + Người LĐ, xã viên, kể cả cán bộ quản lý làm việc và hưởng tiền công theo HĐLĐ từ đủ 3 tháng trở lên trong HTX, Liên hiệp HTX thành lập, hoạt động theo Luật HTX; + Công nhân quốc phòng, công nhân công an làm việc trong các doanh nghiệp thuộc LLVT; + Người LĐ theo quy định nói trên được cử đi học, thực tập, công tác trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công ở trong nước; + Người LĐ đã tham gia BHXH bắt buộc mà chưa nhận BHXH 1 lần trước khi đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo quy định của pháp luật về người LĐ Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Bao gồm: Hợp đồng với tổ chức sự nghiệp, doanh nghiệp được phép hoạt động dịch vụ đưa người LĐ đi làm việc ở nước ngoài, doanh nghiệp đưa LĐ đi làm việc ở nước ngoài dưới hình thức thực tập, nâng cao tay nghề và doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài có đưa người LĐ đi làm việc ở nước ngoài; Hợp đồng với doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu công trình ở nước ngoài; Hợp đồng cá nhân. * Đối với quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân, công an nhân dân, được quy định tại Nghị định số 68/2007/NĐ-CP ngày 19/4/2007 như sau: + Người lao động thuộc diện hưởng lương, bao gồm: Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật Công an nhân dân; Người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân, công an nhân dân; + Người lao động thuộc diện hưởng trợ cấp, bao gồm: Hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân; Hạ sĩ quan, chiến sĩ Công an nhân dân. Người lao động tham gia hình thức BHXH tự nguyện: Là những công dân Việt Nam, trong độ tuổi lao động không thuộc đối tượng áp dụng BHXH bắt buộc. Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc, bao gồm: + Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật doanh nghiệp; + Các Công ty Nhà nước thành lập theo Luật doanh nghiệp Nhà nước đang trong thời gian chuyển đổi thành Công ty TNHH hoặc Công ty Cổ phần theo Luật doanh nghiệp; + Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước; + Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – XH, tổ chức chính trị XH – nghề nghiệp, tổ chức XH – nghề nghiệp, tổ chức XH khác; + Tổ chức, đơn vị hoạt động theo quy định của pháp luật; + Cơ sở ngoài công lập hoạt động trong các lĩnh vực: giáo dục - đào tạo; y tế; văn hoá; TDTT; khoa học và công nghệ; môi trường; xã hội; dân số, gia đình, bảo vệ chăm sóc trẻ em và các ngành sự nghiệp khác; + Hợp tác xã, Liên hiệp HTX thành lập, hoạt động theo Luật HTX; + Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người LĐ theo quy định của pháp luật LĐ; + Cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam có sử dụng LĐ là người Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà nước CHXHCN Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. Người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc đối với quân nhân, công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu, bao gồm: + Các cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Ban Cơ yếu Chính phủ; + Cơ quan, tổ chức khác sử dụng người làm công tác cơ yếu; + Doanh nghiệp thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Ban Cơ yếu Chính phủ. 1.2.3. Phạm vi quản lý - Quản lý các đơn vị sử dụng lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, BHYT trên địa bàn quản lý theo sự phân cấp quản lý; - Quản lý người lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, BHYT trong từng đơn vị sử dụng lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc và những người lao động tham gia BHXH tự nguyện trên địa bàn quản lý theo sự phân cấp quản lý; - Quản lý mức tiền lương hoặc tiền công đóng BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, BHYT của những người lao động tham gia BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, BHYT và tổng quỹ tiền lương, tiền công đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, BHYT của các đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, BHYT; - Quản lý mức thu nhập đăng ký đóng BHXH tự nguyện của người lao động tham gia BHXH tự nguyện, mức đóng BHYT của người tự nguyện tham gia BHYT. 1.2.4. Nội dung quản lý đối tượng tham gia BHXH - Quản lý danh sách lao động tham gia BHXH bắt buộc, BHYT bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp trong từng đơn vị sử dụng lao động; danh sách điều chỉnh lao động, mức lương đóng BHXH bắt buộc, BHYT bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp (trường hợp tăng, giảm lao động và mức đóng BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp). - Quản lý danh sách lao động tham gia BHXH tự nguyện, BHYT tự nguyện. - Quản lý mức tiền lương, tiền công hoặc thu nhập làm căn cứ đóng BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp. Bảng kê khai mức tiền lương, tiền công hoặc mức thu nhập làm căn cứ đóng BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp do đơn vị sử dụng lao động, đơn vị quản lý đối tượng tham gia BHYT và người tham gia lập theo mẫu quy định của BHXH Việt Nam. - Quản lý tổng quỹ tiền lương, tiền công hoặc thu nhập làm căn cứ đóng BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp của từng đơn vị tham gia BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp. Bảng kê khai tổng quỹ tiền lương, tiền công… do đơn vị quản lý đối tượng tham gia lập theo mẫu của BHXH Việt Nam. - Quản lý mức đóng BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp của từng đơn vị và từng người tham gia trên cơ sở danh sách tham gia BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp và bảng kê khai mức tiền lương, tiền công hoặc mức thu nhập làm căn cứ đóng BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp do đơn vị sử dụng lao động, đơn vị quản lý đối tượng tham gia BHYT lập. - Cấp và quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT cho người tham gia BHXH và hàng năm ghi bổ sung vào sổ BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp theo các tiêu thức ghi trong sổ và quy định của pháp luật về BHXH. - Tổ chức thu BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp. 1.2.5. Quy trình quản lý đối tượng tham gia BHXH Đăng ký tham gia Bảo hiểm xã hội: Thông thường việc đăng ký tham gia BHXHBB do nhà nước quy định đến từng đơn vị SDLĐ, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày giao kết HĐLĐ, hợp đồng làm việc hoặc hợp đồng tuyển dụng. Hồ sơ của từng NLĐ tham gia được người SDLĐ nộp lên cơ quan BHXH. - Thủ tục đăng ký tham gia BHXH lần đầu + Người lao động: kê khai 03 bản “Tờ khai tham gia BHXH, BHYT bắt buộc” (Mẫu số 01-TBH) nộp cho NSDLĐ; trường hợp đã được cấp sổ BHXH thì không phải kê khai mà chỉ nộp sổ BHXH. + Người sử dụng lao động: Kiểm tra, đối chiếu Tờ khai tham gia BHXH với hồ sơ gốc của từng NLĐ; ký xác nhận và phải chịu trách nhiệm về những nội dung trên Tờ khai của NLĐ; lập 02 bản “Danh sách lao động tham gia BHXH, BHYT bắt buộc” (Mẫu số 02a –TBH) và bản sao quyết định thành lập hoặc chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép hoạt động; trường hợp NSDLĐ là cá nhân thì phải nộp bản hợp đồng lao động. Trong thời hạn không quá 30 ngày kể từ ngày ký hợp đồng lao động hoặc quyết định tuyển dụng, NSDLĐ phải nộp toàn bộ hồ sơ theo quy định đã nêu ở trên và sổ BHXH của NLĐ (nếu có) cho cơ quan BHXH. + Cơ quan BHXH: Tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra số lượng, tính hợp pháp của các loại giấy tờ, đối chiếu với hồ sơ của NLĐ; ghi mã số quản lý đơn vị và từng NLĐ trên danh sách và trên Tờ khai tham gia BHXH bắt buộc (mã đơn vị và NLĐ ghi theo quy định của BHXH Việt Nam). Trường hợp hồ sơ chưa đủ, cơ quan BHXH phải hướng dẫn cụ thể để đơn vị hoàn thiện. Ký, đóng dấu vào “Danh sách lao động tham gia BHXH, BHYT bắt buộc” (Mẫu số 02a –TBH); trong thời gian không quá 5 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ phải trả lại đơn vị 01 bản Danh sách để đơn vị thực hiện đóng BHXH, BHYT, cơ quan BHXH lưu 01 bản Danh sách; riêng 03 Tờ khai (Mẫu số 01-TBH) của người lao động sau khi cấp sổ BHXH hoàn chỉnh thì trả lại đơn vị 02 Tờ khai cùng với sổ BHXH. - Trường hợp có biến động về lao động; tiền lương hoặc mức đóng BHXH, BHYT: + Tăng lao động: Lập 02 danh sách (mẫu số 02a - TBH) kê khai các trường hợp lao động tăng do tuyển dụng hoặc chuyển từ đơn vị khác đến; lập 03 tờ khai (Mẫu số 01 – TBH) kèm theo bản gốc các Quyết định tuyển dụng hoặc hợp đồng lao động, bản sao giấy khai sinh của người lao động. Đối với người lao động từ nơi khác chuyển đến thì nộp bản ghi quá trình đóng BHXH, BHTN. Hồ sơ nêu trên gửi cho cơ quan BHXH trong vòng 30 ngày kể từ ngày ký hợp đồng lao động hoặc quyết định tuyển dụng. + Giảm lao động, điều chỉnh số tiền đóng BHXH bắt buộc, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp: Lập 02 bản danh sách điều chỉnh (mẫu số 03a - TBH) kèm theo bản chính các Quyết định liên quan đến tuyển dụng, thôi việc, ngừng việc… và các Quyết định về tiền lương, tiền công hoặc Hợp đồng lao động của người lao động. + Cơ quan BHXH: Tiếp nhận, kiểm tra, thẩm định hồ sơ; ký, đóng dấu vào danh sách lao động tham gia BHXH, BHYT; các Tờ khai (nếu có), thông báo cho đơn vị đóng BHXH, BHYT; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT kịp thời cho người lao động. Đối chiếu hồ sơ tham gia: Sau khi đã nhận đầy đủ hồ sơ tham gia của các ĐVSDLĐ nộp lên, bộ phận tiếp nhận – quản lý hồ sơ phân loại, chuyển hồ sơ cho các bộ phận như sau: - Chuyển cho bộ phận Thu danh sách lao động tham gia BHXH theo mẫu 02a-TBH. - Chuyển cho bộ phận Cấp sổ thẻ toàn bộ hồ sơ cấp sổ BHXH còn lại. Bộ phận cấp sổ thẻ thẩm định tờ khai của người tham gia BHXH, nhập toàn bộ thông tin trên tờ khai vào chương trình SMS, nhập khoảng số sổ theo danh sách NLĐ của ĐVvà ghi số sổ BHXH vào tờ khai của từng NLĐ. Cấp sổ Bảo hiểm xã hội: Sổ BHXH được cấp cho người tham gia BHXH để theo dõi việc đóng hưởng các chế độ BHXH và là cơ sở để giải quyết các chế độ BHXH theo quy định của luật BHXH. Mẫu sổ BHXH do tổ chức BHXH quy định. Sau khi đã thẩm định xong, bộ phận cấp sổ thẻ thực hiện in. Tổ chức BHXH có trách nhiệm cấp sổ BHXH cho từng NLĐ trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ hợp lệ đối với người tham gia BHXHBB. Trường hợp không cấp sổ thì cơ quan BHXH phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Quản lý sổ Bảo hiểm xã hội: + Đối với NLĐ NLĐ chỉ trực tiếp quản lý sổ BHXH khi di chuyển từ ĐV làm việc này sang ĐV làm việc khác hoặc chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc. NLĐ có trách nhiệm giữ gìn, bảo quản số BHXH, không làm mất mát, hư hỏng, sửa chữa các nội dung thông tin trong sổ… Khi ký kết HĐLĐ, hợp đồng làm việc mới thì NLĐ phải nộp sổ BHXH cho người SDLĐ mới để tiếp tục theo dõi, ghi chép và thực hiện việc thu nộp BHXH và giải quyết các chế độ BHXH. + Đối với NSDLĐ Người SDLĐ có trách nhiệm lưu giữ, bảo quản sổ BHXH cho NLĐ thuộc phạm vi quản lý trong suốt quá trình NLĐ làm việc tại đơn vị. Khi NLĐ chấm dứt HĐLĐ, hợp đồng làm việc thì người SDLĐ phải giao lại sổ cho NLĐ. Thực hiện ghi sổ theo quy định của tổ chức BHXH. Quản lý danh sách người được cấp sổ và tham gia BHXH thuộc ĐV và báo cáo số tăng, giảm theo từng thời kỳ. Nộp lại sổ BHXH cho cơ quan BHXH khi giải quyết chế độ hưu trí hoặc hưởng BHXH một lần cho NLĐ. + Đối với cơ quan Bảo hiểm xã hội Phải mở sổ theo dõi trong quá trình tiếp nhận, cấp sổ BHXH cho NLĐ Sổ bị hư hỏng trong quá trình vận chuyển, bảo quản đều được lưu riêng và phải có biên bản ghi rõ số lượng, hiện trạng, nguyên nhân. Sổ bị các đối tượng tham gia làm hỏng trong quá trình quản lý, ghi chép phải nộp lại, lập bản kê khai theo dõi, báo cáo BHXH Việt Nam để xử lý. Sổ BHXH thu hồi để giải quyết chế độ chính sách cho NLĐ thì được lưu cùng hồ sơ hưởng BHXH. Tổ chức quản lý danh sách NLĐ tham gia BHXH theo từng ĐVsử dụng lao động được cấp sổ và tham gia BHXH trên địa bàn và phạm vi phụ trách. Hàng quý báo cáo danh sách người tăng giảm về cấp sổ để gửi cơ quan BHXH cấp trên. Cơ quan BHXH tỉnh thành phố trực thuộc trung ương hàng tháng báo cáo BHXH Việt Nam tổng số người đã được cấp sổ BHXH, tổng danh sách NLĐ tham gia BHXH, tổng quỹ tiền lương và mức phải đóng BHXH và báo cáo số đã thu BHXH. 1.2.6. Vai trò của quản lý đối tượng tham gia BHXH - Làm cơ sở cho việc tổ chức hoạt động thu BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp đúng đối tượng, đủ số lượng theo đúng quy định của pháp luật về BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp và đúng thời gian quy định; - Là điều kiện bảo đảm thực hiện quyền tham gia BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp của người lao động, của đơn vị sử dụng lao động và của công dân theo quy định của pháp luật về BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp; - Góp phần khai thác triệt để đối tượng tham gia BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp nhằm thực hiện mục tiêu mở rộng phạm vi “che phủ” của BHXH, tiến tới thực hiện BHXH, BHYT cho mọi người vì sự an sinh và công bằng xã hội theo chủ trương của Nhà nước; - Làm cơ sở giải quyết quyền lợi hưởng BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp cho các đối tượng tham gia theo đúng quy định của Luật BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp; - Góp phần tích cực vào việc phòng ngừa, hạn chế những hành vi vi pháp pháp luật về BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp của tổ chức, cá nhân có liên quan trong quá trình thực hiện pháp luật về BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp. 1.2.7. Công cụ quản lý đối tượng tham gia BHXH - Cơ sở pháp lý: Hệ thống pháp luật là công cụ cơ bản và quan trọng để thực hiện việc quản lý đối tượng tham gia BHXH. Bởi lẽ, đối tượng tham gia BHXH thường được quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật. Hệ thống pháp luật mà các nhà quản trị có thể dựa vào đó để quản lý đối tượng tham gia BHXH bao gồm: pháp luật về LĐ, pháp luật về BHXH và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan, như: Luật doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân, Luật Sĩ quan Công an nhân dân... - Thông qua hệ thống tổ chức bộ máy của BHXH và các nhà quản trị BHXH làm việc trong từng cấp quản trị của hệ thống tổ chức BHXH từ trung ương đến địa phương. Một cơ cấu tổ chức bộ máy BHXH được thiết kế khoa học, có sự phân công, phân cấp hợp lý, cụ thể, rõ ràng, cùng với sự phối hợp hoạt động một cách nhịp nhàng, thống nhất sẽ là một trong những công cụ chính để thực hiện việc quản lý đối tượng tham gia BHXH. - Hồ sơ tham gia và thủ tục thực hiện: Hồ sơ tham gia BHXH là những quy định về các loại văn bản giấy tờ cần thiết và các thủ tục hành chính mà đối tượng tham gia BHXH phải thực hiện. Trong đó, quy định rõ hồ sơ tham gia đối với người lao động và hồ sơ tham gia đối với các đơn vị sử dụng lao động. Đây là một trong những công cụ không thể thiếu đối với bất kỳ một hệ thống BHXH nào, cho dù BHXH ở các nước phát triển cũng vậy. Trong quá trình quản trị, các công việc của nhà quản trị liên quan đến hồ sơ của đối tượng luôn chiếm một tỷ trọng lớn, theo dõi và quản lý lâu dài. - Công nghệ thông tin: Khi xã hội phát triển, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản trị BHXH nói chung, quản lý đối tượng tham gia BHXH nói riêng là một việc làm tất yếu. Khi công nghệ thông tin được sử dụng làm công cụ quản lý đối tượng tham gia, thì các thủ tục hành chính được cải cách, hiệu quả quản trị của tổ chức BHXH sẽ tốt hơn. - Các cơ quan, tổ chức hữu quan: Hoạt động BHXH liên quan đến nhiều cơ quan, tổ chức. Do đó, việc quản trị đối tượng tham gia BHXH đòi hỏi cần có sự phối kết hợp giữa tổ chức BHXH với các cơ quan, tổ chức hữu quan khác trong việc kiểm soát sự tuân thủ pháp luật của người lao động và các đơn vị sử dụng lao động. Các cơ quan hữu quan thường bao gồm: các cơ quan quản lý nhà nước về BHXH, các tổ chức đại diện người lao động và đại diện người sử dụng lao động, các cơ quan thanh tra BHXH, các cơ quan cấp phép thành lập đơn vị sử dụng lao động hoặc cấp phép hoạt động, các tổ chức ngân hàng, kho bạc…. 1.2.8. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH - Chính sách Bảo hiểm xã hội: Chính sách bảo hiểm xã hội là một yếu tố không thể thiếu trong quá trình quản lý, nó có ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng và hiệu quả của công tác quản lý nói chung và có vai trò quan trọng trong việc quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội nói riêng. Trong quá trình tổ chức, quản lý bảo hiểm xã hội, các chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội là những công cụ cơ bản và quan trọng để thực hiện việc quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế và có tác động trực tiếp đến đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Thông qua các chính sách bảo hiểm xã hội, các đối tượng thể hiện được quyền lợi và nghĩa vụ của mình, đồng thời giúp cho công tác quản lý các đối tượng được dễ dàng, công bằng và minh bạch hơn. Chính vì thế sự thay đổi về chính sách bảo hiểm xã hội, các văn bản pháp luật về bảo hiểm xã hội đều ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. - Cơ cấu dân số: Nếu một quốc gia có dân số già, tức là lực lượng lao động chiếm tỉ trọng thấp trong dân số sẽ dẫn đến tình trạng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội cũng thấp theo. Ngược lại, nếu một quốc gia có dân số trẻ thì lực lượng lao động trong xã hội sẽ tăng lên, sẽ có nhiều người tham gia vào thị trường lao động, được ký kết các hợp đồng lao động, làm tăng số đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Vì vậy, một quốc gia có dân số già hay dân số trẻ sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến lực lượng lao động bị thất nghiệp. Từ đó ảnh hưởng đến công tác quản lý đối tượng bảo hiểm xã hội nói chung và công tác quản lý đối tượng bảo hiểm thất nghiệp nói riêng. - Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế: Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và thu nhập bình quân trên đầu người. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phản ánh khả năng tiết kiệm và đầu tư tiêu dùng của nhà nước. Vì thế một quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định thì đời sống của người dân ở quốc gia đó cũng cao, tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn vì thế các chủ lao động sẽ sẵn sàng tham gia BHXH cho NLĐ ở doanh nghiệp họ. Đây là một điều kiện quan trọng để cho NLĐ tham gia BHXH. - Nhận thức của người tham gia: Nhận thức của người tham gia là yếu tố được quan tâm hàng đầu trong việc triển khai và thực hiện chính sách BHXH cũng như công tác quản lý đối tượng tham gia. Nếu cả NLĐ và NSDLD đều có những nhận thức đúng đắn về BHXH thì họ sẽ tích cực thực hiện đầy đủ quyền tham gia của mình. Tuy nhiên, hiện tượng cả NLĐ và NSDLĐ chỉ quan tâm đến lợi ích trước mắt mà không có cái nhìn lâu dài đang xảy ra gây khó khăn cho công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH. Nhiều chủ SDLĐ cho rằng họ không những không thu được lợi ích gì từ việc tham gia đóng BHXH cho NLĐ mà còn bị thiệt thòi vì phải chi ra một khoản chi phí khá lớn, điều đó làm giảm khả năng cạnh tranh của DN họ trên thị trường nên đã cố tình không trốn đóng BHXH. Bên cạnh đó, sự trốn tránh trách nhiệm đóng BHXH của các chủ SDLĐ còn nhận được sự đồng tình, ủng hộ từ phía NLĐ thông qua việc NLĐ thỏa thuận với chủ trả thẳng tiền đóng BHXH vào tiền lương, hoặc lo sợ bị mất việc làm khiến họ không dám lên tiếng đòi quyền lợi. Như vậy sự không hiểu biết của NLĐ và NSDLĐ là một trở ngại lớn cho công tác quản lý đối tượng tham gia, là nguyên nhân chính của các hành vi trốn đóng BHXH, gây ảnh hưởng đến quyền vè lợi ích của NLĐ. - Công tác thông tin tuyên truyền: Công tác thông tin tuyên truyền có vai trò to lớn trong việc nâng cao nhận thức của người dân về vai trò của bảo hiểm xã hội trong đời sống. Nếu như thực hiện tốt công tác này sẽ giúp cho đối tượng tham gia hiểu rõ về chế độ, chính sách BHXH theo quy định của luật pháp, làm thay đổi thái độ đối với công tác BHXH theo hướng tích cực, phù hợp với pháp luật. Ngoài ra, tuyên truyền BHXH còn có tác dụng cổ vũ động viên NLĐ cùng các đươn vị SDLĐ tự giác, tích cực thực hiện đúng quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia BHXH theo đúng quy định của pháp luật, đấu tranh loại bỏ những hành vi gian lận, trái pháp luật nhằm mục đích trục lợi. Bởi vậy, tuyên truyền giúp cho các đối tượng hiểu được lợi ích từ chính sách này sẽ khuyến khích các đối tượng tham gia nhiều hơn, chấp hành đúng các thủ tục hơn trong quy trình tham gia, giúp việc quản lý đối tượng tham gia được thực hiện tốt hơn. - Ứng dụng công nghệ thông tin: Khi xã hội phát triển, công nghệ thông tin sẽ ngày càng hiện đại. Vì vậy, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản trị bảo hiểm xã hội nói chung, quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội nói riêng là một nhân tố quan trọng trong công tác quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội. Khi công nghệ thông tin được sử dụng làm công cụ quản lý đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội thì các thủ tục hành chính được cải cách, hiệu quả quản trị của tổ chức BHXH sẽ tốt hơn. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH TẠI BHXH HUYỆN YÊN HƯNG TỈNH QUẢNG NINH GIAI ĐOẠN 2007 - 2010 2.1. Giới thiệu chung về huyện Yên Hưng và Bảo hiểm xã hội huyện Yên Hưng 2.1.1. Khái quát đặc điểm kinh tế xã hội huyện Yên Hưng Huyện Yên Hưng nằm phía tây nam tỉnh Quảng Ninh, phía bắc là thị xã Uông Bí và huyện Hoành Bồ, phía đông và nam là thành phố Hạ Long và biển, phía tây là huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng), được nối bởi phà Phà Rừng nằm trên quốc lộ 10. Huyện có diện tích 331km², dân số là 145.000 người (2009), gồm có 18 xã và 1 thị trấn là Quảng Yên. Huyện Yên Hưng là vùng đất được phân chia ranh giới bởi Sông Chanh. Huyện chia làm hai vùng có diện tích gần tương đương nhau là Hà Nam và Hà Bắc. Vùng Hà Bắc có địa hình chủ yếu là đồi núi bát úp, với các đồi núi thấp. Đất chủ yếu là đất feralit đỏ vàng. Đất đai thuận lợi cho việc trồng vây hoa màu và cây công nghiệp như thông, heo tai tượng, xà cừ có giá trị kinh tế cao. Vùng Hà Nam là vùng có địa hình bằng phẳng. Vốn là vùng đất được bồi lắng ở cửa sông Bạch Đằng. Vùng đất này được bao bọc xung quanh là hệ thống đê với chiều dài 34 Km. Đất đai ở đây khá màu mỡ phù hợp cho việc trồng cây nông nghiệp như lúa nước. Vùng này còn là vựa lúa lớn của tỉnh Quảng Ninh. Yên Hưng là huyện ven biển nhưng địa hình khá đa dạng, có núi có sông, có rừng, có đồng bằng và các bãi bồi ven sông biển. Nơi đây có khí hậu trong lành, có nguồn lợi lớn về thuỷ sản và là nơi nghỉ dưỡng lý tưởng so với nhiều địa phương khác trong tỉnh và trên cả nước. Là một huyện có vị trí ven biển nên các tài nguyên biển được coi là ưu thế nổi trội của Yên Hưng, đặc biệt là nuôi trồng đánh bắt và chế biến thuỷ hải sản. Các ngành kinh tế khác như du lịch dịch vụ, nông lâm nghiệp, vận tải thủy… là những ngành kinh tế thế mạnh của huyện. Trong những năm qua nền kinh tế của huyện đã phát triển trên nhiều lĩnh vực, bộ mặt kinh tế xã hội của huyện có nhiều đổi thay tích cực. 2.1.2. Giới thiệu chung về Bảo hiểm xã hội huyện Yên Hưng Ngày 23/8/1995 Tổng Giám Đốc BHXH Việt Nam ra quyết định số 134QĐ/TC - CB thành lập BHXH huyện Yên Hưng với chức năng, nhiệm vụ cơ bản là: Xây dựng chương trình lập kế hoạch, tổ chức thực hiện chính sách BHXH, tổ chức thu BHXH, quản lý chi BHXH kịp thời, giám định chi khám chữa bệnh ở các bệnh viện đúng quy định. BHXH huyện Yên Hưng được thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH thuộc Phòng Tổ chức Lao động – Thương binh xã hội và Liên đoàn Lao động huyện. Ngay từ khi thành lập về tổ chức bộ máy và cơ sở vật chất ngành rất khó khăn thiếu thốn. Trình độ chính trị, trình độ chuyên môn nhiệm vụ về chính sách BHXH không đồng đều, nơi làm việc chật chội, trang bị thiếu thốn, công việc mới nên áp lực trong công tác rất lớn có lúc rất căng thẳng song ngành BHXH Yên Hưng đã vượt lên khó khăn vất vả, đoàn kết cùng thống nhất, nhận thức là muốn thực hiện chính sách BHXH phải làm thật tốt công tác giải quyết Chính sách BHXH cho người làm việc trong các cơ quan đơn vị đã đủ điều kiện hưởng BHXH. Chính từ làm tốt công tác này một mặt đảm bảo quyền lợi cho người lao động mặt khác tạo lập niềm tin cho người là đối tượng BHXH và làm chuyển biến về nhận thức cho người lao động đã, sắp và sẽ tham gia BHXH. Được sự quan tâm và lãnh đạo trực tiếp của huyện uỷ, HĐND, UBND huyện: BHXH Yên Hưng đã nhanh chóng ổn định tổ chức đi vào hoạt động hiệu quả trong công tác. Đến nay, trụ sở của BHXH huyện Yên Hưng được xây dựng tương đối khang trang, các bộ phận chức năng được sắp xếp theo một hệ thống hợp lý. Các bộ phận đều được trang bị máy tính phục vụ cho công việc được nhanh chóng và đạt hiệu quả cao, mỗi cán bộ được trang bị một máy tính riêng và máy in, phần mềm phục vụ cho công việc tạo điều kiện thuận lợi cho công tác lưu trữ hồ sơ, cho việc chi trả cho các chế độ… So với những ngày đầu mới thành lập thì trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chính trị của đội ngũ cán bộ của của đơn vị được nâng lên rõ rệt để bắt kịp với xu hướng phát triển chung của xã hội. Công tác tổ chức cán bộ, đào tạo bồi dưỡng là một trong những yếu tố quyết định đối với việc tổ chức và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà cấp trên giao. 2.2. Thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng 2.2.1. Quản lý danh sách đối tượng tham gia BHXH 2.2.1.1. Quản lý danh sách đối tượng tham gia BHXH bắt buộc Đối tượng tham gia BHXH được hiểu là đối tượng quản lý của hệ thống BHXH, là các cá nhân và thể nhân có lợi ích và nghĩa vụ liên quan đến quỹ BHXH, thuộc phạm vi điều chỉnh và thực hiện chính sách chế độ BHXH. Đó cũng chính là đối tượng có nghĩa vụ đóng góp BHXH theo luật định, đồng thời được thụ hưởng quyền lợi từ quỹ BHXH theo chế độ quy định của Nhà nước và pháp luật. Một trong các mục tiêu của BHXH huyện Yên Hưng là quản lý cho được các đối tượng tham gia BHXH phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mà BHXH tỉnh Quảng Ninh giao phó. Tình hình tham gia BHXH của BHXH huyện Yên Hưng giai đoạn 2007 – 2010 được thể hiện qua bảng thống kê sau đây: Bảng 1: Tình hình tham gia BHXH bắt buộc (2007 - 2010) Năm Khối 2007 2008 2009 2010 Số đơn vị (đơn vị) Số người (người) Số đơn vị (đơn vị) Số người (người) Số đơn vị (đơn vị) Số người (người) Số đơn vị (đơn vị) Số người (người) DN ngoài quốc doanh 15 964 19 1061 28 1181 32 1084 HCSN 75 2548 76 2627 77 2752 78 2815 Ngoài công lập 5 324 5 318 5 319 5 313 UBND xã, phường 19 300 19 311 19 327 19 323 Tổng 114 4136 119 4317 129 4579 134 4535 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Nhìn chung, số đơn vị sử dụng lao động và số lao động tham gia BHXH đều tăng nhưng tăng chậm. Qua 4 năm từ năm 2007 đến năm 2010 có khối ngành tăng cả về số đơn vị tham gia và cả số người tham gia. Cụ thể, số đơn vị tham gia và số lao động tham gia BHXH tăng giảm qua 4 năm như sau: Đối với khối doanh nghiệp ngoài Quốc doanh: Đất nước ta đang trên con đường đổi mới, thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế. Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) trước đây chưa được quan tâm đúng mức, nay được Đảng và Nhà nước ta khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để phát triển. Hoà vào xu hướng chung của cả nước, khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở huyện Yên Hưng cũng đạt được những chuyển biến đáng kể. Doanh nghiệp đóng trên địa bàn huyện chủ yếu là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, số lao động không lớn. Nhìn qua bảng số liệu ta thấy số đơn vị tham gia BHXH trong khối ngành này có xu hướng tăng, qua 4 năm từ 2007 đến 2010 tăng 17 đơn vị tương ứng 113,3%. Tuy nhiên, số đơn vị và số lao động đăng ký tham gia BHXH vẫn chưa đúng với số doanh nghiệp và số lao động thực tế phải tham gia BHXH bắt buộc trên địa bàn huyện. Năm 2008, số đơn vị tham gia BHXH tăng 4 đơn vị tương ứng với 97 lao động so với năm 2007. Năm 2009, số doanh nghiệp tham gia BHXH tăng 9 đơn vị so với năm 2008 tương ứng với 120 lao động, đây là năm có biến động mạnh nhất trong 4 năm, so với thực tế thì số doanh nghiệp tham gia BHXH chiếm 77,78% (số doanh nghiệp thực tế phải tham gia BHXH của huyện là 36 đơn vị), số lao động thực tế là 1325 lao động tức là còn 10,87% lao động chưa tham gia BHXH. Đến năm 2010, tuy huyện có 32 doanh nghiệp tham gia BHXH, tăng 4 doanh nghiệp nhưng số lao động tham gia BHXH lại giảm 97 người so với năm 2009, trong thực tế huyện có 40 doanh nghiệp với tổng số lao động là 1412 lao động, như vậy còn 20% doanh nghiệp và 23,23% người lao động thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc mà chưa tham gia. Nguyên nhân chủ yếu là do ý thức chấp hành luật BHXH của các chủ doanh nghiệp chưa cao và nhận thức về BHXH của NLĐ còn thấp, do vậy nhiều doanh nghiệp không tham gia BHXH cho bảo vệ, tạp vụ… Đối với khối hành chính sự nghiệp Huyện Yên Hưng là một huyện thuần nông đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất từ nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp. Nên trên địa bàn huyện đối tượng tham gia BHXH chủ yếu là các đơn vị hành chính sự nghiệp. Đây là khối có các đơn vị sử dụng nguồn ngân sách nhà nước là chủ yếu lại có số người tham gia BHXH lớn nhất trong 4 khối ngành. Khối này có số đơn vị tham gia BHXH tăng đều qua 4 năm từ 75 đơn vị (năm 2007) lên 78 đơn vị (năm 2010), cùng với sự gia tăng của số đơn vị tham gia BHXH là sự tăng lên về số người tham gia, qua 4 năm tăng 267 lao động. Số người tham gia tăng mạnh nhất vào năm 2009, số tăng là 4,8% tương ứng với 125 lao động so với năm 2008. Đối với khối ngoài công lập: Khối ngoài công lập tại huyện Yên Hưng bao gồm các trường mầm non và các trường phổ thông dân lập. Đây là khối có số đơn vị tham gia BHXH ít nhất trong 4 khối. Số đơn vị tham gia BHXH qua 4 năm từ 2007 đến 2010 không thay đổi, luôn giữ ở mức 5 đơn vị. Trên đại bàn huyện hiện nay chỉ có 5 cơ sở ngoài công lập và đều tham gia BHXH. Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, tuy số đơn vị tham gia BHXH không tăng thêm nhưng số lao động tham gia BHXH qua 4 năm lại có xu hướng giảm, năm 2010 số lao động tham gia BHXH của khối này giảm 3,4% tương ứng với 11 người so với năm 2007. Đặc biệt năm 2010, số lao động tham gia BHXH giảm 1,9% tương ứng với 6 người, nguyên nhân là do một số người lao động đến tuổi nghỉ hưu hoặc chuyển đi nơi khác. Đối với khối UBND xã, phường: Các đơn vị tham gia BHXH trong khối này chỉ có UBND của 19 xã và thị trấn. Qua bảng số liệu ta thấy trong suốt 4 năm (2007 – 2009) số đơn vị tham gia BHXH không thay đổi, luôn giữ ở mức 19 đơn vị. Mặc dù vậy qua 4 năm số lao động tham gia BHXH của khối này tăng 7,7% tương ứng với 23 người. Cụ thể từ năm 2007 đến năm 2009 số lao động tham gia BHXH của khối này tăng 9,0% tương ứng với 27 người tuy nhiên đến năm 2010 số lao động tham gia BHXH lại giảm 1,2% so với năm 2009 tương ứng với 4 người. Có thể thấy là số lao động tham gia BHXH trung bình ở khối này chỉ khoảng 16 người, 17 người/ đơn vị tham gia BHXH, nguyên nhân là do số lao động tại mỗi đơn vị không nhiều. Như vậy có thể thấy số đơn vị tham gia BHXH ở các khối ngành nhìn chung đều tăng qua 4 năm (2007 - 2010). Tuy nhiên, riêng năm 2009, số lao động ở các khối ngành đều tăng lên làm cho số lao động tham gia BHXH trong năm này cao hơn so với 3 năm kia. Qua bảng số liệu và những phân tích trên cũng cho thấy lao động tham gia BHXH tại huyện Yên Hưng chủ yếu là lao động làm việc trong các cơ quan nhà nước, số người tham gia BHXH chiếm hơn 60% tổng số lao động tham gia BHXH trên toàn huyện, trong khi đó khối doanh nghiệp của huyện thì còn rất nhiều doanh nghiệp chưa tham gia BHXH cho người lao động. 2.2.1.2. Quản lý danh sách đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp xảy ra là tất yếu khách quan do các yếu tố thị trường lao động luôn có xu hướng cung nhiều hơn cầu, do áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, do cạnh tranh…. Do vậy, cần phải có các giải pháp nhằm hạn chế và giải quyết thất nghiệp. Từ ngày 01-01-2009 chính sách bảo hiểm thất nghiệp lần đầu tiên được thực hiện. Đối tượng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có sức lao động, bị mất việc làm nhưng luôn sẵn sàng trở lại làm việc. Mới chỉ qua 2 năm thực hiện nhưng tình hình tham gia bảo hiểm thất nghiệp ở huyện Yên Hưng đã thu được kết quả cao. Cụ thể, tình hình tham gia bảo hiểm thất nghiệp ở huyện Yên Hưng được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2: Tình hình tham gia bảo hiểm thất nghiệp (2009 - 2010) Năm Khối 2009 2010 DN ngoài quốc doanh 1044 1082 HCSN 509 1673 Ngoài công lập 245 313 Tổng 1798 3068 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, tổng số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng lên đáng kể qua 2 năm. Năm 2010, tổng số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng 70,63% tương đương với 1270 người so với năm 2009. Do số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp ở các khối ngành đều tăng lên qua 2 năm, trong đó khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng thấp nhất là 38 người, khối ngoài công lập tăng 68 người, riêng khối HCSN là tăng cao nhất trong 3 khối ngành với 1164 người tương ứng với 228,7% so với năm 2009. Dự báo đối tượng của bảo hiểm thất nghiệp khó khăn hơn một số chế độ BHXH khác, nguyên nhân là do dự báo thất nghiệp có nhiều yếu tố tác động như sự chuyển dịch lao động trong cơ chế thị trường, do thay đổi cơ cấu sản xuất, thay đổi công nghệ…. Bên cạnh đó, lực lượng lao động có tính chuyển dịch lớn do các doanh nghiệp thiếu tính bền vững, ổn định hoặc do người lao động, nhất là lao động nhập cư thường hay thay đổi nơi làm việc và nơi cư trú. 2.2.1.3. Quản lý danh sách đối tượng tham gia BHXH tự nguyện Trong bối cảnh hiện nay, khi nền kinh tế thị trường với sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế đã được khẳng định ở nước ta thì nhu cầu về BHXH được tăng lên rất nhiều. Do vậy, ngày 01-01-2008 chính sách BHXH tự nguyện được triển khai nhằm bảo đảm quyền tham gia BHXH cho mọi người lao động thuộc mọi tầng lớp nhân dân trên cơ sở vận động, khuyến khích họ tiết kiệm chi tiêu khi còn trong độ tuổi lao động, có sức khoẻ, có việc làm, có thu nhập hãy tham gia đóng góp cho quỹ BHXH, để khi không may gặp rủi ro xã hội hoặc khi tuổi già và khi từ trần thì được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH; bảo đảm ổn định cuộc sống cho NLĐ và gia đình họ, giảm bớt gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước, cho cộng đồng, góp phần đảm bảo công bằng và an sinh xã hội. Qua 3 năm thực hiện chính sách BHXH tự nguyện BHXH huyện Yên Hưng đã đạt được kết quả như sau: Bảng 3: Tình hình tham gia BHXH tự nguyện (2008 - 2010) Năm 2008 2009 2010 Số người tham gia 67 68 96 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Nhìn chung số người tham gia BHXH tự nguyện ở huyện Yên Hưng vẫn còn thấp. Năm 2008 có 67 người tham gia đến năm 2010 số người tham gia tăng thêm 29 người. Số người tham gia BHXH tự nguyện ở huyện Yên Hưng có xu hướng ngày càng tăng lên. Do đặc trưng của nhóm đối tượng tham gia BHXH tự nguyện phần lớn là không ổn định về loại hình và tính chất công việc, về chỗ làm việc, về thời gian làm việc và về thu nhập. Nên khi triển khai chính sách BHXH tự nguyện BHXH huyện Yên Hưng đã thực hiện tốt công tác tuyên truyền cho người dân trên toàn địa bàn đặc biệt là đẩy mạnh tuyên truyền vận động ở các xã như Hà An, Cộng Hoà, Minh Thành, Yên Giang… 2.2.2. Quản lý sổ BHXH Sổ BHXH đối với NLĐ là một chứng lý chứng minh quá trình tham gia BHXH, phần nào phù hợp và thuận tiện cho họ trong suốt quá trình làm việc dù ở cơ quan nào, đơn vị nào, thuộc thành phần kinh tế nào vẫn được đảm bảo quyền lợi về chế độ BHXH theo luật định. Đối với cơ quan BHXH, sổ BHXH là một trong những công cụ được sử dụng để quản lý, theo dõi, giải quyết chế độ BHXH cho NLĐ được thuận lợi. Điều nổi bật nhất của việc sử dụng sổ BHXH là đã giúp cho các cấp, các ngành, các đơn vị và NLĐ thuộc diện tham gia BHXH có nhận thức rõ hơn về chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước; thấy được quyền lợi và trách nhiệm của mình khi tham gia BHXH. 2.2.2.1. Công tác quản lý sổ BHXH bắt buộc Sau khi đã tiếp nhận và xử lý các hồ sơ tham gia BHXH, thẩm định hồ sơ hợp lệ, những lao động mới tham gia sẽ được cấp sổ bảo hiểm. Cấp sổ BHXH là một trong những quyền đầu tiên của NLĐ tham gia BHXH, đồng thời cũng là công cụ để thông qua đó việc quản lý đối tượng tham gia được thực hiện chặt chẽ hơn. Việc cấp sổ BHXH cho người tham gia BHXH đã tạo niềm tin cho họ, một phần đã có tác dụng khuyến khích mọi người tự giác tham gia đóng BHXH để bảo vệ quyền lợi chính họ. Công tác này cũng tạo điều kiện cho tổ chức công đoàn thực hiện bảo vệ quyền lợi cho NLĐ ở đơn vị của họ. Sổ BHXH có tác dụng hữu hiệu trong việc kiểm tra, kiểm soát về mức nộp, thời gian nộp, việc nộp có đúng đủ hay không; đồng thời sổ BHXH còn có tác dụng tạo điều kiện cho NLĐ thúc đẩy, đôn đốc NSDLĐ nộp BHXH đầy đủ kịp thời. Do vậy, công tác cấp sổ BHXH luôn được BHXH huyện Yên Hưng chú trọng thực hiện một cách nhanh chóng, kịp thời. Bảng 4: Quản lý cấp sổ BHXH bắt buộc (2007 - 2010) Năm 2007 2008 2009 2010 Số lao động tham gia 4136 4317 4579 4535 Số lao động được cấp sổ 4101 4230 4365 4495 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, số lượng lao động tham gia BHXH ngày càng nhiều, và số lao động tham gia BHXH được cấp sổ cũng tăng lên qua các năm. Tuy nhiên, số lao động tham gia BHXH được cấp sổ trong 4 năm qua đều ít hơn số lao động tham gia. Số lao động chưa được cấp sổ năm 2009 cao nhất là 4,67% tương ứng với 214 người, năm 2008 là 2,0% tương ứng với 87 người, đến năm 2010 đã giảm xuống chỉ còn 0,88% tương ứng với 40 người. Số lao động tham gia BHXH chưa được cấp sổ BHXH chủ yếu do các nguyên nhân: lao động mới hợp đồng, sự hiểu biết về hồ sơ, thủ tục, quy trình tham gia BHXH còn hạn chế gây chậm chễ trong việc cấp sổ, thiếu chứng từ như chứng minh thư nhân dân, quyết định tuyển dụng, hay NLĐ chỉ làm một tờ khai cá nhân,…Điều đó làm cho cán bộ quản lý thu và cấp sổ thẻ không thể tiến hành đối chiếu, thẩm định hồ sơ để tiến hành cấp sổ theo quy định được. Qua việc thực hiện cấp sổ BHXH, người sử dụng lao động và người lao động đã nhận thức được tầm quan trọng trong việc quản lý, lưu giữ hồ sơ cá nhân, thấy được trách nhiệm trong việc đóng BHXH đầy đủ, kịp thời. Bên cạnh đó, nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động, thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của BHXH cấp huyện theo quy định của BHXH Việt Nam trong công tác quản lý sổ BHXH cho người tham gia thì công tác chốt sổ BHXH cho người lao động cũng là việc làm cần thiết. BHXH huyện Yên Hưng cũng đã có rất nhiều công gắng trong việc thực hiện công tác chốt sổ BHXH cho người lao động. Cụ thể qua bảng thống kê sau: Bảng 5: Quản lý công tác chốt sổ BHXH bắt buộc (2007 – 2010) Năm 2007 2008 2009 2010 Số sổ phải chốt 926 4317 1098 1125 Số sổ đã chốt 854 4256 987 1069 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Qua bảng số liệu trên ta thấy số sổ BHXH đã chốt được của huyện chiếm khoảng 90% tổng số sổ phải chốt trong năm. Trong đó, riêng năm 2008 số BHXH sổ phải chốt lên tới 4317 sổ cao hơn hẳn so với số sổ phải chốt của 3 năm còn lại, nguyên nhân là từ ngày 01/01/2009 BHXH huyện Yên Hưng bắt đầu thực hiện việc cấp sổ BHXH theo mẫu sổ mới cho người lao động. Do vậy mà đến 31/12/2008 BHXH huyện cần phải chốt hết sổ BHXH cũ để sang đầu năm 2009 in sổ BHXH mới cho người lao động. Từ năm 2008 trở về trước, sổ BHXH của người lao động là quyển sổ bìa xanh đậm nhưng từ 01/01/2009 sổ BHXH cũ được thay bằng sổ mới tiện dụng hơn, gồm có 1 tờ bìa có thông tin của người lao động và qua trình làm việc của người lao động được in vào tờ rời. Mặc dù vậy, số sổ đã chốt được chiếm 98,6% còn 2,4% sổ chưa chốt tương ứng với 61 sổ, nguyên nhân chủ yếu là do một số đơn vị còn nợ đọng BHXH. Tuy nhiên, năm 2009 số sổ chưa chốt lên tới 111 sổ tương ứng với 10,1%. 2.2.2.2. Công tác quản lý sổ BHXH tự nguyện Người tham gia BHXH tự nguyện nộp tờ khai cá nhân cho cơ quan BHXH huyện Yên Hưng. Mẫu tờ khai cá nhân do BHXH Việt Nam quy định. Trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ của người tham gia BHXH tự nguyện, cơ quan BHXH huyện có trách nhiệm cấp sổ BHXH; trường hợp không cấp thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Công tác quản lý cấp và chốt sổ BHXH cho người tham gia BHXH tự nguyện được BHXH huyện Yên Hưng thực hiện như sau: Bảng 6: Quản lý cấp và chốt sổ BHXH tự nguyện (2008 - 2010) Năm 2008 2009 2010 Số người tham gia 67 68 96 Số người được cấp sổ 67 68 96 Số sổ được chốt 0 1 4 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Nhìn vào bảng số liệu ta thấy, người tham gia BHXH tự nguyện được cấp sổ đầy đủ qua 3 năm thực hiện. BHXH tự nguyện mới được triển khai năm 2008 nên số người tham gia còn thấp dẫn tới số sổ BHXH được cấp cũng thấp. Số người tham gia BHXH tự nguyện chốt sổ cũng rất ít, năm 2010 mới có 4 sổ phải chốt. 2.2.3. Quản lý hồ sơ 2.2.3.1. Quản lý hồ sơ tham gia BHXH Hồ sơ tham gia BHXH là công cụ quản lý đối tượng tham gia không thể thiếu trong một hệ thống BHXH. Cơ quan BHXH huyện Yên Hưng tiếp nhận và quản lý hồ sơ tham gia BHXH của NLĐ đảm bảo khoa học để thuận tiện khai thác và sử dụng. Kết quả thực hiện công tác quản lý hồ sơ tham gia BHXH của BHXH huyện Yên Hưng được thể hiện qua bảng sau: Bảng 7: Quản lý hồ sơ tham gia BHXH (2007 – 2010) Năm 2007 2008 2009 2010 Hồ sơ đã tham gia 3929 4101 4297 4500 Hồ sơ tham gia mới 172 196 203 226 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Nhìn vào bảng số liệu ta thấy số hồ sơ tham gia BHXH tăng lên qua 4 năm nhưng với tốc độ tăng chậm trung bình 5%/ năm. Năm 2007 số hồ sơ tham gia là 4101 đến năm 2010 số hồ sơ tham gia tăng lên 4726 hồ sơ, tăng 15,2%. Số hồ sơ tham gia mới cũng tăng lên qua các năm, tuy nhiên số tăng cũng chưa nhiều. Nguyên nhân là do đối tượng tham gia BHXH của huyện tăng lên qua các năm nhưng tăng chậm. 2.2.3.2. Quản lý hồ sơ hưởng BHXH Chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN, DSPHSK Hồ sơ giải quyết chế độ ốm đau + Sổ bảo hiểm xã hội. + Xác nhận của người sử dụng lao động về điều kiện làm việc đối với người lao động làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên. + Giấy xác nhận của người sử dụng lao động về thời gian nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau, kèm theo giấy khám bệnh của con đối với người lao động nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau. + Danh sách người nghỉ ốm và người nghỉ việc để chăm sóc con ốm đau do NSDLĐ lập. Hồ sơ giải quyết chế độ thai sản + Sổ bảo hiểm xã hội. + Bản sao giấy chứng sinh hoặc bản sao giấy khai sinh của con hoặc giấy chứng tử trong trường hợp sau khi sinh con mà con chết hoặc mẹ chết. Trường hợp lao động nữ đi khám thai, sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, người lao động thực hiện các biện pháp tránh thai phải có giấy xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền; nhận nuôi con nuôi dưới bốn tháng tuổi phải có chứng nhận theo quy định của pháp luật. + Danh sách người hưởng chế độ thai sản do NSDLĐ lập. Hồ sơ giải quyết chế độ TNLĐ - BNN + Sổ bảo hiểm xã hội. + Biên bản điều tra TNLĐ, trường hợp bị tai nạn giao thông được xác định là TNLĐ thì phải có thêm bản sao Biên bản tai nạn giao thông; biên bản đo đạc môi trường có yếu tố độc hại. + Giấy ra viện sau khi đã điều trị TNLĐ - BNN. + Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng Giám định y khoa. + Văn bản đề nghị giải quyết chế độ TNLĐ - BNN. Hồ sơ giải quyết chế độ DSPHSK + Danh sách người đã hưởng chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN mà sức khoẻ còn yếu do NSDLĐ lập. + Văn bản đề nghị giải quyết trợ cấp DSPHSK. Trong 4 năm qua BHXH huyện Yên Hưng luôn hoàn thành tốt công tác chi trả chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN, DSPHSK cho NLĐ. Kết quả thực hiện các chế độ thể hiện qua bảng sau: Bảng 8: Số người hưởng chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ – BNN, DSPHSK (2007 – 2010) Năm 2007 2008 2009 2010 Ốm đau 2558 2985 3305 3942 Thai sản 239 268 307 345 TNLĐ- BNN Hàng tháng 25 29 29 31 Một lần 3 0 1 2 DSPHSK 76 93 102 133 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Nhìn vào bảng số liệu ta thấy: + Chế độ ốm đau: số người hưởng chế độ ốm đau chiếm tỷ lệ tương đối cao. Số người hưởng tăng lên qua các năm, cao nhất là năm 2010 tăng 19,27% tương ứng với 637 người so với năm 2009. Nguyên nhân là do năm 2010 có nhiều bệnh dịch như: cúm, tả… + Chế độ thai sản: số người hưởng chế độ thai sản tăng lên qua các năm. Cụ thể: năm 2008 số lao động hưởng chế độ tăng 29 người so với 2007 (tăng 12,13%); năm 2009 số lao động nghỉ tăng 39 người so với 2008 (tăng 14,55%); năm 2010 số lao động nghỉ tăng 38 người so với 2009 (tăng 12,38%). Sự gia tăng này do một số ngành nghề của huyện như thuỷ sản, du lịch, giáo viên mầm non… yêu cầu một số lượng lớn lao động nữ nên số lao động nữ trong độ tuổi sinh nở khá lớn. + Chế độ TNLĐ – BNN: số người hưởng chế độ không biến động nhiều qua các năm. Số người hưởng chế độ TNLĐ – BNN một lần ít, chủ yếu là người hưởng hàng tháng. Số người tăng lên hàng năm có xu hướng giảm, đó là do ý thức của NLĐ tăng lên và NSDLĐ ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề bảo hộ lao động và an toàn lao động cho NLĐ của mình. + Chế độ DSPHSK: đây là một chế độ cần thiết cho NLĐ khi bị suy giảm sức khoẻ tạm thời do ốm đau, thai sản hoặc TNLĐ – BNN, NLĐ cần được nghỉ việc trong một thời gian nhất định để phục hồi sức khoẻ, tái sản xuất sức lao động. Số người hưởng chế độ tăng lên qua các năm, cao nhất là năm 2010 tăng 30, 39% tương đương với 31 người so với năm 2009. Chế độ hưu trí Hồ sơ giải quyết chế độ hưu trí cho người tham gia BHXH bắt buộc: + Sổ bảo hiểm xã hội. + Quyết định nghỉ việc đối với người đang đóng bảo hiểm xã hội; đơn đề nghị hưởng lương hưu đối với người bảo lưu thời gian đóng BHXH. + Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng Giám định y khoa đối với người nghỉ hưu. Hồ sơ giải quyết chế độ hưu trí cho người tham gia BHXH tự nguyện: + Sổ bảo hiểm xã hội; + Tờ khai cá nhân theo mẫu do tổ chức bảo hiểm xã hội quy định. Kết quả thực hiện chế độ hưu trí trong giai đoạn 2007 - 2010 của BHXH huyện Yên Hưng được thể hiện qua bảng sau: Bảng 9: Số người hưởng chế độ hưu trí (2007 – 2010) Năm 2007 2008 2009 2010 Số người đã hưởng 3491 3575 3682 3813 Số người mới hưởng 111 136 154 167 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Qua bảng số liệu ta thấy, hưu trí là một chế độ dài hạn nên số đối tượng hưởng chế độ này tương đối lớn và tăng dần qua từng năm từ năm 2008 đến năm 2010 với tốc độ tăng bình quân là 3,38%/năm. Số người mới được hưởng chế độ cũng tăng lên qua 4 năm. Năm 2008 số người mới hưởng tăng cao nhất 22,52% tương ứng 25 người so với năm 2007, năm 2009 số người mới hưởng tăng 18 người tương ứng 13,24% so với năm 2008, đến năm 2010 số người mới được hưởng tăng 8,44% tương ứng 13 người so với năm 2009. Chế độ tử tuất Hồ sơ giải quyết chế độ tử tuất + Sổ bảo hiểm xã hội; + Giấy chứng tử, báo tử hoặc quyết định của Toà án tuyên bố là đã chết; + Tờ khai của thân nhân theo mẫu do tổ chức BHXH quy định; + Biên bản điều tra TNLĐ, bệnh án điều trị BNN trong trường hợp chết do TNLĐ, BNN. Chế độ tử tuất được BHXH huyện Yên Hưng thực hiện qua 4 năm từ 2007 đến năm 2010 như sau: Bảng 10: Số người hưởng chế độ tử tuất (2007 – 2010) Năm Chỉ tiêu 2007 2008 2009 2010 NSNN Hàng tháng 464 511 589 625 Một lần 9 7 5 8 Mai táng phí 19 22 17 20 Quỹ BHXH Hàng tháng 146 185 223 267 Một lần 2 1 1 3 Mai táng phí 8 7 6 9 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Qua bảng số liệu ta thấy, tử tuất là một chế độ dài hạn nên số đối tượng hưởng tăng dần qua từng năm với tốc độ tăng bình quân là 12,89%/năm, số đối tượng hưởng do NSNN đảm nhận lớn hơn trung bình 2,74 lần so với số đối tượng hưởng của quỹ BHXH. Số đối tượng hưởng đa phần là bố, mẹ hoặc con cái, trường hợp là vợ hoặc chồng chiếm rất ít nên thời gian hưởng trợ cấp khá dài, thường từ 10 đến 25 năm. Chế độ BHXH một lần Hồ sơ giải quyết chế độ BHXH một lần + Sổ bảo hiểm xã hội. + Một trong những giấy tờ sau: Quyết định nghỉ việc; quyết định phục viên, xuất ngũ, thôi việc; biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng Giám định y khoa; bản sao giấy tờ định cư ở nước ngoài; Đơn đề nghị hưởng BHXH 1 lần của người lao động. Kết quả thực hiện chế độ BHXH một lần cho NLĐ được thể hiện qua bảng sau: Bảng 11: Số người hưởng chế độ BHXH một lần (2007 – 2010) Năm 2007 2008 2009 2010 Số người hưởng 351 362 396 421 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy, số người hưởng chế độ tăng lên qua các năm từ 2007 đến năm 2010 với tốc độ tăng trung bình là 6,28%/năm. Cụ thể năm 2008 số người hưởng tăng 3,13% tương ứng 11 người so với năm 2007, năm 2009 số người hưởng chế độ tăng nhiều nhất với 34 người tương ứng 9,39% so với năm 2008, đến năm 2010 số người hưởng tăng 6,31% tương ứng 25 người so với năm 2009. 2.2.4. Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng và mức đóng BHXH Chính sách tiền lương chính là căn cứ đóng BHXH và là cách xác định tổng quỹ tiền lương làm căn cứ đóng. Như vậy để quản lý được mức đóng, cơ quan BHXH huyện Yên Hưng trước hết phải quản lý được tổng quỹ lương làm căn cứ đóng. Trách nhiệm của cơ quan BHXH huyện Yên Hưng là căn cứ vào các quy định của Nhà nước về chế độ tiền lương và các quyết định nâng lương của cấp có thẩm quyền để thu BHXH đúng quy định, trường hợp nâng lương không đúng quy định, cơ quan BHXH huyện Yên Hưng từ chối thu BHXH theo yêu cầu của đơn vị sử dụng lao động thực hiện. Hơn nữa, cơ quan BHXH huyện Yên Hưng còn phải quản lý, theo dõi chặt chẽ diễn biến thu nhập của từng cá nhân NLĐ trong từng đơn vị sử dụng lao động. Đối với các đơn vị có tăng giảm về số lao động hoặc tăng giảm về tiền lương thì phải báo cáo ngay với cán bộ chuyên trách quản lý quỹ lương đóng BHXH để kịp thời điều chỉnh mức tăng giảm. Qua đó BHXH huyện Yên Hưng thường xuyên kiểm soát đối chiếu tổng quỹ lương của đơn vị sử dụng lao động hàng tháng, trên cơ sở đó tính số tiền đơn vị sử dụng lao động phải nộp vào quỹ BHXH. 2.2.4.1. Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng và mức đóng BHXH bắt buộc Cơ quan BHXH huyện Yên Hưng chỉ có thể nắm tốt số tiền lương trên giấy tờ mà các cơ quan đơn vị tham gia BHXH và thường không không kê khai được chính xác quỹ lương thực tế. Điều này gây nhiều khó khăn cho cơ quan BHXH. Thực tế chủ doanh nghiệp thường kê khai quỹ lương thấp hơn thu nhập thực tế cũng có doanh nghiệp kê khai hơn thu nhập thực tế. Nhiều đơn vị có thu nhập thực tế cao hơn gấp nhiều lần nhưng chỉ đăng ký đóng lương cơ bản.Trong 4 năm qua, BHXH huyện Yên Hưng đã thực hiện công tác quản lý quỹ lương và công tác thu BHXH bắt buộc như sau: Bảng 12: Tổng quỹ lương và số thu BHXH bắt buộc (2007 – 2010) Năm 2007 2008 2009 2010 Tổng quỹ lương (triệu đồng) 68062,2 74093,4 86660,2 102037,1 Tổng số tiền phải thu (triệu đồng) 12878,1 15081,3 17344,4 23011,4 Tổng số tiền đã thu (triệu đồng) 12467,1 14654,2 17217,2 22763,1 Số tiền nợ đọng (triệu đồng) 411 427,1 127,2 248,3 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Qua bảng số liệu ta thấy: Tổng quỹ lương có xu hướng tăng liên tục qua 4 năm nhưng với tốc độ chậm. Năm 2008, quỹ lương tăng 6031,2 triệu đồng so với năm 2007 tương ứng 8,86%. Đến năm 2009, quỹ lương đã tăng thêm 16,96% so với năm 2008 ứng với 12566,8 triệu đồng. Nhưng đến năm 2010, con số này đã tăng lên 102037,1 triệu đồng tức là so với năm 2009, quỹ lương tăng 17,74% tương ứng 15376,9 triệu đồng. Một trong những nguyên nhân làm quỹ lương thay đổi là do mức lương trích nộp tăng thông qua các quyết định tăng lương của Chính phủ. Do cơ sở để tính toán mức đóng và hưởng BHXH phụ thuộc vào tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Nên khi Nhà nước nâng lương tối thiểu lên đồng nghĩa với việc mức đóng BHXH cũng tăng lên. Quỹ lương tăng là điều đáng mừng thể hiện đời sống người lao động được nâng lên. Về tổng số phải thu BHXH: năm 2007 là 12878,1 triệu đồng, đến năm 2010 là 23011,4 triệu đồng, vậy qua 4 năm số phải thu đã tăng gấp 1,8 lần tương ứng với 10133,3 triệu đồng. Tổng số phải thu tăng lên là do tổng quỹ lương trích nộp BHXH tăng và số lao động tham gia BHXH cũng tăng lên. Về tổng số đã thu BHXH: qua 4 năm từ năm 2007 đến năm 2010 đã thu được từ 12467,1 triệu đồng lên 22763,1 triệu đồng, gấp 1,83 lần tương ứng với 10296 triệu đồng. Do nhận thức của người lao động và người sử dụng lao động ngày càng được nâng cao, họ thấy được vai trò của BHXH trong đời sống cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Hàng tháng chậm nhất vào ngày cuối tháng của tháng, đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện Yên Hưng đóng BHXH cho người lao động vào tài khoản chuyên thu của cơ quan BHXH huyện mở tại ngân hàng hoặc kho bạc Nhà nước. Về số tiền nợ đọng quỹ BHXH: Cơ quan BHXH huyện Yên Hưng luôn cố gắng phấn đấu thực hiện công tác quản lý thu tốt nhất để có thể đạt được hiệu quả cao nhất có thể, giảm tỷ lệ nợ BHXH xuống mức thấp nhất. Các năm qua nhờ có sự đôn đốc nhắc nhở của cán bộ thu mà tình trạng nợ đọng BHXH huyện Yên Hưng giảm được đáng kể, số tiền nợ đọng đã có xu hướng giảm qua các năm. 2.2.4.2. Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng và mức đóng bảo hiểm thất nghiệp Hàng năm trên cả nước có hơn 1 triệu người bước vào tuổi lao động, nhưng khả năng thu hút lao động của nền kinh tế lại có hạn. Mặt khác, một bộ phận không nhỏ lao động bị mất việc. Bảo hiểm thất nghiệp ra đời góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người lao động được học nghề và tìm việc làm, sớm đưa họ trở lại làm việc. Do vậy, quỹ bảo hiểm thất nghiệp được hình thành từ sự đóng góp của 3 bên : NLĐ, NSDLĐ và nhà nước để đảm bảo sự cân đối trong thu chi tài chính, tạo ra sự ràng buộc về trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên. Mức đóng góp bảo hiểm thất nghiệp được quy định phù hợp với khả năng của người lao động và các chính sách của nhà nước. Qua 2 năm thực hiện, BHXH huyện Yên Hưng đã thực hiện một cách nghiêm túc công tác quản lý quỹ lương trích nộp bảo hiểm thất nghiệp và công tác thu bảo hiểm thất nghiệp. Bảng 13: Tổng quỹ lương và số thu bảo hiểm thất nghiệp (2009 – 2010) Năm 2009 2010 Tổng quỹ lương (triệu đồng) 6140,2 11532,0 Tổng số tiền phải thu (triệu đồng) 1981,3 3141,4 Tổng số tiền đã thu (triệu đồng) 1567,1 2763,2 Số tiền nợ đọng (triệu đồng) 414,2 378,2 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Do tổng số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp tăng mạnh từ 2009 đến 2010 nên tổng quỹ lương cũng tăng mạnh. Năm 2009 tổng quỹ lương là 6140,2 triệu đồng đến năm 2010 tổng quỹ lương tăng 87,8% tương đương với 5391,8 triệu đồng. Do vậy, tổng số tiền phải thu cũng tăng từ 1981,3 triệu đồng (2009) lên 3141,4 triệu đồng (2010). Năm 2009 tuy là năm đầu tiên thực hiện bảo hiểm thất nghiệp nhưng BHXH huyện Yên Hưng đã thu được 1567,1 triệu đồng tương đương với 79,1% tổng số phải thu. Đến năm 2010 BHXH huyện đã hoàn thành 88% tổng số phải thu, vì vậy đã giảm số tiền nợ đọng xuống 8,7% ứng với 36 triệu đồng. 2.2.4.3. Quản lý tiền lương làm căn cứ đóng và mức đóng BHXH tự nguyện Người tham gia BHXH tự nguyện có đặc điểm là họ không có thu nhập thường xuyên và định kỳ như những người làm công hưởng lương. Chính vì vậy, luật BHXH quy định: “Mức đóng BHXH tự nguyện được tính trên cơ sở mức thu nhập do người lao động lựa chọn nhưng mức thu nhập này không thấp hơn mức lương tối thiểu chung” (Điều 5), hay “Mức thu nhập làm cơ sở để tính đóng BHXH được thay đổi tuỳ theo khả năng của người lao động ở từng thời kỳ, nhưng thấp nhất bằng mức lương tối thiểu chung và cao nhất bằng hai mươi tháng lương tối thiểu chung” (Điều 100). Như vậy, việc xác định mức đóng BHXH tự nguyện trên cơ sở thu nhập của người lao động sẽ do người lao động lựa chọn trong khoảng mức thu nhập giới hạn của sàn dưới và trần trên theo quy định của Luật. Qua 3 năm thực hiện BHXH tự nguyện BHXH huyện Yên Hưng đã thu được kết quả như sau: Bảng 14: Số thu BHXH tự nguyện (2008 – 2010) Năm 2008 2009 2010 Số tiền thu (triệu đồng) 140,7 228,4 321 Nguồn: BHXH huyện Yên Hưng Nhìn vào bảng số liệu ta thấy số thu BHXH tự nguyện tăng lên qua 3 năm triển khai thực hiện. Năm 2008 số thu là 140,7 triệu đồng đến năm 2010 số thu tăng 128,14% tương đương với 180,3 triệu đồng. Năm 2009 số người tham gia BHXH tự nguyện chỉ tăng thêm 1 người nhưng số thu BXHH tự nguyện đã tăng thêm 87,7 triệu đồng. Nguyên nhân chủ yếu là do người đang tham gia BHXH tự nguyện được đăng ký lại phương thức đóng hoặc mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng BHXH tự nguyện với tổ chức BHXH. Việc đăng ký lại phương thức đóng và mức thu nhập tháng làm căn cứ đóng được thực hiện ít nhất là sau 6 tháng kể từ lần đăng ký trước. Bên cạnh đó còn có các nguyên nhân khác như mức lương tối thiểu tăng, nhận thức của người dân cũng được nâng lên... 2.3. Đánh giá thực trạng công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH ở BHXH huyện Yên Hưng tỉnh Quảng Ninh 2.3.1. Những thành tựu đạt được Trong 4 năm trở lại đây BHXH huyện Yên Hưng luôn hoàn thành tốt và vượt kế hoạch được giao về số đơn vị sử dụng lao động và số lao động tham gia, dẫn đến số thu ngày càng tăng lên. Công tác tuyên truyền phổ biến và những văn bản quy định bắt buộc đối với người tham gia BHXH (bao gồm cả BHYT bắt buộc và BHYT tự nguyện) được kết hợp với các chế tài xử vi phạm BHXH đã được giao đến từng cơ quan đơn vị, phường xã,… Nên số người tham gia đã tăng lên tương đối. Cán bộ BHXH huyện Yên Hưng được trau dồi phẩm chất, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ý thức, trách nhiệm, tinh thần vì người tham gia và thụ hưởng mà phục vụ. Cán bộ BHXH cũng đã dành phần lớn thời gian đến từng đơn vị sử dụng lao động được phân công phụ trách để tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn và cùng cơ sở xử lý kịp thời những vướng mắc, khó khăn trong việc thực hiện chính sách cho người lao động. Cơ quan BHXH huyện Yên Hưng đã từng bước thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong công tác quản lý và giải quyết chế độ chính sách cho người lao động thông qua việc áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý sổ và cơ chế "một cửa liên thông" đem lại hiệu quả tích cực; hồ sơ, thủ tục giấy tờ liên quan đến việc tham gia và hưởng chế độ đã từng bước được đơn giản hoá; các qui định, qui trình nghiệp vụ ngày càng phù hợp với thực tiễn, dễ hiểu, dễ thực hiện hơn; các thủ tục người sử dụng lao động và người lao động phải làm ngày càng giảm; thời gian giải quyết được rút ngắn hơn; khiếu nại, kêu ca về những sai sót, phiền hà, chậm giải quyết chế độ, chính sách cho người lao động đã giảm bớt đáng kể... BHXH thường xuyên phối hợp với các sở ban ngành có liên quan tổ chức các đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra về an toàn lao động và thực hiện chính sách xã hội cho người lao động trong các doanh nghiệp. Qua kiểm tra, cán bộ BHXH còn tuyền truyền cho chủ sử dụng lao động và người lao động hiểu rõ thêm về quyền lợi và nghĩa vụ khi tham gia BHXH, từ đó làm chuyển biến về nhận thức của chủ sử dụng và người lao động; đồng thời kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền thực hiện xử phạt những đơn vị cố tình vi phạm Luật BHXH và cũng đề xuất UBND tỉnh khen thưởng những doanh nghiệp điển hình làm tốt công tác BHXH. Thông qua công tác vận động, tuyên truyền, nhận thức về BHXH của các cấp, các ngành, các cơ quan đơn vị, nhất là người lao động và chủ sử dụng lao động từng bước được nâng lên. Các Công ty: Công ty TNHH đầu tư phát triển và thương mại Hoàng Lộc, công ty cổ phần cơ điện Yên Hưng, công ty TNHH Hồng Điệp, công ty TNHH thiết bị khai thác hầm mỏ, công ty cổ phần thương mại và xây dựng Phong Vân, công ty TNHH Bình Khánh, công ty cổ phần thép Việt Pháp... đã thực hiện khá tốt công tác này. Sự phát triển của BHXH Huyện Yên Hưng là bền vững thể hiện kết quả các mặt công tác năm sau đều tăng hơn năm trước, giải quyết chế độ BHXH cho người lao động ngày càng nhanh hơn, tiện ích hơn. Đơn thư khiếu nại được giải đáp và giải quyết dứt điểm từ cơ sở nên không có đơn thư vượt cấp phức tạp xảy ra. 2.3.2. Những hạn chế còn tồn tại Bên cạnh những thành tựu đạt được, BHXH huyện Yên Hưng cũng tồn tại nhiều mặt hạn chế và yếu kém trong công tác quản lý đối tượng tham gia, cần phải được nhanh chóng sửa đổi và khắc phục. Đó là: Thứ nhất: Chưa nắm vững được số đơn vị và số người tham gia trên địa bàn huyện. Có trường hợp đơn vị kê khai đăng ký không chính xác số người tham gia lẫn mức lương trích nộp dưới nhiều hình thức như: chỉ ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng hoặc không ký hợp đồng lao động…, một số đơn vị sử dụng trên 10 lao động nhưng vẫn chưa tham gia BHXH như công ty TNHH Kim Liên, công ty TNHH thương mại và dịch vụ Hạ long xanh... Tình trạng người sử dụng lao động không đóng BHXH cho người lao động, đóng không đúng thời gian, không đúng mức qui định, đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc còn xảy ra nhiều. Nhiều trường hợp đơn vị sử dụng lao động lập danh sách báo tăng giảm chậm, thời gian tăng giảm không đúng với các quyết định hoặc hợp đồng lao động của người lao động. Luật BHXH qui định: “trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày giao kết hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc hoặc tuyển dụng, người sử dụng lao động nộp hồ sơ tham gia BHXH cho tổ chức BHXH”. Nhưng thực tế tại huyện Yên Hưng có một số doanh nghiệp đi vào hoạt động, có sử dụng lao động từ những năm 2004, 2006 (như Công ty TNHH liên doanh thuỷ sản Nam Hải) đến nay vẫn chưa tham gia BHXH cho người lao động. Thứ hai: Nhận thức về BHXH của mọi người dân nói chung và người lao động nói riêng bị hạn chế, chưa thấy rõ bản chất ưu việt của BHXH. Người lao động chưa hiểu đầy đủ về quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia BHXH. Nhiều người còn có thành kiến không tốt về BHXH, hiểu sai về bản chất của BHXH. Thứ ba: Một trong những tồn tại lớn nhất trong việc thực hiện những qui định về BHXH hiện nay là công tác quản lý chưa đồng bộ, cơ quan BHXH huyện Yên Hưng cũng như các phòng ban, ngành chức năng chưa nắm chắc hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình sử dụng lao động của các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, ngoài công lập. Có những doanh nghiệp ngoài quốc doanh có đăng ký thành lập trên địa bàn huyện nhưng không có trụ sở giao dịch, không hoạt động theo nội dung đăng ký, giải thể sau khi thành lập và hoạt động một thời gian ngắn, không đăng ký sử dụng lao động... Cũng không cơ quan nào quản lý, theo dõi và nắm được thông tin về những doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh, có mã số thuế nhưng không có trụ sở làm việc thực chất có hoạt động hay không, còn kinh doanh hay đã dừng hoặc thay đổi phạm vi hoạt động. Ngoài ra, khu vực ngoài công lập còn có nhiều nhà trẻ mầm non tư thục, các quán bar, ... không ký kết hợp đồng với người lao động. Do vậy, việc quản lý, theo dõi, yêu cầu người sử dụng lao động thực hiện chính sách BHXH cho người lao động theo luật định ở các đơn vị này thực sự là vấn đề không dễ đảm bảo. Thứ tư: Trình độ của cán bộ, công nhân viên chức trong BHXH huyện Yên Hưng vẫn còn bất cập. Đa số là các cán bộ thuộc ngành khác chuyển sang, chưa nắm vững được công tác BHXH. BHXH huyện còn thiếu cán bộ, một cán bộ phải đảm đương nhiều công việc dẫn đến hiệu quả công việc chưa cao. Cán bộ, viên chức trong BHXH huyện lại thường xuyên biến động như năm 2009, một cán bộ chuyên thu được điều chuyển lên BHXH tỉnh, một cán bộ sổ thẻ mới về, năm 2010 phó giám đốc BHXH huyện được điều chuyển sang huyện khác. Điều đó gây khó khăn cho công tác nắm tình hình của các đơn vị trên địa bàn huyện. Thứ năm: Kinh phí hoạt động của ngành thấp, thiếu cơ sở vật chất phục vụ, thiếu kinh phí đào tạo và chưa có cơ chế khuyến khích thoả đáng cho những đơn vị, cá nhân thực hiện tốt công tác BHXH. 2.3.3. Nguyên nhân của những mặt hạn chế Về phía người lao động: Do áp lực về việc làm nên một bộ phận người lao động không nghĩ hoặc không dám đấu tranh đòi hỏi những quyền lợi chính đáng của mình. Vì lợi nhuận, một số chủ sử dụng lao động sẵn sàng bất chấp các quy định của pháp luật, chiếm dụng tiền BHXH, BHYT dùng vào mục đích khác, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước. Sự phối hợp kiểm tra, thanh tra và xử lý của các cơ quan chức năng chưa thoả đáng, chưa triệt để. Về phía đơn vị sử dụng lao động: Nhiều doanh nghiệp do mới thành lập sản xuất kinh doanh chưa ổn định, nguồn vốn chưa lớn nên chưa có điều kiện tham gia BHXH, nhất là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tư nhân. Do thay đổi về cơ chế quản lý, chuyển đổi hình thức sở hữu, môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt nên một số đơn vị gặp khó khăn, phải tạm dừng sản xuất kinh doanh, hoạt động cầm chừng hoặc chờ xử lý xong công nợ mới tiếp tục phương án sản xuất kinh doanh mới. Các doanh nghiệp của huyện đa số có quy mô vừa và nhỏ, lao động làm việc theo mùa vụ, ý thức của người sử dụng lao động và người lao động chưa cao; nhiều doanh nghiệp chưa nắm bắt được Bộ Luật Lao động và luật BHXH, khi hoạt động không đăng ký thang bảng lương cụ thể với cơ quan quản lý lao động, ký hợp đồng lao động không đúng quy định hoặc không ký hợp đồng lao động, gây khó khăn cho cơ quan BHXH trong việc xác lập tiền lương làm căn cứ đóng BHXH. Đội ngũ cán bộ làm công tác BHXH ở một số cơ quan Doanh nghiệp không ổn định phải kiêm nhiệm nhiều việc, chủ yếu là cán bộ kế toán kiêm luôn cả làm công tác BHXH, nên chưa thực sự hiểu rõ về chính sách và chế độ BXHH, việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về chính sách BHXH còn nhiều hạn chế. Về nhận thức: Người lao động chưa hiểu biết nhiều về BHXH, ngay cả những người lao động đã tham gia BHXH cũng biết rất ít về BHXH, điều đó dẫn tới việc thiếu quan tâm, ít biết về quyền lợi chính đáng của mình được hưởng. Nhận thức của người lao động và NSDLĐ về nghĩa vụ và quyền lợi đối với việc tham gia BHXH cho người lao động còn hạn chế, chưa nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của Nhà nước về BHXH. Nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh chưa có tổ chức công đoàn hoặc có những hoạt động yếu kém vì thế mà chưa bảo vệ được lợi ích cho người lao động. Về cán bộ BHXH: Cán bộ chuyên thu khi làm công tác đôn đốc việc thu nộp vẫn chưa kiên quyết đối với các trường hợp chậm nộp. Nguyên nhân là do một số cán bộ còn ngại va chạm, đôn đốc thúc nộp. Công tác thông tin tuyên truyền của BHXH huyện Yên Hưng đến người lao động và người sử dụng lao động còn chưa sâu rộng đến từng cơ quan đơn vị về BHXH. Nội dung còn đơn giản, hình thức chưa hấp dẫn làm cho người dân không mấy quan tâm. Trình độ các cán bộ tuyên truyền chưa cao, khiến NLĐ và NSDLĐ chưa hiểu sâu sắc về sự cần thiết và tính nhân văn của chính sách BHXH. Về phía công đoàn: Công đoàn là tổ chức đại hiện hợp pháp đứng ra bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Thế nhưng ở các doanh nghiệp trốn đóng BHXH tiếng nói của công đoàn không có trọng lượng, chưa đủ sức để lên tiếng buộc doanh nghiệp thực hiện đúng luật. Một số công đoàn cở sở khác còn lơ là không làm đúng chức trách của mình, mặc cho doanh nghiệp làm trái luật. Việc thành lập công đoàn cơ sở tại khu vực ngoài quốc doanh còn rất hạn chế do không có cán bộ chuyên trách, đa số sử dụng lực lượng công nhân của doanh nghiệp thành lập BCH công đoàn nên khi chủ doanh nghiệp vi phạm chính sách lao động, tổ chức công đoàn không mạnh dạn đứng ra bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Các văn bản về chính sách: Chính sách về BHXH là một chính sách lớn của đảng và nhà nước ta nhưng việc ban hành các văn bản hướng dẫn còn chậm, các văn bản ban hành chưa kịp thực hiện thì các văn bản tiếp sau đó đã lại được ban hành dẫn tới tình trạng chồng chéo về văn bản khi thực hiện, điều đó gây khó khăn cho các cán bộ thực hiện chính sách về BHXH. Chính sách về BHXH chưa khuyến khích các thành phần thuộc khối doanh nghiệp tham gia, cụ thể đó là thủ tục đăng ký tham gia BHXH cho số lượng người lao động tham gia BHXH lớn còn phức tạp. Chế độ BHXH thì thường xuyên được bổ sung sửa đổi, điều chỉnh theo quá trình thực tế phát sinh của tình hình kinh tế xã hội và chính sách tiền lương, do đó số lượng văn bản quá nhiều, và nhiều văn bản sửa đổi bổ sung, dẫn đến các cơ quan quản lý khó thực hiện, người sử dụng lao động và người lao động khó nắm vững chế độ. Đây là nguyên nhân khiến chính sách BHXH ra đời triển khai thực hiện không đúng quy định, khó theo dõi và đánh giá tình hình và kế hoạch triển khai của các đơn vị thu BHXH. Và đôi khi chính các quy định pháp luật tạo kẽ hở đã vô tình khuyến khích doanh nghiệp tranh thủ trì hoãn đóng BHXH thêm được một số ngày(từ 30 ngày trở lên)… Mức nộp phạt quá thấp: Chế tài xử lý đối với đơn vị nợ BHXH, BHYT chưa đủ mạnh, mức xử phạt hành chính tối đa 20 triệu đồng/lần, lãi suất chậm nộp quá thấp. Cũng do mức lãi suất thấp các đơn vị chậm đóng BHXH để lạm dụng tiền BHXH để đầu tư sản xuất. Mặc dù họ biết phải chịu phạt nhưng vẫn cố tình chấp nhận. Có doanh nghiệp chỉ có ý định chiếm dụng trong thời gian ngắn để khắc phục khó khăn hiện tại, song số nợ vẫn tăng lên đến mức mất khả năng thanh toán. Còn có một số các doanh nghiệp khác có quy mô sản xuất nhỏ, không ổn định kinh doanh kém hiệu quả, giá thành sản phẩm cao, thu nhập của NLĐ thấp nên không có khả năng đóng BHXH. Thẩm quyền xử phạt không thuộc cơ quan BHXH mà BHXH chỉ có thể kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền điều đó tạo ra sự không chủ động của ngành BHXH. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BHXH TẠI BHXH HUYỆN YÊN HƯNG TỈNH QUẢNG NINH 3.1. Định hướng phát triển hoạt động của Bảo hiểm xã hội huyện Yên Hưng trong những năm tới 3.1.1. Định hướng về công tác BHXH - Khai thác mở rộng đối tượng tham gia BHXH, BHYT, BHTN bắt buộc đối với các đơn vị ngoài quốc doanh. Hướng đến BHYT toàn dân năm 2014. Tăng cường mạnh mẽ công tác xử lý các đơn vị nợ đọng trên toàn huyện. - Thu BHXH, BHYT bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, BHXH tự nguyện đạt 100% kế hoạch trở lên. Tăng cường công tác quản lý quỹ BHXH, đảm bảo cân đối thu chi, chú trọng hơn nữa trong việc quản lý rủi ro. - Quản lý chặt chẽ, thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ BHXH cho người lao động trên địa bàn huyện theo quy định. Chi trả đúng chế độ, kịp thời đến tay người hưởng các chế độ BHXH. - Tiếp tục triển khai thực hiện Luật BHYT tới các cơ sở khám chữa bệnh trên toàn huyện. Thực hiện tốt công tác giám định chi phí khám chữa bệnh tại bệnh viện nhằm quản lý chặt chẽ nguồn quỹ, đảm bảo quyền lợi cho người có thẻ BHYT và cân đối quỹ trên địa bàn. - Tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin vào các hoạt động nghiệp vụ. Tăng cường học tập nâng cao trình độ, để xử lý và bảo quản máy móc thiết bị đáp ứng nhiệm vụ được giao. Đảm bảo an ninh mạng và dữ liệu được an toàn. - Phối hợp với các phòng, ban liên quan, UBND các cấp xã, phường tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ, thanh tra liên ngành. Đồng thời giải quyết đơn thư khiếu nại tố cáo kịp thời đúng luật định. - Tiếp tục kiện toàn công tác tổ chức cán bộ. Quản lý cán bộ công chức theo chức năng nhiệm vụ được giao, theo quy chế của ngành. Không ngừng đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân viên chức đảm bảo không những có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao mà còn có phẩm chất đạo đức tốt với tinh thần nhiệt huyết trong công việc. 3.1.2. Định hướng về công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về chính sách BHXH, BHYT, BHTN thu hút đông đảo đối tượng tham gia. - Quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia, thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ BHXH cho người lao động trên địa bàn huyện theo quy định. Mở rộng đối tượng tham gia đặc biệt trong khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh. - Thực hiện cấp sổ BHXH, quản lý tờ khai cấp sổ theo quy định. Giải quyết chế độ BHXH đầy đủ, kịp thời, đảm bảo quyền lợi cho người lao động và các đối tượng theo Luật BHXH. - Lưu trữ hồ sơ khoa học, thuận tiện cho việc quản lý và khai thác đối tượng tham gia BHXH, thường xuyên chống mối, chống cháy, ẩm mốc, đảm bảo tuyệt đối an toàn, phục vụ tốt cho các công tác BHXH. - Cải cách thủ tục hành chính, cách thức quản lý, nâng cao ý thức phục vụ của cán bộ, tạo thuận lợi tối đa cho người dân và doanh nghiệptham gia BHXH. 3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý đối tượng tham gia BHXH tại BHXH huyện Yên Hưng 3.2.1. Tuyên truyền phổ biến chính sách pháp luật về BHXH Công tác thông tin tuyên truyền và phổ biến chính sách BHXH từng NLĐ và NSDLĐ, đến các doanh nghiệp là điều rất cần thiết, bởi một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng số người tham gia BHXH còn ít, số tiền nợ đọng đóng BHXH nhiều là do sự nhận thức, sự hiểu biết của NLĐ và chủ sử dụng lao động còn hạn chế. Đối với NLĐ thì chưa thấy được quyền lợi tham gia BHXH sẽ mang lại cho họ sự yên tâm trong cuộc sống khi không may có xảy ra rủi ro đối với họ hoặc khi về già họ sẽ được hưởng quyền lợi về một số chế độ, giúp phần nào bù đắp được nhu cầu cuộc sông của họ; còn đối với NSDLĐ thì tham gia BHXH cho cả NLĐ và chính họ thì họ sẽ yên tâm trong sản xuất kinh doanh khi không may NLĐ của công ty họ gặp rủi ro từ đó làm cho năng suất lao động tăng lên. Vì thế cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, thông tin về BHXH cả về nội dung lần hình thức. Có các biện pháp tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến BHXH như sau: Thứ nhất : Đẩy mạnh xây dựng thông tin tuyên truyền. Nên phối hợp với các cán bộ hưu trí, đây là lực lượng rất đông đảo vừa có thời gian và kinh nghiệm để phổ biến về tầm quan trọng của BHXH đến từng người lao động. Thứ hai : Công tác tuyên truyền phải sâu rộng, đi từ tuyên truyền chính sách chế độ BHXH, hướng dẫn thực hiện các chế độ và đặc biệt các cán bộ tuyên truyền cần nhấn mạnh đến bản chất nhân đạo và nhân văn của chính sách BHXH. Điều này sẽ từng bước giúp gỡ bỏ tâm lý bắt buộc phải đóng BHXH và sẽ hình thành nên thái độ tự giác, tự nguyện tham gia BHXH. Thứ ba : Tăng cường, mở rộng về phạm vi, hình thức và nội dung thông tin tuyên truyền về các chính sách, chế độ về BHXH đến mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, tập trung vào các đối tượng là người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Phương pháp tuyên truyền phải dễ hiểu, dễ nhớ, phù hợp với từng loại đối tượng. Nhìn chung, việc nhận thức đúng đắn của NLĐ và NSDLĐ về BHXH về ý nghĩa và tầm quan trọng của BHXH đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa công tác thông tin tuyên truyền về BHXH cả về bề rộng lẫn chiều sâu của hoạt động này. Nó đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ có hiệu quả trong công tác tuyên truyền về BHXH giữa BHXH huyện Yên Hưng và các cơ quan có liên quan trong huyện. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể đạt được hiệu quả cao trong việc tuyên tryền về BHXH tới mọi người dân 3.2.2. Quản lý chặt chẽ đối tượng tham gia BHXH Trong cơ chế mới hiện nay, đối tượng tham gia BHXH là yếu tố quan trọng bậc nhất nhằm tăng nguồn đóng góp vào quỹ BHXH, tạo điều kiện tiên quyết trong việc đảm bảo an toàn xã hội. Có thể nói, tăng nguồn đóng góp vào quỹ là yếu tố quyết định, yếu tố sống còn của hoạt động BHXH. Vì vậy BHXH huyện Yên Hưng cần phải có những giải pháp để quản lý đối tượng tham gia BHXH, trước mắt cần tập trung vào một số giải pháp sau: BHXH huyện phối hợp với các cơ quan, ban, ngành trong huyện khảo sát, điều tra, xác định đầy đủ số lượng lao động, số đơn vị thuộc diện tham gia BHXH theo luật định. Bên cạnh đó, BHXH huyện cần thường xuyên phối hợp với các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể có liên quan để triển khai công tác thu ngày càng hiệu quả hơn thông qua việc sử dụng các biện pháp khuyến khích vật chất trong việc điều tra nắm bắt đối tượng và vận động đối tượng tham gia nộp BHXH; có những biện pháp tích cực xử lý tồn đọng, vướng mắc đối với những đơn vị sử dụng lao động và NLĐ không tham gia BHXH. Tăng cường mở rộng về phạm vi, hình thức và nội dung thông tin tuyên truyền về BHXH đến mọi tầng lớp nhân dân trong huyện về quyền lợi mà họ nhận được khi tham gia BHXH. Phương pháp tuyên truyền phải dễ hiểu, dễ nhớ, sát cơ sở, phù hợp với NLĐ, phù hợp với từng loại đối tượng. Vì dân số trong huyện còn có nhiều vùng có dân trí thấp nên cần có những biện pháp tuyên truyền phù hợp. Nếu nội dung và phương pháp tuyên truyền về BHXH không phù hợp sẽ không đem lại hiệu quả cao và gây tốn kém tiền của của cơ quan BHXH. Làm tốt công tác quản lý chính sách, chế độ, không ngừng cải tiến thủ tục giải quyết chế độ chính sách theo phương châm nhanh chóng, thuận tiện, đúng, đủ nhằm tạo lòng tin của đơn vị và NLĐ đối với cơ quan BHXH. Đồng thời tổ chức tốt công tác tiếp dân, giải quyết các khiếu nại, tố cáo thuộc phạm vi thẩm quyền theo đúng luật định. BHXH huyện nên làm tốt công tác hướng dẫn nghiệp vụ, đặc biệt đối với đơn vị đăng ký mới, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các đơn vị làm thủ tục tham gia BHXH và giải quyết chế độ BHXH để đơn vị không cảm thấy khó khăn, phiền phức khi chủ động tham gia BHXH. BHXH huyện Yên Hưng cần tập trung kinh phí cho công tác đào tạo cán bộ, công chức- viên chức; công tác tuyên truyền, trang thiết bị phục vụ công tác quản lý thu BHXH. Bố trí kinh phí phù hợp thực hiện việc kiểm tra, rà soát các đơn vị và lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo quy định. Cần có biện pháp khen thưởng, động viên các cá nhân, đơn vị trong và ngoài ngành có thành tích tốt trong công tác quản lý đối tượng tham gia. 3.2.3. Cải cách thủ tục hành chính và sử dụng chế tài xử phạt vi phạm pháp luật về BHXH Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hóa, công khai hóa các thủ tục hồ sơ, giấy tờ và các bước thực hiện, quy trình thực hiện, cải cách lề lối làm việc, tạo thuận lợi cho người tham gia BHXH, tránh gây phiền hà, sách nhiễu, như đơn giản hóa thủ tục đăng ký tham gia BHXH, thủ tục hưởng các chế độ chính sách BHXH. Chuyển đổi phong cách làm việc từ hành chính sang phong cách phục vụ. Cơ quan BHXH huyện nên công khai các thủ tục như đăng ký tham gia BHXH, thủ tục hưởng các chế độ chính sách về BHXH, quy trình thu BHXH, quy trình chi trả sổ BHXH và thu BHYT ở bảng tin hoặc bảng thông báo ngoài cửa đi vào cơ quan cho NLĐ dễ dàng nắm bắt hơn. Mặc dù đã có quy định về việc tham gia BHXH cho NLĐ song không phải đơn vị SDLĐ nào cũng thực hiện đầy đủ các quy định này. Nên còn nhiều doanh nghiệp cố tình trốn đóng BHXH và tình trạng nợ đọng vẫn rất phức tạp. Cho nên để hạn chế tình trạng trên cơ quan BHXH cần đưa ra mức xử phạt mạnh tay hơn: như với số tiền nộp chậm thì phải tính lãi suất ở mức cao hơn, tăng nặng mức xử phạt theo tỷ lệ % lũy tiến số tiền phạt theo số nợ mà không xử phạt theo mức cố định,... 3.2.4. Nâng cao năng lực quản lý và tinh thần trách nhiệm đội ngũ cán bộ của BHXH huyện Yên Hưng Tự học tập nâng cao nghiệp vụ chuyên môn: Cán bộ chuyên ngành trong lĩnh vực BHXH hiện đang được đào tạo tại các trường Đại học, số lượng cán bộ ra trường hiện vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu trong các cơ quan BHXH. Do vậy, cơ quan BHXH cần tuyển dụng những nhân sự chuyên ngành được đào tạo bài bản góp phần chuyên nghiệp hoá trong công tác làm BHXH. Cùng với đó là đào tạo những cán bộ đang đương nhiệm, cần tự học tập nâng cao nghiệp vụ chuyên môn. Có tinh thần trách nhiệm: gắn với việc yêu ngành, yêu nghề của cán bộ, công chức là tinh thần trách nhiệm. Có nghiệp vụ tinh thông không chưa đủ, mà phải có tinh thần trách nhiệm của bản thân đối với việc làm đó. Việc làm của cán bộ, công chức ngành BHXH thường gắn liền với tuyên truyền, giải thích chính sách xã hội hiện đang thực hiện, gắn với tài chính kinh tế. Công việc đó liên quan đến nhiều người, nhiều bộ phận công tác. Do vậy, khi thực hiện cần phải nêu cao vai trò trách nhiệm với công việc để tránh bỏ sót. Bộ phận thực hiện sau phải tin tưởng vào bộ phận trước đã giải quyết và ngược lại… Có lòng nhiệt tình yêu nghề: BHXH huyện Yên Hưng có đội ngũ cán bộ, công chức cũng còn trẻ cả tuổi đời và tuổi nghề. Mỗi cán bộ công chức ngành BHXH nói chung và BHXH huyện Yên Hưng nói riêng cần ý thức được công việc đang làm có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống xã hội, để từ đó gắn chữ tâm vào mỗi công việc. Phải đặt vị trí của mình vào vị trí của người đại diện cho cơ quan đơn vị hoặc đối tượng đến giải quyết công việc với cơ quan BHXH. Có như thế mới thông cảm cho đối tượng phục vụ, thấy được những vướng mắc cần tháo gỡ, những thủ tục hành chính còn rườm rà, không cần thiết, gây phiền hà cho NLĐ mà cần loại bỏ. 3.2.5. Tăng cường ứng dụng CNTT trong quản lý đối tượng tham gia BHXH Ứng dụng CNTT trong quản lý hoạt động BHXH là một trong những mục tiêu hàng đầu và đa dạng được các nhà quản lý quan tâm. Việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý nghiệp vụ BHXH không chỉ có lợi ích giảm chi phí, mà còn giúp thống nhất cách nhìn của nhiều người, nhiều đơn vị dưới cùng một tiêu chuẩn thống nhất. Tạo ra phong cách làm việc khoa học và hiệu quả, xây dựng các nguyên tắc bảo mật an toàn, có sự kiể

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBCKL.doc
Tài liệu liên quan