Tài liệu Đề tài Công tác phục hồi chức năng khiếm thị tại một số tỉnh thuộc miền bắc và trung bộ năm 2007 – Nguyễn Thị Thu Hiền: 68
CÔNG TÁC PHỤC HỒI CHỨC NĂNG KHIẾM THỊ
TẠI MỘT SỐ TỈNH THUỘC MIỀN BẮC VÀ TRUNG BỘ NĂM
2007
NGUYỄN THỊ THU HIỀN, TRẦN THỊ THU THUỶ
Bệnh viện Mắt Trung ương
TÓM
TẮT
Theo ước tính Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu người khiếm thị. Công tác chăm
sóc phục hồi chức năng cho người khiếm thị đã được triển khai từ năm 1999 đến nay.
Trong năm 2007, nhóm nghiên cứu khoa Mắt trẻ em bệnh viện Mắt trung ương đã khám
mới cho 170 bệnh nhân (BN) khiếm thị tại 22 tỉnh thuộc miền Bắc và Trung bộ. Nguyên
nhân gây khiếm thị của những BN này chủ yếu là bệnh lý của thể thuỷ tinh (33,6%), tật
khúc xạ (15,3%) và các bệnh của võng mạc, hoàng điểm. Thị lực xa của những BN này
rất kém (52,9% ở mức 0,3) tuy nhiên
khoảng cách nhìn lại quá gần (46,5% khoảng cách nhìn <5cm). Có 97 BN được chỉ
định kính trợ thị gần (60 BN dùng kính gọng phóng đại, 12 BN dùng kính lúp cầm tay, 2
BN dùng kính lúp có chân và 23 BN dùng phối hợp kính gọng phóng đại và kính lúp
cầm tay), sau trợ thị g...
6 trang |
Chia sẻ: Đình Chiến | Ngày: 11/07/2023 | Lượt xem: 159 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Công tác phục hồi chức năng khiếm thị tại một số tỉnh thuộc miền bắc và trung bộ năm 2007 – Nguyễn Thị Thu Hiền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
68
CÔNG TÁC PHỤC HỒI CHỨC NĂNG KHIẾM THỊ
TẠI MỘT SỐ TỈNH THUỘC MIỀN BẮC VÀ TRUNG BỘ NĂM
2007
NGUYỄN THỊ THU HIỀN, TRẦN THỊ THU THUỶ
Bệnh viện Mắt Trung ương
TÓM
TẮT
Theo ước tính Việt Nam hiện có khoảng 2 triệu người khiếm thị. Công tác chăm
sóc phục hồi chức năng cho người khiếm thị đã được triển khai từ năm 1999 đến nay.
Trong năm 2007, nhóm nghiên cứu khoa Mắt trẻ em bệnh viện Mắt trung ương đã khám
mới cho 170 bệnh nhân (BN) khiếm thị tại 22 tỉnh thuộc miền Bắc và Trung bộ. Nguyên
nhân gây khiếm thị của những BN này chủ yếu là bệnh lý của thể thuỷ tinh (33,6%), tật
khúc xạ (15,3%) và các bệnh của võng mạc, hoàng điểm. Thị lực xa của những BN này
rất kém (52,9% ở mức 0,3) tuy nhiên
khoảng cách nhìn lại quá gần (46,5% khoảng cách nhìn <5cm). Có 97 BN được chỉ
định kính trợ thị gần (60 BN dùng kính gọng phóng đại, 12 BN dùng kính lúp cầm tay, 2
BN dùng kính lúp có chân và 23 BN dùng phối hợp kính gọng phóng đại và kính lúp
cầm tay), sau trợ thị gần thị lực và khoảng cách nhìn của BN được cải thiện đáng kể
(trước trợ thị có 51 BN có thị lực <0,3 và có tới 76 BN khoảng cách nhìn <5cm nhưng
sau trợ thị chỉ còn 5 BN thị lực <0,3 và 28 BN khoảng cách nhìn <5cm).
Công tác chăm sóc phục hồi chức năng đem lại cuộc sống chất lượng hơn cho
người khiếm thị. Cần phải triển khai, nhân rộng chương trình tại các tỉnh thành phố
trong cả nước.
Ở Việt Nam, theo thống kê năm
2002, tỷ lệ mù là 0,63% dân số, như vậy
theo cách tính của WHO tỷ lệ người
khiếm thị ở Việt Nam là 1,89%, tức là có
khoảng 2 triệu người khiếm thị trong
tổng số hơn 84 triệu người dân Việt
Nam.
Từ năm 1999, nhờ sự giúp đỡ của
tổ chức CBM, chúng ta bắt đầu triển khai
công tác phục hồi chức năng cho người
khiếm thị tại một số tỉnh, thành phố như:
Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,
Huế, Hải Phòng, Nghệ An, Thái Nguyên,
Thái Bình, cũng từ năm 1999 đến nay
bệnh viện Mắt Trung ương đã phối hợp
2. Nhãn khoa cộng
đồng
69
với trường Nguyễn Đình Chiểu để khám,
cấp kính trợ thị cho các học sinh khiếm
thị tại các trường mù, trường khuyết tật
và Hội người mù của một số tỉnh. Trong
năm 2007, chúng tôi đã khám cho 170
BN khiếm thị, ngoài những BN được
khám tại bệnh viện Mắt TW, chúng tôi
đã khám cho học sinh khiếm thị ở 9 tỉnh
thuộc Bắc và Trung bộ như: Hải Dương,
Bắc Giang, Thái Bình, Thái Nguyên, Hải
Phòng, Nghệ An, Quảng Trị, Huế, Đà
Nẵng. Cũng trong năm 2007, chúng tôi
đã mở một khoá đào tạo cho một số bác
sỹ và điều dưỡng chuyên khoa mắt của
bệnh viện Mắt Huế, khoa mắt BV Trung
ương Huế và bộ môn Mắt trường Đại học
Y Huế. Qua khoá học này chúng ta đã
nhân rộng thêm chương trình chăm sóc
khiếm thị tại thành phố Huế, nơi hội tụ
đầy đủ các điều kiện để có thể làm tốt
công tác phục hồi chức năng cho người
khiếm thị bởi tại đây ngoài các cán bộ
nhãn khoa được trang bị kiến thức về
khiếm thị, còn có các giáo viên chuyên
trách được đào tạo để dạy cho trẻ khiếm
thị và đội ngũ CBR (Community Base
Rehabilitation). Cũng chính nhờ có công
tác chăm sóc phục hồi chức năng khiếm
thị mà nhiều học sinh khiếm thị tại một
số tỉnh không còn phải “nhìn chữ nổi”
như trước đây, các cháu được học sách
chữ in như những trẻ bình thường và
nhiều cháu được học hoà nhập tại các
trường bình thường cùng với những trẻ
khác.
Mặc dù công tác phục hồi chức
năng cho người khiếm thị đã được khởi
xướng trong ngành Nhãn khoa từ năm
1999 nhưng trên thực tế cho đến nay nó
mới chỉ được phát triển ở một phạm vi
rất nhỏ với số lượng người khiếm thị
được chăm sóc còn quá ít, tuy nhiên đây
là một việc làm rất thiết thực và mang ý
nghĩa nhân đạo, nó giúp cho những số
phận không may mắn có một cuộc sống
chất lượng hơn, ý nghĩa hơn.
I. ĐẶC ĐIỂM BỆNH NHÂN
Năm 2007, chúng tôi đã khám mới
cho 170 BN khiếm thị tuổi từ 5 đến 74,
trong đó có 91 nam (53,5%) và 54 nữ.
Bảng 1. Phân bố bệnh nhân theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi Số lượng %
<6 4 2,4
6 17 124 72,9
>17 42 24,7
Tổng 170 100
170 BN thuộc 22 tỉnh thành miền Bắc và miền Trung.
Bảng 2. Phân bố bệnh nhân theo địa lý
Tỉnh – Thành phố Số lượng Tỉnh – Thành phố Số lượng
Hà Nội 46 Vĩnh Phúc 2
Hà Tây 8 Phú Thọ 2
Hải Phòng 3 Điện Biên 1
Hải Dương 18 Hà Nam 2
Hưng Yên 6 Thanh Hoá 1
Bắc Ninh 4 Nghệ An 2
Bắc Giang 15 Hà Tĩnh 2
70
Ninh Bình 2 Quảng Bình 2
Nam Định 2 Quảng Trị 7
Thái Bình 8 Huế 22
Phúc Yên 1 Đà Nẵng 14
Tổng 170
Những con số trên cho thấy việc
chăm sóc cho người khiếm thị của chúng
ta còn quá khiêm tốn, cần nhân rộng
thêm nữa màng lưới cán bộ tại địa
phương để ngày càng nhiều BN khiếm
thị được chăm sóc tại chính cơ sở y tế
của địa phương họ.
II. NGUYÊN NHÂN GÂY KHIẾM
THỊ
Nguyên nhân gây khiếm thị rất
phong phú, trong 170 BN có 57 trường
hợp do bệnh lý của thể thuỷ tinh (8 BN
đục thể thuỷ tinh, 29 BN đã lấy thể thuỷ
tinh, 20 BN đã đặt IOL), 26 trường hợp tật
khúc xạ trong đó chủ yếu là cận thị cao, 12
trường hợp bị glôcôm, 15 trường hợp bệnh
võng mạc sắc tố, 16 trường hợp teo gai
Bảng 3. Nguyên nhân gây khiếm thị
Nguyên nhân Số lượng %
Bệnh lý thể thuỷ tinh 57 33,6
Tật khúc xạ 26 15,3
Glôcôm 12 7,0
Bệnh võng mạc sắc tố 15 8,8
Teo gai 16 9,4
Thoái hoá hoàng điểm 7 4,1
Sẹo giác mạc 9 5,3
Bạch tạng 6 3,5
Khác 22 13,0
III. TÌNH TRẠNG THỊ LỰC
TRƯỚC VÀ SAU PHỤC HỒI CHỨC
NĂNG THỊ GIÁC
Đánh giá tình trạng thị lực xa ở mắt
tốt của những BN này có tới 52,9% ở
mức dưới 0,05, chỉ có 14,1% khiếm thị ở
mức từ 0,1 đến 0,3. Nhìn chung tình
trạng thị lực xa của những BN này ở mức
rất kém.
Bảng 4. Thị lực xa ở mắt tốt
Thị lực xa Số lượng %
≤0,05 90 52,9
>0,05 > 0,1 56 32,9
>0,1 > 0,3 24 14,2
Tæng 170 100
71
Trong số 170 BN, có 78 trường hợp
được chỉ định đeo kính nhìn xa (với người
khiếm thị nếu kính đeo làm tăng trên 1
hàng thị lực hoặc nhìn hình ảnh nét hơn là
rất có ý nghĩa).
Bảng 5. Thị lực xa trước và sau đeo kính chỉnh tật khúc xạ.
Thị lực Thị lực xa không kính (N =
78)
Thị lực xa với kính (N = 78)
≤0,05 38 14
>0,05 > 0,1 30 20
>0,1 > 0,3 10 44
MÆc dï thÞ lùc xa cña BN
rÊt kÐm nhng chóng t«i
kh«ng chØ ®Þnh kÝnh trî thÞ
xa v× nh÷ng lý do: gi¸
thµnh mét chiÕc kÝnh viÔn
väng rÊt ®¾t, kÝnh ph¶i
nhËp tõ níc ngoµi, BN
kh«ng cã nhu cÇu nh l¸i «
t« hay xe m¸y, hä cã thÓ
®Õn gÇn vËt ®Ó nh×n hoÆc
cam chÞu viÖc m×nh kh«ng
thÓ nh×n xa ®îc
§¸nh gi¸ thÞ lùc gÇn cña
nh÷ng BN nµy chóng t«i nhËn
thÊy mÆc dï thÞ lùc xa ë
møc thÊp nhng thÞ lùc gÇn
cña BN cßn t¬ng ®èi tèt,
trong sè 170 BN cã tíi 114
trêng hîp thÞ lùc gÇn trªn
0,3, chØ cã 1 trêng hîp
thÞ lùc gÇn ë møc 0,05 ®Õn
0,1.
Bảng 6. Thị lực gần tốt nhất
Thị lực Số lượng %
≤0,05 0 0
>0,05 > 0,1 1 0,6
>0,1 > 0,3 55 32,6
>0,3 114 66,8
Tæng 170 100
Mặc dù thị lực gần ở mức tốt
nhưng khoảng cách nhìn quá gần làm
cho BN gặp rất nhiều khó khăn khi đọc.
Có tới 79 BN khoảng cách nhìn dưới
5cm, chỉ có 39 BN khoảng cách trên
10cm.
Bảng 7. Khoảng cách nhìn trước trợ thị
Khoảng cách nhìn (cm) Số lượng %
<5 79 46,5
5 ->10 52 30,6
>10 39 22,9
72
Tổng 170 100
Trong số 170 BN, có 97 BN được
chỉ định kính trợ thị gần. Các loại kính
trợ thị gần đã được chỉ định bao gồm: 60
kính gọng phóng đại công suất từ +4D
đến +20D, 12 kính lúp cầm tay công suất
từ +8D đến +28D, 2 kính lúp có chân
công suất +28D và 23 kính gọng phối
hợp kính lúp cầm tay.
Bảng 8. Các loại trợ thị gần đã được chỉ định
Loại trợ thị gần Số lượng
Kính gọng 60
Kính lúp cầm tay 12
Kính lúp có chân 2
Kính gọng phối hợp lúp cầm tay 23
Tổng 97
So sánh thị lực gần của 97 BN
được chỉ định kính trợ thị gần chúng tôi
nhận thấy sau khi trợ thị chỉ còn 5 trường
hợp thị lực gần ở mức trên 0,1 đến 0,3,
còn lại 92 trường hợp thị lực ở mức trên
0,3.
Bảng 9. So sánh thị lực trước và sau trợ thị gần
Thị lực
Trước
trợ thị
Kính gọng
phóng đại
Kính lúp
cầm tay
Kính lúp
có chân
Gọng PĐ
và lúp tay
≤0,05 0 0 0 0 0
>0,05 >
0,1
1 0 0 0 0
>0,1 >
0,3
50 5 0 0 0
>0,3 46 55 12 2 23
Khoảng cách nhìn sau trợ thị được
cải thiện đáng kể, trước trợ thị có tới 76
trường hợp khoảng cách nhìn < 5cm, sau
trợ thị chỉ còn 28 trường hợp.
Bảng 10. So sánh khoảng cách nhìn trước và sau trợ thị gần
Khoảng cách
nhìn (cm)
Trước
trợ thị
Kính gọng
phóng đại
Kính lúp
cầm tay
Kính lúp
có chân
Gọng PĐ
và lúp tay
<5 76 19 0 1 8
5 -> 10 20 37 7 1 13
>10 1 4 5 0 2
IV. KẾT LUẬN
Công tác chăm sóc phục hồi chức
năng đem lại sự cải thiện đáng kể về
73
chức năng thị giác (nhất là thị lực gần)
cho người khiếm thị, bởi vậy cần phải
nhân rộng thêm chương trình tại các tỉnh
thành phố trong cả nước, sao cho số
lượng người khiếm thị nhận được dịch
vụ chăm sóc ngày càng đông, chất
lượng cuộc sống của họ ngày càng được
cải thiện.
Ở nước ta, do điều kiện kinh tế còn
nghèo, chúng ta chưa có một trung tâm
dành riêng cho việc phục hồi chức năng
khiếm thị, bởi vậy đây là trách nhiệm
của ngành nhãn khoa nói riêng và của
toàn xã hội nói chung.
V. KHÓ KHĂN VÀ NHỮNG KIẾN
NGHỊ
Công tác chăm sóc, phục hồi chức
năng cho người khiếm thị ở nước ta gặp
rất nhiều khó khăn:
- Dụng cụ trợ thị nghèo nàn, chưa
đáp ứng được đủ nhu cầu, trong nước
không có những cơ sở sản xuất dụng cụ
trợ thị mà hầu hết đều phải nhập từ nước
ngoài.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác chăm
sóc khiếm thị ở các tỉnh còn quá mỏng.
- Việc khám, chỉ định các loại trợ thị,
theo dõi cho những người khiếm thị đòi
hỏi rất nhiều thời gian, công sức. Những
người làm công tác chăm sóc khiếm thị
phải có những đức tính kiên trì, chịu khó
và phải có tâm với người bệnh vì đây là
một công việc mang tính nhân đạo.
- Phần lớn những người khiếm thị có
hoàn cảnh khó khăn, không có điều kiện
để mua các dụng cụ trợ thị.
- Xã hội chưa nhận thức đầy đủ về
người khiếm thị, bởi vậy chất lượng cuộc
sống của họ chưa được quan tâm.
Từ những khó khăn trên, chúng tôi,
những người làm công tác phục hồi chức
năng cho người khiếm thị xin kiến nghị:
- Việc cần làm trước tiên là phải tổ
chức những khoá đào tạo về khiếm thị
cho các cán bộ trong ngành nhãn khoa để
họ có những khái niệm cơ bản về phương
pháp phục hồi chức năng cho người
khiếm thị và thay đổi nhận thức của họ
về những người khiếm thị.
- Nên tổ chức một phòng khám dành
cho người khiếm thị tại các bệnh viện
mắt hoặc trung tâm mắt của các tỉnh,
thành phố.
- Cần quan tâm đến việc truyền
thông, quảng bá để những người khiếm
thị biết đến chương trình này, làm thay
đổi nhận thức cho họ, giúp họ tự tin hơn
trong cuộc sống.
- Cần cải thiện mối quan hệ giữa y tế
nói chung, ngành nhãn khoa nói riêng và
giáo dục trong việc chăm sóc cho trẻ
khiếm thị tại các tỉnh, thành phố.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_cong_tac_phuc_hoi_chuc_nang_khiem_thi_tai_mot_so_tinh.pdf