Đề tài Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Thanh tra huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Tài liệu Đề tài Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Thanh tra huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu: LỜI MỞ ĐẦU Giải quyết khiếu nại, tố cáo là một lĩnh vực hết sức quan trọng trong hệ thống quản lý nhà nước và điều hành xã hội. Do vậy thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân sẽ củng cố và tăng niềm tin của nhân dân vào đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đề ra, thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lợi đều thuộc về nhân dân. Việc quan tâm đến lợi ích của nhân dân là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước. Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách, văn bản pháp luật ngày càng hoàn thiện để giải quyết khiếu nại, tố cáo nhanh, đúng pháp luật, bảo vệ và khôi phục kịp thời lợi ích hợp pháp cho nhân dân, đồng thời xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật, tạo niềm tin của nhân dân vào con đường đi lên xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn. Trong thời gian qua, Nhà nước ...

doc41 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1722 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Thanh tra huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Giải quyết khiếu nại, tố cáo là một lĩnh vực hết sức quan trọng trong hệ thống quản lý nhà nước và điều hành xã hội. Do vậy thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân sẽ củng cố và tăng niềm tin của nhân dân vào đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đề ra, thể hiện mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lợi đều thuộc về nhân dân. Việc quan tâm đến lợi ích của nhân dân là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước. Nhận thức được điều đó, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách, văn bản pháp luật ngày càng hoàn thiện để giải quyết khiếu nại, tố cáo nhanh, đúng pháp luật, bảo vệ và khôi phục kịp thời lợi ích hợp pháp cho nhân dân, đồng thời xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật, tạo niềm tin của nhân dân vào con đường đi lên xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn. Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã đưa ra các văn bản quy phạm pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo, đặc biệt là sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo ngày càng hoàn thiện hơn nên việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đã đạt được những kết quả tốt đẹp. Việc xử lý các vụ việc khiếu nại, tố cáo nhanh hơn, đúng người, đúng việc và đúng thẩm quyền xử lý hơn, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Song bên cạnh đó, do sự phát triển của nền kinh tế thị trường có nhiều vấn đề phức tạp nên tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân ở các địa phương có chiều hướng gia tăng, diễn ra không bình thường. Có nhiều đơn phức tạp kéo dài nhiều năm do không được giải quyết, giải quyết không đúng pháp luật, xử lý không nghiêm minh. Bên cạnh đó còn có nhiều đơn khiếu nại, tố cáo vượt cấp dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng không chỉ về mặt giải quyết khiếu nại, tố cáo mà còn ảnh hưởng đến kinh tế - xã hội của địa phương. Từ trước đến nay việc xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân luôn được xác định là nhiệm vụ quan trọng của các cơ quan Thanh tra nhà nước. Vai trò của các cơ quan Thanh tra nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thể hiện trách nhiệm của các cơ quan Thanh tra nhà nước trong công tác tiếp dân, quản lý về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và nhiệm vụ của các cơ quan Thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan Thanh tra nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng đối với công tác quản lý nhà nước trên địa bàn của các địa phương. Từ khi Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004 và năm 2005 được Quốc hội ban hành đã giúp công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được hiệu quả hơn. Việc chọn đề tài “Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Thanh tra huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” nhằm phản ánh phần nào tình hình thực tế cũng như đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn. Trong điều kiện thời gian có hạn, bên cạnh khả năng nhận thức và hiểu biết thực tế còn nhiều hạn chế, báo cáo không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Kính mong nhận được sự chia sẻ và góp ý của các cán bộ phụ trách về lĩnh vực khiếu nại, tố cáo, cũng như các ý kiến góp ý, nhận xét của quý thầy cô. Xin chân thành cảm ơn! PHẦN I: BÁO CÁO KẾ HOẠCH THỰC TẬP VÀ KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÀNH THANH TRA NHÀ NƯỚC A. KẾ HOẠCH THỰC TẬP: Tuần 01 đến tuần 02: Từ ngày 16/3 – 29/3/2009: Báo cáo lãnh đạo cơ quan về nội dung và kế hoạch thực tập. Tìm hiểu cơ quan thực tập và những quy trình hành chính. Tìm hiểu công tác soạn thảo các loại văn bản tại cơ quan Thanh tra. Đọc, nghiên cứu hồ sơ về khiếu nại, tố cáo liên quan đến chuyên đề thực tập. Viết đề cương chuyên đề. Tuần 03 đến tuần 07: Từ ngày 30/3 – 03/5/2009: Thu thập số liệu và theo dõi tình hình tiếp dân. Tham gia trực công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Tổng hợp các báo cáo để thực hiện việc viết chuyên đề. Tuần 08 đến ngày 15/5/2009: Từ ngày 04/5 – 15/5/2009: Viết báo cáo chuyên đề. Trình lãnh đạo cơ quan nhận xét quá trình thực tập và nhận xét của giảng viên hướng dẫn. B. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÀNH THANH TRA NHÀ NƯỚC: 1. Lịch sử hình thành về ngành Thanh tra: Khởi nghiệp cho sự ra đời của ngành Thanh tra là Ban Thanh tra đặc biệt được quy định trong Sắc lệnh số 64/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 23/11/1945, lần đầu tiên quyền thanh tra được xác định và chính thức giao cho Chính phủ. Với khái niệm "Thanh tra là tai mắt của trên, là người bạn của dưới, cán bộ thanh tra là tai mắt của Đảng và Chính phủ, tai mắt có sáng suốt thì người mới sáng suốt, người được giao quyền thanh tra phải luôn luôn xem trọng công tác thanh tra”. Đến Hiến pháp năm 1946, quy định của pháp luật về Thanh tra cũng chưa được xác định cụ thể và do đó hoạt động thanh tra, kiểm tra chưa được giao cho một cơ quan chuyên trách nào, quyền kiểm soát đối với Chính phủ được giao cho Ban Thường vụ của Nghị viện. Sau Hiến pháp năm 1946 và đến Hiến pháp năm 1980 pháp luật về Thanh tra cũng chỉ mới xác định là chức năng của cơ quan quản lý nhà nước, nhưng chưa có quy định về quyền thanh tra, kiểm tra cũng như chưa giao nhiệm vụ cho một cơ quan nhà nước cụ thể nào. Mà đến năm 1990, trên cơ sở của Hiến pháp năm 1980, Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 được ban hành và quyền thanh tra được xác định là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, là phương thức bảo đảm pháp chế tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức và quyền thanh tra được giao cho các cơ quan Thanh tra nhà nước thực hiện. Trên tinh thần Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng tháng 12 năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991, Đảng ta đã thông qua cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Pháp lệnh Thanh tra ra đời tạo lập một khuôn khổ pháp lý để xây dựng và phát triển ngành Thanh tra trong thời kỳ đổi mới. Đứng trước những yêu cầu đổi mới, để tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế phát triển trong cơ chế thị trường, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước như Nghị quyết Trung ương 8 (Khoá VII), Nghị quyết trung ương 3 (Khoá VIII) và Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định phải đổi mới tổ chức và hoạt động thanh tra, hoàn thiện thể chế pháp luật về Thanh tra, nâng cao hiệu lực, hiệu quả về công tác thanh tra là những đòi hỏi tất yếu để Luật Thanh tra năm 2004 ra đời. Luật Thanh tra đã tiếp tục khẳng định và làm rõ vị trí, vai trò của các cơ quan Thanh tra nhà nước. Các cơ quan Thanh tra là bộ phận quan trọng, không thể thiếu được trong cơ cấu bộ máy nhà nước, là công cụ đắc lực để giữ gìn, bảo vệ và tăng cường quản lý, là chức năng thiết yếu của các cơ quan quản lý nhà nước nhưng có tính độc lập tương đối với cơ quan quản lý. Như vậy, với vị trí vai trò của mình, trong gần 60 năm kể từ Ban Thanh tra đặc biệt (Sắc lệnh 64/SL năm 1945) đến Luật Thanh tra 2004, toàn ngành Thanh tra nói chung và cán bộ công nhân viên của ngành đã góp phần không nhỏ trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước ngày một hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó, đặt ra những nhiệm vụ và trọng trách mới trong sự nghiệp quản lý nhà nước nói chung và trong công tác phòng ngừa, phát hiện xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục. Phát huy những nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, và các cá nhân. 2. Khái niệm về công tác thanh tra trong Luật Thanh tra năm 2004: Khái niệm và thuật ngữ cụ thể để thể hiện nội dung bao hàm của từ thanh tra, kiểm tra theo như căn cứ vào khái niệm của từ điển tiếng Anh - Thanh tra = Inspect, có nghĩa là nhìn vào bên trong, chỉ một sự xem xét từ bên ngoài vào một đối tượng nhất định. Theo từ điển tiếng Việt - Thanh tra bao hàm nội dung là việc kiểm tra xem xét, việc làm tại chỗ của địa phương, cơ quan, xí nghiệp do người thuộc cơ quan có thẩm quyền thực hiện, còn kiểm tra (theo từ điển tiếng Việt) là việc kiểm tra xem xét tình hình thực tế để đánh giá nhận xét thì chưa được quy định một cách cụ thể trong một văn bản mang tính giá trị pháp lý nào. Năm 1945, sau khi sắc lệnh số 64/SL do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, thì thuật ngữ thanh tra bắt đầu được xuất hiện nhưng vẫn mang tính chất chung chung, kể cả trong Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 cũng chưa sử dụng thuật ngữ thanh tra. Trong Hiến pháp năm 1980 thì thuật ngữ thanh tra được sử dụng và xác định đó là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Đến Hiến pháp năm 1992, khái niệm thanh tra, kiểm tra được thể hiện rõ tại các Điều 112, 115, 116, và 124. Tại Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, hoạt động thanh tra của các tổ chức Thanh tra một lần nữa khẳng định đó là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước. Sau khi Luật Thanh tra năm 2004 ra đời đã làm rõ hơn nội dung bao hàm của thuật ngữ thanh tra, kiểm tra cũng như về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Thanh tra nhà nước. Như vậy, từ những khái niệm về thuật ngữ thanh tra nêu trên, qua các thời kỳ của lịch sử, quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác thanh tra trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, với mục đích thanh tra trong phạm vi mà pháp luật quy định, Thanh tra với vai trò, chức năng là một công cụ quản lý, có thể khẳng định thanh tra là một khâu không thể thiếu trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước nói chung, là phương thức và nội dung quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và là phương tiện phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm nói riêng. Luật Thanh tra được Quốc hội thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004 tại kỳ họp thứ 5, khoá XI, bao gồm 5 chương, 70 điều có hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm 2004. Phạm vi điều chỉnh của Luật quy định về tổ chức, hoạt động Thanh tra nhà nước và Thanh tra nhân dân. Mục đích thanh tra được quy định tại điều 3 như sau: Hoạt động thanh tra nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Một trong những nội dung cơ bản, quan trọng của Luật Thanh tra năm 2004 là vấn đề xây dựng cơ cấu, tổ chức của các cơ quan Thanh tra nhà nước trong mối tương quan phối hợp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình trên tinh thần của Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII, xác định "Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra cần tiến hành đồng bộ với cải cách bộ máy nhà nước và trên cơ sở phân định thẩm quyền, trách nhiệm giữa các cấp chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước theo ngành, theo lĩnh vực". Trong quá trình sắp xếp kiện toàn tổ chức, đảm bảo nguyên tắc thanh tra có tính độc lập tương đối nhưng phải gắn liền với quản lý, Luật Thanh tra quy định rõ về tính hệ thống của các cơ quan Thanh tra. Mức độ quan hệ giữa các cơ quan Thanh tra nhà nước, đảm bảo sự thống nhất trong chỉ đạo về mặt công tác, tổ chức, nghiệp vụ thanh tra giữa Thanh tra cấp trên với cấp dưới. Theo quy định tại Luật Thanh tra, các cơ quan Thanh tra nhà nước có cơ cấu tổ chức như sau: Tổ chức các cơ quan Thanh tra theo cấp hành chính gồm: - Thanh tra Chính phủ - Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương - Thanh tra quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. Trong đó Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước. Cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ có Tổng thanh tra, Phó tổng thanh tra và Thanh tra viên. Tổng thanh tra là thành viên Chính phủ, do Thủ tướng Chính phủ đề nghị Quốc hội phê chuẩn và Chủ tịch bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ về công tác thanh tra. Thanh tra tỉnh là cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, có trách nhiệm giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn về thanh tra hành chính trong phạm vi quản lý nhà nước của UBND cấp tỉnh. Thanh tra tỉnh có Chánh thanh tra, Phó chánh thanh tra và Thanh tra viên. Chánh thanh tra tỉnh do Chủ tịch UBND cùng cấp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng thanh tra. Thanh tra huyện là cơ quan chuyên môn của UBND cấp huyện, có trách nhiệm giúp UBND huyện quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính trong phạm vi quản lý nhà nước của UBND cấp huyện. Thanh tra huyện có Chánh thanh tra, Phó chánh thanh tra và Thanh tra viên. Chánh thanh tra là người đứng đầu cơ quan Thanh tra, do Chủ tịch UBND cùng cấp bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Chánh thanh tra tỉnh. Tổ chức các cơ quan Thanh tra theo ngành, lĩnh vực có: - Thanh tra bộ, cơ quan ngang bộ (gọi chung là Thanh tra bộ) có thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành. - Thanh tra sở. Thanh tra bộ là cơ quan của Bộ, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ. Thanh tra bộ có Chánh thanh tra, Phó chánh thanh tra và các Thanh tra viên. Chánh thanh tra do Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng thanh tra. Thanh tra bộ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ. Thanh tra sở là cơ quan của Sở, có trách nhiệm giúp Giám đốc sở thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của Giám đốc sở. Thanh tra sở có Chánh thanh tra, Phó chánh thanh tra và Thanh tra viên. Chánh thanh tra sở do Giám đốc sở bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Chánh thanh tra tỉnh. Như vậy, nhìn vào cơ cấu tổ chức chung của các cơ quan Thanh tra nhà nước được quy định trong Luật Thanh tra năm 2004 đã thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với ngành thanh tra trong công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước, tổ chức Thanh tra được xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm, phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Thanh tra phù hợp với cơ chế quản lý nhà nước. Đồng thời tổ chức bộ máy của các cơ quan Thanh tra được kiện toàn trên cơ sở thu gọn đầu mối, khắc phục tình trạng chồng chéo, bảo đảm sự quản lý tập trung thống nhất về tổ chức và hoạt động thanh tra, phù hợp với nội dung, đối tượng, phạm vi của các loại hình thanh tra, Luật Thanh tra đã có một bước đổi mới mạnh mẽ, triệt để về tổ chức Thanh tra trong bối cảnh hiện nay. Trên cơ sở xác định vị trí của các cơ quan Thanh tra nhà nước, phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra của các cơ quan Thanh tra nhà nước phải phù hợp với sự phân công, phân cấp của các cấp, các ngành. Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Thanh tra nhà nước được quy định trong Luật Thanh tra đã xác định cơ quan Thanh tra nhà nước không chỉ là cơ quan có chức năng quản lý nhà nước như các cơ quan quản lý nhà nước khác, mà còn là cơ quan có đặc thù xem xét, đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân do đó có những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn khác với cơ quan quản lý nhà nước. Trên tinh thần kế thừa Pháp lệnh Thanh tra, Luật Khiếu nại, tố cáo, Pháp lệnh phòng chống tham nhũng, Luật Thanh tra quy định đầy đủ hơn về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Thanh tra gồm: - Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi thẩm quyền quản lý nhà nước cùng cấp. - Thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật. - Thanh tra việc thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa và chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. - Giúp thủ trưởng cơ quan cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Về cơ cấu, tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan Thanh tra được quy định từ Điều 13 đến Điều 29 trong Luật Thanh tra năm 2004. Như vậy, có thể nói những quy định của pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra, đặc biệt là sự phân định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn giữa thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành là những biểu hiện nổi bật so với Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, Luật Thanh tra năm 2004 đánh dấu một bước tiến mạnh mẽ trong quá trình hoàn thiện pháp luật về thanh tra, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra nói riêng và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nói chung. PHẦN II : BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ TÊN ĐỀ TÀI : CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI THANH TRA HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BR- VT CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG 1. Nguồn gốc hình thành Luật Khiếu nại, tố cáo: Khiếu nại, tố cáo là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp ghi nhận. Giải quyết khiếu nại, tố cáo là trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, đồng thời làm tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo sẽ góp phần giữ vững an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế phát triển. Chính vì vậy Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Để việc khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo đúng pháp luật, góp phần phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 4 đã thông qua Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998. Quá trình triển khai thực hiện cho thấy Luật Khiếu nại, tố cáo đã góp phần quan trọng vào việc giải quyết có hiệu quả các khiếu nại, tố cáo của nhân dân. Hàng năm, các cơ quan hành chính nhà nước tiếp nhận và giải quyết hàng trăm nghìn vụ việc khiếu nại, tố cáo. Nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng lâu ngày đã được giải quyết dứt điểm. Các cấp, các ngành nhận thức rõ hơn về ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, từ đó có nhiều cố gắng, nỗ lực nâng cao hiệu quả công tác này. Trên thực tế, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đã bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần bảo đảm an ninh trật tự và an toàn xã hội. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhiều nơi số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo gia tăng, thậm chí có nơi tình hình khiếu nại, tố cáo diễn biến hết sức phức tạp, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự tại địa phương. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do một số nơi chính quyền cơ sở chưa quan tâm đúng mức tới công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Quá trình giải quyết còn tình trạng nể nang, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm. Một số cán bộ, công chức còn thiếu tinh thần trách nhiệm, không thực hiện đúng quy định của pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo. Một số người lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo để kéo dài thời gian, không chấp hành quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo đã có hiệu lực pháp luật. Chính sách, pháp luật trong một số lĩnh vực chưa đầy đủ, đáng chú ý là một số quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo sau nhiều năm thực hiện đã không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, làm hạn chế hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, tổ chức và công dân. Để giải quyết các vướng mắc đặt ra trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, nâng cao hiệu quả việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan, tổ chức và công dân, ngày 15 tháng 6 năm 2004, Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 5 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo. Đây là lần sửa đổi tập trung vào thẩm quyền, trách nhiệm của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ và Chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; thẩm quyền, trách nhiệm của các cơ quan Thanh tra nhà nước trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc gặp gỡ, đối thoại trong giải quyết khiếu nại, tố cáo; việc giải quyết khiếu nại quyết định kỷ luật và lược bỏ một số điều không còn phù hợp trong Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998. Những nội dung sửa đổi, bổ sung ở đây chủ yếu là những quy định về khiếu nại, tố cáo và giải quyết khiếu nại, tố cáo nhằm khắc phục các hạn chế, vướng mắc xảy ra trong thực tiễn góp phần nâng cao hiệu quả việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hành chính. Để đẩy mạnh việc định hướng phát triển kinh tế - xã hội, thời gian qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương lớn về hội nhập kinh tế quốc tế. Quán triệt đường lối, chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước cùng với việc chủ động mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại, xúc tiến đàm phán, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), việc sửa đổi và ban hành mới các văn bản pháp luật, trong đó có các văn bản quy phạm pháp luật về khiếu kiện và giải quyết khiếu kiện hành chính phù hợp với yêu cầu hội nhập, nhất là tiến trình đàm phán, gia nhập WTO và thực hiện Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) phải được tiến hành khẩn trương và đồng bộ. Theo quy định của pháp luật, khiếu kiện và giải quyết khiếu kiện hành chính là vấn đề đã được xác định trong Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004 (sau đây gọi chung là Luật Khiếu nại, tố cáo) và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Quá trình rà soát các yêu cầu của WTO và BTA cho thấy, về cơ bản Luật Khiếu nại, tố cáo phù hợp với yêu cầu của WTO và BTA về giải quyết khiếu kiện hành chính. Tuy nhiên, cơ chế giải quyết khiếu nại và một số quy định của Luật này còn có điểm chưa phù hợp với yêu cầu của WTO và BTA, nhất là việc quy định người khiếu nại nếu lựa chọn khiếu nại lên cơ quan hành chính cấp trên thì không được khởi kiện tại Toà án. Ngoài ra, với cơ chế giải quyết khiếu nại trên và việc quy định trình tự, thủ tục còn quá nhiều tầng nấc đã dẫn đến tình trạng giải quyết bị kéo dài, không dứt điểm, gây khó khăn cho cơ quan nhà nước và người khiếu nại, nhiều vụ việc không có điểm dừng, các cơ quan hành chính bị quá tải về số lượng vụ việc khiếu nại, tố cáo, trong khi Tòa án có rất ít vụ việc thụ lý giải quyết. Để khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đáp ứng các yêu cầu về khiếu kiện và giải quyết khiếu kiện hành chính của WTO và BTA, nâng cao hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thì việc sửa đổi, bổ sung Luật Khiếu nại, tố cáo là hết sức cần thiết. Xuất phát từ yêu cầu khách quan đó, ngày 29 tháng 11 năm 2005, kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XI đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và Luật chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 6 năm 2006. 2. Khái niệm khiếu nại, tố cáo và một số nội dung liên quan: 2.1. Khiếu nại: Khiếu nại là việc công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức theo thủ tục do Luật Khiếu nại, tố cáo quy định đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành chính, hành vi hành chính hoặc quyết định kỷ luật cán bộ, công chức khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. 2.2. Tố cáo: Tố cáo là việc công dân theo thủ tục của Luật Khiếu nại, tố cáo quy định báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền biết về hành vi vi phạm pháp luật của bất cứ cơ quan, tổ chức, cá nhân nào gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. 2.3. Một số khái niệm các nội dung liên quan: Người khiếu nại: Người khiếu nại là công dân, cơ quan, tổ chức hoặc cán bộ, công chức thực hiện quyền khiếu nại Cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại: Cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại bao gồm: cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân. Người tố cáo: Người tố cáo là công dân thực hiện quyền tố cáo. Người bị khiếu nại: Người bị khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật bị khiếu nại. Người bị tố cáo: Người bị tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi bị tố cáo. Người giải quyết khiếu nại: Người giải quyết khiếu nại là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Người giải quyết tố cáo: Người giải quyết tố cáo là cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết tố cáo. Quyết định hành chính: Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của cơ quan hành chính nhà nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính. Hành vi hành chính: Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Quyết định kỷ luật: Quyết định kỷ luật là quyết định bằng văn bản của người đứng đầu cơ quan, tổ chức để áp dụng một trong các hình thức kỷ luật là khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, hạ ngạch, cách chức, buộc thôi việc đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức. Giải quyết khiếu nại: Giải quyết khiếu nại là việc xác minh, kết luận và ra quyết định giải quyết của người giải quyết khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng: Quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng là quyết định có hiệu lực thi hành và người khiếu nại không được quyền khiếu nại tiếp. Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật: Quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật bao gồm: quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng; quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà trong thời hạn do pháp luật quy định người khiếu nại đã không khiếu nại tiếp hoặc không khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án; quyết định giải quyết khiếu nại lần tiếp theo mà trong thời hạn khiếu nại do luật định người khiếu nại không khiếu nại tiếp. 3. Quy trình tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo: 3.1. Quy trình tiếp công dân: Việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh là một công việc phức tạp, quá trình này một mặt đòi hỏi phải tuân thủ một cách chặt chẽ các quy định của pháp luật song một mặt khác lại luôn đặt ra yêu cầu sáng tạo, linh hoạt về mặt phương pháp, nghiệp vụ. Về mặt pháp lý, Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng chỉ quy định những nguyên tắc, yêu cầu chung nhất đối với việc tiếp công dân mà không đưa ra một trình tự, thủ tục chi tiết về hoạt động này. Do đó, nhìn chung không có một khuôn mẫu cứng nhắc và cố định cho mọi trường hợp, mà tuỳ từng điều kiện, hoàn cảnh, đối tượng cụ thể người tiếp công dân, cán bộ tiếp dân có cách tiếp công dân thích hợp. Tất nhiên việc tiếp công dân đó phải dựa trên cơ sở các nguyên tắc và đạt được mục đích mà pháp luật đề ra. Chính vì vậy, để hoàn thành được chức trách, nhiệm vụ của mình, người tiếp công dân, cán bộ tiếp dân phải thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ và có kiến thức tương đối sâu sắc và toàn diện về nhiều lĩnh vực từ chính sách pháp luật, công tác quản lý, cho đến văn hóa ứng xử, nghệ thuật giao tiếp và tâm lý học. Như vậy, có thể khẳng định, trong thực tế việc tiếp công dân là hết sức đa dạng và phong phú về mặt biểu hiện và phương pháp, cách thức. Tuy nhiên, trên cơ sở các quy trình của pháp luật, có thể minh họa quy trình tiếp công dân nói chung theo mô hình tổng quát sau: QUY TRÌNH TIẾP CÔNG DÂN - Đọc biên bản làm việc cho người được tiếp nghe và ký xác nhận. - Ghi nhận đầy đủ nội dung vào Sổ tiếp công dân. - Hoàn chỉnh hồ sơ ban đầu, trình lãnh đạo, bàn giao vụ việc cho người có thẩm quyền giải quyết. Những kiến nghị, thỉnh cầu, góp ý xây dựng chính sách, pháp luật thì hướng dẫn hoặc chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Công dân đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Vụ việc cấp bách thì đề xuất biện pháp ngăn chặn hậu quả xấu có thể xảy ra. Lưu trữ, quản lý hồ sơ, tài liệu tiếp công dân để phục vụ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Những vụ việc thuộc thẩm quyền thì tiếp nhận tài liệu, hồ sơ và viết giấy biên nhận. Làm việc với người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh. Tiếp xúc ban đầu Loại những người không thực hiện đúng quy định của pháp luật. Vụ việc không thuộc thẩm quyền thì hướng dẫn người được tiếp đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết. 3.2. Quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo: Những năm gần đây khiếu nại, tố cáo diễn biến phức tạp và là vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản về khiếu nại, tố cáo như: Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 đã được sửa đổi bổ sung các năm 2004 và năm 2005, Chỉ thị 09/CT-TW ngày 06/3/2002 của Ban Bí thư về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay, Chỉ thị số 36/2004/CT-TTg ngày 27/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh và tăng cường trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo…góp phần quan trọng vào giải quyết những khiếu kiện của dân, giữ vững ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Thực tế cho thấy, sau thời gian thi hành Luật Khiếu nại, tố cáo nhiều bộ, ngành, địa phương còn lúng túng trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền trách nhiệm của mình. Trong đó việc chưa có một quy trình chung trong quá trình xem xét, giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo đã đưa đến tình trạng thiếu thống nhất trong xử lý, giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo của các cơ quan hành chính. Tuy nhiên, trước đòi hỏi của thực tiễn công tác quản lý, mỗi cấp mỗi ngành đã giải quyết các vụ việc với quy trình, cách thức riêng của mình. Khi tiếp cận từ góc độ quy trình cho thấy với cùng một loại vụ việc các cơ quan, tổ chức khác nhau thì giải quyết với quy trình khác nhau. Với các vụ việc tương tự nhau do cùng một cơ quan, tổ chức giải quyết đôi khi lại thực hiện với những bước đi, cách làm khác nhau. Kết quả là vụ việc không được chấm dứt, làm phát sinh đùn đẩy, kéo dài… Do vậy việc nghiên cứu hoàn thiện quy trình nghiệp vụ giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay ở nước ta là rất cần thiết. Nó có vai trò quan trọng trong định hướng và đưa ra các biện pháp nghiệp vụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cấp, các ngành. MÔ TẢ QUY TRÌNH TỔNG THỂ QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO HÀNH CHÍNH QUY TRÌNH TIẾP CÔNG DÂN VÀ XỬ LÝ ĐƠN THƯ HỆ THỐNG VĂN BẢN VÀ PHỤ LỤC ĐI KÈM QUY TRÌNH QUY TRÌNH QUY TRÌNH CÁC BƯỚC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO QUY TRÌNH QUY TRÌNH QUY TRÌNH QUY TRÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO Phát hành công văn, quyết định Xem và ký báo cáo đề xuất, dự thảo công văn, quyết định Ký quyết định thụ lý đơn Xử lý đơn Ký công văn trả lời, quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo Kiểm tra, trình ký Báo cáo kết luận Kiểm tra, xác minh Mời bổ sung hồ sơ Thông báo trả đơn Đưa vào thụ lý Phê duyệt xử lý đơn Thông báo thụ lý đơn Nhận và xử lý đơn CHƯƠNG II: CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI THANH TRA HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU A. KHÁI QUÁT VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA ĐỊA BÀN: 1. Đặc điểm chung của huyện Châu Đức: Châu Đức là một huyện nông nghiệp của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Phía đông giáp huyện Xuyên Mộc, phía tây giáp huyện Tân Thành, phía nam giáp huyện Long Đất và Thị xã Bà Rịa, phía bắc giáp với huyện Long Khánh (tỉnh Đồng Nai). Diện tích đất tự nhiên là 422,59 km2, dân số khoảng 165.600 người (theo số liệu thống kê năm 2008). Huyện có 16 đơn vị hành chính gồm: xã Nghĩa Thành, xã Suối Nghệ, xã Đá Bạc, xã Suối Rao, xã Bình Ba, xã Bình Trung, xã Bình Giã, xã Xuân Sơn, xã Sơn Bình, xã Quảng Thành, xã Bàu Chinh, xã Xà Bang, xã Kim Long, xã Láng Lớn, xã Cù Bị và Thị trấn Ngãi Giao. Thị trấn Ngãi Giao là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của toàn huyện Châu Đức, các cơ quan hành chính của huyện đều tập trung ở thị trấn này. Hầu hết đất đai của huyện là đất đỏ, vàng và đen trên nền đất Bazan (chiếm tỉ lệ 85,8% tổng diện tích đất). Thu nhập từ nông nghiệp là nguồn thu chính của huyện, giá trị sản xuất hàng năm khoảng 400 tỷ đồng, chiếm tỉ lệ 34,4% tổng số toàn tỉnh. Về hạ tầng kỹ thuật, huyện Châu Đức có nhiều hồ thuỷ lợi để tưới tiêu cho nông nghiệp như: hồ Tầm Bó, hồ Suối Giàu, hồ Kim Long, hồ Đá Đen…điện và đường nhựa, đường bê tông nông thôn đã đáp ứng yêu cầu tất cả các xã, đặc biệt là các xã vùng sâu, vùng xa của huyện. Trong những năm gần đây, trên địa bàn huyện Châu Đức đơn thư khiếu nại, tố cáo của người dân tăng khá nhanh do quá trình đô thị hoá, công tác mở đường, xây dựng các công trình mới, triển khai thực hiện nhiều dự án trên địa bàn huyện. Trong quá trình giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án, nhờ làm tốt công tác tuyên truyền vận động, cơ bản tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan nên được nhân dân đồng tình, nhất trí cao. Tuy vậy, ở một số công trình, dự án do việc đền bù giải phóng mặt bằng chưa thỏa đáng, áp giá đền bù còn thiếu chính xác, còn thiếu công khai minh bạch. Công tác quản lý đất đai ở một số địa phương chưa thật chặt chẽ đã dẫn đến những vi phạm về luật đất đai, phát sinh tranh chấp trong nội bộ nhân dân là nguyên nhân làm cho đơn thư khiếu nại, tố cáo tăng lên trong những năm qua trên địa bàn huyện Châu Đức. 2. Cơ cấu tổ chức và hoạt động của Thanh tra huyện Châu Đức: Thanh tra huyện Châu Đức là cơ quan chuyên môn của UBND huyện Châu Đức, có trách nhiệm tham mưu giúp UBND huyện quản lý nhà nước về công tác thanh tra kinh tế - xã hội và thanh tra xem xét, giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện. Nhằm mục đích phòng ngừa, phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp sai phạm (nếu có), đồng thời phát huy nhân tố tích cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo đúng quy định của pháp luật. Trong đó, việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết khiếu nại, tố cáo là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý hành chính nhà nước hiện nay. Hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra huyện Châu Đức có vai trò quan trọng đối với công tác quản lý nhà nước trên địa bàn huyện. Từ khi Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004, năm 2005 được Quốc hội ban hành đã giúp công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo được hiệu quả hơn. Trong quá trình thực hiện công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo tại địa phương có những thuận lợi, khó khăn cũng như những vướng mắc cần phải giải quyết đúng theo quy định của pháp luật mà vẫn phù hợp với đặc thù của địa phương. Hiện nay Thanh tra huyện Châu Đức gồm có Chánh thanh tra, Phó Chánh thanh tra và 03 thanh tra viên. Với đội ngũ cán bộ, công chức như vậy là còn rất thiếu so với yêu cầu, đòi hỏi của việc giải quyết khối lượng công tác nghiệp vụ tại địa bàn huyện. Hướng đi của Thanh tra huyện trong thời gian tới là đi đôi với việc đảm bảo công tác chuyên môn, đơn vị tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của ngành thanh tra, phối hợp với các ngành có liên quan đẩy mạnh công tác bồi dưỡng và đào tạo nghiệp vụ chuyên môn nhằm chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, thanh tra viên để đáp ứng được các yêu cầu đổi mới trong giai đoạn hiện nay và nâng cao chất lượng trong giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng như thanh tra kinh tế - xã hội trên địa bàn. B. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TẠI THANH TRA HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU: 1. Tình hình khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Châu Đức: 1.1. Tình hình chung: Được sự chỉ đạo thường xuyên của UBND tỉnh, sự phối hợp, hướng dẫn, mở các hội nghị tập huấn các văn bản mới cho cán bộ, công chức làm chuyên môn nghiệp vụ của ngành đã được Thanh tra tỉnh quan tâm, cộng với sự lãnh đạo sâu sát của Thường trực huyện ủy, giám sát chặt chẽ của HĐND huyện và sự nổ lực phấn đấu của các ngành, các cấp, nên công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo tại huyện đã từng bước đi vào nề nếp, đồng thời trình độ nhận thức pháp luật của nhân dân thông qua các hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và trực tiếp đối thoại khi giải quyết các vụ việc đã tác động tích cực đến khiếu nại, tố cáo của công dân. Sau khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 15/6/2004, Nghị định số 53/2005/NĐ-CP ngày 19/4/2005 của Chính phủ và Nghị định số 136/NĐ-CP ngày 14/11/2006 của Chính phủ có hiệu lực thi hành. UBND huyện đã tổ chức triển khai hội nghị cho cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo với hơn 200 lượt người tham dự, đồng thời thực hiện chỉ thị số 05/2005/CT-UBND ngày 27/01/2005 chỉ đạo triển khai thực hiện công tác này. Tiếp đó ngày 15/10/2007, UBND huyện ra quyết định 2022/QĐ-UBND thành lập Đoàn kiểm tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND các xã, thị trấn trong công tác tiếp công dân, mục đích của đợt kiểm tra này là nhằm chấn chỉnh và hướng dẫn cho các xã, thị trấn thực hiện tốt công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Công tác truyên truyền, phổ biến pháp luật về khiếu nại, tố cáo trong cơ quan, tổ chức và nhân dân: để đưa pháp luật đi vào thực tiễn cuộc sống, việc phổ biến giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, cán bộ là hết sức cần thiết, nhằm tổ chức thực hiện công tác này đạt hiệu quả cao, UBND huyện ban hành quyết định công nhận đội ngũ báo cáo viên cấp huyện, kiện toàn hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của huyện xây dựng kế hoạch công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý hàng năm để các phòng, ban và UBND các xã, thị trấn triển khai thực hiện đạt hiệu quả trong công tác tuyên truyền. Bên cạnh đó, UBND huyện chủ động phối hợp với trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh tổ chức hội nghị tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, trợ giúp pháp lý tại huyện và các xã, thị trấn, đồng thời biên soạn cấp phát tài liệu tuyên truyền các loại nhằm giúp cho toàn thể cán bộ và nhân dân nâng cao nhận thức, chấp hành pháp luật. Cụ thể: trong năm 2006, 2007 đã tổ chức được 218 hội nghị tuyên truyền cho 20.621 cán bộ, nhân dân tham dự, cấp phát 38.900 tài liệu tuyên truyền các loại, trong đó phối hợp với Thanh tra tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức 01 hội nghị tại huyện cho 200 cán bộ, công chức tham dự, biên soạn cấp phát 250 tài liệu tuyên truyền. Công tác hòa giải ở cơ sở: hiện 16 xã, thị trấn trên địa bàn huyện đã thành lập kiện toàn và củng cố 16 hội đồng tư vấn giải quyết tranh chấp đất đai gồm 128 thành viên và 114 tổ hòa giải ở cơ sở, gồm 798 thành viên. Hoạt động của các tổ hòa giải thường xuyên được duy trì hướng dẫn nghiệp vụ, cung cấp các văn bản pháp luật, do đó hiệu quả hoạt động ngày một nâng cao, hạn chế tối đa những vụ việc có mâu thuẫn nhỏ trở nên lớn, đơn giản thành phức tạp, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Công tác thanh tra kinh tế - xã hội được thực hiện khá tốt, từ năm 2004 đến quý I năm 2009 Thanh tra huyện đã tiến hành 24 đợt thanh tra kinh tế - xã hội trên địa bàn, góp phần ổn định đời sống của người dân, đảm bảo trật tự và an toàn xã hội. Đối với công tác thanh kiểm tra về lĩnh vực khiếu nại, tố cáo: Thanh tra huyện xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, đã được đưa vào chương trình công tác thường xuyên hàng năm, ít nhất trong năm tham mưu cho UBND huyện ban hành một quyết định thành lập Đoàn thanh tra công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với trách nhiệm của Chủ tịch UBND các xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Qua công tác thanh kiểm tra giải quyết khiếu nại, tố cáo đã chấn chỉnh những thiếu sót, vướng mắc có đánh giá kết quả đã làm được, chưa được để rút kinh nghiệm trong công tác, đồng thời hướng dẫn cho cán bộ chuyên môn làm công tác này thực hiện theo đúng các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định 136/NĐ-CP của Chính phủ. Về việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo: Thanh tra tỉnh đã tổ chức 01 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác tiếp nhận và xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, đồng thời cũng đã trang bị phần mềm quản lý đối với lĩnh vực này. Trong năm 2007, Thanh tra huyện có một công chức được đào tạo lớp Thanh tra viên chính, bên cạnh đó các cán bộ công chức trong cơ quan không ngừng nỗ lực phấn đấu trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ để đáp ứng công tác chuyên môn. Công tác tổ chức tiếp công dân: - Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác tiếp công dân và công tác hồ sơ, sổ sách: Thực hiện các quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo đã được sửa đổi bổ sung ngày 15/6/2004 và Nghị định số 53/2005/NĐ-CP ngày 19/4/2005 của Chính phủ và Nghị định số 136/NĐ-CP ngày 14/11/2006. UBND huyện luôn quan tâm tạo điều kiện và đảm bảo cơ sở vật chất để phục vụ công tác tiếp dân. Đến nay tại huyện và các xã, thị trấn đều bố trí địa điểm tiếp công dân thuận lợi, có bàn ghế, nước uống đầy đủ, nơi tiếp công dân của huyện được bố trí tại trụ sở mới của UBND huyện mở rộng, có diện tích khoảng 36m2 được trang bị đầy đủ bàn ghế, nước uống cho công dân, có nội quy niêm yết công khai và hệ thống sổ sách như: sổ tiếp dân dành cho lãnh đạo, sổ tiếp dân của cán bộ, sổ nhận đơn thư tổng hợp, sổ thụ lý đơn thư thuộc thẩm quyền của UBND huyện, phiếu nhận đơn và phiếu hướng dẫn. - Việc bố trí biên chế, nhân sự phụ trách tiếp công dân: do việc phân bổ biên chế hiện nay còn hạn chế, trong thời gian qua tại bộ phận tiếp công dân của huyện chỉ bố trí được 01 cán bộ thường trực làm công tác tiếp công dân, đồng thời UBND huyện cũng đã phân công ủy viên UBND huyện là Chánh văn phòng HĐND và UBND huyện trực tiếp theo dõi công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo để giúp Chủ tịch UBND huyện trong điều hành, chỉ đạo công tác này. - Kết quả thực hiện trong việc tiếp công dân: Trên cơ sở xác định công tác tiếp công dân theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo quy định tại các Điều 74, 75 và 76 về trách nhiệm của Chủ tịch UBND huyện trong việc tiếp công dân: do cùng lúc phải chỉ đạo điều hành nhiều công việc nên việc bố trí lịch tiếp công dân chưa được thường xuyên theo quy định, mà tùy tình hình và tính chất từng vụ việc cụ thể hoặc phân công cho Phó chủ tịch phụ trách khối, Chánh văn phòng, Phó chánh văn phòng để thực hiện việc tiếp công dân nhằm giải quyết những thắc mắc, khiếu nại, tố cáo của công dân. Từ năm 2004 đến quý I năm 2009 tổng số công dân được tiếp là 1.633 luợt công dân (trong đó các cấp lãnh đạo tiếp 148 lượt công dân, tại bộ phận tiếp dân HĐND và UBND huyện tiếp 782 lượt công dân, Thanh tra huyện tiếp 703 lượt công dân). Ngoài ra trong làm việc hàng ngày Chủ tịch và Phó chủ tịch UBND huyện cũng thường xuyên tiếp công dân tại phòng làm việc, tuy nhiên việc tiếp này chỉ dừng lại ở mức ghi nhận các ý kiến của nhân dân để chỉ đạo giải quyết và trả lời bằng văn bản nên không lập biên bản tiếp dân và thể hiện số liệu tiếp dân của thủ trưởng đơn vị. Hiện nay tình hình công tác tiếp công dân và lĩnh vực khiếu nại nhiều nhất là khiếu nại về bồi thường, giải tỏa và chính sách tái định cư vì địa bàn mới thành lập nên việc mở rộng xây dựng các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng nhiều, ảnh hưởng đến quá trình thu hồi đất của dân, dẫn đến việc phát sinh khiếu nại (vì sau khi Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính phủ, Quyết định số 760/2005/ QĐ-UBND ngày 10/3/2005 của UBND tỉnh được ban hành thì thẩm quyền giải quyết khiếu nại về bồi thường thuộc thẩm quyền của UBND huyện nên số vụ khiếu nại quyết định hành chính về bồi thường ngày càng có chiều hướng gia tăng). 1.2. Tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo tại Thanh tra huyện Châu Đức: 1.2.1. Tình hình giải quyết khiếu nại: Từ khi Luật Khiếu nại, tố cáo có hiệu lực thi hành từ ngày 01/06/2006 đến nay, Thanh tra huyện đã tiếp nhận nguồn đơn thư khiếu nại phát sinh nhiều ở lĩnh vực nhà đất như tranh chấp, lấn chiếm, vi phạm xây dựng, đền bù, giải toả mặt bằng thuộc nhiều công trình, dự án trên địa bàn huyện. Ngoài ra, còn có đơn khiếu nại thuộc các lĩnh vực khác như: môi trường, vi phạm quyền sở hữu công nghiệp, văn hoá và dịch vụ văn hoá… Tổng số đơn khiếu nại tiếp nhận từ năm 2004 đến quý I năm 2009 thuộc thẩm quyền giải quyết của Thanh tra huyện là 705 vụ khiếu nại. Trong đó đã giải quyết xong 597 đơn, chiếm tỉ lệ 84,6%; 108 đơn còn lại Thanh tra huyện đã tiến hành đối thoại và đang gấp rút hoàn thành để báo cáo UBND huyện xem xét, quyết định xử lý. Phân loại khiếu nại theo từng lĩnh vực như đất đai, chế độ chính sách, phân loại theo khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính: + Về lĩnh vực đất đai gồm: 679 vụ; + Về chế độ chính sách: 12 vụ; + Về hành vi hành chính: 14 vụ. Số vụ việc khiếu nại đúng, đúng một phần, khiếu nại sai toàn bộ: + Khiếu nại đúng: 103 vụ; + Khiếu nại đúng một phần: 112 vụ; + Khiếu nại sai toàn bộ: 490 vụ. Trong năm 2004 đến quý I năm 2009 có 08 vụ khiếu nại đông người gồm: 06 vụ ở xã Sơn Bình với số lượng khiếu nại tập trung lần lượt là 25 hộ, 15 hộ, 45 hộ, 06 hộ, 48 hộ và 75 hộ dân khiếu nại về quyết định bồi thường, hỗ trợ giá đất, giá cây trồng, hỗ trợ tái định cư…trong dự án xây dựng hồ chứa nước Sông Ray; vụ 12 hộ dân ở Suối Rao; vụ 05 hộ dân ngụ tại xã Hoà Bình, huyện Xuyên Mộc, nội dung là tranh chấp đất rừng dự án 711, kiến nghị việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vụ việc này UBND huyện đã thành lập Đoàn kiểm tra để giải quyết tranh chấp của các hộ, đồng thời vận động các hộ dân trong thời gian chờ các ngành chức năng giải quyết không được lấn chiếm đất. Qua kiểm tra đã phát hiện có một số hộ dân nhận hợp đồng trồng rừng đã sang nhượng lại hợp đồng cho nhiều hộ khác, các hộ đến tranh chấp, lấn chiếm đất dẫn đến xô xát. Vụ việc này, ngày 22/5/2007 UBND tỉnh có chỉ đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với UBND huyện rà soát việc lấn chiếm đất Dự án 711 tại xã Suối Rao. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tổ chức cuộc họp các ngành của tỉnh và huyện để bàn biện pháp giải quyết. Tuy nhiên do vụ việc phức tạp, số hộ hợp đồng chăm sóc bảo vệ rừng đã chuyển nhượng qua nhiều giai đoạn khác nhau, việc ký kết hợp đồng chăm sóc bảo vệ rừng trước đây không thể hiện đầy đủ ranh giới, diện tích, còn các hộ dân đến tranh chấp, lấn chiếm đất với số hộ đông. Vì vậy cần phải thành lập Đoàn để thanh tra làm rõ, xử lý dứt điểm, không để vụ việc càng thêm phức tạp. Do việc giải quyết vượt thẩm quyền của huyện, nên ngày 27/6/2007 UBND huyện đã có công văn số 1121/UBND-VP đề nghị UBND tỉnh thành lập Đoàn Thanh tra liên ngành giải quyết việc khiếu nại, tranh chấp đất rừng Dự án 711. Đồng thời ngày 22/6/2007 Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã có công văn số 513/SNN-LN kiến nghị UBND tỉnh thành lập Đoàn Thanh tra đất đai để giải quyết. Việc thực hiện quy định tại Điều 34 của Luật Khiếu nại, tố cáo về thông báo bằng văn bản việc thụ lý cho người khiếu nại biết: đối với quy trình tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo đã được UBND huyện quan tâm bố trí phòng làm việc gọn gàng, khi tiếp nhận đơn đã có phiếu biên nhận, đồng thời có ban hành văn bản thông báo cho người khiếu nại biết để làm căn cứ. Việc chấp hành pháp luật về thẩm quyền giải quyết, thời hiệu, thời hạn giải quyết, đã tuân thủ theo đúng trình tự, thủ tục giải quyết vụ việc theo quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo và Nghị định 136/NĐ-CP của Chính phủ. Việc tuân thủ các nội dung theo quy định tại Điều 38, Điều 45 của Luật Khiếu nại, tố cáo khi ra quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, lần hai. Về hình thức giải quyết khiếu nại: + Số vụ việc giải quyết bằng hình thức ban hành quyết định giải quyết khiếu nại: 467 vụ; + Số vụ việc giải quyết được trả lời bằng thông báo, công văn: 21 vụ; + Số vụ việc rút đơn: 217 vụ. Về tổ chức đối thoại với công dân khi giải quyết khiếu nại lần đầu, lần hai là: 213 vụ. Số lượng vụ việc đã được giải quyết khiếu nại lần đầu, lần hai nhưng công dân không đồng ý và khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án so với quyết định giải quyết: Từ năm 2004 đến quý I năm 2009 công dân không đồng ý và khởi kiện ra Tòa án hành chính là 09 vụ, đạt tỷ lệ 1,28%. Được sự quan tâm phối hợp nhịp nhàng giữa các ngành trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, nên về cơ bản đã giải quyết kịp thời các vụ việc khiếu kiện, phản ánh của nhân dân, hạn chế đến mức thấp nhất các đơn thư vượt cấp, tồn đọng, phức tạp có ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị tại địa phương. 1.2.2. Tình hình giải quyết tố cáo: Công tác tiếp nhận và giải quyết đơn thư tố cáo thuộc cấp huyện chiếm số lượng ít, nội dung đơn tố cáo chủ yếu là cán bộ giải quyết hồ sơ chậm, hay đơn tố cáo những vụ việc có nội dung khác. Nhìn chung, những đơn tố cáo thuộc các nội dung trên, huyện đều chỉ đạo cơ quan chuyên môn tham mưu thụ lý, xác minh làm rõ để giải quyết dứt điểm và có văn bản trả lời cho người dân. Từ năm 2004 đến quý I năm 2009, Thanh tra huyện tiếp nhận và thụ lý 13 đơn tố cáo đúng thẩm quyền, trong đó đã giải quyết xong 12 đơn, chiếm tỉ lệ 92,3%; 01 đơn còn lại đang tiến hành đối thoại và sẽ gấp rút hoàn thành báo cáo với UBND huyện xem xét, quyết định. 2. Đánh giá tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn: 2.1. Những mặt đạt được: Công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn được sự quan tâm sâu sát, kịp thời của lãnh đạo huyện uỷ, HĐND, UBND huyện nên việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo trên địa bàn luôn thực hiện đúng trình tự thủ tục quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo, kết luận đảm bảo cơ sở pháp lý, công tác xây dựng và lưu trữ hồ sơ khoa học, đảm bảo quy định của pháp luật. Do vậy, những quyết định giải quyết khiếu nại, tố cáo của huyện ban hành trong thời gian qua luôn được sự đồng tình nhất trí cao của các cấp trên. Trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, huyện đã tạo điều kiện cho cơ quan Thanh tra chủ động phát huy vai trò tham mưu, đề xuất cho UBND huyện kịp thời giải quyết những yêu cầu, nguyện vọng của người dân, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng phát sinh khiếu kiện đông người xảy ra tại địa phương. Công tác thanh tra kinh tế - xã hội đã kịp thời phát hiện và chấn chỉnh các sai phạm ở cơ sở, đưa công tác quản lý nhà nước trên địa bàn dần đi vào nề nếp, đúng quy định của pháp luật. Thanh tra huyện cũng đã tích cực kiểm tra, hướng dẫn cơ sở về nghiệp vụ quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo đảm bảo cho các vụ khiếu nại, tố cáo đều được giải quyết tốt ở cơ sở, giảm thiểu hiện tượng khiếu kiện vượt cấp, khiếu kiện gay gắt, đông người. Ngoài ra, trong quá trình thụ lý giải quyết khiếu nại, cán bộ, Thanh tra viên đã tổ chức đối thoại công khai, giải thích và phân tích rõ cho người dân hiểu các quy định của pháp luật có liên quan đến nội dung đơn khiếu kiện, điều đó đã giúp cho người dân thông hiểu và tự nguyện rút đơn khiếu nại. Vì vậy, đã hạn chế phần nào việc ban hành quyết định giải quyết đơn khiếu nại của người dân. 2.2. Những tồn tại: Năm 2008 số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo tăng nhiều so với các năm trước (tổng số lượng đơn thư khiếu nại, tố cáo năm 2004 là 26 đơn, năm 2005 là 108 đơn, năm 2006 là 07 đơn, năm 2007 là 109 đơn và năm 2008 là 468 đơn), trong khi đó Thanh tra huyện với lực lượng thanh tra biên chế ít nên việc đôn đốc, hướng dẫn cơ sở giải quyết khiếu nại, tố cáo còn nhiều hạn chế, công tác thanh tra kinh tế - xã hội chưa thực hiện được nhiều trên địa bàn. Một số cuộc thanh tra kinh tế - xã hội, giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chưa bảo đảm thời gian quy định do cán bộ thanh tra quá ít trong khi cùng một lúc phải giải quyết nhiều vụ việc. Một số quy trình, thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa tuân thủ theo quy định của pháp luật, công tác thẩm tra, xác minh ở một số nội dung chưa được toàn diện, còn có những mặt kết luận chưa sâu. Về công tác tiếp dân duy trì chưa thường xuyên, nơi tiếp công dân chưa được bố trí đúng quy định, ở một số xã công tác tiếp dân còn hình thức, sổ sách đăng ký đơn thư chưa thật sự khoa học và chặt chẽ. Dẫn đến nhiều đơn thư bị thất lạc, hư hại, đơn thư vượt cấp, khiếu nại lâu dài, vẫn còn một số vụ việc giải quyết chưa triệt để, còn tồn động hoặc chưa thi hành quyết định giải quyết. Chế độ thông tin báo cáo từ xã lên huyện, từ huyện lên tỉnh và ngược lại nhiều lúc chưa kịp thời, chưa đúng thời gian quy định của pháp luật. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật khiếu nại, tố cáo tuy được chú trọng nhưng chưa được thường xuyên, sự phối kết hợp giữa các cơ quan trong huyện chưa đồng bộ, thiếu chặt chẽ. 2.3. Nguyên nhân: Đất nước ta trãi qua nhiều giai đoạn cách mạng, có nhiều vấn đề thuộc về lịch sử để lại, nhất là vấn đề về nhà cửa và đất đai. Qua các thời kỳ xây dựng, cải tạo mới, Nhà nước ta ít có những quy định gì khác so với trước đây nên các cơ quan chức năng thật sự lúng túng trong xử lý giải quyết những khiếu nại của người dân về những vấn đề tồn động thuộc lịch sử, trong khi đó các vụ việc khiếu kiện này lại bức xúc, có nhiều vụ việc rất gay gắt. Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước do nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng, mở rộng đô thị và các khu công nghiệp, một bộ phận nhân dân bị thu hồi đất để xây dựng các công trình công cộng, quỹ đất canh tác bị thu hẹp, công ăn việc làm vốn đã khó khăn nay một bộ phận người dân lại càng khó khăn hơn, dân số phát triển nhanh, cơ cấu việc làm chưa chuyển đổi kịp thời. Mặt khác do tác động mạnh mẽ của cơ chế thị trường, giá cả bất động sản ngày càng tăng là nguyên nhân dẫn đến người dân khiếu kiện gay gắt về công tác đền bù, giải toả, thu hồi đất. Trên địa bàn huyện Châu Đức, trong thời gian qua được sự quan tâm của tỉnh đã triển khai thực hiện nhiều dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên các chính sách về đền bù giải toả thu hồi đất xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng chưa sát với thực tế cuộc sống, chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ, chưa tạo điều kiện thuận lợi để ổn định cuộc sống của người bị thu hồi đất sản xuất, đã gây nhiều khó khăn cho việc xem xét, kết luận giải quyết khiếu kiện. Bên cạnh đó, một số bộ phận dân trí còn thấp nên chưa am hiểu pháp luật về khiếu nại, tố cáo dẫn đến việc khiếu nại, tố cáo vượt cấp hoặc khiếu nại, tố cáo sai. Luật Khiếu nại, tố cáo còn nhiều bất cập, nhất là quy định về thẩm quyền giải quyết, chưa có cơ chế để chấm dứt khiếu kiện, việc khiếu kiện chưa có điểm dừng, gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện. Mặt khác, Luật Khiếu nại, tố cáo còn có một số điểm mâu thuẫn với một số văn bản pháp luật khác nên hiệu quả giải quyết chưa cao. Pháp luật chưa có quy định để xử lý đối với những người đeo bám khiếu kiện dai dẳng, tập trung đông người tại trụ sở tiếp công dân và các cơ quan chức năng. Bên cạnh đó, Luật Khiếu nại, tố cáo và các Nghị định của Chính phủ có quy định về xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo sai, không đúng sự thật. Nhưng lại quy định không rõ ràng về biện pháp, hình thức xử lý người viết đơn sai sự thật hoặc cứ viết đơn gửi các cơ quan nhà nước để giải quyết được hay không cũng không sao, từ đó xảy ra tình trạng công dân cứ viết đơn gởi đi nhiều nơi bất kể nội dung đó thuộc thẩm quyền giải quyết của ai, làm cho các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương phải mất thời gian phân loại, xử lý. Một số kẻ xấu lợi dụng việc khiếu nại, tố cáo để kích động, xúi giục lôi kéo người khác. Một số người coi thường kỷ cương pháp luật, gây mất trật tự làm cho tình hình khiếu nại, tố cáo ngày càng phức tạp thêm. Trong khi đó chúng ta chưa có chế tài, một mặt để xử lý những người vô trách nhiệm vi phạm quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo, mặt khác để xử lý ngăn chặn hữu hiệu những trường hợp lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để gây rối, vi phạm pháp luật. Sự kết hợp giữa các ngành, các cấp chưa thật sự chặt chẽ trong quản lý cũng như trong công tác hoà giải ở cơ sở nên việc giải quyết khiếu nại, tố cáo đạt hiệu quả chưa cao. Một số xã trong huyện, cán bộ chưa thật sự coi trọng công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, do đó nhiều vụ việc đã kéo dài, giải quyết không dứt điểm, gây phiền hà cho người dân, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân vào chính quyền. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU 1. Những giải pháp chung: - Tăng cường xây dựng Nhà nước pháp quyền, pháp chế xã hội chủ nghĩa: Trong quá trình thực hiện các chức năng của Nhà nước, Nhà nước phải thường xuyên đặt ra các yêu cầu khách quan là phải hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật, điều đó liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Trong điều kiện đổi mới đất nước hiện nay đặc biệt khi gia nhập WTO, chúng ta phải xây dựng, phát triển và không ngừng hoàn thiện. Đồng thời phát huy quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân nhằm tập hợp trí tuệ của nhân dân xây dựng đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Thực hiện tốt những điều ấy sẽ là điều kiện quan trọng để quyền khiếu nại, tố cáo thật sự là quyền dân chủ của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp nước ta, hạn chế đến mức thấp nhất các phát sinh khiếu nại, tố cáo. - Cần phải nhận thức được tầm quan trọng của công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo: đó là các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể phải quan tâm đến công tác tiếp công dân, giải quyết đúng, kịp thời các đơn thư khiếu nại, tố cáo của dân, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ cương, ngăn ngừa và khắc phục tình trạng khiếu nại, tố cáo vượt cấp. Thường vụ các cấp uỷ đảng phải chỉ đạo công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, trực tiếp đối thoại với dân, kiểm tra đôn đốc các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo của dân. Trực tiếp chỉ đạo giải quyết những vụ việc phức tạp, kéo dài, khiếu nại gay gắt, đông người. - Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước: Nhà nước phải nâng cao hiệu lực quản lý để phù hợp với tình hình phát triển của đất nước nói riêng và toàn cầu hoá nói chung. Hiện nay tình trạng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu vẫn diễn ra ở nhiều nơi, do đó Nhà nước cần sửa đổi lề lối làm việc theo hướng dân chủ hoá và công khai, chống quan liêu, cửa quyền. Tiếp tục cải cách hành chính theo hướng rà soát loại bỏ những thủ tục phiền hà cho dân, thực hiện nghiêm quy chế dân chủ cơ sở, tăng cường trách nhiệm của các cơ quan hành chính nhà nước trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. - Xây dựng đời sống văn hoá và nâng cao dân trí cho nhân dân: phải xây dựng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, thực hiện tốt chương trình xã hội hoá giáo dục, văn hoá để nâng cao dân trí và xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm hạn chế tình hình khiếu nại, tố cáo và các đơn thư khiếu nại, tố cáo sai, vượt cấp. - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra để xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm pháp luật đồng thời biểu dương khen thưởng những cán bộ, công chức thực hiện hoàn thành công tác tốt. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật: phải thường xuyên tuyên truyền giáo dục pháp luật về khiếu nại, tố cáo để “dân biết”, “dân làm”, nâng cao hiểu biết, am hiểu về pháp luật của người dân. Tuyên truyền giáo dục pháp luật tốt sẽ nâng cao kiến thức pháp luật cho nhân dân thì người dân sẽ sống và làm việc theo pháp luật, hạn chế việc khiếu nại, tố cáo. - Đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức làm công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. 2. Những giải pháp cụ thể: - Thực hiện chính sách đền bù, giải phóng mặt bằng thoả đáng cho người dân, xây dựng khu tái định cư hợp lý trong các công trình, dự án, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của Nhà nước tại địa phương. - Cần có những quy định, xử lý nghiêm minh đối với vụ việc liên quan đến tranh chấp đất đai của người dân, đẩy mạnh công tác hoà giải giữa người dân với nhau và có sự phối hợp giải quyết giữa những cơ quan chức năng có liên quan trong việc xử lý tranh chấp, giải quyết khiếu nại, tố cáo. - Cần có cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo độc lập và nếu giao thẩm quyền cho cơ quan hành chính thì không cần Toà án tham gia giải quyết. - Thực hiện đều đặn công tác thống kê, tổng hợp, báo cáo, tham mưu giúp UBND huyện nắm bắt được tình hình khiếu nại, tố cáo diễn ra trên địa bàn và qua đó sắp xếp, bố trí việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo phức tạp của công dân. Mẫu hoá các loại văn bản chuyên môn, tạo điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo. - Thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo về pháp luật nhằm nâng cao hơn nữa việc nắm bắt pháp luật của cán bộ, công chức, đồng thời qua đó thảo luận để hoàn thiện những sai sót, những điểm không chặt chẽ trong luật để từ đó có những kiến nghị với cơ quan cấp trên kịp thời sửa chữa, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật Nhà nước. - Phân loại, xử lý hồ sơ khiếu nại, tố cáo cần chặt chẽ và khoa học, đồng thời nâng cao hơn nữa vai trò tham mưu của các thanh tra viên, thể hiện trách nhiệm và năng lực trong công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. 3. Kiến nghị: Để hạn chế nguyên nhân dẫn đến phát sinh khiếu nại, tố cáo cần phải hoàn thiện công tác tiếp dân và giải quyết tốt đơn thư khiếu nại, tố cáo. Nhưng để đạt được điều đó cần có sự tác động của các yếu tố khách quan, chủ quan, cần có sự phối hợp giữa các cơ quan hành chính nhà nước và nhân dân. Xin kiến nghị một số quan điểm về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trên địa bàn huyện Châu Đức như sau: - Giải quyết kịp thời, dứt điểm các vụ việc khiếu nại, tố cáo còn tồn động, các vụ việc kéo dài, vượt cấp; thực hiện tốt công tác hoà giải ở cơ sở. - Tăng cường, nâng cao năng lực trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, am hiểu phong tục tập quán của huyện nhà cho cán bộ tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo: Vì cán bộ tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo không chỉ có những nghiệp vụ về chuyên môn, về pháp luật, cái tâm đối với giải quyết công việc mà còn phải am hiểu những phong tục tập quán nơi mình làm việc. Vì vậy, đòi hỏi người cán bộ tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo luôn phải trau dồi kiến thức, đồng thời phải bám sát địa bàn, sát dân mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ. - Nghiên cứu từng bước ứng dụng hệ thống quản lý ISO 9001:2000 trong công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. Ứng dụng khoa học công nghệ thông tin vào hoạt động lưu trữ và quản lý hồ sơ, đơn thư khiếu nại, tố cáo. Sử dụng thành thạo phần mềm tiếp dân và các phần mềm chuyên dụng trong ngành Thanh tra, trong công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo. - Lập sổ theo dõi, cập nhật đơn thư và bố trí cán bộ có trách nhiệm ghi chép thường xuyên, đầy đủ. Cuốn sổ này phải được xây dựng một cách khoa học và thể hiện đầy đủ các tiêu thức phản ánh chính xác tình hình tiếp nhận và xử lý đơn thư. - Kiến nghị UBND huyện quan tâm trong việc tăng biên chế và tạo điều kiện làm việc cho hoạt động của Thanh tra huyện, vì sau khi Pháp lệnh phòng chống tham nhũng có hiệu lực thi hành, Thanh tra kiêm thêm chức năng là cơ quan thường trực phòng chống tham nhũng. Với lực lượng cán bộ thanh tra ít, điều kiện làm việc như hiện nay thì việc thực thi nhiệm vụ gặp rất nhiều khó khăn. - Những vụ việc khiếu nại, tố cáo mà Chủ tịch UBND huyện đã giải quyết nhưng những người khiếu nại, tố cáo không chấp nhận mà vẫn tiếp tục khiếu nại, tố cáo. Kiến nghị Thanh tra tỉnh, Ban tiếp công dân tỉnh và các ban ngành liên quan phối hợp với UBND huyện để giải quyết dứt điểm, tránh hiện tượng đơn thư chuyển nhiều lần gây phiền hà cho nhân dân. - Kiến nghị thành lập cơ quan tài phán hành chính vì việc giải quyết khiếu nại, tố cáo nên có sự độc lập giống với cơ quan Tư pháp, để dễ dàng trong việc đề xuất và chủ động hơn khi tiến hành thụ lý giải quyết các vụ việc nổi cộm. - Các tổ chức đoàn thể quần chúng cần phải phát huy tính dân chủ vốn có của mình trong việc vận động các thành viên trong gia đình, nhân dân sống và làm việc theo pháp luật. Giám sát cơ quan nhà nước trong việc tiếp dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo đồng thời đưa ra những kiến nghị của mình trong công tác này. KẾT LUẬN …“Bảy xin Hiến pháp ban hành Trăm điều phải có thần linh Pháp quyền” Đó là ước vọng của Nguyễn Ái Quốc từ những năm 20 của thế kỷ trước về một Nhà nước Việt Nam độc lập, dân chủ, điều hành đất nước bằng pháp luật, về một xã hội mà trong đó mọi hoạt động đều tuân thủ theo pháp luật. Cũng chính vì lẽ đó mà Người đã không mệt mỏi phấn đấu dựng xây sau khi dẫn dắt nhân dân ta tiến hành Cách mạng tháng tám thành công năm 1945, bởi Người hiểu rõ hơn ai hết vai trò, giá trị của pháp luật đối với đời sống mỗi người dân và sự phát triển của đất nước. Pháp luật vừa là phương tiện để thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, vừa là hình thức biểu hiện của chính trị, ghi nhận yêu cầu, quan điểm chính trị của giai cấp cầm quyền. Để quản lý xã hội, cùng với các phương tiện khác, Nhà nước sử dụng pháp luật như là một phương tiện hữu hiệu nhất mà không một phương tiện nào có thể thay thế được. Không có pháp luật, xã hội sẽ không có trật tự, ổn định, không thể tồn tại và phát triển được. Quản lý xã hội bằng pháp luật nghĩa là Nhà nước ban hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật trên quy mô toàn xã hội, đưa pháp luật vào đời sống của từng người dân và của toàn xã hội. Muốn người dân thực hiện đúng pháp luật thì phải làm cho dân biết pháp luật, biết quyền lợi và nghĩa vụ của mình. Do đó, Nhà nước phải công bố công khai, kịp thời các văn bản quy phạm pháp luật tiến hành nhiều biện pháp thông tin, phổ biến, giáo dục pháp luật thông qua các phương tiện báo, đài, truyền thông…; đưa giáo dục pháp luật vào nhà trường, xây dựng tủ sách pháp luật ở xã, phường, thị trấn, ở các cơ quan …để “dân biết” và “dân làm” theo pháp luật. Trong bối cảnh cả nước đang bước vào thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá hiện nay, cùng với những biến chuyển lớn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, đòi hỏi bộ máy quản lý hành chính nhà nước phải không ngừng nâng cao vai trò của mình trong công tác quản lý nhà nước và nhất là trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Việc Quốc hội ban hành Luật Khiếu nại, tố cáo và ngày càng hoàn thiện hệ thống pháp luật nhà nước là những bước đi đánh dấu việc thể chế hoá đường lối, quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Đánh dấu một bước phát triển quan trọng trong việc thể chế hoá quyền khiếu nại, tố cáo, một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp ghi nhận. Quyền khiếu nại, tố cáo của công dân là quyền dân chủ quan trọng trong đời sống của công dân, thể hiện mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân. Nhà nước đảm bảo để công dân thực hiện các quyền dân chủ của mình, công dân có quyền sử dụng và có nghĩa vụ thực hiện các quyền dân chủ này một cách tích cực. Quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo là cơ sở pháp lý để công dân thực hiện một cách có hiệu quả quyền công dân của mình trong một xã hội dân chủ, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ngăn chặn những việc làm trái pháp luật, xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức và công dân. Thông qua việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, quyền công dân được bảo đảm, bộ máy nhà nước ngày càng được củng cố vững mạnh để thực sự là bộ máy nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đổi mới và nâng cao hiệu quả công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, không những chỉ có ý nghĩa tôn trọng và phát huy quyền dân chủ của nhân dân mà còn có nhiều ý nghĩa khác tác động chung đến quá trình phát triển của xã hội, góp phần vào việc ổn định tình hình chính trị và trật tự an toàn xã hội, tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo của cơ quan nhà nước, thúc đẩy quá trình đổi mới của đất nước, tạo được lòng tin của quần chúng nhân dân với sự lãnh đạo của Đảng và của Nhà nước, thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa và hoàn thành mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VI, VII, VIII, IX, X. 2. Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 11/12/1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2004, năm 2005. 3. Nghị định 136/2006/NĐ-CP ban hành ngày 14/11/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo. 4. Nghị định 89/CP ngày 07/8/1997 của Chính phủ ban hành Quy chế tiếp công dân. 5. Luật Thanh tra có hiệu lực thi hành ngày 01/10/2004. 6. Giáo trình “Tiếp công dân và xử lý đơn thư” của NXB Hà Nội – 2004. 7. Giáo trình “Tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tình hình mới” của NXB Hà Nội – 2006. 8. Giáo trình “Quy trình, nghiệp vụ tiếp công dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại hành chính” của NXB Hà Nội – 2007. 9. Báo cáo tình hình tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thanh tra huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ năm 2004 đến quý I năm 2009.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dock6_bc_cong tac giai quyet khieu nai to cao_chau duc.doc