Tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận Xuất khẩu lao động: 1
PHẦN 1: LỜI NÓI ĐẦU
Theo kết kết quả điều tra Lao động- Việc làm , tại thời điểm 1/7/2003 lực
lượng lao động cả nước(gồm những người đủ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt
động kinh tế) có hơn 42.128 ngàn người,trong đó khu vực thành thị chiếm
24,18%,khu vực nông thôn chiếm 75,82%.So với thời điểm 1/7/85%.Bên
cạnh đó,nhiều cuộc điều tra khác cũng cho thấy nguồn nhân lực ở Việt Nam
có quy mô lớn đã , đang và sẽ tạo ra cung về nhân lực với số lượng
nhiều.Hằng năm số lượng người cần có việc làm tăng thêm hơn 1,5 triệu
người .Trong khi đó,với trình độ phát triển kinh tế và cơ cấu kinh tế như
hiện nay ,cầu về nhân lực phản ánh một cơ cấu lạc hậu,đại bộ phận nguồn
nhân lực còn nằm trong khu vực nông nghiệp.Chính sự bất cân đối này đã
đặt ra vấn đề là phải giải quyết việc làm cho người lao động.
Vấn đề giải quyết việc làm không chỉ được thực hiện bằng thị trường
trong nước mà còn phải chú trọng phát triển cả thị trường ngoài biên
giới,chính vì vậy vấn đề xuất khẩu ...
46 trang |
Chia sẻ: haohao | Lượt xem: 1100 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận Xuất khẩu lao động, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
PHẦN 1: LỜI NÓI ĐẦU
Theo kết kết quả điều tra Lao động- Việc làm , tại thời điểm 1/7/2003 lực
lượng lao động cả nước(gồm những người đủ 15 tuổi trở lên tham gia hoạt
động kinh tế) có hơn 42.128 ngàn người,trong đó khu vực thành thị chiếm
24,18%,khu vực nông thôn chiếm 75,82%.So với thời điểm 1/7/85%.Bên
cạnh đó,nhiều cuộc điều tra khác cũng cho thấy nguồn nhân lực ở Việt Nam
có quy mô lớn đã , đang và sẽ tạo ra cung về nhân lực với số lượng
nhiều.Hằng năm số lượng người cần có việc làm tăng thêm hơn 1,5 triệu
người .Trong khi đó,với trình độ phát triển kinh tế và cơ cấu kinh tế như
hiện nay ,cầu về nhân lực phản ánh một cơ cấu lạc hậu,đại bộ phận nguồn
nhân lực còn nằm trong khu vực nông nghiệp.Chính sự bất cân đối này đã
đặt ra vấn đề là phải giải quyết việc làm cho người lao động.
Vấn đề giải quyết việc làm không chỉ được thực hiện bằng thị trường
trong nước mà còn phải chú trọng phát triển cả thị trường ngoài biên
giới,chính vì vậy vấn đề xuất khẩu lao động (XKLĐ) hiện nay đang được
quan tâm rất nhiều.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động khá mới ở nước ta và chỉ phát triển
mạnh mẽ nhất trong những năm gần đây.Mặt khác hoạt động này ở nước ta
cũng đang bộc lộ rất nhiều khiếm khuyết.Chính vì vậy ,với mục đích tìm
hiểu thực trạng để đưa ra giải pháp nhằm pháy huy hiệu quả hơn,em quyết
định chọn đề tài về hoạt động XKLĐ để nghiên cứu,và lấy Nam Định làm
thí điểm cho việc nghiên cứu để có thể nhìn nhận một cách cụ thể nhất trong
việc thực hiện hoạt động này.
Mặc dù đã có cố gắng trong việc nghiên cứu,song chắc chắn bản thảo này
vẫn còn nhiều thiếu sót.Em rất mong được thầy xem xét và chỉ bảo để đề án
2
của em được hoàn chỉnh nhất trong bản chính sắp tới.Em xin chân thành
cảm ơn thầy.
PHẦN 2 : NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lí luận
I. Xuất khẩu lao động
1.Khái niệm:
Xuất khẩu lao động được hiểu là việc đưa lao động và chuyên gia Việt
Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (gọi tắt là XKLĐ) .Đây là một
hoạt động kinh tế – xã hội của Nhà nước nhằm góp phần phát triển nguồn
nhân lực,giải quyết việc làm,tăng thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho
người lao động,tăng nguồn thu nhập ngoại tệ cho đất nước,đồng thời tăng
cường mối quan hệ hợp tác giữa nước ta với các nước trên thế giới.
Nhà nước ta cũng thể hiện sự quan tâm đối với hoạt động này thông qua
việc khuyến khích các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân tìm kiếm và
mở rộng thị trường lao động nhằm tạo việc làm ở nước ngoài cho người lao
động Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp
luật nước sở tại và điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập.
Đồng thời Đảng và Nhà nước còn thể hiện sự quan tâm cụ thể trong việc
chỉ đạo, thu hút được sự quan tâm của các ngành, các cấp và các đoàn thể
cũng như gia đình và bản thân người lao động trong hoạt động XKLĐ.
2.Các hình thức XKLĐ:
Điều 134a – Bộ luật lao động đã có quy định, XKLĐ có thể được thực
hiện thông qua 4 hình thức :
Một là, thông qua cung ứng lao động theo các hợp đồng kí kết với bên
nước ngoài.
Hai là, thông qua việc đưa lao động đi làm việc theo hợp đồng nhận
thầu, khoán công trình ở nước ngoài.
3
Ba là, thông qua việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo các
dự án đầu tư ở nước ngoài.
Bốn là, các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
Bộ luật lao động cũng có quy định đối với những doanh nghiệp được phép
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, bao gồm:
Doanh nghiệp có giấy phép hoạt động XKLĐ.
Doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, nhận khoán công trình ở nước
ngoài có sử dụng lao động Việt Nam.
Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài có sử dụng lao động Việt
Nam.
Tất cả các doanh nghiệp trên muốn XKLĐ thì phải được Cục quản lý lao
động Nhà nước cấp giấy phép. Hiện nay trong cả nước ta có 154 doanh
nghiệp có giấy phép hoạt động XKLĐ trong đó 16 doanh nghiệp chuyên
doanh XKLĐ, 134 doanh nghiệp (chiếm 87%) doanh nghiệp được bổ sung
chức năng XKLĐ,còn lại là doanh nghiệp tư nhân tham gia XKLĐ,trong số
154 doanh nghiệp này thì hơn 25% doanh nghiệp có giấy phép lao động
được XKLĐ và tu nghiệp sinh tại Nhật và gần 20% doanh nghiệp có giấy
phép tuyển lao động sang Hàn Quốc
II. Lợi ích và hạn chế của việc XKLĐ:
a.Lợi ích của việc XKLĐ :
XKLĐ thời gian qua cũng mang lại hiệu quả kinh tế đáng khích lệ, góp
phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống cho người lao động và tăng
nguồn thu ngoại tệ cho đất nước
4
Bảng 1 : Kết quả hoạt động XKLĐ giai đoạn 1991-1999
Năm Số lao động XK
(người)
Số ngoại tệ thu
về(1.000 USD)
1991 1.020 2.500
1992 810 6.800
1993 3.960 15.800
1994 9.230 43.100
1995 10.050 77.900
1996 12.660 100.800
1997 18.470 129.200
1998 12.240 148.300
1999 20.700 150.800
2002 46.122 1.200.000
Tổng cộng 136.622 1.875.200
( Chỉ tính số thu ngoại tệ qua các tổ chức lao động đưa đi)
Riêng hai năm 1996-1997, Việt Nam có khoảng 50.000 lao động đang
làm việc ở nước ngoài đã gửi về nước 350 triệu USD. Nếu tính cả số lao
động của nước ta đi theo các hình thức khác nhau đang làm việc ở nước
ngoài thì con số lao động vào khoảng 250.000, thu nhập hàng năm lên tới
khoảng 1 tỷ USD - đây là con số mà chỉ ít ngành sản xuất đạt được. Doanh
thu từ XKLĐ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của những đơn vị
5
hoạt động ở lĩnh vực này. Theo báo cáo của một số doanh nghiệp thì tỷ suất
lợi nhuận bình quân trên doanh thu của hoạt động XKLĐ đạt khoảng 15 –
20%. Đối với Nhà nước, mức đầu tư chi phí quản lý nhà nước bình quân cho
một lao động mỗi năm khoảng 30 USD và thu về cho ngân sách khoảng 36,7
USD - đây là một khoản lợi lớn mà chưa có suất đầu tư nào có được. Tính
chung người lao động đi làm ở nước ngoài bình quân thu nhập bằng 10 – 15
lần so với thu nhập của lao động trong nước. Do vậy, XKLĐ không những
làm tăng thu nhập quốc dân mà còn là cơ hội tốt để người lao động tích lũy
vốn, cải thiện đời sống và điều kiện làm việc của bản thân và gia đình họ.
Bên cạnh đó, XKLĐ thời gian qua cũng đã tạo việc làm cho một bộ phận
người lao động, góp phần tích cực vào việc giải quyết việc làm cho xã hội.
Bình quân trong 10 năm 1980 – 1990 theo hiệp định Chính phủ, hàng năm
Việt Nam đưa đi được khoảng 26.000 lao động, chiếm khoảng gần 3% lực
lượng lao động tăng hàng năm. Từ năm 2001 đến nay đã đưa đi được trên
157.000 người, nghĩa là đã giải quyết việc làm tạm thời cho họ cùng với
hàng ngàn người khác qua các tổ chức kinh tế làm dịch vụ XKLĐ.
Mặt khác, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài giúp Nhà nước giảm
được khoản chi phí đầu tư đào tạo nghề và tạo chỗ làm việc mới cho người
lao động. Ngoài ra, thông qua lao động ở nước ngoài, người lao động đã
nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật,ngoại ngữ, tiếp thu được những công
nghệ và tác phong sản xuất công nghiệp tiên tiến, do đó từng bước đáp ứng
các yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khi họ trở
về.
Như vậy, hoạt động XKLĐ nước ta đã đem lại lợi ích kinh tế, xã hội
không nhỏ, góp phần trực tiếp và gián tiếp vào việc tăng tích lũy vốn cho
công nghiệp hóa.
b.Hạn chế trong công tác XKLĐ :
6
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, người sử dụng lao động
ngày càng có điều kiện để đưa ra nhiều đòi hỏi khắt khe hơn. Công nhân
không những phải có sức khỏe tốt, có ý thức phục tùng kỷ luật cao, mà còn
phải sử dụng được ngôn ngữ của nước tiếp nhận. Đây là điểm yếu của người
lao động Việt Nam. Lao động Việt Nam nhiều khi chưa đáp ứng được đầy
đủ các yêu cầu mà thị trường đặt ra như ngoại ngữ, tay nghề, sức khỏe và
đặc biệt là ý thức kỷ luật, tỷ lệ bỏ trốn hiện tại ở Hàn Quốc là 59,25%, Nhật
Bản là 27,09%, Đài Loan 7%. Tại thị trường Malaysia, nhiều lao động Việt
Nam đã vi phạm kỷ luật như: uống rượu, đánh nhau và đình công.
Bên cạnh đó, đa số người Việt Nam đi lao động ở nước ngoài là nông dân,
tiếp thu ngoại ngữ chậm, lại được đào tạo trong thời gian quá ngắn, vì vậy
vốn kiến thức mà họ được trang bị cũng như học hỏi được là rất ít và không
đồng bộ. Ưu điểm của số lao động này là có sức khỏe, nhưng họ lại không
có nghề nghiệp chuyên môn và chưa quen với tác phong công nghiệp trong
nền sản xuất của nước bạn.
Mặt khác, hệ thống đào tạo của nước ta chưa chú trọng về việc cho người
lao động tìm hiểu cũng như có kiến thức về văn hóa, chính trị, luật pháp
cũng như những đặc trưng của nước sở tại mà họ sẽ lao động, vì vậy tạo cho
người lao động sự bỡ ngỡ khi làm việc trong môi trường hoàn toàn mới và
xa lạ này. Ngoài ra, công tác XKLĐ còn bị hạn chế trong quá trình tiến
hành, mặc dù Nhà nước đã có nhiều chủ trương khuyến khích, nhưng người
lao động vẫn là người phải bỏ vốn như là khoản chi phí ban đầu cho công
việc mới của họ. Khoản phí ban đầu này là quá lớn đối với người lao động,
đặc biệt là đối với lao động nông thôn không có việc làm phải đi XKLĐ.
Như vậy, bên cạnh những lợi ích to lớn mà XKLĐ mang lại, hiện nay
công tác XKLĐ vẫn đang còn nhiều hạn chế cần được khắc phục để ngày
càng có thể hoàn thiện hơn công tác này.
7
III. Quan điểm, chính sách và vấn đề quản lý XKLĐ:
1.Quan điểm XKLĐ:
Đảng và Nhà nước ta luôn cho rằng, phát triển hợp tác quốc tế trong việc
tổ chức đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài là một hoạt động kinh tế - xã hội nhằm góp phần phát triển nguồn
nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho
người lao động, tăng nguồn thu cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác
với các nước trên thế giới. Song song với quan điểm này, Chính phủ cũng đã
ban hành nhiều văn bản quy định cụ thể về hoạt động XKLĐ như bộ luật lao
động, nghị định, thông tư hay các công văn hướng dẫn thi hành…
Quan điểm về XKLĐ cũng đã được thủ tướng Phan Văn Khải khẳng định
trong một hội nghị về XKLĐ quy tụ hơn 350 đại biểu của các bộ, các ngành
trên cả nước và 5 đại sứ tại các nước có người Việt Nam ,rằng “XKLĐ và
chuyên gia là một chiến lược quan trọng trước mắt và lâu dài”.
Qua những quan điểm như trên cho thấy rằng, mặc dù đây là một hoạt
động còn rất non trẻ, nhưng trong tương lai với sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước cùng các cấp chính quyền ,hoạt động này sẽ mang lại nhiều thành
tựu to lớn, góp phần đáng kể trong công cuộc công nghiệp hóa của đất nước.
2.Chính sách XKLĐ:
Nhằm đưa những quan điểm trên vào thực tiễn, Chính phủ đã sử dụng rất
nhiều công cụ cũng như chính sách khuyến khích nhằm tạo cho hoạt động
XKLĐ những con đường phát triển thuận lợi nhất. Mới đây, thông qua nghị
định 81/2003/NĐ-CP, Chính phủ đã có quyết định về việc thành lập quỹ hỗ
trợ XKLĐ, theo đó quỹ này sẽ hỗ trợ chi phí cho việc phát triển thị trường
lao động mới, cho việc đào tạo người lao động , việc hỗ trợ người lao động
và doanh nghiệp giải quyết rủi ro cũng như việc thưởng cho các cơ quan,
đơn vị có thành tích trong hoạt động XKLĐ. Như vậy, quỹ này ra đời sẽ góp
8
phần phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh
tranh của lao động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, đồng thời hỗ
trợ rủi ro cho người lao động và doanh nghiệp trong hoạt động này.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đã có chính sách hỗ trợ cho vay đối với
người lao động đi xuất khẩu, theo đó người lao động đi XKLĐ không thuộc
diện chính sách được vay tối đa là 20 triệu đồng mà không yêu cầu thế chấp
tài sản, điều này đã tháo gỡ rất nhiều khó khăn cho người lao động, nhất là
đối với những lao động nghèo ở nông thôn – lực lượng chính của XKLĐ, mà
trước đây không có tiền để đóng góp chi phí XKLĐ hoặc không có tài sản để
thế chấp. Đồng thời với chính sách này, hồ sơ thủ tục xin đi XKLĐ cũng đã
được giảm bớt và trở nên đơn giản thuận lợi hơn.
Mặc dù chủ trương chính sách đã được ban hành tương đối đồng bộ và
từng bước hoàn thiện, nhưng vẫn còn chậm để triển khai vào cuộc sống, vẫn
còn tình trạng một số ngành, địa phương đứng ngoài hoạt động XKLĐ hoặc
có tham gia nhưng thiếu triệt để. Ở một số địa phương, cán bộ còn quan liêu,
cửa quyền và sách nhiễu dân trong việc giải quyết thủ tục đi XKLĐ. Bên
cạnh đó, còn nhiều khoản mục khác cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước
nhưng vẫn còn vắng bóng. Ví dụ như chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối
với vấn đề tạo lập , giữ vững và phát triển thị trường XKLĐ, vấn đề tư pháp
quốc tế, vấn đề bảo hộ họat động XKLĐ khi tham gia vào thị trường mới …
3.Quản lý hoạt động XKLĐ:
Bộ lao động – thương binh và xã hội là cơ quan trực tiếp giúp Chính phủ
quản lý hoạt động XKLĐ. Tùy từng trường hợp mà một số cơ quan khác
như Bộ tài chính, Bộ công an, Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ thương mại, Ngân
hang Nhà nước, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cũng như các
đoàn thể liên quan đều chịu trách nhiệm liên đới trong việc quản lý hoạt
động này.
9
Nhằm thực hiện một cách có hiệu quả nhất, công tác quản lý đã được
tăng cường nhằm hạn chế những vi phạm của các doanh nghiệp XKLĐ cũng
như góp phần tích cực ngăn ngừa các hành vi lừa đảo của các tổ chức cá
nhân ngoài xã hội. Trên thực tế, các cơ quan chức năng đã tiến hành 140
cuộc kiểm tra và 37 cuộc thanh tra đối với các doanh nghiệp XKLĐ trong đó
thu hồi giấy phép của 8 doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, đình chỉ có
thời hạn 10 doanh nghiệp do có vi phạm đặc biệt là vi phạm trong buông
lỏng quản lý hoặc có tỷ lệ lao động bỏ trốn cao , buộc ngưng hoạt động vô
thời hạn đối với 7 đơn vị đóng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Việc xử
lý các hành vi vi phạm của doanh nghiệp và cá nhân người lao động đã từng
bước góp phần lập lại kỷ cương trong hoạt động XKLĐ, ổn định và giữ
vững uy tín cho doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế.
Mặc dù vậy, công tác quản lý lao động xuất khẩu vẫn còn nhiều yếu kém,
đội ngữ cán bộ mỏng, năng lực chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh phát
triển thị trường XKLĐ, không thể bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường XKLĐ cũng như xử phạt
nghiêm minh những hành vi vi phạm của doanh nghiệp và người lao động.
Hiện nay mới chỉ có 6 ban quản lý lao động ở nước ngoài trong khi thị
trường XKLĐ Việt Nam đã trải rộng trên hơn 40 nước, dẫn đến tình trạng
quá tải trong công tác điều hành, nhất là điều hành từng thị trường. Mặt
khác, đối với từng doanh nghiệp , việc quản lý lao động xuất khẩu chỉ giới
hạn trong phạm vi hẹp ở các vấn đề như: quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp
và người lao động khi ký kết hợp đồng XKLĐ, giữa người lao động Việt
Nam với chủ sử dụng lao động ở nước ngoài hoặc người môi giới, còn
những quan hệ khác thì không thể quản lý nổi.
IV.Chất lượng của các doanh nghiệp và các trung tâm làm công tác XKLĐ:
10
Bước đầu phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế để phát triển thị
trường XKLĐ, trên thị trường đã hình thành được đội ngũ doanh nghiệp và
các trung tâm làm công tác XKLĐ tương đối mạnh mẽ về cơ sở vật chất, về
cán bộ, năng lực đào tạo lao động. Đã hình thành được 154 doanh nghiệp có
giấy phép XKLĐ trong đó chiếm gần 90% là doanh nghiệp được bổ sung
chức năng XKLĐ. Nhiều doanh nghiệp đã tích cực, chủ động trong việc tìm
kiếm thị trường ngoài nước , phối kết hợp với các cơ quan chức năng, co sở
đào tạo nghề để trang bị kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp, phong
tục tập quán, ngoại ngữ cho người lao động. Xuất hiện ngày càng nhiều
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có uy tín đối với đối tác nước ngoài, rất
thuận lợi cho việc phát triển thị trường lao động. Kết quả trong 3 năm từ
2001 – 2003 đã có:
1 doanh nghiệp xuất khẩu 10.000 lao động;
4 doanh nghiệp xuất khẩu trên 5.000 lao động;
37 doanh nghiệp xuất khẩu trên 1.000 lao động
Bên cạnh những kết quả này, chất lượng của các doanh nghiệp XKLĐ vẫn
còn nhiều bất cập. Trên thực tế, đội ngũ hoạt động trong lĩnh vực này vẫn
còn mỏng, yếu về kinh nghiệm, thiếu về cơ sở vật chất, tiềm lực tài chính ,
vì vậy khả năng khai thác và phát triển thị trường còn hạn chế . Đã có nhiều
doanh nghiệp, thậm chí cả bản thân người lao động tích cực khai thác thông
tin, tìm hiểu thị trường lao động ngoài nước, song như vậy vẫn là chưa đủ để
đảm bảo khả năng phát triển thị trường.
Song song với những khó khăn này, chất lượng của các trung tâm dạy
nghề cũng có nhiều vấn đề đáng bàn, các cơ sở đào tạo nghề đã hiếm, lại
nghèo nàn và lạc hậu về cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên mỏng và yếu về
chuyên môn nghiệp vụ, phần lớn những nghề mà trường đào tạo cho học
viên là những nghề trường có khả năng đào tạo chứ chưa dựa vào nhu cầu
11
thực tiễn của từng thị trường lao động ngoài nước . Mặt khác, việc đào tạo
nghề chỉ nặng về việc đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ mà chưa đi sâu, đi sát
dể lồng ghép tốt giữa đào tạo chuyên môn nghiệp vụ với ngoại ngữ, giáo dục
pháp luật, phong tục tập quán của nước nhập khẩu lao động.
Như vậy, vấn đề cần quan tâm của các doanh nghiệp cũng như của các
trung tâm làm công tác XKLĐ là không chỉ nâng cao số lượng lao động xuất
khẩu , mà còn phải làm thế nào để cung lao động xuất khẩu vượt ra khỏi tầm
lao động giản đơn, không có nghề, vươn tới lao động xuất khẩu có trình độ
tay nghề cao, đáp ứng yêu cầu về cơ cấu, chất lượng nghề đào tạo trên thị
trường lao động quốc tế.
Chương 2: Thực trạng XKLĐ tỉnh Nam Định
I.Tình hình XKLĐ Việt Nam những năm qua:
Từ năm 1991 đến nay, nước ta thực hiện việc XKLĐ và chuyên gia theo
cơ chế thị trường, đã từng bước chuyển hướng đưa lao động chủ yếu sang
các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sang các thị trường mới, và đến nay đã
có chỗ đứng vững chắc tại các thị trường lao động chủ yếu trên thế giới
Hiện nay đã có 340.000 lao động và chuyên gia Việt Nam đang làm việc
tại khoảng 40 nước và vùng lãnh thổ, hàng năm gửi về nước khoảng 1,5 tỷ
USD
Biểu 2: Số lượng lao động xuất khẩu giai đoạn 1998 – nay
Năm Số LĐ xuất khẩu
(người)
So với kế
hoạch(%)
So với năm trước
(%)
10
Ta c
Đ
nhữn
lao đ
chuy
Bê
được
chuy
ngoà
hẹp
chế
việc
10
20
30
40
50
60
70
80
1998
1999
2000
2001
2002
2003
tháng/200
ó thể biểu
ặc biệt là t
g bước tiế
ộng và ch
ên gia đưa
n cạnh đó
nâng lên
ên môn, n
i nước. D
trong các
độ chính t
ở 40 nướ
0
000
000
000
000
000
000
000
000
1998 199
4
diễn số liệ
ừ năm 20
n vượt bậ
uyên gia đ
đi được t
, chất lượ
, ngày càn
goại ngữ,
o vậy, hiệ
nước SNG
rị - xã hội
c, vùng lã
9 2000 2001
12240
20700
25210
31186
46122
75000
67000
u trên bằn
01 đến na
c. Trong 3
i làm việc
rong 10 nă
ng nguồn
g có thêm
kiến thức
n nay thị
, châu Ph
. Lao độn
nh thổ, v
2002 2003 20
12
g biểu đồ s
y, hoạt độ
năm qua,
ở nước ng
m trước đ
lao động đ
nhiều lao
luật pháp
trường XK
i, mà đượ
g xuất kh
ới thị phầ
04
89
125
110
100,5
115
150
134
au:
ng XKLĐ
ta đã đưa
oài, gấp 1
ó ( 121.75
ược xuất
động đượ
, phong t
LĐ của n
c mở rộng
ẩu của nướ
n ngày cà
1
1
1
1
và chuyê
đi được tr
,3 lần số l
2 người)
khẩu cũng
c đào tạo
ục tập quá
ước ta kh
sang các
c ta đã v
ng tăng, t
66,2
69,12
121,7
123,7
47,87
62,61
31,37
n gia đã c
ên 157.00
ao động v
từng bướ
sâu hơn v
n trong v
ông chỉ b
nước khá
à đang làm
rải rộng từ
ó
0
à
c
ề
à
ó
c
13
Đông Bắc Á, Đông Nam Á, khu vực Trung Đông tới nam Thái Bình Dương
với ngày càng nhiều các hình thức XKLĐ đa dạng, tạo điều kiện thuận lợi
cho lao động Việt Nam thâm nhập thị trường mới và giữ vững thị trường
truyền thống.
II.Giới thiệu chung về Nam Định:
1.Điều kiện tự nhiên:
Nam Định là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng ven biển, ở phía nam châu
thổ sông Hồng, phía Bắc giáp tỉnh Thái Bình và Hà Nam, phía Tây và Tây
Nam giáp Ninh Bình, phía Đông và Nam giáp biển Đông. Trung tâm kinh
tế, chính trị, văn hóa của tỉnh là thành phố Nam Định, cách Hà Nội 90 km.
Diện tích tự nhiên của tỉnh là 1669,36 km2, dân số (2004) là 1916405
người, mật độ dân số của tỉnh là 1148 người/km2. Nam Định là tỉnh có bờ
biển dài 72 km, nối tiếp với 2 cửa biển và hai dòng sông lớn là sông Hồng
và sông Đáy, vì vậy Nam Định có tầm quan trọng về quân sự, kinh tế,
chính trị, văn hóa và du lịch.
Về địa hình, chủ yếu là vùng đồng bằng chiêm trũng, vùng đồng bằng
ven biển, bãi bồi cát lượn sóng. Ngoài ra còn có vùng đồi núi và nửa đồi
núi. Tỉnh có 3 hệ thống sông lớn là sông Hồng, sông Đáy, sông Ninh Cơ và
nhiều sông nhỏ khác giúp cho giao thông đường thủy rất thuận lợi. Bên
cạnh đó, giao thông đường bộ, đường sắt cũng tương đối phát triển.
Nam Định có khí hậu nhiệt đới chia thành hai mùa: mùa khô từ tháng
11 năm trước đến tháng 4 năm sau, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10.
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 230 C.
Đất đai ở đây có độ phì nhiêu cao thuận lợi cho việc phát triển nông
nghiệp nhất là việc trồng cây lương thực. Dọc bờ biển có tới 5 cửa sông, có
rất nhiều bãi cá lớn, có 2 cảng lớn là cảng sông Nam Định và cảng biển Hải
14
Thịnh vừa thuận lợi cho kinh tế biển, nuôi trồng, đánh bắt hải sản, đồng
thời có giá trị du lịch lớn.
Về quy mô hành chính, Nam Định có 1 thành phố trực thuộc tỉnh, 9
huyện bao gồm 229 xã, 15 phường và 9 thị trấn.
2.Thực trạng lao động ở Nam Định:
2.1.Quy mô lực lượng lao động:
Kết quả điều tra lao động việc làm giai đoạn 1997- 2000 phản ánh rõ xu
hướng tăng về số tuyệt đối của lực lượng lao động ở tỉnh Nam Định cũng
như khu vực đồng bằng sông Hồng và cả nước.
Biểu 3: Quy mô và tỷ trọng của lực lượng lao động
1997 1999
NĐ ĐBSH Cả
nước
NĐ ĐBSH Cả
nước
-Lực lượng lao động
(1000 người)
-Tỷ lệ trong tổng DS từ
15 tuổi trở lên (%)
982
74,74
7.432
73,3
36.296
72,31
1.006
73,1
7.735
72,39
37.783
71,21
Mặc dù tăng về số tuyệt đối nhưng tỷ lệ lực lượng lao động trong tổng
dân số từ đủ 15 tuổi trở lên lại có xu hướng giảm, bình quân mỗi năm giảm
khoảng 1%. So với vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước thì mức giảm
trên là khá cao, song tỷ lệ trên của tỉnh vẫn là lớn hơn cả. Điều này cho
thấy hiện nay Nam Định vẫn còn duy trì được một lực lượng lao động rất
dồi dào, sẵn sàng phuc vụ sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh nhà.
2.2.Cơ cấu của lực lượng lao động:
Trước hết ta xét cơ cấu của toàn bộ dân số từ đủ 15 tuổi trở lên. Theo
điều tra cho thấy, dân số từ đủ 15 tuổi trở lên tăng dần, điều này có nghĩa là
15
hàng năm số người bước vào độ tuổi lao động vẫn đang tăng lên ( xem biểu
4).
Với tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 2,57% thì hàng năm có gần 40
nghìn người bước vào độ tuổi lao động, trong đó tốc độ tăng của nữ lớn hơn
nam chia theo giới, và nông thôn lớn hơn thành thị nếu chia theo khu vực.
Điều này gây nên nhều khó khăn trong việc giải quyêt việc làm cho đội ngũ
mới này.
Về lực lượng lao động , nếu chia theo giới thì lực lượng lao động nữ của
Nam Định tương đối ổn định ở mức 523 ngàn năm 1997 đến 525 ngàn năm
2000 và tỷ lệ nữ trong lực lượng lao động cũng đang dao động ở mức 52%
đến 52,5% tương ứng với tỷ lệ nữ của khu vực đồng bằng sông Hồng và cả
nước; nếu chia theo khu vực thì quy mô lực lượng lao động ở khu vực
thành thị của Nam Định còn rất nhỏ và dao động ở mức 130 ngàn người,
qua 4 năm 1997-2000 chỉ tăng them 2400 người, tỷ lệ lực lượng lao động
khu vực thành thị chiếm trong tổng lực lượng lao động của cả tỉnh lại có xu
hướng giảm nhẹ, xu hướng biến động này là ngược lại so với xu thế chung
của vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước: lực lượng lao động khu vực
thành thị đang gia tăng cả về quy mô và tỷ lệ chiếm trong tổng số. Tuy
nhiên so với các tỉnh lân cận như Thái Bình, Ninh Bình và Hà Nam thì lực
lượng lao động thành thị của Nam Định vẫn cao hơn.
16
Biểu 4: Cơ cấu của bộ phận dân số từ 15 tuổi trở lên tỉnh Nam Định
Các năm (người) Tốc độ phát triển (%)
1997 1998 1999 2000 98/97 99/98 2000/99 BQ
mỗi
năm
1.NKTT
-BQ
NKH
2.DS từ
15 tuổi
trở lên
-Theo
giới tính
+Nam
+Nữ
-Theo
khu vực
+TThị
+NT
-Theo
nhóm
1850850
3,81
1314868
616866
698002
167150
1147718
1869520
3,73
1352874
637738
715136
172491
1180383
1888405
3,68
1377276
651055
726221
173042
1204234
1915600
3,6
1419038
676404
742634
179513
1239525
101,01
97,90
102,89
103,38
102,45
103,2
102,85
101,01
98,66
101,8
102,69
101,55
100,09
102,02
101,44
97,83
103,03
103,89
102,26
103,74
102,93
105,15
98,13
102,57
103,12
102,09
102,41
102,60
Chú thích: - NKTT : Nhân khẩu thường trú
-BQNKH : Bình quân nhân khẩu hộ
17
Nếu chia lực lượng lao động theo nhóm tuổi, ta có thể có được thống kê
như sau:
Biểu 5: Lực lượng lao động chia theo nhóm tuổi tỉnh Nam Định
Chú thích:
Tuổi trẻ : từ 15 – 34 tuổi;
Trung niên : 35 – 54 tuổi;
Cao tuổi : > 55 tuổi;
1997 2000
Trẻ Trung
niên
Cao
tuổi
Trẻ Trung
niên
Cao
tuổi
-LLLĐ (ngàn người)
-Tỷ lệ trong tổng số(%)
447
45,7
433,5
44
101
10,3
434
40,9
544
51,3
82
7,8
Xét về cơ cấu của lực lượng lao động chia theo nhóm tuổi đã diễn ra theo
xu hướng là lực lượng lao động trong nhóm tuổi trung niên có xu hướng
tăng nhanh cả về số tương đối lẫn tuyệt đối, nhóm tuổi trẻ và nhóm cao tuổi
có xu hướng giảm, trong đó nhóm cao tuổi có xu hướng giảm nhanh hơn cả
về quy mô và tốc độ. Tình trạng này trùng hợp với xu hướng biến động lực
lượng lao động chung của cả nước trong cùng thời kỳ.
2.3.Chất lượng của lực lượng lao động:
Tình độ học vấn của lực lượng lao động tỉnh Nam Định ngày càng được
nâng cao. Biểu hiện cụ thể là: số lượng người chưa biết chữ và chưa tốt
nghiệp cấp I giảm liên tuc cả về số tuyệt đối và tỷ lệ trong tổng số qua các
năm. Chỉ tiêu này năm 1997 là 111 ngàn người, chiếm 11,34%, đến năm
2000 là 88,6 ngàn người chiếm 8,4%, ngược lại số người đã tốt nghiệp cấp II
18
và cấp III không ngừng tăng, trong đó tăng nhanh nhất cả về quy mô và tốc
độ là số người tốt nghiệp cấp III. Theo kết quả điều tra năm 1997 số người
tốt nghiệp cấp III của Nam Định là 172,6 ngàn người, chiếm 17,6% trong
tổng số, năm 2000 là 201,1 ngàn người chiếm 18,9% trong tổng số. Bình
quân mỗi năm số người tốt nghiệp cấp III của tỉnh tăng khoảng 9,5 ngàn
người.
Trình độ chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động cũng có những tiến
bộ rõ rệt. Tại thời điểm điều tra năm 1997, số người thuộc lực lượng lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật (gồm công nhân, sơ cấp, trung cấp,
đại học và trên đại học) của tỉnh Nam Định là 139.347 người, chiếm 14,18%
so với tổng số. Đến năm 2000 chỉ tiêu này là 183.168 người, chiếm 17,28%
so với tổng số, tăng 31% so với năm 1997, trong đó tăng mạnh nhất là số lao
động có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học (36%). Trình độ chuyên
môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở Nam Định như trên phản ánh tổng
hợp những cố gắng và kết quả của công tác giáo dục đào tạo dạy nghề của
tỉnh những năm qua. Tuy vậy cơ cấu lao động kỹ thuật của Nam Định cũng
như cả nước vẫn chưa ra khỏi tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”. Theo kinh
nghiệm của các nước thành công trong công nghiệp hóa thì cơ cấu lao động
kỹ thuật phổ biến phải có cơ cấu là 1 đại học, cao đẳng/ 4 trung học/ 10 công
nhân kỹ thuật, nhưng ở Nam Định cơ cấu này là 1/ 2,2 /2,5, của cả nước là 1/
1,5/ 1,7. Tình trạng bất hợp lí này ngày càng tăng lên, hiện nay cơ cấu này ở
Nam Định là 1/ 1,9/ 2,1. Để khắc phục tình trạng bất hợp lí này, Nam Định
cần chủ trương thực hiện tốt chủ trương của Nhà nước về điều chỉnh lại cơ
cấu đào tạo theo hướng giảm quy mô đào tạo cao đẳng, đại học một cách
hợp lí, mở rộng quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ
thuật và thực hiện tốt việc phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung
học phổ thông.
19
3.Thực trạng việc làm tỉnh Nam Định:
Trong thời gian qua tỉnh Nam Định đã có nhiều nỗ lực trong việc giải
quyết việc làm, song song với việc thực hiện các giải pháp về đầu tư phát
triển sản xuất tỉnh còn thực hiên tốt các chương trình hỗ trợ trực tiếp cho
người lao động…kết quả là mỗi năm tỉnh đã giải quyết việc làm cho từ 50
đến 52 ngàn lượt người. Tuy nhiên, tình trạng việc làm nói chung ở Nam
Định vẫn còn rất nhiều khó khăn cần quan tâm giải quyết: tình trạng thiếu
việc làm ở khu vực nông thôn lớn, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị cao, số người
không có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn lớn…
Để thuận lợi trong việc phân tích, lực lượng lao động có thể được phân
thành 2 loại: lực lượng lao động có việc làm thường xuyên và lực lượng lao
động không có việc làm thường xuyên.
3.1.Lực lượng lao động có việc làm thường xuyên:
Lực lượng lao động có việc làm thường xuyên của Nam Định cũng như
của đồng bằng sông Hồng và cả nước luôn tăng lên về số tuyệt đối, nhưng về
tỷ lệ chiếm trong tổng số lực lượng lao động lại có xu hướng giảm , tốc độ
giảm của Nam Định là chậm hơn cả, mặc dù vậy, tỷ lệ này của Nam Định
vẫn luôn thấp hơn khu vực đồng bằng sông Hồng cũng như cả nước
Biểu 6 : Lực lượng lao động có việc làm thường xuyên .
1997 2001
NĐ ĐBSH Cả
nước
NĐ ĐBSH Cả
nước
20
-LLLĐ có VL thường
xuyên (ngàn người)
-So với tổng số LLLĐ
(%)
891
90,7
6.945
93,4
34.716
95,6
912
90,1
7.222
93,1
35.736
94,4
Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên trong tổng lực lượng lao động của
Nam Định luôn thấp hơn tỷ lệ chung của khu vực và cả nước như trên phản
ánh mọt thực tế là lực lượng lao động của Nam Định có nhu cầu làm thêm
lớn hơn bình quân chung của khu vực và cả nước.
Trong lực lượng lao động có việc làm thường xuyên của Nam Định, số
người trong độ tuổi lao động chiếm chủ yếu và có xu hướng tăng cả về số
tuyệt đối lẫn tỷ lệ so với tổng số. Chỉ số này năm 1997 là 819 ngàn người,
chiếm 91,9% , đến năm 2000 đã có 907 ngàn người, chiếm 92,6%. Lực
lượng lao động có việc làm thường xuyên của Nam Định nằm ở khu vực
nông thôn là chính, chiếm từ 87 đến 90% tổng số:
Biểu 7: Lực lượng lao động có việc làm thường xuyên chia theo khu vực
Số lượng (người) Tốc độ phát triển (%) Cơ cấu (%)
1998 1999 2000 99/98 2000/99
BQ
năm
1998 1999 2000
Có việc làm TX
- Thành thị
- Nông thôn
924.617
117.320
807.297
907.320
107.553
799.767
978.804
118.337
860.467
98,13
91,67
99,07
107,88
110,03
107,59
103,16
100,86
103,50
100
12,69
87,31
100
11,85
88,15
100
12,09
87,91
Lực lượng lao động có việc làm thường xuyên có thể chia theo nhóm ngành
kinh tế, theo đó tỷ trọng lao động làm việc trong nhóm ngành nông, lâm,
ngư nghiệp đã giảm, lao động làm việc trong nhóm ngành công nghiệp- xây
21
dựng tăng liên tục cả về số tuyệt đối và tỷ trọng, lao động trong nhóm ngành
dịch vụ cũng luôn tăng về số lượng còn tỷ trọng thì biến đổi chậm nhưng
vẫn có xu thế tăng
22
Biểu 8: Cơ cấu lực lượng lao động có việc làm thường xuyên chia theo
nhóm ngành và thành phần kinh tế.
Đơn vị : %
1997 1998 1999 2000
Chia theo nhóm ngành
kinh tế
-Nông lâm nghiệp
-Công nghiệp xây dựng
-Dịch vụ
Chia theo thành phần
kinh tế
-Nhà nước
-Ngoài Nhà nước
-Nước ngoài
-Hỗn hợp
100
67,91
10,36
21,74
100
8,48
91,32
-
0,20
100
69,76
13,78
16,46
100
9,52
90,21
-
1,03
100
64,36
14,62
21,01
100
10,77
87,97
-
1,26
100
63,49
15,04
21,46
100
9,75
89
-
1,25
Trong tổng số lao động có việc làm thường xuyên của Nam Định thì số
người làm việc ở khu vực Nhà nước chỉ chiếm từ 8% đến 11%, thấp hơn tỷ
lệ của đồng bằng sông Hồng (10,7% đến 12,3%) và bằng bình quân chung
của cả nước. Số người làm việc trong khu vực Nhà nước của Nam Định
cũng như cả nước vẫn tiếp tục tăng cả về số tuyệt đối và tỷ trọng chiếm
trong tổng số. Tình hình này phản ánh thực trạng sức ép về việc làm đối với
khu vực Nhà nước còn hết sức nặng nề. Song song với nó, số lượng người
làm việc ở thành phần kinh tế hỗn hợp có xu hướng tăng nhanh cả về số
tương đối lẫn tuyệt đối. Phần lớn lao động tập trung trong thành phần kinh tế
tập thể, tư nhân, cá thể và có xu hướng ngày càng giảm đi, còn số lao động
23
làm việc trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hầu như không
đáng kể và không ổn định.
Như vậy, mặc dù đã thu được nhiều thành tựu khả quan nhưng tỉnh ủy cũng
như ban chỉ đạo giải quyết việc làm của tỉnh vẫn còn nhiều vấn đề cần phải
quan tâm kể cả trước mắt lẫn lâu dài.
3.2.Tình trạng thiếu việc làm của LLLĐ tỉnh:
Kết quả điều tra cho thấy, LLLĐ thiếu việc làm của tỉnh Nam Định qua các
năm tăng cả về số tuyệt đối lẫn tương đối. Năm 1997 Nam Định có 270 ngàn
người thiếu việc làm, đến năm 2000 chỉ tiêu này là 350 ngàn người. Diễn
biến của tình trạng thiếu việc làm của Nam Định tuân theo quy luật biến
động như của khu vực và cả nước .
Biểu 9: Tình trạng thiếu việc làm của LLLĐ
1997 1999
NĐ ĐBSH Cả
nước
NĐ ĐBSH Cả
nước
-LLLĐ thiếu việc
làm (ngàn người)
-Tỷ lệ thiếu VL
(%)
270
27,5
2.031
27
8.552
23
320
31
2.554
33
14.968
39,6
Trong tổng số thiếu việc làm thì số đối tượng thiếu việc làm ở khu vực
thành thị chỉ chiếm khoảng 11 đến 12%. Trong thời gian vừa qua, tuy số
lượng này vẫn tăng nhưng tỷ trọng chiếm trong tổng số thì đã có xu hướng
giảm. Ngược lại, người thiếu việc làm ở khu vực nông thôn luôn chiếm tỷ
trọng cao từ 88 đến90% và vẫn tăng lên cả về số tuyệt đối lẫn tương đối.
24
Biểu 10: Tỷ lệ số người thất nghiệp chia theo vùng.
Tổng số Nữ Trong tuổi LĐ Trên tuổi LĐ
Tổng
số
Nữ Tổng
số
Nữ
-Nội thành
-Thị trấn
-Nông thôn
8,8
1,7
1,07
6,78
1,65
1,33
9,03
1,72
1,12
6,84
1,57
1,50
4,41
1,47
0,63
6,00
2,50
-
Về cơ cấu nhóm tuổi của LLLĐ thiếu việc làm ở Nam Định, số người thiếu
việc làm chủ yếu tập trung ở độ tuổi lao động (90%), và nếu chia theo 3
nhóm thì nhóm tuổi trẻ vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất và số người thiếu việc làm
trong nhóm này qua các năm vẫn tiếp tục tăng về số tuyệt đối, còn tỷ trọng
thì đã có xu hướng giảm.
4.Tình hình phát triển kinh tế- xã hội:
Trong những năm qua, với những chính sách cụ thể, tỉnh đã tạo ra cơ hội
và điều kiện thuận lợi cho các cơ sở sản xuất, các tổ chức xã hội phát huy
tính năng động sang tạo để phát triển sản xuất kinh doanh và thuê mướn lao
động. Kinh tế nhiều thành phần đã hình thành và có bước tăng trưởng khá,
tỏng sản phẩm (GDP) đã giữ được nhịp độ tăng trưởng bình quân 6,85%
năm. Cơ cấu kinh tế theo nhóm ngành kinh tế quốc dân đã có sự chuyển dịch
theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công nghiệp- xây dựng, dịch vụ từ
53,9% năm 1998 lên 58,4% năm 2002, giảm tỷ trọng ngành nông, lâm, ngư
nghiệp từ 46,1% còn 41,6%. Cơ cấu LLLĐ chia theo nhóm ngành kinh tế
quốc dân cũng đã có sự chuyển dịch đáng mừng.
Ở khu vực nông thôn, tỉnh đã tổ chức hoàn thành đại hội xã viên các hợp
tác xã nông nghiệp theo chính sách đổi mới hợp tác xã. Cùng với việc tập
trung phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, thực hiện các chính sách khuyến
25
nông, khuyến ngư, khuyến khích phát triển các nghề thủ công , truyền thống,
khôi phục và phát triển làng nghề. Sản xuất kinh doanh ở khu vực nông thôn
đã đạt được nhiều thành tựu mới, sản lượng lương thực luôn tăng và đạt trên
1 triệu tấn năm, lượng thực bình quân đầu người cũng tăng với tốc độ nhanh.
Giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân trên một ha đất canh tác đạt 28 triệu
đồng/ năm. Sản lượng nuôi trồng đánh bắt thủy sản cũng liên tục tăng qua
các năm.
Ở khu vực thành thị, đi đôi với việc thực hiện đề án quy hoạch đô thị,
những năm qua tỉnh đã tập trung ưu tiên đầu tư nâng cấp các cơ sở hạ tầng,
đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ cho các doanh nghiệp trọng điểm, đặc biệt
là ngành dệt may và cơ khí. Nhiều doanh nghiệp quốc doanh đã vượt ra khỏi
Thời kỳ khó khăn, trở lại ổn định và có bước phát triển mới. Các cơ sở sản
xuất tư nhân, cá thể ở trong các phố nghề, ở các khu vực thị trấn được
khuyến khích phát triển, công nghiệp dân doanh tăng trưởng nhanh góp phần
đưa giá trị sản xuất khu vực dân doanh năm 2002 gấp 2,6 lần so với năm
1998, tạo ra cơ hội để giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực thành thị
góp phần hạ tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực này từ 7,26% năm 1998 xuống
6,11% năm 2000.
Mặc dù vậy, thực tế là tốc độ đô thị hóa ở Nam Định diễn ra rất chậm so với
khu vực đồng bằng sông Hồng. Tuy vậy vẫn khá hơn so với các tỉnh lân cận
là Thái Bình, Ninh Bình và Hà Nam.Nguyên nhân của việc đô thị hóa ở
Nam Định những năm qua diễn ra chậm là do:
Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của Nam Định tuy có tốc độ
tăng trưởng khá nhưng chủ yếu tăng ở các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh trong các hộ gia đình ở nông thôn. Các cơ sở sản xuất kinh doanh ở
khu vực thành phố, thị trấn tuy đã dần ổn định trở lại và có chiều hướng phát
26
triển nhưng chưa đủ sức thu hút thêm lao động mới ở nông thôn vào làm
việc ở thành phố, thị trấn.
Mặt khác, Nam Định là tỉnh có truyền thống hiếu học và có tỷ lệ học sinh
đỗ vào các trường đại học chính quy hàng năm khá cao, nhưng do kinh tế địa
phương phát triển chậm nên số lượng làm việc trong các cơ sở sản xuất kinh
doanh trên địa bàn tỉnh Nam Định thường xuyên có mức thu nhập thấp hơn
nhiều so với các ngành nghề ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phòng…nên số lượng sau khi học xong trở về Nam Định là
rất ít. Bên cạnh đó số người hiện tại đang làm việc ở Nam Định lại luôn có
xu hướng tìm cách chuyển đi làm việc tại các tỉnh, thành phố khác.
Chính những nguyên nhân trên cũng làm cho tốc độ phát triển kinh tế của
tỉnh chưa cao, thu chi ngân sách trên địa bàn còn mất cân đối tỷ lệ tích lũy từ
GDP cho đầu tư phát triển giảm qua các năm. Cơ sở vật chất, trang thiết
bị,trình độ công nghệ của các cơ sở kinh tế còn lạc hậu, quy mô nhỏ bé,
phân tán; các sản phẩm làm ra giá thành cao, tiêu thụ khó khăn, thị trường
không ổn định, mới bắt đầu hình thành các dự án kinh tế trọng điểm của tỉnh
để phát triển sản xuất, thu hút đầu tư và khai thác tiềm năng lao động tại chỗ.
Những khó khăn cũng như thuận lợi nêu trên sẽ là điều kiện tiền đề để cho
tỉnh Nam Định có được cái nhìn toàn diện về vấn đề lao động việc làm hiện
nay và nhanh chóng có những biện pháp giải quyết việc làm tại chỗ cũng
như đề cập đến vấn đề lao động xuất khẩu.
II.Thực trạng XKLĐ ở Nam Định:
1. Kết quả đạt được:
Từ những năm 1993- 1998 thị trường XKLĐ của tỉnh tương đối sôi động,
mỗi năm giải quyết cho khoảng 500- 1000 người đi lao động ở các nước
như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Li Bi, Đài Loan…Vì vậy, ban chỉ đạo XKLĐ
của tỉnh được thành lập theo quyết định số 1971/1998/QĐ-UB ngày
27
07/2/1998, chọn Công ty xây lắp 1 đề nghị cục quản lý lao động nước
ngoài cấp giấy phép XKLĐ trực tiếp. Nhưng đến nay vẫn chưa xuất được
trực tiếp mà phải thông qua các doanh nghiệp XKLĐ khác làm cho số lao
động của tỉnh đi XKLĐ trong những năm 1999- 2001 có chững lại, nhưng
thị trường này đã sôi động trở lại từ năm 2002 và cho đến nay hoạt động
XKLĐ tỉnh Nam Định đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ trên
nhiều mặt.
a.Về công tác tuyển chọn nguồn lao động:
Mặc dù năm 2002 thị trường XKLĐ tỉnh Nam Định mới sôi động trở lại
sau 3 năm hoạt động không mấy hiệu quả, nhưng đã đạt được những thành
tích rất đáng mừng: tính đến cuối năm 2002 đã đưa được 1400 lao động đi
các nước Đài Loan, Malayxia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Li Bi…Nhìn chung số
lao động này đang có việc làm ổn định, thu nhập cao và thường xuyên gửi
tiền về cho gia đình. Có thể thấy rõ tình hình hoạt động thông qua thống kê
sau:
Biểu 10: Kết quả hoạt động XKLĐ tỉnh Nam Định
Năm Số lao động XK
(người)
So với năm trước
(%)
Số ngoại tệ thu
về (1.000 USD)
2001 175 103,22 4.550
2002 1.400 800 36.425
2003 2.805 200,36 72.990
Tổng cộng 4.380 - 113.965
Thực hiện chỉ thị số 41/CT- TƯ ngày 22/9/1998 của Bộ Chính trị về
XKLĐ và chuyên gia, nghị định số 152/1999/NĐ- CP ngày 20/9/1999 của
Chính phủ về người lao động và chuyên gia đi làm việc có thời hạn ở nước
ngoài, năm 2003 tỉnh Nam Định đã có 5 huyện thành lập Ban chỉ đạo
28
XKLĐ là: Huyện Nghĩa Hưng, Ý Yên, Xuân Trường, Giao Thủy, Trực
Ninh. Các huyện, thành phố còn lại tuy chưa thành lập ban chỉ đạo nhưng
cũng đã tiến hành tham gia công tác XKLĐ cung ứng cho các công ty, tổng
công ty của trung ương có chức năng XKLĐ. Kết quả là ,đến hết tháng 12
/2003, tỉnh đã đưa được 2.805 người lao động đi làm việc ở các nước
Malaysia (1987 người, chiếm hơn 70% trong tổng số), Đài Loan (593
người), Hàn Quốc (135 người), Nhật Bản (25 người), các nước khác là 65
người, trong đó phân bố vào các địa bàn như sau:
Biểu 11 : Sự phân bố số lượng lao động xuất khẩu năm 2003
Huyện, TP Số lượng (người)
Mỹ Lộc
Ý Yên
Vụ Bản
Trực Ninh
Nam Trực
Nghĩa Hưng
Xuân Trường
Giao Thủy
Hải Hậu
TP. Nam Định
125
273
240
140
130
243
800
307
97
450
Mặc dù số lao động Nam Định đưa đi được là thấp hơn một số tỉnh trong
vùng như Ninh Bình, Thái Bình (năm 2003, Thái Bình đưa đi được 5510
người lao động, gấp đôi số lao động xuất khẩu của Nam Định), song so với
những năm trước thì kết quả trên là một cố gắng rất lớn với sự quan tâm
của tỉnh ủy, UBND tỉnh cũng như các ngành các địa phương cho công tác
trên.
29
Bên cạnh đó, hoạt động của các trung tâm dịch vụ việc làm đã được triển
khai một cách có hiệu quả và cũng thu được những thành tựu nhất định. So
với trước đây, công tác cung ứng lao động cho các doanh nghiệp XKLĐ
chủ yếu do các trung tâm DVVL tự khai thác, tổ chức thực hiện, không
được quán triệt sâu rộng đến từng địa bàn dân cư như thôn xóm hay tổ dân
phố nên không huy động được mọi nguồn lực tham gia, nhiều người có
nguyện vọng, đủ điều kiện nhưng do không được thông tin nên không có
cơ hội tham gia để được đi làm việc ở nước ngoài .Năm 2003, các trung
tâm DVVL đã đưa đi được 910 người, con số này tuy vẫn còn thấp hơn
tiềm năng của mỗi địa phương nhưng nó đã phần nào phản ánh được sự
phấn đấu của các trung tâm này.
Biểu 12:Kết quả hoạt động của các trung tâm DVVL tỉnh Nam Định.
Trung tâm DVVL Số lao động (người) Địa bàn
- Tỉnh Nam Định
-TP. Nam Định
-Liên đoàn LĐ tỉnh
-Bộ chỉ huy quân sự
tỉnh
190
48
29
643
-H. Xuân Trường,
TP.Nam Định
-TP. Nam Định
-TP. Nam Định,Ý Yên,
Nam Trực
-TP. Nam Định, Nghĩa
Hưng
Từ năm 2003, trên địa bàn tỉnh đã tổ chức và thực hiện thành công mô hình
liên kết trách nhiệm giữa các chính quyền cơ sở với các doanh nghiệp
XKLĐ trong việc triển khai sâu rộng hoạt động XKLĐ tại địa phương, theo
đó công tác cung ứng lao động cho các doanh nghiệp XKLĐ đã được triển
khai sâu rộng đến từng cơ sở và địa bàn dân cư. Do vậy, số lượng người
tham gia dự tuyển ngày càng tăng lên, tuy nhiên trong số những người tham
gia dự tuyển này chiếm tới 80% là không đủ điều kiện tiêu chuẩn trong số
30
các điều kiện tuyển chọn, do vậy chỉ có 66% những người tham gia tuyển
chọn là trúng tuyển.
Công tác quản lý nhà nước về XKLĐ đã được tăng cường, nhằm hạn chế
những vi phạm cảu các doanh nghiệp XKLĐ, góp phần tích cực ngăn ngừa
các hành vi lừa đảo của các tổ chức, cá nhân ngoài xã hội. Đã quyết định thu
hồi giấy phép XKLĐ của các doanh nghiệp vi phạm và hoạt động không
hiệu quả như công ty xây lắp Nam Định (từ tháng 5/2004),…Bước đầu đã
xây dựng được một số doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có uy tín và độ
tin cậy cao đối với đối tác nước ngoài và người lao động làm cho người lao
động tin tưởng hơn và quyết tâm hơn trong việc tham gia XKLĐ. Bên cạnh
đó tỉnh còn đề ra nhiều chương trình như chương trình 07/CTr- TU ngày
21/01/2002 để trực tiếp chỉ đạo công tác tuyển chọn, thông tin tuyên truyền
cũng như XKLĐ từ tỉnh xuống huyện, xã.
b.Công tác giáo- dục đào tạo định hướng cho lao động xuất khẩu:
Những năm trước đây công tác XKLĐ chủ yếu là tự phát, chạy theo số
lượng nên công tác giáo dục, đào tạo định hướng cho lao động còn bị coi
nhẹ, dẫn đến tình trạng người lao động sang làm việc ở nước ngoài còn gặp
nhiều bỡ ngỡ, không được trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết nên
tình trạng vi phạm hợp đồng phải trả về nước do bất đồng ngôn ngữ, do
thiếu hiểu biết chiếm tỷ lệ đáng kể, điển hình là lao động đi giúp việc gia
đình ở Đài Loan.
Khắc phục tình trạng trên, từ năm 2002 công tác tuyên truyền, giáo dục
định hướng, tuyển chọn và đào tạo đã được các địa phương quan tâm, phối
hợp cùng với các doanh nghiệp XKLĐ chỉ đạo các cơ sở đào tạo tại địa
phương tổ chức đào tạo tại chỗ, theo đó người lao động không phải tập trung
về các doanh nghệp XKLĐ, giảm được thời gian và chi phí cho người lao
động.
31
Công tác này đã góp phần bổ sung nhiều kiến thức cũng như kinh nghiệm
cho người lao động, đồng thời trang bị những kiến thức phù hợp với yêu
cầu, đòi hỏi cũng như đặc trưng của từng thị trường.
Trên địa bàn tỉnh đã có một số đơn vị thực hiện tốt công tác giáo dục phối
hợp giữa cơ sở đào tạo như các trung tâm DVVL với các doanh nghiệp
XKLĐ và địa phương nơi cung cấp người lao động:
+ Công ty xây dựng số 8, công ty Than, công ty Hoàng Long – trung tâm
DVVL tỉnh – Huyện Xuân Trường.
+ Doanh nghiệp XKLĐ – trung tâm DVVL bộ chỉ huy quân sự tỉnh –
Huyện Nghĩa Hưng và địa bàn thành phố Nam Định.
c.Chính sách hỗ trợ người lao động:
Nhận thức rõ ý nghĩa to lớn và quan trọng của chương trình XKLĐ, Ngân
hàng Nhà nước đã sớm triển khai và hỗ trợ người lao động vay các chi phí
cần thiết khi đi làm việc ở nước ngoài.
Căn cứ quyết định số 440/2001/QĐ- NHNN ngày 17/04/2001 của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay đối với người lao động đi làm việc
có thời hạn ở nước ngoài, ngân hàng nông nghiệp đã ban hành hướng dẫn số
3582/NHNo- TD ngày 26/01/2002 số 392/NHNo- TD ngày 21/2/2003, theo
đó người lao động đi XKLĐ không thuộc diện chính sách được vay tối đa 20
triệu mà không cần thế chấp. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với
những người đi XKLĐ đặc biệt là những người lao động nghèo.
Bên cạnh đó, các thủ tục vay vốn cũng được sửa đổi, giảm bớt theo hướng
ngày càng đơn giản và thuận lợi góp phần đưa số người lao động năm 2002
tăng gấp 8 lần năm 2001, năm 2003 gấp đôi năm 2002 và hứa hẹn ngày càng
có được kết quả cao hơn nữa.
Từ năm 2003, ngân hàng NN- PTNT mới bắt đầu triển khai chính sách hỗ
trợ vốn vay cho người đi XKLĐ và đã có 4/10 huyện, thành phố triển khai
32
cho vay, là các huyện: Hải Hậu, Xuân Trường, Nghĩa Hưng, Ý Yên, và đã
có232 người được vay với tổng số tiền là 3.723 triệu đồng, mức bình quân
chung cho một người vay kà 16 triệu đồng, mức cao nhất là 20 triệu đồng,
thấp nhất là 10 triệu đồng. Bên cạnh đó, từ tháng 12/2003 ngân hàng chính
sách tỉnh mới triển khai và giao chỉ tiêu cho các huyện nên đến cuối năm
mới chỉ có 4 người được vay với tổng số tiền là 40 triệu đồng với mức vay
10 triệu đồng/ người.
Nhìn chung, hoạt động XKLĐ tỉnh Nam Định mới chỉ phát triển mạnh và
được chú ý nhiều trong vòng 2 năm trở lại đây, mặc dù muộn hơn rất nhiều
so với các tỉnh bạn cũng như so với tình hình chung của cả nước nhưng hoạt
động này hiện nay cũng đã được quan tâm chú ý và thu được những thành
quả đáng lưu ý, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là số
lao động mất việc do sự sa thải hàng loạt của nhà máy dệt Nam Định những
năm trước, đồng thời cũng góp phần tăng GDP hàng năm của tỉnh thông qua
số ngoại tệ thu được nhờ các chi phí cho họat động XKLĐ cũng như số tiền
mà họ gửi về cho gia đình.
2.Tồn tại của hoạt động XKLĐ tỉnh Nam Định:
Bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được, hoạt động XKLĐ trong
những năm qua cũng còn những tồn tại, vướng mắc cần được xem xét và
khắc phục.
a.Công tác chỉ đạo tổ chức thực hiện:
Mặc dù ban chỉ đạo của tỉnh được thành lập từ năm 1998, song có sự thay
đổi của một số thành viên trong ban chỉ đạo, nhất là người trưởng ban chỉ
đạo và một số thành viên khác nên đến nay ban chỉ đạo này vẫn chưa được
kiện toàn.Do vậy công tác quản lý lao động xuất khẩu vẫn còn nhiều yếu
kém, đội ngũ cán bộ vẫn còn mỏng, tuy đã được trải qua các lớp bồi dưỡng
chuyên môn nhưng vẫn thể hiện là năng lực yếu chưa đáp ứng được yêu cầu
33
phát triển của thị trường XKLĐ chung của cả nước. Mặt khác, ban chỉ đạo
XKLĐ của tỉnh cho đến nay vẫn thể hiện rõ sự non trẻ của mình. Điều này
có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả cũng như tiến độ thực hiện công tác
XKLĐ của tỉnh.
Mặt khác, mặc dù đã có thành lập Ban chỉ đạo XKLĐ ở các huyện nhưng so
với các tỉnh khác trong cả nước, 50% các huyện, thành phố thành lập được
ban chỉ đạo XKLĐ vẫn là một con số nhỏ, không dủ đáp ứng yêu cầu chung
của toàn tỉnh. Thêm vào đó, ban chỉ đạo các huyện, thành phố này vẫn chưa
có được sự hoạt động nhịp nhàng từ trên xuống đến huyện, xã
b.Công tác thông tin tuyên truyền:
Hình thức tuyên truyền còn đơn giản và mang tính một chiều. Chưa có
nhiều hoạt động thông tin tuyên truyền rộng rãi ở trên đài phát thanh truyền
hình, băng rôn quảng cáo hay tổ chức những “tháng xuất khẩu” để cho người
lao động có thể tiếp cận được nhiều hơn thông tin về các thị trường cần lao
động nhập khẩu,mà mới chỉ có những chỉ thị mang tính chất hành chính từ
ban chỉ đạo cấp trên đưa xuống các huyện,TP để đề ra mục tiêu thực hiện
hoặc các mục tiêu năm, chưa có sự bố trí thu thập thông tin phản hồi từ
người lao động.
Việc thông tin- tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng còn
quá ít về số đợt cũng như thời lượng làm cho người lao động không được
tiếp cận đầy đủ thông tin, tạo nên sự kém hiệu quả trong công tác XKLĐ của
tỉnh những năm qua.
Nguồn thông tin tuyên truyền trước khi đi lao động bị thiếu hụt, do vậy
một bộ phận người lao động và gia đình chưa có được nhận thức đúng đắn
về trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện đúng hợp đồng đã cam kết nên tình trạng
lao động bỏ trốn ra làm ngoài ở một số nước đang ở mức báo động, nhất là
mấy năm trở lại đây, tình hình này lại càng diễn ra phổ biến hơn.Bên cạnh
34
đó , một số gia đình còn có tâm lý không đúng đối với hoạt động XKLĐ
nhất là đối với nghề giúp việc trong gia đình.
c.Công tác tuyển chọn lao động:
Một số doanh nghiệp đã triển khai về đến tận các địa phương để tuyển
chọn lao động nhưng công tác tuyển chọn này chưa tốt nên chất lượng lao
động thấp cả về chuyên môn, nghề nghiệp lẫn kiến thức ngoại ngữ, sức khỏe
và ý thức tổ chức kỷ luật. Số lao động được chọn có tay nghề trong toàn tỉnh
năm 2002 là 362 người, chỉ chiếm 12,9% trong toàn bộ số lao động được
tham gia dự tuyển. Lao động đủ điều kiện về sức khỏe cũng như các điều
kiện tiêu chuẩn trong các đợt tuyển lao động chỉ chiếm 20%, tỷ lệ trúng
tuyển chung của toàn tỉnh đạt mức 66%. Đây là những tồn tại mà lao động
Nam Định cũng như lao động của cả nước đang gặp phải
Mặt khác hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm hoạt động còn yếu, chưa
nắm chăc khả năng cung cầu về thị trường XKLĐ, chưa làm tốt chức năng
tư vấn giới thiệu trong lĩnh vực XKLĐ- là chức năng chính của các trung
tâm, cũng như chưa thực sự là cầu nối giữa doanh nghiệp XKLĐ với người
lao động trong mô hình liên kết giưa doanh nghiệp- trung tâm DVVL- người
lao động.
Về phía các doanh nghiệp hoạt động XKLĐ, hiện nay ở Nam Định có 8
doanh nghiệp đang hoạt động là:
-Công ty XNK thiết bị vật tư thông tin (EMICO)
-Tổng công ty thương mại và xây dựng thuộc Bộ giao thông vận tải
(VIETRANCIMEX)
-Tổng công ty cơ khí giao thông vận tải (COMA)
-Công ty dịch vụ du lịch dầu khí
-Công ty TNHH Quốc Dân
-Công ty thương mại dịch vụ và XNK Hải Phòng (TRADIMECO)
35
-Công ty vật tư công nghiệp quốc phòng (GAET)
-Tổng công ty Thép Việt Nam
Các doanh nghiệp này đã xuống tận các địa phương để tuyển chọn lao
động, nhưng do không thông qua cơ quan chỉ đạo nên đã gây ra khó khăn
cho công tác quản lý của các cấp và việc thẩm định của các cơ quan nhà
nước, do vậy việc xác định các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hay không
là rất khó khăn, việc đầu tư cho những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả
do vậy mà cũng không thể tiến hành được. Tình trạng làm việc không công
khai như trên cũng gây ra hiện tượng không minh bạch, thống nhất trong
việc xác định mức đóng góp cho từng chương trình XKLĐ.
Tồn tại trên cũng gây ra sự chồng chéo , chưa có sự chỉ đạo thống nhất về
việc phân vùng địa bàn tuyển chọn lao động cho từng doanh nghiệp dẫn đến
tình trạng một doanh nghiệp về tuyển chọn trên nhiều địa bàn, ngược lại một
địa bàn có quá nhiều doanh nghiệp về tuyển chọn lao động nhưng lại có
những địa bàn chưa hề có một doanh nghiệp làm công tác XKLĐ nào quan
tâm tới.
d.Chính sách hỗ trợ tài chính còn hạn hẹp:
Thực tế, để hoạt động XKLĐ được diễn ra thông suốt, cần phải có tài
chính đầy đủ cho chương trình từ công tác tuyển chọn ở từng địa phương
đến công tác đào tạo cho đến khi người lao động đi xuất khẩu sang nước
bạn. Nhưng khoản tài chính này ở Nam Định còn hạn hẹp, làm cản trở nhiều
đến hoạt động XKLĐ của toàn tỉnh.
36
Biểu 13: Tài chính đảm bảo cho chương trình XKLĐ tỉnh Nam Định
Đơn vị : triệu đồng
STT 2001 2002 2003 2004
1
2
3
Nguồn vốn cho vay
GQVL
-Vốn TW hỗ trợ
-Từ ngân sách tỉnh
Đầu tư trang thiết bị cho
các trung tâm DVVL
-Ngân sác TW
-Ngân sách tỉnh
Đầu tư trang thiết bị cho
cơ sở đào tạo
-Ngân sách TW
-Ngân sách tỉnh
33.800
28.800
5.000
830
730
100
1.200
1.000
200
37.300
30.800
6.500
1.000
800
200
2.400
2.000
400
40.800
32.800
8.000
1.000
800
200
2.800
2.200
600
44.300
34.800
9.500
1.000
800
200
3.300
2.500
800
Tổng cộng 35.830 40.700 44.600 48.600
Mức trang bị về vốn chủ yếu vẫn là từ Ngân sách Nhà nước,Ngân sách tỉnh
hầu như rất ít. Nhìn chung, ngân sách đầu tư cho chương trình XKLĐ có
tăng qua các năm nhưng tốc độ tăng còn rất chậm, tăng bình quân hàng năm
5% cho nguồn vốn giải quyết việc làm, 25% hàng năm cho công tac đào tạo
còn vốn cho đầu tư trang thiết bị hầu như không tăng.
Bên cạnh đó, tuy đã có các hệ thống văn bản về cho vay vốn đi XKLĐ,
song số người được vay còn ít. Năm 2003 tổng nguồn vốn được duyệt cho
chi nhánh ngân hàng chính sách xã hội tỉnh Nam Định là 3,5 tỷ đồng, nhưng
đến nay dư nợ cho vay các đối tượng chính sách đi XKLĐ mới đạt 40 triệu
37
đồng, nghĩa là chỉ đạt 1,14% so với kế hoạch. Nguyên nhân là do đầu tháng
12/2003 mới giao chỉ tiêu cho các huyện, vào thời điểm này chương trình
XKLĐ ở các huyện đã hoàn tất, không còn nhu cầu vay vốn đi XKLĐ. Ngân
hàng NNoPTNT năm 2003 cũng mới chỉ có 232 người được vay, chiếm 8%
so với kế hoạch, người lao động hầu hết đều tự huy động vốn để đi xuât
khẩu mà chưa tin vào vốn vay của cac Ngân hàng trên.
3.Nguyên nhân của những tồn tại trên:
Như đã trình bày ở trên, nguyên nhân của những tồn tại trên hầu hết là do
chủ quan của tỉnh mang lại, sau đây ta có thể xem xét một số nguyên nhân
nổi cộm như:
Về công tác chỉ đạo,vẫn chưa tạo được sự thống nhất trong bộ máy của cấp
trên, đặc biệt là ban chỉ đạo công tác XKLĐ của tỉnh vẫn chưa được kiện
toàn. Bên cạnh đó, ban chỉ đạo các huyện cũng mới được thành lập, còn rất
non trẻ và thể hiện sự thiếu thống nhất và đồng bộ trong chỉ đạo thực hiện
cũng như trong mối liên kết với nhau và với cơ quan cấp trên.
Đối với công tác thông tin tuyên truyền, do hoạt động XKLĐ ở Nam Định
mới được đẩy mạnh phát triển từ năm 2002 nên công tác này vẫn thể hiện
nhiều thiếu sót, hệ thống thông tin tuyên truyền từ trên xuống tận phường, xã
còn rất mỏng, một chiều gây khó khăn cho người lao động nếu muốn tìm
hiểu thông tin về thị trường lao động mà mình quan tâm cũng như khó khăn
trong việc thay đổi quan niệm của một số bộ phận dân cư về hoạt động
XKLĐ.
Hệ thống chính sách hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp, trung tâm DVVL
cũng như đối với người lao động đã khá đồng bộ, tuy nhiên vẫn chưa thu
được hiệu quả cao là do hệ thống này mới được đưa vào áp dụng, chưa phổ
biến đến mọi người dân, hơn nữa các kế hoạch đưa ra để thực hiện chính
38
sách trên được đưa ra khá muộn so với nhu cầu của người lao động do vậy
không đáp ứng được yêu cầu vay vốn khi người lao động cần để đi XKLĐ.
Đối với công tác tuyển chọn lao động, đây là một khâu quan trọng trong
hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, nhưng công tác này
lại chưa được quản lý tốt ở Nam Định, dẫn đến tình trạng tuyển chọn chồng
chéo địa bàn của nhau cũng như bỏ sót địa bàn tuyển chọn lao động. Bên
cạnh đó, các trung tâm lam nhiệm vụ giới thiệu người lao động đi XKLĐ
cũng như các doanh nghiệp chuyên doanh trong ngành chưa được quan tâm
lớn, do vậy hiệu quả hoạt động chưa cao và chưa thực sự trở thành địa chỉ
tin cậy cho người lao động mỗi khi có nhu cầu đào tạo cũng như nhu cầu đi
XKLĐ.
4.Bài học từ công tác XKLĐ của các tỉnh bạn:
Huyện Thanh Ba- tỉnh Phú Thọ được biết dến bởi số lượng người lao động
tham gia đi XKLĐ lớn và một cách làm mới cho hiệu quả cao trong hoạt
động tuyển chọn đưa người lao động đi đào tạo để phục vụ cho nhu cầu
XKLĐ.
Trước hết, huyện đề ra chủ trương phải phát huy sức mạnh của cộng đồng,
hướng các hoạt động của cộng đồng vào mục tiêu XKLĐ, vừa mang tính
chất giúp đỡ vừa mang tính chất khuyến khích người động viên người lao
động đặc biệt là hộ nghèo tự vươn lên thì chương trình XKLĐ sẽ thực sự có
hiệu quả. Bên cạnh đó, huyện thực hiện mô hình liên kết giữa chính quyền
địa phương với trung tâm đào tạo và các doanh nghiệp làm nhiệm vụ XKLĐ.
Trước hết, ban chỉ đạo huyện xây dựng chương trình, tìm hiểu và thống nhất
chọn các đơn vị làm điểm là các xã thuần nông thuộc vùng núi cao có lực
lượng lao động dôi dư đông và tỷ lệ đói nghèo cao, thu nhập thấp, người dân
thực sự có nhu cầu về việc làm, sau đó ban chỉ đạo tiến hành hội nghị từ cấp
huyện đến cấp xã và gặp mặt với bà con nhằm trực tiếp tư vấn và trả lời tất
39
cả những thắc mắc người lao động cần biết, và cụ thể hóa, tuyên truyền, phổ
biến các chủ trương chính sách và phổ biến các chủ trương chính sách của
Nhà nước, của tỉnh, huyện , đồng thời công bố các khoản chi phí, các điều
kiện tuyển chọn, thời gian lao động, thị trương cần lao động…để mọi người
được rõ về mọi vấn đề xung quanh hoạt động XKLĐ.Và cùng với chính
sách hỗ trợ tài chính cho người lao động đi XKLĐ, sau một năm thực hiện
chiến dịch, huyện Thanh Ba đã đưa được 346 người đi XKLĐ mà chủ yếu
là sang Malaysia (294 người), làm giảm tỷ lệ đói nghèo từ 10,58% năm 2002
xuống còn 7% năm 2003. Đây là một thành tích mà huyện Thanh Ba- Phú
Thọ đáng được hoan nghênh và học hỏi.
Đỉnh Vàng (Hải Phòng) là một trong hai công ty tư nhân trong cả nước
tham gia hoạt động XKLĐ, đã được thị trường trong và ngoài nước đánh giá
cao, nhất là thị trường Đài Loan, với thành tích 2 năm đi vào hoạt động đã
đưa đi được 1175 người đi làm việc tại Đài Loan, Nhật Bản..
Để có được thành tích như trên, ban đầu công ty đã đầu tư trên 20 tỷ đồng để
xây dựng 2 trung tâm dạy nghề chuyên phục vụ cho hoạt động XKLĐ tại
Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh. Để hoạt động có hiệu quả, ban đầu,
công ty đã đầu tư 3 tỷ đồng làm quỹ hỗ trợ cho người lao động vay, theo đó
khi đi XKLĐ người lao động không những không phải đóng phí để đi
XKLĐ mà còn được công ty cho vay 500 USD không phải trả lãi để mua vé
máy bay, khám sức khỏe,…số tiền này sẽ được người lao động hoàn trả cho
công ty bằng cách trừ dần vào lương hàng tháng khi làm việc ở nước ngoài.
Trong thời gian chờ đi xuất khâu, người lao động được học tập trung về
phong tục tập quán, ngoại ngữ cũng như luật pháp nước bạn và các kiến thức
kiên quan với sự hướng dẫn và kiểm tra của chuyên gia nước bạn để có thể
yên tâm lên đường đi XKLĐ. Hiện nay công ty đã mở rộng mạng lưới của
mình đến các tỉnh như Hải Dương, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
40
Nội… để quảng bá rộng rãi hoạt dộng XKLĐ và tư vấn cho người lao động
các thủ tục đi XKLĐ, hứa hẹn công ty sẽ ngày càng phát triển và có uy tín
đối với nhiều thị trường trong nước và quốc tế.
Hai đơn vị trên là hai đại biểu trong rất nhiều đơn vị có thành tích trong
hoạt động XKLĐ hiện nay,từ những kết qủa cũng như tồn tại của mình, Nam
Định cần có một cái nhìn toàn diện về vấn đề XKLĐ để thấy rằng hoạt động
XKLĐ của tỉnh cần thiết phải có những mục tiêu đề ra cũng như những giải
pháp nhằm có thể hoạt động tốt hơn trong công tác XKLĐ của tỉnh nhà .
Chương III : Mục tiêu và giải pháp
I.Mục tiêu:
1.Mục tiêu chung:
Căn cứ vào thành tích đạt được những năm trước,ban chỉ đạo thực hiện
công tác XKLĐ của tỉnh đề ra mục tiêu chung cho giai đoạn 2004- 2006
phải xuất khẩu được 6000- 8000 người lao động tập trung vào lao động ở
khu vực nông thôn và những người có khó khăn về kinh tế, thiếu việc làm để
góp phần giải quyết việc làm cho lao động tỉnh nhà.
2.Mục tiêu cụ thể:
Ban chỉ đạo tỉnh đề ra mục tiêu cụ thể cho năm 2004 là XKLĐ được 3000-
3500 người lao động. Các năm tiếp theo, mỗi năm xuất được 3500- 4000
người.
Về việc thành lập ban chỉ đạo ở các huyện, phấn đấu đến năm 2005 cả tỉnh
sẽ có 100% các huyện đều có ban chỉ đạo XKLĐ của riêng tỉnh mình , nghĩa
là trong vòng 2 năm nữa sẽ phải có 5 huyện còn lại thành lập ban chỉ đạo
XKLĐ cảu riêng tỉnh mình để quản lý lao động xuất khẩu trong huyện, góp
41
phần tăng cường công tác quản lý hoạt động XKLĐ trong từng địa phương
của toàn tỉnh.
II.Giải pháp:
1.Trước hết cần củng cố và hoàn thiện hệ thống ban chỉ đạo từ tỉnh,
huyện,xã nhằm tăng cường công tác quản lý Nhà nước về XKLĐ, trong đó
ngành lao động là cơ quan thường trực của ban chỉ đạo giúp tỉnh chỉ đạo tốt
công tác XKLĐ. Trong nội bộ ban chỉ đạo, cần phân công cụ thể cho từng
thành viên, giao cho họ tăng cường kiểm tra đôn đốc hướng dẫn các huyện,
thành, thị, các doanh nghiệp XKLĐ, kịp thời nắm bắt những vướng mắc khó
khăn, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh các vi phạm về XKLĐ.
2.Về công tác thông tin tuyên truyền,cần phải phổ biến sâu rộng trên các
phương tiện thông tin đại chúng về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác
XKLĐ để người lao động tự nguyện đến đăng ký, tuyển chọn đúng chỗ,tránh
thông qua môi giới, đồng thời phổ biến cho người lao động hiểu rõ về quyền
lợi và nghĩa vụ khi tham gia hoạt động XKLĐ.
Bên cạnh đó, lấy địa bàn xã, phường, thị trấn làm cơ sở để tuyển chọn
người đi XKLĐ, do vậy ban chỉ đạo xã, phường phải làm tốt công tác tuyên
truyền đến từng khu dân cư, đồng thời giao cho trưởng khu hành chính
(làng, bản,thôn, xóm) có trách nhiệm lựa chọn những người đủ điều kiện,
chấp hành tốt các chế độ chính sách và pháp luật của Nhà nước để đưa đi
XKLĐ, kiên quyết không giới thiẹu những người vi phạm pháp luật, mắc
vào các tệ nạn xã hội đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Đồng thời, cần thông báo công khai về thị trường lao động, số lượng, tiêu
chuẩn tuyển chọn, điều kiện làm việc, sinh hoạt, các khoản phí phải nộp, các
khoản người lao động phải đóng góp và các cơ quan có thẩm quyền giải
quyết, các thủ tục để ngăn chặn kịp thời các thông tin không chính xác, các
hành vi lừa đảo gây thiệt hại cho người lao động
42
3.Về công tác tuyển chọn người lao động đi XKLĐ, cần triển khai sâu rộng
mô hình liên thông giữa các cơ quan chức năng, các doanh nghiệp làm công
tác XKLĐ, chính quyền các cấp ở địa phương, nhất là khu vực nông thôn
nhằm tuyển chọn những lao động đủ tiêu chuẩn: lí lịch rõ rang, sức khỏe tốt,
đảm bảo yêu cầu về trình độ văn hóa, chuyên môn và tự nguyện đi làm việc
ở nước ngoài. Đối tượng tuyển chọn đi XKLĐ không những là những hộ
nghèo như trước mà nên hướng thêm vào lực lượng học sinh tốt nghiệp phổ
thông trung học- đây là lực lượng dồi dào bổ sung cho lao động xuất khẩu,
lại có học vấn so với những người lao động ở nông thôn chưa được đào tạo
nên việc đưa đi lao động sẽ thuận lợi và đạt hiệu quả cao hơn nhiều.
Bên cạnh đó, đối với số lao động được chọn từ nông thôn để đào tạo, sau
khóa đào tạo nên tổ chức các đợt thi sát hạch để xem xét lao động có đủ điều
kiện để đi lao động ở nước ngoài hay không, việc phải kiểm tra sát hạch vào
cuối kỳ học sẽ làm cho người lao động có động lực hơn tog khi họ được đào
tạo bồi dưỡng, góp phần nâng cao chất lượng người lao động, tăng sức cạnh
tranh của lao động Nam Định nói riêng, lao động Việt Nam nói chung trên
thị trường lao động quốc tế.
4. Hơn nữa, cũng cần đa dạng hóa hình thức lao động, đẩy mạnh XKLĐ
theo hình thức “xen ghép” đưa lao động Việt Nam sang làm việc cùng với
công nhân nước sở tại trong cùng một dây chuyền sản xuất. Ngoài ra phải
phát triển thêm nhiều hình thức XKLĐ mới, phù hợp với cơ chế thị trường
và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như xuất khẩu theo hợp đồng giữa các tổ
chức kinh tế, theo hợp đồng giữa các cá nhân tỉnh Nam Định với các tổ chức
, cá nhân nước ngoài, XKLĐ theo hợp đồng nhận thầu xây dựng công trình
ở nước ngoài, hay thực hiện hợp đồng sản xuất ở nước ngoài…
5.Đối với các trung tâm dạy nghề, cần tăng cường năng lực, cơ sở vật chất,
củng cố đội ngũ cán bộ quản lý , các cơ sở đào tạo nghề , đào tạo giáo dục
43
định hướng , tích cực đẩy mạnh họat động đào tạo cho công nhân đặc biệt là
trang bị về ngoại nữ cho người lao động để đáp ứng được nguồn nhân lực đủ
điều kiện tiêu chuẩn. Hơn nữa, phải đa dạng hóa cơ cấu ngành nghề phục vụ
hoạt động XKLĐ trên cơ sở những nganh nghề mà thị trường đòi hỏi với
những ngành nghề mang tính tiềm năng của tỉnh.
Bên cạnh các trung tâm DVVL, các doanh nghiệp XKLĐ cần phải có trách
nhiệm trong việc báo cáo thường xuyên tình hình hoạt động của mình, hơn
nữa phai xây dựng kế hoạch sát với thực tế về số lượng, chất lượng, cơ cấu
ngành nghề, tổ chức đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo đúng
như hợp đồng đã kí.
6.Về chính sách hỗ trợ vốn cho người lao động , các ngân hàng chuyên
doanh cần triển khai thật sâu rộng chính sách cho vay vốn XKLĐ theo quyết
định số 440/2001/QĐ- NHNN ngày 17/4/2001 của Ngân hàng Nhà nướcvà
các hướng dẫn kèm theo để tạo điều kiện thuận lợi và tháo gỡ khó khăn cho
người lao động có nhu cầu vay vốn đi XKLĐ
Đồng thời Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh cần triển khai các biện pháp có
thể và thiết thực để thực hiện tốt và trước mắt là hoàn thành chỉ tiêu năm
2004 cho vay vốn đi XKLĐ là 5 tỷ đồng
7.Tiếp tục triển khai mô hình liên kết XKLĐ thông qua việc cải tiến thủ tục
để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp XKLĐ thực hiện mô hình
liên kết này. Bên cạnh đó, tỉnh cần tổ chức thường xuyên các hội chợ việc
làm và XKLĐ để người lao động có cơ hội gặp gỡ và trao đổi trực tiếp với
các doanh nghiệp XKLĐ, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong tỉnh
nhằm giúp cho người lao động tìm được việc làm trong nước hoặc đi XKLĐ
được thuận lợi, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp của tỉnh và tăng thu
nhập quốc dân, đưa tỉnh Nam Định trở thành một tỉnh mạnh trong cả nước.
44
LỜI KẾT
Việc làm và giải quyết việc làm là một trong những mối quan tâm lớn nhất
của bất cứ một địa phương nào. Việc giải quyết việc làm như thế nào cho có
khoa học và đạt được hiệu quả cả về mặt kinh tế lẫn xã hội là một câu hỏi
không chỉ đặt ra đối với cơ quan chức năng mà đối với tất cả mọi người. Đối
với nhưng sinh viên năm cuối chuyên ngành về kinh tế lao động, điều này lại
cang trở nên cấp thiết, chính vì vậy việc nghiên cứu một đề tài từ bây giơ là
hoàn toàn đúng đắn và cần thiết.
Để giải quyết việc làm,ngày nay trong xu thế hội nhập, hoạt động XKLĐ
đang được các quốc gia hết sức quan tâm, tạo nên những thị trường sôi động
cho các quốc gia . Hoạt động này cũng được nhà nước ta khuyến khích phát
triển trong vòng 10 năm trở lại đây và đã thu được những thành tựu to lớn.
Do vậy, nhằm tạo sự phát triển mạnh hơn nữa trong hoạt động XKLĐ, cần
thiết phải có những giải pháp cụ thể cho từng địa phương, đại diện là tỉnh
Nam Định như đã trình bày, để có thể hoàn thiện công tác này, cho kết quả
hoạt động ngày càng cao, góp phần đẩy nhanh sự phát triển của đất nước để
tiến gần hơn với sự phát triển như vũ bão của các quốc gia trên thế giới.
45
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình: -Kinh tế lao động
-Tổ chức lao động khoa học
-Phân tích lao động xã hội
-Bộ luật lao động
Sách: -Hỏi đáp về xuất khẩu lao động
-Thực trạng LĐ- VL tỉnh Nam Định giai đoạn 1997 - 2000
-Thực trạng lao động- việc làm tỉnh Nam Định năm 1998
-Hoạt động XKLĐ tỉnh Nam Định
Tạp chí: -Nghiên cứu kinh tế , số 314- tháng 7/2004
-Tạp chí lao động- xã hội, số 206,207,208,209,211,212/2003
số 230+231+232/2- 2004
-Tạp chí kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, số 2/4- 2001
Nghị định số 81/2003/NĐ-CP, số 152/1999/NĐ-CP
Thông tư 22/2003/TT-BLĐTBXH, số 16/2000/TTLT-BTC-BLĐTBXH
Chương trình số 07/CTr/TU của tỉnh ủy Nam Định
Cáctrang Web:
at%20khau%20lao%20dong
…
46
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cơ sở lý luận - Xuất khẩu lao động.pdf