Đề tài Cơ sở lý luận về các chính sách kinh tế

Tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận về các chính sách kinh tế: Lời mở đầu Trong chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân Việt Nam, nông nghiệp và nông thôn là mối quan tâm thường xuyên trong chính sách của Chính phủ. Trong các thời kỳ khác nhau, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP và cơ cấu đầu tư của nền kinh tế có khác nhau, nhưng nông nghiệp luôn được xác định là chỗ dựa vững chắc để giải quyết các vấn đề chung của xã hội như: an ninh lương thực quốc gia, thu hẹp hoặc tiến tới xoá bỏ nghèo đói, cung cấp nguồn nhân lực, tạo việc làm và thu hút lao động theo hướng “ly nông bất ly lương”, góp phần ổn định xã hội, tạo tiền đề để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Ngày nay khi thế giới bước sang thời hiện đại, Việt Nam với nhiều thành tựu khoa học và công nghệ có hàm lượng kinh tế cao thúc đẩy nền kinh tế nhiều nước tăng trưởng và chuyển động gia tốc. Việt Nam một quốc gia 76 triệu dân với 80% dân cư sống ở nông thôn, tỷ lệ nghèo đói cao, nguồn vốn tích luỹ đầu tư thấp. Vậy nên Việt Nam ngưỡng mộ và đón chờ công cuộc chuyển đổi từ lâu nay với...

doc39 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1420 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận về các chính sách kinh tế, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong chiến lược phát triển nền kinh tế quốc dân Việt Nam, nông nghiệp và nông thôn là mối quan tâm thường xuyên trong chính sách của Chính phủ. Trong các thời kỳ khác nhau, tỷ trọng nông nghiệp trong GDP và cơ cấu đầu tư của nền kinh tế có khác nhau, nhưng nông nghiệp luôn được xác định là chỗ dựa vững chắc để giải quyết các vấn đề chung của xã hội như: an ninh lương thực quốc gia, thu hẹp hoặc tiến tới xoá bỏ nghèo đói, cung cấp nguồn nhân lực, tạo việc làm và thu hút lao động theo hướng “ly nông bất ly lương”, góp phần ổn định xã hội, tạo tiền đề để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Ngày nay khi thế giới bước sang thời hiện đại, Việt Nam với nhiều thành tựu khoa học và công nghệ có hàm lượng kinh tế cao thúc đẩy nền kinh tế nhiều nước tăng trưởng và chuyển động gia tốc. Việt Nam một quốc gia 76 triệu dân với 80% dân cư sống ở nông thôn, tỷ lệ nghèo đói cao, nguồn vốn tích luỹ đầu tư thấp. Vậy nên Việt Nam ngưỡng mộ và đón chờ công cuộc chuyển đổi từ lâu nay với ý thức sẵn sàng tìm cơ hội để học tập và tham gia từng phần vào công cuộc cách mạng mới này của nhân loại, trước hết tập trung vào phát triển nông nghiệp và kinh tế xuất khẩu. Do vậy quá trình thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá, có quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế xuất khẩu. Nội dung đề tài bao gồm: Phần I - Cơ sở lý luận về các chính sách kinh tế I - Vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường 1. Vai trò và các công cụ quản lý của Chính phủ 2. Vai trò của chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp nông thôn. II - Các chính sách kinh tế đã được áp dụng một số nước. 1. Các chính sách kinh tế đã được áp dụng một số nước. 2. Một số bài học kinh nghiệm Phần II - Các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam I - Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam II - Các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam 1. Chính sách ruộng đất 2. Chính sách khuyến khích phát triển 3. Các chính sách và chương trình đầu tư. 4. Chính sách KHCN, khuyến nông 5. Chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất. 6. Chính sách an toàn lương thực - một hành động cân bằng tinh tế. Phần III- Đánh giá thực hiện chính sách, đường lối, giải pháp phát triển nông nghiệp nông thôn trong tương lai. I-/ Đánh giá việc thực hiện chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam. 1-/ Thành tựu. 2-/ Hạn chế. II-/ Đường lối phát triển nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam. III-/ Các giải pháp và chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn trong tương lai. 1-/ Các chương trình phát triển nông nghiệpvà nông thôn 2-/ Các giải pháp chính sách chủ yếu. Do thời gian và khả năng có hạn nên thiếu xót, sai lầm là điều không thể tránh khỏi. Vì vậy rất mong nhận được những lời chỉ bảo, góp ý của cô giáo và bạn đọc để đề tài được tiếp tục hoàn thiện. Qua đây em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Kim Dung đã hướng dẫn tận tình cho em hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Phần I cơ sở lý luận về các chính sách kinh tế I-/ Vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường: 1-/ Vai trò và các công cụ quản lý của Chính phủ: 1.1. Vai trò của Chính phủ: Trong quản lý Nhà nước, quản lý Nhà nước về kinh tế giữ vị trí đặc biệt quan trọng, bởi vì lịch sử phát triển kinh tế thế giới đã khẳng định rằng không khi nào và không ở đâu có Nhà nước phi kinh tế, đứng bên trên hay bên ngoài kinh tế. Các hoạt động của Nhà nước (người đại diện trực tiếp là Chính phủ) đều hoặc là tác động thúc đẩy hoặc là kìm hãm sự vận động của nền kinh tế; mặt khác bất cứ Nhà nước nào cũng đều có vai trò quản lý nền kinh tế quốc dân, thông qua các công cụ quản lý và can thiệp bằng hệ thống thể chế, chính sách để điều khiển nền kinh tế sao cho nền kinh tế tự thân vận động nhằm đạt tới mục tiêu mong muốn và thúc đẩy quỹ đạo đã lựa chọn. Điều khác nhau cơ bản giữa các quốc gia là Nhà nước quản lý nền kinh tế như thế nào, hình thức, mức độ can thiệp, điều tiết ra sao và đến đâu là hợp lý và thoả mãn được các yêu cầu để đạt tới các mục tiêu đã đặt ra. Thực tiễn cũng đã chứng minh mỗi quốc gia phải căn cứ vào các điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị xã hội, điều kiện cụ thể về các nguồn lực để lựa chọn các giải pháp phát triển hữu hiệu nhất cho quốc gia của mình. Học thuyết kinh tế hỗn hợp chủ trương phát triển kinh tế dựa vào cả vai trò thị trường và Nhà nước. Theo Paul A.Samuelson thì cả thị trường và Chính phủ đều quan trọng đối với phát triển kinh tế. Trong mối tương quan đó vai trò của Chính phủ là: a. Thiết lập một khung khổ luật pháp thống nhất để tạo môi trường chung cho các lực lượng thị trường hoạt động. b. Sửa chữa các khuyết tật của thị trường để đảm bảo cho nó hoạt động có hiệu quả thông qua việc Chính phủ đề ra các chính sách kinh tế vĩ mô, xây dựng các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. c. Đảm bảo sự công bằng trong xã hội, thông qua việc Chính phủ can thiệp vào các quá trình phân bổ nguồn lực, phân phối thu nhập giữa các tầng lớp trong xã hội. d. ổn định kinh tế vĩ mô: Nhiệm vụ của Chính phủ là ngăn ngừa và hạn chế tình trạng lạm phát, thất nghiệp để đảm bảo những điều kiện cần thiết cho các nhà kinh doanh hoạt động có hiệu quả. Chính phủ thực hiện các vai trò trên đây thông qua việc kiểm soát, giám sát các khoản chi tiêu của Chính phủ, sử dụng các công cụ về thuế,... 1.2. Các công cụ can thiệp của Chính phủ: - Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội là một phương thức quản lý của Nhà nước. Nó hoạt động có ý thức của Nhà nước trên cơ sở nhật thức khách quan nhằm định hướng phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như xác định các giải pháp lớn để thực hiện định hướng đó với hiệu quả kinh tế xã hội lớn nhất. - Luật pháp: là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và thừa nhận, thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất - kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và các cơ quan quản lý Nhà nước.Bằng luật kinh tế, Nhà nước quy định cơ quan tài phán trong kinh doanh, hình thành cơ chế giải quyết các tranh chấp - kinh doanh; Nhà nước quy định điều kiện thủ tục phá sản của doanh nghiệp; Nhà nước điều chỉnh hành vi kinh doanh, xác định hành vi nào là hành vi kinh doanh hợp pháp và hành vi nào là hành vi kinh doanh phi pháp; Nhà nước xác định địa vị pháp lý cho các tổ chức và đơn vị kinh tế. Trên cơ sở đó tạo lập cơ sở pháp lý cho hoạt động và Nhà nước thực hiện sự quản lý của mình đối với hoạt động đó. - Các chính sách kinh tế là một trong những công cụ chủ yếu để Nhà nước thực hiện vai trò quản lý kinh tế trong các giai đoạn phát triển nhất định là tổng thể các phương thức, biện pháp phương tiện nhất định được Nhà nước sử dụng nhằm tác động đến cá nhân nhóm người , xã hội để đạt tới các mục tiêu bộ phận trong quá trình thực hiện các định hướng mục tiêu phát triển của xã hội. Một số chính sách kinh tế: Chính sách cơ cấu kinh tế; Chính sách tài chính; Chính sách tiền tệ tín dụng; Chính sách về các chuyên ngành kinh tế; Chính sách kinh tế đối ngoại; Chính sách dân số việc làm. - Các đòn bẩy kinh tế: Những biện pháp làm tăng hiệu quả của ngành được chú trọng. Ví dụ như: giảm thuế hàng xuất khẩu để khuyến khích xuất khẩu, tăng thuế hàng hoá đặc biệt (thuốc lá, rượu, bia) để hạn chế tiêu dùng. - Lực lượng kinh tế của Nhà nước: Đầu tư vào các doanh nghiệp Nhà nước góp phần tạo nên các tế bào nền kinh tế để chi phối đến hoạt động các doanh nghiệp khác, nó là doanh nghiệp hoạt động như bao doanh nghiệp khác nhưng có sự hỗ trợ của Nhà nước, Chính phủ. Đầu tư công cộng: là bộ phận rất quan trọng của hệ thống kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, tạo nền tảng cho các doanh nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh, cũng như hệ thống tổ chức, giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật,... có điều kiện phát triển thuận lợi. 2-/ Vai trò của chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp nông thôn: 2.1. Vai trò chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp nông thôn: Chính sách là tư tưởng điển hình về các kiểu can thiệp của Nhà nước vào kinh tế thị trường. Ví dụ: một người nghĩ về “Chính sách tín dụng” thì sẽ gợi lên một sự tưởng tượng về sự can thiệp của Chính phủ trong việc cung cấp tín dụng cho nông dân. Chính phủ làm việc đó nhằm thay thế và điều chỉnh cách thức nông dân nhận tín dụng khi không có sự can thiệp của Nhà nước. Bức tranh phát hoạ một khái niệm về các chính sách. Chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp (chính sách nông nghiệp) là các biện pháp tác động, can thiệp của Chính phủ vào lĩnh vực sản xuất nông nghiệp nhằm đạt tớ mục tiêu đã lựa chọn hay là tổng thể các biện pháp kinh tế và phi kinh tế có liên quan đến Nhà nước và các ngành có liên quan nhằm tác động vào Nhà nước theo những mục tiêu cụ thể trong thời gian nhất định. Trong hai thập kỷ qua, đường lối phát triển kinh tế của nước ta tập trung chủ yếu vào nông nghiệp, phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ hàng đầu, trong khi đối tượng của các chính sách nông nghiệp là ngành nông nghiệp. Để thấy rõ vai trò của chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp, phân tích vai trò của nông nghiệp với phát triển kinh tế là điều tất yếu, cần thiết. Vai trò đó thể hiện: - Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt các nước đang phát triển. Bởi vì ở các nước này đa số người dân sống dựa vào nghề nông. Để phát triển kinh tế nâng cao phúc lợi cho nhân dân Chính phủ cần có chính sách tác động vào khu vực nông nghiệp nhằm nâng cao năng xuất cây trồng và tạo nhiều việc làm nông thôn. - Khu vực nông nghiệp cũng có thể là một nguồn cung cấp vốn cho phát triển kinh tế, có ý nghĩa lớn là vốn tích luỹ ban đầu cho công nghiệp hoá. - Dân số nông thôn ở các nước phát triển là thị trường quan trọng để tiêu thụ sản phẩm công nghiệp như tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng. - Ngành nông nghiệp góp phần cung cấp nguyên liệu đầu vào cho ngành công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến. - Ngành nông nghiệp ở các nước đang phát triển chứa một lượng lao động nhàn rỗi khác lớn, nhưng sẵn sàng đáp ứng cho ngành công nghiệp nếu cần thiết và đồng thời cũng là nơi nâng đỡ khi công nghiệp sa sút. * Chính sách nông nghiệp, một lĩnh vực phức tạp, hết sức rộng bao gồm: Chính sách ruộng đất, chính sách đầu tư, chính sách tín dụng, chính sách thị trường tiêu thụ nông sản phẩm, chính sách thuế nông nghiệp, chính sách khoa học công nghiệp và khuyến nông, mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác, đổi mới chính sách xã hội nông thôn, chính sách đào tạo, sử dụng đội ngũ và đãi ngộ cán bộ nông nghiệp nông thôn,...nhưng vai trò thể hiện ở ba hướng sau: - Các chính sách có vai trò tác động trực tiếp vào nguồn sản xuất, làm thay đổi quy mô cũng như phương hướng sản xuất kinh doanh trong những điều kiện cụ thể và với thời gian nhất định. Các chính sách cụ thể: chính sách tỷ giá đầu ra, chính sách tín dụng cho đầu vào, chính sách đầu tư phát triển, cơ sở hạ tầng cần cho sản xuất, chính sách ruộng đất, chính sách khuyến nông, triển khai.Người sản xuất thường rất nhạy cảm đối với các loại chính sách này do chúng tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới lợi ích vật chất của họ. Bởi vậy Chính phủ thường phải rất cẩn thận khi sử dụng chúng trong ứng xử với nông dân, nhằm đạt tới mục tiêu chung của xã hội. - Các chính sách vĩ mô tác động trong phạm vi kinh tế nội địa, có tác động điều chỉnh một hoạt động hoặc một tập hợp các hoạt động kinh tế nhất định bao gồm các chính sách: chính sách thuế, chính sách trợ cấp, chính sách đầu tư giáo dục, nếu kế hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đời sống nông thôn.Các chính sách này có vai trò tác động gián tiếp đến người sản xuất nông nghiệp, nhằm hiệu chỉnh các mối quan hệ giữa nông nghiệp với các khu vực khác trong toàn nền kinh tế, giữa người sản xuất nông nghiệp với người tiêu dùng nông sản trong xã hội. - Các chính sách tác động hiệu chỉnh mối quan hệ kinh tế nội địa với kinh tế quốc tế bao gồm: Chính sách thuế nhập khẩu nhằm hạn chế hoặc khuyến khích nhập khẩu một loạt sản phẩm hoặc vật tư nào đó; Chính sách trợ cấp hoặc đánh thuế xuất khẩu: điều tiết khối lượng sản phẩm xuất khẩu khi muốn khuyến khích hoặc hạn chế xuất khẩu; Chính sách hạn ngạch nhập khẩu, thuế nhập khẩu: hạn chế khối lượng sản phẩm nhập khẩu; Sử dụng hàng rào phi thuế quan, bằng nhiều văn bản quy định ngặt nghèo về tổ chức y tế, chất lượng sản phẩm, gây trở ngại cho nhập khẩu; Chính sách tỷ giá: để điều chỉnh quan hệ xuất nhập khẩu giữa các nhóm hàng tham gia xuất nhập. 2.2. Tác dụng của một số chính sách cụ thể: - Chính sách trợ cấp đầu vào cho sản xuất: Đó là: cung cấp với giá rẻ, thậm chí trong một số trường hợp cho không các loại vật tư như: phân hoá học, thuốc trừ sâu bệnh, hạt gống mới và nước tưới cây trồng giúp nông dân chủ động, thuận lợi trong sản xuất đặc biệt là đối với những nông dân nghèo, gặp nhiều khó khăn trong việc mua phân bón cho sản xuất, việc trợ cấp phân bón sẽ tạo điều kiện hạ thấp chi phí cận biên của người sản xuất đồng thời làm tăng sản lượng. Mức tăng của sản lượng tỷ lệ thuận lợ với mức gia tăng sử dụng phân bón, như vậy hiệu quả của trợ cấp đầu vào không làm ảnh hưởng đến giá cả thị trường nông sản nội địa vì nền kinh tế là mở cửa, giá nông sản chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi giá quốc tế. Người sản xuất được hưởng lợi từ chính sách trợ cấp đầu vào một giá trị thu nhập bằng giá trị trợ cấp cộng với thặng dư được tạo ra từ sản lượng gia tăng bổ sung thu được mà thị trường phải thanh toán cho người sản xuất với giá nhất định. Trong trường hợp chính sách được áp dụng lâu dài, lợi ích thu được sẽ khuyến khích nông dân sử dụng phân hoá học để thâm canh sản xuất, và đến chừng mực nào đó nếu cắt giảm hoặc thôi trợ cấp nông dân vẫn tiếp tục tăng sử dụng phân bón để tăng sản lượng, đây là kết quả rất tích cực của chính sách hỗ trợ phân bón. Đặc biệt đối với nền kinh tế tiểu nông nghèo nàn, chính sách hỗ trợ phân bón có ý nghĩa to lớn và tác động nhanh đến việc gia tăng sản lượng giúp nông dân chuyển sang sản xuất hàng hoá, thích ứng với thị trường. - Chính sách trợ giá đầu ra:Chính phủ chi ra khoản trợ cấp biến đổi bằng tổng giá trị cần bù đắp chênh lệch giữa giá đảm bảo được trợ cấp và giá thị trường hạ thấp. Chính sách trợ giá đầu ra làm người sản xuất hoàn toàn yên tâm vì dù trong hoàn cảnh nào họ vẫn bán được sản phẩm với giá đảm bảo mức thu nhập, kích thích họ duy trì và phát triển sản xuất. Trái lại chính sách trợ giá đầu ra gây thiệt hại cho ngân sách Chính phủ giá trị thiệt hại được tính bằng cách đem chi phí đầu vào trừ đi phần thu lợi về ngoại tệ do không phải nhập khẩu sản phẩm được trợ giá. - Chính sách trợ cấp lương thực, thực phẩm cho người tiêu dùng: tác động cơ bản của chính sách trợ cấp tiêu dùng là tăng khối lượng cầu nội địa, không làm tăng cung (khu vực sản xuất). Người tiêu dùng được hưởng lợi từ chính sách một giá trị thu nhập bằng mức trợ cấp theo đơn vị sản phẩm nhân với tổng số đơn vị tiêu dùng, còn người sản xuất nông nghiệp không được hưởng lợi gì từ chính sách nên không gia tăng sản xuất. Thực hiện chính sách này người chịu thiệt hại là người đóng thuế. Do đó có thể nói rằng chính sách trợ cấp tiêu dùng về lương thực, thực phẩm ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp. II-/ Các chính sách kinh tế đã được áp dụng ở một số nước: 1-/ Các chính sách kinh tế đã được áp dụng ở một số nước: a-/ Chính sách ruộng đất: Tổ chức sản xuất lấy hộ nông dân làm chủ thể sản xuất đã định hướng chính sách ruộng đất nông nghiệp ở các nước là: ruộng đất phải được sử dụng, chi phối theo quyền tự do phát triển sản xuất - kinh doanh của hộ nông dân nói chung. Chính phủ các nước tạo điều kiện cho nông dân được quyền “sở hữu tương đối” về đất đai canh tác bằng nhiều cách như: chia đất công, bán rẻ trả dần, khai hoang đất mới,... nông dân được quyền mua - bán và luân chuyển ruộng đất theo nhu cầu của cuộc sống và sản xuất, từ đó đất sản xuất được hình thành giá cả rõ ràng, tạo nên thị trường ruộng đất nói riêng và đất đai nói chung rất phổ biến ở Châu á như: Thái Lan, Philippin, Malaysia,... Chính sách ruộng đất kích thích sử dụng có hiệu quả ruộng đất, nhanh chóng phát triển sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, với giá trị gia tăng cao, đảm bảo điều kiện để nông dân phát huy hết khả năng kinh doanh nông nghiệp của từng hộ gia đình. Song mặt trái của quá trình mua - bán luân chuyển tự do ruộng đất đã dẫn đến sự tích tụ không hợp lý ruộng đất vào tay một số tư nhân không trực tiếp tham gia vào kinh doanh sản xuất nông nghiệp (chỉ thuần tuý kinh doanh đất đai). Trả giá cho sự tích tụ này là có hàng triệu hộ nông dân do bán đất canh tác để lấy tiền sinh sống trước mắt, dẫn tới rơi vào tình trạng cùng quẫn không còn đất sản xuất trong khi các khu vực sản xuất công nghiệp và dịch vụ chưa đủ sức thu nhận họ, dẫn đến tình hình xã hội nông thôn và toàn xã hội nói chung thiếu ổn định như ở Philippin. ở Thái Lan đang diễn ra tình trạng nông dân nghèo phải bán ruộng đất tốt cho các khách sạn, các chủ doanh nghiệp công nghiệp và du lịch, trở thành người lang thang đi kiếm sống ở thành phố và tự di chuyển lên các vùng đất mới để khai thác tài nguyên. Điều đó gây ra rất nhiều khó khăn cho Chính phủ và toàn xã hội, là mặt trái của chính sách tự do hoá mua - bán ruộng đất ở nông thôn. b-/ Chính sách tín dụng: Các khoản tín dụng cần thiết cung cấp cho hộ nông dân được thực hiện qua hệ thống tín dụng Nhà nước, các tổ chức kinh tế (hợp tác xã, trung tâm tín dụng - kỹ thuật) và các tổ chức tự nguyện của nông dân trong nông thôn. Phần lớn những khoản tín dụng này được thực hiện với lãi suất vay ưu đãi. Rất nhiều nước và lãnh thổ đã và đang áp dụng chế độ cho nông dân vay vốn với lãi suất ưu đãi (vài ba phần trăm một năm) như: Bănglađet, Thái Lan, Philippin, Inđônêxia, Malaysia, Hàn Quốc, Đài Loan,... Việc cung cấp tín dụng ưu đãi cho hộ nông dân, đặc biệt là các hộ nghèo, thiếu vốn sản xuất hoàn toàn có ý nghĩa to lớn trong việc giúp họ vươn lên thoát khỏi cảnh nghèo nàn. Nhờ hỗ trợ vốn, họ có thể khai thác được nhiều hơn các nguồn tài nguyên và nguồn lực sẵn có trong gia đình. Có thể nói, chính sách tạo vốn qua tín dụng ưu đãi là một chính sách có hiệu quả cả về mặt kinh tế và xã hội. Đây chính là lý do mà nhiều Chính phủ đã theo đuổi chính sách này trong chiến lược phát triển sản xuất nông nghiệp và quan hệ với nông dân, ngư dân và những người sản xuất nhỏ (tiểu thủ công nghiệp) ở các vùng nông thôn rộng lớn vốn còn nghèo nàn, lạc hậu. c-/ Chính sách hỗ trợ phân bón, thuốc trừ sâu: Chính sách hỗ trợ phân bón, thuốc trừ sâu giúp nông dân tăng năng suất cây trồng và giảm thiểu sự tàn phá của dịch bệnh là một định hướng tích cực trong chính sách chung đối với nông nghiệp và nông thôn. Sự tài trợ giá cả phân bón và thuốc trừ sâu cho nông dân được nhiều Chính phủ ở các nước Châu á quan tâm, coi đây là vấn đề có tính chiến lược. ở Inđônêxia, trước năm 1984 Chính phủ chỉ đạo việc bán phân bón cho nông dân thống nhất theo giá bằng 40% giá thành sản xuất phân bón. Nhà nước đã đầu tư xây dựng các xí nghiệp công nghiệp sản xuất phân bón khá phát triển trong nước. Ngoài ra, Chính phủ còn trợ cấp giá thuốc trừ sâu tới 60% giá sản xuất. ở Malaysia Nhà nước quyết định cho không các hộ nông dân nghèo 80 kg Urê/năm, cấp không thuốc trừ sâu khi có sâu bệnh nặng. ở Nhật Bản, Hàn Quốc, chính sách ổn định giá cả và cung cấp thuận lợi phân bón và thuốc trừ sâu đã kích thích nông dân thâm canh đồng ruộng đạt tới mức kỷ lục của thế giới. d-/ Chính sách nghiên cứu triển khai nông nghiệp, nhằm giúp nông dân các kiến thức sản xuất và tiếp cận thị trường nông sản trong và ngoài nước. Trong số các nước đang phát triển, Thái Lan là một điển hình tốt về chính sách này. Nhà nước chú trọng xây dựng các trạm trại nghiên cứu nông nghiệp. Chính phủ đã chi cho công tác nghiên cứu triển khai nông nghiệp lớn hơn 1,7 lần so với công tác nghiên cứu và sử dụng quỹ này một cách tập trung có hiệu quả vào các cây trồng phục vụ xuất khẩu có giá trị và có vị trí chiến lược đối với nền kinh tế. Cục triển khai nông nghiệp Thái Lan (DOAE) là cơ quan khuyến nông rất có hiệu quả của Nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động triển khai để thực hiện chính sách đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp DOAE không chỉ triển khai các kỹ thuật thông qua tham quan, đào tạo mà còn sản xuất một khối lượng lớn các loại hạt giống mới cho nông dẩn trong hầu hết các vụ chính.Chính sách nghiên cứu và triển khai nông nghiệp ở Thái Lan có tác động lâu dài đến sự thay đổi về năng suất nông nghiệp. Một trong những kinh nghiệm hay của Thái Lan là Chính phủn đã lôi kéo, thu hút được đông đảo tư nhân tham gia vào các chương trình khuyến nông nhằm đào tạo ra các mô hình trồng trọt hỗn hợp, canh tác đa dạng. e-/ Chính sách hỗ trợ đầu ra của sản xuất Chính sách tác dụng bảo trợ sản xuất cho nông dân qua việc mua và ổn định giá đầu ra các mặt hàng quan trọng nhằm giảm thua thiệt cho nông dân khi giá trị thị trường hạ dưới chi phí sản xuất. Điển hình trong sử dụng chính sách này là Inđônêxia, Nhật Bản, Trung Quốc. Thái Lan đã cấp nửa tỷ bạt (tương đương 20 triệu USD) để thực hiện chính sách này. Chính phủ Trung Quốc thực hiện ký hợp đồng mua ổn định lúa gạo cho nông dân, tăng giá thóc mua vào, khuyến khích nông dân bán lúa gạo cho Nhà nước. f-/ Chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho kinh tế nông thôn Xây dưng cơ sở hạ tầng hiện đại, gồm có: công trình tưới, tiêu, đường xá, điện, phương tiện giao thông; Nhập khẩu các kỹ thuật nhất định từ nước ngoài và tăng cường khả năng nghiên cứu triển khai trong nước; Phát triển nguồn nhân lực; Phát triển và bảo vệ các nguồn tài nguyên và môi trường; Động viên tiết kiệm từ nông sản dư thừa và chuyển chúng đến nơi cần thiết; Giảm thất nghiệp và đói nghèo; Chăm sóc sức khoẻ, dinh dưỡng cho dân cư; Đổi mới các thể chế và tổ chức như hợp tác xã nông dân, ngân hàng, hiệp hội. Như vậy, chức năng lớn nhất mà Chính phủ phải đảm nhận là đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho nông thôn. Gánh nặng về phát triển cơ sở hạ tầng chỉ có thể giảm nhẹ khi khu vực tư nhân ở nông thôn phát triển mạnh mẽ đủ sức để hỗ trợ Chính phủ một phần trong việc thoả mãn nhu cầu chung về phát triển cơ sở hạ tầng. 2-/ Một số bài học kinh nghiệm Một là, kinh tế nông nghiệp và nông thôn là một bộ phận quan trọng của mọi hệ thống kinh tế, nó chứa đựng nhiều yếu tố khó khăn, kém phát triển, người nghèo đông so với khu vực khác vì vậy chính sách kinh tế của Chính phủ phải thể hiện: coi trọng phát triển sản xuất, tạo cơ sở đảm bảo nguồn lương thực cho chính dân cư nông thôn và toàn xã hội, trên cơ sở đó phát triển toàn nền kinh tế - sự nâng đỡ ưu đãi cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế đất nước, khi nông nghiệp nông thôn còn yếu kém và trong hoàn cảnh lạc hậu, trợ giúp nông dân nghèo ở nông thôn được xem là tư tưởng chung trong chính sách đối với nông nghiệp và nông thôn. Hai là, cùng với khuyến khích phát triển sản xuất nông nghiệp, chính sách phải hướng vào tái tạo các nguồn lực đầu vào và bảo vệ môi trường sinh thái bảo đảm sự phát triển lâu bền. Đó là sự tiến bộ và tích cực của chính sách kinh tế trong các điều kiện khác nhau. Ba là, sự lựa chọn chính sách phù hợp cho từng giai đoạn phát triển, đối với từng khu vực nông thôn khác nhau đóng vai trò quyết định sự thành công của quá trình vận hành, không chính sách nào có thể tác động trực tiếp với các chính sách tác động gián tiếp là một yêu cầu rất quan trọng. Bốn là, cải cách và đổi mới chính sách kinh tế đối với nông nghiệp, nông thôn là quá trình liên tục, không có khuôn mẫu định sẵn cho bất kỳ một hệ thống hay một kiểu hệ thống cụ thể nào: Kinh tế nông thôn chỉ có thể phát triển thành công trong kinh tế thị trường khi các thể chế kinh tế đối với nông thôn hoạt động đồng bộ, có mục tiêu tác động cùng chiều và hiệu ứng cao. Năm là, tất cả các chính sách mà chính phủ áp dụng đều rất cần thiết. Song các chính sách chủ yếu tập trung hỗ trợ đầu vào, hỗ trợ vào chính sách giá cả, thị trường, chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, chính sách bảo trợ sản xuất nông nghiệp, giảm nhẹ điều tiết thu nhập từ nông dân. Sự khác nhau chỉ là ở sự lựa chọn về liều lượng thời gian và sự phối hợp giữa các chính sách. Phần II Các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam I-/ Đặc điểm nông nghiệp Việt Nam - Nông nghiệp là ngành có lịch sử phát triển lâu đời, các hoạt động nông nghiệp đã có từ hàng nghìn năm nay kể từ khi con người từ bỏ nghề săn bắn và hái lượm. Do lịch sử lâu đời nên dù khoa học kỹ thuật phát triển với nhiều máy móc hiện đại, người nông dân vẫn áp dụng các kỹ thuật truyền thống để canh tác, trồng trọt. - Nông nghiệp là ngành tạo ra sản phẩm thiết yếu nhất của con người, lương thực là sản phẩm chỉ có ngành công nghiệp sản xuất ra, con người có thể sống không cần sắt thép, than, điện nhưng không thể thiếu lương thực. Do đó nước nào cũng phải sản xuất hoặc nhập khẩu lương thực. - Hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Thời tiết, gần nước, độ màu mỡ cấu tạo thể nhưỡng của đất đai mỗi nơi một khác nên việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi, và cả kỹ thuật canh tác cũng khác nhau. - Tỷ trọng lao động và sản phẩm nông nghiệp trong nền kinh tế có xu hướng giảm. Việt Nam lao động nông thôn chiếm 75% tạo ra sản phẩm chiếm 30 - 60%. Sự biến động này chịu sự tác động của quy luật tiêu dùng sản phẩm và quy luật người lao động. II-/ Các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam 1-/ Chính sách ruộng đất Ruộng đất là mối quan tâm hàng đầu của người nông dân. Sự phát triển nông nghiệp nông thôn của đất nước, trước hết phụ thuộc vào mối quan hệ của nông dân với ruộng đất và việc sử dụng có hiệu quả ruộng đất của họ trong phạm vi cả nước. Vì vậy giải quyết mối quan hệ ruộng đất có ý nghĩa cực kỳ quan trọng cho sự phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá. Chính sách đầu tiên phải kể đến là việc bảo đảm quyền sử dụng đất cho người nông dân. Sự gắn bó những người tiểu nông đối với mảnh đất của mình là rất sâu sắc. Nó gắn chặt với suy nghĩ của người nông dân về quyền tự do không bị áp bức và khả năng cải thiện đời sống cho gia đình. Do đó nếu bị tước đoạt mảnh đất của mình, họ sẽ có nguy cơ bị bần cùng hoá. Chính vì vậy cải cách ruộng đất thường được coi là điều kiện cần đầu tiên để phát triển nông nghiệp ở nước đang phát triển. Cải tiến quản lý đất đai, đảm bảo quyền sử dụng đất lâu dài một điều kiện tiên quyết quan trọng để cải thiện các ưu tiên, ưu đãi đối với người dân đầu tư cải tạo đất. Trong khuôn khổ cải cách ruộng đất gần đây, đất đai được phân bổ cho các cá nhân, sẽ được đăng ký không chính thức tại các đơn vị địa chính cấp xã. Việc đăng ký này sẽ được xác nhận thông qua cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp (Sổ đỏ). “Đất nông nghiệp” là đất được xếp vào hạng có thể phù hợp cho nông nghiệp, chủ yếu là do lịch sử sử dụng đất từ trước, đã được chứng kiến các tiến bộ hợp lý xét về tốc độ phân đất và việc cấp giấy chứng nhận sử dụng đất. Tuy nhiên đã có nhiều lo ngại về vấn đề liệu “quyền canh tác trên đất” đã đủ cung cấp các động lực, đủ để cho người dân đầu tư cải tạo đất dài hạn. Các đánh giá ban đầu cho thấy, điều này chưa phải là hạn chế nghiêm trọng so với những tác động của việc thả nổi môi trường thị trường đất đai như trường hợp của Thái Lan (ví dụ như đầu tư vào canh tác cây lâu năm tại các khu vực đất đồi không cần phải có giấy chứng nhận). Tuy nhiên, điều này không hề có nghĩa là việc cấp chính thức giấy chứng nhận sử dụng đất lại có thể đi chậm lại. Một khoảng trống quan trọng hơn nữa có liên quan tới việc cấp đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với “đất rừng”, mặc dù phù hợp với nông nghiệp, theo đó việc cấp lần sau các chứng nhận sử dụng đất và các tác động được, mất về môi trường sẽ gặp phải. Cùng với cải cách ruộng đất, việc xác định hình thức sở hữu và sử dụng đất đai là cơ sở hình thành phương thức tổ chức sản xuất và phân phối sản phẩm nông nghiệp. Vì vậy giải quyết tốt quan hệ sở hữu, sử dụng ruộng đất hợp quy luật, hợp lòng người là chiếc chìa khoá tập thể các biện pháp nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế xã hội đối với nông dân - nông nghiệp - nông thôn. Nhà nước giao đất cho hộ gia đình có quyền tự do kinh doanh trên đất của mình nhưng sở hữu chỉ là khái niệm tương đối. Quyền sở hữu ruộng đất thuộc về Nhà nước, do Nhà nước quản lý theo luật pháp. Điều đó là hợp lý, nhưng cần có sự phân biệt giữa các loại đất, các vùng khác nhau về mức độ sở hữu. Đất rừng, sông, biển, thềm lục địa, những vùng có tài nguyên quý hiếm trong lòng đất, đất canh tác được hình thành trong nhiều năm nay, đất chuyên dùng... phải hoàn toàn do Nhà nước sở hữu. Điều đó sẽ có lợi cho việc quản lý và khai thác các tiềm năng của đất. Còn đất hoang, đồi núi trọc... hiện tại vô chủ, không có người quản lý và sử dụng, Nhà nước không có vốn đầu tư khai phá... thì chấp nhận hình thức đồng sở hữu giữa Nhà nước và nhân dân. Quyền sở hữu tối cao của Nhà nước được thể hiện thông qua các luật liên quan đến đất đai như thuế đất, luật đầu tư, chính sách điều tiết vĩ mô (quy hoạch, phân vùng, đầu tư vốn, xác định phương hướng sản xuất). Nhà nước không tham gia quản lý cụ thể từng khu đất, loại đất, không điều hoà đất giữa các tổ chức, tập thể hoặc cá nhân đã đầu tư khai phá các loại đất này. Các tổ chức và cá nhân nói trên không chỉ có quyền sử dụng mà còn có quyền mua, bán, chuyển, nhượng đất đai do họ khai phá theo quy hoạch và định hướng chung của Nhà nước. Đó là hình thức “bán sở hữu” đối với ruộng đất do họ khai phá, một hình thức chiếm hữu cá thể có điều kiện, còn quyền sở hữu tối cao vẫn thuộc về Nhà nước. Thời hạn quyền sở hữu ruộng đất, Nhà nước giao ruộng đất cho nông dân sử dụng là lâu dài. Nghị quyết 10 quy định thời gian giao khoán là 15 năm, sản lượng khoán ổn định 5 năm, những các hợp tác xã, các địa phương lại thực hiện sai nguyên tắc làm cho nông dân không yên tâm đầu tư vào ruộng khoán, không muốn nhận đất đấu thầu. Kết quả điều tra xã hội học năm 1990 cho thấy 59,47% nông dân không muốn đấu thầu, 3,8% muốn trả ruộng khoán, 25,92% cho rằng khoán ruộng đất chưa hợp lý, chỉ có 43,64% muốn tiếp tục củng cố hợp tác xã... còn ở Nam Bộ thực hiện khoán “nguyên canh” khó phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất. Dự báo mức tăng dân số ở Việt Nam cao (1,7%) ruộng đất canh tác nông nghiệp thì có hạn chế đã gây nên một mâu thuẫn cần giải quyết để phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. Trong hoàn cảnh thiếu đất canh tác nông nghiệp, chính sách và các ưu tiên, ưu đãi đối với việc sử dụng đất có tác động không chỉ đối với vấn đề môi trường và sự xuống cấp của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhưng đồng thời cũng sẽ có tác động tới đa dạng hoá canh tác. Ví dụ, việc mở rộng canh tác trồng cao su trên đất bazan, ở cao nguyên đất bằng hay ở các thung lũng đồi đất cao ở các tỉnh Tây Nguyên như Dak Lak có thể không phải bỏ ra nhiều chi phí vào đầu những năm 80 nhưng bây giờ sẽ là mọt vấn đề cần xem xét. Do nhu cầu tăng cao đối với các sản phẩm chăn nuôi và yêu cầu tập trung các nguồn thức ăn cho lợn, gia cầm, bò sữa, và nuôi tôm, thì nhu cầu trồng ngô và các hạt có dầu khác (để sản xuất các thức ăn protein) đã được mở rộng canh tác nhanh chóng. Việc mở rộng hơn nữa trồng cao su tại các khu vực đất tương đối mầu mỡ và bằng phẳng này có thể sẽ ngăn cản việc mở rộng canh tác của các loại cây hàng năm có giá trị kinh tế, bởi vì, một khi đã đi vào canh tác một loại cây này thì rất tốn kém để chuyển sang canh tác loại cây kia. Ngoài ra, nếu như tất cả các vùng đất dốc dành cho việc canh tác các cây hàng năm có giá trị kinh tế, thì việc mở rộng diện tích canh tác cây lâu năm trước đó ở các diện tích đất bằng phẳng có thể có tác động tiêu cực đối với môi trường cũng như nội dung kinh tế. Chính vì vậy, cần phải quan tâm công tác kế hoạch trước khi đầu tư vào cây lâu năm, trong đó có xem xét tới các chi phí của việc sử dụng các diện tích đất đó. Tương tự như vậy, đối với trường hợp mở rộng diện tích trồng cà phê ở Tây Nguyên thì lợi nhuận của đầu tư lại phụ thuộc hoàn toàn vào tính sẵn có các nguồn nước tưới ngầm, tác động của môi trường; ví dụ: việc cạn kiệt nguồn nước ở Dak Lak đã chứng minh rằng yêu cầu cần phải có các biện pháp thiết thực để hạn chế tình hình này. Một lo ngại khác ít khi được nhắc đến có liên quan tới các diện tích đất nông nghiệp tiềm năng đặc biệt ở các vùng đất cao, đó là chính sách phân đất và cấp quyền nắm giữ đất cho các nông dân, dựa trên “hiệu quả phát triển” của họ trong việc sử dụng đất. Điều này đã dẫn tới tình trạng các hộ nông dân giầu có lại được giao nhiều diện tích đất mà trước kia là đất trống, đồi núi trọc. Điều này không chỉ mở rộng hơn khoảng cách thu nhập giữa cộng đồng, thực hiện chính sách này còn có thể gây ra các tổn thất hiệu quả tiềm năng trong việc phát triển đất. Xét tới diện tích ban đầu phân bổ dựa trên khả năng đầu tư hiện có của từng cá nhân (nghĩa là: hiệu quả phát triển) chứ không phải là khả năng tiềm tàng của các hộ gia đình có thể đóng góp vào khả năng mở rộng sản xuất nhờ có một hỗ trợ tài chính và các hỗ trợ khác ở mức độ tối thiểu. Chính vì vậy, sẽ có sự đánh đổi giữa các kết quả ngắn hạn và cơ hội sử dụng tốt hơn nữa nguồn nhân lực hiện có về mặt trung hạn. Sự đánh đổi này, cùng việc đảm bảo ổn định xã hội về mặt trung hạn đến dài hạn, là vấn đề cần phải đối mặt ngay. 2-/ Chính sách khuyến khích phát triển. Phát triển nông nghiệp từ năm 1988 rất đa dạng nhờ các chính sách phát triển của Chính phủ trong công cuộc đổi mới hoặc chính sách cải cách bao gồm các biện pháp, chính sách kinh tế vĩ mô và kinh tế ngành. Trong số các chính sách chống lạm phát, ổn định nền kinh tế vĩ mô, những chính sách sau đặc biệt quan trọng: (a) hướng đồng Việt Nam gần hơn với tỷ lệ trao đổi thị trường; (b) duy trì mức lãi suất trên mức lạm phát; và (c) giảm bao cấp cho các xí nghiệp quốc doanh. Đổi mới cũng bao gồm tự do hoá giá, thị trường và các hoạt động thương mại. Vào những năm đầu thập kỷ 1990, việc công bố các luật để tăng cường lĩnh vực thương mại bao gồm Luật Ngân hàng mới và các luật kinh doanh/doanh nghiệp (sửa đổi luật liên doanh). Các biện pháp cụ thể trong lĩnh vực nông nghiệp bao gồm: (a) chuyển dịch từ canh tác tập thể, kế hoạch hoá tập trung sang chế độ canh tác cá nhân/gia đình; (b) tăng việc giao đất hợp tác xã/Nhà nước cho cá nhân sử dụng với các quyền của người sử dụng đất; (c) tăng cường quản lý và tự chủ về tài chính đối với các doanh nghiệp Nhà nước (bao gồm các nông trường quốc doanh và hợp tác xã); và (d) xoá bỏ các hạn chế về lưu thông lương thực liên tỉnh. Những thay đổi này đã tạo ra các điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp hoá và “thị trường hoá” nền kinh tế nông thôn. Các cửa hàng tư nhân phát triển rất nhanh ở nông thôn đã không chỉ phục vụ người tiêu dùng và các yêu cầu đầu vào cho sản xuất của các cộng đồng làng nhỏ mà còn cung cấp một phần nhỏ các nhu cầu của họ về vốn và phục vụ như “cơ sở khuyến nông/thị trường” cho các chủ bán lẻ các mặt hàng có nhu cầu thị trường cao. Tình hình này tạo ra các tiền đề để đa dạng cơ cấu cây trồng hàng năm theo các yêu cầu thị trường. 3-/ Các chính sách và chương trình đầu tư. Rất nhiều các hoạt động cải cách trong lĩnh vực nông nghiệp vào cuối những năm 80 tới đầu những năm 90 là kết quả các đầu tư được thực hiện cuối những năm 70 tới giữa những năm 80. Từ năm 1976 - 1986, khai hoang đất và tái định cư đã giúp tăng diện tích trồng trọt gần 20%. Diện tích trồng cây lương thực đã tăng đến đỉnh cao vào năm 1980 và sau đó đã giảm từ từ, điều đó chỉ ra Việt Nam đã đạt tới giới hạn đất có thể khai thác cho nông nghiệp. Tổng đầu tư cố định trong nông, lâm nghiệp đã tăng đáng kể vào cuối những năm 70 và giữa những năm 80. Đầu tư vào các công trình thuỷ lợi, năng lượng và giao thông, chủ yếu thông qua thương mại với CMEA và các hiệp định đầu tư với USSR. Các nước CMEA cũng tài trợ mở rộng rồng các cây thân cứng (chè, cà phê, hạt điều và cao su) và ngành dệt mà trước đây do các nông trường quốc doanh quản lý, nhưng hiện nay đặc biệt với cao su đang chủ yếu được các công ty bao cấp (tài sản hoặc các nhà máy) cho các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN). Sau khi giảm dần nhịp độ đầu tư từ cuối những năm 80, nông nghiệp đã tăng đáng kể từ những năm 90. Các xí nghiệp Nhà nước đã tăng khoản đầu tư của họ cho cao su từ 21 triệu đồng năm 1990 lên 102 tỷ đồng năm 1994 và cho cà phê từ 3 triệu năm 1990 lên 16 triệu năm 1994. Trong cùng thời gian này, đầu tư vào thuỷ lợi đã tăng từ 244 lên 1.240 tỷ đồng; đầu tư Nhà nước trong chăn nuôi cũng tăng từ 17 lên 106 tỷ đồng. Đầu tư vào thuỷ lợi để phát triển trồng lúa sẽ cấp nước cho 3 triệu ha trong số 4,2 triệu ha đất canh tác hiện nay. Do hệ thống không hoàn thiện, thiếu xót về quy hoạch và thiết kế, thiếu nước và vận hành kém, chỉ có 2 triệu ha đất hiện nay thực sự được tưới. Mặc dù thực tế này, đầu tư vào thuỷ lợi giữa những năm 91 - 95 đã đem lại 0,5 triệu ha đất mới cho trồng lúa (xem Kế hoạch - Đầu tư công cộng của Việt Nam) phần lớn là do cải tạo đất chua phèn vùng đất ướt đồng bằng sông Cửu Long. Với mức độ tương đương 125.000 ha/năm và giả sử tăng năng suất 2 tấn/ha, vùng đất mới khai thác cho trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long đã góp phần làm tăng sản lượng thêm 250.000 tấn/năm. Tăng năng lực tưới, tự do hoá thị trường trong môi trường kinh tế vĩ mô bền vững, đảm bảo an toàn hơn về quyền sử dụng đất và tăng khả năng tín dụng (sẽ thảo luận ở phần dưới), đã cho phép nông dân đáp lại được các thay đổi về giá bằng cách tăng đầu tư vào các kỹ thuật công nghệ hiện đại phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Bảng - Tăng trưởng sản xuất lúa hàng năm và sử dụng vật liệu đầu vào Mức tăng trưởng trung bình năm (%) 1980 - 1987 1987 - 1994 Sản lượng lúa 4,2 4,8 Phân bón 17,3 12,0 Chi phí của Chính phủ vào thuỷ lợi Chưa có số liệu 136,8 Các loại giống mới 4,9 11,2 Máy kéo - 1,0 27,9 Bơm Chưa có số liệu 25,9 Trung bình từ năm 1987 (1986 - 1988) đến năm 1994 (1993 - 1995), mức tăng trưởng năm của mỗi đơn vị máy kéo (đơn vị có công suất nhỏ hơn) và bơm là 28% và 26%. Mặc dù tỷ lệ sử dụng giảm sau năm 1987, tổng lượng phân bón sử dụng (khoảng 80% số phân bón được sử dụng cho sản xuất lúa) vẫn rất đa dạng. Diện tích trồng các loại giống mới được tăng gấp đôi. Do tính chất đầu tư và lựa chọn công nghệ sản xuất, cơ cấu sản xuất lúa đã thay đổi, đặc biệt là ở đồng bằng sông Cửu Long. ở vùng này, 44% diện tích trồng lúa năm 1995 được sử dụng cho vụ hè (vào thời gian này các giống lúa hiện đại phát huy tác dụng cao nhất) so với 26% trong năm 1985. Ngược lại, cơ cấu mùa vụ sản xuất lúa vẫn không thay đổi ở vùng núi và đồng bằng, trung du Bắc Bộ và ở Tây Nguyên. Ngân sách giành cho chương trình tái định cư (do tính chất liên quan với việc thành lập các nông trường quốc doanh) rất quan trọng khi đầu tư vào nâng cao khả năng sản xuất của các cây công nghiệp (đặc biệt là các cây thân cứng từ giữa những năm 70 cho đến cuối năm 1980). Các năm 1976 - 1990, có 3,9 triệu người được tái định cư theo những chương trình khác nhau, quan trọng nhất là chương trình “định cư có tổ chức” bắt đầu từ năm 1977 do Bộ Lao động Thương binh và Xã hội thực hiện để khuyến khích thành lập các “vùng kinh tế mới” nhằm định cư lâu dài. Các hợp tác xã và nông trường quốc doanh được hỗ trợ về tài chính để đầu tư vào xây dựng các công trình hạ tầng cơ sở và các dịch vụ sản xuất. Chương trình này cùng với “Chương trình Định canh Định cư” của Chính phủ đã tạo ra cơ hội cho các nhóm dân tộc thiểu số định cư lâu dài ở một nơi và một phần hỗ trợ tài chính cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Đầu tiên, Chính phủ xác định những khu vực mật độ dân cư thấp có tiềm năng đất nông nghiệp (chủ yếu là các cao nguyên vùng Tây Nguyên) và nhằm vào các khu vực “quá đông người” (cả ở miền núi và vùng đồng bằng) để khuyến khích tái định cư tự nguyện. Sự khác nhau giữa hai chương trình là Chương trình Định canh - Định cư có sự tham gia di dân của nhiều tỉnh khác nhau (di dân trọn gói). ảnh hưởng chung của các chương trình này là đã hoà trộn với nhau. Mặc dù rừng đã bị tàn phá để trồng cây công nghiệp (chè, cà phê, hạt tiêu, dâu tằm) và một số cây lương thực khác (lúa, rau), thực tế việc trồng các cây công nghiệp trong chương trình định cư ở cao nguyên vùng Tây Nguyên là rất hợp lý về điều kiện đất phát triển nông nghiệp và đã cải thiện được mức sống cho người dân mới định cư. Các nông trường quốc doanh được thành lập trong chương trình tái định cư sẽ chịu trách nhiệm cung cấp các dịch vụ hỗ trợ (kỹ thuật, xã hội và tài chính). Sau năm 1991, khi khái niệm nông trường quốc doanh không còn được ưa thích nữa, hai chương trình đóng vai trò chủ chốt trong việc cung cấp vốn cho nông nghiệp và quản lý tài nguyên thiên nhiên là: - Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam cho vay vốn (chủ yếu là vốn hoạt động) dùng vốn đầu tư tổ chức cho các hộ nông dân vay (khoảng 35% số người làm nghề nông và cũng tỷ lệ tương tự cho số người nghèo ở nông thôn), số tiền tín dụng này đã phát triển từ con số không ở năm 1990 khi mới thành lập. Đến nay Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đã cho vay lên tới 100 triệu USD một năm. - Nghị định 327, Chương trình “phủ xanh đất trống đồi núi trọc” là nguồn tín dụng đầu tư cho từng hộ nông dân để mở rộng trồng cây công nghiệp loại thân cứng (cà phê, cao su, chè, cây ăn quả) và các loại cây rừng phát triển nhanh để làm bột giấy và giấy. Nó cũng đã cung cấp vốn cho các hoạt động thí điểm trong công tác bảo vệ rừng liên quan tới các thoả thuận chung với các cộng đồng sống ở vùng đệm, loại vốn này bao gồm vốn cho các công trình hạ tầng cơ sở xã hội quan trọng (cấp nước di động, lớp học, trạm y tế, bưu điện). Phân bổ vốn hàng năm từ ngân sách Chính phủ là khoảng 55,60 triệu USD. 4-/ Chính sách hỗ trợ nghiên cứu và khuyến nông Cần ưu tiên giới thiệu về chuyển giao công nghệ thích hợp để có thể khai thác tốt nhất hoặc khai hoang các vùng đồi trọc, đặc biệt là vùng cao nguyên. Đối với loại vụ thu hoạch hàng năm có giá trị kinh tế, các vùng canh tác này hiện có rất nhiều kinh nghiệm trong việc chuyển giao công nghệ (ví dụ như công nghệ trồng ngô lai, bông, trồng dâu nuôi tằm) bởi việc ra quyết định thay vụ mùa này bằng vụ mùa khác là hết sức cần thiết. Các trung tâm khuyến nông “mới” cần cộng tác với các cơ quan và trường đại học liên quan để gắn liền quá trình nghiên cứu với khuyến nông, đóng vai trò cơ quan điều phối cung cấp đầu vào hoặc tiếp thị (với khu vực tư nhân) và cung cấp tín dụng (với Ngân hàng Nông nghiệp), để bảo đảm quá trình chuyển giao công nghệ thực hiện thành công. Đối với cây ăn quả hàng hoá, công nghệ áp dụng không chỉ là đầu vào mà còn bao gồm vốn đầu tư vào đồng ruộng và một chế độ nuôi trồng đúng đắn (thông thường là chế độ phân bón định kỳ, làm cỏ và các biện pháp chăm sóc đất trồng khác), hiện đang là vấn đề đòi hỏi sự giám sát chặt chẽ và nhiều dịch vụ hỗ trợ kỹ thuật. Do đó, cần tăng cường hỗ trợ khuyến nông đối với người nông dân ở những nơi doanh nghiệp Nhà nước không cung cấp các dịch vụ tương tự. Vấn đề đang cần giải quyết là sự hỗ trợ về kỹ thuật và tín dụng như vậy sẽ được cung cấp như thế nào, theo các điều kiện nào. Rõ ràng vấn đề chúng ta sẽ gặp phải là việc hỗ trợ tối thiểu cho nông dân trong thời kỳ chưa thu hoạch. Với những yêu cầu như vậy, áp dụng phương thức “trung tâm khuyến nông” có lẽ không thích hợp. Đối với các biện pháp bảo vệ đất hay các công nghệ nông - lâm, kết hợp với bảo vệ rừng đầu nguồn, cần có sự đầu tư nhất định (mặc dù có thể không lớn như đối với đất thu hoạch cây lâu năm). Hầu hết những thay đổi quan trọng cần tiến hành không chỉ ở từng họ nông dân mà cả ở cấp xã, bởi nhiều khi vấn đề này liên quan tới việc sử dụng các nguồn lực chung. Chúng ta có công nghệ đã được cải thiện để sử dụng tốt hơn các vùng đất trồng vấn đề còn tồn tại hiện nay là điều chỉnh công nghệ này cho thích hợp với các điều kiện hiện tại cũng như những hạn chế, khó khăn người nông dân đang gặp phải. Trên cơ sở các nghiên cứu, cần lưu ý tới một số điều kiện tiên quyết cho việc chuyển giao công nghệ có hiệu quả: Thứ nhất, các công nghệ có khả năng áp dụng tốt nhất cần thích ứng với những điều kiện canh tác của các hộ nông dân và phải đủ khả năng tăng thu nhập của người nông dân. Ngoài ra, thay đổi cây trồng có thể phù hợp với một số vùng nhưng không thể áp dụng ở các nơi khác do thị trưoừng nơi đó hấp thụ các loại nông sản này còn hạn chế. Thứ hai, đối với canh tác thương mại và bảo vệ đất bằng các biện pháp nông lâm, có thể xem xét áp dụng một số công nghệ đã dược sử dụng nhiều và có hiệu quả tại địa phương. Đối với canh tác thương mại, là lĩnh vực đã đúc kết nhiều kinh nghiệm thường có vấn đề cần cân nhắc giữa thay đổi để thích ứng với nhu cầu của người nông dân (vụ mùa thu hoạch trong năm) hay phục hồi hoặc bắt đầu cách canh tác mới (trồng cây lâu năm). Đối với xử lý đất bằng biện pháp nông - lâm, cần chú trọng hơn vào khả năng áp dụng các biện pháp hiện có (quế và cây ăn quả), đang cần triển khai rộng hay những biện pháp mới tại một số vùng như bảo vệ đất bằng phương pháp trồng cỏ. Phương án bảo vệ đất bằng cách trồng cỏ là biện pháp các hộ nhỏ để thực hiện với chi phí thấp. Phương pháp này cũng tạo thêm nguồn thu nhập bằng cách bán hạt giống cỏ, thức ăn gia súc và cành khô làm chất đốt, giúp người nông dân có thêm nhận thức về giá trị của việc bảo vệ đất. Vì những lý do trên, cần xác định rõ những điều kiện để việc chuyển giao, ứng dụng các công nghệ được hiệu quả. Vì vậy, cần tập trung nghiên cứu để (a) phát triển những công nghệ thích hợp dưới dạng các thử nghiệm được quản lý chặt chẽ, ứng dụng tại các vùng thật điển hình ở nhiều địa phương, để từ đó đánh giá xác định các phương pháp thích hợp, các thực tiễn xác lập và quản lý; (b) chương trình giới thiệu, thử nghiệm công nghệ ngay trên đồng ruộng, dựa trên phương thức tối ưu khi ứng dụng công nghệ được chuyển giao (kết hợp với (a)). Sự tham gia của người nông dân vào việc xác định mục tiêu và đưa ra các công nghệ cũng như việc định hướng lại cách hỗ trợ khuyến nông và đào tạo cán bộ khuyến nông là những yếu tố hết sức quan trọng. Quan trọng hơn nữa là việc áp dụng ngay những thành công đã có trong việc chuyển giao công nghệ tại địa phương để có tác động nhanh hơn. ở một số vùng được lựa chọn, có thể xem xét thành lập các nhóm chuyển giao công nghệ bao gồm các nông dân tại địa phương, các cán bộ khuyến nông có hiểu biết, những nông dân già có kinh nghiệm, các nhà nghiên cứu và đại diện các tổ chức phi Chính phủ làm việc tại địa phương. Khi tiến hành hỗ trợ kỹ thuật, có thể đề xuất ứng dụng công nghệ ngay trên đồng ruộng vì điều này phù hợp với thực tiễn hệ thống canh tác còn hạn chế, đồng thời đem lại lợi ích cho người nông dân. Trong trường hợp bảo vệ đất rừng/ rừng đầu nguồn, các khu đồi được xác định đúng, thậm chí có thể dùng làm mô hình điểm và trở thành một nội dung của quá trình khuyến nông. Có thể đưa đoàn đại biểu các nông dân từ một xã tới thăm xã có mô hình điểm để tìm hiểu các điều kiện ứng dụng công nghệ. 5-/ Chính sách hỗ trợ đầu vào, đầu ra cho sản xuất 5.1-/ Chính sách tín dụng Bên cạnh việc cung cấp dịch vụ, cơ sở hạ tầng và đảm bảo quyền nắm giữ sử dụng đất loại hình Chính phủ có tác động quan trọng đối với sự tăng trưởng nông nghiệp là tín dụng. Về nội dung tín dụng, kết quả hoạt động đáng kể của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã được nêu trên ở mục chính sách đầu tư. Chính sách mới về tạo vốn cho sản xuất khẳng định: “thực hiện cho vay trực tiếp đến hộ cho vay trực tiếp đến hộ sản xuất, đảm bảo nguyên tắc có hiệu quả kinh tế xã hội, không phân biệt thành phần kinh tế ưu tiên cho vay để thực hiện các dự án do Chính phủ quy định, chú trọng cho vay đối với hộ nghèo, các hộ vùng núi cao, hải đảo, vùng xa, vùng kinh tế mới. Cụ thể là: - Việc cấp vốn cho sản xuất, bất kể loại hình nào cũng chuyển hẳn sang hình thức tín dụng thương mại dưới nhiều kênh khác nhau, xoá bỏ dần chế độ cho vay lãi suất ưu đãi đối với doanh nghiệp Nhà nước và thực hiện lãi suất dương. - Đối tượng cho vay được mở rộng tới hộ nông dân với tư cách là những đơn vị tự chủ sản xuất kinh doanh hàng hoá trong nông thôn. Nếu trong giai đoạn 1981 - 1987 đối tượng cho vay chủ yếu là các doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước thì sang giai đoạn 1988 - 1993 khách hàng chủ yếu của Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam là các hộ nông dân. Các hỗ trợ tín dụng khác đối với nông thôn đã được phát triển song song với sự xuất hiện ngân hàng cổ phần nông thôn, các hợp tác xã tín dụng cùng với Quỹ Tín dụng nhân dân và Ngân hàng phục vụ người nghèo. Cùng với bước tổng hợp tất cả các chương trình tín dụng đối với người nghèo thống nhất theo các hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo thì đã xuất hiện rủi ro, Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đang trở thành vị trí độc quyền trên thực tế trong lĩnh vực Ngân hàng phục vụ người nghèo với các vấn đề hữu hiệu, đặc biệt trong trường hợp quyền hạn này bị lạm dụng. Do vậy, vấn đề Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam sẽ phát triển thế nào để có tác động quan trọng đối với tương lai phát triển nông thôn ở Việt Nam. Tài liệu này nhấn mạnh quan điểm rằng ngay cả khi kinh doanh, ngân hàng với người nghèo, cần phải có một số các điều kiện tiên quyết, phải được tuân thủ để đảm bảo hiệu quả và khả năng phát triển bền vững của các thể chế có liên quan. 5.2-/ Chính sách giá cả nông sản và vật tư nông nghiệp Trong nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường, nông nghiệp không trực tiếp định giá sản phẩm thu mua hay vật tư bán lẻ nhưng trên bình diện vĩ mô nông nghiệp phải có chính sách ổn định giá bảo đảm lợi ích người sản xuất, người tiêu thụ, thích ứng tỷ giá quốc tế. Nguyện vọng người sản xuất là giá cả nông sản, giá trị tư liệu sản xuất ổn định, sản phẩm là ra có người tiêu thụ và có đủ vật tư để sản xuất. Đó là nhân tố bảo đảm cho nông nghiệp phát triển nhanh và ổn định. Khi người nông dân đã có sản phẩm được trao đổi trên thị trường thì cũng như các hoạt động sản xuất khác, họ quan tâm đến lợi nhuận. Lợi nhuận sản phẩm nông nghiệp phụ thuộc vào giá bán của sản phẩm và giá mua các yếu tố đầu vào, trong đó phân hoá học thường chiếm tỷ lệ lớn. Phân tích chính sách giá nông sản và vật tư nông nghiệp ở Việt Nam trong tương quan với các nước trong khu vực (lấy ví dụ cây lúa) cho thấy chiến lược phát triển cây lúa chưa được định hình trên thực tế, kéo theo nó là hàng loạt chính sách cũng chưa hoạch định rõ ràng. Mối tương quan giữa giá đầu vào và giá đầu ra luôn bị phá vỡ buộc nông nghiệp Việt Nam thi hành hai chính sách sau: a -/ Chính sách ổn định phân bón hoá học. Sự nhậy cảm của nông dân đối với giá phân bón đặc biệt thể hiện rõ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi không có tập quán dùng phân hữu cơ và nơi sản xuất tuyệt đại bộ phận lúa hàng hoá cho chi dùng trong nước và xuất khẩu. Tỷ trọng chi phí về phân bón hoá học và thuốc trừ sâu ở đây cũng cao hơn các vùng khác trong nước. Từ vụ đông xuân năm 1990 - 1991, do cung ứng phân bón hoá học tốt hơn nên giá phân bón không biến động lớn. Tình hình trên đã kích thích nông dân vùng đồng bằng sông Cửu Long tăng diện tích trồng lúa. Trong khi đó, ở đồng bằng sông Hồng, nông dân gặp khó khăn trong việc chăm sóc lúa vì cung ứng phân bón kém, giá phân lên cao và nông dân lại mất mùa không có đủ tiền mua phân bón. Tình trạng cây “chay” không bón phân hoá học bắt đầu xuất hiện. Lượng phân hữu cơ đang tăng lên cũng không bù đắp được chất dinh dưỡng cho cây với giống lúa mới.Vấn đề ổn định giá phân bón và thuốc trừ sâu cho sản xuất lúa đã được đặt ra từ lâu nhưng chưa thực hiện được do chưa có một chính sách tài chính giá cả hợp lý và chưa có một hệ thống cung ứng phân bón có hiệu quả. Do thiếu cách nhìn đồng bộ của các cơ quan quản lý nên chính sách tài trợ đối với phân bón thường bị lui lại vì những khó khăn của một ngân sách thiếu hụt. Thế nhưng tình trạng thiếu hụt của ngân sách Việt Nam sẽ còn kéo dài, không lý để tình trạng này cản trở thi hành chính sách lương thực là một trong ba chương trình của chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2000. Chi phí nhập phân bón (urê) hàng năm mất khoảng 200 triệu đô la Mỹ hoàn toàn có thể trang trải được bằng số ngoại tệ do xuất khẩu gạo chưa tính đến số ngoại tệ do xuất các nông sản khác. Nếu quản ý tốt nguồn ngoại tệ thu được qua xuất khẩu nông sản thì nhu cầu phân bón cho lúa và những cây trồng chính hoàn toàn có thể được thoả mãn. Vấn đề bình ổn giá phân bón vì vậy là trong tầm tay. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến giá vốn nhập khẩu phân bón là giá nhập và tỷ giá hối đoái. Trong trường hợp biến động về hai yếu tố này làm tăng quá mức giá bán phân bón đến người sản xuất thì cần có sự tài trợ của Nhà nước để giữ giá phân bón ở mức cần thiết trong tương quan với giá thóc (một urê tương đương hai lúa như đã nêu ở trên). Hình thức tài trợ là bù đắp cho công ty phân bón để họ bảo toàn được vốn ngoại tệ nhập phân bón. Hệ thống cung ứng phân bón: Có một hệ thống cung ứng phân bón được kiểm soát là điều kiện không thể thiếu được của việc thực hiện chính sách bình ổn giá phân bón. Từ lâu đã có kiến nghị áp dụng hình thức đại lý phân bón. Hình thức này vừa thích hợp với điều kiện thiếu vốn của các doanh nghiệp cấp tỉnh, huyện; vừa tạo điều kiện cho việc kiểm soát giá phân. Cần nghiên cứu để sớm đưa hình thức này vào cuộc sống. Trước mắt có thể làm thí điểm ở các địa phương có truyền thống kiểm soát lưu thông phân bón tốt như Hà Nội, Hải Phòng, An Giang v.v... Tuy rằng còn nhiều vấn đề nữa cần xử lý để có một cơ chế hữu hiệu bình ổn giá phân bón, thuốc sâu, nhưng hai biện pháp trên có vai trò quan trọng nhất. b-/ Chính sách thị trường tiêu thụ lúa gạo Do cầu về nông sản không co giãn nên người nông dân rất lo lắng khi được mùa, hay khi được mùa nhưng không có nơi tiêu thụ. Để giải quyết mâu thuẫn này Chính phủ phải ra tay can thiệp. Do khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, nền kinh tế nước ta bị ảnh hưởng rõ rệt, nhu cầu tiêu dùng trong nước có giới hạn mà hàng năm chúng ta sản xuất lúa gạo rất nhiều. Lượng gạo dư cầu thị trường xuất khẩu. Bởi vậy Nhà nước ta đã khẳng định xuất khẩu gạo là một mũi nhọn kinh tế Việt Nam. Có như vậy mới hướng đầu tư thích đáng cho các công đoạn sản xuất, chế biến, dự trữ lúa gạo xuất khẩu, điều đó được thể hiện các khu chế biến, chế xuất mọc lên, kho dự trữ lúa gạo cho xuất khẩu, trợ giúp nông dân được đề cao. 5.3-/ Chính sách thuế Chính sách thuế có rất nhiều điều cần suy tính, ý tưởng chính sách thuế đối với nông nghiệp cần được cụ thể hoá vận dụng phù hợp nhằm mục tiêu chủ yếu là khuyến khích mọi thành phần kinh tế khai thác tối đa mọi năng lực sản xuất trong nông thoon, phát triển ngành nghề, tạo ra nhiều việc làm, chuyển nông thôn, nông nghiệp đi vào sản xuất hàng hoá. Nước ta là một nước nông nghiệp, 80% dân số đang sống về nông nghiệp. Ngành công nghiệp, dịch vụ chưa phát triển. Một phần tích luỹ của đất nước phải dựa vào thuế nông nghiệp. Đóng thuế nông nghiệp là vấn đề lịch sử và truyền thống của nông dân Việt Nam. Nhưng bao nhiêu là hợp lý ? Thu cao hoặc thấp không thể theo ý chủ quan mà phải tính toán tỷ mỷ để việc thu thuế có tác dụng kích thích sản xuất. Gạo xuất khẩu cũng không phải chịu thuế xuất khẩu; nhằm tạo cho gạo Việt Nam có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nói chung Chính phủ Việt Nam chỉ cho thi hành thuế thu nhập trong nông thôn. Tuy nhiên, vấn đề miễn toàn bộ thuế cho nông dân ở Việt Nam như trên đang có nhiều ý kiến tranh luận, không đồng tình. Từ trước thuế nông nghiệp nước ta chủ yếu thu thuế đất canh tác. Đất được chia làm 7 hạng, dự kiến thu 10% sản lượng ổn định (bình quân). Nhưng thực thu qua các năm 1980 - 1982 chỉ đạt 8,02% năm và các năm 1983 - 1989 chỉ đạt 6,3%/năm. Theo dự án luật thuế nông nghiệp thì đất chia làm 5 hạng, thuế thu bình quân 7% sản lượng ổn định (thực tế sẽ thu kém 1 - 2%/năm vì dự kiến có sự thất thu do thiên tai). Tuy mức thu đã giảm nhưng cũng nên xét giảm đối với vùng bình quân đất canh tác quá thấp; giảm hoặc miễn thuế đối với những hộ diện tích canh tác quá ít (ví dụ dưới 360 m2). - Việc giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân là một động lực thúc đẩy sản xuất. Nhưng hiện nay đã bị kẻ xấu lợi dụng, buôn bán đất một cách tự do. Do đó, để bảo đảm được quyền lợi cho người nghèo, giữ được đất sản xuất cần có quy định cụ thể về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông, lâm nghiệp và nên thu thuế trước bạ thật cao. 5.4-/ Chính sách nghiên cứu triển khai nông nghiệp Chính sách nghiên cứu triển khai nông nghiệp nhằm giúp nông dân các kiến thức sản xuất và tiếp cận thị trường nông sản trong ngoài nước: - Xây dựng các nơi, trạm nghiên cứu giống cây trồng, vật nuôi. - Đa dạng hoá sản phẩm nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp có chất lượng lẫn số lượng cao. - Triển khai kỹ thuật thông qua đào tạo, tập huấn gắn với thực hành trong quy mô nhỏ. - Phổ biến các tiến bộ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, công nghệ chế biến, nông lâm, thuỷ sản và những kinh nghiệm điển hình sản xuất giỏi. - Bồi dưỡng và phát triển kỹ năng, kiến thức quản lý kinh tế cho nông dân để sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. - Phối hợp các cơ quan chức năng cung cấp cho nông dân các thông tin về thị trường, giá cả nông sản để nông dân bố trí sản xuất đạt hiệu quả cao. 6-/ Chính sách an toàn lương thực - một hành động cân bằng tinh tế. Nguyên tắc cơ bản để đảm bảo an toàn lương thực đảm bảo hiệu quả chi hí cần phải được xây dựng và tuân thủ. Trước tiên, an toàn lương thực không phải là cố duy trì giá lương thực ở mức thấp. Với những phàn nàn của nông dân trong thời gian qua khi họ chịu tác động của chính sách này, tác động tiêu cực của việc thực hiện chính sách này thông qua hạn chế xuất khẩu, rõ ràng đã gây ra tổn thất đối với Chính phủ. Sự e ngại của Chính phủ khi quá nhấn mạnh việc thực hiện giải pháp đối nghịch (nghĩa là hoàn toàn thả lỏng xuất khẩu, gây thiệt hại cho tiêu dùng nội địa và giá tiêu dùng “tăng cao”) có thể giải quyết tốt nhất thông qua một dàn xếp lưới an toàn, theo đó số lượng nhóm người chịu thiệt hại cũng như gánh nặng tài chính mà Chính phủ gánh chịu sẽ thấp hơn. Chính vì vậy, thách thức ở đây là xác định ra được các nhóm người chịu thiệt hại cũng như gánh nặng tài chính mà Chính phủ gánh chịu sẽ thấp hơn. Chính vì vậy, thách thức ở đây là xác định ra được các nhóm người chịu thiệt hại trên thực tế (chủ yếu là những người nghèo thiếu lương thực, những người lao động nghèo ở thành thị và những người lao động nông thôn không có đất) và xác định các phương thức chi phí có hiệu quả hơn để hỗ trợ cho các nhóm người này. Đối với các hộ nông dân thiếu lương thực, các biện pháp khuyến khích (trợ cấp) ở các khu vực nhiều mưa, vùng cao để hỗ trợ cho các hộ nông dân này tự cung, tự cấp lương thực thì không phải là giải phát tốt. Một quan điểm về an toàn lương thực hẹp như vậy chỉ có thể thực hiện các biện pháp khuyến khích đối với các loại cây canh tác khác có giá trị kinh tế có thể tạo ra nguồn thu dư thừa để mua lương thực. Việc trợ cấp các chương trình lương thực, mục tiêu đối với những người nghèo thành thị hay những lao động nông thôn không có đất có thể được xem xét, tuy nhiên, động lực thúc đẩy hỗ trợ cho những nhóm người này có thể là tìm cơ hội giúp đỡ họ cải thiện điều kiện thu nhập gia đình. Cuối cùng, quỹ bình ổn giá cả, với những khoản nợ cấp dành riêng cho các doanh nghiệp quốc doanh cũng là yếu tố gây sự lệch lạc và như vậy sẽ không thể thực hiện được chức năng bình ổn giá cả của mình. Phần III Đánh giá việc thực hiện chính sách và đường lối, giải pháp phát triển nông nghiệp nông thôn trong tương lai I-/ Đánh giá việc thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam 1-/ Thành tựu Qua hai cuộc cải cách kinh tế với Nghị định 25/CP về “ba kế hoạch trong sản xuất công nghiệp” chỉ thị 100/BCHTW về “cơ chế khoán sản phẩm trong nông nghiệp” vào tháng 01/1981 và Nghị quyết 10 - Bộ chính trị 4/1988 khẳng định “Hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ bản ở nông thôn” các hộ gia đình được chủ động một số khâu canh tác trên ruộng khoán (ruộng khoán không cố định) với thời gian sử dụng dài, hộ gia đình chỉ nộp cho hợp tác xã phần sản lượng nhân khoán, phần sản lượng vượt khoán được giữ lại, tự do sử dụng. Các chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn toàn diện đã làm cho sản xuất nông nghiệp tăng nhanh. Trong giai đoạn 90 - 97 tốc độ tăng sản lượng bình quân của ngạch đạt 4,6%, kim ngạch xuất khẩu tăng từ 783 triệu USD lên 2,4 tỷ USD. Tới nay nông nghiệp đã đáp ứng nhu cầu trong nước đối với hầu hết các mặt hàng lương thực thực phẩm, chỉ còn nhập khẩu một số mặt hàng trong nước chưa có điều kiện sản xuất hoặc không có ưu thế rõ rệt như dầu thực vật, nguyên liệu giấy ... Bên cạnh nhiều mặt hàng nông sản tăng nhanh hơn nhu cầu trong nước tạo khả năng xuất khẩu như lúa gạo, cà phê, cao su, chè....Bên cạnh đó chính sách phát nông nghiệp và nông thôn trong những năm qua đã tạo dựng một bộ mặt mới đầy triển vọng: 1. Công nghiệp chế biến nông lâm sản Công nghiệp chế biến nông lâm sản tuy mới được xác định là mũi nhọn, tập trung đầu tư trong một số năm gần đây (chưa đầy 10 năm), nhưng đến nay đã tạo được những chuyển biến đáng kể. Tiến bộ nổi bật nhất trong công nghiệp chế biến là các dự án đầu tư đều phải giải đáp những yêu cầu cơ bản về trình độ hiện đại và tiên tiến của thiết bị và công nghệ, về chất lượng sản phẩm, về thị trường tiêu thụ, giá thành sản phẩm, lợi nhuận, hiệu quả kinh tế, thời gian thu hồi vốn và trả nợ. Các chủ đầu tư đều có ý thức tiếp cận với thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến của thế giới. Tuy nhiên hạn chế của họ là không vay được nhiều vốn, khả năng đầu tư rất hạn chế, trình độ quản lý, khả năng đào tạo phát triển nguồn nhân lực của dự án còn nhiều hạn chế. 2. Tiêu thụ sản phẩm Nền nông nghiệp Việt Nam vừa mới chuyển sang sản xuất hàng hoá trong một số năm gần đây, nông sản hàng hoá chưa nhiều và có rất ít chủng loại. Tuy vậy, trong thực tế đã xuất hiện rất nhiều mâu thuẫn, như mâu thuẫn về khả năng mua nông sản hàng hoá của các doanh nghiệp so với yêu cầu tiêu thụ nông sản hàng hoá theo thời vụ, mâu thuẫn giữa lãi suất ngân hàng còn cao hơn với lợi nhuận kinh doanh, mâu thuẫn giữa khả năng công nghiệp chế biến so với khối lượng nông sản tươi, mâu thuẫn giữa yêu cầu mở rộng tiếp thị bao gồm thị trường trong nước và xuất khẩu so với sự thiếu kinh nghiệm và còn nhiều hạn chế về kiến thức trong lĩnh vực này, mâu thuẫn giữa yêu cầu khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia vào lưu thông với yêu cầu quản lý điều hành của Nhà nước... Những mâu thuẫn này xuất hiện cả trong cơ chế quản lý vĩ mô, cũng như trong tổ chức kinh doanh cụ thể ở cấp doanh nghiệp... 3. Xây dựng nông thôn mới Trong thời kỳ đổi mới, đã tạo được những kết quả tốt trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn Việt Nam. Thành tựu nổi bật nhất trong lĩnh vực này, trước hết là các giá trị truyền thống của các cộng đồng, làng bản, tộc họ..., được khôi phục lại và nâng cao. Những hủ tục lạc hậu được xoá bỏ dần, nếp sống văn hoá, văn minh, trình độ học vấn và dân trí đã được phát triển. Nhờ sản xuất nông nghiệp phát triển cao và liên tục trong hơn 10 năm qua, đời sống vật chất và tinh thần của nông dân và các tầng lớp dân cư sống ở nông thôn được nâng lên rõ rệt. Nhiều làng xã đã tổ chức tốt việc huy động sự đóng góp của nhân dân vào việc xây dựng hạ tầng nông thôn. Một số huyện tỉnh đã xây dựng mạng lưới giao thông nông thôn khá hoàn chỉnh. Tuy nhiên, vấn đề xây dựng nông thôn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, xã hội, bao gồm kinh tế nông thôn, việc làm, đi lại, học hành, chữa bệnh, nước sinh hoạt... đang là những vấn đề bức xúc phải giải quyết nhanh chóng trong thập kỷ tới. 4. Nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên sự tồn tại và đan xen nhiều hình thức sở hữu đã bắt đầu khơi dậy nhiều nguồn lực phát triển trong nước, tạo ra sự năng động trong hoạt động kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng cao và liên tục trong nhiều năm. Đây là nét biến đổi đặc trưng trong quá trình đổi mới nền kinh tế của đất nước chúng tôi. GDP tăng bình quân hàng năm 8,2%; các ngành sản xuất, dịch vụ phát triển tương đối toàn diện: công nghiệp tăng bình quân 13,3%; các doanh nghiệp Nhà nước đang được sắp xếp lại, các tập đoàn kinh tế mạnh của nhà nước đang hình thành song song với việc cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước. Các cơ chế chính sách khuyến khích khu vực sản xuất công nghiệp tư nhân được ban hành đã thúc đâỷ sự phát triển mạnh mẽ khu vực này. nông nghiệp tăng bình quân hàng năm 4,5%. Sản lượng lương thực đã đạt đến 28 triệu tấn/năm, bình quân lương thực đầu người/năm vượt qua con số 370kg. Với mức lương thực này, không những đủ ăn, phát triển chăn nuôi, có dự trữ mà mỗi năm còn xuất khẩu từ 1,5 - 2 triệu tấn gạo. Các ngành dịch vụ phát triển mạnh tăng bình quân hàng năm 12%. 5. Với trên 2500 km bờ biền và vùng lãnh hải rộng lớn của đất nước, hàng chục vạn ha mặt nước ao hồ...ngành thủy sản của đất nước chúng tôi có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Chương trình phát triển vùng biển và ven biển, phát triển nuôi trồng và đánh bắt thuỷ, hải sản, chế biến và xuất khẩu các sản phẩm thuỷ, hải sản trong 5 năm qua đã đạt được những kết quả đáng kể.Phong trào nuôi trồng thuỷ sản được phát triển mạnh cả ở vùng nước ngọt, nước mặn và nước lợ. Đến năm 1995, diện tích nuôi trồng thuỷ sản đạt 58 vạn ha, tăng 18,2% so với năm 1990, trong đó nuôi mặn, lợ đạt 26,5 vạn ha, tăng 41%. Vùng triều, nước lợ ven biển tập trung vào nuôi tôm sú, tôm thẻ, tôm he, cua, cá đặc sản có giá trị cao. Vùng biển phát triển nuôi tôm hùm, cá song, cá cam, trai ngọc, nghêu, điệp, bào ngư...ở vùng nước ngọt với mặt nước lớn thì làm lồng, thả bè nuôi cá bống tượng, cá trắm cỏ, cá trê lai, cá quả, cá chiên..., ở mặt nước ao hồ nhỏ thì nuôi cua, trê lai, ếch, ba ba..., chính vì vậy đã mang lại giá trị kinh tế cao. 6. Quy mô đầu tư phát triển toàn xã hội tăng nhanh, đã huy động được nhiều nguồn vốn khác nhau và chuyển mạnh từ hình thức ngân sách cấp phát có tính chất bao cấp đối với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh của Nhà nước sang hình thức tín dụng đầu tư, mở rộng liên doanh liên kết, vay vốn trong nước và ngoài nước..., nhờ đó đã tăng được năng lực sản xuất một số ngành quan trọng, nhất là giao thông, thuỷ lợi, điện, thép, dầu khí, xi măng... 7. Về các mặt xã hội cũng có những biến đổi sâu sắc, đời sống của các tầng lớn dân cư có nhiều cải thiện. Chương trình quốc gia giải quyết việc làm đã thực hiện tốt với sự tham gia tích cực của cộng đồng, mỗi năm thu hút được 1-1,2 triệu lao động có chỗ làm việc. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao, tỷ lệ người biết chữ trong dân số lên đến 90%. Công tác chăm lo bảo vệ sức khoẻ, xoá đói giảm nghèo và phát triển các mặt xã hội đều đạt được nhiều chuyển biến, việc bảo vệ môi trường, môi sinh được triển khai. Thu nhập và đời sống của các tầng lớp dân cư đều được cải thiện. Nhiều địa phương đã thanh toán được nạn đói. Chính sách nông nghiệp nông thôn trong thời gian qua đã tạo dựng bộ mặt mới đầy triển vọng: 2-/ Hạn chế - Đất đai canh tác chất lượng kém, số lượng ít đã gây khó khăn cho chất lượng, số lượng nông sản. Năng suất lao động nông nghiệp giảm rõ rệt ở những nơi rơi vào hoàn cảnh này. Thể hiện rõ nét là đất đai miền Trung khô cằn, trong khi đất đai đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long độ màu mỡ phì nhiêu rất cao, năng suất sản xuất lúa hàng đầu thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã hình thành những mầm mống của sự tích tụ tập trung đất trong kinh doanh đất nông nghiệp, đây là nhân tố ảnh hưởng tới công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, một vấn đề cần loại bỏ ngay từ đầu phòng hậu quả như ở Thái Lan, Phillippin. - Dự phòng cho nông sản buộc nông nghiệp phải chi tiêu yêu sách trong hi ngân sách Nhà nước có hạn hẹp nên tình trạng thâm hụt ngân sách không thể trách khỏi. Vậy cần có biện pháp khuyến khích tư nhân, huy động vốn trong dân để chia sẻ gánh năng của ngân sách trong điều kiện, xem xét tình trạng nghèo đói, các vấn đề xã hội khác. - Đầu tư cơ sở hạ tầng những năm gần đây được tiến hành mạnh mẽ, nhưng hiệu quả chưa cao, nguồn đầu tư thấp chủ yếu dựa vào nguồn vốn của Chính phủ. Cần khuyến khích đối tác nước ngoài tham gia xây dựng các chương trình, phát triển ngành nghề nông nghiệp, tiêu thụ mạnh sản phẩm nông nghiệp. - Thuế, lệ phí đang gây cho nông dân những khó khăn, cản trở, làm họ mất lòng tin vào Đảng. Đó là hiện tượng thuế chồng lên thuế, lệ phí thu tràn lan, chồng chéo do nhiều cơ quan ban hành. - Khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á đã gây ra hậu quả lớn nhiều mặt cho nền kinh tế nói chung và ngành nông nghiệp nói riêng. Thị trường tiêu thụ ASEAN, Nhật Bản bị thu hẹp, sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của các sản phẩm của các nước do sự phá giá đồng tiền của họ. Mặt khác vốn đầu tư của ASEAN vào Việt Nam bị rút nhiều về nước họ gây cho Việt Nam tình trạng kiệt quệ, tích luỹ vốn kém, tốc độ tăng trưởng giảm, liên tục trong tất cả các ngành, kể cả nông nghiệp. - Việt Nam nằm vào khu vực xảy ra lũ lụt thường xuyên. Gần đây với cơn lũ khủng khiếp ở miền Trung đã cướp đi bao nhiêu là người, bao nhiêu là công trình nông nghiệp hay các vụ mùa đang được tiến hành. Đây là vấn đề khó giải quyết trọn vẹn mà phải hạn chế nó gây tác hại nặng nề. - Công việc chuyển giao công nghệ vào Việt Nam gần đây tiến triển rất chậm, gây hẫng hụt tốc độ phát triển ngành nông nghiệp. Hoặc chuyển giao các công nghệ vào thì chúng đều thuộc loại lạc hậu, chưa sánh kịp công nghệ thế giới hiện đại. Mặt khác, phương pháp đào tạo, canh tác hay triển khai công nghệ chưa được đáp ứng đầy đủ, chưa có sự hợp tác chặt chẽ với các chuyên gia giỏi đã không tạo nên hiệu quả tổng lực trong công cuộc phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam. - Tuy rằng hoạt động vay vốn đang được khuyến khích phát triển rầm rộ, nhưng số vốn cho người nông dân vay còn thấp, thủ tục còn rườm rà, mất nhiều thời gian đến tay người dân. Tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều mặt yếu kém trước đòi hỏi của giai đoạn phát triển mới trong tiến trình hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, bởi lẽ điểm xuất phát cho sự đổi mới còn quá thấp, cơ sở hạ tầng còn yếu và lạc hậu. Điều đó đã làm cho chất lượng phát triển và hiệu quả của nền kinh tế không cao, chưa khắc phục được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và công nghệ so với các nước xung quanh. Tài chính - tiền tệ chưa ổn định và khả năng còn nhiều hạn hẹp, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp, tình hình xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc. Tỷ lệ hộ nghèo, xã nghèo còn cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các ngành, các lĩnh vực diễn ra chậm chạp, làm ảnh hưởng đến tốc độ phát triển, là trở ngại lớn cho giao lưu kinh tế và thu hút nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam. Đó là những hạn chế và yếu kém cần phải vượt qua. II-/ Đường lối phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam Đất nước ta bước vào những năm cuối cùng của thế kỷ này và bước sang một thế kỷ mới với những khả năng và cơ hội lớn hơn nhiều, đồng thời nảy sinh những thách thức, gay gắt hơn. Trong tình hình đó và trước những đòi hỏi thời kỳ mới, Đại hội VIII của Đảng xác định kế hoạch 5 năm 1996 - 2000 theo hướng “công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn” với những nhiệm vụ sau: 1- Đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân công lại lao động ở nông thôn. Trên cơ sở đảm bảo vững chắc nhu cầu lương thực, chủ yếu là lúa: mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm, phát triển kinh tế biển, kinh tế rừng. Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với công nghệ ngày càng cao. Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. 2 - Giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản với cơ chế lưu thông thực sự thông thoáng, phát triển hệ thống thương nghiệp; phát triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có sức cạnh tranh cao trên thị trường Quốc tế. Thực thi các chính sách hỗ trợ nông dân và các doanh nghiệp tiêu thụ nông sản để phát triển sản xuất kinh doanh nông sản hàng hoá đạt hiệu quả cao. 3 - Đa dạng hoá các loại hình kinh tế ở nông thôn, tiếp tục phát triển kinh tế hộ gia đình. Việc đổi mới quản lý kinh tế ở nông thôn theo hướng tạo quyền tự chủ cho hộ gia đình đã tạo động lực to lớn khuyến khích nông dân phát triển nông nghiệp, như vậy, hiện nay kinh tế hộ cũng đã bộc lộ những mặt hạn chế. Đó là quy mô nhỏ, phù hợp với phương thức sản xuất tự cấp tự túc là chính và ở nhiều hộ không đảm bảo được sự đồng bộ về lao động, đất đai, vốn và kỹ năng sản xuất. Do đó cần có những biện pháp hỗ trợ cho hộ gia đình như đẩy mạnh việc giao đất nông nghiệp, tăng cường cung cấp tín dụng, thông tin, chuyển giao kỹ thuật cho hộ gia đình. Phát triển kinh tế trang trại như một hình thức mới về phát triển kinh tế hộ thích hợp với điều kiện từng vùng. Kinh tế trang trại cho phép giải quyết nhiều hạn chế của kinh tế hộ gia đình tiểu nông. Đổi mới và phát triển các hợp tác xã nông - lâm - thuỷ sản theo phương thức chuyển đổi các hợp tác xã nông nghiệp hiện có, thành lập mới các hợp tác xã theo luật hợp tác xã mới ban hành. 4 - Giải quyết tốt một số vấn đề xã hội: Thanh toán nạn mù chữ, phổ cập trung học cơ sở nâng cao chất lượng, số lượng người lao động, nâng cao hiệu lực nghiên cứu triển khai khoa học công nghệ, giảm tốc độ tăng dân số cùng với tăng việc làm, ngăn chặn các tệ nạn xã hội, văn hoá độc hại và giảm mức độ ô nhiễm môi trường, tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng và một số công trình công nghiệp then chốt, hình thành đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. III-/ Các chương trình, giải pháp và chính sách phát triển nông nghiệp nông thôn trong tương lai 1-/ Các chương trình phát triển nông nghiệp và nông thôn 1.1 Chương trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn : Phát triển nông nghiệp toàn diện, hướng vào bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình huống, tăng nhanh nguồn thực phẩm và rau quả, cải thiện chất lượng bữa ăn, giảm suy dinh dưỡng. Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn có hiệu quả theo hướng mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, tăng nhanh đàn gia súc, gia cầm.Phát triển kinh tế biển, kinh tế rừng. Khai thác có hiệu quả tiềm năng nông nghiệp sinh thái. Tăng nhanh sản lượng hàng hoá, mở rộng thị trường nông thôn. Gắn sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp với công nghiệp chế biến và xuất khẩu.Tăng thu nhập của nông dân. Đẩy mạnh việc xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội. Tăng nhanh sản lượng lương thực hàng hoá ở những vùng đồng bằng có năng suất và hiệu quả cao. Dự kiến đến năm 2000, sản lượng lương thực đạt khoảng 30 triệu tấn, bình quân đầu người 360 - 370 kg. Phát triển mạnh các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và rau đậu có hiệu quả kinh tế cao; hình thành những vùng sản xuất tập trung, trồng cây công nghiệp gắn với công nghiệp chế biến tại chỗ. Trồng cây công nghiệp kết hợp với chương trình phủ xanh đất trống, đồi núi trọc theo hình thức nông lâm kết hợp. Đến năm 2000 đưa tỷ trọng cây công nghiệp chiếm khoảng 45% giá trị sản phẩm ngành trồng trọt. Hình thành và phát triển các vùng chăn nuôi tập trung gắn với công nghiệp chế biến thực phẩm. Khuyến khích và nhân rộng các hộ chăn nuôi và các trang trại chăn nuôi tốt. Thay đổi hệ thống con giống có chất lượng tốt và năng suất cao. Mở rộng mạng lưới chế biến thức ăn chăn nuôi, thú y, bảo hiểm chăn nuôi và các dịch vụ khác. Phấn đấu tăng tỷ trọng của ngành chăn nuôi trong tổng giá trị sản phẩm nông nghiệp tới mức 30 - 35% vào năm 2000. Quản lý các hoạt động đánh bắt cá trong từng khu vực, nhằm bảo vệ sự tồn tại và phát triển của cá. Chống ô nhiễm môi trường biển, sông, hồ và nghiêm cấm việc khai thác thuỷ sản bằng các phương pháp tận diệt. Phát triển nghề rừng gắn với sự bền vững và phát triển của người dân miền núi, đẩy mạnh việc phủ xanh đất trống, trống rừng và bảo vệ rừng, nhằm tạo điều kiện cho các khu vực miền núi chiếm ưu thế trong lĩnh vực lâm nghiệp. Trong 5 năm 1996 - 2000, chúng ta phải bảo vệ 9,3 triệu ha rừng hiện có và tạo thêm 2,5 triệu ha rừng, trong đó 1 triệu ha là rừng trồng mới, tăng diện tích che phủ của rừng tới 40%. Đa dạng hoá công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp ở khu vực nông thôn và các huyện, gắn với công nghiệp ở các thành phố lớn. Phát triển các làng nghề và mở nhiều loại dịch vụ khác nhau, xây dựng thêm đường sá, hệ thống cung cấp điện, cung cấp nước, thông tin liên lạc, trạm y tế, và trung tâm văn hoá ở khu vực nông thôn. Phát triển nhanh chóng hệ thống thuỷ lợi trong tất cả các vùng, đặc biệt là củng cố, sửa chữa, nâng cấp và mở rộng hệ thống thuỷ lợi hiện có ở 2 vùng châu thổ chính. Dự kiến trong 5 năm, năng lực tưới tiêu sẽ bao trùm 200.000 ha và thêm 250.000 ha tương ứng, tạo thêm 500.000 ha tưới ở miền Nam, ngăn chặn sự xâm chiếm của nước mặn thêm 100.000 ha. 1.2 Chương trình phát triển giáo dục và đào tạo: Phát triển giáo dục mầm non tăng tỷ lệ trẻ em được chăm sóc ở các nhà trẻ, thanh toán nạn mù chữ, phổ cập tiểu học cả nước. Tập trung sức vào nâng cao chất lượng học tập, trang bị kiến thức cần thiết đi đôi với tạo ra năng lực tin học, sáng tạo của học sinh, khắc phục dần tình trạng phải dạy thêm quá nhiều ngoài giờ chính khoá. Mở rộng, nâng cao chất lượng đào tạo đại học, phát triển giáo dục đào tạo đỉnh cao. Quy hoạch xây dựng các trường đại học, viện nghiên cứu nông nghiệp ở các trung tâm kinh tế của cả nước. Kiện toàn phát triển một cách hợp lý và nâng cao chất lượng các cơ sở đào tạo nghề, phát triển các cơ sở trường dân lập, tư nhân đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước. Hoàn chỉnh và củng cố các trường sư phạm về mọi mặt, khắc phục tình trạng thiếu giáo viên ở nông thôn và nâng cao chất lượng giáo viên ở tất cả các cấp học. 1.3 Chương trình xoá đói giảm nghèo. Chương trình này nhằm đạt được các mục tiêu sau đây: - Giảm tỷ lệ đói nghèo trong tổng số hộ của cả nước từ 20 - 25% hiện nay xuống còn 10% vào năm 2000, bình quân giảm 300.000 hộ/năm. Trong 2 - 3 năm đầu của kế hoạch 5 năm, tập trung xoá về cơ bản nạn đói kinh niên, trước hết ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng sâu, vùng trước đây là căn cứ Cách mạng và vùng có nhiều thiên tai. - Cần bổ sung ngay các chính sách giúp người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo tổ chức sản xuất, bảo đảm cuộc sống và nâng lên khá giả, trước mắt tập trung vào chính sách đất đai, chính sách tín dụng, chính sách đào tạo nghề, chính sách chuyển giao công nghệ, chính sách giáo dục và chăm sóc sức khoẻ, chính sách khuyến khích sản xuất đối với người nghèo, chính sách tài trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở đối với xã nghèo, vùng nghèo... - Xây dựng chính sách tài trợ đầu tư 6 loại công trình xã hội thiết yếu cho 1300 xã nghèo nhất: đường ô tô đến trung tâm xã, cấp nước sạch cho dân cư, cấp điện tới trung tâm xã, có phòng học cho học sinh cấp I, II, xoá lớp ca ba, có trạm y tế, có chợ tại xã hoặc liên xã. Thông qua Ngân hàng phục vụ người nghèo, bảo đảm 90 - 95% số hộ nghèo được vay vốn sản xuất. - Đối với các hộ đói nghèo, không có khả năng lao động để kiếm sống, nên tổ chức điều tra xác định số hộ cụ thể và thực hiện chế độ trợ cấp thường xuyên theo chính sách cứu tế xã hội nhằm ổn định đời sống lâu dài cho họ. 2-/ Các giải pháp chính sách chủ yếu - Ban hành những quy định cụ thể về sở hữu và sử dụng bất động sản thực hiện dùng luật đất đai. Quy định việc tính giá đất trong giá trị bất động sản. Tiền tệ hoá bất động sản thuộc sở hữu Nhà nước làm cơ sở cho việc thực hiện chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, chính sách cổ phần hoá một số doanh nghiệp Nhà nước, chính sách phát triển các khu công nghiệp và khu dân cư mới, chính sách về nhà ở. Thực hiện đúng hạn mức ruộng đất theo luật định, kiểm soát việc tích tụ ruộng đất canh tác bất hợp pháp. Khuyến khích các thành phần kinh tế khai hoang, phục hoá, mở rộng diện tích đất nông nghiệp. - Phát triển thị trường vốn bằng nhiều hình thức. Mở rộng việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu và xúc tiến các điều kiện cần thiết để thiết lập thị trường chứng khoán và đảm bảo sự hoạt động lành mạnh của thị trường này. - Tiếp tục hoàn thiện và mở thêm thị trường hàng hoá và dịch vụ với sự tham gia bình đẳng của các thành phần kinh tế. Nghiên cứu ban hành Luật bảo đảm cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh, chống cạnh tranh không lành mạnh và chống hạn chế thương mại. Mở rộng đi đôi với tổ chức lại thị trường nội địa trên các vùng đô thị nông thôn và miền núi. - Xây dựng đồng bộ chính sách khuyến khích xuất khẩu, hoàn thiện quy chế hoạt động của quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Tách thuế nhập khẩu ra khỏi thuế doanh thu (hoặc VAT) và thuế tiêu thụ đặc biệt; thu hẹp biểu thuế xuất và giảm dần mức thuế nhập khẩu. áp dụng danh mục và sự phân loại hàng hoá, quy chế hải quan phù hợp với thông lệ quốc tế và quy định chung của các nước ASEAN, chuẩn bị cho tiến trình gia nhập khối mậu dịch tự do AFTA. - Cải tiến việc xây dựng luật pháp, ban hành các luật mới còn thiếu, sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp quy hiện hành phù hợp với tình huống mới, đặc biệt chú trọng hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý cho mọi hoạt động kinh tế phục vụ nông nghiệp. Coi trọng việc phổ biến, giáo dục, tổ chức thực hiện luật pháp trong lĩnh vực nông nghiệp. Sắp xếp lại bộ máy hành chính, trên cơ sở phân định cụ thể chức năng quản lý Nhà nước và chức năng sở hữu đối với vốn và tài sanr công, ban hành quy chế công chức và chế độ Công vụ, tăng cường bồi dưỡng, đào tạo mới và trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức. - Triển khai phát triển các loại công nghiệp, cây lúa, con giống có hiệu quả kinh tế cao, hình thành các vùng sản xuất tập trung, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi gắn với công nghiệp chế biến, kết hợp với việc phủ xanh đất trống, đồi núi trọc theo hình thức nông lâm kết hợp. - Đa dạng hoá công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp ở khu vực nông thôn và các huyện, gắn với công nghiệp ở thành phố lớn: Phát triển các làng nghề, mở nhiều loại dịch vụ khác nhau, xây dựng thêm đường xá, hệ thống cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc, trạm y tế, trung tâm văn hoá khu vực nông thôn. - Củng cố sửa chữa, nâng cấp và mở rộng hệ thống thuỷ lợi ở tất cả các vùng, có phương cách ngăn chặn sự xâm chiếm của nước mặn. Hình thành hoặc phát triển thêm một số khu vực thuận lợi cho ngành công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm, khu chế xuất, khu công nghệ cao. - Đảm bảo giao lưu thông thoát trong mọi thời tiết của các tuyến giao thông, huyết mạch, tuyến xương sống và các tuyến nhánh đến các vùng, các trung tâm miền núi... - Củng cố mở rộng các cảng biển thúc đẩy xuất khẩu nông sản, tìm kiếm thị trường mới. - Nâng cao năng lực nên sinh KHLN, nắm bắt các thành tựu khoa học công nghệ thế giới, tiến hành chuyển giao công nghệ và triển khai công nghệ vào thực tế đạt kết quả tốt nhất. Tiến hành phát triển lĩnh vực sinh học, cải tạo các con giống mới hiệu quả. - Tổ chức các hoạt động về văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình và các mặt xã hội khác, hướng vào nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần và thể lực của dân tộc đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc phát triển các mặt xã hội và giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội. - Tiến hành các cuộc khuyến nông, đào tạo cán bộ khuyến nông mang lại hiệu quả triển khai công nghệ, sử dụng con giống, biện pháp canh tác. - Đơn giản hoá các loại phí, lệ phí tránh chồng chéo phức tạp, tiến hành thực thi tốt việc áp dụng thuế VAT vào kinh doanh, sản xuất nông nghiệp. Kết luận Cơ sở lý luận về các chính sách kinh tế đối với phát triển nông nghiệp và nông thôn đã cho ta thấy tầm quan trọng của các chính sách đối với sự phát triển của khu vực này không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà trên phạm vi toàn thế giới. Mỗi một sự vật, hiện tượng đều có tính hai mặt, việc thực hiện các chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn cũng vậy. Bên cạnh rất nhiều thành công mà quá trình thực hiện các chính sách phát triển mang lại thì quá trình thực hiện từ những thành công và thất bại đó người ta đúc rút ra những kinh nghiệm, những bài học quý báu làm cơ sở, nền tảng cho những lần đề ra và thực hiện các chính sách sau này. Việt Nam là một nước nghèo, công nghiệp - dịch vụ kém phát triển, nông nghiệp vẫn chiếm vị trí độc tôn trong sự phát triển của nền kinh tế. Nghị quyết của Đảng và Nhà nước đã đề cập: "Ưu tiên phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, phát triển công nghiệp để hỗ trợ cho sự phát triển của nông nghiệp ...".Để đưa ra Nghị quyết của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, để phát triển mạnh mẽ nông nghiệp ở nước ta Chính phủ đã thực hiện những chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp và nông thôn phù hợp và cụ thể. Các chính sách kinh tế đã biết tận dụng những bài học kinh nghiệm của các nước từ trước, các nước phát triển. Trong sự liên hệ với đặc điểm sản xuất nông nghiệp Việt Nam và đường lối phát triển kinh tế của Đảng ta biết chắt lọc, phát huy các ưu điểm và hạn chế các nhược điểm để từ đó đã đề ra những chính sách kinh tế thích hợp với điều kiện của nước ta nhằm mục tiêu phát triển mạnh mẽ nông nghiệp và nông thôn nói riêng và nền kinh tế Quốc dân nói chung. Các điều kiện của sự phát triển luôn luôn thay đổi theo các giai đoạn nhất định, trong quá trình thực hiện luôn nảy sinh khó khăn cản trở. Do vậy, cần phải luôn luôn sửa đổi, đề ra những chính sách và biện pháp mới phù hợp với hoàn cảnh mới, hoàn thiện dần các chính sách kinh tế. Qua quá trình nghiên cứu, tìm tòi và phân tích một số tài liệu cùng với những lời góp ý quý báu của giáo viên, em đã hoàn thành đề tài "Các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp và nông thôn". Đề tài gồm những nội dung chính: Cơ sở lý luận về các chính sách kinh tế, thực trạng thực hiện chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam và những giải pháp đề ra nhằm khắc phục những khó khăn mới phát sinh hiện nay. Tuy nhiên do hiểu biết có hạn và thời gian không cho phép nên không thể tránh khỏi những thiếu sót, một số vấn đề hay giải pháp chưa được đề cập trong đề tài. Em rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô, của các bạn để cho đề tài hoàn thiện hơn và em rút ra được những bài học kinh nghiệm quý báu cho những đề tài sau. Phát triển nông nghiệp và nông thôn là vấn đề hàng đầu hiện nay trong phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Nông nghiệp luôn là mặt trận hàng đầu, đổi mới, phát triển kinh tế đất nước phải xuất phát từ đổi mới và phát triển nông nghiệp. Các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp và nông thôn phù hợp và hiệu quả được thực hiện sẽ đem lại thành công cho công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.Như vậy, việc đề xuất các chính sách ra sao và thực hiện nó như thế nào sẽ quyết định sự phát triển của đất nước, sẽ quyết định lợi ích tương lai của một số lượng lớn hộ gia đình ở Việt Nam. Để khép lại đề tài, khẳng định tầm quan trọng của các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp nông thôn, tác giả trích lời phát biểu của ông Joseph E.Stiglitz, đại diện Ngân hàng thế giới WB tại hội thảo các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp nông thôn tại Việt Nam: "Nhiệm vụ hàng đầu phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đưa Việt Nam vững bước đi lên con đường xã hội chủ nghĩa là phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nông nghiệp là lợi thế riêng có của Việt Nam, các bạn sẽ làm gì để phát huy lợi thế này". Tài liệu tham khảo 1-/ Hội thảo các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp và nông thôn ở Việt Nam - 1997 PTS. Huỳnh Xuân Hoàng Nguyễn Bửu Quyền KS Nguyễn Tuấn Khải 2-/ Giáo trình kinh tế phát triển 3-/ Các chính sách kinh tế phát triển nông nghiệp và nông thôn PTS. Nguyễn Văn Bích KS Chu Tiến Quang 4-/ Chính sách nông nghiệp trong các nước đang phát triển Frank Ellis 5-/ Bài diễn văn về chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn. PGS-PTS. Nguyễn Quang Hà 6-/ Giáo trình quản lý Nhà nước về kinh tế. 7-/ Tạp chí phát triển kinh tế 3/99 8-/ Tạp trí nông nghiệp 9-/ Nghiên cứu kinh tế 1/99; 2/98. 10-/ Tạp chí cộng sản 10/98; 10/99; 6/99; 4/99; 1/99 11-/ Thông tin lý luận 9/96; 10/98. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc66494.DOC