Đề tài Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu vấn đề phát triển bền vững nuôi trồng và tiêu thụ cá da trơn tại vùng đồng bằng sông Cửu Long

Tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu vấn đề phát triển bền vững nuôi trồng và tiêu thụ cá da trơn tại vùng đồng bằng sông Cửu Long: DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long Bộ NN-PTNT : Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn VASEP : Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam DN : Doanh nghiệp LỜI NÓI ĐẦU Có thể nói rằng kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu dựa vào nông nghiệp và thủy sản. Đồng bằng sông Cửu Long có tiềm năng và lợi thế tự nhiên đặc biệt thuận lợi cho phát triển nuôi cá da trơn nhờ sông Mê Kông mang lại mà không nơi nào trên thế giới có thể có được. Sản xuất cá da trơn tại Việt Nam chỉ thực sự phát triển trong khoảng 10 năm trở lại đây do sản phẩm được xuất khẩu ngày càng nhiều, mang lại hiệu quả cao và cá tra đã trở thành một mặt hàng chiến lược quan trọng, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước nuôi trồng thủy sản lớn thứ 3 và xuất khẩu thủy sản lớn thứ 5 trên thế giới. Tuy nhiên, sản xuất và tiêu thụ cá da trơn trong mấy năm qua đang thể hiện sự thiếu bền vững, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường. Để sản xuất cá da trơn bền vững ngành Thủy sản cần phải tổ chức lạ...

doc85 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1151 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Cơ sở lý luận của việc nghiên cứu vấn đề phát triển bền vững nuôi trồng và tiêu thụ cá da trơn tại vùng đồng bằng sông Cửu Long, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long Bộ NN-PTNT : Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn VASEP : Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam DN : Doanh nghiệp LỜI NÓI ĐẦU Có thể nói rằng kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu dựa vào nông nghiệp và thủy sản. Đồng bằng sông Cửu Long có tiềm năng và lợi thế tự nhiên đặc biệt thuận lợi cho phát triển nuôi cá da trơn nhờ sông Mê Kông mang lại mà không nơi nào trên thế giới có thể có được. Sản xuất cá da trơn tại Việt Nam chỉ thực sự phát triển trong khoảng 10 năm trở lại đây do sản phẩm được xuất khẩu ngày càng nhiều, mang lại hiệu quả cao và cá tra đã trở thành một mặt hàng chiến lược quan trọng, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước nuôi trồng thủy sản lớn thứ 3 và xuất khẩu thủy sản lớn thứ 5 trên thế giới. Tuy nhiên, sản xuất và tiêu thụ cá da trơn trong mấy năm qua đang thể hiện sự thiếu bền vững, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường. Để sản xuất cá da trơn bền vững ngành Thủy sản cần phải tổ chức lại theo tư duy sản xuất hàng hoá tiên tiến phù hợp với xu hướng chung của thương mại thế giới đồng thời cũng phải có những biện pháp tích cự giúp ngành nuôi trồng và tiêu thụ cá da trơn Việt Nam phát triển bền vững. Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NUÔI TRỒNG VÀ TIÊU THỤ CÁ DA TRƠN TẠI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG I- Vai trò của ngành Thủy sản. 1. Ngành Thủy sản có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Theo số liệu đã công bố của Tổng Cục Thống kê, GDP của ngành Thuỷ sản giai đoạn 1995 - 2003 tăng từ 6.664 tỷ đồng lên 24.125 tỷ đồng. Ngành Thuỷ sản có tốc độ tăng trưởng rất nhanh so với các ngành kinh tế khác. Tỷ trọng GDP của ngành Thuỷ sản trong tổng GDP toàn quốc liên tục tăng, từ 2,9% (năm 1995) lên 3,4% (năm 2000) và đạt 3,93% vào năm 2003. Từ cuối thập kỷ 80 đến năm 2000, ngành thuỷ sản đã có những bước tiến không ngừng. Các chỉ tiêu chủ yếu đề ra trong Chiến lược Phát triển Kinh tế - Xã hội ngành Thuỷ sản thời kỳ 1991 - 2000 đã được hoàn thành vượt mức: Bảng 1.1: Kết quả đạt được của ngành Thủy sản thờ kì 1991 - 2000 CHỈ TIÊU Đơn vị Kế hoạch Thực hiện Tổng sản lượng thuỷ sản Trong đó: - Sản lượng khai thác hải sản - Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản tấn - - 1.600.000 1.000.000 600.000 2.174.784 1.454.784 720.000 Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản triệu USD 900 - 1.000 1.478,6 Thu hút lao động thuỷ sản nghìn người 3.000 3.400 (Nguồn: Niên giám Thống kê Nông - Lâm - Thuỷ sản ) Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản tương đương với các ngành công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Điều đó chứng tỏ ngành thuỷ sản đang dần chuyển từ sản xuất mang nặng tính nông nghiệp sang sản xuất kinh doanh theo hướng công nghiệp hoá. Bảng 1.2: Giá trị xuất khẩu và tốc độ tăng trưởng bình quân của các ngành kinh tế GIÁ TRỊ XUẤT KHẨU (triệu USD) Năm Toàn quốc Công nghiệp - Xây dựng - Dịch vụ Nông - Lâm - Thuỷ sản Tổng số Riêng Thuỷ sản 1996 7.255,9 4.214,1 3.041,8 670,0 1997 9.185,0 5.952,0 3.233,0 776,5 1998 9.360,3 6.036,0 3.324,3 858,6 1999 11.540,0 8.627,8 2.912,2 976,1 2000 14.308,0 10.186,8 4.121,2 1.478,5 2001 15.100,0 10.090,4 5.009,6 1.816,4 Tốc độ tăng trưởng bình quân 13,0 14,9 9,5 14,6 (Nguồn: Niên giám Thống kê Nông - Lâm - Thuỷ sản ) Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006, vượt 3,1% so với kế hoạch Chính phủ đặt ra là 17,4%. Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 tăng 8,2 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản tăng 1,7 tỷ USD, nhóm nhiên liệu - khoáng sản tăng 0,2 tỷ USD, nhóm công nghiệp và thủ công mỹ nghệ tăng 3,7 tỷ USD và nhóm hàng khác tăng 2,6 tỷ USD. Hơn thế nữa, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm sau đều cao hơn năm trước. So với năm 2006, năm 2007 đã chứng kiến sự tăng trưởng vượt bậc ở cả ba nhóm ngành: ngành nông nghiệp đã tưng 2,34%; ngành lâm nghiệp tăng 1,1%; ngành thủy sản cao nhất đạt 10,38%. Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đã đóng góp tích cực vào quy mô và tốc độ tăng trưởng tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong 10 thành viên của “ câu lạc bộ 1 tỷ USD trở lên” thì nông, lâm, thủy sản đã đóng góp 5 thành viên trong đó thủy sản là ngành có đóng góp đứng thứ 4 sau dầu thô, dệt may và giày dép. Hình1.1: Câu lạc bộ 1 tỷ USD trở lên năm 2007 ( Nguồn: Thời báo kinh tế Việt Nam – Kinh tế 2007-2008 Việt Nam và Thế giới) Trong các hoạt động của ngành, khai thác hải sản giữ vị trí rất quan trọng. Sản lượng khai thác hải sản trong 10 năm gần đây tăng liên tục với tốc độ tăng bình quân hằng năm khoảng 7,7% (giai đoạn 1991 - 1995) và 10% (giai đoạn 1996 - 2003). Nuôi trồng thuỷ sản đang ngày càng có vai trò quan trọng hơn khai thác hải sản cả về sản lượng, chất lượng cũng như tính chủ động trong sản xuất. Điều này tất yếu dẫn đến sự chuyển đổi về cơ cấu sản xuất - ưu tiên phát triển các hoạt động kinh tế mũi nhọn, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở khắp mọi miền đất nước cả về nuôi biển, nuôi nước lợ và nuôi nước ngọt. Đến năm 2003, đã sử dụng 612.778 ha nước mặn, lợ và 254.835 ha nước ngọt để nuôi thuỷ sản. Trong đó, đối tượng nuôi chủ lực là tôm với diện tích 580.465 ha. Bên cạnh những tiềm năng đã biết, Việt Nam còn có những tiềm năng mới được xác định có thể sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản như sử dụng vật liệu chống thấm để xây dựng công trình nuôi trên các vùng đất cát hoang hoá, chuyển đổi mục đích sử dụng các diện tích trồng lúa, làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản… Nuôi biển là một hướng mở mới cho ngành Thuỷ sản, đã có bước khởi động ngoạn mục với các loài tôm hùm, cá giò, cá mú, cá tráp, trai ngọc… với các hình thức nuôi lồng, bè. Nuôi nước ngọt đang có bước chuyển mạnh từ sản xuất nhỏ tự túc sang sản xuất hàng hoá lớn, điển hình là việc phát triển nuôi cá tra, cá ba sa xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế cao; nuôi đặc sản được mở rộng. Sự xuất hiện hàng loạt các trang trại nuôi chuyên canh (hoặc canh tác tổng hợp nhưng lấy nuôi trồng thuỷ sản làm hạt nhân) chuyển đổi phương thức nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến sang bán thâm canh và thâm canh đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. 2. Ngành Thủy sản đã đóng góp vai trò quan trọng trong việc mở rộng quan hệ thương mại quốc tế. Từ đầu những năm 1980, ngành thuỷ sản đã đi đầu trong cả nước về mở rộng quan hệ thương mại sang những khu vực thị trường mới trên thế giới. Năm 1996, ngành thuỷ sản mới chỉ có quan hệ thương mại với 30 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Đến năm 2001, quan hệ này đã được mở rộng ra 60 nước và vùng lãnh thổ, năm 2003 là 75 nước và vùng lãnh thổ. Đối với các nước và vùng lãnh thổ có quan hệ thương mại, ngành thuỷ sản đã tạo dựng được uy tín lớn. Những nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật và các nước trong khối EU đã chấp nhận làm bạn hàng lớn và thường xuyên của ngành. Năm 2003, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào bốn thị trường chính là Mỹ, Nhật Bản, EU và Trung Quốc chiếm trên 75% tổng giá trị kim ngạch, phần còn lại trải rộng ra gần 60 nước và vùng lãnh thổ. Có thể thấy rằng sự mở rộng mối quan hệ thương mại quốc tế của ngành thuỷ sản đã góp phần mở ra những còn đường mới và mang lại nhiều bài học kinh nghiệm để nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào khu vực và thế giới. 3. Ngành Thuỷ sản cũng góp phần tích cực đối với vấn đề phúc lợi xã hội. Thuỷ sản được đánh giá là nguồn cung cấp chính đạm động vật cho người dân. Năm 2001, mức tiêu thụ trung bình mặt hàng thuỷ sản của mỗi người dân Việt Nam là 19,4 kg, cao hơn mức tiêu thụ trung bình sản phẩm thịt lợn (17,1 kg/người) và thịt gia cầm (3,9 kg/người). Cũng giống như một số nước châu Á khác, thu nhập tăng đã khiến người dân có xu hướng chuyển sang tiêu dùng nhiều hơn mặt hàng thuỷ sản. Có thể nói ngành thuỷ sản có đóng góp không nhỏ trong việc bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Ngành thuỷ sản với sự phát triển nhanh của mình đã tạo ra hàng loạt việc làm và thu hút một lực lượng lao động đông đảo tham gia vào tất cả các công đoạn sản xuất, làm giảm sức ép của nạn thiếu việc làm trên phạm vi cả nước. Số lao động của ngành thuỷ sản tăng liên tục từ 3,12 triệu người (năm 1996) lên khoảng 3,8 triệu người năm 2001 (kể cả lao động thời vụ), như vậy, mỗi năm tăng thêm hơn 100 nghìn người. Tỷ lệ tăng bình quân số lao động thường xuyên của ngành thuỷ sản là 2,4%/năm, cao hơn mức tăng bình quân của cả nước (2%/năm). Đặc biệt do sản xuất của nhiều lĩnh vực như khai thác, nuôi trồng thuỷ sản chủ yếu là ở quy mô hộ gia đình nên đã trở thành nguồn thu hút mọi lực lượng lao động, tạo nên nguồn thu nhập quan trọng góp phần vào sự nghiệp xoá đói giảm nghèo. Các hoạt động phục vụ như vá lưới, cung cấp thực phẩm, tiêu thụ sản phẩm… chủ yếu do lao động nữ thực hiện, đã tạo ra thu nhập đáng kể, cải thiện vị thế kinh tế của người phụ nữ, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, miền núi. Riêng trong các hoạt động bán lẻ thuỷ sản, nữ giới chiếm tỉ lệ lên đến 90%. II- Xu hướng nuôi trồng và tiêu thụ cá da trơn trên Thế giới hiện nay. Theo dự báo của Trung tâm Thủy sản Thế giới, đến năm 2010 nhu cầu thủy sản toàn thế giới vào khoảng 156.723 nghình tấn, trong đó nhu cầu thủy sản thực phẩm chiếm 81,8% và nhu cầu thủy sản phi thực phẩm chiếm 18,2%. Riêng các nước đang phát triển, đặc biệt là khu vực Châu Á năm 2010 sẽ chiếm 58% mức tiêu thụ thủy sản toàn thế giới, kế tiếp là khu vực Châu Âu và Nga chiếm 13%, Caribee và Nam Mỹ chiếm 12%, các châu lục khác sẽ chiếm tỷ trọng dưới 10% tổng nhu cầu thủy sản toàn thế giới. Trong các mặt hàng thủy sản, các mặt hàng cá da trơn, cá hồi, cá ngừ và cá biển sẽ tiếp tục đóng vai trò chủ đạo. Có thể thấy được rằng nhu cầu thủy sản thế giới là rất lớn trong khi nguồn cung khai thác ngày càng giảm dần. Nuôi trồng thủy sản đang trở nên quan trọng trong cung cấp thực phẩm cho con người. Các sản phẩm chế biến từ các loài cá da trơn đặc biệt là cá tra của Việt Nam đã làm thay đổi thói quen tiêu dùng của thế giới. Bảng 1.3: Dự báo tiêu thụ thủy sản trên thế giới đến năm 2010 TT Các chỉ tiêu Châu Phi Bắc Mỹ Caribê Nam Mỹ Châu Á Châu Âu và Nga Châu Đại Dương Toàn Thế giới 1 Tổng nhu cầu (nghìn tấn) 8.735 9.047 19.180 91.310 20.589 7.862 156.723 2 Dân số (triệu người) 997 332 595 4.145 713 34 6.816 4 Mức tiêu thụ đầu người (kg) 8,0 23,4 10,6 20,2 20,5 22,1 17,8 ( Nguồn: trung tâm Thủy sản Thế giới (World Fish Center)) Cũng theo trung tâm Thủy sản Thế giới, xu hướng và nhu cầu tiêu dùng thủy sản thế giới từ nay cho đến năm 2020 tiếp tục tăng mạnh. Riêng sản phẩm cá tra, cá ba sa đang được các nước nhập khẩu quan tâm xem như là sản phẩm thay thế cá thịt trắng có nguồn gốc từ các vùng biển , nhờ giá cá tương đối thấp, chất lượng thơm ngon, sản lượng dồi dào và ổn định. Các nhà máy chế biến thủy sản tại Châu Âu rất cần nguồn nguyên liệu cá tra, cá ba sa để chế biến và cung cấp cho các thị trường. Nguyên nhân chủ yếu của việc tăng nhu cầu tiêu dùng thủy sản đặc biệt là cá da trơn là do tình hình kinh tế – chính trị trên Thế giới trong những năm gần đây có rất nhiều biến động đã dẫn đến những thay đổi trong thói quen của người tiêu dùng. Xu hướng ẩm thực trên Thế giới đang có sự dịch chuyển từ thịt sang cá do yếu tố sức khỏe: ăn nhiều thức ăn chứa chất béo sẽ khiến cơ thể mắc các chứng bệnh như béo phì, xơ vỡ động mạch... là những căn bệnh rất phổ biến ngày nay đặc biệt là ở các nước phương Tây; trong khi đó, các động vật thủy, hải sản không chứa cholestron nên rất an toàn cho cơ thể con người nên rất được ưa chuộng. Tuy nhiên, lượng cá đánh bắt tự nhiên trên biển không thể tăng thêm do yếu tố môi trường, sinh thái. Cả thế giới đều phải dựa vào cá nuôi. Thêm vào đó, Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ năm 2008 đã kéo theo một loạt hiệu ứng dây chuyền ở các nền kinh tế khác trên thế giới. Những thị trường lớn như Mỹ, EU và Nhật Bản thể hiện khá rõ nhưng biến động về nhập khẩu trong đó có nhập khẩu thực phẩm. Một số khảo sát mới đây ở Mỹ cho thấy có đến 1/3 người tiêu dùng chuyển sang các loại thực phẩm rẻ hơn, việc đi ăn nhà hàng giảm tới 25%, thói quen tiêu dùng của người dân đã thay đổi theo chiều hướng tiêu cực. Cá da trơn là loại mặt hàng được người tiêu dùng khá ưa chuộng bởi nó có giá thành rất rẻ, dễ chế biến và đầy đủ chất dinh dưỡng mà không gây hại cho sức khỏe. Tuy nhiên, người tiêu dùng đặc biệt là đối với các nước nhập khẩu cá da trơn, các thông số của con cá da trơn như: nguồn gốc, chất lượng vệ sinh, dư lượng kháng sinh trong thịt cá... bắt buộc phải tuân theo quy định cực kỳ nghiêm ngặt nhằm trành tổn hại cho người tiêu dùng. Từ những xu hướng tiêu dùng trên, nhiều quốc gia đã chọn cá da trơn làm đối tượng quan trọng trong chiến lược phát triển nuôi trồng thủy sản và không chỉ tạo sản phẩm tiêu dùng trong nước mà còn hướng tới xuất khẩu. Ở Việt Nam, cá da trơn- tiêu biểu là cá tra, cá ba sa- đã trở thành đối tượng nuôi quan trọng. Xu hướng nuôi cá da trơn trên thế giới hiện nay là đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và phát triển nghề nuôi bền vững. Việt Nam cũng đang đi vào xu hướng đó. Các nước trên thế giới khi mua sản phẩm đều muốn biết rõ nguồn gốc, quá trình nuôi, nuôi trong điều kiện thế nào, vùng nuôi có làm ô nhiễm môi trường không... Do đó, để có thể cạnh tranh được trên thị trường thế giới, chúng ta phải phát triển những mô hình nuôi đảm bảo chất lượng sản phẩm, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. III- Những lý luận chung về phát triển bền vững nuôi trồng và tiêu thụ cá da trơn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 1. Khái niệm phát triển bền vững. Phát triển bền vững là một khái niệm mới nảy sinh từ sau cuộc khủng hoảng môi trường, do đó cho đến nay chưa có một định nghĩa nào đầy đủ và thống nhất. Một số định nghĩa của Khoa học Môi trường bàn về phát triển bền vững như: - Hội nghị môi trường toàn cầu Rio de Janerio (6/1992) đưa ra thuyết phát triển bền vững; nghĩa là sử dụng hợp lý và có hiệu quả các nguồn tài nguyên, bảo vệ Môi trường một cách khoa học đồng thời với sự phát triển kinh tế. - Theo Hội đồng thế giới về môi trường và phát triển (World Commission and Environment and Development, WCED) thì “phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ”. - Phát triển bền vững là một mô hình chuyển đổi mà nó tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng không hề gây hại cho tiềm năng của những lợi ích tương tự trong tương lai (Gôdian và hecdue, 1988, GS. Grima Lino). Định nghĩa này bao gồm hai nội dung then chốt: các nhu cầu của con người và những giới hạn đối với khả năng của môi trường đáp ứng các nhu cầu hiện tại và tương lai của con người. - Phát triển là mô hình phát triển mới trên cơ sở ứng dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ cho nhu cầu của con người thế hệ hiện nay mà không làm hại cho thế hệ mai sau. (Nguyễn Mạnh Huấn, Hoàng Đình Phu- Những vấn đề kinh tế –xã hội và văn hoá trong phát triển bền vững, Hà Nội 3/1993, trang 17,18). Phát triển bền vững bao gồm sự thay đổi Công nghệ hiện đại, Công nghệ sạch, Công nghệ có hiệu quả hơn nhằm tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên hoặc từ sản phẩm kinh tế –xã hội. Muốn vậy, phải giải quyết các mâu thuẫn như sản xuất –nhu cầu-tài nguyên thiên nhiên và phân phối, vốn đầu tư, cũng như Công nghệ tiên tiến cho sản xuất. Các nước trên thế giới đều có điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên; điều kiện kinh tế –xã hội khác nhau, đưa đến hiện tượng có nước giàu và nước nghèo, nước công nghiệp phát triển và nước nông nghiệp. Do đó cần xem xét bốn vấn đề: con người, kinh tế, môi trường và công nghệ, qua đó phân tích phát triển bền vững và có đạt được mục tiêu phát triển bền vững. - Về kinh tế, phát triển bền vững bao hàm việc cải thiện giáo dục, chăm lo sức khoẻ cho phụ nữ và trẻ em, chăm lo sức khoẻ cho cộng đồng, tạo ra sự công bằng về quyền sử dụng ruộng đất, đồng thời xóa dần sự cách biệt về thu nhập cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội. - Về con người, để đảm bảo phát triển bền vững cần thiết nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật cho người dân, nhờ vậy người dân sẽ tích cực tham gia bảo vệ môi trường cho sự phát triển bền vững. Muốn vậy phải đào tạo một đội ngũ các nhà giáo đủ về số lượng, cũng như các thầy thuốc, các kỹ thuật viên, các chuyên gia, các nhà khoa học trong mọi lĩnh vực của đời sống. - Về môi trường, phát triển bền vững đòi hỏi phải sử dụng tài nguyên như đất trồng, nguồn nước, khoáng sản… Đồng thời, phải chọn lựa kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng, cũng như mở rộng sản xuất đáp ứng nhu cầu của dân số tăng nhanh. Phát triển bền vững đòi hỏi không làm thoái hoá các ao hồ, sông ngòi, uy hiếp đời sống sinh vật hoang dã, không lạm dụng hoá chất bảo vệ thực vật trong nông nghiệp, không gây nhiễm độc nguồn nước và lương thực. - Về Công nghệ, phát triển bền vững là giảm thiểu tiêu thụ năng lượng và sử dụng cácnguồn tài nguyên thiên nhiên trong sản xuất, áp dụng có hiệu quả các loại hình công nghệ sạch trong sản xuất. Trong sản xuất công nghiệp cần đạt mục tiêu ít chất thải hoặc chất gây ô nhiễm môi trường, tái sử dụng các chất thải, ngăn ngừa các chất khí thải công nghiệp làm suy giảm tầng ozon bảo vệ trái đất. Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó. 2. Các tiêu chí đánh giá phát triển bền vững. Ở Việt Nam, phát triển bền vững được hiểu một cách toàn diện: “ Phát triển bền vững bao trùm các mặt của đời sống xã hội, nghĩa là phải gắn kết sự phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, giữ gìn và cải thiện môi trường, giữ vững ổn định chính trị – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh”. Phát triển bền vững là quá trình phát triển nhằm thực hiện 4 nhóm mục tiêu lớn: mục tiêu kinh tế, mục tiêu xã hội, mục tiêu môi trường và mục tiêu an ninh quốc gia. Giữa các nhóm có mối quan hệ mật thiết với nhau. Ngoài mục tiêu an ninh quốc phòng, mối quan hệ qua lại giữa 3 nhóm mục tiêu lớn của phát triển bền vững có thể được mô tả như sau: Hình 1.2: Các nhóm mục tiêu phát triển bền vững. Mục tiêu kinh tế Tăng trưởng cao ổn định Phát triển bền vững Mục tiêu xã hội Cải thiện xã hội Công bằng xã hội Phát triển NNL Mục tiêu môi trường Cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ môi trường, tài nguyên thiên nhiên Bền vững kinh tế đòi hỏi nền kinh tế phải tăng trưởng GDP và GDP bình quân đầu nười cao; cơ cấu kinh tế phải hợp lý, đảm bảo cho tăng trưởng GDP ổn định; lấy hiệu quả kinh tế – xã hội làm tiêu chí phấn đấu cho tăng trưởng. Bền vững về xã hội lý giải một điều rừng liệu xã hội có thể coi là phát triển bình thường, nếu dân số giảm sút? Nếu đảo chính, chiến tranh, khủng bố, dịch bệnh liên miên xảy ra cướp đi sinh mạng và mọi thành quả của lao động? Để tránh được các tai biến xã hội nói trên, phát triển phải mang tính nhân văn. Quá trình đó bao gồm: mở rộng các cơ hội lựa chọn cho mọi người; mọi người cùng tham gia vào quá trình phát triển và mọi người cùng được hưởng lợi từ quá trình phát triển này. Bền vững về môi trường, đối với từng cá nhân cũng như cả loài người, môi trường có 3 chức năng: là không gian sinh tồn của con người (cả số lượng và chất lượng ); là nơi cung cấp tài nguyên cần thiết cho cuộc sống và hoạt động sản xuất của con người; là nơi chứa đựng, xử lý, tái chế các phế thải của con người. Vì thế, môi trường bền vững là môi trường luôn luôn thay đổi nhưng đảm bảo thực hiện cả ba chức năng nói trên. Xã hội phát triển bền vững là xã hội mà con người có cuộc sống chất lượng cao trên nền tảng sinh thái bền vững. Do tầm quan trọng đối với sự phát triển của toàn nhân loại mà phát triển bền vững được đánh giá thông qua các tiêu chí như sau: Bảng 1.4: Các tiêu chí và ý nghĩa nhằm đánh giá phát triển bền vững. TIÊU CHÍ Ý NGHĨA KINH TẾ - Tốc độ tăng trưởng GDP (GNI) - Cơ cấu ngành kinh tế - GDP/ người - Năng suất lao động (GDP/ lao động) - Xuất, nhập khẩu/ GDP - Tỉ trọng GDP ngành phi nông nghiệp/ tổng GDP - Tỉ trọng ngành dịch vụ/ ngành sản xuất vật chất - Tỉ trọng đầu tư cho ngành phi sản xuất vật chất trong tổng đầu tư - Mức độ tăng về qui mô của nền kinh tế - Thể hiện trình độ phát triển - Phản ánh chất lượng tăng trưởng và phát triển - Phản ánh chất lượng tăng trưởng và phát triển - Độ mở của nền kinh tế - Phản ánh mức độ công nghiệp hoá - Đánh giá độ hài hoà của sự phát triển - Đánh giá mức độ đầu tư cho công nghiệp hoá XÃ HỘI - Tốc độ tăng dân số - HDI - Sự nghèo khổ (HPI) - Tỉ lệ dân số đô thị, tỉ lệ dân cư được sử dụng nước sạch… - Mức độ tăng về qui mô dân số - Đánh giá toàn diện về phát triển con người (tuổi thọ, kiến thức và mức sống) - Thể hiện sự bần cùng của cuộc sống con người (tuổi thọ thấp, thiếu giáo dục cơ sở và đời sống nghèo nàn) - Phản ánh mức sống chung MÔI TRƯỜNG - Tỉ lệ CO2, CO, SO2... trong không khí - Chỉ số DO, BOD, COD,… - Tình hình ô nhiễm môi trường (không khí, nước, đất…) 3. Sự cần thiết phải phát triển bền vững nuôi trồng và tiêu thụ cá da trơn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu dựa vào nông nghiệp và thủy sản, tỷ trọng chiếm 52,7% trong tổng GDP của toàn vùng. Đồng bằng sông Cửu Long có tiềm năng và lợi thế tự nhiên đặc biệt thuận lợi cho phát triển nuôi cá da trơn nhờ sông Mê Kông mang lại mà không nơi nào trên thế giới có thể có được: dòng sông rất lớn, chảy quanh năm luôn đảm bảo nguồn nước sạch; đoạn sông qua Việt Nam là phần hạ du với 9 cửa toả rộng ra biển (được gọi là sông Cửu Long) nên lưu tốc điều hoà. Nuôi cá ở đây lợi dụng được dòng chảy và thuỷ triều nên việc thay nước ao hàng ngày để nuôi mật độ dầy mà không cần phải dùng máy bơm đã giảm được chi phí sản xuất tới 10-15%. Các loại cá da trơn là loài bản địa phát triển tự nhiên trên sông Mê Kông có chất lượng thịt ngon, không có xương dăm dễ chế biến, được người tiêu dùng ưa chuộng. Đặc biệt loài cá da trơn rất phàm ăn, tốc độ sinh trưởng rất nhanh, có sức đề kháng bệnh cao, ngưỡng ôxy thấp nên có thể nuôi với mật độ rất dầy để tạo năng suất cực cao trong một thời gian ngắn mà không phải bất kỳ loài cá nào cũng có thể thực hiện được. Năng suất nuôi bình quân tới 150 - 300 tấn/ha, cá biệt tới 600 tấn/ha cao nhất trên thế giới hiện nay. Sản xuất cá tra, cá ba sa tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long thực sự phát triển từ năm 1997 và đặc biệt tăng nhanh từ năm 2004 do sản phẩm đã được xuất khẩu giới thiệu với các nước trên Thế giới. Nhất là trong những gần đây, nhờ đẩy mạnh xúc tiến thương mại, sản phẩm được tiêu thụ ở ngày càng nhiều. Cá tra, cá ba sa đã trở thành một mặt hàng chiến lược quan trọng, góp phần đưa Việt Nam trở thành nước nuôi trồng thủy sản lớn thứ 3 và xuất khẩu thủy sản lớn thứ 5 trên thế giới. Năm 2007 sản lượng cá tra đạt tới trên 1,0 triệu tấn bằng 50% sản lượng thuỷ sản nuôi trồng và bằng 24% tổng sản lượng thuỷ sản của cả nước. Sản phẩm cá tra năm 2007 được xuất khẩu sang trên 85 nước đạt giá trị đã đã lợi ích kinh tế giá trị kim ngạch đạt hơn 1 tỷ USD, chiếm 27% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn ngành thuỷ sản. Sản xuất cá da trơn đã tạo được việc làm cho trên 32 nghìn lao động, thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, sản xuất và tiêu thụ cá da trơn trong mấy năm qua cũng đang thể hiện sự thiếu ổn định bền vững. Việc nuôi cá tự phát nên khi thiếu, khi thừa nguyên liệu đã xảy ra tình trạng khi thiếu các doanh nghiệp tranh mua, người nuôi phá vỡ hợp đồng với doanh nghiệp, tự ý tăng giá hoặc ngược lại khi thừa sản phẩm bị ép giá, ép cấp, thanh toán chậm. Sự phát triển nuôi cá tra, cá ba sa không được tính toán kỹ, thiếu sự quản lý còn dẫn đến nguy cơ sản phẩm không đảm bảo chất lượng theo yêu cầu của thị trường ngày càng khắt khe hơn. Đồng thời công nghệ nuôi không đảm bảo còn tác động xấu tới sinh thái môi trường, nguồn nước tự nhiên bị ô nhiễm, cá được nuôi không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, chưa thực hiện truy xuất nguồn gốc, thêm vào đó là việc xả nước thải từ vùng nuôi ra môi trường không qua xử lý có nguy cơ và gây ô nhiễm nguồn nước của cả hệ thống sông Cửu Long. Chính vì vậy, sản phẩm cá da trơn của Việt Nam có nguy cơ không được thị trường thế giới chấp nhận. Một trong những tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là vấn đề về môi trường. Vấn đề cấp bách nhất hiện nay là môi trường nước trên các sông rạch khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Các nguồn nước trong vùng đã bị chi phối bởi nước từ thượng nguông đổ về, nước mưa và nước ngầm; chất lượng nước cũng bị chi phối bởi chất lượng nước từ thượng nguồn, xả thải của sinh hoạt và các hoạt động kinh tế khác trong vùng. Có thể nói chất lượng môi trường nước đang bị ảnh hưởng và tác động của toàn bộ hoạt động sản xuất trong và ngoài khu vực ( vùng lân cận). Với xu hướng phát triển nhanh mạnh của các ngành kinh tế như hiện nay thì trong một tương lai không xa, nếu công tác giám sát xả thải và quản lý các tác động đến môi trường không được quan tâm đúng mức thì tình trạng ô nhiễm môi trường là không thể tránh khỏi và lúc đó tác động ngược lại của nó đến sản xuất và đời sống của người dân sẽ gây ra những thiệt hại mà chúng ta khó có thể lường trước được. Có thể thấy được 3 vấn đề lớn cần phải quan tâm để hướng sản xuất bền vững về mặt môi trường đó là: nâng cao nhận thức về vai trò, ý thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường của người dân trong cộng đồng; công tác kiểm tra, kiểm soát, phối hợp liên ngành cần phải được thắt chặt để quản lý nguồn tài nguyên vô giá này; xây dựng được thỏa thuận với các nước có dòng sông Mê Kông chảy qua để cùng khai thác nguồn tài nguyên có giới hạn này. Để sản xuất cá da trơn bền vững cần phải tổ chức lại theo tư duy sản xuất hàng hoá tiên tiến phù hợp với xu hướng chung của thương mại thế giới song song với đó là các biện pháp bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước. Vì vậy, cần thiết phải đưa ra các giải pháp nhằm phát triển bền vững nuôi trồng và tiêu thụ cá da trơn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở đánh giá hiện trạng, các yếu tố tác động, dự báo thị trường để đưa ra mục tiêu, định hướng, nội dung cần triển khai, các giải pháp khắc phục Chương II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NUÔI TRỒNG VÀ TIÊU THỤ CÁ DA TRƠN TẠI VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG I- Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 1. Điều kiện tự nhiên của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đồng bằng sông Cửu Long là một bộ phận của châu thổ sông Mê Kông có diện tích 39.734km². Đây là một trong những đồng bằng châu thổ rộng và phì nhiêu ở Đông Nam Á và Thế giới, là một vùng đất quan trọng, sản xuất lương thực lớn nhất nước, là vùng thuỷ sản và vùng cây ăn trái nhiệt đới lớn của cả nước. Đồng bằng sông Cửu Long có một nền nhiệt độ cao và ổn định trong toàn vùng. Đây cũng là nơi ít xảy ra thiên tai do khí hậu đặc biệt là bão. Những đặc điểm khí hậu này đã tạo ra một nguồn lực rất thuận lợi cho sinh trưởng và phát của sinh vật đạt được năng suất sinh học cao, tạo ra một thảm thực vật và một quần thể động vật phong phú đa dạng, nhưng có tính đồng nhất tương đối trong toàn vùng. Đó là những điều kiện thuận lợi để tổ chức sản xuất và phát triển sản xuất lương thực - thực phẩm, phát triển sản xuất chế biến sản phẩm nông - thuỷ - hải sản lớn nhất cả nước. Và cũng tạo ra các lợi thế so sánh khác của Vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Sông Mê Kông đã tạo ra nhiều dạng sinh cảnh tự nhiên, thay đổi từ các bãi thuỷ triều, giồng cát và đầm lầy ngập triều ở vùng đồng bằng ven biển, các vùng cửa sông, cho đến vùng ngập lũ, các khu trũng rộng, đầm lầy than bùn, các dải đất cao phù sa ven sông và bậc thềm phù sa cổ nằm sâu trong nội địa. Nhờ hệ thực vật phát triển khá đa dạng nên hệ động vật ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng rất phông phú gồm: 23 loài có vú, 386 loài và bộ chim, 6 loài lưỡng cư và 260 loài cá. Số lượng và tính đa dạng của hệ động vật thường lớn nhất trong các khu rừng tràm và rừng ngập mặn còn lại. Sông Mê Kông đã đem lại rất nhiều lợi thế cho phát triển nuôi trồng thủy sản, đặc biệt nơi này rất thuận lợi cho phát triển nuôi cá da trơn nhờ sông Mê Kông mang lại mà không nơi nào trên thế giới có thể có được: dòng sông rất lớn, chảy quanh năm luôn đảm bảo nguồn nước sạch; đoạn sông qua Việt Nam là phần hạ du với 9 cửa toả rộng ra biển (được gọi là sông Cửu Long) nên lưu tốc điều hoà. Đồng bằng sông Cửu Long nằm giáp Campuchia, gần Lào, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ là những vùng có nguồn tài nguyên khoáng sản, rừng phong phú, có nguồn dầu khí, điện lớn. Đồng bằng sông Cửu Long nằm trên địa hình tương đối bằng phẳng, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch phân bố rất dày thuận lợi cho giao thông thuỷ vào bậc nhất so với các vùng ở nước ta nên rất thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy hải sản. Đồng bằng sông Cửu Long có bờ biển dài trên 700 km khoảng 360.000 km2 vùng kinh tế đặc quyền, giáp biển Đông và Vịnh Thái Lan, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển. Thêm vào đó tài nguyên biển ở đây hết sức phong phú với hàng trăm bãi cá cùng với nhiều loại hải sản quý. Nhờ thiên nhiên ưu đãi nên việc phát triển nuôi trồng thủy sản nói chung và nuôi trồng cá tra, cá ba sa nói riêng tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long tương đối thuận lợi và cũng là điểm mạnh của nước ta mà không phải nước nào trên thế giới cũng có được. 2. Điều kiện kinh tế xã hội của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Đồng bằng sông Cửu Long có số dân số đông thứ hai trong 8 vùng, chiếm 21% dân số Việt Nam. Năm 2000, là 16,386 triệu người, năm 2004 là 17,1 triệu người, tốc độ tăng bình quân 2001 - 2004 là 1,08% và là nơi cung cấp lao động công nghiệp cho các tỉnh ở Đồng Nai, Bình Dương và Tp Hồ Chí Minh. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng kinh tế phát triển nhất cả nước lại nằm giữa một khu vực kinh tế năng động và phát triển, liền kề với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam vùng phát triển năng động nhất Việt Nam bên cạnh các nước Đông Nam Á ( Thái Lan, Singapo, Malayxia, Philippin, Inđônêxia...) một khu vực kinh tế năng động và phát triển là những thị trường và đối tác đầu tư quan trọng. Đồng bằng sông Cửu Long nằm trong khu vực có đường giao thông hàng hải và hàng không quốc tế quan trọng, giữa Nam Á và Đông Á cũng như Châu Úc và các quần đảo khác trong Thái Bình Dương. Vị trí này hết sức quan trọng quan trọng cho giao lưu quốc tế. Trong 5 năm qua, khu vực đồng bằng sông Cửu Long đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, hiệu quả, bền vững; các mặt văn hoá xã hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân… GDP vùng Đồng bằng sông Cửu Long thống kê năm 2006 đạt 102.608,6 tỷ đồng, bằng 24,14% GDP cả nước, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2000-2006 khá cao là 10,8% so với 7,6% của cả nước.Về cơ câu GDP, giai đoạn 2000-2006 cho thấy sự chuyển dịch cơ cấu giữa các ngành kinh tế theo xu hướng giảm tỷ trọng GPD khu vực I (nông nghiệp-lâm nghiệp-thủy sản) và tăng dần tỷ trọng khu vực kinh tế II và III. Sự chuyển dịch này phù hợp với chính sách chuyển dịch kinh tế của Nhà nước trong giai đoạn vừa qua, khuyến khích phát triển công nghiệp-xây dựng, thương mại-dịch vụ. Tuy có sự chuyển dịch này, khu vực nông-lâm-thủy sản vẫn có tốc độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2000-2006 khá tốt ( bình quân 6,9%) và đạt 44.809 tỷ đồng, chiếm 43,64% tỷ trọng GDP và vẫn là khu vực kinh tế chiếm ưu thế trong tổng thể kinh tế vùng (số liệu thống kê năm 2006). Thêm vào đó, nhiều chỉ tiêu về lĩnh vực đời sống, văn hoá, xã hội đã thực hiện có kết quả như giảm từ 27,03% số hộ nghèo năm 2001 xuống còn 11,02% năm 2005; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm còn 22%, số hộ nông thôn được cung cấp điện đạt 89,7%, tạo việc làm mới cho hơn 1,4 triệu lao động; đời sống người dân được cải thiện. Tuy nhiên giáo dục, y tế vẫn còn lạc hậu và chưa đạt chỉ tiêu quốc gia đặc biệt ở vùng sâu vùng xa, nơi thường có hộ nuôi cá tra, cá ba sa. Nhìn chung, vùng Đông bằng sông Cửu Long có điều kiện kinh tế – xã hội tương đối thuận lợi cho việc phát triển ngành Thủy sản, đặc biệt là phát triển nghề nuôi cá tra, cá ba sa. Với nguồn lao động dồi dào, chất lượng ngày càng được nâng cao sẽ rất thuận lợi cho việc mở rộng quy mô và áp dụng các kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất. Xu hướng chuyển dịch giữa các ngành kinh tế ( từ Nông nghiệp sang Thủy sản) cũng phản ánh vai trò và tiềm năng của ngành thủy sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long. II- Tình hình nuôi trồng cá da trơn và tác động của nó tới kinh tế xã hội và môi trường tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. 1. Tình hình nuôi trồng cá da trơn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Việc nuôi cá tra và cá ba sa ở ta đã có từ những năm 1950 ở Đồng bằng sông Cửu Long với mục đích ban đầu chỉ để cung cấp thực phẩm, cải thiện bữa ăn hàng ngày. Giống cá chủ yếu do người dân tự bắt ngoài tự nhiên về, nuôi trong các ao hồ nhỏ và tận dụng nguồn thức ăn sẵn có. Khoảng hơn 10 năm trở lại đây tình hình nuôi đã có những bước phát triển rất nhanh. Trong đó, cá tra chiếm chủ yếu còn cá ba sa chỉ chiếm khoảng 10% do sản xuất giống khó khăn và chỉ nuôi được cá bè trên sông. Chỉ trong hơn 10 năm, sản lượng cá tra đã tăng hàng trăm lần. Con cá tra từ chỗ chỉ có mặt trên mâm cơm của những gia đình nghèo ở Đồng bằng sông Cửu Long nay đã có mặt ở mọi hang cùng ngõ hẻm trên khắp thế giới. Nghề nuôi cá hàng hoá bắt đầu ở An Giang và Tiền Giang do sản phẩm được xuất khẩu sang thị trường Mỹ bởi nhu cầu của một bộ phận kiều bào. Tháng 5 năm 1995, các nhà khoa học Việt Nam đã áp dụng thành công công nghệ tạo giống nhân tạo cho cá tra và basa. Từ đó, con giống với số lượng lớn và chi phí thấp được cung cấp thường xuyên cho nông dân. Hoạt động nuôi cá tra, cá basa bắt đầu phát triển dưới hình thức bè cá và hầm cá tại An Giang và Đồng Tháp. Nuôi cá bè, vốn được du nhập theo kinh nghiệm của ngư dân trên Hồ Tông-lê-sáp của Campuchia, nhanh chóng trở thành hình thức chủ yếu nuôi cá tra và basa. Sản lượng Ngành nuôi cá tra hàng hoá bắt đầu phát triển từ đó, cá nuôi năm 1997 đạt sản lượng 23 nghìn tấn, chủ yếu là nuôi cá bè. Năm 2001 đượcđã phát triển nuôi rộng ra Đồng Tháp, Vĩnh Long, Cần Thơ đạt sản lượng hơn 100 nghìn tấn. Do định mức chế biến cá nuôi bè thấp, giá thu mua bị hạ nên được chuyển sang nuôi trong ao. Cá ba sa chỉ nuôi được ở bè, giá thành cao nên gần như bị loại khỏi trên thị trường xuất khẩu do giá thành nuôi cao, lợi nhuận thấp. Năm 2002 Hiệp hội cá nheo của Mỹ đã kiện các doanh nghiệp xuất khẩu cá tra Việt Nam về thương hiệu sản phẩm khi cá tra mới chỉ chiếm khoảng 2% thị phần ở đây và bị Bộ Thương mại Mỹ áp mức thuế cao dẫn đến sản phẩm cá tra gần như mất thị trường Mỹ. Theo đó, nuôi cá nguyên liệu không bán được đã gây thiệt hại lớn cho người sản xuất. Các doanh nghiệp đã phải chuyển hướng tìm thị trường mới. Bảng2.1: Sản lượng nuôi cá tra lồng bè giai đoạn 1997-2005 (ĐV: Tấn) T T Năm TTỉnh 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1 An Giang 700 2.000 10.000 30.000 44.000 47.440 48.724 44.417 34.840 2 Đồng Tháp - 13.230 7.925 10.000 9.900 8.400 7.995 9.000 5.972 3 Cần Thơ - - 1.080 1.105 1.170 1.200 2.400 518 142 4 Vĩnh Long - - - - 450 2.800 4.360 5.505 2.200 5 Tiền Giang - - - - 30 32 - 64 110 Tổng 700 15.230 19.005 41.105 55.550 59.872 63.479 59.504 43.264 (Nguồn: Báo cáo của các Sở Thủy sản, Sở NN & PTNT các tỉnh, 2005-6/2006) Bảng2.2: Diện tích nuôi cá tra giai đoạn 1997-2005 (ĐV: ha) TT Năm Tỉnh 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 1 Long An - - - - - - - 100,0 150,0 2 Tiền Giang 850,0 900,0 815,0 738,0 860,0 860,0 880,0 900,0 920,0 3 Bến Tre - - - - - - - 54,3 57,9 4 Trà Vinh - - - - - - - 151,1 76,6 5 Sóc Trăng - - - - - - 16,0 39,0 84,0 6 Bạc Liêu - - - - - - - 5,5 6,0 7 Cà Mau - - - - - - - - 3,0 8 Kiên Giang - - - - - - - - 20,0 9 An Giang 440,0 400,0 600,0 400,0 401,1 650,0 860,9 765,2 815,0 10 Đồng Tháp - 435,0 510,0 595,0 567,5 480,0 408,5 520,0 1.826,0 11 Vĩnh Long - - - - 15,0 40,2 55,0 92,0 131,0 12 Hậu Giang - 328,0 390,0 473,0 - 20,0 27,0 40,0 13 Cần Thơ 383,0 552,0 671,0 783,0 Tổng 1.290 1.735 2.253 2.123 2.316,6 2.413,2 2.792,4 3.325,1 4.912,5 (Nguồn: Báo cáo của các Sở Thủy sản, Sở NN & PTNT các tỉnh, 1997 - 2005) Sau vụ kiện, mặc dù bị thua thiệt nhưng có nhiều nước trên thế giới quan tâm theo dõi diễn biến và biết đến cá tra như một sản phẩm đặc hữu của Việt Nam đã mở ra cơ hội mới cho phát triển thị trường. Sản phẩm cá tra Việt Nam đã đăng ký thương hiệu mới là Pangasius được chào hàng và tiêu thụ ngày càng nhiều ở các thị trường lớn như EU, Đông Âu, khối ASEAN. Nhu cầu thị trường lại tăng mạnh, giá cá nguyên liệu tăng lên cao đã thu hút đầu tư vào nuôi. Năm 2004 có tới 11 tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long nuôi cá tra đạt sản lượng hơn 270 nghìn tấn. Đến năm 2005 nuôi cá tra đã có ở cả 13 tỉnh trong vùng, song tập trung nhiều nhất ở các 8 tỉnh trọng điểm là An Giang, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Tiền Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh.. Diện tích nuôi năm 2007 hơn 5000 ha đạt sản lượng trên 1 triệu tấn; trong 6 tháng đầu năm 2008 diện tích nuôi là 5.500 ha, sản lượng hơn 1,1 triệu tấn. Bảng2.3: Nuôi cá tra của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long năm 2007 TT Tỉnh Diện tích nuôi (ha) Sản lượng cá tra (tấn) 1 An Giang 1000 263.592 2 Đồng Tháp 1271 227.463 3 Cần Thơ 969 200.000 4 Vĩnh Long 320 90.000 5 Bến Tre 495 40.930 6 Tiền Giang 840 279.000 7 Sóc Trăng 184 22.128 8 Hậu Giang 160 24.000 9 Long An 125 1.200 10 Trà Vinh 38 9.400 11 Kiên Giang 40 5.200 Tổng số 5.442 1.162.913 (Nguồn: Báo cáo của các Sở Thủy sản, Sở NN & PTNT các tỉnh, 2007) Ðầu năm 2008, diện tích nuôi trồng đạt gần 195 héc ta, sản lượng hơn 40.000 tấn. Tuy nhiên, vào cuối năm ngoái, giá cá tra biến động theo chiều hướng bất lợi cho người nuôi, thêm vào đó là việc người dân ồ ạt nuôi cá tra, cá ba đã dẫn tới thừa nguyên liệu không tiêu thụ được đồng thời chi phí nuôi, lãi suất ngân hàng cao làm nhiều hộ nuôi bị lỗ, phá sản. Giá xuất khẩu giảm, năm 2007 giá XK cá tra phi lê trung bình 2,5USD/kg, đến giữa năm 2008 giá giảm thấp nhất còn 1.75USD/kg. Nhiều cơ sở không tiếp tục nuôi lại có nguy cơ thiếu nguyên liệu cho thời gian sau và không duy trì nguồn hàng sẽ mất thị trường đã có. Sản xuất lúc tăng, lúc giảm không bền vững. Sau cơn khủng hoảng thừa năm 2008, dự báo diện tích nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long năm 2009 giảm ít nhất 35% kéo theo sản lượng sẽ giảm mạnh, các nhà máy chế biến thủy sản đang đứng trước nguy cơ thiếu nguyên liệu. “Cơn khủng hoảng cá tra ” năm 2008 là nốt trầm trong ngành nuôi cá Việt Nam. Mối tương quan giữa sản lượng và giá sản phẩm xuất khẩu theo tỷ lệ nghịch. Sản lượng càng tăng thì giá càng giảm. Hiện nay các yếu tố đầu vào của sản xuất đều tăng, nhưng cá nguyên liệu xuống dưới 15.000 đ/kg làm cho người nuôi cá đang bị thua lỗ nặng. Đầu năm 2009, thị trường cá tra vào Mỹ mở rộng thêm cho một số doanh nghiệp Việt Nam, thị trường Nga - vốn được đánh giá nhiều tiềm năng, cũng vừa khai thông trở lại. Nhưng những niềm vui này không khỏa lấp một thực tế đáng buồn là thiếu nguyên liệu cá trầm trọng do “Cơn khủng hoảng thừa” năm 2008 đã khiến nhiều nông dân nuôi cá phải phá sản, những hộ nuôi còn trụ được thì đồng loạt “treo ao”, “bỏ hầm” hoặc cho “thuê ao”. Theo kế hoạch năm nay, Tiền Giang sẽ nuôi 180 héc ta cá tra, nhưng đến thời điểm này, theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, số diện tích thả nuôi chỉ gần 120 héc ta, chủ yếu ở hai huyện Cái Bè và Cai Lậy. Diện tích nông dân “treo ao” hơn 34 héc ta, bằng 30% tổng diện tích thả nuôi. Sở này cho biết mục tiêu 180 héc ta năm nay khó có thể thực hiện được mà nguyên nhân chính vẫn là nông dân thiếu vốn đầu tư và không yên tâm ở đầu ra của con cá tra. Qua khảo sát của ngành nông nghiệp Tiền Giang thì ngoài 30% diện tích ao bỏ trống, trong số diện tích thả nuôi hiện nay, chỉ một số ít hộ nông dân ký được hợp đồng với doanh nghiệp mới dám đổ vốn vào nuôi, còn lại đa phần là nông dân cho thuê ao với giá từ 50 - 100 triệu đồng/héc ta, hoặc hợp tác với đối tác thuê ao và làm thuê trên chính ao nuôi của mình để hưởng tỷ lệ theo thỏa thuận. Theo Hiệp hội Thủy sản một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long thì từ đầu năm 2009, có khoảng 40% diện tích ao nuôi trong 6.000 héc ta ao cá tra tại vùng đã bị “treo”. Năm 2008 toàn vùng có khoảng 25% số hộ nuôi cá tra bị phá sản, 30% số hộ nuôi bị mất vốn tự có, 40% số hộ không trả nổi nợ ngân hàng mà ai cũng biết lý do là người nuôi bị thua lỗ nặng bởi thừa cá, giá giảm. Một xu hướng đang hình thành mà có lẽ đó là xu hướng tất yếu, bền vững hiện nay là các doanh nghiệp tiến dần tới tự chủ nguồn nguyên liệu cho sản xuất. Điển hình như công ty trách nhiệm hữu hạn Hùng Cá (Đồng Tháp) đã tự chủ hầu như toàn bộ nguồn nguyên liệu với sản lượng tự nuôi 30 ngàn tấn/năm; hay như công ty Gò Đàng (Tiền Giang) đã tự chủ được 40% nguồn nguyên liệu và đang nỗ lực tăng dần tỉ lệ đó. Theo xu hướng đó, các doanh nghiệp đang tự chủ gần 50% lượng nguyên liệu cá tra và các doanh nghiệp sẽ tự chủ cơ bản nguồn nguyên liệu. Một số doanh nghiệp cũng đang tiến hành trang bị nhà máy thức ăn thủy sản ( thức ăn chiếm gần 80% giá thành con cá tra) cho riêng mình. Hiện nay các công ty cung cấp thức ăn thủy sản phần nhiều là của nước ngoài. Việc phát triển nóng nghề nuôi cá tra đã làm cho thức ăn luôn trong tình trạng khan hiếm, các nhà cung cấp đã tận dụng cơ hội thu "siêu lợi nhuận", kể cả việc chủ động giảm chất lượng thức ăn (hạ độ đạm) mà giá bán vẫn cứ tăng. Khả năng nuôi cá tra ở Đồng bằng sông Cửu Long rất lớn tới hàng chục nghìn hecta. Tất cả các dải đất ven bờ sông Tiền, sông Hậu và các sông nhánh đều có thể tạo thành vùng nuôi cá tra. Lợi thế tự nhiên của Đồng bằng sông Cửu Long giúp cho sản xuất cá nguyên liệu giá thành thấp, sản xuất được số lượng lớn, có thể đánh bại các đối thủ cùng ngành hàng trên Thế giới. Tuy nhiên việc mở rộng diện tích nuôi hoàn toàn phụ thuộc vào thị trường tiêu thụ. Thực tiễn cho thấy, với thị trường như hiện nay sản lượng chỉ duy trì ở mức hiệu quả từ 1,2 - 1,5 triệu tấn cá nguyên liệu, tương đương với diện tích 8.000 ha nuôi 1 lứa/năm hoặc 4000 - 5000 ha nuôi 2 lứa/năm. 2. Tác động của việc nuôi trồng cá da trơn tới kinh tế – xã hội – môi trường tại vùng Đông bằng sông Cửu Long hiện nay. 2.1. Tác động của việc nuôi trồng cá da trơn tới kinh tế – xã hội tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Nuôi trồng thủy sản, nhất là cá tra, basa đã và đang mang lại nhiều lợi ích kinh tế - xã hội cao cho các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.Với thế mạnh và hiệu quả của nghề nuôi cá tra, 10 năm qua, từ một loài cá bản địa, cá tra đã trở thành sản phẩm chiến lược quốc gia, sản lượng nuôi tăng gấp 65 lần, đóng góp khoảng 2% GDP của cả nước; chiếm hơn 1/2 tổng sản lượng thủy sản xuất khẩu cả nước. Thị trường tiêu thụ cá tra đã được mở rộng và có uy tín ở 130 nước và vùng lãnh thổ. Một số nước, khu vực nhập khẩu lớn là Ucraina, Nga, EU, Bắc Phi, Trung Đông, Mỹ. Nhóm sản phẩm cá tra càng quan trọng, bởi chỉ sử dụng một diện tích rất nhỏ bé để nuôi (khoảng 6.000 ha mặt nước, bằng 1% diện tích nuôi tôm), có năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế, tạo việc làm cho hàng chục vạn công nhân, nông ngư dân, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là ở vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long. Hiện nay, tổng diện tích nuôi cá tra ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long khoảng 6.000 ha tập trung tại 10 tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Hậu Giang, Kiên Giang, Bến Tre. Năm 2008, các tỉnh này đạt sản lượng hơn 1,1 triệu tấn. Sản lượng cá tra thành phẩm xuất khẩu là 633 nghìn tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 1,4 tỷ USD. Đồng thời đã cơ bản hình thành hệ thống trên 10 nhà máy chế biến các sản phẩm từ cá tra, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Lợi ích mà cá tra, cá ba sa đem lại cho các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long là rất lớn. Giá cá tra thương phẩm tùy thuộc vào chất lượng thịt cá (thịt trắng, thịt hồng, thịt vàng), kích cỡ và giá cả thị trường theo từng thời điểm. Nhìn chung, giá cá tr bình quân hàng năm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long biến động từ 9.235đ/kg (năm 2005) đến 15.000đ/kg (năm 2007). Các tỉnh có giá bán cá tra trung bình cao là Trà Vinh, Bến Tre, Sóc Trăng so với các tỉnh khác trong vùng. Giá trị cá tra sản xuất tăng nhanh theo sự tăng lên của sản lượng và giá từ 220.875 triệu đồng năm 1997 tăng lên 10.257.855 triệu đồng năm 2007 (tăng gấp 46,5 lần trong vòng 11 năm). Trong 3 năm gần đây (2006 – 7/2008) tỉnh Cần Thơ có bước đột phá trong sản xuất tiêu thụ cá tra và dẫn đầu trong vùng về giá trị sẩn lượng (khoảng 7.913 tỷ đồng). Đứng thứ 2 là tỉnh Đông Tháp (khoảng 7.361 tỷ đồng), kế tiếp là tỉnh An Giang (khoảng 5.658 tỷ đồng), có giá trị sản xuất trên 1.000 tỷ đồng là tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre. Bảng 2.4: Giá trị sản xuất cá ba sa vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 1997-2005 theo giá hiện hành (ĐV:Triệu đ) TT Tỉnh, thành N1997 N1998 N1999 N2000 N2001 N2002 N2003 N2004 N2005 1 Long An 246.500 210.000 176.400 104.000 67.500 37.120 23.436 18.860 24.153 2 Tiền Giang - 85.050 79.968 52.000 40.095 18.125 10.556 8.100 5.151 3 Bến Tre - - - 1.209 4.050 - - - - 4 Sóc Trăng - - - - - 1.161 1.309 6.136 - Tổng 246.500 295.050 256.368 157.209 111.645 56.406 35.301 33.095 29.304 (Nguồn: Giá cá được thống kê qua các năm của các địa phương, 1997-2005) Bảng 2.5. Giá trị sản xuất cá tra của vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 1997-2005 theo giá hiện hành (ĐV: Triệu đ) TT Tỉnh, thành N1997 N1998 N1999 N2000 N2001 N2002 N2003 N2004 N2005 N2006 N2007 7T/2008 1 Long An - - - - - - - 7.700 11.082 0 0 0 2 Tiền Giang 24.225 30.240 34.230 28.044 34.700 127.330 131.560 208.604 250.361 118.571 263.700 54.781 3 Bến Tre - - - - - - - 132.374 41.558 269.006 614.445 731.692 4 Trà Vinh - - - - - - - 116.644 76.872 138.421 142.245 168.852 5 Sóc Trăng - - - - - - 27.600 64.350 125.227 133.858 270.000 323.633 6 Bạc Liêu - - - - - - - 1.210 1.108 0 0 0 7 Cà Mau - - - - - - - - 693 0 0 0 8 Kiên Giang - - - - - - - - 3.694 0 0 0 9 An Giang 196.650 224.000 420.000 570.000 631.370 1.017.087 1.209.513 1.265.242 1.327.328 956.036 1.755..930 2.946.130 10 Đồng Tháp - 260.176 210.788 208.202 227.000 295.815 287.558 445.500 854.117 1.825.072 3.411.945 2.123.933 11 Vĩnh Long - - - - 17.200 123.984 138.690 229.911 313.990 546.231 1.197.630 1.182.414 12 Hậu Giang - - - - - - 27.600 37.125 57.719 86.265 283.500 504.023 13 Cần Thơ - - 63.000 73.483 106.300 293.294 438.127 460.915 766.431 1.935.745 2.318.460 3.658.460 Tổng 220.875 514.416 728.018 879.729 1.016.570 1.857.509 2.260.647 2.969.575 3.830.179 6.009.265 10.257.855 11.793.918 (Nguồn: Giá cá được thống kê qua các năm của các địa phương, 1997-2005) Ngoài lợi ích về kinh tế, cá tra, cá ba sa cũng đem lại những lợi ích không nhỏ về mặt xã hội: giải quyết được công ăn việc làm, nâng cao trình độ chuyên môn cho nhiều người dân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Lực lượng lao động nuôi cá da trơn bao gồm: - Lao động sản xuất giống chiếm từ 8-16% so với toàn bộ lao động nghề nuôi cá trong vùng, trong đó tập trung chủ yếu vào 2 tỉnh An Giang và Đồng Tháp. Riêng năm 2005-2007 tỉnh Đồng Tháp có khoảng 4.200 – 11.500 người và An Giang khoảng 1.600 – 3.100 người. - Lao động nuôi cá tra tăng từ 6.470 lao động năm 1997 lên 101.314 lao động năm 2007 (tăng gấp 15,66 lần). Đến tháng 7 năm 2008 thu hút được 105.535 người tập trung chủ yếu ở Đồng Tháp, An Giang, Tiền Giang, Cần Thơ... - Lao động dịch vụ, thời vụ bao gồm lao động cung cấp thức ăn, thuốc hóa chất, lao động cải tạo ao, lao động thu hoạch... Số lượng lao động này tương đối lớn, tuy nhiên do thời gian lao động trong vụ ít nên lao động dịch vụ được ước bằng khoảng 10% tổng số lao động nuôi và sản xuất giống. Hầu hết các lao động đều được tham gia các lớp tập huấn do Trạm thủy sản, chi cục thủy sản, Trung tâm khuyến ngư tổ chức. Ngoài ra, các lao động nuôi còn được học hỏi kinh nghiệm thông qua các hộ nuôi đạt kết quả tốt trong vùng. Lao động nắm kỹ thuật để điều hành sản xuất chính thường là các chủ hộ, hoặc nếu thuê thì lương bình quân từ 1.500.000 – 1.800.000 triệu đồng/tháng (chưa tính thưởng vào cuối vụ nuôi); đối với lao động đơn giản, dịch vụ lương khoảng 800.000 – 1.200.000 đồng/tháng. Lao động nữ khoảng 600.000 – 800.000/tháng. Bảng 2.6: Số lượng lao động nuôi cá tra vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 1997 – 7/2008 ĐVT: người TT Tỉnh, thành N1997 N1998 N1999 N2000 N2001 N2002 N2003 N2004 N2005 N2006 N2007 7T/2008 1 Long An - - - - - - - 400 600 0 0 0 2 Tiền Giang 2.550 3.600 3.260 2.952 3.446 3.454 3.529 3.664 3.700 28.000 33.000 38.000 3 Bến Tre - - - - - - - 217 232 234 1.025 1.415 4 Trà Vinh - - - - - - - 604 306 190 254 309 5 Sóc Trăng - - - - - - 64 156 336 135 450 495 6 Bạc Liêu - - - - - - - 22 24 0 0 0 7 Cà Mau - - - - - - - - 12 0 0 0 8 Kiên Giang - - - - - - - - 80 0 0 0 9 An Giang 3.920 3.600 4.700 6.300 7.204 10.440 11.182 9.604 6.130 396 17.508 13.066 10 Đồng Tháp - 3.000 2.946 3.380 3.656 3.335 2.918 3.351 7.865 34.000 37.000 40.000 11 Vĩnh Long - - - - 60 485 656 748 604 678 877 900 12 Hậu Giang - - - - - - 80 108 160 325 500 650 13 Cần Thơ - - 1.382 1.646 2.602 1.852 2.688 3.004 3.292 7.200 10.700 10.700 Tổng 6.470 10.200 12.288 14.278 16.428 19.566 21.117 21.878 23.341 71.158 101.314 105.535 (Nguồn: Báo cáo các địa phương và khảo sát, điều tra thực tế của Phân viện QHTS phía Nam) Nhìn chung, việc nuôi trồng cá da trơn đã đem lại lợi ích rất to lớn về mặt kinh tế – xã hội cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long và điều này đang được phát huy một cách có hiệu quả. Tuy nhiên việc phát triển ồ ạt cũng có những mặt tiêu cực cần phải được giải quyết triệt để. 2.2. Tác động của việc nuôi trồng cá da trơn tới môi trường tại vùng Đông bằng sông Cửu Long hiện nay. Mặc dù đang phát triển khá khởi sắc nhưng tình trạng ô nhiễm môi trường đang là nguyên nhân dẫn đến việc phát triển thiếu bền vững ngành nuôi trồng cá da trơn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Nếu trước đây, việc nuôi trồng cá da trơn chủ yếu là diễn ra trên sông Tiền và sông Hậu với nguồn nước luôn luôn biến đổi thì việc ô nhiễm nguồn nước là rất ít và cũng rất khó thống kê được; song những năm gần đây cá tra, cá ba sa đã tiến sâu vào nội địa với việc chuyển từ các lồng bè trên sông Tiền và sông Hậu sang các ao nhỏ hơn, dòng nước không lưu chuyển liên tục và chủ yếu do người nuôi tự thay trong quá trình nuôi. Điều này chính là nguyên nhân gây ra những ô nhiễm mô trường đáng lo ngại cho ngành nuôi trồng cá tra, cá ba sa nói riêng và ngành nuôi trồng thủy sản nói riêng. Đồng bằng sông Cửu Long là vùng có nhiều đất phèn cư trú, với khoảng 1,5 triệu ha tập trung ở các vùng Đồng Tháp Mười, Tứ giác Long Xuyên, Bán đảo Cà Mau..., là các vùng có tiềm năng lớn trong phát triển nuôi trồng thủy sản nước mặn, lợ và nước ngọt. Trong quá trình đào đắp đất đai để phát triển nuôi trồng thủy sản, môi trường đất bị xáo trộn diễn ra quá trình lan truyền phèn rất mạnh làm giảm pH môi trường nước và đất, gây ô nhiễm môi trường. Tại một số tỉnh như Kiên Giang, Cà Mau, Đồng Tháp... quá trình lan truyền phèn đã tác động đến môi trường nước và đất làm cho tôm, cá chết hàng loạt. Thực tế đã có những vùng đất nuôi tôm do ô nhiễm lan truyền quá mức đã phải bỏ hoang. Vấn đề xử lý nguồn bùn thải, chất thải nuôi trồng thủy sản là vấn đề rất bức xúc hiện nay ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tác động của các chất thải nuôi trồng thủy sản tập trung từ nguồn thức ăn dư thừa thối rữa bị phân hủy, các chất tồn dư sử dụng như: hóa chất và thuốc kháng sinh, vôi và các loại khoáng chất Diatomit, Dolomit, lưu huỳnh lắng đọng, các chất độc hại có trong đất phèn Fe2+, Fe3+, Al3+, SO42-, các thành phần độc hại chứa trong bùn thải như H2S, NH3... là sản phẩm của quá trình phân hủy yếm khí ở bùn đáy ao nuôi tạo thành. Đặc biệt, nguồn bùn phù sa lắng đọng dưới đáy các ao nuôi trồng thủy sản với chiều dày từ 0,1 - 0,3m thải ra hàng năm trong quá trình vệ sinh và nạo vét tác động xấu đến môi trường xung quanh. Trong thức ăn nuôi trồng thủy sản chỉ có khoảng 17% trọng lượng khô của thức ăn được chuyển thành sinh khối, phần còn lại được thải ra môi trường dưới dạng phân và chất hữu cơ dư thừa thối rữa. Chất thải ao nuôi công nghiệp có thể chứa đến trên 45% Nitrogen và 22% là các chất hữu cơ khác, là nguồn có thể gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh thủy sản. Nguồn nước thải và bùn thải trong nuôi tôm công nghiệp và nuôi cá tra, cá ba sa có chứa hàm lượng cao các chất hữu cơ, chất dinh dưỡng, chất rắn lơ lửng, amoniac, coliform... là nguồn gây ô nhiễm môi trường khá nghiêm trọng cần phải được xử lý triệt để nhằm phát triển bền vững nghề nuôi trồng thủy sản ở Đồng bằng sông Cửu Long. Quá trình mất cân bằng sinh thái trong nuôi trồng thủy sản đã dẫn đến dịch bệnh tôm nuôi diễn ra trên quy mô lớn và kéo dài trên 20 - 60% diện tích các tỉnh ven biển Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Kiên Giang, Trà Vinh...; cá tra, cá ba sa chết hàng loạt ở một số tỉnh/thành phố An Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang, Cần Thơ... gây thiệt hại lớn cho người nuôi. Nhiều hộ nông dân, trang trại, doanh nghiệp quy mô lớn... đã phải lâm vào cảnh điêu đứng do nợ nần, một số nơi diện tích nuôi thủy sản phải bỏ hoang do bị ô nhiễm môi trường và dịch bệnh phát sinh mà chưa khắc phục được. Môi trường nước trên sông Tiền, sông Hậu và các kênh rạch vùng ngọt hóa đã có dấu hiệu nhiễm bẩn hữu cơ, các chất vô cơ và các vi sinh trong nước như: coliform, độ đục, amoniac, N-NH3, H2S, SO4, Fe... ảnh hưởng đến chất lượng nước trên sông rạch, tác động đến môi trường và sức khỏe của nhân dân trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Bên cạnh đó, quá trình chuyển dịch từ trồng lúa truyền thống sang nuôi tôm ven biển đã làm gia tăng nhanh quá trình xâm nhập mặn chưa được kiểm soát chặt chẽ, tác động xấu đến các hệ sinh thái nước ngọt trong khu vực. Quy hoạch nuôi trồng thủy sản thời gian qua chưa được thực hiện đầy đủ và đồng bộ nên hiệu quả vẫn còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện. Đặc biệt, vấn đề thủy lợi trong canh tác nuôi trồng thủy sản vẫn còn rất hạn chế, gây khó khăn cho công tác bảo vệ môi trường. Việc thực thi, ứng dụng các công nghệ xử lý nước thải, bùn thải trong nuôi trồng thủy sản chưa đáp ứng yêu cầu chất lượng của công tác bảo vệ môi trường, đặc biệt đối với các mô hình canh tác nuôi thâm canh, bán thâm canh và nuôi công nghiệp... là các mô hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường rất cao, dịch bệnh có thể phát sinh với quy mô lớn. Trong những năm gần đây, do quá trình nuôi trồng thủy sản phát triển ngoài quy hoạch một cách ồ ạt, chưa kiểm soát được đã làm cho cán cân nuôi trồng - chế biến - thị trường tiêu thụ bị mất cân đối, gây tác động đến xã hội khá nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của người dân nuôi trồng thủy sản ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Theo Giáo sư Lâm Minh Triết, Viện trưởng Viện Nước và Công nghệ môi trường, các nguồn thải từ nuôi trồng thủy sản khiến môi trường nước bị biến đổi: “Môi trường nước ở vùng ngọt hóa hiện đã có dấu hiệu ô nhiễm hữu cơ; còn vùng mặn, hàm lượng sắt trong nước tăng cao, ảnh hưởng ngược lại đến việc nuôi thủy sản... Hậu quả là tôm nuôi ven biển chết hàng loạt trong những năm qua, cá da trơn cũng không tránh được tình trạng tương tự”. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến môi trường sống mà còn gây khó khăn cho lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu cá cũng như giảm hiệu quả kinh tế của chính người nuôi. Bè cá không chỉ là nơi nuôi cá đơn thuần mà còn là một ngôi nhà cho chính chủ nhân và những người tham gia chăn nuôi. Chính vì thế, nơi đây vừa chứa chất thải từ những hoạt động của con người, thức ăn cung cấp cho cá nuôi, lượng tro trấu chế biến thức ăn và cả xác cá chết do bệnh, thời tiết và môi trường nước thay đổi đột ngột chưa được xử lý đúng cách. Thế nên, kết quả quan trắc chất lượng nước làng bè của các ngành chức năng cho thấy, môi trường nước ở một số làng bè thường bị ô nhiễm vào mùa khô khi nước cạn kiệt (tháng 2 , 3 và 4), về nồng độ các chất hữu cơ, amonia và vi sinh vật (nhất là nồng độ oxy hòa tan trong nước rất thấp so với tiêu chuẩn  môi trường cho phép). Số liệu quan trắc tại sông Tiền đoạn thuộc địa phận tỉnh An Giang cho thấy, hàm lượng BOD đã ở mức 5 mi li gam/lít, SS là 400 mi li gam/lít... Còn tại địa phận tỉnh Vĩnh Long, hàm lượng BOD là 6,5 mi li gam/lít, SS cũng ở mức 54,17 mi li gam/lít, ammoniac là 0,46 mi li gam/lít... Một ví dụ điển hình là tổng diện tích đang nuôi thủy sản ở An Giang khoảng 2.400 ha (không kể diện tích sản xuất giống), trong đó diện tích nuôi cá tra 1.400 ha, nuôi trồng lồng bè có tất cả 1.952 cái, gồm các loại cá tra, ba sa, rô phi, điêu hồng ... Trong quá trình nuôi trồng, một thực trạng là hầu hết các nguồn nước thải phát sinh đều thải trực tiếp vào nguồn nước, mà không qua bất kỳ hình thức xử lý nào. Chất lượng nước ao nuôi thuộc dạng ô nhiễm nhẹ nhưng với một lượng nước rất lớn được xả vào dòng sông trong một thời gian dài, làm khả năng tự làm sạch của dòng sông trong thời gian tới sẽ bị suy giảm và dần dần bị ô nhiễm,gây hậu quả vô cùng nghiêm trọng (hiện tượng cá tra chết hàng loạt vào đầu tháng 1-2007 và năm 2008 tại Châu Phú) vừa qua đã cho thấy tình hình trở nên phức tạp. Bên cạnh đó, việc sử dụng thức ăn trong nuôi cá, đặc biệt là thức ăn tự chế sẽ dẫn đến nguy cơ ô nhiễm nguồn nước do chất dinh dưỡng dư thừa, chủ yếu là đạm và lân sẽ kích thích quá trình phú dưỡng và sự nở hoa của tảo "theo ước tính 1kg cá thương phẩm cần phải cung cấp 1,3 đến 1,8kg thức ăn công nghiệp hoặc 2- 2,5kg thức ăn tự chế và lượng thức ăn thất thoát ra môi trường chiếm khoảng 15% tổng lượng thức ăn. Song, trong quá trình nuôi, ý thức của một bộ phận ngường dân còn kém, chưa chú trọng đến việc bảo vệ môi trường nên khi dịch bệnh phát sinh dễ có nguy cơ lan rộng. Kết quả khảo sát cho thấy rằng, đa số các hộ, cơ sở nuôi trồng thủy sản ở đây không có xử lý nước thải, mà thải trực tiếp ra kênh rạch, trong đó, đa số ở các huyện, thị xã, thành phố chỉ có khoảng 18 -32% hộ xử lý nước thải ao nuôi. Còn bùn thải từ các ao nuôi thải ra sông rạch chiếm tỷ lệ rất cao, gây ô nhiễm nguồn nước mặt Châu Phú có 33%, Chợ Mới 25%, Long Xuyên 40% số hộ, cơ sở nuôi trồng thủy sản thải bùn trực tiếp vào kênh, rạch. Nguy hịa hơn, việc ô nhiễm nguồn nước do nuôi trồng thủy sản cũng khiến người dân phải đối mặt với các bệnh đường tiêu hóa, bệnh sốt xuất huyết, sốt rét do muỗi lây truyền, bệnh giun sán ký sinh trùng, bệnh suy dinh dưỡng trẻ em và cả ngộ độc thực phẩm hay hóa chất... trong quá trình sản xuất canh tác ở các vùng đất ngập nước nuôi trồng thủy sản. Có thể nói việc phát triển quá nóng nuôi trồng Thủy sản nói chung và nuôi trồng cá da trơn nói riêng tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã gây ra những tác động vô cùng nghiêm trọng cho môi trường nước cũng như môi trường sống của những người dân tại khu vực này. Nếu không có những biện pháp tích cực nhằm cứu lấy môi trường thì ngành nuôi trồng thủy sản tại Đồng bằng sông Cửu Long sẽ có nguy cơ “chết dần” cũng như môi trường bị tổn hại trong tương lai. III- Tình hình chế biến cá da trơn và tác động của nó tới môi trường vùng Đông bằng sông Cửu Long hiện nay. 1. Tình hình chế biến cá da trơn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Hiếm có ngành hàng nào ở Việt Nam có tốc độ tăng trưởng khủng khiếp như cá tra, cá ba sa. Con cá tra, cá ba sa đã giúp cho hàng ngàn nông dân trở nên giàu có, hàng trăm doanh nghiệp ăn nên làm ra, giúp ngành thuỷ sản cả nước luôn giữ tốc độ phát triển "nóng"... Số lượng nhà máy chế biến cá tra tăng nhanh theo sự phát triển thị trường. Việc xuất khẩu cá tra có lãi nên đã hình thành nhiều doanh nghiệp chế biến Số lượng nhà máy chế biến cá da trơn tăng nhanh theo sự phát triển thị trường. Năm 2005 tổng số cơ sở chế biến thuỷ sản đông lạnh là 296 doanh nghiệp với công suất 3.250 tấn/ngày, trong đó có 36 nhà máy tham gia chế biến cá tra với công suất 274.000 tấn nguyên liệu/năm. Việc xuất khẩu cá tra, cá ba sa có lãi nên đã hình thành nhiều doanh nghiệp chế biến. Đến năm 2008 đã có tới 85 nhà máy tham gia chế biến cá tra, cá ba sa với tổng công suất thiết kế khoảng hơn 1 triệu tấn cá nguyên liệu/năm. Nhiều cơ sở chế biến thuỷ sản hiện nay trình độ công nghệ đã ngang tầm với các nước trong khu vực và các nước tiên tiến trên thế giới. Công tác Quản lý chất lượng đang được các doanh nghiệp áp dụng nghiêm túc. Số doanh nghiệp được xuất khẩu vào EU là 171 cơ sở, hầu hết các đơn vị đã áp dụng HACCP, đủ tiêu chuẩn xuất hàng vào Mỹ, có 295 đơn vị đủ điều kiện xuất khẩu sang Trung Quốc. Một số doanh nghiệp đang áp dụng hệ thống SQF 2000CM, ISO 14000 và bước đầu áp dụng hệ thống truy nguyên nguồn gốc sản phẩm thông qua việc tự doanh nghiệp tổ chức nuôi cá nguyên liệu hoặc ký kết hợp đồng. Nhiều thiết bị kiểm kháng sinh cấm cũng được doanh nghiệp nhập về để kiểm soát chất lượng sản phẩm. Sản phẩm cá tra được chế biến theo 4 nhóm chính với gần 70 mặt hàng chế biến giá trị gia tăng. Sản lượng chế biến chủ yếu là thịt cá phille cấp đông, ngoài ra là các loại sơ chế, sản phẩm khô và sản phẩm ăn liền. Các doanh nghiệp đang đa dạng cá mặt hàng chế biến như chả cá, fillet tẩm bột, cá cắt khoanh muối sả, cắt khúc, sandwich;, cà chua nhồi, tra; bao tử dồn chả hải sản; xúc xích, fillet cuộn nhồi tôm;, … Ngoài dạng chế biến sẵn còn có các mặt hàng khô như bong bóng cá tra, ba sa sấy khô; khô cá tra, ba sa chiên phồng.... Hình 2.1: Sản lượng chế biến cá tra, cá ba sa đông lạnh qua các năm Định mức chế biến 1kg cá fillet thương phẩm trung bình sử dụng 2,8 kg nguyên liệu. Do đó còn đồng thời phải xử lý gần 2kg phụ phẩm (đầu, xương, mỡ, vụn cá) được chế biến thành 2 dạng chính là mỡ cá và bột cá. Sản phẩm mỡ cá có chất lượng tương đương với chất lượng dầu cọ Malaisia và đang được tiêu thụ mạnh ở thị trường trong và ngoài nước. Sản phẩm bột cá được sản xuất từ đầu, xương cá đã được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận. Theo một thống kê mới nhất, hiện cả nước có hơn 150 doanh nghiệp tham gia chế biến và kinh doanh cá tra nhưng đa phần có quy mô nhỏ. VASEP cho biết, 10 doanh nghiệp hàng đầu chiếm tới 56% sản lượng xuất khẩu cá tra và 20 doanh nghiệp hàng đầu chiếm tới 72%, đã phần nào nói lên quy mô nhỏ của các doanh nghiệp kinh doanh cá tra, cá ba sa hiện nay. Bảng 2.7: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu cá tra và basa đông lạnh năm 2000 theo doanh nghiệp chế biến Doanh nghiệp Tỷ trọng (%) Agifish ( Cty CP) 40 Vĩnh Hoàn ( Cty TNHH) 25 Cafatex ( DNNN) 10 Afiex ( DNNN) 9 Cataco ( DNNN) 6 Nam Việt ( Cty TNHH) 5 Công ty khác 5 (Nguồn: Agifish, “Bản cáo bạch”, 2002.) Sau “ cơ khủng hoảng thừa” năm 2008, sản lượng cá tra nguyên liệu đưa vào chế biến đạt 1,65 triệu tấn cho ra 657.000 tấn sản phẩm xuất khẩu thu về 1,48 tỉ đô la Mỹ. Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam dự báo năm nay xuất khẩu cá tra chỉ còn khoảng 1 tỉ đô la Mỹ. Khả năng nguy cơ thiếu nguyên liệu cá tra trong 6 tháng đầu năm 2009 rất cao khi có gần 50% diện tích ao nuôi chưa thả nuôi. Thiếu cá là lý do đẩy các nhà máy chế biến cá tra thừa công suất trầm trọng. Theo thống kê mới nhất có khả năng có tới 100 nhà máy thừa công suất, trong khi công suất chế biến của các nhà máy ở vùng này hiện đạt 1,5 triệu tấn sản phẩm mỗi năm thì nửa đầu năm nay chỉ dùng có 1/3. Hiện tại, theo thống kê của ngành nông nghiệp một số tỉnh, nhiều nhà máy tại Cần Thơ chỉ hoạt động 50-70% công suất thiết kế. An Giang, địa phương nuôi cá tra lớn của Việt Nam thì hầu hết các nhà máy hoạt động cầm chừng, do thiếu nguyên liệu và phải cho công nhân nghỉ làm việc không thời hạn vì không có việc làm. Tỉnh này chiếm khoảng 35% sản lượng cá nuôi toàn vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhưng có 60% số ao bị "treo" trong vụ nuôi mới. Công nghiệp chế biến cá tra xuất khẩu mỗi năm mang lại cho Việt Nam gần 1,5 tỉ đô la Mỹ nhưng nội tại của quy trình từ ao nuôi tới nhà máy hết khủng hoảng thừa như năm ngoái tới khủng hoảng thiếu hiện nay, dù tín hiệu thị trường khả quan so với nhiều ngành hàng khác. Điệp khúc này này cứ lặp đi lặp lại nhiều năm nay, mấu chốt của vấn đề là mối liên kết giữa người nuôi, vùng nuôi, sản lượng nuôi với doanh nghiệp chế biến, năng lực chế biến chưa chặt chẽ. Một xu hướng đang hình thành hiện nay và có lẽ đó là xu hướng tất yếu, bền vững: các doanh nghiệp đang tiến dần tới tự chủ nguồn nguyên liệu cho sản xuất, tiêu biểu như công ty TNHH Hùng Cá (Đồng Tháp) đã tự chủ hầu như toàn bộ nguồn nguyên liệu với sản lượng tự nuôi 30 ngàn tấn/năm; hay như công ty Gò Đàng (Tiền Giang) - cho biết doanh nghiệp đã tự chủ được 40% nguồn nguyên liệu và đang nỗ lực tăng dần tỉ lệ đó. Các doanh nghiệp đang tiến đến tự chủ gần 50% lượng nguyên liệu cá tra và trong thời gian không xa, các doanh nghiệp sẽ tự chủ cơ bản nguồn nguyên liệu, khi ấy mâu thuẫn muôn thuở giữa người nuôi với doanh nghiệp, giữa cung và cầu sẽ không còn gay gắt như hiện nay. Một số doanh nghiệp cũng đang tiến hành trang bị nhà máy thức ăn thủy sản (thức ăn chiếm gần 80% giá thành con cá tra) cho riêng mình. Hiện các công ty cung cấp thức ăn thủy sản phần nhiều là của nước ngoài. Việc phát triển nóng nghề nuôi cá tra đã làm cho thức ăn luôn trong tình trạng khan hiếm, các nhà cung cấp đã tận dụng cơ hội thu "siêu lợi nhuận", kể cả việc chủ động giảm chất lượng thức ăn ( hạ độ đạm) mà giá bán vẫn cứ tăng. Nhìn chung, việc chế biến cá da trơn hiện nay tuy phát triển khá mạnh song vẫn vấp phải nhiều khó khăn, nền sản xuất còn bấp bênh, phụ thuộc nhiều vào thị trường xuất khẩu, chưa có mối liên hệ chặt chẽ giữa người nuôi và nhà máy chế biến. Do đó, đưa chế biến cá da trơn vào quy hoạch để có đường lối phát triển đúng hướng là điều cần thiết. 2. Tác động của việc chế biến cá da trơn tới môi trường vùng Đông bằng sông Cửu Long hiện nay. Theo thống kê chưa đầy đủ hiện nay nước ta có hơn 300 cơ sở chế biến thuỷ sản, và khoảng 220 nhà máy chuyên sản xuất các sản phẩm đông lạnh phục vụ xuất khẩu có tổng công suất 200 tấn/ngày và tính đến năm 2006, ngành công nghiệp chế biến thủy sản của vùng Đông bằng sông Cửu Long đã tạo việc làm cho khoảng 116.000 lao động địa phương. Thiết bị và công nghệ tuy được đánh giá là có mức đổi mới nhanh so với các ngành công nghiệp khác nhưng so với thế giới vẫn bị coi là quá chậm. Đó là một trong những nguyên nhân tạo ra những tác động xấu cho môi trường. Xuất phát từ tính bất hợp lý trong không gian. Vấn đề phát triển các cơ sở chế biến thuỷ sản không theo quy định hoặc có nhưng lại thiếu yếu tố môi trường là một hiện tượng phổ biến trong ngành - những thiếu sót này vừa làm chậm quá trình phát triển của ngành vừa làm hao tốn nhân lực... Có tới 50% số nhà máy khi xây dựng không có yếu tố môi trường, bố trí đặt không đúng vị trí nên phải di dời hoặc không hoạt động được. Theo báo cáo “Đánh giá tác động môi trường trong lĩnh vực thuỷ sản năm 2002“ thì tác động gây hại cho môi trường được xác định, tổng lượng chất thải rắn (đầu, xương, da, vây, vẩy...) ước tính khoảng 200.000 tấn /năm, đặc điểm của chất loại chất thải này là dễ lên men thối rữa, vì phần lớn chúng được hợp thành từ các vật thể sống nên phân huỷ rất nhanh dưới điều kiện thời tiết nóng ẩm (nhiệt độ thường vào khoảng 270c và độ ẩm khoảng 80%). Việc phân huỷ các chất thải này tuy không độc nhưng cũng tạo ra sự thay đổi lớn cho chất lượng môi trường sống của những người lao động tại các cơ sở chế biến thuỷ sản nông nghiệp cũng như dân cư sống ở vùng phụ cận. Số liệu điều tra năm 2002 cho thấy, cứ sản xuất 1 tấn tôm nõn đông lạnh xuất xưởng sẽ thải ra môi trường 0,75 tấn phế thải (đầu, vỏ, nội ạng), cá filet đông lạnh 0,6 tấn, nhuyễn thể chân đầu 0,45 tấn, nhuyễn thể 2 mảnh vỏ đông lạnh >4 tấn, riêng đối với chế biến nước mắm bã chượp ước tính khoảng 0,3 tấn/1 tấn sản phẩm. Tỷ lệ chất thải trung bình cho 1 tấn sản phẩm ở các nhà máy rất khác nhau, dao động từ 0,07 – 1,05 tấn cho sản phẩm vì nó phụ thuộc vào mặt hàng chính của mỗi xí nghiệp. Lượng chất thải cũng phụ thuộc vào mùa vụ khai thác hải sản, chất lượng nguyên liệu (lúc mùa cá rộ thì sản xuất nhiều nên phế thải nhiều nhưng hết vụ cá chế biến ít dẫn đến chất thải ít, nguyên liệu it thì càng ít phế thải)... kết hợp của 2 yếu tố này đã gây hiện tượng lúc quá nhiều chất thải, lúc lại rất ít và đó cũng là khó khăn cho các nhà quản lý xí nghiệp khi muốn xây dựng cho riêng mình một hệ thống xử lý chất thải có công xuất phù hợp. Lượng chất thải lỏng trong chế biến thuỷ sản được coi là quan trọng nhất, các nhà máy chế biến đông lạnh thường có lượng chất thải lớn hơn so với các cơ sở chế biến hàng khô, nước mắm, đồ hộp, bình quân khoảng 50.000 m3/ngày... Mức ô nhiễm của nước thải từ các nhà máy chế biến tuỳ thuộc vào loại mặt hàng chủ yếu mà nhà máy đó sản xuất. Một số rất ít chất thải từ chế biến surimi có các chỉ số BOD5 lên tới 3.120mg/l, COD tới 4.890mg/l nước thải từ chế biến Aga có chứa các hoá chất như NaOH, H2SO4, Javen, Borax nhưng liều lượng không cao và tại lượng cũng không nhiều, tuy nhiên nếu loại nước thải này không được pha đủ loãng mà trực tiếp thải ra môi trường có thể gây hại cho môi trường. Nước thải từ các nhà máy chế biến thuỷ sản có các chỉ số ô nhiễm cao hơn rất nhiều so với tiêu chuẩn nước thải công nghiệp loại B dùng cho nuôi trồng thuỷ hải sản (TCVN 5945-1995) như BOD5 vượt từ 10 –30 lần, COD từ 9-19 lần. Nitơ tổng số từ sấp sỉ bằng tiêu chuẩn đến cao hơn 9 lần). Tuy nhiên cũng phải nói là mức ô nhiễm dù có ở mức cao nhất trong các công đoạn chế biến thuỷ sản cũng vẫn chỉ ở mức ô nhiễm trung bình so với các loại nước thải từ các ngành công nghiệp khác như dệt, nhuộm dạ dày... Mức ô nhiễm của nước thải chế biến thuỷ sản về mặt vi sinh hiện vẫn chưa có số liệu thống kê, nhưng có thể khẳng định là chỉ số vi sinh vật như Clorom sẽ vượt qua tiêu chuẩ cho phép bởi vì các chất thải từ chế biến thuỷ sản phần lớn có hàm lượng protein, lipitd cao là môi trường tốt cho vi sinh vật phát triển đặc biệt là trong điều kiện nóng ẩm như ở Việt Nam. Trong các nhà máy chế biến thuỷ sản đông lạnh còn có một lượng nhỏ Clorine dùng để làm vệ sinh nhà xưởng khi sử dụng sẽ sinh ra CL2 tán phát vào không khí có thể gây hại về đường hô hấp cho người lao động, tuy nhiên lượng sử dụng không nhiều, khoảng 60 tấn/ năm. Tải lượng ô nhiễm do các xí nghiệp chế biến thuỷ sản gây ra là rất lớn nếu không được xử lý nó sẽ là một thành viên “tích cực” làm tăng mức độ ô nhiễm môi trường trên sông rạch và xung quanh khu chế biến. Ô nhiễm nước thải chế biến thuỷ sản nhiều khi chưa nhận ra ngay do lúc đầu kênh rạch còn khả năng pha lỏng và tự làm sạch nước với lượng thải tích tụ ngày càng nhiều thì dần dần chúng làm xấu đi nguồn nước mặt sông, rạch, ao, hồ và cuộc sống khu dân cư xung quanh. Ngoài ra nước thải của ngành chế biến còn khả năng lan truyền dịch bệnh từ xác thuỷ sản bị chết, thối rữa... và điều đáng quan tâm nữa là gây ảnh hưởng trực tiếp đến người lao động, đến môi trường nuôi trường nuôi trồng thuỷ sản, đến sự phát triển bền vững của ngành... Thêm vào đó, số lượng lớn tiếng ồn, độ ẩm, nhiệt, khí thải, mùi có nguồn gốc từ các hoạt động chế biến thuỷ sản cũng là một nguyên nhân đáng kể ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường xung quanh và cả sức khoẻ người lao động. Đặc thù của nước thải trong các xí nghiệp chế biến thuỷ sản có thành phần gây ô nhiễm cao, phải được xử lý triệt để trước khi thải ra môi trường. Nhưng do phần lớn các xí nghiệp được xây dựng trước khi luật môi trường ra đời, điều kiện tài chính hạn hẹp, công nghệ và thiết bị xử lý đắt tiền, mặt khác do công tác tư vấn, quản lý môi trường chưa làm tốt, chưa nghiêm... nên hiện tại chỉ có hơn 50 cơ sở chế biến thuỷ sản, trong tổng số hơn 200 cơ sở có hệ thống xử lý nước thải. Trong đó chỉ có khoảng 20 cơ sở có hệ thống xử lý nước thải có thể đạt tiêu yêu cầu bảo vệ môi trường. Ngành chế biến cũng đã có các bước cải thiện tích cực trong công tác bảo vệ môi trường như nâng cấp, cải tạo nhà xưởng, đầu tư đổi với trang thiết bị, công nghệ, áp dụng quy phạm sản xuất tốt-GMP, quy phạm vệ sinh tốt-SSOP, chương trình quản lí chất lượng HACCP, thực hiện các tiêu chuẩn ngành, quản lí vệ sinh an toàn thực phẩm trong cả quá trình từ nuôi trồng thuỷ sản cho tới khâu tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Tuy nhiên, do phần lớn các xí nghiệp chế biến đã được xây dựng từ lâu, điều kiện tài chính hạn hẹp, công nghệ và thiết bị xử lí lại quá đắt tiền cộng với công tác quản lí môi trường còn lỏng lẻo nên kết quả là hiện chỉ có khoảng trên 40 cơ sở trong tổng số các cơ sở chế biến thuỷ sản trong cả nước có hệ thống xử lí nước thải đáp ứng yêu cầu chất lượng nước thải sau xử lí. Tuy nhiên đây vẫn là chưa đủ để môi trường được đảm bảo , để ngành chế biến cá da trơn có thể phát triển bền vững. IV. Tình hình tiêu thụ cá da trơn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay. Nhiều năm qua, sản phẩm cá tra, cá ba sa vẫn là con cá “vua” - mặt hàng chủ lực xuất khẩu của Đồng bằng sông Cửu Long, đóng góp quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu thủy sản cả nước: trong 10 năm qua, mặt hàng cá tra tăng 50 lần về sản lượng và 65 lần về giá trị xuất khẩu, chiếm 32% tổng giá trị xuất khẩu thủy sản của cả nước. Cá tra có mặt gần như trên toàn thế giới. Đây là môt lợi thế, sản phẩm đặc thù của Vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, sản phẩm cá tra tiêu thụ nội địa rất ít, ước chỉ khoảng dưới 10% trong tổng doanh thu của các doanh nghiệp. Một số công ty ở An Giang, Đồng Tháp như Agifish, Afiex, Vĩnh Hoàn, Nam Việt,.. đã quan tâm đến thị trường nội địa với hàng chục sản phẩm mới liên tục được giới thiệu với người tiêu dùng. Tuy nhiên các sản phẩm này chỉ có mặt ở các siêu thị phục vụ cho người có thu nhập cao, trong khi đại đa số người tiêu dùng mức thu nhập còn thấp còn hạn chế, sự lựa chọn sản phẩm ở dạng ướp đông nguyên con hoặc sơ chế có giá thấp. Hiện nay các loài cá đồng ở chợ phía Bắc có giá khá cao như cá chép, cá trắm cỏ tới 40.000đ/kg, cá rô phi 25.000đ/kg, cá trôi Ấn độ 30.000 đ/kg. Nếu cá tra được đưa ra phía Bắc ở dạng ướp đông nguyên con với giá trên 20.000đ/kg sẽ tiêu thụ tốt, có thể góp phần vào bình ổn giá thực phẩm do dịch cúm gia cầm, dịch lợn tai xanh, dịch lở mồm long móng gia súc, giúp cho kiềm chế lạm phát, đồng thời giải quyết được một phần lượng cá nguyên liệu đang dư thừa. Sản phẩm cá tra Việt Nam năm 2007 được tiêu thụ ở trên 5085 quốc gia và vùng lãnh thổ với số lượng hơn 320 nghìn tấn thành phẩm tương đương với gần 900 ngàn tấn cá nguyên liệu. Đến tháng 8 năm 2008 sản phẩm cá tra đã xuất khẩu sang 108 nước, đạt giá trị 901 triệu USD. Thị trường còn có thể mở rộng hơn nữa khi các doanh nghiệp năng động trong xúc tiến thương mại và hoạt động thương vụ tại các nước tích cực. Xuất khẩu cá tra liên tục tăng, đặc biệt là từ năm 2002 tăng trưởng trung bình đạt 68% về sản lượng và 54% về giá trị. Năm 1999 xuất khẩu mới đạt 8,59 triệu USD năm 2005 đã tăng trên 328 triệu USD, năm 2006 đạt hơn 600 triệu USD, năm 2007 đạt 1 tỷ USD.Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), chưa hết năm 2008 nhưng lượng cá tra xuất khẩu của Việt Nam đã vượt kế hoạch, đạt trên 550.000 tấn, đạt kim ngạch hơn 1,2 tỉ USD, chiếm đến 32,4% tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả nước. Bảng 2.8: Xuất khẩu thủy sản chính ngạch năm 2006 Mặt hàng Số lượng (Tấn) Giá trị (Đô la Mỹ) Tôm 143614.8 1335777305 Cá tra, basa 286600 736872503 Cá 82832.5 223622823 Nhuyễn thể chân đầu 69763.1 222189688 Mặt hàng khác 53673.4 191469035 Tôm chế biến 14818.2 124388756 Cá Ngừ 44822.2 117132996 Giáp xác khác 15149.2 106545584 Cá khô 28220 89402643 Mực khô 12063.1 79595373 Cá chế biến 46159.9 68306789 Nhuyễn thể 2 mảnh vỏ 18754.3 55315952 Tôm khô 4603.2 5881154 Nhuyễn thể khác 593 1046207 Tôm hùm, tôm mũ ni 13 412769 Total 821679.9 3357959577 (Nguồn: Trung tâm Tin học Thuỷ sản ) Bảng 2.9: Xuất khẩu thủy sản chính ngạch từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2007 Mặt hàng Số lượng (Tấn) Giá trị (Đô la Mỹ) Tôm 73347.4 720985405 Cá tra, basa 213578.6 564762570 Nhuyễn thể chân đầu 48837.1 165636695 Cá 50198 160984666 Mặt hàng khác 27862.3 95858919 Cá Ngừ 32158.3 90851266 Tôm chế biến 8410.4 69133048 Cá khô 18798.2 68326099 Giáp xác khác 7896.6 59633086 Cá chế biến 28842.2 41460524 Mực khô 6149.2 39918630 Nhuyễn thể 2 mảnh vỏ 8404 21757985 Tôm khô 2745.3 3706114 Tôm hùm 27.9 741571 Nhuyễn thể khác 243.7 460685 Tôm hùm, tôm mũ ni 12.2 187397 Total 527511.4 2104404660 (Nguồn: Trung tâm Tin học Thuỷ sản ) Tính đến 25-12, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam cả năm 2007 đã vượt kế hoạch 3,7 tỉ đô la Mỹ, đạt 3,8 tỉ đô la và tăng 500 triệu Đôla so với năm 2006. Tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thuỷ sản năm 2007 đạt 3,95 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 3,8 tỉ đô la Mỹ với 3 thị trường chính là EU chiếm 24,4%, Nhật và Mỹ ngang nhau với 19,4%, còn lại là các thị trường khác. cho biết nét nổi bật của xuất khẩu thuỷ sản trong năm nay là cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. Tuy Tôm vẫn là sản phẩm xuất khẩu chủ lực nhưng tỷ trọng đã giảm, còn 39,4% trong khi các năm trước dao động 45-50%; cá tra, cá ba sa phi lê đông lạnh thì lại tăng vọt, từ 20% trong năm ngoái nay lên 26,2% với kim ngạch 1 tỉ đô la Mỹ. Bảng 2.10: Thị phần xuất khẩu theo giá trị của cá da trơn Việt Nam trong 2 năm 2000 và 2005 Năm 2000 Năm 2005 Bắc Mỹ 81% 20% Nhật Bản 6% 1% Châu Âu 0% 42% Châu Á 7% 21% Australia 3% 8% Các nước khác 4% 8% Một số thị trường xuất khẩu cá tra, cá ba sa quan trọng của nước ta: Hình 2.2 : Các thị trường xuất khẩu cá tra, cá ba sa của Việt Nam tới tháng 1-4/2006 * Thị trường Mỹ. Mỹ vừa là nước sản xuất-xuất khẩu vừa là nước nhập khẩu thuỷ sản, trong đó có cá tra. Tổng khối lượng nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ năm 2000 đạt 1.825.936 tấn, tăng lên 2.483.798 tấn năm 2002, trong khi đó khối lượng xuất khẩu năm 2000 là 1.379.152 tấn, năm 2002 là 1.292.636 tấn và tiếp tục giảm dần còn 1.256.749 tấn năm 2003. Do đó Mỹ vẫn là nước nhập siêu về thuỷ sản. Đối với cá da trơn nói chung trong đó có cá tra nhu cầu tại Mỹ sẽ tiếp tục tăng lên, tuy nhiên, các nước xuất khẩu loại cá này vào Mỹ sẽ tiếp tục gặp phải những trở ngại lớn bởi Chính phủ Mỹ bảo hộ nuôi thuỷ sản trong nước. Hình 2.3: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu cá tra và basa philê đông lạnh vào thị trường Mỹ qua các năm Năm Giá trị USD Tốc độ (%) 1996 455.880 - 1997 1.369..428 200 1998 4.295.350 214 1999 13.370.882 211 2000 29.667.246 122 2001 38.286.449 29 2002 62.777.855 64 (Nguồn: Cơ sở dữ liệu trên mạng của Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa Kỳ). * Thị trường EU. Châu Âu là thị trường tiêu thụ cá da trơn với số lượng lớn, đặc biệt là các nước EU. Trong khối EU, Ba Lan, Tây Ban Nha và Hà Lan là ba nước nhập khẩu cá tra, basa hàng đầu của Việt Nam. Các sản phẩm cá tra, ba sa bán tại các chuỗi cửa hàng bán lẻ chính của các nước này chủ yếu là dạng philê, với số lượng ngày càng tăng. Theo đánh giá của các chuyn gia ngành thủy sản, mức tăng trưởng nhảy vọt của các thị trường trên cho thấy một xu hướng mới trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Tỷ lệ tăng trưởng bình quân hằng năm của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường EU là 61% về khối lượng và 73% về giá trị. Sau vụ kiện chống bán phá giá cá tra vào Mỹ đã khiến các doanh nghiệp chuyển hướng vào thị trường châu Âu. Ðây là một trong những nguyên nhân tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu vào thị trường EU. Ngoài ra EU mở rộng lên 25 nước thành viên đã nâng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này năm 2004 đạt 231,5 triệu USD, tăng khoảng 88% so với năm 2003, chiếm tỷ trọng 10%. * Thị trường Nga và Ucraina. Nhu cầu thực phẩm chất lượng cao ở các nước Đông Âu hiện nay tăng khá nhanh, đặc biệt là thị trường Nga, Ba Lan và Ucraina. Trong ba năm qua, Nga luôn là nước tiêu thụ cá tra lớn nhất của Việt Nam. Trong 4 tháng đầu năm 2006, Nga đã trở thành thị trường xuất khẩu lớn nhất của cá tra, basa Việt Nam, với lượng xuất khẩu cá ba sa, cá tra tăng vọt lên 16.000 tấn so với 500 tấn của cùng kỳ năm 2005. Nga và EU chiếm gần 2/3 tổng lượng xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam về cả khối lượng và giá trị. Năm 2005 Ucraina đã nhập khẩu 600.000 tấn cá và cá fillet và 35.500 tấn thuỷ sản khác đạt mức tăng trưởng nhập khẩu là 114%. Ba Lan lại là nước Đông Âu trong khối EU tiêu thụ cá tra lớn nhất của Việt Nam trong 4 tháng đầu năm 2006 đạt 10.000 tấn. Cơ hội thâm nhập thị trường Đông Âu của các nhà xuất khẩu thuỷ sản sẽ còn tiếp tục tăng lên do kinh tế của khu vực này sẽ được cải thiện đáng kể trong thời gian tới.liên tục tăng, đặc biệt là từ năm 2002 tăng trưởng trung bình đạt 68% về sản lượng và 54% về giá trị. Năm 1999 xuất khẩu mới đạt 8,59 triệu USD năm 2005 đã tăng trên 328 triệu USD, năm 2006 đạt hơn 600 triệu USD, năm 2007 đạt 1 tỷ USD. Nếu xét về thị trường đơn lẻ nhập khẩu cá tra, basa, Nga dẫn đầu với 155,6 triệu USD, tăng 188% so với cùng kỳ, Ucraina đứng thứ 2 với 104,7 triệu USD, tăng 255%. Ngoài ra, Ai cập cũng đang là thị trường hứa hẹn đối với mặt hàng cá tra, basa của Việt Nam. XK cá tra, basa sang nước này tăng gần 250% đạt 36,5 triệu USD. Từ năm 2006 đến nay sản phẩm cá tra được các nước Đông Âu tiêu thụ mạnh, nhất là thị trường Ucraina và Nga do giá thấp, chất lượng phù hợp với thị hiếu, trong đó cá thịt vàng, nhiều mỡ được chấp nhận. Năm 2008, riêng cá tra xuất khẩu sang Nga của nước ta đã đạt 200 triệu USD. Riêng đối với thị trường Nga, trong năm 2008, xuất khẩu của Việt Nam tới thị trường Nga tăng trưởng 112% về lượng và 78% về kim ngạch so với năm 2007. Tuy nhiên, vào ngày 20/12/2008 Nga đã cấm tòan bộ các mặt hàng chế biến từ cá tra không được xuất khẩu vào thị trường Nga, vì một số tiêu chuẩn kỹ thuật như sản phẩm cá tra, basa của Việt Nam bị nhiễm vi sinh, lẫn tạp chất và lớp mạ băng dày hơn yêu cầu, khiến việc xuất khẩu cá tra sẽ càng khó khăn. Ngày 17/3/2008, sau gần 3 tháng kể từ đợt Nga ban hành lệnh cấm nhập khẩu cá tra Việt Nam từ ngày 20/12/2008 Ban điều hành xuất khẩu cá tra sang Nga đã có mặt tại Nga để ký các hợp đồng chính thức về tái xuất khẩu cá tra sang thị trường Nga. Theo đó, có 30 doanh nghiệp đã có tên trong danh sách được tái xuất khẩu thủy sản sang Nga, trong đó có 10 doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, còn lại là các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng thủy sản khô và chả cá. Ngoài ra, trong đợt này còn có thêm 2 doanh nghiệp lần đầu tiên được xuất khẩu mặt hàng tôm sang Nga. Năm 2008, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long xuất khẩu hơn 640.000 tấn sản phẩm cá tra, kim ngạch gần 1,5 tỷ USD; tăng gần hơn 48% so với năm 2007. Thế nhưng mặt hàng này vẫn chưa được công nhận là sản phẩm xuất khẩu chiến lược của quốc gia, nên chưa được hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước. Khủng hoảng kinh tế đã lan ra phạm vi toàn Thế giới, việc lựa chọn và tiêu dùng các loại thực phẩm rẻ mà vẫn đảm bảo dinh dưỡng đang là xu hướng tất yếu của người dân . Tuy nhiên gặp nhiều khó khăn song đây lại là cơ hội cho những người nuôi cá da trơn của Việt Nam. Điển hình như tại Anh, loại cá tra của Việt Nam đang chiếm ưu thế trên thị trường khi người dân nước này phải chuyển sang các loại thực phẩm rẻ tiền hơn mà vẫn bảo đảm chất lượng nhằm chống đỡ với cuộc khủng hoảng tín dụng. Trong vòng 6 tháng qua, sức tiêu thụ loại cá này đã tăng đột biến 60%, khiến nó trở thành mặt hàng cá tiêu thụ mạnh nhất tại Anh và là "đối thủ" chính của hàng loạt loại cá được ưa thích tại đảo quốc "xứ sương mù". Hiện tại, cá tra của Việt Nam có sức tiêu thụ gấp 3 lần cá bơn và cá mú, gấp 2 lần so với cá bơn sao, mặc dù không hề được tiếp thị hay quảng cáo loại cá này. So với các loại cá trắng như cá bơn sao, cá bơn và cá mú, loại cá tra của Việt Nam có giá trị rất lớn bởi giá cả chỉ bằng một nửa - giá trung bình hiện nay tại Anh là 2 bảng Anh (50.000 VNĐ)/300 gam - song chất lượng không hề thua kém và "Cá tra Việt Nam đã trở thành loại cá nuôi trang trại bán chạy nhất trên thế giới và dường như xu hướng này bắt đầu xuất hiện tại Anh". Tuy nhiên, do ảnh hưởng của khủng hoảng, sức mua của các thị trường nhập khẩu chính đều giảm. Giá trị xuất khẩu sang thị trường châu Âu giảm gần 15%. Nhật Bản tuy vẫn đứng thứ hai trong tốp các thị trường xuất khẩu chính, nhưng giá trị xuất khẩu sang thị trường này giảm trên 9%. Xuất khẩu sang Mỹ giảm 3,3% so với cùng kỳ...Việc đóng cửa của thị trường Nga đối với mặt hàng cá tra cũng góp phần đáng kể làm giảm xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Về sản phẩm xuất khẩu, cá tra, basa với kim ngạch 208 triệu USD, giảm 5% so với cùng kỳ. Đây là sự tụt dốc đáng lo ngại so với tốc độ tăng trưởng của năm 2008. Con tôm cũng đã tụt xuống vị trí thứ hai với giá trị xuất khẩu trên 181 triệu USD, giảm 7,3% so với cùng kỳ. V- Những đánh giá chung về tình hình sản xuất và tiêu thụ cá da trơn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 1. Ưu điểm. - Người nuôi cá đã phát huy được lợi thế tự nhiên của vùng đồng bằng sông Cửu Long và ưu thế của loài cá tra, cá ba sa để tạo ra sản phẩm hàng hoá xuất khẩu. - Nuôi cá tra, cá ba sa phát triển rất nhanh, đem lại giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD tạo thành một ngành hàng chiến lược xuất khẩu của Việt Nam. - Nhìn chung, ngành nuôi trồng cá tra, cá ba sa trong nước đã hình thành phương thức sản xuất hàng hoá tập trung, số lượng lớn, trình độ kỹ thuật và kiến thức kinh tế của người nông dân ngày một nâng cao. - Các nhà khoa học Việt Nam đã tạo được công nghệ nuôi năng suất cực cao đạt tới 150-300 tấn/ha, sử dụng diện tích không nhiều song cho sản lượng rất lớn. - Các cơ sở chế biến cá tra, cá ba sa phát triển nhanh, hạ tầng và công nghệ chế biến đạt tiêu chuẩn quốc tế, sản phẩm giá trị gia tăng ngày càng đa dạng, đã vào được các thị trường khó tính đòi hỏi chất lượng cao. - Hoạt động xúc tiến thương mại năng động, không ngừng mở rộng thị trường, sản phẩm đã xuất khẩu năm 2007 sang 85 nước, năm 2008 sang 108 nước trên thế giới, đã thúc đẩy sản xuất nguyên liệu phát triển. - Bước đầu, ngành đã hình thành phương thức sản xuất hàng hoá tiên tiến, đã có những mô hình liên kết giữa sản xuất và chế biến, đã quan tâm tới chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế. 2. Những tồn tại chủ yếu. - Việc nuôi cá tra hiện nay mang tính tự phát, người sản xuất thiếu thông tin thị trường, thiếu kỹ thuật, trong khi các nhà quản lý, nhà khoa học, tổ chức hiệp hội chưa thực sự đứng trong cuộc làm cho sản xuất thiếu định hướng, phát triển không bền vững. - Các nhà máy chế biến hình thành cũng mang tính tự phát, thiếu quy hoạch, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, tăng giảm giá thu mua tuỳ tiện, ép cấp, ép giá; còn tình trạng gian lận thương mại, bán phá giá sản phẩm, nhiều lô hàng kiểm tra có dư lượng thuốc kháng sinh, nhiễm khuẩn, không đảm bảo chất lượng làm giảm uy tín của thương hiệu cá tra. - Thiếu một quy hoạch mang tính chiến lược xuyên suốt, điều hành từ khâu nuôi trồng cho đến đầu ra cho con cá tra, ba sa. Sự gắn kết giữa sản xuất nguyên liệu với chế biến xuất khẩu chưa chặt chẽ, “cung cầu vẫn chưa bắt tay nhau”, chưa thực hiện ký kết hợp đồng sản xuất nguyên liệu đảm bảo số lượng, chất lượng và cam kết tiêu thụ nguyên liệu nên sản phẩm khi thiếu, khi thừa, không đảm bảo chất lượng, giá cả bấp bênh. - Các yếu tố cấu thành nên giá thành sản phẩm cá nguyên liệu bao gồm chi phí khả biến và chi phí bất biến. Trong đó người sản xuất chỉ tính chi phí khả biến bằng khoảng 80% giá thành (thức ăn 56%, giống 5,0 %, thuốc chữa bệnh, hoá chất xử lý môi trường 4,5%, công lao động 0,5 %, nhiên liệu, trả lãi ngân hàng, …). Chi phí bất biến (khấu hao xây dựng cơ bản, tiền mua đất làm ao hoặc thuê đất, các tài sản cố định khác, thuế tài nguyên …) chiếm tới 20% là một tỷ lệ khá lớn nhưng chưa được tính toán đầy đủ trong giá thành cá nguyên liệu dẫn đến cảm nhận sản xuất có lãi nhiều và đã đổ xô vào nuôi. - Người nuôi cá và doanh nghiệp khó tiếp cận được vốn nhà nước cho vay khi mà lãi suất cho vay còn khá cao và các thủ tục hành chính tương đối phức tạp. - Khi giá cá nguyên liệu cao, tình trạng phát triển tăng nóng không được kiểm soát dẫn tới giá đất làm ao tăng cao, giá con giống tăng, các khâu dịch vụ chạy theo số lượng không đảm bảo chất lượng làm cho giá thành rất cao, sau đó sản phẩm lại khủng hoảng thừa, không tiêu thụ được. - Nuôi cá nguyên liệu chưa thực hiện truy xuất nguồn gốc đáp ứng với yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm, chưa có những quy định bắt buộc áp dụng nuôi sạch, chưa có mô hình mẫu về thiết kế ao nuôi thân thiện môi trường hoặc công nghệ chuẩn để hướng dẫn cho sản xuất. - Mức độ thâm canh quá cao, sử dụng nhiều loại thuốc chữa bệnh cho cá và hoá chất xử lý môi trường, nước thải không được xử lý xả trực tiếp ra sông có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. 3. Nguyên nhân. - Sự phát triển quá nhanh của ngành công nghiệp cá tra trong khi môi trường kinh doanh chưa phát triển tương xứng càng làm cho xung đột trên dễ bùng phát. Cung - cầu vẫn chưa "bắt tay", mối liên kết chuỗi trong sản xuất - tiêu thụ tuy có được thiết lập ở một số nơi, nhưng mức độ ràng buộc còn rất lỏng lẻo; việc tổ chức sản xuất theo mô hình tổ, đội, HTX chưa thực sự được cải thiện. - Các chính sách cụ thể đầu tư cho sản xuất - xuất khẩu cá tra vẫn chưa được chú trọng. Tuy là mặt hàng xuất khẩu số 1 nhưng cá tra, cá ba sa vân chưa được coi là mặt hàng xuất khẩu chiến lược của Quốc gia như đối với xuất khẩu lúa gạo. - Nông dân rất “đói” thông tin về thị trường tiêu thụ.Yêu cầu về thông tin thị trường phục vụ cho người nuôi thủy sản là rất cần thiết. Thế nhưng, yêu cầu này lại chưa được đáp ứng đầy đủ và chưa đến được với người dân, nguồn thông tin thường xuyên bị “phong tỏa”, đặc biệt giá cá xuất khẩu diễn ra hàng ngày vẫn còn trong tình trạng “bảo mật”. - Giá thức ăn (chiếm khoảng 70%-80% giá thành) lên xuống thất thường rất khó kiểm soát và quản lý, giá thuốc thú y vẫn cao gây khó khăn cho người nuôi. - Người nuôi cá khó tiếp cận với nguồn vốn vay của nhà nước do thủ tục phức tạp, lãi suất cao…Thời điểm trước khủng hoảng thừa, ngân hàng đã siết tín dụng trong giai đoạn hàng hóa "chờ bán" (cá tra chỉ tiêu thụ mạnh ở các thị trường vào cuối năm trước và đầu năm sau), để xử lý tình huống các doanh nghiệp buộc phải "bán đổ bán tháo" lượng cá tra đang nằm trữ trong kho để trả nợ tới hạn. Khách hàng nước ngoài thừa cơ hội ép giá. - Cách làm ăn tự phát, từ nông dân đến doanh nghiệp đều mạnh ai nấy làm. Người nông dân nuôi cá một cách tự phát, tràn lan…Các doanh nghiệp chế biến cũng phát triển ồ ạt. Người nuôi luôn cho rằng các doanh nghiệp ép giá nhằm "tối đa hóa lợi nhuận", còn các doanh nghiệp thường trách nông dân không tôn trọng hợp đồng, sẵn sàng "bẻ kèo" khi giá cả diễn biến có lợi cho họ. - Một số doanh nghiệp (không có cơ sở sản xuất, chuyên đi gia công, chào hàng giá thấp) đã bán phá giá, làm cho khách hàng nước ngoài dựa vào đó ép giá các doanh nghiệp còn lại. - Nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng kém chất lượng, gian lận thương mại (như mạ băng đến 30%, ngâm thuốc tăng trọng, cân thiếu...) làm ảnh hưởng giá xuất khẩu cá tra. - Cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đã kéo theo một lọat hiệu ứng dây chuyền ở các nền kinh tế khác trên thế giới.Việt Nam cũng không nằm ngoài tình trạng đó, các mặt hàng xuất khẩu bị tác động nặng nề. - Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của người dân về vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng hạn như chưa có các quy định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn nước). Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng. Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước, gây nên tình trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước. Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước ASEAN đã đầu tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt Nam mới chỉ đạt 0,1%). Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi trường nói chung và môi trường nước nói riêng còn quá ít. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường nước còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (Hiện nay ở Việt Nam trung bình có khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1 triệu dân, trong khi đó ở một số nước ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân)... 4. Đánh giá chung về tình hình sản xuất và tiêu thụ cá da trơn của Việt Nam. Sản phẩm cá tra Việt Nam năm 2007 được tiêu thụ trên 85 quốc gia và vùng lãnh thổ với số lượng hơn 320 nghìn tấn thành phẩm tương đương với gần 900 ngàn tấn cá nguyên liệu. Đến tháng 8 năm 2008 sản phẩm cá tra đã xuất khẩu sang 108 nước, đạt giá trị 901 triệu USD. Thị trường còn có thể mở rộng hơn nữa khi các doanh nghiệp năng động trong xúc tiến thương mại và hoạt động thương vụ tại các nước tích cực. Xuất khẩu cá tra liên tục tăng, đặc biệt là từ năm 2002 tăng trưởng trung bình đạt 68% về sản lượng và 54% về giá trị. Năm 1999 xuất khẩu mới đạt 8,59 triệu USD năm 2005 đã tăng trên 328 triệu USD, năm 2006 đạt hơn 600 triệu USD, năm 2007 đạt 1 tỷ USD. - Về giá: Nuôi cá da trơn ở Đồng bằng sông Cửu Long có lợi thế tự nhiên nên chi phí sản xuất thấp có khả năng cạnh tranh cao về giá với cá da trơn trên thế giới và của các nước trong khu vực. - Về chất lượng: Cá da trơn Việt Nam có chất lượng thịt rất ngon được thị trường thế giới chấp nhận nên không ngừng mở rộng thị trường. Tuy nhiên việc đảm bảo về vệ sinh thực phẩm chưa cao. Hiện tượng dùng thủ thuật kỹ nghệ để đưa nước vào sản phẩm nhằm tăng khối lượng còn xảy ra làm giảm uy tín chất lượng (gian lận thương mại). Sản phẩm chưa thực hiện truy xuất nguồn gốc là một trở ngại lớn trong tương lai, cần phải sớm thực hiện mới có thể được thế giới chấp nhận. - Về sự đa dạng mặt hàng: Sản phẩm khá phong phú với nhiều loại chế biến ăn liền phù hợp với sự lựa chọn của số đông người tiêu dùng ở các nước công nghiệp phát triển là một thế mạnh, góp phần tăng thị phần và làm tăng giá trị. Tuy nhiên tỷ lệ khối lượng xuất khẩu phi lê đông lạnh (ở dạng sơ chế) vẫn chiếm phần lớn. Điều đáng lưu ý là văn hoá ẩm thực và sở thích ở các nước rất khác nhau đòi hỏi phải có quá trình tìm hiểu nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng để thông tin cho các doanh nghiệp chế biến các mặt hàng sản phẩm phù hợp cho mỗi nước, mỗi khu vực. - Về quảng bá thương hiệu và xúc tiến thương mại: Hoạt động này chưa được quan tâm đúng mức. Nhà nước mỗi năm dành 16 tỷ VND (1 triệu USD) cho Hiệp hội chế biến xuất khẩu thuỷ sản (VASEP) hỗ trợ các doanh nghiệp thuê gian hàng tham gia các hội chợ quốc tế. Các doanh nghiệp tham gia hội chợ còn thiếu tính tổ chức chặt chẽ, đã có tình trạng trong một hội chợ ở châu Âu mà có tới hơn 140 doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam tham gia dẫn đến hiện tượng sân nhà cạnh tranh lẫn nhau, chào hàng hạ giá (bán phá giá) đã tạo ra những tiền lệ xấu tác động trở lại là hạ giá mua cá nguyên liệu. Tồn tại trên cần phải được chấn chỉnh, tổ chức lại một cách bài bản để tạo sức mạnh cạnh tranh của Cá tra Việt Nam trên trường quốc tế. Nhìn chung, ngành Thuỷ sản của Việt Nam vẫn đang tiếp tục phát triển một cách nhanh chóng nhằm đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng của thị trường tiêu dùng cả trong nước và trên thế giới. Tuy nhiên, để ngành có thể phát triển một cách bền vững và toàn diện thì cũng cần có một quy hoạch phát triển toàn diện và mang tính bền vững. Bảo vệ môi trường trong phát triển nuôi trồng thủy sản ở khu vực Ðồng bằng sông Cửu Long là vấn đề cực kỳ quan trọng và cấp bách, cần được giải quyết từ vấn đề quy hoạch sản xuất canh tác, phương thức canh tác gắn liền với tổ chức sản xuất canh tác nuôi trồng thủy sản và thị trường tiêu thụ, sản xuất nuôi trồng gắn liền với nhiệm vụ bảo vệ môi trường và quan trọng là nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước về bảo vệ môi trường đối với lĩnh vực nuôi trồng thủy sản và vai trò của cộng đồng đối với nhiệm vụ bảo vệ môi trường. Có như vậy, ngành Thuỷ sản mới vừa có thể tiếp tục thu được những thành tựu to lớn hơn nữa và đồng thời vẫn đảm bảo được yếu tố phát triển bền vững. Chương III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NUÔI TRỒNG VÀ TIÊU THỤ CÁ DA TRƠN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG I- Quan điểm, định hướng, mục tiêu. 1. Quan điểm. Cá tra, cá ba sa là mặt hàng một trong những thế mạnh kinh tế quan trọngxuất khẩu chiến lược quan trọng có thế mạnh cạnh tranh cao của Đồng bằng sông Cửu Long cần phải được quản lý chặt chẽ theo quy hoạch và các quy định của nhà nước. Phát triển sản xuất và tiêu thụ cá da trơn tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long cần phải được tổ chức lại theo tư duy sản xuất hàng hoá tiên tiến, có vai trò quản lý của nhà nước, các tổ chức hiệp hội, tạo mối liên kết chặt chẽ giữa người nuôi cá nguyên liệu - doanh nghiệp chế biến xuất khẩu - nhà khoa học - nhà nước. Để sản xuất da trơn tại các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt hiệu quả cao, ổn định, bền vững cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và sản xuất thân thiện với môi trường sinh thái. 2. Định hướng. Phát triển nuôi cá tra thành vùng nguyên liệu tập trung, chủ yếu theo phương thức thâm canh trong ao; một phần nuôi cá bè trên sông; áp dụng kỹ thuật nuôi thân thiện với môi trường đảm bảo chất lượng thịt trắng, an toàn vệ sinh thực phẩm, chi phí sản xuất thấp và thực hiện truy xuất nguồn gốc. Nâng cao năng lực chế biến, đa dạng hoá mặt hàng giá trị gia tăng, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm cá tra Việt Nam để tạo thế độc quyền và tăng khả năng cạnh tranh, tăng cường xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường. Củng cố và phát huy vai trò của Hội Nghề cá Việt Nam, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam để tổ chức sản xuất cộng đồng và gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất nguyên liệu với chế biến theo hợp đồng. Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước, có cơ chế, chính sách, tổ chức chỉ đạo sản xuất, cung cấp thông tin kinh tế thị trường, kỹ thuật, cảnh báo môi trường kịp thời để đảm bảo phát triển theo quy hoạch, kế hoạch. 3. Mục tiêu. 3.1. Mục tiêu tổng quát. Phát huy lợi thế về điều kiện tự nhiên và tiềm năng đất đai, mặt nước của Đồng bằng sông Cửu Long để phát triển sản xuất cá tra thành một ngành kinh tế hàng hoá xuất khẩu chủ lực của đất nước có tính cạnh tranh cao, bền vững; tạo sự phát triển ổn định cho các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản; tạo thêm nhiều việc làm có thu nhập cao cho người dân; góp phần phát triển kinh tế - xã hội ngành nông nghiệp và nông thôn. 3.2. Mục tiêu cụ thể. - Phát triển sản xuất cá tra đến năm 2010 đạt sản lượng 1,5 triệu tấn, sản phẩm xuất khẩu đạt 450 nghìn tấn, tiêu thụ nội địa 240 nghìn giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,35 tỷ USD, tạo việc làm cho 40 vạn lao động. - Đến năm 2015 sản lượng nuôi cá nguyên liệu đạt 2,0 triệu tấn, sản phẩm xuất khẩu đạt 600 ngàn tấn, (tiêu thụ nội địa 320 ngàn tấn cá ở dạng nguyên liệu) giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 tỷ USD, tạo việc làm cho 60 vạn lao động.Đến năm 2020 sản lượng cá nuôi nguyên liệu đạt 2,8 triệu tấn, sản phẩm xuất khẩu 900 ngàn tấn, tiêu thụ nội địa 300 nghìn tấn, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 2,7 tỷ USD, tạo việc làm cho 80 vạn lao động. Bảng 3

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc901m.doc