Đề tài Cơ sở khoa học của việc áp dụng thuế chống bán phá giá

Tài liệu Đề tài Cơ sở khoa học của việc áp dụng thuế chống bán phá giá: Chương I Cơ sở khoa học của việc áp dụng thuế chống bán phá giá Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của thuế chống bán phá giá Lịch sử và nguồn gốc của bán phá giá Khái niệm “bán phá giá” trong thương mại quốc tế có một lịch sử lâu đời. Trong những cuộc tranh luận tại Mỹ năm 1791, Alexander Halinton đã cảnh báo về các thủ pháp của các đối thủ cạnh tranh bán hạ giá tại các nước khác để nhằm mục tiêu chiếm lĩnh thị trường. Những trường hợp bán phá giá của các nhà sản xuất Anh tại thị trường mới mẻ ở nước Mỹ đã được báo cáo. Cuộc tranh luận của công chúng về vấn đề này, cùng nhiều nỗ lực của ngành lập pháp nhằm đối phó với nó cũng được ghi nhận trong gần hết thế kỷ 19. Đầu thế kỷ XX, Đạo luật chống bán phá giá cụ thể đầu tiên được ban hành ở Canada năm 1904. Sau đó Luật chống bán phá giá được ban hành tại Newzealand năm 1905, Australia năm 1906 và Nam phi năm 1914. Nước Mỹ có Đạo luật chống bán phá giá năm 1916 và nước Anh có vào năm 1921. Khi xây dựng Hiệp định chung về Buôn bán và Thuế q...

doc101 trang | Chia sẻ: hunglv | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang mẫu tài liệu Đề tài Cơ sở khoa học của việc áp dụng thuế chống bán phá giá, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I Cơ sở khoa học của việc áp dụng thuế chống bán phá giá Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của thuế chống bán phá giá Lịch sử và nguồn gốc của bán phá giá Khái niệm “bán phá giá” trong thương mại quốc tế có một lịch sử lâu đời. Trong những cuộc tranh luận tại Mỹ năm 1791, Alexander Halinton đã cảnh báo về các thủ pháp của các đối thủ cạnh tranh bán hạ giá tại các nước khác để nhằm mục tiêu chiếm lĩnh thị trường. Những trường hợp bán phá giá của các nhà sản xuất Anh tại thị trường mới mẻ ở nước Mỹ đã được báo cáo. Cuộc tranh luận của công chúng về vấn đề này, cùng nhiều nỗ lực của ngành lập pháp nhằm đối phó với nó cũng được ghi nhận trong gần hết thế kỷ 19. Đầu thế kỷ XX, Đạo luật chống bán phá giá cụ thể đầu tiên được ban hành ở Canada năm 1904. Sau đó Luật chống bán phá giá được ban hành tại Newzealand năm 1905, Australia năm 1906 và Nam phi năm 1914. Nước Mỹ có Đạo luật chống bán phá giá năm 1916 và nước Anh có vào năm 1921. Khi xây dựng Hiệp định chung về Buôn bán và Thuế quan (GATT) năm 1947, một điều khoản đặc biệt về các trường hợp chống bán phá giá đã được soạn thảo. Điều VI của GATT cho phép các bên ký kết được sử dụng các sắc thuế chống bán phá giá để bù trừ mức phá giá của các hàng nhập khẩu, miễn là chứng minh được việc bán phá giá đang gây ra, hoặc đe doạ gây ra thiệt hại vật chất cho các ngành công nghiệp nội địa có cạnh tranh. Cho đến nay, đây vẫn là luật quốc tế cốt lõi về việc bán phá giá. Tuy nhiên, một số quốc gia trong GATT nhận thấy rằng có một số nước đã áp dụng Luật chống phá giá để dựng lên những hàng rào thương mại mới, các thủ tục chống bán phá giá, những cách tính toán mức phá giá đã gây thiệt hại làm hạn chế và lệch lạc các dòng thương mại quốc tế. Tại vòng đàm phán Kennedy của GATT (1962 - 1967) các bên ký kết GATT đã thảo luận bộ luật chống bán phá giá, đặt ra một loạt các quy tắc về thủ tục và nguyên lý cho việc áp dụng những sắc thuế chống bán phá giá nhằm hạn chế các thủ tục và phương thức đánh thuế của những Chính phủ có thể gây tổn hại đến thương mại quốc tế. Tại vòng đàm phán Tokyo 1973, các bên ký kết GATT đã xây dựng một Luật chống bán phá giá mới, có hiệu lực từ năm 1979 thay thế cho Luật chống bán phá giá năm 1967, có 26 nước thành viên ký kết có hiệu lực hơn mọi Hiệp định trước đó về bán phá giá. Đến vòng đàm phán Urugoay 1994 về bán phá giá, dựa trên Luật chống bán phá giá trước đó các thành viên xây dựng “ Hiệp định về việc thi hành điều VI của GATT năm 1994 ”điều chỉnh kỹ hơn các quy tắc chống bán phá giá và có hiệu lực hơn đối với mọi thành viên của Tổ chức thương mại Thế giới ( WTO ) và là Hiệp định cưỡng bức thi hành. Hiệp định nêu cụ thể ba loại nghĩa vụ khống chế việc áp dụng các sắc thuế: Các quy tắc chi tiết về các sự kiện cấu thành việc “ bán phá giá”. Các quy tắc chi tiết “ yêu cầu về thiệt hại ” Các quy tắc chi tiết về những thủ tục theo đó các Chính phủ xác định và áp dụng các sắc thuế chống bán phá giá. Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá: Bán phá giá: Trong ngôn ngữ tiếng Việt, “Bán phá giá” thường được hiểu là hành động bán một mặt hàng với giá thấp hơn giá hiện hành của mặt hàng đó trên thị trường, làm cho những người bán hàng khác hạ giá bán. Như vậy ở đây có sự so sánh về giá ở hai thị trường khác nhau: thị trường nước nhập khẩu và thị trường nước xuất khẩu, mặc dù giá bán ở thị trường tiêu thụ (nước nhập khẩu) có thể không khác nhau, thậm chí có thể xảy ra trường hợp giá bán cáo hơn giá hiện hành. Nhìn chung, các tài liệu quốc tế đều thống nhất hiện tượng “bán phá giá” xảy ra khi hàng hoá xuất khẩu được bán sang một nước khác với giá thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa (của nước xuất khẩu). Nếu đọc lướt qua, định nghĩa này thật là đơn giản, chỉ việc so sánh giữa giá xuất khẩu với giá bán tại nội địa, nếu giá xuất khẩu thấp hơn giá nội địa tức là có sự bán phá giá. Tuy nhiên, sự việc lại không đơn giản chút nào khi một loạt câu hỏi được đặt ra cần giải quyết khi so sánh giá để đảm bảo sự chính xác và công bằng: giá nội địa là giá nào? Là giá bán buôn hay giá bán lẻ? Giá xuất khẩu là giá nào? ... Thuế chống bán phá giá: là một sắc thuế mà nước nhập khẩu đánh vào một mặt hàng nhập khẩu được bán phá giá với mục đích ngăn cản sự tiếp diễn của việc bán phá giá đó để tránh gây thiệt hại cho ngành sản xuất mặt hàng tương tự ở trong nước. ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá Tác động của việc bán giá được đánh giá một cách đơn giản theo hình dưới đây. Trước khi có việc hàng của nước được bán vào thị truờng một nước với giá thấp hơn giá hiện hành, cung và cầu mặt hàng đó cân bằng ở điểm E, với giá P1 và lượng tiêu thụ Q1, hoàn toàn là hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, khi có nguồn hàng nước ngoài bán với giá thấp hơn là P2, lượng tiêu thụ tăng lên Q2, trong khi đó lượng hàng sản xuất trong nước giảm xuống chỉ còn Q’2, lượng hàng nhập khẩu là Q2 - Q’2. D SF P1 A B C E S P P2 Q’2 Q1 Q2 D Q Từ hình này cho thấy thặng dư của người tiêu dùng tăng thêm một lượng bằng diện tích hình thang ABDE, trong khi đó thặng dư của nhà sản xuất trong nước giảm một lượng bằng diện tích hình thang ABCE. Như vậy có thể thấy tác động của việc bán phá giá là: gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nhưng lại mang lại lợi ích cho người tiêu dùng. Về tổng thể, toàn xã hội được lợi bằng diện tích tam giác CDE. Xuất phát từ thành kiến cố hữu, việc “bán phá giá” thường được coi là có tác động tiêu cực, thường vì lý do làm giảm lợi nhuận của những người bán hàng khác hoặc gây thiệt hại cho các nhà sản xuất cùng một mặt hàng của nước nhập khẩu, cho nên người ta thường tìm biện pháp để chống lại hành động này. Tuy nhiên, cần phải có sự phân tích thấu đáo bản chất của mọi trường hợp bán phá giá để xem có phải tất cả mọi hành động bán phá gía đều có hại hay không để từ đó có biện pháp đối phó thích ứng. Có thể hình dung các trường hợp bán phá giá sau đây: Thứ nhất, giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nước xuất khẩu nhưng vẫn cao hơn chi phí sản xuất; Thứ hai, giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất và tất nhiên là thấp hơn giá thị trường trong nước. Trong trường hợp này còn có thể xảy ra một số tình huống khác nhau, tuỳ thuộc vào định nghĩa chi phí sản xuất: chi phí bình quân hay “chi phí lề”. Trường hợp thứ nhất: Giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nhưng cao hơn chi phí sản xuất. Trường hợp này có thể xảy ra khi một hãng chiếm vị thế độc quyền hoặc gần như độc quyền ở thị trường nội địa xuất phát từ điều kiện tự nhiên hoặc do được hưởng lợi thế từ hàng rào thương mại, nhưng phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu. Trong trường hợp này, vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, hãng đó sẽ lợi dụng vị thế độc quyền của mình để ấn định giá bán trong nước cao hơn, chừng nào thị trường đó còn chấp nhận được. Trong khi đó, do phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu, hãng đó chỉ có thể bán với giá đang tồn tại ở thị trường đó. Như vậy đã xảy ra việc bán phá giá như định nghĩa ở trên. Nếu việc bán phá giá này không làm giá ở thị trường nước nhập khẩu thay đổi (do cạnh trạnh ở đây hoàn hảo), sẽ không làm ảnh hưởng đến lợi ích của nước nhập khẩu, và vì thế sẽ không cần thiết phải có biện pháp chống đối lại. Tuy nhiên, nếu việc bán phá giá này xảy ra với một lượng lớn và trong thời gian dài, làm giảm giá ở thị trường nước nhập khẩu sẽ gây tác động đến lợi ích của nước nhập khẩu. Người tiêu dùng sẽ được lợi từ giá thấp nhưng ngược lại các nhà sản xuất và công nhân trong ngành công nghiệp đó sẽ bị thiệt hại vì lợi nhuận và lương bị giảm. Lợi ích cuối cùng của nước nhập khẩu phụ thuộc vào việc lợi ích của người tiêu dùng có lớn hơn thiệt hại của người sản xuất và công nhân hay không. Ngay cả trong trường hợp về tổng thể nước nhập khẩu bị thiệt hại cũng khó có lý do để áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá của hãng đó nhằm khắc phục thiệt hại bởi vì hãng đó có thể lập luận rằng do điều kiện thị trường của nước nhập khẩu là cạnh tranh, bất kỳ hãng nào cũng có thể tham gia thị trường đó và làm cho giá giảm xuống. Tuy nhiên, để khắc phục thiệt hại, nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp được phép khác như tự vệ. Trường hợp thứ hai: Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất Trước hết, để hiểu được ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá thấp hơn chi phí, cần phân biệt các loại chi phí. Thông thường, chi phí sản xuất được phân biệt theo 2 loại: chi phí bình quân (average cost) và chi phí lề (marginal cost). Chi phí bình quân được tính bằng tổng tất cả các chi phí một hãng phải chịu chia cho lượng sản phẩm sản xuất ra. Chi phí lề là chi phí phải bỏ ra để sản xuất thêm một đơn vị sản phẩm. Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi nhiều loại chi phí sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng sản xuất, chỉ có một phần nhỏ chi phí sản xuất là thay đổi khi lượng sản xuất thay đổi. Chính chi phí lề là yếu tố quyết định trong việc định giá của một hãng trong thời gian ngắn hạn khi phải chịu chi phí nhất định để thâm nhập vào một thị trường Khi nhu cầu của thị trường bị giảm, kéo theo giá thị trường giảm và các hãng theo đó cũng phải giảm giá bán. Nếu giá bán thấp hơn chi phí bình quân, hãng đó sẽ bị lỗ. Tuy nhiên, khi một phần chi phí là cố định không phụ thộc vào lượng sản xuất, mức độ lỗ sẽ phụ thuộc vào lượng hàng bán ra và vào mức chi phí lề. Nếu giá bán vẫn cao hơn chi phí lề, hãng vẫn tiếp tục bán với hy vọng sau một thời gian ngắn thị trường sẽ phục hồi hoặc chỉ để giảm thiệt hại trước khi rút lui khỏi thị trường đó. Đây là sự phản ứng rất bình thường của các hãng đối với sự thay đổi của thị trường, kể cả các hãng nước ngoài và hãng nội địa. Trong trường hợp này, việc áp dụng một biện pháp chống hàng nhập khẩu là bất hợp lý vì như vậy sẽ đối xử không công bằng giữa hãng nội địa và hãng nước ngoài. Tuy nhiên, một nước vẫn có thể áp dụng các chính sách hỗ trợ cho các hãng nội địa giảm nhẹ thiệt hại dưới hình thức các biện pháp tự vệ. Tại sao bán phá giá chiếm thị trường ở nước ngoài lại vẫn gia tăng được lợi nhuận? Trong thực tế, có những lý do khiến một công ty bán phá giá hàng sản xuất ra thị trường nước ngoài mà vẫn thu được lợi nhuận. Giả dụ một công ty sản xuất một triệu chiếc radio một năm bằng một nhà máy duy nhất và chỉ làm ca ban ngày. Giả sử nhà máy đó định giá mặt hàng radio này trong thị trường nội địa là 20USD/chiếc và lãi được 4USD/chiếc. Ta giả dụ tiếp là những chi phí biến động của mặt hàng radio (nguyên vật liệu, lương công nhân...) vào khoảng 10USD/chiếc; Vậy chi phí cố định (nhà xưởng, trang thiết bị...) khoảng 6USD/chiếc.Nếu nhà máy bán hết một triệu chiếc radio mỗi năm với lãi 4USD/chiếc thì nó đã bù đắp xong mọi chi phí cố định và có thể bán thêm radio với bất cứ mức giá nào cao hơn chi phí biến động 10USD/chiếc để kiếm thêm tiền lãi. Giả sử nhà máy có thể chạy thêm ca đêm và sản xuất một triệu chiếc radio nữa mỗi năm. Các chi phí cố định, theo giả định, đã được trang trải xong với một triệu chiếc radio đầu tiền. Nếu nó có thể xoay xở bán được một triệu chiếc radio thứ hai này mà không ảnh hưởng gì tới giá bán một triệu chiếc radio đầu tiên, vậy thì bất cứ mức giá nào cao hơn mức chi phí biến động 10 USD/ chiếc cũng làm tăng thêm lợi nhuận cho công ty. Thí dụ nó bán radio làm ca đêm với giá 14 USD, thì nó lãi thêm 4 triệu USD (ngoài số lãi 4 triệu USD từ một triệu chiếc radio đầu tiên làm ca ngày), tức là tăng gấp đôi lợi nhuận. Dĩ nhiên, việc bán sản phẩm ca đêm không được ảnh hưởng tới giá trị bán của một triệu radio đầu tiên làm ca ngày. Điều này dẫn đến việc phải tìm kiếm một thị trường khác hẳn cho sản lượng của ca đêm. Thị trường mới này phải đảm bảo không dễ gì chuyển ngược hàng trở lại thị trường thứ nhất, nếu không thì giá bán của radio làm ca ban ngày sẽ bị cắt xuống tới mức thấp hơn giá thành. Một phương cách để thực hiện việc trên là tính giá bán khác nhau ở những khu vực khác nhau, với điều kiện chi phí vận chuyển hàng theo chiều ngược lại phải đủ cao để ngăn không cho người mua ở thị trường giá rẻ đem bán lại ở thị trường giá đắt. Trong trường hợp xuất khẩu sản phẩm, các Chính phủ có thể dựng hàng rào thuế quan ngăn cản việc chở hàng hoá ngược về thị trường gốc. Như thế, nếu có một mức thuế quan 40% đánh lên radio nhập khẩu, thì sản lượng của ca đêm có thể bán sang nước ngoài sẽ chở radio ngược về thị trường giá gốc để làm giảm giá bán tại thị trường nội địa. Có thể chứng minh những lập luận trên bằng trường hợp điển hình về bán phá giá đã xẩy ra trên thương trường quốc tế sau đây: 1.400 1.200 1.000 800 600 200 0 4 8 12 16 q(100.000) Sản lượng PUSD(giá) PT =700 PC =450 PN =400 qA qT qC 1 2 3 B PB =500 D C N T Từ những năm 1960, sáu công ty điện tử hàng đầu của Nhật Bản là Hitachi, Misubishi, Masushita, Sanyo, Sharp và Toshiba đã cạnh tranh gay gắt với nhau. Nhưng ngày 10/09/1964, họ đã thoả thuận thống nhất nâng giá bán, quy định sản lượng của mỗi công ty. Kết quả của việc thoả thuận này là trong nhiều năm trời, người tiêu dùng ở Nhật phải trả 700 USD cho một tivi màu, trong khi các công ty đó ở Mỹ chỉ với giá 400 USD cho một tivi mầu cùng loại. Việc bán phá giá tivi Nhật ở Mỹ làm cho các công ty Mỹ không chịu nổi quá trình cạnh tranh. Cho đến năm 1989, sáu hãng tivi lớn và nhiều hãng nhỏ của Mỹ bị phá sản, công nghiệp sản xuất tivi của Mỹ bị suy yếu mạnh. Chúng ta có thể lý giải quá trình bán phá giá, chiếm thị trường, gia tăng lợi nhuận nói trên bằng mô hình sau đây: Hiệu ứng bán phá giá - chiếm thị trường - tăng lợi nhuận Giả sử có 3 doanh nghiệp Nhật Bản 1,2,3 cạnh tranh trên thị trường tivi. Nhu cầu là đường NC, chi phí bình quân (C1, C2, C3) và công suất thiết kế của ba doanh nghiệp là như nhau (500.000 tivi/năm). Nếu ba doanh nghiệp cạnh tranh bằng giá với nhau, thị trường sẽ cân bằng ở điểm C, giá bán là Pc=450 USD và bằng chi phí bình quân thấp nhất của mỗi doanh nghiệp ở điểm D. Như vậy, cả ba doanh nghiệp đều chỉ hoà vốn. Giả sử ba doanh nghiệp thoả thuận giảm 40% sản lượng từ qc=1,5 triệu còn qT= 0,9 triệu tivi. Lúc này, giá mà thị trường chấp nhận là PT= 700 USD, thị trường cân bằng ở điểm T. Do sản lượng giảm, chi phí bình quân tăng từ 450 USD ở điểm D, lên 500 USD ở điểm B. Tuy nhiên, do giá tăng rất mạnh, từ 450 USD lên 700 USD, nên mặc dù sản lượng giảm, chi phí tăng, các doanh nghiệp vẫn có lãi. Đối với doanh nghiệp 1, điểm bán lúc cạnh tranh là D, song khi thoả thuận là A, với qA= 300.000 tivi. Lợi nhuận của doanh nghiệp này là: Lợi nhuận thực tế = 300.000 x (700 USD-500 USD) = 60 triệu USD Như vậy lợi nhuận đã tăng từ 0 triệu lên 60 triệu USD. ở tình trạng thoả thuận bán ở trong nước như vậy, cả ba doanh nghiệp đều có lợi nhuận cao, song họ không bán thêm vào thị trường trong nước mà xuất khẩu, thì sẽ không làm giảm giá trị trường trong nước. Và nếu bán ra nước ngoài với giá thấp, thì có thể chiếm được thị trường mới. Vấn đề là bây giờ lợi nhuận của họ thế nào? Giả sử doanh nghiệp sản xuất hết 100% năng lực, song xuất khẩu 40% sản phẩm. Tức là mỗi doanh nghiệp sản xuất 500.000 tivi/năm, xuất khẩu 200.000 tivi. Lúc này chi phí mỗi tivi là 450 USD ở điểm D. Giả sử ba doanh nghiệp quyết định bán phá giá ở nước ngoài, với giá PN= 400 USD < PC= 450 USD = chi phí bình quân. Như vậy, mỗi doanh nghiệp sẽ lỗ xuất khẩu là: Lỗ = 200.000 x (450 USD - 400 USD) = 10 triệu USD. Tuy nhiên do tăng được 40% sản lượng, chi phí bình quân mỗi tivi lại giảm, từ 500 USD ở điểm B xuống còn 450 USD ở điểm D. Do vậy, mặc dù giá bán tivi trong nước không tăng, song lợi nhuận do bán trong nước lại tăng: Lợi nhuận trong nước= 300 x (700 USD - 450 USD) = 75 triệu. Như vậy lợi nhuận thực tế của mỗi doanh nghiệp khi vừa thoả thuận, vừa bán phá giá ở nước ngoài là: Lợi nhuận= 75 triệu USD - 10 triệu USD = 65 triệu USD. Mặc dù chịu lỗ ở nước ngoài, lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp đã tăng từ 60 triệu USD (khi thoả thuận mà không xuất khẩu) lên đến 65 triệu USD (khi vừa có thoả thuận vừa có xuất khẩu). Còn nếu so sánh khi các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau trong nước, lợi nhuận đã tăng từ 0 triệu lên đến 65 triệu USD. Nếu chi phí sản xuất tivi ở Mỹ là 400USD, tức là thấp hơn của Nhật bản là 450USD, thì để có lãi, giá bán tivi của Mỹ phải trên 400USD. Nếu các doanh nghiệp Nhật bản xuất khẩu sang Mỹ với giá 400USD thì rõ rằng là các doanh nghiệp Mỹ không chịu đựng nổi. Và như đã nêu ở trên, sau 30 năm bán phá giá, Nhật bản đã đánh bại công nghiệp tivi của Mỹ, mặc dù chi phí sản xuất của các công ty Nhật bản có thể cao hơn các công ty Mỹ. Mô hình nêu trên đã chứng minh một khả năng là: Một nước có trình độ công nghệ không cao hơn, có chi phí sản xuất cao hơn vẫn có thể xuất khẩu sang nước có chi phí sản xuất thấp hơn, với một giá thấp hơn chi phí của nước chủ nhà, vừa chiếm được thị trường mà vẫn gia tăng được lợi nhuận. Bản chất kinh tế của chiến lược này là: Hạn chế tối đa nhập khẩu, thoả thuận trong nước về giá và xuất khẩu với giá tiêu diệt địch thủ: Bằng cách hạn chế nhập khẩu và thoả thuận giữa các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đẩy được giá trong nước lên cao làm tăng lợi nhuận (điều này làm thiệt hại người tiêu dùng trong nước). Bằng cách xuất khẩu để sử dụng tối đa công suất, các doanh nghiệp lại giảm được chi phí, từ đó lại tăng thêm được lợi nhuận của phần sản phẩm bán trong nước. Chính phần lợi nhuận tăng thêm này là nguồn tài chính để bù lỗi việc bán phá giá ở nước ngoài. Như vậy, trong một cơ chế thị trường có sự hỗ trợ của Nhà nước như trên (khuyến khích thoả thuận, bảo hộ mậu dịch và trợ cấp sản xuất xuất khẩu), chính người dân Nhật bản là người gánh chịu cái giá của sự mở rộng thị trường quốc tế của Nhật. Họ phải mua hàng với giá cao ở trong nước để tài trợ cho các doanh nghiệp bán phá giá ở nước ngoài, còn bản thân các chủ doanh nghiệp vẫn thu được lợi nhuận cao dù phải bán phá giá để chiếm thị trường mới. Cũng có những trường hợp các hãng bán với giá thấp hơn chi phí lề. Trong các trường hợp này không thể xem xét nguyên nhân hành động của các hãng với mục tiêu là nhằm tối đa hoá lợi nhuận mà vì các mục tiêu khác. Những nguyên nhân của hành động bán phá giá Mỗi một hành động bán phá giá đều nhằm đạt được một số mục tiêu cụ thể và có một số nguyên nhân dẫn đến hành động đó. Chúng ta có thể phân tích và tổng hợp thành một số nhóm nguyên nhân như sau: Bán phá giá nhằm đạt mục tiêu chính trị thao túng các nước khác Chính phủ Mỹ đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu gạo bởi vì cạnh tranh giá gạo bây giờ ảnh hưởng lớn đến việc đạt các mục tiêu quan trọng khác. Mỹ sẵn sàng bỏ ngân sách mua phần lớn số gạo trên thị trường thế giới rồi bán phá giá. Điều này làm cho nhiều nước xuất khẩu gạo phải lao đao và sẽ phải chịu vòng phong toả của Mỹ. Chẳng hạn, giá xuất khẩu gạo của Mỹ khoảng 400USD/ tấn, nhưng các nhà xuất khẩu gạo Mỹ sẵn sàng mua với giá 500USD/ tấn, thậm chí cao hơn đến 800USD/tấn, và họ cũng sẵn sàng bán ra thị trường thế giới chỉ bằng 60 - 70%, thậm chí đến 40% giá mua. Mức giá này thấp hơn nhiều so với giá thành của chính nông dân Mỹ sản xuất ra. Như vậy, Mỹ có thể sẵn sàng bỏ ra 700 - 800 triệu USD/ năm để tài trợ giá xuất khẩu gạo nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Chính vì điều này mà mặc dù sản lượng gạo của Mỹ hàng năm thấp nhưng Mỹ lại thao túng giá gạo trên thị trường thế giới. Do có các khoản tài trợ của Chính phủ Chính phủ các nước phương Tây coi tài trợ là con đường ngắn nhất để đạt đuợc sự cân bằng kinh tế và đảm bảo cho thị trường hoạt động một cách tối ưu. Chính sách tài trợ nhằm đạt được hai mục đích sau: Duy trì và tăng cường mức sản xuất xuất khẩu Duy trì mức sử dụng nhất định đối với các yếu tố sản xuất như lao động và tiền vốn trong nền kinh tế. Các khoản tài trợ có thể được cấp cho người sản xuất cũng như cho người tiêu dùng, nhưng về mặt tác động kinh tế thì chúng đều như nhau vì đều đưa đến những hệ quả tương tự Những hình thức tài trợ chủ yếu là: Trợ cấp, ưu đãi về thuế, tín dụng ưu đãi, sự tham gia của Chính phủ vào các chi phí kinh doanh cũng như hỗ trợ xuất khẩu. Trợ cấp: Đặc điểm cơ bản của trợ cấp là hướng vào giúp đỡ phát triển sản xuất. ở các nước công nghiệp phát triển, các khoản trợ cấp chiếm một nửa toàn bộ khối lượng tài trợ. Tỷ trọng của các khoản trợ cấp cho từng ngành trong tổng số giúp đỡ của Chính phủ có sự khác nhau đáng kể giữa các nước. Như ở Anh, ý, Hà Lan thì trợ cấp chiếm phần lớn. ưu đãi về thuế: Những ưu đãi về thuế nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho một số ngành trong một số loại hoạt động riêng biệt. Chúng được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước, mặc dù ít khi được phản ánh trong các chỉ tiêu của Chính phủ vì chúng là ngoại lệ khi áp dụng các thuế suất chuẩn. ở Anh, Bỉ, Đan Mạch, giá trị của chúng không lớn, còn ở Mỹ thì tổng số ưu đãi về thuế cho công nghiệp lớn gấp 3 lần khối lượng trợ cấp. ưu đãi về tín dụng: Những ưu đãi về tín dụng là sự cho vay của Chính phủ với điều kiện hấp dẫn hơn là tìm kiếm trên thị trường vốn. ở các nước thuộc Cộng đồng Kinh tế Châu Âu khoảng 14% tổng khối lượng giúp đỡ cho công nghiệp được thực hiện dưới hình thức tín dụng ưu đãi. Phần lớn khối lượng tín dụng của Chính phủ Nhật bản cấp cho các hãng vừa và nhỏ với lãi suất thấp hơn ở lãi suất thị trường vốn 0,5%. Các Chính phủ cũng thường xuyên bảo đảm các khoản tín dụng, tức là bảo lãnh cho các công ty vay mà không trả nợ được. Phương pháp tài trợ này thường dùng cho các hợp đồng xuất khẩu để đảm bảo cho các công ty xuất khẩu của nước mình. Theo đánh gái, quy mô của tài trợ này chiếm vào khoản từ 2% đến 8% tổng tài trợ công nghiệp ở các nước công nghiệp phát triển. Tham gia của Chính phủ vào chi phí kinh doanh: Sự tham gia của Chính phủ vào chi phí kinhdoanh thường là 15% tổng tài trợ trở xuống. Từ thập kỷ 80 đến nay, phần sở hữu Nhà nước trong hoạt động kinh doanh có xu hướng giảm. Phương pháp này được sử dụng để bù đắp những tổn thất trong những lĩnh vực kinh tế riêng đang suy thoái. Hiện nay, tài trợ công nghiệp vẫn được Chính phủ các nước phương Tây duy trì ở mức khá cao. Trên thực tế, các khoản tài trợ giúp các ngành thực hiện công nghệ mới, trang bị máy và thiết bị hiện đại, nghĩa là giúp các ngành mới gia nhập thị trường và đẩy mạnh phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước, tăng cường xuất khẩu. Bán phá giá cũng có thể xảy ra trong trường hợp một nước có quá nhiều hàng tồn kho không thể giải quyết theo cơ chế giá bình thường Trong nền kinh tế hàng hóa trước đây, khi gặp khủng hoảng thừa, các chủ doanh nghiệp thường chất đống hàng hoá của mình, châm lửa đốt, hoặc đổ xuống biển để giữ giá, nhất định không bán phá giá. Còn hiện nay, ở các nước kinh tế phát triển, gặp trường hợp này, nhà buôn có thể chọn một trong hai giải pháp thường dùng. Trước hết là lưu kho chờ ngày giá lên. Nhưng lưu kho đòi hỏi phải có chỗ chứa, và chỉ áp dụng được với những mặt hành không bị hư hỏng. Giải pháp thứ hai là bán xôn. Nhiều khi đây là giải pháp duy nhất đối với một số mặt hàng: thực phẩm sắp hết thời hạn sử dụng, máy vi tính đời cũ, một số kiểu giầy, quần áo hết mốt ... Nhiều cửa hàng lớn ở Pháp (Paris) ngay từ khi vào mùa đã có số hàng tồn đọng lên tới 50% số dự trù bán ra. Hàng tồn kho này sẽ nhanh chóng được mang bán với giá khuyến mãi thấp hơn 30% giá bán thông thường. Đến cuối mùa, số hàng tụt xuống còn vài phần trăm, được nhượng lại cho dân bán xôn chuyên nghiệp với giá chỉ bằng 1/10 giá cũ. Dân chuyên nghiệp sẽ đẩy hết hàng ra nước ngoài, chủ yếu là sang Châu Phi, Châu á và Đông Âu. Bán phá giá được sử dụng như công cụ cạnh tranh Các hãng nước ngoài sử dụng công cụ bán phá giá để loại bỏ các đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường của các nước nhập khẩu. Sau khi đã giành được vị trí khống chế thị trường, triệt tiêu được sự cạnh tranh của hàng hoá nội địa thì các hãng nước ngoài sẽ thực hiện mục tiêu cuối cùng của mình là tăng giá, tìm cách thao túng thị trường để thu được lợi nhuận tối đa. Một nước có thể do nhập siêu lớn, cần phải có ngoại tệ để bù đắp cho thiếu hụt này Khi đó họ có thể áp dụng công cụ bán phá giá để giải quyết vấn đề thiếu hụt ngoại tệ. Một số nước làm ra được một số sản phẩm với giá thành rất thấp là nhờ sử dụng lao động trẻ em tiền lương thấp và sử dụng lao động của tù nhân làm hàng xuất khẩu Theo số liệu của Văn phòng Quốc tế về lao động trẻ em (BIT) thì trên toàn thế giới hiện có tới 250 triệu trẻ em từ 5 - 14 tuổi đang tham gia một hoạt động kinh tế. Còn theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF) thì tại các nước nghèo, cứ 4 trẻ em thì có một trẻ em làm việc như người lớn. Việc sử dụng lao động trẻ em và sử dụng lao động tù nhân ngoài việc mang lại siêu lợi nhuận, nó còn là cách để cạnh tranh đối với các đối thủ làm ăn. Nhờ giá nhân công rẻ mạt, người ta có thể hạ giá thành sản phẩm, xuất khẩu hàng hoá bán phá giá ở nước ngoài. ở Việt Nam có hiện tượng một số công ty kinh doanh hàng nhập khẩu trả chậm, đã bán phá giá nhằm dùng nguồn vốn nước ngoài để kinh doanh mặt hàng khác và hàng nhập lậu với khối lượng lớn Để làm được việc đó, họ tìm cách bán phá giá trên thị trường, có lúc bán ồ ạt chịu lỗ từ 10 -20% so với giá vốn nhập khẩu để nhanh chóng thu hồi vốn, đi buôn mặt hàng khác có lãi suất cao hơn, không những đủ bù lỗ số hàng nhập trả chậm, mà còn có lãi lớn. Năm 1995, ba mặt hàng quan trọng đã bị bán phá giá theo cách tính toán trên là xăng dầu, thép xây dựng và phân bón. Cuối năm 1995, giá phân Urê Indonesia nhập vào Việt nam đang ở mức cao (260-265USD/ tấn CIF Cảng Sài gòn), nhưng giá bán buôn cả tàu tại Tân Quy, Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh liên tục giảm xuống chỉ còn 245đồng/kg. Ngoài ra, hàng ngoại nhập lậu với khối lượng lớn trong những năm vừa qua thu được lợi nhuận siêu ngạch từ việc trốn thuế nhập khẩu đã chiếm lĩnh thị trường với giá cạnh tranh so với hàng sản xuất trong nước, loại khỏi thị trường các doanh nghiệp làm ăn chân chính. Tóm lại, có rất nhiều trường hợp các hãng nước ngoài có thể xuất khẩu hàng của mình sang thị trường nước khác với giá thấp hơn giá nội địa và thậm chí thấp hơn cả chi phí sản xuất, nhưng không phải tất cả mọi trường hợp đều có thể gán cho cái tên “bán phá giá” để áp dụng các biện pháp ngăn cản. Trong nhiều trường hợp làm như vậy chỉ tạo ra một sự bảo hộ không cần thiết cho ngành sản xuất trong nước, làm giảm lợi ích của người tiêu dùng cũng như của toàn xã hội. Vai trò của thuế chống bán phá giá đối với bảo hộ sản xuất Biện pháp được phép sử dụng trong chống bán phá giá là thuế theo tỷ lệ phần trăm (ad-valorem), do vậy tác động về mặt lợi ích đối với xã hội của biện pháp này cũng giống như tác động của thuế nhập khẩu thông thường theo tỷ lệ phần trăm.Tác động đó được phân tích theo phương pháp “cân bằng từng phần” như sau: B SF +T G A C E S P P1 Q2 Q’1 Q1 P2 T SF Q’2 H N M J D Q Khi một sắc thuế T được áp dụng, làm cho giá trong nước của sản phẩm tăng lên một lượng bằng T. Do vậy, với các yếu tố về cầu của thị trường nội địa đối với sản phẩm đó không đổi, lượng tiêu thụ giảm từ Q1 xuống Q’1, trong đó lượng hàng sản xuất trong nước tăng từ Q2 lên Q’2, lượng hàng nhập khẩu giảm xuống chỉ còn bằng Q’1 - Q’2. Như vậy có thể thấy rõ tác động bảo hộ của thuế nhập khẩu đối với sản xuất trong nước: làm tăng giá trong nước, giảm tiêu thụ hàng nhập khẩu và tăng sản xuất trong nước. Các nhà sản xuất trong nước được hưởng lợi rõ ràng khi giá trị thặng dư của họ được gia tăng thêm một lượng bằng diện tích tứ giác ACJG. Tuy nhiên, cùng với việc các nhà sản xuất được hưởng lợi thì người tiêu dùng lại bị thiệt hại: giá trị thặng dư của họ bị giảm một lượng bằng diện tích tứ giác ABHG. Nhà nước cũng được hưởng lợi khi ngân sách thu vào từ thuế nhập khẩu tăng một lượng bằng diện tích hình chữ nhật MNHJ. Thế nhưng, xét về tổng thể, toàn xã hội sẽ bị thiệt khi lợi ích mang lại cho các nhà sản xuất trong nước và Nhà nước không thể bù đắp cho thiệt hại về lợi ích của người tiêu dùng. Lượng thiệt hại của toàn xã hội bằng diện tích tam giác CMJ cộng với diện tích tam giác NBH. Ngoài tác động bảo hộ của thuế chống phá giá như phân tích trên đây, quá trình dẫn đến việc áp dụng thuế chống phá giá cũng phần nào có tác động bảo hộ. Ví dụ, bản thân việc bắt đầu quá trình điều tra chống phá giá có nghĩa là trong tương lai rất có thể thuế chống phá giá sẽ được áp dụng, làm cho sản phẩm là đối tượng điều tra trở nên ít hấp dẫn hơn đối với các nhà nhập khẩu, như vậy phần nào đã ngăn cản dòng hàng hoá nhập khẩu. Giới thiệu Hiệp định chống bán phá giá của WTO Năm 1948 hệ thống thương mại đa biên được thiết lập với sự ra đời của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). Trải qua gần một nửa thế kỷ, những quy định của GATT về thương mại đa biên, trong đó có quy định về chống bán phá giá (Điều VI) tỏ ra chưa chặt chẽ. Cùng với sự ra đời của WTO, Hiệp định Chống bán phá giá đã có những quy định chặt chẽ và chi tiết hơn nhiều so với Điều VI của GATT. Theo Hiệp định này, nước nhập khẩu chỉ được áp dụng các biện pháp chống bán phá giá khi: Hàng nhập khẩu bị bán phá giá; Gây thiệt hại về vật chất cho ngành sản xuất trong nước; và Cuộc điều tra phá giá được tiến hành theo đúng thủ tục. Hiệp định chống bán phá giá của WTO quy định rất chi tiết nguyên tắc xác định phá giá, cách tính biên độ phát giá và thủ tục điều tra phá giá như sau: Xác định việc bán phá giá Định nghĩa phá giá Một sản phẩm được coi là bị bán phá giá khi: giá xuất khẩu sản phẩm đó thấp hơn giá có thể so sánh được trong điều kiện thương mại thông thường ("giá trị thông thường") của sản phẩm tương tự khi tiêu thụ ở thị trường nước xuất khẩu WTO không đề cập đến trường hợp bán phá giá khi sản phẩm tương tự trong thị trường nội địa của một nước. Sản phẩm tương tự (SPTT): là sản phẩm giống hệt hoặc có các đặc tính gần giống với sản phẩm là đối tượng điều tra. Điều kiện thương mại thông thường: không có định nghĩa. Ví dụ: khi giá bán tại thị trường nội địa nước xuất khẩu thấp hơn giá thành sản xuất thì có thể coi như là không nằm trong điều kiện thương mại thông thường. Nguyên tắc xác định phá giá: Biên độ phá giá (BĐPG) = giá trị thông thường (GTTT) - giá xuất khẩu (GXK) BĐPG > 0 -> có bán phá giá BĐPG có thể tính bằng giá trị tuyệt đối hoặc theo phần trăm công thức: BĐPG = (GTTT-GXK)/GXK Tính biên độ phá giá Cách tính GTTT: Trường hợp không có giá nội địa của SPTT ở nước xuất khẩu do: sản phẩm không được bán tại nước xuất khẩu trong điều kiện thương mại thông thường; hoặc có bán ở nước xuất khẩu nhưng trong điều kiện đặc biệt; hoặc số lượng bán ra không đáng kể (<5% số lượng SPTT bán ở nước nhập khẩu) thì: GTTT = giá xuất khẩu SPTT sang nước thứ ba; hoặc GTTT = giá thành sản xuất + chi phí (hành chính, bán hàng, quản lý chung...) + lợi nhuận Trường hợp SPTT được xuất khẩu từ một nước có nền kinh tế phi thị trường (giá bán hàng và giá nguyên liệu đầu vào và do chính phủ ấn định) thì các quy tắc trên không được áp dụng để xác định GTTT. Cách tính GXK: GXK = giá mà nhà sản xuất nước ngoài bán SPTT cho nhà nhập khẩu đầu tiên. Trường hợp giá bán SPTT không tin cậy được do: giao dịch xuất khẩu được thực hiện trong nội bộ công ty; hoặc theo một thoả thuận đền bù nào đó thì: GXK = giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lần đầu tiên cho một người mua độc lập ở nước nhập khẩu. So sánh GTTT và GXK: Để so sánh một cách công bằng GTTT và GXK, Hiệp định quy định nguyên tắc so sánh như sau: So sánh hai giá này trong cùng điều kiện thương mại (cùng xuất xưởng/ bán buôn/ bán lẻ), thường lấy giá ở khâu xuất xưởng; Tại cùng một thời điểm hoặc thời điểm càng gần nhau càng tốt. Việc so sánh GTTT và GXK là cả một quá trình tính toán rất phức tạp, vì không phải bao giờ cũng có sẵn mức giá xuất xưởng của GTTT và GXK mà chỉ có mức giá bán buôn hoặc bán lẻ của SPTT ở thị trường nước xuất khẩu (GTTT+) và giá tính thuế hải quan, giá hợp đồng hoặc giá bán buôn/bán lẻ SPTT của nhà nhập khẩu (GXK+) nên thường phải có một số điều chỉnh để có thể so sánh GTTT và GXK một cách công bằng. Điều chỉnh các chênh lệch trong: điều kiện bán hàng các loại thuế số lượng sản phẩm đặc tính vật lý của sản phẩm và những yếu tố khác ảnh hưởng đến việc so sánh hai giá. Ví dụ: khi lấy giá bán SPTT cho một người mua độc lập ở nước nhập khẩu làm GXK + thì GXK sẽ được xác định bằng cách điều chỉnh như sau: GXK = (GXK+) - (lợi nhuận) - (các loại thuế + chi phí phát sinh từ khâu nhập khẩu đến khâu bán hàng) Cách so sánh: Trung bình GTTT so với trung bình GXK; hoặc GTTT (từng giao dịch) so với GXK (từng giao dịch); hoặc Trung bình GTTT so với GXK (từng giao dịch) (cách này chỉ được áp dụng khi GXK+ chênh lệnh đáng kể giữa những người mua, các vùng hoặc giữa các khoảng thời gian khác nhau) Trường hợp SPTT được xuất khẩu sang nước nhập khẩu qua một nước trung gian (nước xuất khẩu): Giá SPTT ở nước xuất khẩu (nước trung gian) so với giá bán SPTT từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Nếu SPTT chỉ đơn thuần được chở từ nước sản xuất qua nước xuất khẩu: Giá ở nước xuất xứ so với giá bán SPTT từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Xác định thiệt hại Định nghĩa thiệt hại: Thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước (thiệt hại hiện tại); hoặc Nguy cơ gây thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước (thiệt hại tương lai); hoặc Làm trì trệ sự phát triển một ngành sản xuất trong nước (không có quy định cụ thể) Như vậy, để xác định thiệt hại cần xem xét các nhân tố sau: Khối lượng hàng nhập khẩu bị bán phá giá: có tăng một cách đáng kể không? Tác động của hàng nhập khẩu đó lên giá SPTT: Giá của hàng nhập khẩu đó: có rẻ hơn giá SPTT sản xuất ở nước nhập khẩu nhiều không? có làm sút giá hoặc kìm giá SPTT ở thị trường nước nhập khẩu không? Khi sản phẩm thuộc diện điều tra được nhập khẩu từ nhiều nước: đánh giá gộp tác động nếu BĐPG >= 2% GXK và khối lượng hàng nhập khẩu từ mỗi nước >= 3% khối lượng nhập khẩu SPTT. Việc khảo sát tác động của hàng nhập khẩu bị bán phá giá đối với một ngành sản xuất trong nước phải xem xét tất cả các yếu tố kinh tế có thể ảnh hưởng đến ngành sản xuất đó, gồm những yếu tố sau: Năng suất Thị phần Biên độ phá giá Giá nội địa ở nước nhập khẩu Suy giảm thực tế và nguy cơ giảm doanh số bán hàng Số lượng hàng tồn kho Sản lượng Tình trạng thất nghiệp Lương Tác động tiêu cực đến luồng tiền Huy động năng lực Lợi nhuận Tỷ lệ thu hồi vốn đầu tư Đầu tư Khả năng huy động vốn Tốc độ tăng trưởng Khi xác định mối liên hệ giữa việc bán phá giá hàng nhập khẩu và thiệt hại cho một ngành sản xuất trong nước: cần tính đến những yếu tố khác (ngoài việc bán phá giá ), nếu các yếu tố này gây thiệt hại cho ngành sản xuất đó thì không được quy thiệt hại của ngành sản xuất đó do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra. Nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước Để xác định nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước cần xem xét: Tốc độ tăng nhập khẩu và khả năng tăng nhập khẩu trong tương lai; Khả năng tăng năng lực xuất khẩu của nhà xuất khẩu dẫn đến khả năng tăng nhập khẩu; Tình hình hàng nhập khẩu làm sụt giá SPTT ở nước nhập khẩu; Số lượng tồn kho SPTT ở nước nhập khẩu Ngành sản xuất trong nước Ngành sản xuất trong nước là toàn bộ các nhà sản xuất trong nước sản xuất ra SPTT hoặc một số nhà sản xuất có sản lượng chiếm tối đa số tổng sản lượng trong nước Có thể xuất hiện một số trường hợp đặc thù dẫn tới việc xác định cụ thể ngành sản xuất trong nước như sau: Nhà sản xuất và nhà nhập khẩu/nhập khẩu có liên quan với nhau: ngành sản xuất trong nước là các nhà sản xuất còn lại. Lãnh thổ nước nhập khẩu bị chia thành nhiều thị trường riêng: các nhà sản xuất ở mỗi thị trường có thể coi là một ngành sản xuất riêng nếu: bán toàn bộ hoặc phần lớn sản phẩm liên quan ra thị trường đó; và nhu cầu của thị trường đó đối với SPTT nhập khẩu từ nước khác là không đáng kể. Nộp đơn yêu cầu tiến hành chống phá giá Việc điều tra nhằm xác định sự tồn tại, mức độ và tác động của một số sản phẩm bị bán phá giá sẽ được tiến hành khi: có đơn bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước đề nghị điều tra phá giá; hoặc không có đơn bằng văn bản của ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước nhưng cơ quan điều tra có đầy đủ bằng chứng về việc bán phá giá, thiệt hại và mối liên hệ giữa hai yếu tố này. Đơn đề nghị điều tra phá giá phải bao gồm những thông tin sau: Tên người nộp đơn, số lượng và giá trị của sản phẩm tương tự do người nộp đơn sản xuất trong nước. Nếu đơn được nộp đại diện cho ngành sản xuất trong nước thì đơn phải nêu danh sách tất cả các nhà sản xuất sản phẩm tương tự trong nước và số lượng, giá trị của các sản phẩm tương tự trong nước và số lượng, giá trị của các sản phẩm tương tự do các nhà sản xuất này sản xuất; Mô tả sản phẩm đang nghi ngờ bị bán phá giá, xuất xứ hàng hoá, tên nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất nước ngoài; Giá sản phẩm liên quan khi tiêu thụ ở thị trường trong nước sản xuất hoặc nước xuất khẩu, hoặc giá mà sản phẩm liên quan được bán cho người mua độc lập đầu tiên ở nước nhập khẩu; Số lượng nhập khẩu của sản phẩm đang bị nghi ngờ phá giá, ảnh hưởng của việc nhập khẩu này lên giá sản phẩm tương tự ở thị trường nước nhập khẩu và ảnh hưởng đối với ngành sản xuất trong nước. Cơ quan điều tra sẽ xác minh tính chính xác và đầy đủ của các bằng chứng nêu trong đơn để xác định xem đã có đủ lý do hợp lệ để tiến hành điều tra chưa. Cơ quan điều tra sẽ không tiến hành điều tra phá giá trừ khi xác định được rằng đơn xin điều tra được nộp bởi ngành sản xuất trong nước hoặc đại diện cho ngành sản xuất trong nước của sản phẩm tương tự, nghĩa là: sản lượng sản xuất sản phẩm tương tự của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc nộp đơn phải lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất trong nước phản đối đơn; và sản lượng của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ việc nộp đơn phải chiếm ít nhất 25% tổng sản phẩm tương tự của ngành sản xuất trong nước. Cuộc điều tra phá giá sẽ bị chấm dứt ngay lập tức nếu cơ quan điều tra xác định được rằng: biên độ phá giá nhỏ hơn 2% giá xuất khẩu; hoặc số lượng nhập khẩu hàng bị nghi ngờ bán phá giá từ một nước nhỏ hơn 3% tổng nhập khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu, trừ trường hợp từng nước xuất khẩu có lượng hàng nhập khẩu dưới 3%, nhưng lượng hàng nhập khẩu của tất cả các nước xuất khẩu chiếm trên 7% tổng sản phẩm nhập khẩu sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu. Thủ tục hải quan vẫn được tiến hành trong khi điều tra phá giá. Trừ trường hợp đặc biệt, một cuộc điều tra phá giá sẽ được tiến hành trong vòng 1 năm, và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được quá 18 tháng. Thu thập thông tin Cơ quan điều tra sẽ gửi thông báo cho tất cả các bên có quan tâm đến cuộc điều tra phá giá đề nghị cung cấp bằng văn bản mọi bằng chứng liên quan đến cuộc điều tra. Thời hạn trả lời câu hỏi điều tra là 30 ngàyvà có thể được gia hạn thêm 30 ngày hoặc lâu hơn nếu cần thiết. Ngay khi bắt đầu điều tra, cơ quan điều tra sẽ gửi nguyên văn đơn đề nghị điều tra cho các nhà xuất khẩu và cơ quan liên quan ở nước xuất khẩu và các bên quan tâm khi có yêu cầu. Trong suốt quá trình điều tra, cơ quan điều tra sẽ tạo đầy đủ điều kiện cho các bên quan tâm bảo vệ quyền lợi của mình, gặp các bên có quyền lợi đối nghịch để trao đổi quan điểm và đưa ra thoả thuận. Các bên quan tâm có quyền trình bày các thông tin khác bằng miệng, nhưng sẽ chỉ được cơ quan điều tra lưu ý tới khi được soạn lại băng văn bản và gửi cho các bên quan tâm khác. Bất kỳ thông tin nào có tính bí mật (chẳng hạn, bị đối thủ cạnh tranh lợi dụng hoặc gây tác hại cho người cung cấp thông tin) hoặc được các bên cung cấp một cách bí mật sẽ không được tiết lộ nếu không được bên cung cấp cho phép. Cơ quan điều tra có thể tiến hành điều tra ở nước ngoài nếu cần thiết để thẩm định các thông tin cung cấp hoặc để tìm hiểu thêm chi tiết với điều kiện được sự đồng ý của các công ty liên quan và thông báo cho đại diện chính phủ nước này và các nước không phản đối. Cơ quan điều tra sẽ tính biên độ phá giá riêng cho từng nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất sản phẩm đang bị điều tra. Trường hợp không tính được biên độ phá giá riêng do số nhà xuất khẩu, nhà sản xuất, nhà nhập khẩu hoặc loại sản phẩm liên quan quá lớn thì cơ quan điều tra có thể giới hạn diện điều tra tới một số nhà sản xuất, xuất khẩu hay nhập khẩu hoặc giới hạn ở một số loại sản phẩm nhất định bằng cách sử dụng mẫu thống kê, hoặc giới hạn ở tỷ lệ phần trăm lớn nhất của khối lượng hàng xuất khẩu từ nước liên quan. Việc chọn các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu hoặc loại sản phẩm để điều tra giới hạn sẽ được tiến hành trên cơ sở tham khảo ý kiến và có sự đồng ý của các nhà sản xuất, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu có liên quan. Trong trường hợp cơ quan điều tra giới hạn diện điều tra như nêu trên, họ vấn có thể tính biên độ phá giá riêng cho các nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất mà ban đầu không được đưa vào diện điều tra nhưng đã cung cấp thông tin đúng thời hạn. Cơ quan điều tra tạo điều kiện cho người tiêu dùng sản phẩm đang điều tra hoặc tổ chức đại diện người tiêu dùng cung cấp thông tin liên quan đến cuộc điều tra nếu sản phẩm được bán lẻ rộng rãi. áp dụng biện pháp tạm thời Biện pháp tạm thời có thể được áp dụng dưới các hình thức: Thuế; hoặc Đặt cọc khoản tiền tương đương với khoản thuế chống bán phá giá dự kiến; hoặc Cho thông qua nhưng bảo lưu quyền đánh thuế và nêu rõ mức thuế nhập khẩu thông thường và mức thuế chống bán phá giá dự kiến sẽ áp dụng. Trên thực tế, biện pháp tạm thời hay được áp dụng nhất là đặt cọc. Điều kiện áp dụng biện pháp tạm thời: cơ quan điều tra tiến hành điều tra theo đúng thủ tục, gửi thông báo và tạo điều kiện cho các bên quan tâm cung cấp thông tin và trình bày ý kiến; có kết luận sơ bộ về việc xảy ra bán phá giá và dẫn đến thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước; và cơ quan điều tra kết luận rằng biện pháp tạm thời là cần thiết để ngăn chặn thiệt hại trong quá trình điều tra. Biện pháp tạm thời chỉ được áp dụng sớm nhất là 60 ngày sau khi bắt đầu điều tra và sẽ duy trì càng ngắn càng tốt, không được quá 4 tháng hoặc trong trường hợp cần thiết thì cũng không được quá 6 tháng. Trường hợp cơ quan điều tra xác định được điều khoản thuế thấp hơn biên độ phá giá đã đủ để khắc phục thiệt hại thì thời hạn áp dụng biện pháp tạm thời có thể là 6 tháng hoặc 9 tháng. Cam kết giá Việc điều tra có thể ngừng hoặc kết thúc mà không cần áp dụng biện pháp tạm thời hoặc thuế chống bán phá giá nếu một nhà xuất khẩu tự nguyện cam kết tăng giá lên hoặc ngừng xuất khẩu phá giá vào khu vực thị trường đang điều tra và được cơ quan điều tra nhất trí rằng biện pháp này sẽ khắc phục được thiệt hại. Mức giá tăng không nhất thiết phải lớn hơn mà thường là nhỏ hơn biên độ phá giá nếu như đã đủ để khắc phục thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Cơ quan điều tra sẽ không chấp nhận cho các nhà xuất khẩu cam kết giá nếu thấy việc cam kết không khả thi, chẳng hạn như khi số lượng nhà xuất khẩu thực tế quá lớn. Trong trường hợp này, cơ quan điều tra sẽ giải thích rõ lý do không chấp nhận cam kết giá với các nhà xuất khẩu. Nếu cơ quan điều tra chấp nhận việc cam kết giá thì cuộc điều tra phá gá và thiệt hại vẫn có thể được hoàn tất nếu nhà xuất khẩu muốn như vậy và cơ quan điều tra đồng ý. Trong trường hợp này, nếu điều tra đi đến kết luận là không có phá giá hoặc không gây thiệt hại thì việc cam kết giá sẽ đương nhiên chấm dứt, trừ khi kết luận trên được rút ra trong bối cảnh đã cam kết giá rồi. Trường hợp này cam kết giá sẽ duy trì trong thời hạn hợp lý. Cơ quan điều tra có thể đề nghị nhà xuất khẩu cam kết giá nhưng nhà xuất khẩu không bắt buộc phải cam kết. Các cơ quan hữu quan của nước nhập khẩu có thể yêu cầu bất kỳ nhà xuất khảu nào đã chấp nhận cam kết giá cung cấp thông tin định kỳ về thực hiện cam kết giá. Trường hợp nhà xuất khẩu vi phạm cam kết giá, cơ quan điều tra có thể lập tức áp dụng biện pháp tạm thời trên cơ sở các thông tin mà họ có (best information). áp dụng thuế và thu thuế chống bán phá giá Việc quyết định có đánh thuế chống bán phá giá hay không và đánh thuế tương đương hay nhỏ hơn biên độ phá giá sẽ do cơ quan điều tra của nước nhập khẩu quyết định. Đối với một sản phẩm bị bán phá giá, cơ quan chức năng sẽ xác định biên độ phá giá riêng cho từng nhà xuất khẩu/sản xuất. Thuế chống bán phá giá sẽ được áp dụng cho từng trường hợp, trên cơ sở không phân biệt đối xử giữa hàng nhập khẩu từ tất cả các nguồn được coi là gây thiệt hại, trừ trường hợp đã cam kết giá. Trị giá thuế chống bán phá giá áp dụng sẽ không được vượt quá biên độ phá giá. Có hai hình thức thu thuế chống bán phá giá: Kiểu tính thuế hồi tố (kiểu của Mỹ): việc tính mức thuế được căn cứ vào số liệu của thời điểm trước khi điều tra (6 tháng - 1 năm). Sau khi điều tra, cơ quan chức năng bắt đầu áp dụng một mức thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng được một thời gian, nếu nhà nhập khẩu yêu cầu đánh giá lại mức thuế (do giá xuất khẩu tăng lên) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xác định lại số tiền thuế phải nộp trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được yêu cầu. Sau đó mức thuế mới sẽ được áp dụng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90 ngày sau khi xác định lại mức thuế cuối cùng phải nộp. Kiểu tính thuế ấn định (kiểu của EU): cơ quan điều tra lấy số liệu của thời điểm trước khi điều tra để tính biên độ phá giá và ấn định biên độ này cho cả quá trình áp dụng thuế chống bán phá giá. Sau khi áp dụng được một thời gian, nếu nhà nhập khẩu đề nghị hoàn thuế với phần giá trị cao hơn biên độ phá giá (do giá xuất khẩu tăng) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xem xét việc hoàn thuế trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được đề nghị hoàn thuế phần giá trị cao hơn biên độ phá giá (do giá xuất khẩu tăng) thì cơ quan chức năng sẽ tiến hành xem xét việc hoàn thuế trong vòng 12 tháng, chậm nhất là 18 tháng ngay sau khi nhận được đề nghị hoàn thuế kèm theo đầy đủ bằng chứng. Việc hoàn thuế sẽ được thực hiện trong vòng 90 ngày kể từ khi ra quyết định hoàn thuế. Thu thuế với hàng nhập khẩu từ các nhà xuất khẩu không điều tra: Trường hợp số nhà xuất khẩu/sản xuất sản phẩm bán phá giá quá lớn, không tính riêng biên độ phá giá thì được cơ quan chức năng sẽ giới hạn việc điều tra ở một số nhà xuất khẩu/sản xuất nhất định trên cơ sở trao đổi với các nhà xuất khẩu/sản xuất liên quan. Mức thuế đối với hàng nhập khẩu từ các nhà xuất khẩu không điều tra không được vượt quá bình quân gia quyền BĐPĐ của các nhà xuất khẩu có điều tra. Sau mỗi đợt rà soát, hàng nhập khẩu thuộc diện không điều tra sẽ được hoàn lại khoản thuế bằng: Bình quân gia quyền BĐPG (cũ) - bình quân gia quyền BĐPG (mới) Khi có yêu cầu từ các nhà xuất khẩu không điều tra, cơ quan chức năng sẽ tính lại mức thuế bằng: Bình quân gia quyền GTTT (nhà XK có điều tra) - giá xuất khẩu (nhà XK không điều tra) Phải loại trừ các biên độ bằng không và biên độ tối thiểu (2%) khi tính bình quân gia quyền BĐPG. Hàng nhập khẩu mới, nghĩa là: chưa được xuất khẩu sang nước nhập khẩu trong giai đoạn điều tra nhập khẩu từ nguồn không liên quan đến các nhà xuất khẩu đang bị đánh thuế chống bán phá giá trong thời gian tiến hành rà soát. Tuy nhiên, hàng nhập khẩu này có thể bị truy thu thuế kể từ ngày bắt đầu rà soát nếu có quan chức năng xác định được là có bán phá giá. Truy thu thuế Các biện pháp tạm thời và thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng với sản phẩm được đưa ra bán sau thời điểm quyết định áp dụng biện pháp tạm thời (60 ngày sau khi điều tra) hoặc quyết định đánh thuế chống bán phá giá (1 năm - 18 tháng sau khi điều tra) có hiệu lực. Có thể truy thu thuế trong các trường hợp sau: quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào thiệt hại vật chất; hoặc quyết định đánh thuế chống bán phá giá được căn cứ vào nguy cơ gây thiệt hại và thiệt hại thực tế đã có thể xảy ra nếu không áp dụng biện pháp tạm thời. Có thể truy thu thuế đến tận 90 ngày trước khi áp dụng biện pháp tạm thời nếu cơ quan chức năng xác định được: có cả một quá trình bán phá giá gây ra thiệt hại hoặc nhà nhập khẩu đã hoặc lẽ ra phải nhận thức được rằng nhà xuất khẩu đang bán phá giá và việc bán phá giá đó có thể gây thiệt hại; và thiệt hại bị gây ra bởi khối lượng rất lớn hàng nhập khẩu trong thời gian ngắn trước khi áp dụng biện pháp tạm thời (trường hợp này nhà nhập khẩu được phép trình bày ý kiến). Tuy nhiên không được truy thu thuế với sản phẩm được nhập khẩu trước ngày bắt đầu điều tra. Phải hoàn thuế trong những trường hợp sau: nếu mức thuế cuối cùng xác định được thấp hơn mức thuế tạm thời đã thu thì phải hoàn lại khoản chênh lệch cho nhà nhập khẩu, nếu cao hơn thì không được thu thêm. Nếu kết luận điều tra cuối cùng khẳng định việc bán phá giá sẽ có thể dẫn đến thiệt hại hoặc làm chậm sự phát triển của ngành sản xuất trong nước thì thuế chống bán phá giá chỉ được đánh từ ngày ra kết luận điều tra cuối cùng và phải hoàn lại số tiền đặt cọc đã thu khi áp dụng biện pháp tạm thời. Nếu kết luận cuối cùng là không đánh thuế chống phá giá thì khoản tiền đặt cọc khi áp dụng biện pháp tạm thời séc được hoàn trả. Rà soát Sau khi áp dụng thuế chống bán phá giá một thời gian, cơ quan chức năng sẽ tự tiến hành rà soát việc tiếp tục đánh thuế hoặc theo đề nghị của bất kỳ bên liên quan nào về vấn đề: có cần tiếp tục đánh thuế không; hoặc nếu ngừng đánh thuế hoặc thay đổi mức thuế thì có dẫn đến thiệt hại không. Cơ quan chức năng sẽ quyết định ngừng đánh thuế nếu, sau khi rà soát, xác định được rằng không cần tiếp tục đánh thuế nữa. Về nguyên tắc, thuế chống bán phá giá chỉ được áp dụng tối đa trong 5 năm. Trước khi hết thời hạn trên, cơ quan chức năng sẽ tiến hành tự rà soát hoặc theo đề nghị của đại diện ngành sản xuất trong nước. Nếu như sau khi rà soát (thường trong vòng 12 tháng), cơ quan chức năng xác định được là việc ngừng đánh thuế có thể dẫn đến thiệt hại thì có thể tiếp tục đánh thuế. Thông báo công khai và giải thích các kết luận Khi cơ quan điều tra thấy rằng sẽ có đầy đủ bằng chứng để tiến hành điều tra phá giá thì họ sẽ gửi thông báo cho nước hoặc nước có sản phẩm bị điều tra và các bên có quan tâm khác. Thông báo này gồm những thông tin sau: tên (các) nước xuất khẩu sản phẩm có liên quan; ngày bắt đầu điều tra; căn cứ về hành vi phá giá ở trong đơn xin điều tra; tóm tắt các yếu tố được coi là cơ sở xác định thiệt hại; địa chỉ liên hệ để liên lạc với đại diện của các bên; thời hạn đưa ra quan điểm cho các bên Cơ quan điều tra phải gửi thông báo trong các trường hợp sau: kết luận sơ bộ hay kết luận cuối cùng về việc có xảy ra phá giá hay không; nhà xuất khẩu chấp nhận cam kết giá và khi chấm dứt cam kết giá; áp dụng biện pháp tạm thời; kết luận về cuộc điều tra và áp dụng, chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá Mỗi một thông báo như nêu trên phải được soạn dưới dạng một báo cáo riêng, trong đó nêu đầy đủ thông tin và kết luận sơ bộ hay kết luận cuối cùng về phá giá và thiệt hại và phải bao gồm những thông tin như sau: tên (các) nhà cung cấp sản phẩm hoặc trường hợp không có thông tin thì phải nêu tên nước cung cấp sản phẩm đó; mô tả sản phẩm; biên độ phá giá, giải thích phương pháp so sánh giá xuất khẩu với giá trị thông thường; chứng minh thiệt hại; lý do chính dẫn đến kết luận sơ bộ, lý do chấp nhận hoặc phản đối các kiến nghị của nhà xuất khẩu và nhập khẩu. Cơ chế khiếu kiện độc lập Tất cả những thành viên WTO mà luật pháp quốc gia có quy định về biện pháp chống bán phá giá phải đảm bảo một cơ chế hành chính, trọng tài hoặc toà án độc lập với cơ quan điều tra nhằm rà soát lại các quyết định hành chính liên quan đến việc ra kết luận cuối cùng về việc có áp dụng chống bán phá giá hay không và việc điều chỉnh thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá. Chống bán phá giá thay mặt nước thứ ba Một nước thứ ba có thể nộp đơn đề nghị điều tra chống bán phá giá ở nước khác. Đơn này phải nêu các thông tin về giá để chứng minh rằng hàng nhập khẩu bị bán phá giá và gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước liên quan ở nước thứ ba. Chính phủ ở nước thứ ba phải tạo mọi điều kiện cho cơ quan điều tra của nước nhập khẩu điều tra các thông tin cần thiết. Khi xử lý đơn của nước thứ ba, cơ quan điều tra của nước nhập khẩu sẽ xem xét tác động của việc bán phá giá nêu trong đơn tới toàn bộ ngành sản xuất liên quan của nước thứ ba, nghĩa là không chỉ đánh giá thiệt hại do tác động của việc bán phá giá đối với xuất khẩu của ngành đó sang nước nhập khẩu hay thậm chí đối với toàn bộ xuất khẩu của ngành đó. Việc quyết định có tiến hành điều tra hay không sẽ do nước nhập khẩu quyết định. Thành viên đang phát triển Các thành viên phát triển của WTO sẽ lưu ý đến tình hình riêng của thành viên đang phát triển khi xem xét áp dụng thuế chống bán phá giá. Uỷ ban chống bán phá giá Uỷ ban chống bán phá giá bao gồm đại diện thành viên WTO được thành lập nhằm thực hiện các nghĩa vụ quy định trong Hiệp định này và tạo điều kiện cho các thành viên trao đổi với nhau vèe các vấn đề liên quan đến việc thực hiện Hiệp định Chống bán phá giá. Uỷ ban này họp ít nhất 2 lần mỗi năm, Ban Thư ký WTO sẽ thực hiện chức năng thư ký cho Uỷ ban này. Các thành viên WTO phải thông báo cho Uỷ ban chống bán phá giá: ngay lập tức khi họ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời hay lâu dài; nửa năm một lần (theo mẫu quy định) về các biện pháp chống bán phá giá mà họ áp dụng trong vòng 6 tháng trước đấy. Các thành viên có thể tham khảo thông báo này tại Ban thư ký WTO; cơ quan nào ở nước mình có thẩm quyền điều tra phá giá, luật quy định thủ tục điều tra phá giá ở nước mình. Trao đổi và giải quyết tranh chấp Các quy định trong biên bản về Giải quyết tranh chấp (DSU) của WTO sẽ được áp dụng cho việc trao đổi và giải quyết tranh chấp liên quan đến Hiệp định chống bán phá giá của WTO, trừ khi có quy định khác đi. Điều khoản cuối cùng Các thành viên WTO chỉ được áp dụng biện pháp đối phó với hàng xuất khẩu bị bán phá giá từ các nước thành viên khác theo quy định của GATT 1994 và được diễn giải bởi Hiệp định này. Các thành viên cũng phải đảm bảo luật, các quy định và các thủ tục hành chính về chống bán phá giá của mình phù hợp với Hiệp định này. Chương II Thực trạng chống bán phá giá trên thế giới và ở Việt nam I. Tổng quan về tình hình áp dụng 1. Tình hình chung Năm 1995, vòng đàm phán Uruguay kết thúc với sự ra đời của WTO và một số các hiệp đinh liên quan đến thương mại quốc tế, trong đó có Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Đây chính là cơ sở pháp luật quốc tế mà các nước thành viên WTO phải tuân theo khi thực thi và áp dụng các biện pháp chống bán phá giá. WTO đã thành lập một Uỷ ban về chống bán phá giá (Anti-dumping Committee) để kiểm soát việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phs giá của các nước thành viên, kịp thời cung cấp những thông tin cần thiết cho các nước thành viên. Các nước chưa là thành viên WTO cũng được khuyến nghị nên thực hiện theo quy định của WTO, trong đó có quy định liên quan đến chống bán phá giá. Kể từ khi WTO ra đời, tính đến thời điểm cuối năm 2001, trên thế giới đã có tất cả 2132 cuộc điều tra về chống bán phá giá và có tất cả là 1066 lần áp dụng thuế chống bán phá giá (chiếm 50% tổng số cuộc điều tra). Điều này thể hiện, không phải tất cả các cuộc điều tra về chống bán phá giá đều có kết luận dẫn đến việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Các loại mặt hàng chịu thuế chống bán phá giá thường là các sản phẩm dệt may, giầy dép, sắt thép, kim loại và một số sản phẩm công cơ khí, v.v... Trên thực tế, các nước áp dụng thuế chống bán phá giá thường bị nước xuất khẩu hàng hoá là đối tượng chịu thuế chống bán phá giá khởi kiện đến WTO, cụ thể là Cơ quan Giải quyết tranh chấp. Các vụ việc giải quyết tranh chấp về việc chống bán phá giá luôn là vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cãi. Đôi khi, kết quả thường dẫn đến các hành vi trả đũa trong thương mại, gây nhiều tranh cãi. Đôi khi, kết quả thường dẫn đến các hành vi trả đũa trong thương mại, gây ra nhiều mâu thuẫn, ảnh hưởng xấu đến tình hình thương mại chung trên thế giới. Vì vậy, các quốc gia thường rất thận trọng khi quyết định việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá vào nước mình. Trong thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá trên thế giới, đã có nhiều nước áp dụng biện pháp này trước khi WTO ra đời. Căn cứ thống kê từ năm 1990, việc áp dụng thuế chống bán phá giá hiện nay luôn thể hiện sự tiến bộ và xu hướng phát triển của các nước đang phát triển so với các nước phát triển. Điều này được thể hiện bằng biểu đồ dưới đây: Xu hướng điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá 350 300 250 200 150 100 50 0 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 145 180 256 162 137 48 20 70 114 83 73 73 115 122 171 185 128 148 192 163 241 320 118 ĐPT PT Nguồn: Báo cáo của Ban Thư ký WTO và Uỷ ban Chống bán phá giá WTO Một điểm cần quan tâm là không chỉ có các nước phát triển áp dụng thuế chống bán phát giá đối với các nước đang phát triển và ngược lại. Các nước phát triển còn áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các nước phát triển khác và điều này cũng xảy ra tương tự đối với các nước đang phát triển. Tình hình áp dụng của các nước phát triển Kể từ năm 1995 cho đến cuối năm 2001, có 12 nước phát triển đã tiến hành 899 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 502 lần áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu bị bán phá giá. Cũng trong thời gian đó, hàng hoá xuất khẩu của 32 nước phát triển lại là đối tượng của 745 cuộc điều tra chống bán phá gía và chịu 430 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước nhập khẩu. Trong số các nước phát triển, Mỹ và EU luôn là đi đầu trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá, nhưng cũng không tránh khỏi là đối tượng bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước khác. Mỹ đã tiến hành 255 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 169 lần áp dụng thuế chống bán phá giá, tuy nhiên chỉ 57 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. EU cũng gần tương đương Mỹ với 246 cuộc điều tra và có 153 lần áp dụng thuế chống bán phá giá và cũng chỉ 18 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Hàn Quốc cũng 28 lần áp dụng thuế chống bán phá giá và 70 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Nhật bản thì tương đối đặc biệt khi chỉ áp dụng thuế chống bán phá giá có 1 lần nhưng 60 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Tình hình áp dụng tại các nước đang phát triển Trong giai đoạn từ năm 1995 đến cuối năm 2001, có 23 nước đang phát triển đã tiến hành 946 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 564 lần áp dụng thuế chống bán phá giá. Cũng trong thời gian đó, hàng hoá xuất khẩu của 60 nước đang phát triển là đối tượng của 745 cuộc điều tra chống bán phá giá và 430 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá từ các nước nhập khẩu. ấn độ là nước đang phát triển đi đầu trong việc áp dụng thuế chống bán phá giá, đã tiến hành 248 cuộc điều tra chống bán phá giá và có 155 lần áp dụng thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, ấn độ chỉ là đối tượng 37 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Achentina và Braxin cũng nhiều lần áp dụng thuế chống phá giá tương ứng với 97 và 51 lần. Họ cũng là đối tượng tương ứng 7 và 45 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Trung quốc thì tương đối đặc biệt khi chưa áp dụng thuế chống bán phá giá lần nào nhưng bị áp dụng thuế chống bán phá giá tới 178 lần. Đây có thể được coi là quốc gia “đi đầu” trong việc bán phá giá hàng hoá sang các nước khác. Tất nhiên, một lý do quan trọng gây bất lợi cho các nhà xuất khẩu của Trung quốc là nhiều nước phát triển chưa coi nền kinh tế Trung quốc là kinh tế thị trường, do đó dễ dẫn tới kết luận là hàng xuất khẩu bị bán phá giá, mặc dù trên thực tế có thể không phải như vậy. áp dụng thuế chống bán phá giá của Bắc Mỹ Văn bản pháp quy về chống bán phá giá của Mỹ Chính sách chống phá giá của Mỹ được thể hiện thông qua Luật chống bán phá giá năm 1921. Khi bạc Nhà nước Mỹ lúc đó được giao nhiệm vụ điều tra các hành vi bán phá giá và ấn định mức thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, nhiệm vụ này đã được chuyển giao cho Bộ Thương mại Mỹ đảm nhận sau khi Nghị việ Mỹ thông qua một đạo luật mới về thực thi hiệp định thương mại (Trade Agreement Act), trong đó có quy định liên quan đến việc điều tra, áp dụng thuế chống phá giá vào năm 1979. Sau khi WTO ra đời trên cơ sở kết quả đàm phán của vòng Urugoay vào năm 1995, các quy định của Mỹ về chống bán phá giá phải tuân thủ theo Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Trên cơ sở đó, Mỹ đã ban hành Quy định về chống bán phá giá và chống trợ cấp vào năm 1997, trong đó hướng dẫn tiến trình thực hiện về điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá Mỹ quy định việc áp dụng thuế chống bán phá giá phải dựa trên kết quả của quá trình điều tra về việc bán phá giá hàng nhập khẩu vào Mỹ gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước. Không thể tuỳ tiện áp dụng thuế chống bán phá giá khi chưa có điều tra và việc áp dụng thuế chống bán phá giá của Mỹ phải tuân thủ theo quy định của WTO. Cơ sở tiến hành điều tra Việc tiến hành điều tra chống phá giá thường bắt đầu trên cơ sở có tổ chức hoặc cá nhân đại diện cho ngành sản xuất trong nước nộp hồ sơ khiếu nại về việc bán phá giá hàng hoá nhập khẩu gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể đến tình hình sản xuất kinh doanh của ngành sản xuất mà họ đại diện. Các tổ chức hoặc cá nhân nộp hồ sơ yêu cầu phải thoả mãn điều kiện là đại diện cho ít nhất 25% tổng sản lượng của một ngành sản xuất trong nước và phải được hỗ trợ bởi các ngành sản xuất trong nước có sản lượng lớn hơn 50% tổng sản lượng của một bộ phận ngành sản xuất trong nước thể hiện sự ủng hộ hoặc phản đối yêu cầu đó. Hồ sơ khiếu nại sẽ được gửi đồng thời đến hai cơ quan có thẩm quyền tiến hành điều tra chống bán phá giá của Mỹ là Bộ Thương mại (Department of Commerce-DOC) và Hội đồng Thương mại Quốc tế (International Trade Commision - ITC). Trong trường hợp không có hồ sơ khiếu nại của tổ chức hoặc cá nhân trong nước, DOC và ITC vẫn có thể tiến hành điều tra nếu như có bằng chứng rõ ràng chứng minh được hành vi bán phá giá hàng hoá nhập khẩu vào Mỹ gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên, trường hợp này rất hiếm khi xảy ra. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá Sau 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ yêu cầu tiến hành điều tra để áp dụng thuế chống bán phá gía, DOC phải ra quyết định nêu rõ có tiến hành điều tra hay không và lý do cụ thể dẫn tới quyết định này. Trong trường hợp đặc biệt, thời hạn ra quyết định trên có thể là 40 ngày kể từ ngày nhận hồ sơ yêu cầu tiến hành điều tra. Mỹ quy định DOC là cơ quan chịu trách nhiệm tiến hành điều tra về việc bán phá giá. Còn ITC là cơ quan tiến hành điều tra về mức độ thiệt hại xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra đối với ngành sản xuất trong nước và mối quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá voứi thiệt hại xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra. Sau 45 ngày (hoặc trong trường hợp đặc biệt là 65 ngày) kể từ ngày nhận được hồ sơ yêu cầu tiến hành điều tra, ITC phải có đánh giá sơ bộ (preliminary determination) về thiệt hại xảy ra hoặc có nguy cơ xảy ra đối với ngành sản xuất trong nước theo như những thông tin được cung cấp trong hồ sơ yêu cầu điều tra. Nếu đánh giá sơ bộ cho thấy không có thiệt hại hay nguy cơ thiệt hại có thể xảy ra thì ITC sẽ không tiếp tục tiến hành điều tra. Sau 115 ngày kể từ ngày ITC có đánh giá sơ bộ trên, DOC cũng phải có đánh giá sơ bộ về việc có hay không hành vi bán phá giá hàng hoá nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra theo như hồ sơ yêu cầu tiến hành điều tra. Nếu đánh giá sơ bộ cho thấy có hành vi bán phá giá thì DOC có thể áp dụng biện pháp tạm thời đối với hàng hoá thuộc đối tượng điều tra để hạn chế thiệt hại xảy ra cho ngành sản xuất trong nước. Trong trường hợp đánh giá sơ bộ cho thấy không có hành vi bán phá giá thì DOC có thể ra quyết định chấm dứt điều tra. Việc đánh giá sơ bộ của DOC và ITC tiếp tục được làm sáng tỏ thông qua các buổi tham vấn giữa các bên liên quan đến quá trình điều tra do hai cơ quan trên tổ chức. Các buổi tham vấn được tổ chức nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của tất cả các bên tham gia và có liên quan đến quá trình điều tra. Các bên có quyền đưa ra và bảo vệ ý kiến của mình nhằm hạn chế tối thiểu thiệt hại trong nước có thể xảy ra khi có hành vi bán phá giá hay thiệt hại của phía nước ngoài do bị áp dụng thuế chống bán phá giá gây ra. Sau 235 ngày kể từ ngày có hồ sơ yêu cầu tiến hành điều tra, DOC sẽ có đánh giá cuối cùng (final determination) khẳng định việc bán phá giá hàng nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra và chỉ rõ biên độ pháp giá (dumping margin) cùng các số liệu liên quan như giá trị thông thường (GTTT), giá xuất khẩu (GXK)... Sau 280 ngày kể từ ngày nhận đơn yêu cầu tiến hành điều tra, ITC sẽ có đánh giá cuối cùng khẳng định có thiệt hại hay nguy cơ gây ra thiệt hại đối với ngành sản xuất trong nước do bán phá giá hàng nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra gây ra. Kết thúc điều tra Để kết thúc quá trình điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá, sau khi cân nhắc đánh giá cuối cùng của DOC, ITC sẽ ra một trong hai quyết định như sau: áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra với một mức thuế suất cụ thể; hoặc không áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra. Các bản đánh giá cuối cùng của hai cơ quan DOC và ITC và quyết định trên của ITC sẽ được công bố công khai cho tất cả các bên liên quan được biết. Nguyên tắc xác định giá trị thông thường và giá xuất khẩu Trên thực tế, không thể phủ nhận vai trò đề xuất chính của Mỹ trong quá trình đàm phán đa phương xây dựng các quy định về chống bán phá giá, mà cụ thể ở đây là Hiệp định về chống bán phá giá của WTO. Do vậy, việc xác định giá trị thông thường và giá xuất khẩu của Mỹ cũng phù hợp theo quy định của WTO. áp dụng thuế chống bán phá giá Thuế tạm thời Trên cơ sở đánh giá sơ bộ cho thấy có hành vi bán phá giá hàng hoá nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra, DOC sẽ áp dụng biện pháp tạm thời đối với hàng hoá nhập khẩu thuộc đối tượng điều tra như thuế tạm thời hay ký quỹ một khoản tiền nhất định đủ để đảm bảo triệt tiêu việc bán phá giá, đảm bảo tính cạnh tranh lành mạnh với nhà sản xuất trong nước sản xuất hàng hoá tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp. Thời hạn áp dụng các biện pháp tạm thời không được vượt quá 4 tháng. Trong trường hợp đặc biệt, có thể kéo dài thời hạn áp dụng trên nhưng tổng thời gian áp dụng không được vượt quá 6 tháng. Trong trường hợp đã áp dụng mức thuế tạm thời cao hơn so với mức thuế chống bán phá giá được áp dụng sau khi kết thúc điều tra, phần chênh lệch thuế đó sẽ được hoàn tra lại cho nhà nhập khẩu hàng hoá thuộc đối tượng áp dụng thuế chống bán phá giá này. Đôi khi, thuế tạm thời có thể được hoàn trả lại toàn bộ nếu cơ quan điều tra ra kết luật không áp dụng thuế chống bán phá giá. Tuy nhiên, việc truy thu thuế sẽ không được phép nếu mức thuế tạm thời được áp dụng thấp hơn so với mức thuế chống bán phá giá được áp dụng sau khi kết thúc điều tra. Tính thuế và thu thuế chống bán phá giá Quy định của Mỹ về vấn đề này đều tuân thủ theo quy định của WTO. Rà soát việc áp dụng thuế chống bán phá giá Mỹ quy định DOC là cơ quan chịu trách nhiệm tiến hành rà soát việc áp dụng thuế chống bán phá giá sau khi đã áp dụng được 5 năm với trình tự thủ tục được quy định như áp dụng thuế chống bán phá giá ban đầu. Nội dung rà soát việc áp dụng thuế chống bán phá giá là xem xét hiệu quả của việc áp dụng thuế này để có thể đưa ra một trong ba quyết định như sau: Giữ nguyên mức thuế chống bán phá giá đã áp dụng; hoặc Giảm mức thuế chống bán phá giá đã áp dụng; hoặc Bãi bỏ thuế chống bán phá giá đã áp dụng. Trong trường hợp vẫn tiếp tục áp dụng thuế chống bán phá giá, DOC sẽ tiếp tục tiến hành rà soát trong 5 năm tiếp theo. Thực tiễn áp dụng thuế chống bán phá giá của Mỹ Các cuộc điều tra chống bán phá giá hàng năm của Mỹ ngày càng giảm từ khi Hiệp định chống bán phá giá của WTO có hiệu lực vào năm 1995, từ cao nhất là 84 cuộc điều tra trong năm 1992 còn 14 (1995), 21 (1996) và 15 (1997). Theo con số thống kê chính thức từ Bộ Thương mại Mỹ, đã có 72 cuộc điều tra chống phá giá từ 1996 đến 1998. Trong năm 19998, sức ép của ngành công nghiệp trong nước và cạnh tranh nước ngoài, đặc biệt là về sắt theo đã làm một số cuộc điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá tăng lên thành 36 cuộc, gấp đôi so với hai năm trước đó gộp lại. Việc điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá của Mỹ thường tập trung vào mặt hàng chính là sắt thép. Trong số 72 cuộc điều tra chống phá giá từ 1996 đến 1998 có đến 39 cuộc (chiếm 54%) về sản phẩm sắt thép nhưng chỉ chú trọng vào một số mặt hàng sắt thép quan trọng, mang tính chiến lược cao như thép carbon cán nóng và cán mỏng. Từ năm 1999, Mỹ đang áp dụng mức thuế chống bán phá giá khoảng 25% đến 67,5% đối với sản phẩm sắt thép cán nóng nhập khẩu từ Nhật bản, và đối với Brazil là 50,7% đến 71%. Đối với Liên bang Nga, Mỹ thực hiện theo chương trình hành động áp dụng cho ngành sắt thép, thoả thuận theo các yêu cầu liên quan đến nhập khẩu sản phẩm sắt thép và hạn chế chỉ nhập khẩu 16 mặt hàng sắt thép với số lượng nhất định. Tổng kết trong giai đoạn từ năm 1995 đến cuối năm 2001, Mỹ đã tiến hành 255 cuộc điều tra chống bán phá giá và 169 lần áp dụng thuế chống bán phá giá, tuy nhiên chỉ là đối tượng chịu 57 lần bị áp dụng thuế chống bán phá giá. Như vậy, từ năm 1999 cho đến 2001, việc áp dụng thuế chống bán phá giá của Mỹ đã tăng lên khá nhanh. áp dụng thuế chống bán phá giá của liên minh châu Âu (EU) Tình hình áp dụng trong EU Thị trường EU bao gồm thị trường 15 nước thành viên. Từ năm 1996—2000 EU đã tiến hành điều tra phá giá và trợ cấp trong các ngành sản xuất sau: Sản phẩm 1996 1997 1998 1999 2000 Hoá chất 8 28 17 Hàng dệt 10 8 9 11 Gỗ và giấy 7 Điện tử 14 12 2 Cơ khí 1 5 1 Sắt thép 9 4 19 25 7 Kim loại khác 1 1 2 Sản phẩm khác 5 2 1 5 2 Tổng số 25 45 29 86 31 Số vụ điều tra phá giá 24 42 21 66 31 Điều tra trợ cấp 1 3 8 20 0 Điều kiện áp dụng thuế chống bán phá giá ở EU: hàng nhập khẩu bị bán với giá thấp hơn giá trị thông thường (phá giá); ngành sản xuất sản phẩm tương tự của EU bị thiệt hại về vật chất do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra; Việc đánh thuế chống bán phá giá là cần thiết cho lợi ích của EU. Không giống như quy định trong Hiệp định chống bán phá giá của WTO, điều kiện thứ ba tính đén cả lợi ích của người tiêu dùng và của ngành sản xuất sử dụng hàng nhập khẩu làm nguyên liệu đầu vào. Tóm lại, quyết định đánh thuế chống bán phá giá của EU được dựa trên toàn bộ lợi ích của cả cộng đồng. Cơ quan điều tra và thủ tục điều tra Thủ tục điều tra và áp dụng thuế chống bán pá giá của EU được quy định ở Quy chế 384/96 ngày 22/12/1995 của Hội đồng Bộ trưởng EU, sau đây gọi tắt là “Quy chế chống bán phá giá”. Các cơ quan Chức năng Uỷ ban Uỷ ban Châu Âu đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thi hành luật chống bán phá giá của EU, là cơ quan có trách nhiệm nhận đơn đề nghị điều tra phá giá, quyết đinh mở cuộc điều tra, tiến hành điều tra, áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời, quyết định chấp nhận cam kết giá bởi các nhà xuất khẩu nước ngoài và kiến nghị lên Hội đồng Bộ trưởng việc phê chuẩn sửa đổi Quy chế chống bán phá giá và ban hành các luật mới về thương mại. Trong nội bộ Uỷ ban, việc thực thi luật chống bán phá giá được giao cho Tổng vụ Thương mại, bộ phận này gồm khoảng 100 nhân viên chuyên tham gia các vụ điều tra phá giá và các biện pháp đền bù thương mại khác Hội đồng Bộ trưởng Hội đồng Bộ trưởng có thẩm quyền phê chuẩn việc áp dụng thuế chống bán phá giá chính thức khi có kiến nghị từ Uỷ ban. Hội đồng Bộ trưởng có quyền phê chuẩn việc ban hành hay sửa đổi các luật liên quan đến thương mại do Uỷ ban trình lên. Các nước thành viên Các nước thành viên tham giá quá trình thi hành luật chống phá giá thông qua Hội đồng tư vấn (hay còn gọi là “Hội đồng chống bán phá giá”) bao gồm đại diện của từng nước thành viên và do một quan chức của Uỷ ban làm chủ tịch. Uỷ ban tham vấn Hội đồng Tư vấn trong mọi tiến trình thi hành luật. Quyết định của Uỷ ban sẽ không có hiệu lực khi có một nước thành viên phản đối. Các nước thành viên sẽ chịu trách nhiệm thu thuế chống bán phá giá thông qua cơ quan hải quan nước mình. Toà án Toà án có quyền giám định tính hợp pháp của quyết định áp dụng biện pháp chống bán phá giá do Uỷ ban hoặc Hội đồng đưa ra trên phương diện là kiểm tra xem quá trình ra quyết định của các cơ quan chức năng có đúng thủ tục không chứ không kiểm tra tính toán biên độ phá giá. Trên thực tế, Toà án của EU đã xử lý một vụ kiện về chống bán phá giá từ năm1998 nhưng đến nay vẫn chưa có kết quả. Vì vậy có thể thấy khâu giám định của toàn trong cơ chế chống bán phá giá của EU rất hạn chế. Thủ tục điều tra Nộp đơn đề nghị điều tra phá giá Thông thường đơn đề nghị điều tra phá gí được ngành sản xuất của EU nộp cho Uỷ ban, rất ít khi Uỷ ban tự quyết định điều tra phá giá. Ngành sản xuất của EU thường trao đổi không chính thức với nhân viên của Uỷ ban xem có đủ bằng chứng để tiến hành một cuộc điều tra không. Người nộp đơn thường đưa dự thảo đơn cho Uỷ ban trước để tham khảo ý kiến. Ngành sản xuất của EU Trên thực tế, thường là hiệp hội đại diện cho ngành sản xuất của EU nộp đơn xin điều tra. Các công ty cũng có thể nộp đơn riêng nếu họ có sản lượng đủ lớn trong toàn ngành sản xuất của EU. Như quy định trong Hiệp định chống bán phá giá của WTO, EU quy định khái niệm đơn được nộp đại diện cho ngành sản xuất của EU khi sản lượng của các nhà sản xuất ủng hộ đơn lớn hơn sản lượng của các nhà sản xuất phản đối đơn và chiếm không dưới 25% tổng sản lượng của toàn bộ các nhà sản xuất ở EU. Để xác định xem đơn có được coi là đại diện cho ngành sản xuất của EU hay không thì thông thường Uỷ ban gửi bảng câu hỏi cho tất cả các nhà sản xuất để hỏi thông tin về sản lượng và ý kiến của họ về việc đồng ý hay phản đối đơn. Quá trình xét đơn Đơn đề nghị điều tra phá giá phải bao gồm những thông tin sau: Khối lượng và giá trị sản phẩm liên quan được sản xuất trong EU, khi đơn được nộp đại diện cho ngành sản xuất của EU thì đơn phải nêu tên tất cả các nhà sản xuất của EU và giá trị, sản lượng của từng nhà sản xuất; Mô tả sản phẩm đang nghi ngờ bị bán phá giá, tên nước xuất xứ, tên các nhà xuất khẩu ở nước đó và tên các nhà nhập khẩu; Bằng chứng về việc bán phá giá; Thông tin về thiệt hại do hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra cho ngành sản xuất của EU. Sau khi nhận được đơn, Uỷ ban có trách nhiệm kiểm tra có đầy đủ bằng chứng về phá giá và thiệt hại để tiến hành điều tra không nhưng thường là Uỷ ban tiến hành điều tra trước, sau đó nếu thấy không có dấu hiệu phá giá hoặc thiệt hại thì sẽ chấm dứt vụ việc. Trong vòng 45 ngày kể từ khi chính thức nhận đơn, Uỷ ban phải ra quyết định về việc có tiến hành điều tra hay không, đồng thời phải thông báo quyết định điều tra trên Công báo. Nguyên tắc xác định phá giá và thiệt hại Xác định giá trị thông thường Uỷ ban sẽ xác định giá trị thông thường (GTTT) bằng cách tính bình quân gia quyền giá thị trường nội điạ trong suốt thời gian điều tra, thường ít nhất là 6 tháng, tối đa 12 tháng ngay trước khi bắt đầu tiến hành điều tra. Uỷ ban sẽ tính GTTT riêng cho từng nhà xuất khẩu nếu họ có bán hàng ở thị trường trong nước. Nếu nhà xuất khẩu không sản xuất hoặc không bán hàng trong nước thì Uỷ ban sẽ lấy giá trong nước của các nhà xuất khẩu khác. Trường hợp số lượng nhà xuất khẩu quá lớn thì Uỷ ban sẽ thoả thuận với các nhà xuất khẩu để giới hạn chỉ điều tra một nhóm các nhà xuất khẩu. Trường hợp nhà xuất khẩu bán hàng cho công ty liên kết ở thị trường trong nước thì Uỷ ban sẽ tính GTTT trên cơ sở giá mà công ty liên kết bán hàng cho khách hàng trên thị trường nội địa. Xác định giá xuất khẩu EU qui định giá xuất khẩu (GXK) là giá bán thực tế của sản phẩm khi xuất khẩu vào EU. Cơ quan điều tra thường trừ bớt các chi phí để lấy GXK là mức giá xuất xưởng ở nước xuất khẩu. Khi nhà sản xuất xuất khẩu sản phẩm cho một công ty thương mại hoặc công ty môi giới không có mối liên kết với nhau thì GXK sẽ là giá mà công ty thương mại hoặc công ty môi giới trả cho nhà sản xuất. Giống như qui định trong Hiệp định Chống bán phá giá của WTO, quy chế chống bán phá giá của EU qui định rằng GXK có thể tính trên cơ sở giá mà sản phẩm nhập khẩu được bán lại cho người mua độc lập đầu tiên sau khi đã điều chỉnh các chi phí phát sinh từ khâu nhập khẩu đến khâu bán lại trong những trường hợp sau: Không có giá xuất khẩu; hoặc Có một mối liên kết hoặc thoả thuận đền bù giữa nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu hoặc bên thứ ba; hoặc Giá xuất khẩu không đáng tin cậy vì một lý do nào đó. Quy chế chống bán phá giá cũng qui định việc lấy giá xuất khẩu và giá trị thông thường cùng thời điểm để so sánh và cần điều chỉnh ở một mức độ nhất định khi so sánh hai loại giá này để đảm bảo kết quả so sánh phản ánh trung thực biên độ phá giá. Biên độ phá giá Cơ quan điều tra của EU xác định biên độ phá giá (BĐPG) như sau: BĐPG = GTTT (bình quân gia quyền) – GXK (từng giao dịch) Trước đây EU cũng tính bình quân gia quyền GXK để so sánh nhưng đến năm 1987 đã chuyển sang tính GXK của từng giao dịch. Xác định thiệt hại Giống như Hiệp định chống bán phá giá, Quy chế chống bán phá giá của EU qui định 3 yếu tố sau để xác định “thiệt hại về vật chất”: Thiệt hại về vật chất thực tế Nguy cơ gây thiệt hại về vật chất. Gây trì trệ cho sự phát triển một ngành sản xuất của EU. Tuy nhiên Quy chế của EU lại không qui định thế nào là “thiệt hại về vật chất” mà chỉ qui định một số yếu tố cần xem xét, như là khối lượng hàng nhập khẩu, giá và tác động tới ngành sản xuất của EU. Cơ quan điều tra sẽ căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định thiệt hại. EU qui định chỉ được áp dụng thuế chống bán phá giá với một sản phẩm bị bán phá giá khi việc phân phối sản phẩm đó trong EU gây ra thiệt hại về vật chất cho ngành công nghiệp sản xuất sản phẩm tương tự của EU. Khác với Mỹ, việc xác định phá giá và xác định thiệt hại ở EU đều do cùng một cơ quan tiến hành. Cơ chế này có thuận lợi là nếu xác định được một trong hai yếu tố: phá giá hoặc thiệt hại không tồn tại thì cuộc điều tra sẽ được chấm dứt ngay và như thế đỡ lãng phí nguồn lực điều tra một cách không cần thiết. Một điểm đặc trưng của cơ chế đánh thuế chống bán phá giá của EU là nguyên tắc đánh thuế thấp hơn biện độ phá giá, nghĩa là trong mọi trường hợp, thuế chống bán phá giá không được vượt qua biên độ phá giá và thậm chí sẽ đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá nếu như mức thuế đó đã đủ để khắc phục thiệt hại. EU thường áp dụng nguyên tắc này trong những trường hợp biên độ phá giá tính được quá cao trong điều tra phá giá hàng nhập khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị trường. Sản phẩm tương tự Quy chế chống bán phá giá của EU qui định “ sản phẩm tương tự” giống như qui định ở Hiệp định chống bán phá giá. Ngành sản xuất trong nước Theo qui định của EU, ngành sản xuất của EU gồm toàn bộ các nhà sản xuất sản phẩm tương tự hoặc nhóm các nhà sản xuất có sản lượng chiếm đa số tổng sản lượng sản phẩm tương tự trong EU. Trên thực tế EU vẫn coi nhóm các nhà sản xuất có sản lượng dưới 50% tổng sản lượng sản phẩm tương tự là ngành sản xuất của EU. Điều tra phá giá từ các nước có nền kinh tế phi thị trường Khoảng 50% các vụ điều tra phá giá do Uỷ ban tiến hành có liên quan đến các nước có nền kinh tế phi thị trường. Tuy nhiên, EU không có qui định thế nào là nền kinh tế phi thị trường mà chỉ đưa ra một danh sách các nước đực coi là nền kinh tế phi thị trường, bao gồm: Albani, Armenia, Azerbaijan, Belarus, Georgia, Kazakhstan, Bắc Triều Tiên, Kyrgyz, Mondova, Mông Cổ, Tajikistan, Turkamenistan, Ukraina, Uzbekistan, Trung Quốc và Việt nam. Quy chế chống bán phá giá của EU qui định rằng trường hợp hàng hoá được nhập khẩu từ những nước áp dụng chính sách Thương mại độc quyền và giá bán ở thị trường trong nước do nhà nước ấn định thì việc so sánh giá xuất khẩu và giá bán ở thị trường trong nước không phản ánh chân thực biên độ phá giá. Hiện nay Uỷ ban đang đề xuất công nhận tình trạng là nền kinh tế thị trường đối với các doanh nghiệp của Trung Quốc, Kazakhstan, Ukraina và Việt nam trong từng trường hợp cụ thể nếu các doanh nghiệp này chứng minh được hoạt động kinh doanh của họ tuân theo tiêu chí thị trường. Nếu như các nước thành viên EU đều đồng ý thì đề xuất này sẽ được thông qua vào tháng 9 tới. Để xác định giá trị thông thường cho hàng nhập khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị trường, Uỷ ban sẽ chọn một nước đại diện có nền kinh tế thị trường được EU coi là nước có trình độ phát triển tương tự, thường là một nước thứ ba. Việc chọn nước đại diện là yếu tố quan trọng nhất trong việc xác định GTTT của hàng nhập khẩu từ nước có nền kinh tế thị trường. Các nhà xuất khẩu từ các nước có nền kinh tế phi thị trường có thể chứng minh với Uỷ ban rằng họ hoạt động theo tiêu chí của nền kinh tế thị trường và nếu được Uỷ ban chấp nhận thì họ sẽ được đối xử như các nhà xuất khẩu từ các nước có nền kinh tế thị trường. Chẳng hạn, CHLB Nga vừa mới được EU công nhận là nền kinh tế thị trường. EU áp dụng biên độ phá giá trung bình với tất cả các nhà nhập khẩu từ nước có nền kinh tế phi thị trường. Cách tính thuế và truy thu thuế Hình thức đánh thuế Nếu cuộc điều tra dẫn đến kết quả là có phá giá và thiệt hại và nếu xét thấy cần thiết thì EU sẽ áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời như không được áp dụng sớm hơn 60 ngày và quá 9 tháng kể từ ngày bắt đầu điều tra, trường hợp đặc biệt có thể áp dụng trong 9 tháng. EU đánh thuế chống bán phá giá theo 4 hình thức như sau: Thuế phần trăm Thuế thay đổi trên cơ sở giá tối thiểu Kết hợp giữa thuế phần trăm và thuế thay đổi. Thuế tuyệt đối EU quyết định hình thức đánh thuế dựa trên cơ sở tính chất của sản phẩm, thuế thay đổi theo giá tối thiểu thường được áp dụng với hàng tiêu dùng. EU thường đánh thuế chống bán phá giá với mức thuế riêng cho mỗi nhà sản xuất trên xuất khẩu nếu biên độ phá giá khác nhau. * áp dụng thuế chống bán phá giá với cả những sản phẩm được sản xuất hoặc lắp ráp ở EU. Theo quy chế chống bán phá giá sửa đổi năm 1987, EU có thể đánh thuế chống bán phá giá với cả những sản phẩm sản xuất hoặc lắp ráp trong EU với những điều kiện sau: Nhà sản xuất hoặc lắp ráp sản phẩm có mối liên hệ hoặc liên kết với bất kỳ nhà sản xuất nào xuất khẩu sản phẩm tương tự đang bị EU đánh thuế chống bán phá giá. Việc lắp ráp hoặc sản xuất được bắt đầu hoặc tăng trưởng đáng kể sau khi tiến hành điều tra phá giá. Giá trị linh kiện hoặc vật liệu sử dụng trong sản xuất hoặc lắp ráp có xuất xứ từ nước xuất khẩu sản phẩm đang bị đánh thuế chống bán phá giá chiếm ít nhất 60% tổng giá trị linh kiện và vật liệu. Trường hợp này thuế suất áp dụng sẽ bằng thuế suất áp dụng với nhà sản xuất ở nước xuất xứ sản phẩm liên quan, giá tính thuế sẽ là giá CIF của linh kiện và nguyên liệu nhập khẩu. Các nhà sản xuất và lắp ráp sản phẩm trong EU, nếu thấy sản phẩm của mình rơi vào các điều kiện trên thì phải thông báo với cơ quan hải quan nước mình trước khi xuất xưởng để bán trên thị trường EU. Biên độ thiệt hại Cơ chế chống bán phá giá của EU thường hay đề cập đến yếu tố “biên độ thiệt hại”. Theo nguyên tắc đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá thì cơ quan điều tra của EU sẽ đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá nếu như mức thuế đó đã đủ để khắc phục thiệt hại. Vì vậy, cơ quan điều tra thường tính mức độ sụt giá của sản phẩm nội địa tương tự do tác động của hàng nhập khẩu hoặc mức giá nội địa phải tăng lên để đủ thu hồi chi phí cộng với một khoản lợi nhuận nhất định cho nhà sản xuất trong nước. Mức giá đó gọi là “biên độ thiệt hại”, nếu biên độ này nhỏ hơn biên độ phá giá thì EU sẽ đánh thuế chống bán phá giá đúng bằng biên độ thiệt hại. Truy thu thuế Quy chế chống bán phá giá của EU cho phép truy thu thuế chống bán phá giá đối với những mặt hàng nhập khẩu không quá 90 ngày trước khi đánh thuế tạm thời với những điều kiện sau: Có một quá trình bán phá giá gây ra thiệt hại hoặc nhà nhập khẩu đã biết rằng nhà xuất khẩu đang bán phá giá và việc bán phá giá đó có thể gây thiệt hại. Lượng hàng nhập khẩu rất lớn bị bán phá giá trong thời gian ngắn gây thiệt hại đến mức cần phải truy thu thuế chống bán phá giá thì mới ngăn ngừa việc tiếp tục phá giá; hoặc Việc cam kết gia bị vi phạm. Mặc dù trong quá trình điều tra, cơ quan diieù tra của EU đã xem xét đến khả năng truy thu thuế nhưng thực tế cho đến nay EU chưa truy thu thuế lần nào. Thuế chống bán phá giá của EU được ấn định ở một mức thuế nhất định trong suốt thời hạn áp dụng tính theo giá CIF với sản phẩm nhập khẩu từ nước xuất khẩu liên quan bất kể có bị bán phá giá hay không. Vì vậy có thể có mặt hàng sẽ bị đánh thuế vượt quá biên độ phá giá bình quân gia quyền và Qui chế của EU cho phép hoàn thuế trong trường hợp như vậy. Đơn xin hoàn thuế phải được nộp cho cơ quan điều tra của EU thông qua nước thành viên nhập khẩu sản phẩm liên quan trong vòng 3 tháng kể từ ngày nhập khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế xảy ra ít trường hợp hoàn thuế vì thủ tục hoàn thuế tốn rất nhiều thời gian, có thể từ hai đến ba năm. Hơn nữa, thuế chống bán phá giá chỉ được hoàn khi mức thuế vượt quá biên độ phá giá, trong khi phần lớn các trường hợp EU đều đánh thuế thấp hơn biên độ phá giá. Rà soát Rà soát thông thường Các bên liên quan (nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu) có thể đề nghị cơ quan điều tra của EU tiến hành rà soát sớm nhất là 1 năm sau khi kết thúc cuộc điều tra ban đầu. Một nước thành viên EU hoặc cơ quan điều tra của EU cũng cơ thể kiến nghị tiến hành rà soát, nhưng trường hợp này hiếm khi xảy ra. Khi có yêu cầu rà soát, cơ quan điều tra của EU sẽ kiểm tra xem có đủ bằng chứng, bao gồm các yếu tố: việc bán phá giá tăng hay giảm, vi phạm cam kết giá, thiệt hại gia tăng v.v... về việc bối cảnh thay đổi không. Tuỳ thuộc bối cảnh cụ thể của từng trường hợp, việc rà soát có thể dẫn đến một cuộc điều tra mới với quy mô như cuộc điều tra ban đầu. Mặc dù có quy định về việc rà soát, nhưng trên thực tế các nhà xuất khẩu trong cơ chế chống bán phá giá của EU vẫn bị phụ thuộc nhiêù vào kết quả của cuộc điều tra đầu tiên, vì cuộc điều tra này quyết định mức thuế mà các nhà xuất khẩu phải chịu chừng nào biện pháp chống bán phá giá chưa được huỷ bỏ hoặc sửa đổi. Khi biên độ phá giá giảm hoặc triệt tiêu thì họ có thể đề nghị rà soát. Nhưng rà soát có thể tốn nhiều thời gian như cuộc điều tra đầu tiên và sau khi rà soát, nếu biện pháp chống bán phá giá được sửa đổi thì cũng sẽ chỉ áp dụng với hàng nhập khẩu trong tương lai chứ không áp dụng với hàng đã nhập khẩu. Rà soát cuối kỳ Quy chế chống bán phá giá của EU quy định rằng thuế chống bán phá giá và cam kết giá chỉ được áp dụng trong vòng 5 năm kể từ ngày các biện pháp này có hiệu lực hoặc kể từ lần sửa đổi gần nhất. Trong vòng 6 tháng trước khi kết thúc giai đoạn 5 năm, cơ quan điều tra của EU sẽ thông báo cho các nhà sản xuất có liên quan của EU về việc chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá sau khi trao đổi với Uỷ ban chống bán phá giá của WTO. Nếu các bên liên quan kiến nghị rằng việc chấm dứt áp dụng thuế chống bán phá giá có thể lại gây hoặc có nguy cơ gây thiệt hại thì cơ quan điều tra sẽ tiến hành rà soát, nếu không thì việc áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ tự động chấm dứt. Kinh nghiệm chống bán phá giá của Trung quốc Tình hình chung Tình trạng bán phá giá tràn lan các mặt hàng ế thừa của nước ngoài tràn lan tại thị trường Trung quốc làm cho họ bị thua thiệt khoảng 10 tỷ Nhân dân tệ/năm (tương đương 1,2 tỷ USD). Nhiều công ty của Trung quốc không thể cạnh tranh nổi với các hãng nước ngoài làm hàng nghìn người mất việc làm. Căn cứ vào những quy định có liên quan trong “Luật mậu dịch đối ngoại nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa”, Trung quốc ban hành điều lệ chống bán phá giá và chống trợ cấp hàng nhập khẩu từ nước ngoài vào thị trường trong nước. Điều lệ trên nhằm giúp các công ty trong nước bảo vệ vị trí của mình trên thị trường và tạo ra một hành lang pháp lý chống lại sự cạnh tranh bất công từ bên ngoài. Điều lệ ban hành tháng 11.1997 gồm 42 điều nhằm xem xét việc đánh thuế đối với các mặt hàng ế thừa và được hưởng trợ cấp của Chính ohủ nước ngoài nhập khẩu vào bán phá gía ở Trung quốc; hướng dẫn các công ty trong nước cách thức thưa kiện về những vụ tranh chấp; các biện pháp “trả đũa” với những nước áp dụng các mức thuế mang tính kỳ thị áp đặt đối với hàng hoá của Trung quốc. Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá Các cơ quan chức năng Việc điều tra bán phá giá và điều tra thiệt hại ở Trung quốc do Bộ hợp tác kinh tế mậu dịch đối ngoại (gọi tắt là Bộ) và Uỷ ban kinh tế mậu dịch Nhà nước (gọi tắt là Uỷ ban) cùng bàn bạc xem xét. Khi có các quyết định, cơ quan Hải quan chiểu theo thi hành. Thủ tục điều tra Cơ sở tiến hành điều tra Các nhà sản xuất trong nước là người sản xuất toàn bộ sản phẩm giống hoặc tương tự tại nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa, hoặc người sản xuất có tổng sản lượng chiếm phần lớn tổng sản lượng hàng hoá giống hoặc tương tự trong nước. Nhưng nếu người sản xuất trong nước có mối liên quan đến người kinh doanh xuất khẩu hoặc người kinh doanh nhập khẩu, hoặc chính họ là người kinh doanh nhập khẩu sản phẩm bán giá, thì có thể bị loại trừ. Các nhà sản xuất trong nước có thể viết đơn khiếu nại về việc bán phá giá với Bộ hợp tác kinh tế mậu dịch đối ngoại, có kèm theo những chứng cứ cần thiết. Bộ hợp tác kinh tế mậu dịch đối ngoại sau khi xem xét đơn và các chứng cứ kèm theo, và sau khi bàn bạc với Uỷ ban kinh tế mậu dịch Nhà nước, sẽ quyết định có lập hồ sơ điều tra hay không. Trong các trường hợp đặc biệt, Bộ đã có đủ chứng cứ về ban phá giá và sự tổn thương đang tồn tại, cùng với mối quan hệ nhân quả giữa chúng thì Bộ có thể tự tiến hành lập hồ sơ điều tra sau khi đã bàn bạc với Uỷ ban Điều tra để áp dụng thuế chống bán phá giá Thời gian điều tra chống bán phá giá là 12 tháng kể từ ngày thông báo quyết định lập hồ sơ điều tra, có thể kéo dài tới 18 tháng trong trường hợp đặc biệt. Sau khi quyết định lập hồ sơ điều tra, Bộ cùng với Tổng cục Hải quan điều tra việc bán phá giá và mức bán phá giá. Uỷ ban và các ngành hữu quan của Chính phủ điều tra về tổn thương và mức độ tổn thương. Bộ và Uỷ ban lần lượt đưa ra quyết định sơ bộ dựa vào kết quả điều tra. Bộ thông báo kết quả sơ bộ. Nếu quyết định sơ bộ cho rằng có tồn tại bán phá giá và có tổn thương, cần phải điều tra thêm về mức bán phá giá và mức độ tổn thương. Bộ và Uỷ ban lần lượt đưa ra quyết định cuối cùng dựa vào kết quả điều tra. Bộ thông báo kết định chính thức. Kết thúc điều tra Nếu người kinh doanh xuất khẩu hoặc Chính phủ nước xuất khẩu có cam kết sẽ áp dụng các biện pháp hữu hiệu nhằm xoá bỏ những tổn thất do việc bán phá giá gây ra, Bộ có thể quyết định ngừng điều tra việc chống bán phá giá và thông báo quyết định này sau khi đã bàn bạc với Uỷ ban. Nếu việc cam kết không được thực hiện hoặc bị rút lại thì việc điều tra chống bán phá giá được khôi phục lại. Xác định phá giá và thiệt hại Quy định bán phá giá xảy ra khi “giá xuất khẩu” của sản phẩm thấp hơn “giá trị thông thường” của sản phẩm đó khi bán trên thị trường của nước xuất khẩu. Xác định giá xuất khẩu Giá xuất khẩu được xác định bằng các biện pháp sau: Nếu sản phẩm nhập khẩu có giá trị chi trả trong thực tế hoặc phải chi trả, thì lấy giá đó làm giá xuất khẩu. Nếu sản phẩm nhập khẩu không có giá trị chi trả trong thực tế hoặc phải chi trả, hoặc không thể xác định được giá của nó, thì lấy giá nhập khẩu sản phẩm đó khi bán lại lần đầu tiên cho người mua độc lập, hoặc lấy giá cả do Tổng cục hải quan, Bộ hợp tác kinh tế mậu dịch đối ngoại xác định trên cơ sở hợp lý làm giá xuất khẩu. Giá trị thông thường Giá trị thông thường được xác định bằng các biện pháp sau: Nếu sản phẩm giống hoặc tương tự với sản phẩm nhập khẩu có giá cả bất biến trên thị trường nước xuất khẩu, thì lấy giá cả bất biến đó làm giá trị thông thường. Nếu sản phẩm giống hoặc tương tự với sản phẩm nhập khẩu không có giá cả bất biến trên thị trường nước xuất khẩu, thì lấy giá cả bất biến khi xuất khẩu sản phẩm giống hoặc tương tự đó sang nước thứ ba, hoặc lấy giá thành sản xuất của sản phẩm giống hoặc tương tự đó cộng với chi phí, lợi nhuận hợp lý làm giá trị thông thường. Mức bán phá giá Là mức chênh lệch khi giá xuất khẩu của sản phẩm nhập khẩu thấp hơn giá trị thông thường của nó. Xác định thiệt hại Tổn thương do hành động bán phá giá gây ra cho các ngành sản xuất ở trong nước có liên quan bao gồm những tổn thương thực tế hoặc đe dọa gây ra tổn thương thực tế. Cách tính thuế và truy thu thuế Thu thuế: Thuế chống bán phá giá tạm thời Nếu quyết định ban đầu cho thấy có sự bán phá giá và gây thiệt hại cho các ngành sản xuất trong nước, thì có thể áp dụng các biện pháp chống bán phá giá tạm thời: Thu thuế chống bán phá giá tạm thời theo quy định. Yêu cầu nộp tiền ký quỹ bằng tiền mặt hoặc bảo đảm dưới các hình thức khác. Bộ quyết định việc nộp tiền ký quỹ hoặc đảm bảo dưới các hình thức khác. Bộ thông báo quyết định chống bán phá giá tạm thời giao cho Hải quan chiểu theo thi hành. Thời hạn thu thuế chống bán phá giá tạm thời là 4 tháng. Trong tình hình đặc biệt có thể kéo dài đến 9 tháng. Thuế chống bán phá giá chính thức Nếu quyết định cuối cùng là có sự bán phá giá và gây tổn thương cho các ngành sản xuất trong nước, thì sẽ thực hiện việc thu thuế chống bán phá giá chính thức. Bộ ra kiến nghị thu thuế chống bán phá giá chính thức, Uỷ ban quy định thuế và mức thuế. Hải quan chiểu theo thi hành. Mức bán phá giá chính thức không được vượt quá mức bán phá giá mà quyết định cuối cùng đã xác định. Người nộp thuế chống bán phá là người kinh doanh nhập khẩu hàng hoá bán phá giá. Hoàn thuế Nếu thuế chống bán phá giá chính thức được xác định thấp hơn thuế chống bán phá giá tạm thời thì phải thoái trả phần tạm thu vượt quá. Nếu quyết định chính thức là không thu thuế chống bán phá giá thì phải trả lại tiền nộp thuế chống bán phá giá tạm thời, tiền ký quỹ hoặc các đảm bảo dưới các hình thức khác. Truy thu thuế Nếu thuế chống bán phá giá chính thức được xác định cao hơn thuế chống bán phá giá tạm thời thì không thu bổ sung phần thu còn thiếu. Rà soát Thời hạn thu thuế chống bán phá giá là 5 năm. Trong thời hạn này, Bộ có thể xem xét lại quyết định thu thuế chống bán phá giá theo thẩm quyền hoặc theo yêu cầu cuả các bên liên quan sau khi đã bàn bạc thống nhất với Uỷ ban. Trợ cấp và biện pháp chống trợ cấp Trợ cấp là Chính phủ hoặc Cơ quan công cộng nước ngoài trực tiếp hoặc gián tiếp đem lại tài trợ tài chính hoặc ích lợi cho ngành sản xuất, xí nghiệp trong nước xuất khẩu. Mức trợ cấp thuần mà hàng hoá tiếp nhận là kim ngạch trợ cấp. Nếu qua điều tra phát hiện có sự trợ cấp và có tổn thất do trợ cấp gây ra thì áp dụng biện pháp chống trợ cấp thực hiện tương tự như với biện pháp chống bán phá giá. Nếu quốc gia hoặc khu vực nào áp dụng biện pháp chống bán phá giá hoặc chống trợ cấp mang tính chất kỳ thị đối với hàng hoá xuất khẩu của Trung quốc thì Trung quốc sẽ căn cứ vào tình hình thực tế để áp dụng các biện pháp tương tự đối với quốc gia hoặc khu vực đó. Thực tiễn và nguyên nhân Trung Quốc bị áp dụng nhiều nhất biện pháp chống bán phá giá trên thị trường Quốc tế Hiện nay Trung quốc là nước bị áp dụng điều khoản chống bán phá giá nhiều nhất trên thế giới và làm thế nào để đối phó với việc chống bán phá giá đang là vấn đề nổi cộm đối với Trung quốc. Theo số liệu của Trung quốc, từ năm 1979 - 2000, Trung quốc đã bị 408 vụ khiếu kiện bán phá giá, chiếm kỷ lục về số vụ bị khiếu kiện trên thế giới. Các tài liệu của WTO cũng cho biết từ năm 1987 - 1997, Trung quốc là nước bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá nhiều nhất trên thế giới, chiếm 11,25% tổng số vụ bán phá giá trên toàn thế giới.Nếu xét theo số lượng các vụ khiếu kiện về bán phá giá đã đem ra xét xử thì Trung quốc cũng là nước đứng đầu với 15,3% tổng số vụ. Tính đến năm 2000, đã có 228 nước và khu vực trên thế giới thi hành biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá của Trung quốc (EU được tính là một khu vực). Trong thập kỷ 70, chỉ có 70 chỉ có EU thi hành biện pháp này đối với Trung quốc. Trong thập kỷ 80, có thêm 6 nước áp dụng trong đó có Mỹ. Trong thập kỷ 90, có thêm 21 nước áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá của Trung quốc. Từ năm 1979 - 2000, các nước và khu vực khiếu kiện bán phá giá nhiều nhất với Trung quốc là: EU: 90 vụ Mỹ: 77 vụ ấn độ: 37 vụ Australia: 32 vụ Achentina: 27 vụ Nam phi: 26 vụ Mehico: 20 vụ Braxin: 15 vụ Canada: 15 vụ Hàn quốc: 14 vụ Trong 10 nước nói trên, có những nước là thị trường lớn của Trung quốc như Mỹ (thứ nhất), EU (thứ tư), Hàn quốc (thứ năm), Australia (thứ tám), Canada (thứ chín). Trong các nước khiếu kiện về bán phá giá đối với Trung quốc, ngoài những nước phát triển còn có 18 nước đang phát triển, chủ yếu là trong thập kỷ 90. Các nước này lúc đầu chỉ tiến hành những cuộc điều tra mang tính chất thăm dò nhưng khi có điều kiện liền áp dụng một loạt biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá của Trung quốc. Việc nước ngoài thi hành biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá Trung quốc không những tăng lên về số vụ,số nước thực hiện mà phạm vi sản phẩm bị thực hiện các biện pháp chống bán phá giá ngày càng lớn. Năm 1979 - 1980 mới chỉ có 3 mặt hàng liên quan đến 2 ngành sản xuất đến nay đã tăng đến hàng trăm mặt hàng liên quan đến 10 ngành. Các ngành hàng mà nước ngoài thi hành biện pháp chống bán phá giá đối với Trung quốc chủ yếu là kim loại cơ bản, thiết bị điện máy, hoá chất, hàng dệt may, giầy da chiếm 10% tổng số vụ chống bán phá giá về những ngành hàng đó trên toàn thế giới, thậm chí có ngành hàng chiếm tới 50% tổng số vụ. Biện pháp chống bán phá giá mà nước ngoài áp dụng đối với Trung quốc chủ yếu là đánh thuế chống bán phá giá, yêu cầu cam kết về giá cả, chấm dứt hiệp nghị buôn bán, chủ động phân bổ hạn ngạch. Thời gian thi hành biện pháp chống bán phá giá là 5 năm hoặc lâu hơn. Theo tài liệu thống kê của Trung quốc trong 20 năm qua các biện pháp chống bán phá giá mà các nước áp dụng đối với Trung quốc đã gây thiệt hại trực tiếp cho Trung quốc 10 tỷ USD.Trong đó riêng EU chiếm tới 3 tỷ USD, với 9 vụ trị giá 100 triệu USD/vụ, 32 vụ trị giá 10 triệu USD/vụ. Năm 1999 EU đã tiến hành 13 vụ điều tra về bán phá giá đối với Trung quốc liên quan đến 540 triệu USD hàng xuất khẩu bằng 1,8% kim ngạnh xuất khẩu của Trung quốc đến EU năm đó. Khi một nước thi hành biện pháp chống bán phá giá đối với hàng hoá của Trung quốc thì thị phần của Trung quốc ở đó bị thu hẹp hoặc bị triệt tiêu và khi đó hàng hoá sẽ đổ dồn đến các nước khác. Thế là các nước này cũng thi hành các biện pháp chống bán phá giá. Thí dụ thời kỳ 1990 - 1997 Nam phi, EU, Canada, Mexico, Achentina, Mỹ, Hàn quốc, Ba lan đã tiến hành điều tra việc bán phá giá xe đạp Trung quốc ở các thị trường này. Năm 1991 số lượng xe đạp Trung quốc xuất đến EU là 2 triệu chiếc trị giá 200 triệu USD. Đến năm 1993 Trung quốc bị đánh thuế chống bán phá giá 30,6% do đó năm 1999 chỉ còn xuất khẩu được 239.000 chiếc trị giá % 5,66 triệu USD. Hiện nay mức độ phụ thuộc của một số ngành sản xuất của Trung quốc vào thị trường quốc tế rất cao. Khi xuất khẩu vấp phải biện pháp chống bán phá giá thì quan hệ cung cầu của những sản phẩm đó bị mất cân đối nên nhà máy ở Trung quốc sẽ bị giảm hoặc ngưng sản xuất, công nhân bị mất việc làm. Kim ngạch xuất khẩu của Trung quốc hiện chiếm 3,4% kim ngạch xuất khẩu toàn thế giới là nước đứng thứ 9 về quy mô xuất khẩu và Trung quốc cũng là nước bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá nhiều nhất. Hiệp định thương mại Trung - Mỹ có một điều khoản quy định rằng trong 15 năm sau khi ra nhập WTO điều khoản chống bán phá giá vẫn được áp dụng đối với Trung quốc với biện pháp coi Trung quốc vẫn chưa phải nước thực hiện nền kinh tế thị trường. Sau khi điều khoản này trở thành một điều khoản đa biên bất cứ một nước thành viên nào của WTO đều có thể vận dụng thì số vụ hàng hoá của Trung quốc bị áp dụng biện pháp chống bán phá giá có khả năng tăng thêm. Nguyên nhân của tình hình đó là: Chủ nghĩa bảo hộ đang trỗi dậy trong quan hệ thương mại quốc tế: Song song với quá trình toàn cầu hoá nhanh chóng về kinh tế, cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới đang ngày càng gay gắt, những xung đột tranh chấp trong thương mại quốc tế không ngừng xảy ra. Do đó, chủ nghĩa bảo hộ trong thương mại quốc tế đang trỗi dậy. Do các biện pháp bảo hộ truyền thống như đánh thuế cao đã trở nên khó thực hiện nên một số nước lạm dụng điều khoản chống bán phá giá của WTO. Trong 20 năm qua, một số nước phương Tây đứng đầu là Mỹ và EU đã đặt ra và sửa đổi quy định về việc chống bán phá giá. Chống bán phá giá trở thàn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van.doc
Tài liệu liên quan